intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phương thức ứng xử với thời cuộc trong tư tưởng triết học Nguyễn Bỉnh Khiêm

Chia sẻ: ViShani2711 ViShani2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:14

66
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong số ít người có cuộc đời với tư tưởng và phương thức ứng xử với thời cuộc khá đặc biệt. Sống trọn thế kỷ XVI với nhiều biến động về chính trị, chiến tranh liên miên, đạo đức xã hội suy đồi, thời cuộc loạn ly, lòng người chao đảo, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chủ động lựa chọn cho mình một phương thức ứng xử phù hợp và thức thời - khi thì nhập thế giúp nước cứu đời, khi thì lui về ở ẩn để giữ vững khí tiết thanh cao, hưởng thú vui tự tại, bình yên.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phương thức ứng xử với thời cuộc trong tư tưởng triết học Nguyễn Bỉnh Khiêm

1<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> CHUYÊN MỤC<br /> <br /> TRIẾT HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC - LUẬT HỌC<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> PHƢƠNG THỨC ỨNG XỬ VỚI THỜI CUỘC TRONG<br /> TƢ TƢỞNG TRIẾT HỌC NGUYỄN BỈNH KHIÊM<br /> HUỲNH NGỌC BÍCH*<br /> <br /> <br /> Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm là một trong số ít người có<br /> cuộc đời với tư tưởng và phương thức ứng xử với thời cuộc khá đặc biệt. Sống<br /> trọn thế kỷ XVI với nhiều biến động về chính trị, chiến tranh liên miên, đạo đức<br /> xã hội suy đồi, thời cuộc loạn ly, lòng người chao đảo, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã<br /> chủ động lựa chọn cho mình một phương thức ứng xử phù hợp và thức thời - khi<br /> thì nhập thế giúp nước cứu đời, khi thì lui về ở ẩn để giữ vững khí tiết thanh cao,<br /> hưởng thú vui tự tại, bình yên. Qua Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm (chủ yếu qua<br /> Tổng tập thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm của Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải<br /> Phòng (2014)) bài viết làm rõ tư tưởng triết học Nguyễn Bỉnh Khiêm mà trong đó<br /> phương thức ứng xử với thời cuộc là một nội dung quan trọng.<br /> Từ khóa: Nguyễn Bỉnh Khiêm, phƣơng thức ứng xử, triết học Việt Nam, thế kỷ XVI<br /> Nhận bài ngày: 15/5/2019; đưa vào biên tập: 1/6/2019; phản biện: 2/7/2019; duyệt<br /> đăng: 12/8/2019<br /> <br /> 1. ĐÔI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI NGUYỄN Nguyễn Văn Đạt, tự là Hanh Phủ, hiệu<br /> BỈNH KHIÊM VÀ TƢ TƢỞNG TRIẾT là Bạch Vân cƣ sĩ, ngƣời làng Trung<br /> HỌC CƠ BẢN Am, Vĩnh Lại, Hải Dƣơng (nay là<br /> Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Phòng). Ở<br /> không chỉ là nhà thơ, nhà tƣ tƣởng mà Nguyễn Bỉnh Khiêm toát lên vẻ uyên<br /> còn là bậc thầy về văn hóa đƣợc mọi thâm của một trí tuệ bác học, sự an<br /> ngƣời truyền tụng. Ông nổi lên nhƣ yên của một nhà thơ nhàn nhã, nhƣng<br /> một hiện tƣợng đặc biệt của thế kỷ ẩn chứa những tƣ tƣởng triết lý sâu<br /> XVI. Nguyễn Bỉnh Khiêm tên thật là sắc. Ông sinh ra trong gia đình nho<br /> học và đƣợc nuôi dƣỡng bằng những<br /> *<br /> Trƣờng Đại học Công nghiệp Thành phố<br /> luân lý của Nho giáo từ ngƣời cha là<br /> Hồ Chí Minh. ông Nguyễn Văn Định - ngƣời có kiến<br /> 2 HỲNH NGỌC BÍCH – PHƢƠNG THỨC ỨNG XỬ VỚI THỜI CUỘC…<br /> <br /> <br /> thức sâu rộng. Đặc biệt, Nguyễn Bỉnh Dịch xem thái cực là hình thái chuyển<br /> Khiêm chịu ảnh hƣởng rất lớn từ sự hóa đầu tiên dẫn đến sự hình thành<br /> giáo dục của mẹ - bà Nhữ Thị Thục, là vũ trụ. Ông viết: “Thái cực triệu sơ<br /> mẫu phụ nữ có cá tính, tinh thông lý phân. Tam tài định quyết vị. Khinh<br /> học, ấm phong là Từ Thục phu nhân, thanh thƣợng vi thiên. Địa trọc há vị<br /> con gái của Thƣợng thƣ Nhữ Văn Lan. địa. Trung tụ nhi vi nhân. Bẩm thụ thị<br /> Không chỉ hấp thụ triết lý Nho giáo nhất khí” (Thái cực lúc mới phân chia.<br /> ngay trong gia đình, Nguyễn Bỉnh Vị trí của thiên, địa, nhân đã định.<br /> Khiêm còn đƣợc theo học ngƣời thầy Trong, nhẹ bay lên là trời. Đục, nặng<br /> là một nhà nho nổi tiếng đƣơng thời - lắng xuống là đất. Ở giữa kết tụ là<br /> Lƣơng Đắc Bằng. Với trí tuệ hơn ngƣời. Sinh ra vốn cùng một khí)<br /> ngƣời, thông minh từ nhỏ, lại gặp thầy (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải<br /> giỏi nên Nguyễn Bỉnh Khiêm sớm Phòng, 2014: 1344). Nhƣ vậy, nguồn<br /> thành tài năng kiệt xuất. Việc ông liên gốc của sự hình thành vũ trụ và vạn<br /> tiếp trúng tam nguyên trong ba kỳ thi: vật theo Nguyễn Bỉnh Khiêm là bắt<br /> thi Hƣơng, thi Hội, thi Đình đã chứng nguồn từ thái cực. Ông đặt thái cực<br /> minh điều đó. Phan Huy Chú nhận xét lên trên hết, nhƣng cốt lõi lại tập trung<br /> Nguyễn Bỉnh Khiêm là ngƣời học rộng vào “khí”. Khí là bản nguyên của vũ<br /> các sách, hiểu sâu nghĩa lý Kinh Dịch trụ. Vũ trụ xuất phát từ khí nên vũ trụ<br /> và dẫn lời viên sứ thần nhà Thanh là không ngừng vận động, biến đổi do<br /> Chu Xán đã khen ngƣời Lĩnh Nam sự tƣơng tác của âm dƣơng, phát<br /> biết lý học chỉ có Trình Tuyền - triển đến cùng cực thì quay lại vị trí<br /> Nguyễn Bỉnh Khiêm. xuất phát ban đầu theo nguyên lý của<br /> thái cực, vạn vật từ cỏ, cây, sông,<br /> Tài học rộng hiểu sâu của Nguyễn<br /> biển, núi, rừng… cũng từ đó mà thành:<br /> Bỉnh Khiêm phần nào thể hiện qua<br /> “Nhất khí sơ tòng thái cực hình, chí tai<br /> những tƣ tƣởng triết học của ông. Nổi<br /> bác hậu sở do danh. Hải hà Hoa Nhạc<br /> bật là những tƣ tƣởng về vũ trụ (thế<br /> khôn duy cố, nha giáp căn cai vật loại<br /> giới quan); tƣ tƣởng về luân lý đạo<br /> sinh” (Một khối khí ban đầu từ hình<br /> đức, về chính trị, xã hội (nhân sinh<br /> dạng của thái cực, rất mực rộng dày<br /> quan).