intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Quá trình thành lập làng xã ở huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị dưới triều Nguyễn (1802-1885)

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

97
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Công cuộc khẩn hoang thành lập làng xã là một trong những vấn đề rất được nhiều nhà nghiên cứu, quản lý và các làng xã quan tâm. Bài viết này xin đề cập đến sự thành lập một số làng xã ở huyện Hải Lăng dưới triều Nguyễn (1802-1885). Qua đó, rút ra một số đặc điểm về quá trình thành lập làng xã trong thời kỳ này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Quá trình thành lập làng xã ở huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị dưới triều Nguyễn (1802-1885)

QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP LÀNG XÃ<br /> Ở HUYỆN HẢI LĂNG, TỈNH QUẢNG TRỊ<br /> DƯỚI TRIỀU NGUYỄN (1802-1885)<br /> NGUYỄN THỊ MINH THIỆN<br /> Trường THPT Quang Trung – Tây Ninh<br /> THÁI QUANG TRUNG<br /> Trường Đại học Sư Phạm – Đại học Huế<br /> Tóm tắt: Công cuộc khẩn hoang thành lập làng xã là một trong những vấn<br /> đề rất được nhiều nhà nghiên cứu, quản lý và các làng xã quan tâm. Bài viết<br /> này xin đề cập đến sự thành lập một số làng xã ở huyện Hải Lăng dưới triều<br /> Nguyễn (1802-1885). Qua đó, rút ra một số đặc điểm về quá trình thành lập<br /> làng xã trong thời kỳ này.<br /> Từ khóa: Làng xã, Hải Lăng, Triều Nguyễn<br /> <br /> 1. ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Làng xã Việt Nam - một thực thể xã hội, một đối tượng khoa học từ lâu được nhiều nhà<br /> nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Trong thời điểm hiện nay, khi khoa học Lịch<br /> sử đòi hỏi phải nghiên cứu một cách toàn diện, thì hệ thống làng xã giúp chúng ta đi từ<br /> những hiểu biết cụ thể, từng khía cạnh của đời sống xã hội để từ đó có thể rút ra những<br /> nhận xét về tất cả các lĩnh vực trong quá khứ.<br /> Lịch sử mỗi làng xã là bộ phận lịch sử dân tộc. Làng xã là cơ sở bền vững bảo tồn sức<br /> sống và nền văn hoá của dân tộc. Từ thuở ban đầu dựng nước, cư dân Bách Việt đã dần<br /> dần tạo nên những đơn vị làng đầu tiên. Đó cũng chính là địa bàn tụ cư của các cộng<br /> đồng cư dân nông nghiệp. Dưới chế độ phong kiến, làng xã là đơn vị hành chính cơ sở<br /> của quốc gia, có thể thấy làng xã chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội Việt Nam. Do<br /> vậy, nghiên cứu làng xã không chỉ đáp ứng được yêu cầu của khoa học lịch sử mà còn<br /> góp phần tìm hiểu những giá trị tinh hoa văn hoá truyền thống của làng quê để bảo tồn<br /> đồng thời xoá bỏ những hạn chế vốn có của nó.<br /> Hải Lăng là huyện đồng bằng nằm ở phía Nam của tỉnh Quảng Trị; là quê hương có<br /> nhiều di tích lịch sử văn hóa lâu đời. Nơi đây nổi tiếng là mảnh đất giàu truyền thống<br /> yêu nước, “vựa lúa” của Quảng Trị và là nơi có đời sống văn hóa phong phú.