NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
9
PHƯƠNG THỨC
TỰ SỰ CHỦ YÊU CỦA
SỬ THỊ ĐAM SAN
ĐỖ HỒNG KỲ?)
—N thi Đam San là tác phẩm tiêu biểu
của kho tàng sư thì Tây Nguyên. Từ
khi xuất hiện dưới dạng văn bản đến nay,
nó luôn luôn được bạn đọc yêu thích, được
các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước
đánh giá rất cao.
Năm 1998”, tại Paris, tác phẩm Đam
San được xuất bản. Trong lời giới thiệu,
nhà văn Pháp R. Đoócgiơlet viết: bản anh
hùng ca xưa của người Radê sẽ không
mất đi, câu chuyện đẹp đẽ của Đam San
bay đi từ miền núi rừng An Nam sẽ được
tận Châu Âu biết đến. G.
Côngđôminas, nhà dân tộc học nổi tiêng
bên
người Pháp thì khẳng định: "người ta
không thể nói về văn hoá dân gian Đông
Dương nguyên thuy mà không nhớ ngay
đến một cái đầu để: Trường ca Đam San.
Bài viết tuyệt vời này..., hiện nay hiển
"'? Các nhà
nhiên vẫn là một tuyệt tác
nghiên cứu Việt Nam, như Chu Xuân
Diên, Võ Quang Nhơn, Hoàng Ngọc Hiến,
Phan Đăng Nhật, Nguyễn Văn Hoàn...
đều rất để cao giá trị nội dung và nghệ
thuật của tác phẩm này.
Về phương diện nội dung, quả là tác
phẩm Đam San đã để cập đến những vấn
để quan trọng nhất của "thời đại anh
hùng": Đó là những biểu hiện của đời
F} TS, Viện Nghiên cứu Văn hoá dân gian.
sông tỉnh thần, các quan hệ gia đình, sự
đoàn kết của một cộng đồng trong sản
xuất, hòa bình và tranh đấu. Có thể coi
đây là thời đại anh hùng đặc thù của Tây
Nguyên ?
Về phương diện thể hiện, sử thi Đam
San vừa mang đặc điểm loại hình chung
của sử thi thế giới, nhất là là sử thi lliat,
đồng thời nó cũng mang đặc điểm riêng.
1. Cốt truyện sử thi Đam San
Cốt truyện sử thi Đam San được mở
rộng cấu trúc theo chiều hướng gia tăng
phẩm chất anh hùng của nhân vật trung
tâm. Môi sự kiện quan trọng, mỗi chuỗi
hành động được thể hiện khá hoàn chỉnh
trong một phần nào đó của cốt truyện.
Nhân vật trung tâm được đặt vào những
hoàn cảnh, những mâu thuẫn ngày càng
cao hơn, theo đó là những hành động
tương ứng của nhân vật, khiến các biến
cô điền ra và dẫn đến kết thúc cốt truyện.
Sau khi chấp thuận lấy hai chị em
Hơ Nhi và Hơ Bhi, Đam San đã liên tục
tiến hành những cuộc chính phạt các tù
trưởng tham lam, gian hùng để giành lại
vợ bị cướp (Hơ Nhi), chàng chặt cây thần
và đi chỉnh phục nữ thân Mặt Trời. Các
sự kiện sử thi xuất hiện liên tiếp, những
hành động kỳ vĩ và mỹ lệ diễn ra sôi nổi,
hào hùng, đã lôi cuốn, hấp dẫn người
nghe như là cố một ma lực nào đố: những
người ngồi nghe Đam San tối ngồi thế
nào thì sáng hôm sau cũng ngồi nguyên
như thế. Ở đây là do "ma lực" của nghệ
thuật sử thi mang lại, chứ không phải
một thứ ma thuật nào đó của tôn giáo, tín
ngưỡng tác động.
