NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
9



PHƯƠNG THỨC TỰ SỰ CHỦ YÊU CỦA
SỬ THỊ ĐAM SAN
ĐỖ HỒNG KỲ?)
—N thi Đam San là tác phẩm tiêu biểu của kho tàng sư thì Tây Nguyên. Từ khi xuất hiện dưới dạng văn bản đến nay, nó luôn luôn được bạn đọc yêu thích, được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đánh giá rất cao.
Năm 1998”, tại Paris, tác phẩm Đam San được xuất bản. Trong lời giới thiệu, nhà văn Pháp R. Đoócgiơlet viết: bản anh hùng ca xưa của người Radê sẽ không mất đi, câu chuyện đẹp đẽ của Đam San bay đi từ miền núi rừng An Nam sẽ được tận Châu Âu biết đến. G.
Côngđôminas, nhà dân tộc học nổi tiêng
bên
người Pháp thì khẳng định: "người ta không thể nói về văn hoá dân gian Đông Dương nguyên thuy mà không nhớ ngay đến một cái đầu để: Trường ca Đam San. Bài viết tuyệt vời này..., hiện nay hiển
"'? Các nhà
nhiên vẫn là một tuyệt tác nghiên cứu Việt Nam, như Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn, Hoàng Ngọc Hiến, Phan Đăng Nhật, Nguyễn Văn Hoàn... đều rất để cao giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm này.
Về phương diện nội dung, quả là tác phẩm Đam San đã để cập đến những vấn để quan trọng nhất của "thời đại anh hùng": Đó là những biểu hiện của đời

F} TS, Viện Nghiên cứu Văn hoá dân gian.
sông tỉnh thần, các quan hệ gia đình, sự đoàn kết của một cộng đồng trong sản xuất, hòa bình và tranh đấu. Có thể coi đây là thời đại anh hùng đặc thù của Tây Nguyên ?
Về phương diện thể hiện, sử thi Đam San vừa mang đặc điểm loại hình chung của sử thi thế giới, nhất là là sử thi lliat, đồng thời nó cũng mang đặc điểm riêng.
1. Cốt truyện sử thi Đam San
Cốt truyện sử thi Đam San được mở rộng cấu trúc theo chiều hướng gia tăng phẩm chất anh hùng của nhân vật trung tâm. Môi sự kiện quan trọng, mỗi chuỗi hành động được thể hiện khá hoàn chỉnh trong một phần nào đó của cốt truyện. Nhân vật trung tâm được đặt vào những hoàn cảnh, những mâu thuẫn ngày càng cao hơn, theo đó là những hành động tương ứng của nhân vật, khiến các biến cô điền ra và dẫn đến kết thúc cốt truyện.
Sau khi chấp thuận lấy hai chị em Hơ Nhi và Hơ Bhi, Đam San đã liên tục tiến hành những cuộc chính phạt các tù trưởng tham lam, gian hùng để giành lại vợ bị cướp (Hơ Nhi), chàng chặt cây thần và đi chỉnh phục nữ thân Mặt Trời. Các sự kiện sử thi xuất hiện liên tiếp, những hành động kỳ vĩ và mỹ lệ diễn ra sôi nổi, hào hùng, đã lôi cuốn, hấp dẫn người nghe như là cố một ma lực nào đố: những người ngồi nghe Đam San tối ngồi thế nào thì sáng hôm sau cũng ngồi nguyên như thế. Ở đây là do "ma lực" của nghệ thuật sử thi mang lại, chứ không phải một thứ ma thuật nào đó của tôn giáo, tín ngưỡng tác động.