<br /> Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, với đức tính cần cù, chịu khó, thông minh,<br /> sáng tạo đã hình thành cho con người Hải Lăng một bản lĩnh không chịu khuất phục<br /> trước khó khăn, gian khổ để vượt lên, chiến thắng thiên tai, địch họa, khai sơn phá<br /> thạch, thau chua rửa mặn dần dần hình thành nên những xóm làng như ngày nay. Trong<br /> đó, có nhiều làng xã được hình thành dưới thời nhà Nguyễn (1802-1885) cần được<br /> nghiên cứu, lý giải về sự hình thành với các đặc điểm của nó.<br /> Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế<br /> ISSN 1859-1612, Số 04(40)/2016: tr. 81-90<br /> <br /> 82<br /> <br /> NGUYỄN THỊ MINH THIỆN – THÁI QUANG TRUNG<br /> <br /> 2. CÁC LÀNG XÃ Ở HUYỆN HẢI LĂNG RA ĐỜI TRƯỚC NĂM 1802<br /> Hải Lăng vào buổi bình minh của lịch sử dân tộc, dải đất này là phần đất của bộ Việt<br /> Thường, một trong 15 bộ của nước Văn Lang.<br /> Trong thời kì Bắc thuộc, nhà Hán cai trị, địa bàn Hải Lăng thuộc quận Nhật Nam,<br /> nhưng đến đời Đông Hán, năm 192 một lãnh tụ nhân dân bộ lạc Dừa ở phía Bắc đã lãnh<br /> đạo nhân dân lật đổ ách đô hộ nhà Hán, thành lập tiểu quốc Lâm Ấp. Đến thế kỉ IV, hai<br /> tiểu quốc Lâm Ấp và Panduranga đã hợp nhất, hình thành vương quốc Chămpa. Lợi<br /> dụng sự suy yếu của chính quyền phong kiến Trung Quốc đô hộ, các thế lực của<br /> Chămpa mở rộng địa bàn ra tận Hoành Sơn, vùng đất Hải Lăng thuộc đất nước này đến<br /> đầu thế kỉ XIV.<br /> Năm 1306, cuộc hôn nhân giữa công chúa Huyền Trân và vua Chế Mân với sính lễ là<br /> châu Ô và châu Lí (Rí). Vua Trần cho đổi tên làm châu Thuận, châu Hóa và sáp nhập<br /> vào bản đồ Đại Việt. Hải Lăng thuộc châu Thuận, lúc bấy giờ có tên là An Nhơn. Một<br /> lần nữa cư dân người Việt lại vào đây định cư, mở đầu quá trình hình thành làng xã và<br /> thành lập đơn vị hành chính.<br /> Từ cuối thế kỉ XIV, vương triều Trần suy yếu, quan hệ Việt – Chăm căng thẳng. Vùng<br /> Thuận Hóa trong đó có Hải Lăng trở thành bãi chiến trường của hai thế lực, làng mạc bị<br /> tàn phá và hoang vu trở lại.<br /> Năm 1401, Hồ Quý Ly đưa quân vào đến Nam Thuận Hóa, thành lập các châu Thăng,<br /> Hoa, Tư, Nghĩa. Nhưng nhà Hồ (1400-1407) tồn tại không bao lâu, nước ta rơi vào ách<br /> đô hộ nhà Minh nhưng nhà Minh chưa thể đặt chính quyền cai trị lên vùng đất này. Năm<br /> 1471, vua Lê Thánh Tông đưa quân tiến đánh Chăm Pa, mở rộng biên giới đến phía Bắc<br /> đèo Cù Mông. Nhà vua xuống chiếu đưa dân Việt vào sinh sống, định cư ở đây.<br /> Dưới triều Hậu Lê, việc khẩn hoang lập làng ở vùng đất Thuận Hóa nói chung, Hải<br /> Lăng nói riêng rất được chú ý. Cũng vào thời gian này, trên địa bàn Hải Lăng hàng loạt<br /> làng xã được thành lập, định hình một cách căn bản. Trong Phủ biên tạp lục, Lê Quý<br /> Đôn viết: “…Xét Thiên Nam dư hạ tập của bản triều có chép rằng trong đời Hồng Đức<br /> định bản đồ… Phủ Triệu Phong 6 huyện 2 châu là: huyện Kim Trà 8 tổng 71 xã, huyện<br /> Đan Điền 8 tổng 65 xã, huyện Hải Lăng 7 tổng 75 xã...” [7, tr. 54].