Sử thi Đam San có kết cấu đầu cuối
tương ứng, nó mang tính chất một chu kỳ
10
ĐỖ HỒNG KỲ
—_—_———____—— —=—
khép kín. Mỏ đầu tác phẩm là việc hai
chị Hơ Nhi và Hơ Bhi đòi đi hỏi Đam San
và kết thúc cũng bằng việc gia đình Hơ
Nhí đi hỏi Đam San cháu (lính hồn Đam
San đầu thai làm con của chị mình). Nhà
nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến cho rằng
"bố cục này đồng thời khẳng định tính
chất vĩnh cửu của tập tục" nối dây". Tuy
nhiên đây là sự vĩnh cửu "hạn chế" °”,
Nói cho đúng và đầy đủ hơn là kết cấu
đầu cuối tương ứng đó chịu sự chi phối
của tâm lý tập tục cue nuê (nối dây) và
khát vọng muốn có vị tù trưởng tài giỏi
để dẫn dắt cộng đồng ngày càng giàu
mạnh (Chúng tôi đặc biệt nhấn mạnh ý
thứ hai -ĐHK).
Những người tạo lên cốt chuyện Đam
San đã biết chọn lọc những gì là cần
thiết, gạt bỏ những gì không cần thiết.
Theo lược đồ cốt chuyện có thể chia sử thi
Đam San thành 3 phân: 1- Đam San chấp
thuận lấy Hơ Nhi và Hơ Bhi trong bối
cảnh cả con người và thần linh theo tục
nối dây. 9- Đam San mở mang sản xuất,
tiến đánh các tù trưởng gian hùng, xác
lập, địa vị và danh tiếng tù trưởng giàu
mạnh. 3- Đam San chặt cây thần và đi
bắt nữ thần Mặt Trời về làm vợ. Một cốt
truyện như vậy có thể nói là gọn gàng và
sáng sua, nhưng đã bao quát được những
vấn để rộng lớn của thời đại.
Những người tạo lên cốt truyện Đam
San đã biết chọn những gì là cần thiết, bỏ
đi những gì không cân thiết, điều này
khiến cho tác phẩm Đam San có cái dáng
dấp của sử thi cổ điển “°,
Cùng tái hiện chiến tranh Tơroa,
nhưng "các nhà thơ liên hoàn Hy Lạp đã
từng ca hát tất ca những gì liên quan tới
cuộc chiến tranh Toroa" °” (họ bắt đầu từ
chuyện quả trứng do nữ thần Lêda sinh
ra, quả trứng này đã nở ra nữ thần Hêlen
- người gây ra nguyên nhân dẫn đến cuộc
Tơroa). Còn Hômerơ thì
không làm như vậy, lliat chỉ thuật lại
chiến tranh
một thời gian ngắn của năm thứ mười,
năm cuối cùng của cuộc chiến tranh
Toroa. Kết thúc sử thi là việc làm lễ mai
táng Hécto. Còn những gì xay ra trước và
thời không được
Hômerơ để cập.
sau gian nói trên
Các nhân vật chính trong sử thi Ê Đê
thường được nhắc tới thời thơ ấu của họ.
Còn sử thi Đam San không thấy nói tới
thời thơ ấu của nhân vật chính. Thời thơ
ấu của Đam San chỉ được nhắc sơ qua
qua ký ức của Hở Nhi. Những người sáng
tạo sử thi Đam San đã tránh được cách
làm "kéo dài ra phía trước và ra phía
sau"®)
một cách tuỳ tiện cua các tác
phẩm "nôm na" (chữ dùng của Hê ghen),
tức là tác phẩm không phải sử thi chính
thức.
Phần kết thúc của sử thi Đam San,
xét theo chỉnh thể cết truyện thì nó đã
làm cho cốt truyện bị "loãng ra". Nhưng
người kể chuyện cũng đã biết dừng lại ở
chỗ cần phải dừng, anh ta không nói tới
các sự kiện, hành động và biến cố trong
cuộc đời Đam San cháu. Qua cái kết thúc
có phần gò ép (xét theo cấu trúc cốt
truyện), sử thi Đam San vẫn toát ra một
hàm nghĩa rằng Đam San cháu sẽ tiếp
tục xứng đáng sự nghiệp của Đam San
cậu. Do vậy đây không hắn hoàn toàn là
một thiếu sót.
Cốt truyện sử thi Đam San được triển
khai theo chiều bình diện: phong tục, sản
xuất, chiến tranh, thâm nhập tự nhiên
(chặt cây smuk và chinh phục nữ thần
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
11
Mặt Trời). Một tác phẩm không dài mà
phản ánh được những vấn đề lón của thời .