Sử thi Đam San có kết cấu đầu cuối tương ứng, nó mang tính chất một chu kỳ 10
ĐỖ HỒNG KỲ
—_—_———____—— —=—
khép kín. Mỏ đầu tác phẩm là việc hai chị Hơ Nhi và Hơ Bhi đòi đi hỏi Đam San và kết thúc cũng bằng việc gia đình Hơ Nhí đi hỏi Đam San cháu (lính hồn Đam San đầu thai làm con của chị mình). Nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến cho rằng "bố cục này đồng thời khẳng định tính chất vĩnh cửu của tập tục" nối dây". Tuy nhiên đây là sự vĩnh cửu "hạn chế" °”, Nói cho đúng và đầy đủ hơn là kết cấu đầu cuối tương ứng đó chịu sự chi phối của tâm lý tập tục cue nuê (nối dây) và khát vọng muốn có vị tù trưởng tài giỏi để dẫn dắt cộng đồng ngày càng giàu mạnh (Chúng tôi đặc biệt nhấn mạnh ý
thứ hai -ĐHK).
Những người tạo lên cốt chuyện Đam San đã biết chọn lọc những gì là cần thiết, gạt bỏ những gì không cần thiết. Theo lược đồ cốt chuyện có thể chia sử thi Đam San thành 3 phân: 1- Đam San chấp thuận lấy Hơ Nhi và Hơ Bhi trong bối cảnh cả con người và thần linh theo tục nối dây. 9- Đam San mở mang sản xuất, tiến đánh các tù trưởng gian hùng, xác lập, địa vị và danh tiếng tù trưởng giàu mạnh. 3- Đam San chặt cây thần và đi bắt nữ thần Mặt Trời về làm vợ. Một cốt truyện như vậy có thể nói là gọn gàng và sáng sua, nhưng đã bao quát được những vấn để rộng lớn của thời đại.
Những người tạo lên cốt truyện Đam San đã biết chọn những gì là cần thiết, bỏ đi những gì không cân thiết, điều này khiến cho tác phẩm Đam San có cái dáng
dấp của sử thi cổ điển “°,
Cùng tái hiện chiến tranh Tơroa, nhưng "các nhà thơ liên hoàn Hy Lạp đã từng ca hát tất ca những gì liên quan tới cuộc chiến tranh Toroa" °” (họ bắt đầu từ
chuyện quả trứng do nữ thần Lêda sinh ra, quả trứng này đã nở ra nữ thần Hêlen - người gây ra nguyên nhân dẫn đến cuộc Tơroa). Còn Hômerơ thì
không làm như vậy, lliat chỉ thuật lại
chiến tranh
một thời gian ngắn của năm thứ mười, năm cuối cùng của cuộc chiến tranh Toroa. Kết thúc sử thi là việc làm lễ mai táng Hécto. Còn những gì xay ra trước và thời không được Hômerơ để cập.
sau gian nói trên
Các nhân vật chính trong sử thi Ê Đê thường được nhắc tới thời thơ ấu của họ. Còn sử thi Đam San không thấy nói tới thời thơ ấu của nhân vật chính. Thời thơ ấu của Đam San chỉ được nhắc sơ qua qua ký ức của Hở Nhi. Những người sáng tạo sử thi Đam San đã tránh được cách làm "kéo dài ra phía trước và ra phía
sau"®)
một cách tuỳ tiện cua các tác phẩm "nôm na" (chữ dùng của Hê ghen), tức là tác phẩm không phải sử thi chính
thức.
Phần kết thúc của sử thi Đam San, xét theo chỉnh thể cết truyện thì nó đã làm cho cốt truyện bị "loãng ra". Nhưng người kể chuyện cũng đã biết dừng lại ở chỗ cần phải dừng, anh ta không nói tới các sự kiện, hành động và biến cố trong cuộc đời Đam San cháu. Qua cái kết thúc có phần gò ép (xét theo cấu trúc cốt truyện), sử thi Đam San vẫn toát ra một hàm nghĩa rằng Đam San cháu sẽ tiếp tục xứng đáng sự nghiệp của Đam San cậu. Do vậy đây không hắn hoàn toàn là một thiếu sót.
Cốt truyện sử thi Đam San được triển khai theo chiều bình diện: phong tục, sản xuất, chiến tranh, thâm nhập tự nhiên
(chặt cây smuk và chinh phục nữ thần NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
11


Mặt Trời). Một tác phẩm không dài mà
phản ánh được những vấn đề lón của thời .