<br /> Tuy nhiên, do đây là vùng đất xa xôi với triều đình trung ương, việc quản lí khó khăn,<br /> cho nên đến giữa thế kỉ XVI, khi Dương Văn An viết Ô Châu cận lục vẫn gọi vùng đất<br /> này là “Ô Châu ác địa”, cư dân còn thưa thớt. Theo tác phẩm này, vùng đất Hải Lăng<br /> thuộc phủ Triệu Phong có 49 xã: An Thơ, Vĩnh Hưng, Văn Quỹ, Câu Nhi, Hà Lộ, Lãng<br /> Uyên, Đoan Trang, Diên Sanh, Câu Hoan, Trà Trì Thượng, Trà Trì Hạ, Lam Thủy, Mai<br /> Đàn, Hương Lan, Hương Liễu, Long Đôi, Thái Nại, An Khang, Hoàng Xá, Xuân Lâm,<br /> Tích Tường, Như Lệ, Thạch Hãn, Cổ Thành, Thương Mang, Hoa Ngạn, Phù Lưu, Nha<br /> Nghi, Hữu Điều, Hoa La, An Lộng, Hà Mi, Nại Cửu, Dương Lệ, Dương Chiếu, An<br /> Toàn, Đồng Giám, Dã Độ, An Dã, Quảng Đâu, Đâu Động, Phúc Lộc, Đại Bối, Tiểu<br /> Bối, Đại Bị, Tiểu Bị, An Hưng, Hà Bá, Đâu Kênh. [2, tr. 56]<br /> <br /> QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP LÀNG XÃ Ở HUYỆN HẢI LĂNG...<br /> <br /> 83<br /> <br /> Năm 1558, Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa, công cuộc khẩn<br /> hoang xứ Thuận Quảng được đẩy mạnh. Các chúa Nguyễn đã biến vùng đất “Ô Châu ác<br /> địa” thành vùng đất trù phú, thủ phủ của họ Nguyễn ở Đàng Trong. Số làng xã tăng lên<br /> không ngừng. Theo Phủ biên tạp lục ta biết huyện Hải Lăng, phủ Triệu Phong có 5 tổng<br /> (67 xã 6 phường 4 thôn 2 tộc):<br /> “Tổng Hoa La, 19 xã 2 phường 1 thôn: Hoa La, An Lộng, Đâu Kênh, Hồng Khê, Nại<br /> Diên, Tả Hữu, Thạch Hãn, An Tiêm, Cổ Thành, Cổ Bưu, Hà My, Bố Liêu, Phù Lưu, Dư<br /> Triều, Hậu Lễ, Long Hưng, Vệ Nghĩa, Tích Tường, Như Lệ, Xuân An, Vạn Long, Nà<br /> Nẫm.<br /> Tổng An Thư, 5 xã 1 thôn: An Thư, Mỹ Chánh, Câu Nhi, Vĩnh Hưng, Văn Quỹ, Hội<br /> Kỳ.<br /> Tổng An Dã, 21 xã 1 phường: An Dã, Hữu Điều, An Trung, Đại Hòa, Quảng Điền, Vũ<br /> Thuận, An Lệ Nhị Giáp, Giáo Liêm, Phụ Tài, Thanh Liêm, Quảng Lượng, Hiền Lương,<br /> Dương Lộc, An Toàn, Phan Xá, Trúc Đăng.<br /> Tổng Cu Hoan, 6 xã 1 phường 1 thôn 2 tộc: Câu Hoan, Diên Sinh, Trường Sinh, An<br /> Phúc, Hà Lỗ, Hà Lộc, Lương Phúc, Miễn Trạch, Câu Hoan, Đỗ Phùng.<br /> Tổng An Khang, 16 xã 2 phường 1 thôn: An Khang, Đại Nại, Trà Lộc, Lam Thủy, La<br /> Duy, Hương Vận, Trà Trì Thượng, Anh Hoa, Tam Hữu, Mai Đàn, Duân Kinh, Thi Ông,<br /> Thượng Xá, Trâm Lý, Xuân Lâm, Mai Lộc, Phú Xuân, Mai Hoa, Mai Đàn thượng thôn”<br /> [7, tr.101].<br /> Dưới thời Lê – Trịnh chiếm đóng, rồi đến Vương triều Tây Sơn, công cuộc khẩn hoang<br /> vẫn được tiếp tục nhưng do nguồn tư liệu còn hạn chế nên số lượng làng xã tăng lên<br /> chưa khảo cứu được.<br /> 3. SỰ THÀNH LẬP LÀNG XÃ Ở HUYỆN HẢI LĂNG DƯỚI TRIỀU NGUYỄN<br /> (1802 – 1885)<br /> Năm 1802, sau khi đánh bại Vương triều Tây Sơn, Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế, hiệu<br /> là Gia Long, chọn Phú Xuân làm kinh đô, lập nên Vương triều Nguyễn.