đại, chứa đựng dung lượng cuộc sống lớn
như vậy qua thật là hiếm trong kho tàng
sử thi nước ta và thế giới. Nhận xét của
M.Bakhtin" một sử thi không thể bao
? như
quát toàn thể quá khứ tuyệt đối" '
là không đúng đổi với trường hợp sử thi
Đam San.
Cốt truyện Đam San được triển khai
theo hai kiểu:
- Sự kiện được triên khai thông qua
các sự việc, hành động nối tiếp nhau một
cách tuần tự cho đến khi sự kiện có kết
quả (Đam San dẫn tôi tó vào rừng, chàng
chặt cây smuk, blang - cây bản mệnh của
Hơ Nhi và Hơ Bhi. Hai nàng chết, nhờ sự
mách bảo của ông Trời, Đam San cứu
sông vợ).
- Sự kiện đang được triển khai thông
qua sự việc, hành động nào đó, thì người
kể chuyện chuyển sang kể các sự việc,
hành động khác, để rồi tất cả đều góp
phần dẫn đến biến cố trong cuộc đời nhân
vật (người kể chuyện đang kể những gì
điển ra ở nhà Đam San chung quanh việc
hỏi Đam San cho Hơ Nhi, Hơ Bhi, người
kế chuyện nói đến việc Hơ Nhí, Hơ Bhi
đến nhà Đam San, và Đam San bỏ đến
nhà Hbia Ihuich, rồi chàng lại trở về
nhà và đồng ý lấy chị em Hơ Nhì).
2. Cách biểu hiện không gian và
thời gian ở sử thi Đam San
Sự kiện, hành động, biến cố trong sử
thi Đam San bị những lời trần thuật của
người kế chuyện làm cho diễn biến của
truyện kể bị chậm lại. Người kể chuyện
dường như quan tâm tới tất ca những gì
tồn tại trong môi trường nhân vật chính
hoạt động. Cũng cần nói cho rõ là không
phải môi trường nào nhân vật chính hoạt
động cũng đều được người kể chuyện chú
ý mưu tả tỉ mi, chỉ tiết, cụ thể, mà chỉ có
những môi trưởng quan trọng thường là
mang tính đối lập với nhân vật chính thì
người kể truyện mới trần thuật tường
tận. Ồ đây người kế chuyện đã biết hướng
sự chú ý của mình vào đôi tượng chính,
vào những điểm mấu chốt của các hành
động sử thi. Thật vật, khi Đam San đang
chơi quay thì Mtao Grù (đại bàng) đến
nhà chàng lừa bắt Hơ Nhi. Việc chơi quay
của Đam San chỉ được nhắc tới như một
thông báo. Còn sự kiện cướp vợ cua tù
trưởng nọ diễn biến về kết quả ra sao mới
được người kế chuyện trần thuật một
cách chi tiết, tỉ mỉ và cụ thể. Các trường
hợp khác tình hình cũng đều là như vậy.
Không gian được mô ta trong sử thì
Đam San đi từ viến cảnh đến cận cảnh.
Tất nhiên đó không phải là quy luật xa
gần, mà chỉ đơn giản là tính "điểm nhìn"
của người kể chuyện. Ngôi nhà đất buôn
làng được mô tả từ xa đến gần "nơi dựng
làng như cái mai rùa... đấu chân ngựa
chân rét... nhà dài cả một hơi chiêng, sàn
#om . 1 " & z (j1
hiên rộng ca một hơn chìm bay..." ””.
hông gian trong sử thi Đam San
được mở rộng vô tận và nằm ngoài giới
hạn có thực (đôi với chúng ta, nhưng lại
có thực đối với người Ê Đê). Cái không
gian hư hư thực thực, cái không gian có
"đòng nước đục chảy cho đến nơi đất giáp
trời" trải rộng ra trước mắt người thưởng
thức, tạo nên niềm hứng khở bất tận !
Trong sử thi Đam San chỉ có không
gian trong thời điểm nhân vật hoạt động
là tổn tại. Hết thời điểm nhân vật hoạt
động tại một địa điểm nào đó, không gian
khác lại được mở ra Đam San đang chỉ
huy dân làng bắt cá dưới suối, người kế
12
ĐỒ HỒNG KỲ
=————ễễ >> ———
chuyện chuyển sang sự kiện Mtao Mxây
cướp vợ chàng. "Không gian hòa bình"
được chuyển sang "không gian chiến
tranh".