<br /> nên có tên thế. Bể sông, núi non,<br /> Trƣớc hết, trong quan niệm về thế giềng đất thật là vững chắc, mầm vỏ<br /> giới quan, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã cây, gốc rễ cây… các loài nhờ vào đó<br /> trình bày tƣơng đối có hệ thống mà sinh sôi nảy nở) (Viện Văn học -<br /> những nội dung về nguồn gốc vũ trụ, Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014:<br /> vạn vật, sự tồn tại vận động, biến hóa 1162). Nguyễn Bỉnh Khiêm thừa nhận<br /> của vũ trụ. sự tiến hóa của vũ trụ là một quá trình<br /> Ảnh hƣởng Kinh Dịch, khi cắt nghĩa rất phức tạp và lâu dài, do sự kết hợp<br /> khởi nguyên của trời đất, Nguyễn Bỉnh của âm dương (lưỡng nghi) sinh ra tứ<br /> Khiêm xuất phát từ nguyên lý của tượng, mọi sự biến chuyển, đổi thay<br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 8 (252) 2019 3<br /> <br /> <br /> trong vũ trụ cũng phụ thuộc âm dương, sự biến chuyển đó lại mang tính chu<br /> âm dương vận động, giao hòa mà vạn kỳ, tuần hoàn khép kín. Nguyễn Bỉnh<br /> vật đƣợc sinh ra, quá trình phát sinh Khiêm mới chỉ thấy những biểu hiện<br /> này tức là biến đổi: “Dịch có thái cực, bề ngoài chứ chƣa tìm ra đƣợc nguồn<br /> thái cực sinh ra lƣỡng nghi (âm gốc bên trong của sự vận động và<br /> dƣơng), lƣỡng nghi sinh ra tứ tƣợng biến đổi. Mặc dù vậy, bỏ qua những<br /> (bốn mùa), tứ tƣợng sinh ra bát quái hạn chế do yếu tố lịch sử thì quan<br /> (tám quẻ)… Từ bát quái cấu tạo thành niệm của ông cũng chứa đựng yếu tố<br /> 64 quẻ”. Nhờ âm, dương vần xoay mà biện chứng duy vật thô sơ, chất phác<br /> cội nguồn vạn vật đƣợc lý giải cũng tích cực. Quan niệm thừa nhận sự<br /> nhƣ biết đƣợc thời thế thịnh, suy. biến đổi liên tục của vạn vật trong vũ<br /> Nguyễn Bỉnh Khiêm viết: “Âm dƣơng trụ bao la. Vạn vật luôn chứa đựng<br /> vãng phục nghiệm tiền tri” (Khí âm khí những khuynh hƣớng ngƣợc chiều<br /> dƣơng đi qua rồi trở lại, suy ra có thể nhau, sự mâu thuẫn là một tất yếu, ẩn<br /> biết trƣớc) (Viện Văn học - Hội đồng chứa bên trong sự vật, hiện tƣợng<br /> Lịch sử Hải Phòng, 2014: 1206), hay: làm nên sự biến chuyển xoay vần của<br /> “Tĩnh nghiệm âm tiêu dƣơng trƣởng mọi vật, mọi việc. Trong tự nhiên, đó<br /> xứ, Ƣ viêm thử hậu hữu phồn sƣơng” là sự thay đổi lên xuống của các hiện<br /> (Khi tĩnh, ngẫm những sự tiêu tan và tƣợng thiên nhiên: “Vũng nọ ghê khi<br /> lớn lên của khí âm khí dƣơng sau làm bãi cát. Doi kia có thuở lúc hòn<br /> mùa nắng nóng sẽ đến tiết sƣơng thai” (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử<br /> đậm) (Viện Văn học - Hội đồng Lịch Hải Phòng, 2014: 53). Còn trong xã<br /> sử Hải Phòng, 2014: 1197). hội là sự thay thế tuần tự nhau giữa<br /> Thừa nhận trời đất, vạn vật biến đổi, thời trị và thời loạn, “nhất trị nhất loạn”,<br /> chuyển hóa không ngừng, không gì là có loạn ắt phải có trị, và cứ thế chúng<br /> mãi mãi theo sự kết hợp của âm luân phiên thay thế nhau, nối tiếp<br /> dương, nhƣng sự biến đổi, vận động nhau: “Thế nhất trị nhất loạn, thời<br /> trong quan niệm của Nguyễn Bỉnh hữu thân hữu khuất. Ỷ phục chung vô<br /> Khiêm là sự biến đổi tuần hoàn, sự cùng, mãn tổn kiến hƣ thực” (Viện<br /> phát triển mang tính chất khép kín, Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng,<br /> xoay vần. Mọi chuyện trong trời đất, 2014: 40). Hay “Đạo bất chung cùng,<br /> nhân tình thế thái đều cùng chung khốn tất hanh - Khốn đốn hết rồi phải<br /> nhau ở chỗ đến rồi đi, đi rồi lại, ông hanh thông, đạo chẳng bao giờ cùng<br /> viết: “Thế sự tuần hoàn hay đắp đổi, quẫn mãi” (Viện Văn học - Hội đồng<br /> từng xem thua đƣợc một hai phen” Lịch sử Hải Phòng, 2014: 367). Hết<br /> (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải “bĩ cực” ắt sẽ “thái lai”. Với quan niệm<br /> Phòng, 2014: 1503). Đây chính là về thế giới quan nhất nguyên mà<br /> hạn chế trong quan niệm về sự biến trong đó khí là bản nguyên của vũ trụ<br /> dịch, biến hóa của vạn vật của không ngừng vận động, Nguyễn Bỉnh<br /> Nguyễn Bỉnh Khiêm vì suy cho cùng Khiêm đã đóng góp tích cực cho<br /> 4 HỲNH NGỌC BÍCH – PHƢƠNG THỨC ỨNG XỬ VỚI THỜI CUỘC…<br /> <br /> <br /> dòng chảy lịch sử tƣ tƣởng của Việt cùng, mà nhân nghĩa ở đời, các<br /> Nam. chuẩn mực đạo đức mới là những cái<br /> Từ những quan niệm về sự hình đáng đeo đuổi.<br /> thành, vận động và biến đổi của vũ trụ Trong triết lý về đạo làm ngƣời của<br /> và vạn vật, Nguyễn Bỉnh Khiêm chiêm Nguyễn Bỉnh Khiêm, điểm có ý nghĩa<br /> nghiệm đến những vấn đề thuộc về và có giá trị lịch sử lớn lao đó là tấm<br /> bản chất con ngƣời và xã hội loài lòng thƣơng yêu con ngƣời, yêu<br /> ngƣời, ông đặc biệt chú ý đến đạo làm thƣơng dân chúng. Sống gần trọn thế<br /> ngƣời và triết lý sống ở đời. kỷ XVI, là ngƣời có kiến thức sâu rộng<br /> Sinh ra trong thời kỳ loạn lạc, các thế và đƣợc vua Mạc trọng vọng, nhƣng<br /> lực phong kiến tranh giành quyền lực, hầu nhƣ trong suốt quãng đời của<br /> Nam - Bắc phân tranh, nhân dân điêu mình, Nguyễn Bỉnh Khiêm không sống<br /> đứng, cƣơng thƣờng đảo lộn. Chứng trong giàu sang danh vọng mà chấp<br /> kiến cảnh nhiễu nhƣơng ấy cùng với nhận cuộc sống thanh bạch của một<br /> thực trạng “nhân nghĩa tựa vàng nhà nho ẩn dật. Hòa trong cuộc sống<br /> mƣời”, “thớt có tanh tao ruồi mới đậu”, của dân chúng, Nguyễn Bỉnh Khiêm<br /> Nguyễn Bỉnh Khiêm nhận ra con nhìn thấy đƣợc nỗi thống khổ của<br /> ngƣời đã dần xa bản tính lƣơng thiện nhân dân, hiểu đƣợc tâm tƣ, nguyên<br /> vốn có, những chuẩn mực đạo đức, vọng của họ. Nguyễn Bỉnh Khiêm<br /> đạo lý con ngƣời dần phai nhạt. Do đó, không bỏ sót bất kỳ đối tƣợng nào, từ<br /> trong tƣ tƣởng triết học của mình, ngƣời tàn tật cho đến ngƣời bình<br /> Nguyễn Bỉnh Khiêm rất chú ý đến việc thƣờng, từ ngƣời “vợ góa, con côi”<br /> đề cao đạo làm ngƣời, ông nêu ra cụ đến ngƣời nông phu, điền phụ… tất<br /> thể, chi tiết một loạt những chuẩn mực cả những ngƣời mà thân phận nhỏ bé,<br /> đạo đức đối với từng mối quan hệ xã mong manh, bị áp bức bóc lột là đối<br /> hội nhƣ: hiếu - trung, thuận - hòa… tƣợng mà ông hết lòng quan tâm và<br /> nhƣng đầu mối của tất cả các chuẩn mong muốn cho họ có cuộc sống an<br /> mực đều tập trung ở chữ trung. Về bình, no ấm.