Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016<br />
<br />
<br />
PHẪU THUẬT NỘI SOI ĐIỀU TRỊ NANG NGUYÊN PHÁT<br />
Ở TRUNG THẤT: QUAN ĐIỂM MỚI VÀ KINH ĐIỂN<br />
Huỳnh Quang Khánh*, Nguyễn Hoài Nam**<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Đặt vấn đề: Tổn thương dạng nang ở trung thất không thường gặp, chỉ chiếm khoảng 12% đến 18% trong<br />
tất cả các u trung thất nguyên phát. Nang trung thất, phần lớn có nguồn gốc từ phôi thai, đa số là lành tính và<br />
hiếm khi là tổn thương ác tính. Trừ khi các nang có kích thước lớn và gây ra hội chứng chèn ép, các nang trung<br />
thất thường không có triệu chứng và được phát hiện tình cờ qua khám sức khỏe, hay chụp phim định kỳ. Chẩn<br />
đoán chủ yếu dựa trên hình ảnh CT ngực hay đôi khi là hình ảnh cộng hưởng từ. Đôi khi có một số trường hợp<br />
không điển hình khó chẩn đoán như nang lớn ở trung thất. Thông thường, các nang phế quản hay gặp nhất trong<br />
các nang nguyên phát ở trung thất, chiếm khoảng 50-60% các nang trung thất, trong đó chỉ có 30-80% là có triệu<br />
chứng. Các nang ruột xuất phát từ trung mô, hiếm khi có triệu chứng, trừ khi nang rất lớn, đây là nguồn gốc của<br />
các nang màng tim phổi, chiếm khoảng 30% các nang trung thất. Nang tuyến ức chiếm khoảng 15% các trường<br />
hợp, đa số là không có triệu chứng. Nang bạch mạch có nguồn gốc từ bất thường phôi thai và thường gặp ở trẻ em<br />
và có triệu chứng. Thông thường, chỉ định phẫu thuật được chấp nhận rộng rãi bỡi vì tỉ lệ tử vong và tai biến rất<br />
ít đối với phẫu thuật xâm lấn tối thiểu. Tuy nhiên, cho tới nay cũng chưa có sự nhất trí về cách tốt nhất tiếp cận<br />
điều trị nang trung thất là điều trị nội khoa bảo tồn (đặc biệt áp dụng trong nang màng tim, nang phế quản) hay<br />
là điều trị ngoại khoa.<br />
Mục tiêu nghiên cứu: Phân tích những kinh nghiệm của chúng tôi về các nang nguyên phát ở trung thất,<br />
nhấn mạnh về quan điểm điều trị và kết quả phẫu thuật nội soi điều trị.<br />
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả loạt ca, 50 trường hợp nang trung thất được phẫu thuật (34 trường hợp<br />
nội soi điều trị, 16 trường hợp mổ mở) từ tháng 7/2010 đến tháng 7/2013 tại khoa ngoại lồng ngực bệnh viện Chợ<br />
Rẫy. Chúng tôi ghi nhận các đặc điểm của bệnh nhân về tuổi, giới, các triệu chứng lâm sàng, hình ảnh học, vị trí<br />
và kích thước của nang, loại phẫu thuật, thời gian nằm viện, biến chứng sớm và kết quả theo dõi.<br />
Kết quả: Có 50 trường hợp nang trung thất bao gồm 17 trường hợp nang phế quản, 1 trường hợp nang<br />
màng tim, 6 trường hợp nang tuyến ức,15 trường hợp nang thanh dịch, 11 trường hợp nang quái trung thất.<br />
Trong số 50 trường hợp, có 36 trường hợp là không có triệu chứng. Phẫu thuật nội soi hoàn toàn thực hiện được<br />
cho cả 31 trường hợp, VATS 3 trường hợp, mổ mở 16 trường hợp. Kích thước nang trung bình là 8,92 ± 3,89 cm.<br />
Thời gian mổ trung bình là 80,80 ± 46,43 phút. Lượng máu mất trung bình 77,30 ± 95,35 ml. Thời gian hậu<br />
phẫu trung bình 5,88 ± 1,50 ngày. Thời gian lưu ống dẫn lưu màng phổi trung bình là 2,26 ± 0,48 ngày. Thời<br />
gian tiêm thuốc giảm đau trung bình 3,72 ± 1,59 ngày. Điểm đau trung bình là 4,88 ± 1,56 trong thang điểm 10.<br />
Kết quả sau mổ tốt, không có biến chứng. Theo dõi trung bình 39 tháng, không có trường hợp nào tái phát.<br />
Kết luận: Phẫu thuật nội soi điều trị nang trung thất là phẫu thuật an toàn ít biến chứng, ít tái phát. Đây<br />