<br /> Nguyễn Ánh lấy hai huyện Hải Lăng và Đăng Xương của phủ Triệu Phong hợp với<br /> huyện Minh Linh của phủ Quảng Bình để lập dinh Quảng Trị. Từ đó, huyện Hải Lăng<br /> chính thức thuộc địa phận Quảng Trị. Năm Minh Mạng thứ 8 (1827) đổi dinh Quảng Trị<br /> thành trấn Quảng Trị, năm thứ 12 (1831), trấn Quảng Trị đổi thành tỉnh Quảng Trị,<br /> huyện Hải Lăng thuộc tỉnh Quảng Trị. Năm Minh Mạng thứ 17 (1836) cắt tổng An<br /> Nhơn và ba thôn Phương Lang, Phú Hải, Thuận Đầu (tổng An Lưu) về huyện Hải Lăng.<br /> Cắt Tổng An Dã và 2 làng Tam Hữu, Anh Hoa (Tổng An Thái) và phần lớn Tổng Hoa<br /> La (trừ Trí Lễ, Thạch Hãn, Long Hưng, Tích Tường, Như Lệ) nhập về huyện Đăng<br /> Xương. Năm Minh Mạng thứ 18 (1837) dời huyện lỵ Hải Lăng từ thôn An Tiêm đến<br /> thôn Trí Lễ. Năm Tự Đức thứ 4 (1851) lại dời huyện lỵ đến thôn Diên Sanh. Năm Tự<br /> Đức thứ 5 (1852) lấy ba thôn, phường của huyện Hải Lăng hợp với 29 xã, thôn của ha<br /> huyện Đăng Xương và Địa Linh lập thành tổng Cam Đường đặt thuộc huyện Thành<br /> <br /> 84<br /> <br /> NGUYỄN THỊ MINH THIỆN – THÁI QUANG TRUNG<br /> <br /> Hóa do phủ Cam Lộ kiêm lý. Năm Tự Đức thứ 6 (1853), nhập Quảng Trị và Thừa<br /> Thiên, lập đạo Quảng Trị, giải thể phủ Triệu Phong, giảm viên tri huyện Hải Lăng và<br /> Đăng Xương, giao công việc của huyện cho đạo kiêm lý. Năm 1876 lập lại tỉnh Quảng<br /> Trị gồm hai phủ Triệu Phong, Cam Lộ và 4 huyện, trong đó huyện Hải Lăng vẫn giữ tên<br /> cũ. Đặt lại huyện Hải Lăng do phủ Triệu Phong thống hạt như trước.<br /> Trong tác phẩm Đồng Khánh Dư địa chí (1886-1888) huyện Hải Lăng gồm 4 tổng:<br /> Tổng An Thái (24 xã, phường): Xã An Thái, xã Thượng Xá, xã Đại Nại, xã Long Hưng,<br /> xã Chí Lễ, xã Trâm Lý, xã Hương Vận, xã Trà Lộc, xã Trà Trì, xã Duân Kênh, xã La<br /> Duy, xã Thi Ông, xã Lam Thủy, xã Cổ Bưu, xã Thạch Hãn, xã Tích Tường, xã Như Lệ,<br /> xã Mai Đàn, xã Xuân Lâm, phường Phú Xuân, phường Nà Nẫm, phường Trinh Thạch,<br /> phường Mai Lĩnh, phường Sái Xuân.<br /> Tổng Câu Hoan (9 xã, thôn, phường): Xã Câu Hoan, xã Diên Sinh, xã Trường Sinh, xã<br /> Hà Lộc, xã Lương Điền, thôn Trường Phước, thôn Thuận Nhân (Nhơn), xã Hà Lỗ,<br /> phường Xuân Lộc.<br /> Tổng An Thư (6 xã, thôn): Xã An Thư, xã Văn Quỹ, xã Câu Nhi, xã Hội Kỳ, xã Hưng<br /> Nhân, thôn Mỹ Chánh.<br /> Tổng An Nhân (23 xã, thôn, phường): Xã An Nhân, xã Xuân Viên, xã Đông Dương, xã<br /> Diên Khánh, xã Kim Giao, xã Kim Lung, xã Đan Quế, xã Hội An, xã Đa Nghi, xã Cỗ<br /> Lũy, xã Phương Da, xã Ba Thâu, xã Phú Hải, xã Phú Kênh (Kinh), xã Phúc Điền, xã<br /> Trung Đan, xã Thâm Khê, xã Thuận Đầu, xã Mỹ Thuỷ, xã Trung An, phường Tân An,<br /> phường Tân Hội, phường Thượng An. [8, tr.1383-1385]<br /> Do nhiều lần thay đổi hành chính, điều chỉnh địa phận nên có nhiều xã, thôn trước kia<br /> thuộc Hải Lăng nay thuộc về huyện Triệu Phong (Đăng Xương) và ngược lại. Căn