Sử thi Đam San, cũng như các sư thi
khác không thể đồng thời có hai địa bàn
hoạt động của nhân vật ở hai địa điểm
khác nhau. Đó chính là "luật không
tương dung về thời gian", đã được dùng
trong sử thi liat của Hômere.
Không gian trong sử thi Đam San
không mấy tĩnh lặng mà thường sôi động
bởi các sự kiện, hành động và biến cố liên
tiếp xảy ra. Không gian đó không bị
ngưng đọng, mà nó luôn thay đổi theo sự
thay đổi của hành động nhân vật trong
chuyện kể. Điều này góp phần quan
trọng vào việc tạo nên sức lôi cuốn, hấp
dẫn của sử thi Đam San.
Thời gian trong sử thi Đam San vừa
mang tính ước lệ, vừa mang tính định
lượng. Tuy nhiên đây là "định lượng" có
phần ước lệ.
Mệnh để "nghỉ một ngày, ngơi một
đêm, ở không thêm một chiều một sáng"
được người kể chuyện sử dụng như một
cái "bản lề" để chuyển tiếp các sư kiện,
hành động và biến cố liên quan đến nhân
vật. Nó cũng là phương tiện để phân biệt
thời gian này với thời gian kia một cách
ước lệ. Lúc Đam San cháu làm chồng Hơ
Nhì, "Thằng bé còn đang tuổi vọc đất, còn
đang tuổi bám thang, mới biết đi biết
chạy”, vậy mà " nghỉ một ngày, ngồi một
đêm, ở không thêm một chiều một sáng",
vậy mà Đam San đã biết đảm đương
nhưng công việc quan trọng của một tù
trưởng giàu mạnh.
Thời gian trong sử thì Đam San đôi
khi cũng được thể hiện bằng những "định
lượng”, chẳng hạn như đoạn trần thuật
Đam San bị ngập chìm trong vùng rừng
đất nhão. Ở đây dựa vào từ lúc mặt Trơi
mới mọc "cho đến khi mặt trời đứng
bóng" thì "ngựa bị ngập đến ngang lưng
dân dần kéo theo Đam San chìm nghim",
người ta biết được Đam San ra về từ lúc
sáng sớm và bị ngập chìn vào giữa buổi
trưa. Điều này khác với ý niệm về thời
gian được biểu hiện một cách hết sức ước
lệ trong sử thi Mnông. Trong sử thi
M'nông, nhân vật Tiăng thực hiện cuộc
hành trình qua mặt đất và âm phủ thời
gian đó được tính bằng:
Con gà từ lúc năm trong trứng, bây
giờ đã thành gà lớn rồi
Con dê từ lúc nhỏ bây giờ đã già
Mang từ khi mới nhú nay đã thành
tre già
Mặt trăng từ lúc như lá cong nay đã
tròn '”
Những cảm quan và những khái
niệm sai lệch về thế giới ngày càng biến
đổi và mất dân đi, quan niệm của con
người ngày càng sáng tỏ, càng hợp lý bao
nhiêu, thì nghệ thuật cũng càng thêm
sáng tỏ và hợp lý bấy nhiêu. Ý niệm về
thời
Mnông và Ê Đê đã phản ánh một phần
không gian, gian trong sử thị
của tư duy nghệ thuật ở hai trình độ
khác nhau.
Đối với sử thi M'nông "thời gian" khi
vũ trụ và con người mới xuất hiện "Hồi
Trời bằng hai ngón tay Trăng đã sinh rồi,
Trái đất chỉ bằng hai ngón tay Trăng đã
đầu thai" “'” luôn luôn được coi như là
nguyên nhân, tiền đề cho những cái tiếp
theo. Người kể chuyện có thể thường
xuyên cho nhân vật hồi cố về sự xuất
hiện đầu tiên đó. Sử thi M'nông phản ánh
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
13
từ lúc vũ trụ ít nhiều còn đang còn ở tình
trạng hồn mang, chí ít là dấu vết của sự
hôn mang đó. Còn sử thi Đam San nói
riêng và sử thi Ê Đê nói chung "thời gian
thần thoại" được cải biên thành "thời đại
anh hùng" với những mâu thuẫn và xung
đột xã hội căng thắng, gay cấn hơn,
những chiến công của nhân vật anh hùng
cũng mang tính xã hội đậm nất hơn. Cùng
với những phương diện khác, qua phương
diện thời gian trong sử thi Mnông và Ê Đề
có thể vên tâm khẳng định rằng sử thi
Mông là sử thi thần thoại, còn sử thi Ê
Đê là sử thi anh hùng ở giai đoạn thấp,
so với anh hùng của Hy Lạp.