nên là lựa chọn cho việc chẩn đoán và điều trị các nang trung thất, tránh được các nguy cơ như trong theo dõi<br />
điều trị nội khoa hay phẫu thuật mổ mở kinh điển. Phẫu thuật nội soi là lựa chọn trong điều trị nang nguyên phát<br />
ở trung thất.<br />
Từ khóa: Nang trung thất, nang phế quản, phẫu thuật nội soi hoàn toàn, phẫu thuật nội soi có hỗ trợ.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
* Khoa ngoại lồng ngực bệnh viện Chợ Rẫy ** Bộ môn ngoại lồng ngực Đại Học Y Dược TP. HCM<br />
Tác giả liên lạc: TS. BS Huỳnh Quang Khánh ĐT: 0908115780 Email: huynhquangkhanhbvcr@gmail.com<br />
102 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016 Nghiên cứu Y học<br />
<br />
ABSTRACT<br />
THORACOSOPIC SURGERY TREATMENT PRIMARY MEDIASTINAL CYSTS:<br />
POINT OF VIEW CLASIC AND MODERN<br />
Huynh Quang Khanh, Nguyen Hoai Nam<br />
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Supplement of Vol. 20 - No 5 - 2016: 102 - 109<br />
<br />
Background: Cystic lesions of the mediastinum are uncommon, comprising 12% to 18% of all primary<br />
mediastinal tumors. Mediastinal cysts (MC), mainly from embryonic origin, are benign and rare malformative<br />
lesions, gathering several varieties according to tissue origin. Unless they attain a large size and cause<br />
compressive symptoms, these tumors are generally asymptomatic and are discovered incidentally upon radiologic<br />
investigation of some other condition. Diagnosis is mostly obtained thanks to CT scan performance and sometimes<br />
by magnetic resonance imaging. It may be more difficult in some atypical topography and in case of bulky MC.<br />
The most frequent, springing from division abnormality from embryonic foregut ("foregut cysts" in English<br />
literature), are primarily bronchogenic cysts (50 to 60 % of MC), which are symptomatic in 30 to 80 % of cases.<br />
Coelomic cysts, lined by a mesothelium, result from embryologic abnormality by incomplete fusion of<br />
mesenchymal coelomic lacunae. Rarely symptomatic, excepted in cases of very large cysts, they are mainly<br />
pleuropericardic cysts (PPC) that represent 30 % of MC. Thymic cysts, around 15 % of MC, are most often<br />
asymptomatic. Cystic lymphangiomas (CL) are congenital lymphatic malformations more frequent and<br />
symptomatic in children. In total, surgical indications for MC are large and accepted because of null postoperative<br />
mortality and very low rate of morbidity thanks to mini-invasive surgery. This militates for early surgery,<br />
without waiting for cystic complications leading to preoperative difficulties and increasing risks. However, there is<br />
still no consensus on whether the best approach to treatment for mediastinal cysts is a conservative medical one<br />
(particularly in application to pericardial and bronchogenic cysts) or a surgical approach.<br />
Purpose: Analyze our experience with primary mediastinal cysts, emphasizing the point of view treatment<br />
and results of video thoracoscopic surgery.<br />
Methods: case series, fifty patients with mediastinal cysts underwent surgery (thirty-four: video<br />
thoracoscopic surgery and sixteen: open surgery) from July 2010 through July 2013 at the thoracic surgery<br />
department Cho Ray hospital. The records of these patients were reviewed for age at presentation, sex, signs and<br />