<br /> những tƣ tƣởng giáo huấn khuyên răn, Nghiên cứu triết lý nhân sinh Nguyễn<br /> ông không những nói về “tam cƣơng”, Bỉnh Khiêm cho thấy những luận giải<br /> “ngũ thƣờng” mà còn khuyên con của ông hƣớng vào việc khuyên răn,<br /> ngƣời sống nhân ái, lƣơng thiện trong giáo huấn con ngƣời về mặt đạo đức,<br /> gia đình, trong cộng đồng làng xóm. về lẽ sống và cách xử thế ở đời. Điều<br /> Nguyễn Bỉnh Khiêm viết: “xƣa nay này đã làm nên nét độc đáo trong<br /> trọng ngƣời chân thật, nào ai ƣa kẻ phƣơng cách ứng xử với thời cuộc<br /> đãi bôi” (Viện Văn học - Hội đồng Lịch của ông, giúp chúng ta dễ dàng nhận<br /> sử Hải Phòng, 2014: 113) và khuyên ra ông trong rất nhiều nhà tƣ tƣởng<br /> làm ngƣời không nên quá xem trọng của dân tộc. Đó là cách ứng xử ung<br /> tiền bạc, của cải là mục đích cuối dung, tự tại, vô sự không màng danh<br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 8 (252) 2019 5<br /> <br /> <br /> lợi nhƣng lại mang nặng nỗi ƣu tƣ về Bỉnh Khiêm đã vội quay về. Sự quay<br /> tình đời, nợ nƣớc. về của ông không phải là sự trở lui vì<br /> 2. PHƢƠNG THỨC ỨNG XỬ VỚI nhụt chí, không phải là sự quay lƣng<br /> THỜI CUỘC CỦA NGUYỄN BỈNH với đời mà là lui về để bảo toàn khí<br /> KHIÊM tiết, giữ gìn phẩm giá, cho nên<br /> 2.1. Thái độ sống tự tại Nguyễn Bỉnh Khiêm rất hài lòng với<br /> Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh ra trong gia phƣơng châm sống tự tại của mình.<br /> đình nhà nho, đƣợc giáo dục luân lý Với ông tự tại là: “Đèo núi vỗ tay cƣời<br /> nho gia, nên lý tƣởng trọn đời của ông khúc khích. Rặng thông vắt cẳng hát<br /> hƣớng về mô hình quân chủ Nho giáo nghêu ngao” hay “Cửa trúc vỗ tay<br /> với “vua sáng tôi hiền”, xã hội Đƣờng, cƣời khúc khích, hiên mai vắt cẳng<br /> Nghiêu. Tuy nhiên, thời kỳ lịch sử ông hát nghêu ngao” (Viện Văn học - Hội<br /> sinh sống, Nho giáo gần nhƣ bất lực đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014: 125).<br /> trƣớc thực trạng luân thƣờng đạo lý Nguyễn Bỉnh Khiêm thích thú với cuộc<br /> ngả nghiêng, đạo đức suy đồi. Thực sống thảnh thơi sau một thời gian “đã<br /> tiễn đó khiến ông một mặt tâm niệm: no mùi thế tình” và chán cảnh thị<br /> “đạo thánh hiền xƣa, luống chóc thành đua tranh giành giật. Ông rong<br /> mòng”, mặt khác lại thấy xã hội “của rủi với cỏ cây, hoa lá chim muông,<br /> nặng hơn tiền”, lòng ngƣời đảo điên, sống chan hòa cùng cảnh đẹp của<br /> nên ông lựa chọn lui về sống nhàn dật thiên nhiên. Sống cuộc sống: “Một mai<br /> mà phƣơng thức ứng xử đầu tiên ông một cuốc một cần câu… Khát uống<br /> lựa chọn là sống tự tại. chè mai hơi ngọt ngọt. Sốt kề hiên<br /> Tự tại là quan niệm sống tự do, không nguyệt gió hiu hiu. Giang sơn tám bức<br /> chịu sự ràng buộc, níu kéo, không bận là tranh vẽ. Phong cảnh tƣ mùa ấy<br /> tâm suy nghĩ, tính toán thiệt hơn, sống gấm thêu” (Viện Văn học - Hội đồng<br /> tự nhiên thuần phác, tùy theo ý thích Lịch sử Hải Phòng, 2014: 1474). Việc<br /> của mình. Nguyễn Bỉnh Khiêm bày tỏ: Nguyễn Bỉnh Khiêm dựng quán Trung<br /> “Am quán ngày nhàn rồi mọi việc. Dầu Tân với mục đích trƣớc hết là làm nơi<br /> ta tự tại mặc dầu ta” (Viện Văn học - nghỉ ngơi cho ngƣời qua đƣờng và để<br /> Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014: 64) vui với thiên nhiên, cây cỏ, đã phần<br /> “Song hiên ngõ cửa ngồi xem sách, tự nào thể hiện lối sống ung dung tự tại,<br /> tại ngày qua mấy kẻ bằng” (Viện Văn không bon chen danh lợi của ông.<br /> học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, Tự tại của Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng<br /> 2014: 110) hay “Yên đòi phận dầu tự chính là một hình thức biểu hiện của<br /> tại, lành dữ khen chê cũng mặc ai” một triết lý sống, một phong thái sống<br /> (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải tự do cởi mở, chan hòa, lối sống của<br /> Phòng, 2014: 164). sự thanh thản trong thời buổi nhiễu<br /> Hơn bốn mƣơi tuổi mới đi thi, làm nhƣơng. Đó là lối sống “tiên” nơi trần<br /> quan chƣa đƣợc bao lâu, Nguyễn thế. Ông tự hào nói: “Cao khiết thùy vi<br /> 6 HỲNH NGỌC BÍCH – PHƢƠNG THỨC ỨNG XỬ VỚI THỜI CUỘC…<br /> <br /> <br /> thiên hạ sĩ, an nhàn ngã thị địa trung bằng”; “Già đã khỏi áng công danh.