đại, chứa đựng dung lượng cuộc sống lớn như vậy qua thật là hiếm trong kho tàng sử thi nước ta và thế giới. Nhận xét của M.Bakhtin" một sử thi không thể bao
? như
quát toàn thể quá khứ tuyệt đối" ' là không đúng đổi với trường hợp sử thi Đam San.
Cốt truyện Đam San được triển khai
theo hai kiểu:
- Sự kiện được triên khai thông qua các sự việc, hành động nối tiếp nhau một cách tuần tự cho đến khi sự kiện có kết quả (Đam San dẫn tôi tó vào rừng, chàng chặt cây smuk, blang - cây bản mệnh của Hơ Nhi và Hơ Bhi. Hai nàng chết, nhờ sự mách bảo của ông Trời, Đam San cứu
sông vợ).
- Sự kiện đang được triển khai thông qua sự việc, hành động nào đó, thì người kể chuyện chuyển sang kể các sự việc, hành động khác, để rồi tất cả đều góp phần dẫn đến biến cố trong cuộc đời nhân vật (người kể chuyện đang kể những gì điển ra ở nhà Đam San chung quanh việc hỏi Đam San cho Hơ Nhi, Hơ Bhi, người kế chuyện nói đến việc Hơ Nhí, Hơ Bhi đến nhà Đam San, và Đam San bỏ đến nhà Hbia Ihuich, rồi chàng lại trở về
nhà và đồng ý lấy chị em Hơ Nhì).
2. Cách biểu hiện không gian và thời gian ở sử thi Đam San
Sự kiện, hành động, biến cố trong sử thi Đam San bị những lời trần thuật của người kế chuyện làm cho diễn biến của truyện kể bị chậm lại. Người kể chuyện dường như quan tâm tới tất ca những gì tồn tại trong môi trường nhân vật chính
hoạt động. Cũng cần nói cho rõ là không
phải môi trường nào nhân vật chính hoạt động cũng đều được người kể chuyện chú ý mưu tả tỉ mi, chỉ tiết, cụ thể, mà chỉ có những môi trưởng quan trọng thường là mang tính đối lập với nhân vật chính thì người kể truyện mới trần thuật tường tận. Ồ đây người kế chuyện đã biết hướng sự chú ý của mình vào đôi tượng chính, vào những điểm mấu chốt của các hành động sử thi. Thật vật, khi Đam San đang chơi quay thì Mtao Grù (đại bàng) đến nhà chàng lừa bắt Hơ Nhi. Việc chơi quay của Đam San chỉ được nhắc tới như một thông báo. Còn sự kiện cướp vợ cua tù trưởng nọ diễn biến về kết quả ra sao mới được người kế chuyện trần thuật một cách chi tiết, tỉ mỉ và cụ thể. Các trường hợp khác tình hình cũng đều là như vậy.
Không gian được mô ta trong sử thì Đam San đi từ viến cảnh đến cận cảnh. Tất nhiên đó không phải là quy luật xa gần, mà chỉ đơn giản là tính "điểm nhìn" của người kể chuyện. Ngôi nhà đất buôn làng được mô tả từ xa đến gần "nơi dựng làng như cái mai rùa... đấu chân ngựa chân rét... nhà dài cả một hơi chiêng, sàn
#om . 1 " & z (j1 hiên rộng ca một hơn chìm bay..." ””.
hông gian trong sử thi Đam San được mở rộng vô tận và nằm ngoài giới hạn có thực (đôi với chúng ta, nhưng lại có thực đối với người Ê Đê). Cái không gian hư hư thực thực, cái không gian có "đòng nước đục chảy cho đến nơi đất giáp trời" trải rộng ra trước mắt người thưởng thức, tạo nên niềm hứng khở bất tận !
Trong sử thi Đam San chỉ có không gian trong thời điểm nhân vật hoạt động là tổn tại. Hết thời điểm nhân vật hoạt động tại một địa điểm nào đó, không gian khác lại được mở ra Đam San đang chỉ huy dân làng bắt cá dưới suối, người kế 12
ĐỒ HỒNG KỲ
=————ễễ >> ———
chuyện chuyển sang sự kiện Mtao Mxây cướp vợ chàng. "Không gian hòa bình" được chuyển sang "không gian chiến tranh".