symptoms at presentation, results of the imaging techniques, types of mediastinal cysts, location and size of cysts,<br />
types of surgical procedure, length of hospital stay, early postoperative complications, death, and other follow-up<br />
information.<br />
Results: The 50-mediastinal cysts comprised 17 bronchogenic, 1 pericardial, 6 thymic and 15 hydro-cysts,<br />
together with 11 cystic teratomas. Overall, 36 of the 50 patients with mediastinal cysts were asymptomatic. The<br />
surgical approach was video-thoracoscopic surgery in 31 patients, VATS in 3 patients, and open in 16 patients .<br />
The mean tumor size was 8.92 ± 3.89 cm. The mean operation time was 80.80 ± 46.43 minutes. The mean blood<br />
loss was 77.30 ± 95.35 ml. The mean length of post-operation stay was 5.88 ± 1.50 days. The mean chest tube<br />
duration was 2.26 ± 0.48 days. The mean pain score postoperative was 4.88 ± 1.56. All patients were free from<br />
recurrence during the mean follow-up period of 39 months.<br />
Conclusions: Video thoracoscopic Surgery for mediastinal cysts is associated with low morbidity and<br />
mortality rates and a very low recurrence rate. It offers a definitive diagnosis and cure, avoiding the higher<br />
morbidity and mortality risks associated with conservative observation. Video thoracoscopic Surgery must be a<br />
choice to treat primary mediastinal cyst.<br />
<br />
<br />
<br />
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 103<br />
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016<br />
<br />
Key words: Bronchogenic cyst, mediastinal cyst, Video thoracoscopic surgery- VTS, VATS.<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU<br />
Tổn thương dạng nang ở trung thất không Phương pháp nghiên cứu:<br />
thường gặp, chỉ chiếm khoảng 12% đến 18% Mô tả loạt ca, 50 trường hợp nang trung thất<br />
trong tất cả các u trung thất nguyên phát. Nang được phẫu thuật điều trị từ tháng 7/2010 đến<br />
trung thất, phần lớn có nguồn gốc từ phôi thai, tháng 7/2013 tại khoa ngoại lồng ngực bệnh viện<br />
đa số là lành tính và hiếm khi là tổn thương ác Chợ Rẫy. Chúng tôi ghi nhận các đặc điểm của<br />
tính. Trừ khi các nang có kích thước lớn và gây bệnh nhân về tuổi, giới, các triệu chứng lâm<br />
ra hội chứng chèn ép, các nang trung thất sàng, hình ảnh học, vị trí và kích thước của nang,<br />
thường không có triệu chứng và được phát hiện loại phẫu thuật, thời gian nằm viện, biến chứng<br />
tình cờ qua khám sức khỏe, hay chụp phim định sớm và kết quả theo dõi.<br />
kỳ. Chẩn đoán chủ yếu dựa trên hình ảnh CT<br />
Trong thời gian 3 năm chúng tôi thực hiện<br />
ngực hay đôi khi là hình ảnh cộng hưởng từ. Đôi<br />
phẫu thuật điều trị 209 trường hợp u trung thất,<br />
khi có một số trường hợp không điển hình khó<br />
trong đó có 50 trường hợp nang trung thất<br />
chẩn đoán như nang lớn ở trung thất. Thông<br />
(chiếm 20,9%). Trong số này có 16 trường hợp<br />
thường, các nang phế quản hay gặp nhất trong<br />
mổ mở và 34 trường hợp mổ nội soi. Chúng tôi<br />
các nang nguyên phát ở trung thất, chiếm<br />
chọn 50 trường hợp nang trung thất được mổ<br />
khoảng 50-60% các nang trung thất, trong đó chỉ<br />
vào nghiên cứu này.<br />
có 30-80% là có triệu chứng. Các nang ruột xuất<br />
phát từ trung mô, hiếm khi có triệu chứng, trừ Cách thực hiện<br />
khi nang rất lớn, đây là nguồn gốc của các nang Mổ nội soi<br />
màng tim phổi, chiếm khoảng 30% các nang Nội soi hoàn toàn (VTS)<br />