ở. Vai trò của người kê chuyện
Trong sư thi Đam San, lời trần thuật
của người kể chuyện đóng vai trò dẫn dắt
sự việc này nối với sự việc kia, nối phần
này với phần kia.
Lời trần thuật của người kể chuyện
trong sử thì Đam San được triển khai xen
vào những lời đối thoại của nhân vật. Nó
có chức năng đàn dựng câu chuyện, đồng
thời góp phần quan trọng trong việc
tường thuật hành động và biến cố trong
cuộc đời nhân vật, cũng như miêu tả sự
việc, sự vật trong môi trưởng nhân vật
hoạt động. Sau lời đối thoại giữa Đan San
với Hơ Nhi rằng chàng đi bắt nữ thần
Mặt Trời, người kể chuyện mưu tả hình
dáng người anh hùng rồi chuyển sang
cảnh Đam San đến nhà Tăng Măng và
cuộc đổi thoại giữa họ. Hết lời đối thoại
đó, người kể chuyện chuyển sang việc kể
miêu tả cảnh Đam San và Tăng Măng
đến nhà Dam Par lwậy, rồi cảnh tượng
buôn làng, cầu thang gian khách nhà
Dam Par Kwậy, khi Đam San và người
em của chàng đến...
Nhìn chung, lời trần thuật của người
kể chuyện thường được dùng để kết thúc
một đoạn, một phân nào đó của truyện kế.
Người kế chuyện chủ yếu thông qua
lời trần thuật để biêu hiện thái độ của
mình đối với nhân vật.
Trong sử thị lliat, chiến tranh là sự
bộc lộ xung đột quyền lợi giữa hai dân tộc
bình đẳng, cho nên thái độ của tác giả
ban sử thì này không ưu ái, không thiên
vị cho ngươi Hy Lạp cũng như Toơroa.
Trong sử thi Đam San có sự khác biệt
đáng kể. Thái độ của người kể chuyện rõ
ràng là dành thiện chí cho Đam Sam.
Điều đó cũng phản ánh tư tưởng của
người kế chuyện cắm ghét những tù
trưởng cậy giàu mà làm những việc
không phù hợp với tập tục của cộng
(I1)
đồng
Người kể chuyện xây dựng nên hình
tượng Đam San đạt tới sự hoàn thiện,
hoàn mĩ, một mô hình tù trưởng trong mơ
ước mà người Ê Đê trước đây mong muốn.
Sư giàu mạnh và uy danh của Đam San
"vang đến thần, tiếng lừng khắp núi,
củng nghe danh
Đông Tây đâu đâu
tiếng"”“, Khi bình giá về Đam San,
người kể chuyện bao giờ cũng đặt chàng
cao hết hết thảy các tù trưởng khác ở mọi
phương điện: "thật chưa từng thấy một tù
N ` ` +(11)
trưởng nào như chàng cal' `”.
Sau khi cầu hôn với nữ thần Mặt Trời
không thành, trên đường trở về Đam San
bị chết ngập trong rừng đất nhão. Nhiều
người cho rằng chàng chêt là đám ngang
nhiên chống lại tập tục nối dòng trong
khi quyển uy của nó đang còn chi phối
quan hệ hôn nhân, có người cho đó là do
Đam San đã tách khỏi cộng đồng. Tôi
nghĩ cái chết của Đam San là kết quả tất
14
ĐỖ HỒNG KỲ
———____________———___————————————————————————————————————————————————————————————————
yếu của việc chàng không chịu nghe theo
lời đặn của nữa thân Mặt Trời, và việc
làm nữ thần Mặt Trời không chịu lấy
Đam San, nguyên nhân chính là do nữ
thần (thực chất là do người kể chuyện) sợ
sự sống sẽ mất đi trên mặt đất và bầu
trời. Nguyên nhân trực tiếp và đơn giản
vậy thôi ! Nguyên nhân này có cơ sở từ
cái mà Hêghen gọi là "nhãn tượng”
(vision) về tự nhiên" (hiểu theo nghĩa
điểu nhìn thấy một cách sinh động trong
sự tưởng tượng của người kể chuyện).