Sử thi Đam San, cũng như các sư thi khác không thể đồng thời có hai địa bàn hoạt động của nhân vật ở hai địa điểm khác nhau. Đó chính là "luật không tương dung về thời gian", đã được dùng trong sử thi liat của Hômere.
Không gian trong sử thi Đam San không mấy tĩnh lặng mà thường sôi động bởi các sự kiện, hành động và biến cố liên tiếp xảy ra. Không gian đó không bị ngưng đọng, mà nó luôn thay đổi theo sự thay đổi của hành động nhân vật trong chuyện kể. Điều này góp phần quan trọng vào việc tạo nên sức lôi cuốn, hấp
dẫn của sử thi Đam San.
Thời gian trong sử thi Đam San vừa mang tính ước lệ, vừa mang tính định lượng. Tuy nhiên đây là "định lượng" có phần ước lệ.
Mệnh để "nghỉ một ngày, ngơi một đêm, ở không thêm một chiều một sáng" được người kể chuyện sử dụng như một cái "bản lề" để chuyển tiếp các sư kiện, hành động và biến cố liên quan đến nhân vật. Nó cũng là phương tiện để phân biệt thời gian này với thời gian kia một cách ước lệ. Lúc Đam San cháu làm chồng Hơ Nhì, "Thằng bé còn đang tuổi vọc đất, còn đang tuổi bám thang, mới biết đi biết
chạy”, vậy mà " nghỉ một ngày, ngồi một đêm, ở không thêm một chiều một sáng", vậy mà Đam San đã biết đảm đương nhưng công việc quan trọng của một tù
trưởng giàu mạnh.
Thời gian trong sử thì Đam San đôi khi cũng được thể hiện bằng những "định
lượng”, chẳng hạn như đoạn trần thuật Đam San bị ngập chìm trong vùng rừng đất nhão. Ở đây dựa vào từ lúc mặt Trơi mới mọc "cho đến khi mặt trời đứng bóng" thì "ngựa bị ngập đến ngang lưng dân dần kéo theo Đam San chìm nghim", người ta biết được Đam San ra về từ lúc sáng sớm và bị ngập chìn vào giữa buổi trưa. Điều này khác với ý niệm về thời gian được biểu hiện một cách hết sức ước lệ trong sử thi Mnông. Trong sử thi M'nông, nhân vật Tiăng thực hiện cuộc hành trình qua mặt đất và âm phủ thời
gian đó được tính bằng:
Con gà từ lúc năm trong trứng, bây giờ đã thành gà lớn rồi
Con dê từ lúc nhỏ bây giờ đã già
Mang từ khi mới nhú nay đã thành tre già Mặt trăng từ lúc như lá cong nay đã tròn '” Những cảm quan và những khái niệm sai lệch về thế giới ngày càng biến đổi và mất dân đi, quan niệm của con người ngày càng sáng tỏ, càng hợp lý bao nhiêu, thì nghệ thuật cũng càng thêm sáng tỏ và hợp lý bấy nhiêu. Ý niệm về thời Mnông và Ê Đê đã phản ánh một phần
không gian, gian trong sử thị của tư duy nghệ thuật ở hai trình độ khác nhau.