trung thất. Nang tuyến ức chiếm khoảng 15%<br />
Sử dụng 3 lỗ trocar (2 trocar 10mm, 1 trocar<br />
các trường hợp, đa số là không có triệu chứng.<br />
5mm). Hay nội soi hỗ trợ (VATS): sử dụng 1<br />
Nang bạch mạch có nguồn gốc từ bất thường<br />
trocar 10mm, 1 trocar 5mm, đường mở hỗ trợ 3-<br />
phôi thai và thường gặp ở trẻ em và có triệu<br />
4cm). Khi cần đưa các dụng cụ hỗ trợ như trong<br />
chứng. Thông thường, chỉ định phẫu thuật được<br />
mổ mở vào để thao tác, cầm nắm…<br />
chấp nhận rộng rãi bởi vì tỉ lệ tử vong và tai biến<br />
rất ít đối với phẫu thuật xâm lấn tối thiểu. Tuy Chuyển mổ mở<br />
nhiên, cho tới nay cũng chưa có sự nhất trí về Mở rộng vết mổ ngực. Khi đánh giá mổ nội<br />
cách tốt nhất tiếp cận điều trị nang trung thất là soi không thực hiện được (do u quá lớn không<br />
điều trị nội khoa bảo tồn (đặc biệt áp dụng trong có khoảng trống thao tác, hay có biến chứng<br />
nang màng tim, nang phế quản) hay là điều trị không xử trí được qua nội soi như: tổn thương<br />
ngoại khoa. mạch máu lớn, tổn thương khí phế quản, thực<br />
Mục tiêu nghiên cứu: quản, tim…).<br />
<br />
Phân tích những kinh nghiệm của chúng tôi Mổ mở:<br />
về các nang nguyên phát ở trung thất, nhấn Các trường hợp được chọn mổ mở từ đầu vì<br />
mạnh về các biểu hiện lâm sàng và kết quả phẫu nhiều lý do khách quan khác nhau (Bệnh nhân<br />
thuật nội soi điều trị. không đồng ý mổ nội soi, máy nội soi bị hỏng<br />
trong thời gian nghiên cứu…). Bóc tách u nang<br />
ra khỏi tổ chức xung quanh, cắt cầm máu các<br />
mạch máu bằng dao đốt siêu âm hay clip các<br />
mạch máu lớn. Tránh tổn thương thần kinh<br />
<br />
<br />
104 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016 Nghiên cứu Y học<br />
<br />
hoành, các tổ chức xung quanh như mạch máu gian hậu phẫu, thời gian lưu ống dẫn lưu, đau<br />
lớn, khí phế quản. Nếu có tổn thuơng phổi do u sau mổ.<br />
dính nhiều, sẽ cắt bằng stapler hay khâu phổi. Bảng 2- Kết quả sau mổ nang trung thất<br />
Trường hợp u nang lớn cần dụng cụ mổ mở hỗ Nhiều Trung<br />
Đặc điểm Ít nhất Mổ nội soi<br />
trợ sẽ dùng đường mổ hỗ trợ. Với u nang trung nhất bình<br />
thất lớn có thể chọc hút dịch trong nang rồi bóc Thời gian hậu phẫu<br />
3,00 9,00 5,88 ± 1,50 5,41 ± 1,32<br />
(ngày)<br />
tách lấy trọn nang. Sau khi bóc tách cắt trọn Thời gian dẫn lưu<br />
2,00 4,00 2,26 ± 0,48 2,08 ± 0,28<br />
nang, lấy nang cho vào bao bệnh phẩm hút bớt (ngày)<br />
dịnh trong nang lấy ra qua lỗ trocar 10. Dẫn lưu Thời gian<br />
1,00 7,00 3,72 ± 1,59 2,24 ± 1,25<br />
tiêm giảm đau<br />
màng phổi sau mổ qua lỗ trocar 10. Điểm đau sau mổ 1,00 9,00 4,88 ± 1,56 4,20 ± 1,06<br />
Ghi nhận các yếu tố: thời gian mổ, lượng Số lượng n=50 n=34<br />
máu mất trong mổ, thời gian hậu phẫu, thời gian Bảng 3 - Kết quả phân loại nang trung thất<br />
lưu ống dẫn lưu màng phổi, các biến chứng, PP mổ Nội soi N= Mổ mở Tổng<br />
thang điểm đau sau mổ. Loại nang 34 N=16 N=50<br />
Nang phế quản 11 6 17 (34%)<br />
KẾT QUẢ Nang quái 9 2 11 (22%)<br />
Không có tử vong hay biến chứng lớn trong Nang thanh dịch 7 8 15 (30%)<br />
Nang tuyến ức 6 0 6 (12%)<br />
cả hai nhóm, và không có trường hợp nào<br />
Nang màng tim 1 0 1 (2%)<br />
chuyển từ mổ nội soi sang mổ mở. Có 31 trường<br />
hợp mổ nội soi hoàn toàn, 3 trường hợp mổ nội Nhận xét: Đa số các trường hợp là các nang<br />