<br /> tiên” (Trong sạch thanh cao ai là kẻ sĩ Tự tại nào âu lụy đến mình” hay “Đến<br /> trong thiên hạ, an nhàn ta đây chính là chốn nào vui chốn ấy. Dầu ta tự tại, có<br /> tiên nơi trần thế) (Viện Văn học - Hội ai hay” (Viện Văn học - Hội đồng Lịch<br /> đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014: 199), sử Hải Phòng, 2014: 362). Tìm hiểu<br /> hay “Rỗi nhàn thì ấy tiên vô sự”, cuộc đời của Nguyễn Bỉnh Khiêm, có<br /> “Thanh nhàn ấy ắt là tiên khách. Đƣợc thể cảm nhận cách ứng xử của ông<br /> thú ta đà có thú ta” (Viện Văn học - với các triều đại và với cuộc đời hoàn<br /> Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014: toàn tự chủ. Hầu nhƣ khó có thế lực<br /> 301). Nguyễn Bỉnh Khiêm nhiều lần nào có thể trói buộc hay gây sức ép<br /> nói đến từ “tiên” trong tƣ tƣởng của đƣợc với ông. Ra làm quan triều Mạc<br /> mình, khi thì ông cho mình là ông tiên cũng là sự lựa chọn của riêng ông, lui<br /> nơi trần thế, là khách tiên, khi tự nhận quan về ở ẩn cũng là quyết định từ<br /> cách sống của mình chẳng khác gì ông. Các thế lực phong kiến có một<br /> cách sống của tiên, “vô sự thì tiên lọ thái độ trọng vọng nhất định với con<br /> phải tìm… già vô sự ấy là tiên” hay ngƣời khí tiết này hoặc là kính trọng<br /> “Ngày ngày tiêu sái nhân vô sự. Tuy hoặc là không thể gây sức ép, nên<br /> chửa là tiên ắt ấy tiên” (Viện Văn học - Nguyễn Bỉnh Khiêm mới có thể chủ<br /> Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014: động quyết định sự lựa chọn của mình.<br /> 68). “Tiên” trong quan niệm của Ông chọn cách sống: “Thu ăn măng<br /> Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là một trúc, đông ăn giá, Xuân tắm hồ sen,<br /> khái niệm siêu hình. Sống “tiên” không hạ tắm ao. Rƣợu uống cội cây, ta sẽ<br /> phải là sống nhƣ trong cõi cực lạc vô uống. Nhìn xem phú quý tựa chiêm<br /> hình, huyền bí nào đó mà chính là bao” (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử<br /> cảm nhận đƣợc cái “vô sự”, “lâng Hải Phòng, 2014: 573).<br /> lâng”. Ngƣời “tiên” nhƣng có cuộc Tự tại ở Nguyễn Bỉnh Khiêm còn là<br /> sống hết sức trần tục, thƣởng thức cách sống thuận theo tự nhiên, hòa<br /> cuộc sống thanh thản, chan hòa với tự hợp với tự nhiên. Nguyễn Bỉnh Khiêm<br /> nhiên. Ông cảm nhận cuộc sống gần tiếp thu tinh thần này trong tƣ tƣởng<br /> thiên nhiên, gần suối, gần mây trắng Lão - Trang và trong cả nét văn hóa<br /> là cuộc sống không phải mua bằng truyền thống của ngƣời Việt Nam.<br /> tiền nhƣng vẫn cứ tƣơi đẹp, cuộc Đạo giáo quan niệm phải để con<br /> sống ấy chính là cõi tiên. ngƣời về với tự nhiên. Nguyễn Bỉnh<br /> Tự tại ở Nguyễn Bỉnh Khiêm ngoài ý Khiêm cũng sống một cuộc đời nhƣ<br /> nghĩa là sống ung dung, thanh thản, vậy. Ông hòa mình với thiên nhiên,<br /> nó còn thể hiện hàm ý về sự tự làm thƣ thái trƣớc trăng, tuyết, gió, mây,<br /> chủ đƣợc bản thân, hoàn toàn chủ hoa, trúc. Nguyễn Bỉnh Khiêm miêu tả:<br /> động đối với cuộc sống, không bị ép “Hàng giang một dãi tuyết pha vàng.<br /> buộc bởi ai: “Tự tại ngày qua mấy kẻ Trƣớc cửa mƣời hai ngọn núi chồng”<br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 8 (252) 2019 7<br /> <br /> <br /> hay “Yêu hoa dầu dãi vẻ thu dung. bạch không màng lợi danh, chức vị,<br /> Tựa lầu trông núi hay cho núi. Lấp an nhiên, thanh thản giữa đất trời,<br /> loáng màu xanh mấy vạn trùng” (Ngụ sống hòa hợp, thuận theo tự nhiên.<br /> hứng). Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng Do vậy, Nguyễn Bỉnh Khiêm tìm tới<br /> xem thiên nhiên nhƣ là ngƣời bạn tri thiên nhiên nhƣ tìm về với tri kỷ, tìm<br /> âm, xem hoa là khách để chuyện trò về với tính chân phƣơng của con ngƣời,<br /> “Ngày chầy họp mặt hoa là khách. nuôi dƣỡng thiên chân. Nguyễn Bỉnh<br /> Đêm vắng hay lòng nguyệt ấy đèn” Khiêm sống giữa thôn quê, với mái<br /> (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải nhà tranh, đơn sơ, yên ả, “Vài gian<br /> Phòng, 2014: 239). Không phải ngẫu nhà cỏ ở bên sông, nhàn tản thân ta<br /> nhiên mà Nguyễn Bỉnh Khiêm chọn đƣợc thỏa lòng” (Viện Văn học - Hội<br /> cảnh vật thiên nhiên để bày tỏ chí ẩn đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014: 342).<br /> dật, tự tại của mình, mà vì “theo quan Có thể nói, tự tại ở Nguyễn Bỉnh<br /> niệm của Nho giáo, cái mẫu mực Khiêm mang ý nghĩa cá nhân hơn thời<br /> thuộc về quá khứ, còn cái trong sạch đại, nghĩa là mỗi ngƣời tự lựa chọn<br /> chủ yếu lại ở thiên nhiên. Các nhà cho mình một phƣơng cách sống, tự<br /> nho theo quan niệm xuất xử của Nho mình đƣợc phép thỏa mãn nhu cầu<br /> giáo – gặp thời thịnh thì ra làm việc, của cá nhân. Triết lý tự tại là triết lý tự<br /> phò vua giúp nƣớc, gặp thời loạn thì do cho cá nhân, đó không chỉ là sự<br /> lui về ở ẩn, lấy thiên nhiên để di thong dong của một con ngƣời trong<br /> dƣỡng tính tình. Họ tìm thấy trong cuộc sống mà còn là sự tự do của cá<br /> thiên nhiên những phẩm chất đạo đức nhân thoát khỏi sự ràng buộc bởi<br /> cao quý của con ngƣời theo quan những lễ nghi, trật tự phong kiến Nho<br /> niệm Nho giáo. Cây tùng là hình ảnh giáo với quan niệm về nghĩa, về phận,<br /> ngƣời đại trƣợng phu, cây trúc là hình quy định chặt chẽ những mối quan hệ<br /> ảnh ngƣời sĩ quân tử, cúc mai là biểu của con ngƣời. Trong xã hội phong<br /> hiện của sự trắng trong, tinh khiết, kiến nhƣ vậy, con ngƣời không đƣợc<br /> ngƣ, tiều, canh mục là những nghề coi mình là một cá nhân độc lập,<br /> nghiệp trong sạch, tuyết, nguyệt, không đƣợc nghĩ đến lạc thú cho<br /> phong, hoa là các thú thanh tao... họ riêng mình. Do đó quan niệm tự tại<br /> làm thơ vịnh về thiên nhiên là vậy” của Nguyễn Bỉnh Khiêm ở khía cạnh<br /> (Nguyễn Hữu Sơn, 2003: 53). này mang ý nghĩa tích cực, muốn tự<br /> Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chọn thiên chủ cuộc đời mình, sống tự tại với tƣ<br /> nhiên để gởi gắm cách nhìn, cách cách một cá nhân độc lập, không bị<br /> sống của ông. Thiên nhiên tạo cho ràng buộc bởi những quy định nghĩa<br /> con ngƣời cảm giác dễ chịu, êm đềm, phận của nho gia cũng nhƣ trật tự của<br /> thanh thản. Thậm chí, sống chan hòa xã hội phong kiến. Ông toại nguyện<br /> với thiên nhiên có thể làm con ngƣời khi: “Ngoài năm mƣơi tuổi đã tự tại, ắt<br /> dịu lại cảm giác đua tranh, sống thanh đã trọn mừng nƣớc một bầu” (Viện<br /> 8 HỲNH NGỌC BÍCH – PHƢƠNG THỨC ỨNG XỬ VỚI THỜI CUỘC…<br /> <br /> <br /> Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, trung, phải biết đủ. Nguyễn Bỉnh<br /> 2014: 514). Vì vậy, “ông không có bi Khiêm cho rằng việc hám danh lợi,<br /> kịch gì về bản thân mình, về thân thế, tranh giành quyền thế, tham lam chỉ<br /> vật chất, cũng nhƣ về tinh thần, ông đem lại tai họa cho bản thân. Ông nói:<br /> luôn luôn khẳng định cách sống của “Đoái nhìn ta ở vào thế nguy nan, mà<br /> mình trong thơ, dù ở bất kỳ hoàn cảnh sợ lòng tự mãn trong cảnh giàu sang”<br /> nào một cách vừa nhũn nhặn vừa tự (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải<br /> hào” (Đinh Gia Khánh, 1997: 58). Phòng, 2014: 232). Ông cho rằng<br /> ngƣời ta ở địa vị càng cao lại càng<br /> 2.2. Không màng danh lợi, vô sự<br /> phải thận trọng đừng để cho quá đầy:<br /> trƣớc sự biến chuyển vần xoay của<br /> “Đầy quá, xƣa nay tránh mới thành”,<br /> thời cuộc<br /> “Giữ khí, gìn tinh, lại dƣỡng thần; Ít lo,<br /> Tinh thông Dịch lý, Nguyễn Bỉnh<br /> ít muốn, ít lao thân” (Viện Văn học -<br /> Khiêm nắm rõ quy luật “vật cực tắc<br /> Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014:<br /> phản”: đầy ắt phải vơi, nhọn quá phải<br /> 865).<br /> cùn, cho nên trƣớc thực tế loạn lạc,<br /> Bên cạnh thái độ “yên đòi phận”, vô<br /> con ngƣời tranh giành, đua chen,<br /> sự ở Nguyễn Bỉnh Khiêm là thái độ<br /> chạy theo phù phiếm lợi danh,<br /> sống phóng khoáng, bình thản, không<br /> Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ động chọn<br /> phải bận tâm lo lắng việc gì. Cái vô sự<br /> cho mình lối sống yên phận, vô sự.<br /> của Nguyễn Bỉnh Khiêm là cái vô âu,<br /> Vô sự của Nguyễn Bỉnh Khiêm thể<br /> vô lo, hoàn toàn thảnh thơi để đắm<br /> hiện trƣớc hết ở quan niệm sống yên<br /> mình vào thiên nhiên. Ông xem vô sự,<br /> phận, biết đủ. Thái độ yên phận đƣợc<br /> yên phận là cách tốt nhất để giữ gìn<br /> Nguyễn Bỉnh Khiêm nêu lên nhiều lần<br /> nhân cách thanh cao, “vô sự là hơn<br /> trong thơ: “Cày ăn, đào uống, yên đòi nọ ngọc vàng”, “vô sự tiểu thần tiên”,<br /> phận” hay “Sang khó miễn yên đòi “vô sự thì hơn kẻo phải lo”, “vô sự<br /> phận”, hay “Thanh nhàn ta miễn yên ngáy pho pho”, “Vô sự chẳng hơn có<br /> đòi phận” (Viện Văn học - Hội đồng sự ru. Dẫu nhẫn chê khen dầu miệng<br /> Lịch sử Hải Phòng, 2014: 231). Do thế; Cơ mầu tạo hóa mặc tự nhiên”<br /> ảnh hƣởng bởi thế giới quan thiên (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải<br /> mệnh của Nho giáo, nên Nguyễn Bỉnh Phòng, 2014: 287). Cách sống vô sự<br /> Khiêm chủ trƣơng sống yên phận theo của Nguyễn Bỉnh Khiêm là: “Thấy<br /> mệnh trời, có bao nhiêu hƣởng bấy nguyệt tròn thì kể tháng. Nhìn hoa nở<br /> nhiêu. Ông nói: “Yên phận mà thôi mới hay xuân. Cày ăn, đào uống yên<br /> chớ có cầu. Gặp sao hay vậy, có làm đòi phận. Sự thế chẳng hay đã Hán<br /> sao?” (Viện Văn học - Hội đồng Lịch Tần” (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử<br /> sử Hải Phòng, 2014: 1474). Hải Phòng, 2014: 194). Ông nhìn mọi<br /> Theo Nguyễn Bỉnh Khiêm, muốn đƣợc sự, mọi đổi thay một cách bình thản,<br /> nhàn, đƣợc “yên phận” thì không “gác bên ngoài”, “dầu đƣợc dầu thua<br /> đƣợc để quá đầy, phải giữ ở mức ai mặc ai”. Ở đây chúng ta thấy quan<br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 8 (252) 2019 9<br /> <br /> <br /> niệm vô sự của Nguyễn Bỉnh Khiêm phi”, không đâu là khởi điểm, cứ tiếp<br /> có nét gần với quan niệm “vô vi” của nối tuần hoàn nhƣ trên một vòng tròn.<br /> Lão Tử. Theo Lão Tử, “vô vi” nghĩa là Do việc phải trái, đúng sai chỉ là tƣơng<br /> sống và hành động theo lẽ tự nhiên, đối nên ngƣời đạt đạo là ngƣời đã<br /> sống thuần phác, không làm những gì vƣợt lên trên thị phi, chứ không phải<br /> trái với bản tính tự nhiên của con là không phân biệt đƣợc thị phi, phải<br /> ngƣời, không can thiệp vào guồng trái.<br /> máy của tự nhiên. Vô vi còn là giữ gìn<br /> Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, bậc trí thức<br /> bản tính tự nhiên của mình và của vạn<br /> phải biết đứng ngoài cái vòng lẩn<br /> vật. Chính vì vậy, Lão Tử phản đối quẩn ấy để khỏi phải bận tâm, nhọc<br /> mọi chủ trƣơng “hữu vi”. Ông cho xác: “Thanh nhàn hƣởng đƣợc là mừng,<br /> rằng “hữu vi” sẽ gây xáo trộn trật tự tự thị phi gác bỏ xin đừng nhọc thân”.<br /> nhiên và sẽ làm mất đi bản tính tự Nguyễn Bỉnh Khiêm còn chỉ rõ mọi<br /> nhiên của con ngƣời. Còn với Nguyễn việc ở thế gian chỉ là tạm thời, cho<br /> Bỉnh Khiêm, vô sự mang một nội dung nên chỉ có những kẻ ngây ngô mới cố<br /> khác. Vô sự nhƣng không quay lƣng chấp bàn chuyện thị phi: “Ở đời mọi<br /> với thời cuộc, không xa lánh sự thế việc không mà sắc, phải trái còn bàn<br /> mà vẫn quan sát sự thế vần xoay với rõ chán chƣa” (Viện Văn học - Hội<br /> tƣ cách của ngƣời đứng bên ngoài đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014: 237).