
PR đương đầu với khủng hoảng
Các doanh nghiệp gọi khủng hoảng là cơn ác mộng và giải quyết khủng hoảng là công việc khó
khăn nhất của hoạt động PR. Chính cách đối phó với khủng hoảng mới thể hiện hết sự chuyên
nghiệp và đẳng cấp của người làm nghề PR.
Nhiều người vẫn nhớ sự cố hồi tháng 10/2003 về tin đồn thất thiệt cho rằng Tổng giám đốc ACB bỏ trốn.
Toàn bộ hoạt động của ACB đã bị đảo lộn; khách hàng nhốn nháo, lo sợ, ùn ùn đi rút tiền; các nhà đầu
tư tìm cách bán tống, bán tháo cổ phiếu. Hậu quả là hơn 1.000 tỷ đồng ồ ạt ra đi khỏi ACB mặc dù ACB
là ngân hàng lớn, có uy tín. Đây là một ví dụ điển hình về khủng hoảng và giải quyết không tốt khủng
hoảng. ACB đã tỏ ra thụ động, tự xoay sở với tình huống. Ngân hàng đã có thể ngăn chặn được khủng
hoảng nếu liên hệ sớm hơn với với các công ty PR chuyên nghiệp, nơi có những chuyên gia được đào
tạo bài bản và có kinh nghiệm trong tiếp xúc với báo chí nói riêng và đối mặt với khủng hoảng nói chung.
Tại Việt Nam, các công ty về PR mới chỉ xuất hiện và bắt đầu có vai trò khoảng vài năm trở lại đây. Tuy
nhiên, hoạt động PR thường thấy nhất tập trung vào tổ chức sự kiện, họp báo, giới thiệu sản phẩm, triển
lãm… Khả năng giải quyết khủng hoảng vốn được xem như “cơn ác mộng” của các doanh nghiệp, chỉ có
những công ty PR được đánh giá là chuyên nghiệp mới có thể đảm đương như Max Communications,
T&A Việt Nam,Venus…
Trong thị trường nóng bỏng và cạnh tranh hiện nay, thật khó có doanh nghiệp, tổ chức nào có thể tự tin
sẽ không bao giờ dính đến khủng hoảng. Bởi bất cứ một sự cố nào như thuốc gây phản ứng phụ, nước
ngọt gây ngộ độc, tai nạn lao động, công nhân biểu tình, thậm chí có người tự tử bằng thuốc của một
nhãn hiệu nổi tiếng nào đó đều có thể là “ngòi nổ” cho một cuộc khủng hoảng đáng sợ, một khi báo chí
"nhảy vào cuộc” và thông tin bị lan rộng không kiểm soát được.
Khi khủng hoảng xảy ra, những hậu quả sẽ thật khó lường. Công nhân đình công sẽ khiến hoạt động sản
xuất phải dừng lại hoàn toàn cho đến khi giải quyết được mâu thuẫn, sản phẩm bị lỗi sẽ phải thu hồi lại
toàn bộ trên thị trường, đền bù mọi thiệt hại cho người tiêu dùng... thiệt hại vật chất lên đến hàng tỷ đồng.
Nhưng xem ra những mất mát này chưa thấm tháp gì so với sự mất lòng tin của khách hàng đi kèm với
sự mất uy tín của doanh nghiệp, giảm giá trị của nhãn hiệu và thương hiêu. Rõ ràng là “mua danh ba
vạn”, một công ty có thể mất đến cả chục năm để xây dựng một thương hiệu tốt. Những giá trị hữu hình
của doanh nghiệp mới là những tài sản thực sự to lớn mà khủng hoảng có thể cướp đi.
Một trong những sai lầm của các doanh nhiệp Việt Nam là ít “vời” đến các chuyên gia tư vấn khi khủng
hoảng xảy ra. Một phần là do chi phí của hợp đồng tư vấn thường khá cao. Một lý do quan trọng khác là