soi hỗ trợ, 16 trường hợp mổ mở. phế quản, kế đó là nang quái trung thất và nang<br />
thanh dịch.<br />
Tuổi trung bình 44,84 ± 15,64, nhỏ nhất 18<br />
tuổi, lớn nhất 81 tuổi. Kết quả sau mổ tốt, không có biến chứng.<br />
Theo dõi trung bình 39 tháng, không có trường<br />
Có 24 nam/26 nữ.<br />
hợp nào tái phát.<br />
Kích thước nang trung bình: 8,92 ± 3,89 cm,<br />
nhỏ nhất 4cm, lớn nhất 20 cm.<br />
Nang phế quản<br />
Có 6 trong số 17 bệnh nhân nang phế quản là<br />
Trong đó nhóm mổ nội soi có kích thước<br />
không có triệu chứng. Triệu chứng hay gặp là<br />
nang trung bình là 14,49 ± 2,01 cm.<br />
đau ngực gặp ở 10 bệnh nhân, kế đến là khó thở<br />
Chỉ có 16 trường hợp có triệu chứng lâm<br />
gặp ở 1 bệnh nhân. Hình ảnh X quang ngực cho<br />
sàng (32%), còn 34 trường hợp không có triệu<br />
thấy bóng trung thất rộng ở trung thất trên. CT<br />
chứng, chỉ phát hiện khi khám bệnh tình cờ.<br />
ngực thực hiện trong tất cả các trường hợp, cho<br />
Bảng 1- Kết quả trong mổ nang trung thất thấy hình ảnh tròn, khối hình vòng cung chứa<br />
Đặc điểm Ít nhất Nhiều nhất Trung bình Mổ nội soi đậm độ dịch ở trung thất giữa, cạnh ngã ba khí<br />
Thời gian mổ 80,80 ± 61,47 ±<br />
(phút)<br />
20 240<br />
46,43 28,61<br />
phế quản (15 trường hợp) thành dày, tăng tỉ<br />
77,30 ± 40,73 ± trọng vừa sau khi tiêm thuốc cản quang, có 2<br />
Máu mất (ml) 0,00 300,00<br />
95,35 60,16 trường hợp là hình ảnh nang dịch ở trung thất<br />
Số lượng n=50 n=34 trước trên. Có 11 trường hợp đều được mổ nội<br />
Nhận xét: kết quả mổ nội soi cho các nang soi cắt trọn u, trong đó có 2 trường hợp do u<br />
trung thất đều tốt hơn so với kết quả chung về dính nhiều với ngã ba khí phế quản, cần đường<br />
thời gian mổ, lượng máu mất. mổ nhỏ hỗ trợ bóc tách cắt trọn nang, còn lại 6<br />
Kết quả sau mổ nội soi cho các nang trung trường hợp mổ mở từ đầu.<br />
thất đều tốt hơn so với kết quả chung về thời<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 105<br />
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016<br />
<br />
Nang tuyến ức<br />
Năm trong số 6 bệnh nhân có nang tuyến<br />
ức không có triệu chứng. Hai bệnh nhân có<br />
biểu hiện đau ngực. Các bệnh nhân được chụp<br />
X quang ngực thẳng với hình ảnh bóng trung<br />
thất rộng, trên CT ngực có khối mờ ở trung<br />
thất trước, đậm độ dịch, tăng tỉ trọng trung<br />
bình sau khi tiêm thuốc cản quang, bờ nang<br />
dày, 4 trường hợp có kèm u tuyến ức. Các<br />
trường hợp này đều không có nhược cơ. Cả 6<br />
bệnh nhân đều được mổ nội soi cắt trọn nang<br />
và u tuyến ức kèm theo.<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Hình 1- CT Nang phế quản, trung thất giữa<br />
Nang màng tim<br />
Chỉ có 1 trường hợp là nang màng tim, Hình 3- CT nang tuyến ức<br />
không có triệu chứng, tình cờ khám sức khỏe Nang thanh dịch<br />
phát hiện bóng tim to trên phim chụp X quang<br />
Có 15 trường hợp nang thanh dịch ở trung<br />
ngực. Hình ảnh CT ngực cho thấy khối hình oval<br />
thất nằm rải rác ở trung thất trước 4 trường hợp,<br />
bờ rõ, thành mỏng, chứa đậm độ dịch, không<br />
trung thất giữa 6 trường hợp và trung thất sau 5<br />
tăng tỉ trọng sau tiêm thuốc cản quang, có dấu<br />
trường hợp. Có 3 trường hợp có triệu chứng đau<br />
hiệu đè đẩy vào thành bên phải tim.<br />
tức ngực, không khó thở, còn lại 12 trường hợp<br />
đều không có triệu chứng lâm sàng, bệnh nhân<br />
tình cờ khám sức khỏe chụp phim ngực thẳng<br />