<br /> nhìn thế sự một cách thản nhiên, Không chỉ có vậy, vô sự trong quan<br /> không can thiệp vào trật tự của nó. niệm của Nguyễn Bỉnh Khiêm còn là<br /> “Thanh vắng thú quê dầu mấy nả; Dữ thái độ thản nhiên trƣớc những sự<br /> lành miệng thế mặc khen chê” (Viện sống chết, đƣợc mất, cùng thông. Là<br /> Văn học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, một triết nhân với triết lý nhân sinh<br /> 2014: 535); “Cảnh cũ điền viên tìm nhàn nhã, ông thấy đƣợc quy luật<br /> chốn cũ; Khách nhàn sơn thủy dƣỡng biến chuyển xoay vần của cuộc đời để<br /> thân nhàn” (Viện Văn học - Hội đồng không bám víu vào cái không thể bám<br /> Lịch sử Hải Phòng, 2014: 342). “Cƣời víu, không thể lấy cái tƣơng đối làm<br /> họ tranh nhau danh lợi một cách gay cái tuyệt đối và cũng để điềm tĩnh thản<br /> gắt, Ta lại tìm một chỗ ở thanh vắng nhiên vƣợt lên trên mọi giới hạn danh<br /> để trọn đời mình” (Viện Văn học - Hội lợi, sân si của cuộc sống nhân gian.<br /> đồng Lịch sử Hải Phòng, 2014: 542). Cũng vì vậy, đối với mọi sự hơn thua<br /> Do đó, vô sự trong quan niệm của ở đời, ông cũng dửng dƣng coi<br /> Nguyễn Bỉnh Khiêm còn là sự thản thƣờng. “Chán việc hơn thua đầy<br /> nhiên trƣớc thị phi, phải trái. Là ngƣời trƣớc mắt. Làm tiên nhàn nhã ở trên<br /> từng trải, am hiểu lẽ đời, Nguyễn Bỉnh đời” (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử<br /> Khiêm nhận thấy việc đời và lòng Hải Phòng, 2014: 125).<br /> ngƣời đổi thay nhanh chóng, phải rồi Có thể nói, quan niệm vô sự của<br /> lại trái, trái rồi phải, “nhân tình lại thị Nguyễn Bỉnh Khiêm chính là một<br /> 10 HỲNH NGỌC BÍCH – PHƢƠNG THỨC ỨNG XỬ VỚI THỜI CUỘC…<br /> <br /> <br /> phƣơng thức biểu hiện của sự nhàn thanh thản, trống trải. Khi ấy con<br /> nhã về mặt tinh thần - đó chính là biểu ngƣời mới khách quan và sáng suốt,<br /> hiện của nhàn trong tâm - tâm nhàn. mới hiểu đƣợc lý của tự nhiên, của<br /> Tâm nhàn là tâm trống không, hoàn trời đất, thấu đạt lẽ đời, tránh đƣợc<br /> toàn thảnh thơi không bị ràng buộc sai lầm, mê muội. Hình ảnh chiếc<br /> hay bị chi phối bởi sự thế xung quanh. thuyền không mà Nguyễn Bỉnh Khiêm<br /> Theo Nguyễn Bỉnh Khiêm, tâm trống đề cập đến không chỉ đơn thuần mang<br /> không thì mới thảnh thơi, vô sự, nghĩa là nói đến cuộc sống nhàn tản<br /> không còn tham dục, không vƣớng phóng khoáng mà còn hàm ý một triết<br /> công danh, không chấp thị phi, không lý sâu xa. Đó là sự thoát khỏi vòng<br /> định kiến. “Tâm trống rỗng” đƣợc cƣơng tỏa của danh lợi, đem cái tâm<br /> Nguyễn Bỉnh Khiêm đánh giá rất cao, thuần khiết mà đối xử với mọi ngƣời,<br /> ông thƣờng nói: “Thói tục, tiết ngay, mọi vật thì tâm đó sẽ càng bình thản:<br /> đâu dễ đổi, Trời già, tâm rỗng, tự “Xét thấy trong cảnh nhàn không có gì<br /> nhiên hay” (Hội đồng Lịch sử Hải là bận rộn, mặt trời đã lên cao mà vẫn<br /> Phòng, 2014: 159). Lòng có vô sự thì ngon giấc bên song cửa phía đông”,<br /> tâm mới “lâng lâng”, “tự tại”, giống “suy ngẫm đời nhàn vui rảnh việc, gần<br /> nhƣ mặt nƣớc lặng mới phản ánh rõ trƣa ngon giấc ở bên song”, “nhàn<br /> mặt trăng. Nắm đƣợc quy luật ấy nên đến đóng cửa sài cả ngày” (Viện Văn<br /> Nguyễn Bỉnh Khiêm bao giờ cũng “vui học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng,<br /> nƣớc biếc với non này. Cây cỏ tiêu 2014: 1170).<br /> dao cảnh tháng ngày”… “cơ quan liễu<br /> Với chủ trƣơng vô sự, Nguyễn Bỉnh<br /> khƣớc đều vô sự, tân quán sài môn<br /> Khiêm đã đứng bên ngoài các cuộc<br /> tận nhật khai” (trong lòng không có cơ<br /> phân tranh, vƣợt lên trên sự tranh<br /> mƣu thì tự nhiên vô sự, cửa sài ở<br /> chấp xâu xé của các tập đoàn phong<br /> quán tân cứ mở suốt ngày), “hƣ thất<br /> kiến thống trị. “Cứu đắm, phò nguy,<br /> hồn vô bán điểm ai, sài môn tận nhật<br /> thẹn bất tài,…. Trên đời mọi việc đều<br /> bạng giang khai” (nhà trống không<br /> quên hết, tân quán cửa sài mở suốt<br /> chẳng nhuốm chút bụi trần, cửa sài<br /> thôi” (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử<br /> bên sông mở suốt ngày). “Thản nhiên<br /> Hải Phòng, 2014: 1392).<br /> vô sự lòng không muốn, nhà không<br /> chẳng bợn chút trần ai” (Viện Văn Chủ trƣơng vô sự, Nguyễn Bỉnh<br /> học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, Khiêm đã chứng tỏ ông là ngƣời nắm<br /> 2014: 659). Theo phép tắc của lý học vững thời thế, hành động theo thời thế.<br /> Tống Nho, nếu giữ đƣợc cho lòng Nhiều lần ông đã đề cập đến việc ứng<br /> mình trống không thì sẽ có thể hiểu xử tùy thuộc thời thế, và đây có thể<br /> “cùng lý cùng tính”. Tiếp cận tƣ tƣởng xem nhƣ là một điểm tựa, một cơ sở<br /> này, Nguyễn Bỉnh Khiêm nói: “Một cho tƣ tƣởng nhàn của ông: “đêm<br /> chiếc thuyền không lánh việc đời”. Rõ trăng Giám Hồ tình thơ cao xa, Gió<br /> ràng, ông chủ trƣơng vô sự là để lòng thu Bành Trạch hứng rƣợu càng<br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 8 (252) 2019 11<br /> <br /> <br /> nhiều” (Viện Văn học - Hội đồng Lịch “Có thuở đƣợc thời mèo đuổi chuột.<br /> sử Hải Phòng, 2014: 1245). Bành Đến khi thất thế kiến tha bò”, “Gặp<br /> Trạch tức Đào Uyên Minh (Đào Tiềm), thời dại cũng hóa nên khôn” và “Tri cơ<br /> từng làm quan lệnh Bành Trạch, do ứng biến thì đƣợc vẹn toàn” (Viện Văn<br /> chán cảnh quan lại luồn cúi, nên cáo học - Hội đồng Lịch sử Hải Phòng,<br /> quan về ở ẩn, đƣợc ngƣời đƣơng thời 2014: 298). Ở Nguyễn Bỉnh Khiêm, ta<br /> gọi là Tĩnh Tiết tiên sinh để khen sự thấy hình ảnh của một kẻ sĩ đối với<br /> liêm khiết của ông. Lối sống ẩn dật thời cuộc biết “tri cơ” và “kiến cơ”.<br /> của ông ảnh hƣởng đến nhiều nho sĩ Khổng Tử trƣớc đây đã dùng hình ảnh<br /> Việt Nam, trong đó có Nguyễn Bỉnh con chim biết lúc nào nên đậu, lúc nào<br /> Khiêm. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã noi nên bay để tƣợng trƣng cho phƣơng<br /> theo Đào Tiềm, vui với thiên nhiên, xa châm xử thế tùy thời của nhà nho. Xét<br /> lánh chốn quan trƣờng, ông thƣờng thời thế để hành hay tàng, xuất hay<br /> gợi nhớ về những tấm gƣơng ẩn dật xử là con đƣờng không xa lạ đối với<br /> của các bậc tiền bối, nhƣ là một cách những ngƣời theo Nho giáo.