Đối với sử thi M'nông "thời gian" khi vũ trụ và con người mới xuất hiện "Hồi Trời bằng hai ngón tay Trăng đã sinh rồi, Trái đất chỉ bằng hai ngón tay Trăng đã đầu thai" “'” luôn luôn được coi như là nguyên nhân, tiền đề cho những cái tiếp theo. Người kể chuyện có thể thường xuyên cho nhân vật hồi cố về sự xuất
hiện đầu tiên đó. Sử thi M'nông phản ánh NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
13


từ lúc vũ trụ ít nhiều còn đang còn ở tình trạng hồn mang, chí ít là dấu vết của sự hôn mang đó. Còn sử thi Đam San nói riêng và sử thi Ê Đê nói chung "thời gian thần thoại" được cải biên thành "thời đại anh hùng" với những mâu thuẫn và xung đột xã hội căng thắng, gay cấn hơn, những chiến công của nhân vật anh hùng cũng mang tính xã hội đậm nất hơn. Cùng với những phương diện khác, qua phương diện thời gian trong sử thi Mnông và Ê Đề có thể vên tâm khẳng định rằng sử thi Mông là sử thi thần thoại, còn sử thi Ê Đê là sử thi anh hùng ở giai đoạn thấp,
so với anh hùng của Hy Lạp. ở. Vai trò của người kê chuyện
Trong sư thi Đam San, lời trần thuật của người kể chuyện đóng vai trò dẫn dắt sự việc này nối với sự việc kia, nối phần này với phần kia.
Lời trần thuật của người kể chuyện trong sử thì Đam San được triển khai xen vào những lời đối thoại của nhân vật. Nó có chức năng đàn dựng câu chuyện, đồng thời góp phần quan trọng trong việc tường thuật hành động và biến cố trong cuộc đời nhân vật, cũng như miêu tả sự việc, sự vật trong môi trưởng nhân vật hoạt động. Sau lời đối thoại giữa Đan San với Hơ Nhi rằng chàng đi bắt nữ thần Mặt Trời, người kể chuyện mưu tả hình dáng người anh hùng rồi chuyển sang cảnh Đam San đến nhà Tăng Măng và cuộc đổi thoại giữa họ. Hết lời đối thoại đó, người kể chuyện chuyển sang việc kể miêu tả cảnh Đam San và Tăng Măng đến nhà Dam Par lwậy, rồi cảnh tượng buôn làng, cầu thang gian khách nhà Dam Par Kwậy, khi Đam San và người
em của chàng đến...
Nhìn chung, lời trần thuật của người kể chuyện thường được dùng để kết thúc
một đoạn, một phân nào đó của truyện kế.
Người kế chuyện chủ yếu thông qua lời trần thuật để biêu hiện thái độ của
mình đối với nhân vật.
Trong sử thị lliat, chiến tranh là sự bộc lộ xung đột quyền lợi giữa hai dân tộc bình đẳng, cho nên thái độ của tác giả ban sử thì này không ưu ái, không thiên vị cho ngươi Hy Lạp cũng như Toơroa. Trong sử thi Đam San có sự khác biệt đáng kể. Thái độ của người kể chuyện rõ ràng là dành thiện chí cho Đam Sam. Điều đó cũng phản ánh tư tưởng của người kế chuyện cắm ghét những tù trưởng cậy giàu mà làm những việc không phù hợp với tập tục của cộng
(I1)
đồng
Người kể chuyện xây dựng nên hình tượng Đam San đạt tới sự hoàn thiện, hoàn mĩ, một mô hình tù trưởng trong mơ ước mà người Ê Đê trước đây mong muốn. Sư giàu mạnh và uy danh của Đam San "vang đến thần, tiếng lừng khắp núi, củng nghe danh
Đông Tây đâu đâu
tiếng"”“, Khi bình giá về Đam San, người kể chuyện bao giờ cũng đặt chàng cao hết hết thảy các tù trưởng khác ở mọi phương điện: "thật chưa từng thấy một tù
N ` ` +(11) trưởng nào như chàng cal' `”.