phát hiện được. Trên hình ảnh CT ngực là các<br />
nang có đậm độ dịch, bở rõ, thành mỏng, tăng tỉ<br />
trọng ít sau khi tiêm thuốc cản quang. Có 7<br />
trường hợp được mổ nội soi cắt trọn nang, còn<br />
lại 8 trường hợp là mổ mở.<br />
Nang quái trung thất<br />
Khó thở và ho là triệu chứng gặp ở 2 bệnh<br />
nhân trong số 11 bệnh nhân có nang quái<br />
Hình 2- CT nang màng tim trung thất. Ở 2 bệnh nhân này, một trường<br />
<br />
<br />
<br />
106 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016 Nghiên cứu Y học<br />
<br />
hợp nang ở trung thất trước lớn, một trường một phần (do dính vào khí quản 1 trường hợp<br />
hợp nang ở trung thất giữa lớn, chèn ép nhu (3,6%), do dính vào tĩnh mạch phổi thùy dưới 1<br />
mô phổi gây ra triệu chứng ho và khó thở. trường hợp (3,6%))(2).<br />
Hình ảnh X quang ngực thẳng cho thấy khối Thomas Weber, nghiên cứu mổ nội soi 12<br />
mờ lớn ở một bên phổi. Hình ảnh CT ngực cho trường hợp nang phế quản ở người lớn, có<br />
thấy khối mờ đậm độ hỗn hợp, giới hạn không 11/12 (92%) trường hợp mổ thành công qua<br />
rõ, bờ không đều, tăng tỉ trọng nhiều sau khi nội soi, 1 trường hợp phải chuyển mổ mở do<br />
tiêm thuốc cản quang, khối mờ lớn đè ép nhu dày dính màng phổi nhiều. Theo dõi đến 40,5<br />
mô phổi. Các trường hợp khác không có triệu tháng, không có trường hợp nào biến chứng<br />
chứng chỉ phát hiện tình cờ, các trường hợp hay tái phát(5).<br />
này hình ảnh CT ngực cho thấy nang dịch<br />
Takashi Muramatsu, nghiên cứu mổ nội soi<br />
đậm độ hỗn hợp ở trung thất trước (3 trường<br />
lồng ngực cho 13 bệnh nhân nang phế quản từ<br />
hợp) và trung thất giữa (4 trường hợp), không<br />
1996 đến 2008. Tác giả ghi nhận, mổ nội soi là<br />
có trường hợp nào ở trung thất sau. Có 9<br />
phương pháp tốt để áp dụng điều trị cho nang<br />
trường hợp này được mổ nội soi cắt trọn nang,<br />
phế quản, ít xâm lấn, không có biến chứng nặng.<br />
trong số này có 1 trường hợp nang ở trung<br />
Tác giả Lucil Fievet, nghiên cứu 36 trường hợp<br />
thất giữa lớn, dính vào rốn phổi bên phải cần<br />
nang phế quản từ năm 2000 đến năm 2011, tác<br />
mở ngực nhỏ đưa thêm dụng cụ vào bóc tách<br />
giả ghi nhận nên chỉ định mổ sớm các trường<br />
cắt trọn nang, còn lại 2 trường hợp được mổ<br />
hợp nang phế quản(1).<br />
mở từ đầu.<br />
Karthik Panchnatheeswaran, báo cáo kinh<br />
BÀN LUẬN nghiệm 11 năm mổ nội soi nang phế quản trong<br />
Trong thời gian nghiên cứu 3 năm, có 209 nghiên cứu mổ nội soi 14 trường hợp nang phế<br />
trường hợp u trung thất, trong đó có 50 trường quản trong thời gian từ 2001 đến 2011. Tác giả<br />
hợp nang trung thất (chiếm 20,9%). Trong nhóm ghi nhận, có 7 trường hợp phải chuyển mổ mở vì<br />
mổ nội soi 113 trường hợp chúng tôi có mổ 34 nhiều lý do trong đó do xơ dính màng phổi (5<br />
trường hợp nang trung thất chiếm 30,1%. Trong trường hợp), do chảy máu trong nang (1 trường<br />
đó nang phế quản 17 trường hợp (34%), nang hợp), do nang dính nhiều vào thành sau khí<br />
bọc bì 11 trường hợp (22%), nang thanh dịch quản (1 trường hợp)(4).<br />
trung thất 15 trường hợp (30%), nang tuyến ức 6 Như vậy, đối với nang phế quản mổ nội soi<br />
trường hợp (12%), nang màng tim 1 trường hợp cho kết quả tốt, tuy nhiên vị trí nang, và liên<br />
(2%). Kết quả sau mổ đều tốt, không có trường quan giữa nang với cấu trúc xung quanh là vùng<br />
hợp nào biến chứng, theo dõi không có trường rốn phổi, ngã ba khí phế quản ... là vùng khó tiếp<br />