<br /> để tự răn mình. 2.3. Nỗi niềm đau đáu về tình đời,<br /> Tƣ tƣởng vô sự của Nguyễn Bỉnh vận nƣớc và khát vọng cứu vãn xã<br /> Khiêm mang màu sắc Lão - Trang hội đƣơng thời<br /> nhƣng vẫn đậm nét Nho giáo. Vô sự ở Sống trong cảnh loạn ly, cảm thấy bản<br /> Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là trốn thân khó gánh đƣợc trọng trách “phù<br /> tránh trách nhiệm, phủi bỏ nhiệm vụ nghiêng đỡ lệch”, Nguyễn Bỉnh Khiêm<br /> của cá nhân với cộng đồng xã hội, đã chọn cách sống tự tại, vô sự, ẩn<br /> không phải là thoát ly xã hội, mà nó là dật vui thú hƣởng nhàn, nhƣng sâu<br /> một triết lý sống, một phƣơng thức thẳm trong tận lòng ông luôn đau đáu<br /> ứng xử không ham danh lợi, địa vị, vật một nỗi lo về vận nƣớc, tình dân. Việc<br /> chất tiền tài, coi thƣờng bon chen, bất lúc ra làm quan, lúc về ở ẩn gián đoạn<br /> mãn với thói đời đen bạc. Vô sự là của ông đã chứng minh điều này. Và<br /> sống lạc thiên, tri mệnh, vui thú, chính đó cũng là nét độc đáo trong<br /> khoáng đạt nhƣng vẫn “ƣu thời mẫn phƣơng thức ứng xử trƣớc thời cuộc<br /> thế”. Đây là nét đặc sắc trong phƣơng của ông - phƣơng thức ứng xử không<br /> thức ứng xử giữa thời loạn ly của đua tranh danh lợi nhƣng tình dân,<br /> Nguyễn Bỉnh Khiêm. vận nƣớc vẫn đeo mang. Điều này thể<br /> Ảnh hƣởng sâu sắc những triết lý của hiện ở khát vọng về xã hội hòa bình,<br /> Nho gia cũng nhƣ phƣơng châm xử thịnh trị và mong muốn “an dân” của<br /> thế trƣớc thời cuộc của các bậc tiên Nguyễn Bỉnh Khiêm.<br /> nho, Nguyễn Bỉnh Khiêm có những Là nhà thơ chỉ để ở việc hành đạo,<br /> quan niệm đặc sắc về thời cuộc. Theo giúp đời, lập chí “phù nguy chửng<br /> ông muốn hành động cho hợp lý phải nịch”, mong đem tài năng ra nâng đỡ<br /> xem xét thời thế, phải tùy thời, bởi vì: sơn hà, song, ƣớc nguyện bất thành,<br /> 12 HỲNH NGỌC BÍCH – PHƢƠNG THỨC ỨNG XỬ VỚI THỜI CUỘC…<br /> <br /> <br /> Nguyễn Bỉnh Khiêm vui sống với thiên hội với những giá trị, chuẩn mực đạo<br /> nhiên, ruộng vƣờn, nén giấu nỗi niềm đức đƣợc giữ gìn, bảo tồn, con ngƣời<br /> ƣu quốc ái dân của mình vào trong, đối xử với nhau chân thành hòa nhã;<br /> ông không lúc nào không đau đáu về sung túc về kinh tế, ngƣời dân đều<br /> một xã hội thịnh trị, thái hòa, dân đƣợc lao động, có cuộc sống no cơm<br /> chúng an lạc, yên vui. ấm áo. Mọi ngƣời dân biết phân biệt<br /> Lịch sử Việt Nam từ cuối thế kỷ XV điều xấu điều tốt, biết phân biệt việc<br /> đến thế kỷ XVI là sự nối tiếp khốc liệt phải việc trái, có cuộc sống lƣơng<br /> của sự tranh giành, phân tranh dữ dội thiện, giữ gìn những giá trị đạo đức<br /> giữa các tập đoàn phong kiến. Chiến cao đẹp, không bị lợi ích làm mù<br /> tranh nối tiếp chiến tranh, 50 năm quáng, không bị kim tiền che mắt, trút<br /> chiến tranh Nam - Bắc triều (1546 - bỏ mọi tham lam tính toán cho riêng<br /> 1592), 50 năm chiến tranh Trịnh - mình. Xã hội mà Nguyễn Bỉnh Khiêm<br /> Nguyễn (1627 - 1672), xã hội Việt Nam hƣớng đến là xã hội ổn định về mọi<br /> oằn mình trong nỗi đau nồi da xáo thịt. mặt từ kinh tế, chính trị, văn hóa mà<br /> Đời sống nhân dân khốn khổ, điêu linh. đặc biệt nhất là xã hội ổn về lòng dân,<br /> Đó là thời kỳ “gian khổ đầy những khi đó dân tin, dân quý nhà cầm<br /> chiến tranh và vật lộn giữa các họ quyền nhƣ cha con, anh em, bè bạn.<br /> cầm quyền, giai đoạn phong kiến rối Để có một xã hội thái bình thịnh trị,<br /> loạn mà các nhà Khổng học không cứu vãn trật tự xã hội, Nguyễn Bỉnh<br /> ngừng nhắc đến một cách ngậm ngùi, Khiêm chủ trƣơng thực hiện đƣờng lối<br /> chua cay…” (Lƣơng Ninh, 2005: 100). cai trị bằng nhân nghĩa, dùng nhân<br /> Thực tế đó làm cho Nguyễn Bỉnh nghĩa để giáo huấn, giáo hóa con<br /> Khiêm càng khao khát về một xã hội ngƣời và duy trì trật tự ổn định của xã<br /> hòa bình, thịnh trị. Một xã hội mà bên hội. Ngƣời thực hiện tốt nhiệm vụ này<br /> trên vua sáng tôi hiền, bên dƣới dân không ai khác hơn là vua. Do vậy,<br /> chúng sống hòa bình, no ấm, không Nguyễn Bỉnh Khiêm rất chú ý đến vai<br /> còn cảnh chồng vợ phân ly, cha con trò và phẩm chất của vị vua trong xã<br /> chia lìa. Suốt đời Nguyễn Bỉnh Khiêm hội. Vua phải dùng nhân nghĩa để<br /> ôm ấp một nguyện vọng về một xã hội giáo hóa dân chứ không phải dùng<br /> nhƣ thời Nghiêu Thuấn. Rất nhiều lần quyền uy và mệnh lệnh bạo tàn. Ông<br /> ông bày tỏ mong ƣớc này: “Hà thời viết: “Thánh chủ chỉ kim nhân thắng<br /> thái tổ Đƣờng Ngu trị. Y cựu hiền bạo - Thánh chúa ngày nay chỉ lấy<br /> khôn nhất thái hòa - Bao giờ lại đƣợc nhân nghĩa để thắng bạo tàn” (Hội<br /> trông thấy thời bình trị Đƣờng Ngu để đồng Lịch sử Hải Phòng, 2015: 254).<br /> cho trời đất lại đƣợc thái bình nhƣ Theo Nguyễn Bỉnh Khiêm, vua phải là<br /> xƣa” (Viện Văn học - Hội đồng Lịch sử ngƣời công bằng, ngƣời cầm cán cân<br /> Hải Phòng, 2014: 191). Xã hội mà công lý, biết yêu nƣớc và hết lòng vì<br /> Nguyễn Bỉnh Khiêm khao khát là xã dân, vua phải là ngƣời nếu có bó đuốc<br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 8 (252) 2019 13<br /> <br /> <br /> sáng thì nên soi dân nơi nhà nát xóm ích của cá nhân và dòng họ thì ông lại<br /> nghèo: “Quân vƣơng nhƣ hữu quang kịch liệt lên án.