Sau khi cầu hôn với nữ thần Mặt Trời không thành, trên đường trở về Đam San bị chết ngập trong rừng đất nhão. Nhiều người cho rằng chàng chêt là đám ngang nhiên chống lại tập tục nối dòng trong khi quyển uy của nó đang còn chi phối quan hệ hôn nhân, có người cho đó là do Đam San đã tách khỏi cộng đồng. Tôi
nghĩ cái chết của Đam San là kết quả tất 14
ĐỖ HỒNG KỲ
———____________———___————————————————————————————————————————————————————————————————
yếu của việc chàng không chịu nghe theo lời đặn của nữa thân Mặt Trời, và việc làm nữ thần Mặt Trời không chịu lấy Đam San, nguyên nhân chính là do nữ thần (thực chất là do người kể chuyện) sợ sự sống sẽ mất đi trên mặt đất và bầu trời. Nguyên nhân trực tiếp và đơn giản vậy thôi ! Nguyên nhân này có cơ sở từ cái mà Hêghen gọi là "nhãn tượng” (vision) về tự nhiên" (hiểu theo nghĩa điểu nhìn thấy một cách sinh động trong sự tưởng tượng của người kể chuyện). Người Ê Đê quan niệm Du, Diê là hai vị thân tối cao trông coi ca tộc người họ. Hạn hắn mất mùa hay mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu đều do thần linh chi phối. Vì vậy họ phải luôn luôn làm "vừa lòng" thần linh để mong nhận được sự trợ giúp. Đam San với bản tính "nganh bướng" của mình, đã nhiều lần làm trái ý thân. Chúng ta đặc biệt lưu ý đến tình tiết khi Đam San đang khẳng định khả năng của mình trong việc đi chinh phục nữ thần Mặt Trời với Đam San với Dam Par Ewậy, ông Diê "tức thì đét cho Đam Đan một đét vào người". Trước đó, khi Diề bắt Đam San làm chồng Hơ Nhi, chàng nói "có chết" cũng không chịu. Ông Diê gõ ống điếu vào đầu, làm Đam San chết đi sông lại bảy lần. Cuối cùng chàng đã chấp thuận. Lần này Đam San đã lờ đi "cái đét" vào mình chàng của ông Diê và dứt khoát ra đi bắt nữ thần Mặt Trời làm vợ. Đam San chết là vì đã không nghe lời thần linh, đã đi quá giới hạn mà thần
linh cho phép.
Như vậy, kết qua hành động của Đam Ban đã bị hoàn cảnh quy định. Ö đây sử thì Đam San đã trình bày một cách khách quan và tất yếu môi quan hệ giữa
con người với thần linh.
Những người sáng tạo ra sử thi Đam San đã làm được cái điều mà không phải sử thi Ê Đê nào cũng có được, đó là bên cạnh chất men say của cảm hứng lãng mạn, nó vẫn bảo đàm được tính khách
quan cua sự thê hiện thực tại.
Hêghen cho rằng sử thi chính thức là loại có nội dung và hình thức "thật sự là toàn bộ quan niệm về thế giới và cuộc sống một dân tộc được trình bày dưới hình thức khách quan của những biến cô thực tại" ŒĐ Sữ thì Đam San đã đạt được
vêu câu này.
Tìm hiểu sử thi Đam San dưới góc độ tự sự chúng tôi muốn nói rằng sử thi Đam San tuy cũng là sử thị chính thức như Ramayna - Mahabharata của Ấn Độ, liat - Ôdđixê của Hy Lạp (bản của Hômerơ), nhưng nó có nhiều đặc điểm riêng. Để khám phá diện mạo chung của kho tàng sử thị thế giới, ở Phương Đông, ngoài sử thi Ấn Độ và Ba Tư, sử thi Đam San của người Ê Đê xứng đáng là một "mẫu chọn" để nghiên cứu sử thi thế giới Ó?” với tư cách là "một hiện tượng thế
giới, một đơn vị hoặc hình học" °” để khám phá ra "những quy luật của quá
trình văn học thế giới"
Đ.H.K
1. Tác phẩm Đam San được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1998 hay 1999, chưa thấy có sự thống nhất của các nhà nghiên cứu khi ghi xuất xứ. Ông Nguyễn Văn Hoàn nói là năm 1998 (Đam San sử thi Ê Đê, Nxb Văn học, H.1988, tr. 9). Còn ông Phan Đăng Nhật thì nói năm 1929 (Sử thi E Đê, Nxb Khoa học xã hội, H. 1991, tr. 6), có khi lại nói năm 1937 (Xem Sư thi Tây Nguyên, Nxb Ehoa học xã hội, H. 1998, tr. 63). NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI


2. G.Côngđôminas - Không gian xã hội vùng Đông Nam Á Nxb Văn hoá, H. 1997. Tr. 230. Ngọc Hà, Thanh Hằng dịch. Hồ Hải Thuy hiệu đính.