hợp nào tái phát. cận. Trong trường hợp khó khăn khi bóc tách thì<br />
Trong số 17 trường hợp nang phế quản, việc sử dụng đường mở nhỏ hỗ trợ là cần thiết<br />
chúng tôi có 11 trường hợp mổ nội soi, có tới 2 để giúp cho việc bóc tách cắt trọn nang được<br />
trường hợp phải sử dụng đường mổ nhỏ hỗ trợ thuận lợi hơn.<br />
để cắt trọn nang, bỡi vì nang dính nhiều vào ngã Tác giả Hidir Esme 2010(3) báo cáo 32 trường<br />
ba khí phế quản. hợp nang trung thất trong vòng 4,5 năm được<br />
Tác giả Tiziano De Giacomo, nghiên cứu 28 mổ mở điều trị. Tác giả ghi nhận thời gian nằm<br />
trường hợp cắt nang phế quản qua nội soi ghi viện trung bình là 7,7 ± 2,6 ngày. Tất cả các bệnh<br />
nhận không có biến chứng lớn nào, có 2 trường nhân được theo dõi trung bình 4,4 ± 3,3 không<br />
hợp (7,1%) chuyển mổ mở do dày dính màng ghi nhận trường hợp nào tái phát.<br />
phổi, 2 trường hợp (7,1%) cắt nang có chừa lại<br />
<br />
<br />
<br />
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 107<br />
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016<br />
<br />
Có nên mổ nang trung thất không có triệu Chọc hút bằng kim nhỏ qua da nhằm xác<br />
chứng không? Lựa chọn phương pháp định mô học và điều trị cũng được đề nghị trong<br />
điều trị nào? trường hợp nang tuyến ức. Tuy nhiên một số tác<br />
giả lại cho rằng kỹ thuật này không hữu dụng<br />
Một trong những khía cạnh tranh luận về<br />
trong những trường hợp nang có mô xuanh<br />
điều trị thích hợp cho nang trung thất thay đổi<br />
quanh viêm dày hay vỏ bao dày. Một lựa chọn<br />
từ quan sát theo dõi cho đến phẫu thuật cắt trọn.<br />
khác thay cho trường hợp phải phẫu thuật cắt bỏ<br />
Nhiều tác giả giữ quan điểm rằng phẫu thuật cắt<br />
nang phế quản hay nang tuyến ức là nội soi<br />
trọn nang là lực chọn cho điều trị các nang trung<br />
trung thất chọc hút nang cho những trường hợp<br />
thất ngay cả những trường hợp không có triệu<br />
có triệu chứn đã được báo cáo. Tuy nhiên những<br />
chứng, nhằm tránh các biến chứng và thiết lập<br />
phương pháp này không được chấp nhận rộng<br />
chẩn đoán xác định. Ginsberg đề nghị rằng đối<br />
rãi, và được xem như là phương pháp tạm thời<br />
với các nang phế quản nhỏ không có triệu chứng<br />
được lựa chọn áp dụng chọn lọc cho một số bệnh<br />
thì có thể theo dõi định kỳ trên X quang. Nếu khi<br />
nhân. Đối với những nang quái trung thất thì<br />
nào có sự lớn lên của nang hay có triệu chứng thì<br />
phẫu thuật cắt trọn nang là lựa chọn tiêu chuẩn.<br />
sẽ mổ cắt trọn nang. Tác giả Hidir Esme, 2010(3)<br />
báo cáo 2 trường hợp nang phế quản ở người lớn Có một số tác giả lo ngại về tỉ lệ biến chứng<br />
được theo dõi, đều không có triệu chứng và kích và tỉ lệ tử vong trong mổ nang trung thất. Tuy<br />
thước 2cm. Trong đó 1 trường hợp tăng kích nhiên trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 3/34<br />
thước và được mổ cắt bỏ, 1 trường hợp theo dõi trường hợp (8,8%) là có gặp khó khăn trong mổ<br />
sau 3 năm vẫn không thay đổi kích thước hay cần phải thêm đường mổ hỗ trợ (VATS), không<br />
không có triệu chứng lâm sàng. Tác giả cho rằng có trường hợp nào biến chứng. Theo dõi trung<br />
những trường hợp này nếu trong thời đại hiện bình 39 tháng không ghi nhận trường hợp nào<br />
nay phẫu thuật nội soi phát triển thì nên tiến tái phát. Các trường hợp gặp khó khăn trên gặp<br />