<br /> minh chúc. Ƣng chiếu cùng lƣ bộ ốc Có thể nói, cả cuộc đời lo toan vì nợ<br /> dân” (Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, nƣớc, vì tình dân, nhƣng Nguyễn Bỉnh<br /> 2015: 153), để “dân lầm than khổ cực Khiêm sống đầy lạc quan, hào phóng,<br /> đều đƣợc nằm trên nệm chiếu yên ổn” mong muốn “gắng sức ngày đêm” làm<br /> (Hội đồng Lịch sử Hải Phòng, 2015: việc để đất nƣớc thanh bình, nhân<br /> 242). Vua nhƣ vậy, và quan lại cũng dân yên ổn. Chí nguyện cao đẹp cả<br /> phải nhƣ vậy, theo Nguyễn Bỉnh đời ông là nét son sáng chói ghi nhận<br /> Khiêm, bầy tôi khi giúp vua cũng phải tên tuổi Nguyễn Bỉnh Khiêm trong<br /> “nhân nghĩa tựa nhƣ son”. Có đƣợc dòng chảy mênh mông của dòng sông<br /> vua sáng tôi hiền nhƣ vậy thì mô hình tƣ tƣởng dân tộc.<br /> về một xã hội thái bình sẽ trở thành<br /> 3. KẾT LUẬN<br /> hiện thực.<br /> Dù đau đáu lo đời, lo nƣớc, lo dân<br /> Đau đáu nỗi niềm thƣơng nƣớc,<br /> nhƣng ở Nguyễn Bỉnh Khiêm lại bộc<br /> thƣơng dân Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn<br /> lộ một phong thái sống ung dung,<br /> xem trọng sức mạnh của dân chúng<br /> nhàn nhã. Sự hòa hợp tƣởng chừng<br /> và sẵn sàng “nhập thế” để ngƣời dân<br /> nhƣ mâu thuẫn này đặc biệt chỉ có ở<br /> có đƣợc cuộc sống yên vui hạnh phúc.<br /> Nguyễn Bỉnh Khiêm. Và đó cũng<br /> Ông luôn mong muốn đem lại cho dân chính là cách ứng xử đặc biệt, làm<br /> chúng cuộc sống bình yên, no ấm, nên dấu ấn của Nguyễn Bỉnh Khiêm<br /> đƣợc phát triển tự do, tự chủ đối với so với các nhà tƣ tƣởng đƣơng thời.<br /> cuộc đời của mình. Trong thế kỷ mà Trong thời buổi loạn lạc, Nguyễn Bỉnh<br /> Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh sống, xã hội Khiêm chủ động chọn phƣơng thức<br /> oằn mình trong máu lửa chiến tranh. ứng xử là vận dụng hợp lý hai chữ<br /> Con ngƣời nơm nớp lo sợ, tính mạng xuất-xử vào hoàn cảnh lịch sử đầy<br /> luôn bị đe dọa. Thực tại nhƣ vậy, nên biến động mà ông là ngƣời trong cuộc.<br /> muốn dân đƣợc yên ổn, theo Nguyễn Chọn cách sống tự tại và vô sự, ông<br /> Bỉnh Khiêm, cách thiết thực nhất là đã xác lập một nhân sinh quan xử thế<br /> phải xóa bỏ chiến tranh, chấm dứt, hợp lý. Đó là thái độ sống ung dung tự<br /> loại trừ những hành động tàn ác bạo tại, tìm đến với thiên nhiên, tìm đến sự<br /> ngƣợc đối với dân. Nguyễn Bỉnh an bình trong tâm. Đó chính là đi tìm<br /> Khiêm cũng phân biệt rất rõ chiến cái tĩnh trong cái động, thấy đƣợc sự<br /> tranh phi nghĩa và chiến tranh chính đứng im tƣơng đối trong sự vận động<br /> nghĩa. Ông đề cao và tham gia vào tuyệt đối. Song, đằng sau sự vô sự,<br /> các cuộc chinh phạt nhằm chống lại dửng dƣng là cả một nỗi lo toan, day<br /> bọn giặc cƣớp tàn hại nhân dân. dứt với đời, với thời, với ngƣời, là<br /> Nhƣng đối với các cuộc chiến tranh khát vọng về một xã hội hòa bình<br /> khác, những cuộc chiến tranh vì lợi thịnh trị. Đúng nhƣ lời nhận xét của<br /> 14 HỲNH NGỌC BÍCH – PHƢƠNG THỨC ỨNG XỬ VỚI THỜI CUỘC…<br /> <br /> <br /> Vũ Khâm Lân, Nguyễn Bỉnh Khiêm là về đất nƣớc, về nhân dân. Tƣ tƣởng<br /> con ngƣời “đời dùng thì làm, đời bỏ và tình cảm cao đẹp đó không đƣa<br /> thì ẩn, đối với tiên sinh dù chẳng đắc ông vƣợt qua những hạn chế của thời<br /> dụng cũng có hề chi” (Hội đồng Lịch đại nhƣng là nền tảng tinh thần, là<br /> sử Hải Phòng, 2015: 412). Và cũng vì chất liệu cơ bản để cùng với tri thức<br /> vậy mà “tuy ở nhà bốn mƣơi tƣ năm uyên bác và tài năng sáng tạo của<br /> mà lòng không ngày nào quên đời, ƣu mình, nâng ông lên địa vị một danh<br /> thời mến tục đều lộ trong thơ. Con nhân văn hóa lỗi lạc của dân tộc, một<br /> ngƣời nhàn dật, tự tại trong Tuyết nhà thơ lớn nhất của thế kỷ XVI với uy<br /> Giang phu tử vì thế vẫn chƣa thoát tín và ảnh hƣởng rộng lớn bao trùm<br /> khỏi học thuyết Nho giáo, vẫn chƣa ra đất nƣớc lúc đó” (Hội đồng Lịch sử<br /> ngoài quan niệm “hành-tàng”, “xuất- Hải Phòng, 2015: 112). Đó cũng là<br /> xử”, “nguy bang bất nhập, loạn bang một trong những bằng chứng chứng<br /> bất cƣ” để hòa mình vào thế giới của tỏ: “Nguyễn Bỉnh Khiêm là sản phẩm<br /> Lão Trang” (Hội đồng Lịch sử Hải văn hóa điển hình của thế kỷ XVI -<br /> Phòng, 2015: 312). Ra rồi về, về rồi một thế kỷ nặng về chinh chiến và<br /> ra, quá trình hành tàng, xuất xử ấy nhiều biến động nên phải lựa chọn<br /> của Nguyễn Bỉnh Khiêm, hẳn có nhiều một phƣơng thức ứng xử văn hóa khả<br /> lý do, nhƣng dù sao đi nữa thì “cái dĩ có thể đáp ứng đƣợc nhu cầu đời<br /> đáng trân trọng và đánh giá cao nhất sống tinh thần vốn muôn phần phức<br /> ở Nguyễn Bỉnh Khiêm là dù xuất hay tạp” (Nguyễn Hữu Sơn, 2003: 28). <br /> xử, tấm lòng của ông luôn luôn hƣớng<br /> <br /> <br /> TÀI LIỆU TRÍCH DẪN<br /> 1. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chƣơng. 1997. Việt Nam văn học (thế kỷ<br /> XVII - nửa đầu thế kỷ XVIII). Hà Nội: Nxb. Giáo dục.<br /> 2. Viện Văn học, Hội đồng Lịch sử Hải Phòng. 2014. Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm,<br /> tổng tập. Hà Nội: Nxb. Văn học.<br /> 3. Hội đồng Lịch sử Hải Phòng. 2015. Hội thảo “Di sản văn học – Nguyễn Bỉnh Khiêm -<br /> tư tưởng và khuynh hướng thẩm mỹ”. Hà Nội: Nxb. Văn học.<br /> 4. Lƣơng Ninh (chủ biên). 2005. Lịch sử Việt Nam giản yếu. Hà Nội: Nxb. Chính trị<br /> Quốc gia.<br /> 5. Nguyễn Hữu Sơn. 2003. Nguyễn Bỉnh Khiêm – nhà thơ triết lý thế sự. TPHCM: Nxb.<br /> Trẻ.<br /> 6. Nguyễn Nghiệp. 1997. Trạng Trình và Sấm ký. Hà Nội: Nxb. Văn hóa Thông tin.<br /> 7. Nguyễn Phan Quang, Võ Xuân Đàn. 2000. Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến năm<br /> 1984. TPHCM: Nxb. TPHCM.<br /> 8. Vũ Minh Tâm. 1996. Tư tưởng triết học về con người. Hà Nội: Nxb. Giáo dục.<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2