3. Xem Hoàng Ngọc Hiến - Những nét độc đáo và những nét loại hình của bài ca chàng Đam San như một tác phẩm anh hùng ca in trong cuốn Văn học dân gian - Những công trình nghiên cứu, Nxh Giáo dục, H.199, tr. 18
4. Các tác phẩm sử thi được coi là mẫu mực của sử thi anh hùng là lliat và Ôđixê của Hômerơd. Nói Đam San như vậy là nói về sự "mẫu mực", chứ không nói về phạm trù thể loại.
5. G.W, Hêghen - Mỹ học (tập 3) Nxb Văn học, H.1998, tr 6341. Phan Ngọc dịch
6. G.W Hêghen, Sdd, tr. 634.
7. M. Bakhtin - Lý luận và thị pháp tiêu thuyết - Trường viết văn Nguyễn Du, H. 1883, tư. 653.
8. Đam San sử thi Ð Đê -Nguyễn Văn Hoàn, Nguyễn Hữu Thấu, Hà Công Tài (Nghiên cứu, biên dịch). Nxb Khoa học xã hội. H. 1988, tr. 140.
9. Sự thi cổ sơ Mnông (Bu Nong) - Đỗ Hồng Kỳ, Điều Kâu sưu tầm và dịch. Nxb Văn hóa dân tộc, H. 1993, tr. 44, 180.
10. Như trên.
11. Luật tục Ê Đê qui định ai chiếm chồng, chiếm vợ người khác đều tuỳ theo giàu nghèo để thầy xử kiện định mức phạt. AI ở địa vị tù trưởng sẽ bị phạt rất nặng.
192. Đam San sử thi Ê Đê, Sdd, tr. 196 và tr. 208.
13. Đam San sử thi Ê Đê, Sđd, tr. 196 và tr. 208
14. G.W Hêghen, Sđd, tr. 573.
15. Ông Nguyễn Văn Hoàn là người đầu tiên đưa ra nhận định này. Xem Đam
San sử thi Ê Đê, Sđd tr. 57.
16-17. M.B. Khrapchenecô Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triên văn học. Lê Sơn dịch Nxb Tác phẩm mới, H. 1978, tr. 336-337.
(Tiếp theo trang 76) Đêm đêm chớp bể mưa nguồn Hõi người quân tử có buồn hay không V.V...
Ngoài việc sư tập văn bản, các tác giả Nam phong giải trào còn có những lời bình giải sau mỗi bài ca dao. Có những lời bình khá xác đáng, tỉnh tế, song cũng không tránh khỏi một số lời bình có tính
chất gò ép theo quan điểm của Nho gia.
Nam phong giải trào đã ghì lại được nhiều bài ca dao cổ truyền tuyệt hay, nhưng cũng có một số bài lại quá tâm thường. Nhược điểm này có lẽ là do nhiều người biên soạn mà lại diễn ra trong những khoang cách thơi gian khá xa, nên đã không bảo đảm được tính thống nhất trong việc biên soạn. Dầu sao Mamn phong giải trào cũng là một cuốn sưu tập ca dao có giá trị lịch sử và là một công trình sư tập ca dao sớm nhất mà chúng ta còn cố đến ngày nay. Đặc biệt về mặt giá trị nhận thức, từ các văn ban dịch ngược từ Nôm ra Hán, Nam phong giát trào lại còn có tác dụng giúp ta hiểu rõ hơn ý tứ của các bài ca dao cổ truyền, tránh được những điều ngộ nhận đáng tiếc. Chẳng hạn, với câu "Muốn sang thì bắc cầu kiểu..." phần chữ Hán đã dịch là "Vãng bỉ..." có nghĩa là: "Muốn sang bờ sông bên kia"; như thế lời ca dao nói muốn sang võ ràng là nói "muốn sang sông" chứ đâu phải nói "muốn sang trọng" như có ý kiến
đã suy diễn võ căn cứ...
E.I.H