hành phẫu thuật cắt bỏ nang. trong trường hợp nang phế quản (2 trường hợp),<br />
nang quái trung thất (1 trường hợp) đều là nang<br />
Trừ khi có nghiên cứu giá trị về những<br />
trung thất giữa. Tác giả Hidir Esme(3) nghiên cứu<br />
phương pháp chẩn đoán không xâm lấn thì chẩn<br />
mổ mở 32 trường hợp ghi nhận có 2 trường hợp<br />
đoán xác định nang trung thất là dựa trên phẫu<br />
(6%) có biến chứng, không có trường hợp nào tử<br />
thuật cắt bỏ và mô bệnh học. Chọc hút xuyên<br />
vong. Không có trường hợp nào tái phát trong<br />
phế quản hay chọc hút qua da cũng được đề<br />
quá trình theo dõi 4,4 ± 3,3 năm.<br />
nghị thay thế phẫu thuật. Tuy nhiên phương<br />
pháp này không được chấp nhận rộng rãi bỡi vì KẾT LUẬN<br />
có thể tái phát cũng như có một số tỉ lệ tử vong Phẫu thuật điều trị nang trung thất ít biến<br />
nhất định. Nhiều bệnh nhân không được phẫu chứng, ít tái phát. Trong đó phẫu thuật nội soi có<br />
thuật và được chẩn đoán triệu chứng tăng lên nhiều lợi điểm như thời gian mổ ngắn, ít mất<br />
liên quan đến sự lớn lên của nang, điều này làm máu, ít đau sau mổ, thời gian nằm viện ngắn.<br />
tăng tỉ lệ bệnh, nguy cơ tử vong, kết hợp với Phẫu thuật sớm giúp cho việc chẩn đoán xác<br />
nguy cơ ác tính hay biến chứng của nang. Mặc định và điều trị, tránh được nguy cơ bệnh nặng<br />
dù biến chứng liên quan đến nang màng tim là hơn cũng như nguy cơ tử vong liên quan đến<br />
không thường gặp, hậu quả nặng nề của xuất biến chứng. Chúng ta cũng nên xem xét phẫu<br />
huyết trong nang, vỡ nang tự phát, và huyết thuật cho các nang trung thất nhỏ chưa có triệu<br />
động học bao gồm chèn ép tim. Một số vấn đề chứng hay chèn ép các cấu trúc xung quanh<br />
nhẹ hơn liên quan đến nang màng tim là tái phát cũng như các nang trung thất lớn dần, có triệu<br />
sau chọc hút cũng như không xác định được mô chứng không điển hình hay nang nghi ngờ ác<br />
bệnh học.<br />
<br />
<br />
108 Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học<br />
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 20 * Số 5 * 2016 Nghiên cứu Y học<br />
<br />
tính. Phẫu thuật nội soi nên là lựa chọn điều trị bronchogenic cyst". Asian Cardiovasc Thorac Ann, 20, (5), pp. 570<br />
- 574.<br />
cho các nang nguyên phát ở trung thất. 5. Weber T, Roth TC, Beshay M, Herrmann P, Stein R, Schmid RA<br />
(2004), "Video-assisted thoracoscopic surgery of mediastinal<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO bronchogenic cysts in adults: A single-center experience". Ann<br />
1. Fievet L, D'Journo XB, Guys JM, Thomas PA, Lagausie DP Thorac Surg, 78, pp. 987-991.<br />
(2012), "Bronchogenic cyst: best time for surgery?". Ann Thorac<br />
Surg, 94, (5), pp. 1695-1699.<br />
2. Giacomo DT, Diso D, Anile M, Venuta F, Rolla M, Ricella C, Ngày nhận bài báo: 03/08/2016<br />
Coloni GF (2009), "thoracoscopic resection of mediastinal<br />
bronchogenic cysts in adults". European Journal of Cardio-thoracic Ngày phản biện nhận xét bài báo: 31/08/2016<br />
Surgery 36, pp. 357-359. Ngày bài báo được đăng: 05/10/2016<br />
3. Hidir EM, Sevval E, Murat S and Okan S (2011), "Primary<br />
Mediastinal Cysts Clinical Evaluation and Surgical Results of<br />
32 Cases". Tex Heart Inst J. , pp. 38(4): 371–374.<br />
4. Panchanatheeswaran K, Dutta R, Singh KI, Kumar A (2012),<br />
"Eleven-year experience in thoracoscopic excision of<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 109<br />