Người Ê Đê quan niệm Du, Diê là hai vị
thân tối cao trông coi ca tộc người họ.
Hạn hắn mất mùa hay mưa thuận gió
hòa, mùa màng bội thu đều do thần linh
chi phối. Vì vậy họ phải luôn luôn làm
"vừa lòng" thần linh để mong nhận được
sự trợ giúp. Đam San với bản tính "nganh
bướng" của mình, đã nhiều lần làm trái ý
thân. Chúng ta đặc biệt lưu ý đến tình
tiết khi Đam San đang khẳng định khả
năng của mình trong việc đi chinh phục
nữ thần Mặt Trời với Đam San với Dam
Par Ewậy, ông Diê "tức thì đét cho Đam
Đan một đét vào người". Trước đó, khi Diề
bắt Đam San làm chồng Hơ Nhi, chàng
nói "có chết" cũng không chịu. Ông Diê
gõ ống điếu vào đầu, làm Đam San chết
đi sông lại bảy lần. Cuối cùng chàng đã
chấp thuận. Lần này Đam San đã lờ đi
"cái đét" vào mình chàng của ông Diê và
dứt khoát ra đi bắt nữ thần Mặt Trời làm
vợ. Đam San chết là vì đã không nghe lời
thần linh, đã đi quá giới hạn mà thần
linh cho phép.
Như vậy, kết qua hành động của Đam
Ban đã bị hoàn cảnh quy định. Ö đây sử
thì Đam San đã trình bày một cách
khách quan và tất yếu môi quan hệ giữa
con người với thần linh.
Những người sáng tạo ra sử thi Đam
San đã làm được cái điều mà không phải
sử thi Ê Đê nào cũng có được, đó là bên
cạnh chất men say của cảm hứng lãng
mạn, nó vẫn bảo đàm được tính khách
quan cua sự thê hiện thực tại.
Hêghen cho rằng sử thi chính thức là
loại có nội dung và hình thức "thật sự là
toàn bộ quan niệm về thế giới và cuộc
sống một dân tộc được trình bày dưới
hình thức khách quan của những biến cô
thực tại" ŒĐ Sữ thì Đam San đã đạt được
vêu câu này.
Tìm hiểu sử thi Đam San dưới góc độ
tự sự chúng tôi muốn nói rằng sử thi
Đam San tuy cũng là sử thị chính thức
như Ramayna - Mahabharata của Ấn Độ,
liat - Ôdđixê của Hy Lạp (bản của
Hômerơ), nhưng nó có nhiều đặc điểm
riêng. Để khám phá diện mạo chung của
kho tàng sử thị thế giới, ở Phương Đông,
ngoài sử thi Ấn Độ và Ba Tư, sử thi Đam
San của người Ê Đê xứng đáng là một
"mẫu chọn" để nghiên cứu sử thi thế giới
Ó?” với tư cách là "một hiện tượng thế
giới, một đơn vị hoặc hình học" °” để
khám phá ra "những quy luật của quá
trình văn học thế giới"
Đ.H.K
1. Tác phẩm Đam San được xuất bản lần
đầu tiên vào năm 1998 hay 1999, chưa thấy
có sự thống nhất của các nhà nghiên cứu khi
ghi xuất xứ. Ông Nguyễn Văn Hoàn nói là
năm 1998 (Đam San sử thi Ê Đê, Nxb Văn
học, H.1988, tr. 9). Còn ông Phan Đăng Nhật
thì nói năm 1929 (Sử thi E Đê, Nxb Khoa
học xã hội, H. 1991, tr. 6), có khi lại nói
năm 1937 (Xem Sư thi Tây Nguyên, Nxb
Ehoa học xã hội, H. 1998, tr. 63).
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
2. G.Côngđôminas - Không gian xã hội
vùng Đông Nam Á Nxb Văn hoá, H. 1997.
Tr. 230. Ngọc Hà, Thanh Hằng dịch. Hồ
Hải Thuy hiệu đính.
3. Xem Hoàng Ngọc Hiến - Những nét
độc đáo và những nét loại hình của bài ca
chàng Đam San như một tác phẩm anh
hùng ca in trong cuốn Văn học dân gian -
Những công trình nghiên cứu, Nxh Giáo
dục, H.199, tr. 18
4. Các tác phẩm sử thi được coi là mẫu
mực của sử thi anh hùng là lliat và Ôđixê
của Hômerơd. Nói Đam San như vậy là nói
về sự "mẫu mực", chứ không nói về phạm
trù thể loại.
5. G.W, Hêghen - Mỹ học (tập 3) Nxb
Văn học, H.1998, tr 6341. Phan Ngọc dịch
6. G.W Hêghen, Sdd, tr. 634.
7. M. Bakhtin - Lý luận và thị pháp
tiêu thuyết - Trường viết văn Nguyễn Du,
H. 1883, tư. 653.
8. Đam San sử thi Ð Đê -Nguyễn Văn
Hoàn, Nguyễn Hữu Thấu, Hà Công Tài
(Nghiên cứu, biên dịch). Nxb Khoa học xã
hội. H. 1988, tr. 140.
9. Sự thi cổ sơ Mnông (Bu Nong) - Đỗ
Hồng Kỳ, Điều Kâu sưu tầm và dịch. Nxb
Văn hóa dân tộc, H. 1993, tr. 44, 180.
10. Như trên.
11. Luật tục Ê Đê qui định ai chiếm
chồng, chiếm vợ người khác đều tuỳ theo
giàu nghèo để thầy xử kiện định mức phạt.
AI ở địa vị tù trưởng sẽ bị phạt rất nặng.
192. Đam San sử thi Ê Đê, Sdd, tr. 196
và tr. 208.
13. Đam San sử thi Ê Đê, Sđd, tr. 196
và tr. 208
14. G.W Hêghen, Sđd, tr. 573.
15. Ông Nguyễn Văn Hoàn là người
đầu tiên đưa ra nhận định này. Xem Đam
San sử thi Ê Đê, Sđd tr. 57.
16-17. M.B. Khrapchenecô Cá tính
sáng tạo của nhà văn và sự phát triên văn
học. Lê Sơn dịch Nxb Tác phẩm mới, H.
1978, tr. 336-337.
(Tiếp theo trang 76)
Đêm đêm chớp bể mưa nguồn
Hõi người quân tử có buồn hay không
V.V...
Ngoài việc sư tập văn bản, các tác giả
Nam phong giải trào còn có những lời
bình giải sau mỗi bài ca dao. Có những
lời bình khá xác đáng, tỉnh tế, song cũng
không tránh khỏi một số lời bình có tính
chất gò ép theo quan điểm của Nho gia.
Nam phong giải trào đã ghì lại được
nhiều bài ca dao cổ truyền tuyệt hay,
nhưng cũng có một số bài lại quá tâm
thường. Nhược điểm này có lẽ là do nhiều
người biên soạn mà lại diễn ra trong
những khoang cách thơi gian khá xa, nên
đã không bảo đảm được tính thống nhất
trong việc biên soạn. Dầu sao Mamn phong
giải trào cũng là một cuốn sưu tập ca dao
có giá trị lịch sử và là một công trình sư
tập ca dao sớm nhất mà chúng ta còn cố
đến ngày nay. Đặc biệt về mặt giá trị
nhận thức, từ các văn ban dịch ngược từ
Nôm ra Hán, Nam phong giát trào lại còn
có tác dụng giúp ta hiểu rõ hơn ý tứ của
các bài ca dao cổ truyền, tránh được
những điều ngộ nhận đáng tiếc. Chẳng
hạn, với câu "Muốn sang thì bắc cầu
kiểu..." phần chữ Hán đã dịch là "Vãng
bỉ..." có nghĩa là: "Muốn sang bờ sông bên
kia"; như thế lời ca dao nói muốn sang võ
ràng là nói "muốn sang sông" chứ đâu
phải nói "muốn sang trọng" như có ý kiến
đã suy diễn võ căn cứ...
E.I.H