cứ<br /> vào danh sách các xã thôn huyện Hải Lăng hiện nay, đối chiếu với các xã thôn trong<br /> Phủ biên tạp lục và Đồng Khánh Dư địa chí ta thấy có 5 xã, thôn được thành lập đó là:<br /> Thuận Nhơn, Trường Phước, Xuân Lộc, Phước Điền, Trung An. Nhưng qua thực tế tìm<br /> hiểu ở địa phương thì ta thấy làng Phước Điền (Phúc Điền) đã ra đời vào khoảng thế kỉ<br /> giữa XVI, làng Trung An ra đời vào khoảng thế kỉ XVIII; một số làng như Phú Long,<br /> Như Sơn, Tân Điền, Lương Chánh không được Đồng Khánh Dư địa chí đề cập đến.<br /> Quá trình thành lập các làng xã này như sau:<br /> * Thôn Thuận Nhơn: ra đời vào khoảng những năm 20-30 của thế kỉ XIX cùng với sự<br /> ra đời của sông đào Vĩnh Định (1825). Sông Vĩnh Định ra đời không chỉ tạo điều kiện<br /> cho nhân dân đi lại thuận lợi, cung cấp nước cho nông nghiệp mà nó còn đánh dấu sự ra<br /> đời một số đơn vị hành chính mới như làng Thuận Nhơn.<br /> Thuận Nhơn thành lập từ việc mua đất của làng Thi Ông và Câu Hoan, đó là hai vùng<br /> đất: xứ Già Giàu và xứ Cồn Đống - Cồn Miếu.<br /> Trước hết, nói về vùng đất xứ Già Giàu (nhà giàu): vốn được cư dân Thi Ông gọi là xứ<br /> “thượng đoạn”. Nhận thấy đây là một vùng đất tốt nên ngài Ngô Văn Thắng, Ngô Văn<br /> Thọ đã mua đất của Thi Ông nằm ở hữu ngạn sông Vĩnh Định với diện tích 30 mẫu có<br /> <br /> QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP LÀNG XÃ Ở HUYỆN HẢI LĂNG...<br /> <br /> 85<br /> <br /> dư. Sau khi Thuận Nhơn an cư lạc nghiệp thì đổi tên lại là lại xứ “Già Giàu” (chỉ sự<br /> giàu có của nhiều gia đình).<br /> Theo gia phả cụ Ngô Xưng cung cấp, trong đoàn quân thần chỉ huy đào sông ấy có hai<br /> ông Ngô Văn Thắng, Ngô Văn Thọ tham gia, sau khi sông đào xong hai ông được phép<br /> trưng canh, mua đất lập làng. Như quan niệm của người xưa “nhất cận thị, nhị cận<br /> giang” nên hai Ngài đã mua hai vùng đất của làng Thi Ông, Cu Hoan có dòng sông<br /> Vĩnh Định chảy qua nhưng trên thực tế nhờ sức ép của bà Hiền phi Ngô Thị Chánh (vợ<br /> vua Minh Mạng, là chị của hai ngài Ngô Văn Thắng, Ngô Văn Thọ) rất lớn.<br /> Một thời gian sau, các tiền nhân lại mua thêm đất ở xứ Cồn Đống - Cồn Miếu của làng<br /> Cu Hoan. Cồn Đống - Cồn Miếu nằm ở tả ngạn sông Vĩnh Định, nơi giao nhau ngã ba<br /> sông rất thuận lợi cho đi lại, phát triển kinh tế.<br /> Đến năm 1839, dưới triều vua Minh Mạng, Thuận Nhơn chính thức có làng hiệu. Ngài<br /> Ngô Văn Thắng (ngài anh) theo “tập ấm” được phong làm quan cai đội nên ngài đã<br /> nhường tước vị khai canh cho ngài em là Ngô Văn Thọ và con của ngài là Ngô Văn Vân<br /> làm hậu khai khẩn.<br /> * Thôn Trường Phước: vốn là 1 trong 5 giáp của xã Trường Sanh: giáp Đông, giáp<br /> Mỵ, giáp Trung, giáp Hậu, giáp Phước. Giáp Phước nay là Trường Phước thuộc xã Hải<br /> Lâm.<br /> Theo bản dịch và hiệu chú “Ô Châu cận lục” của Trần Đại Vinh, Hoàng Văn Phúc<br /> (NXB Thuận Hóa, Huế, 2001) thì ghi chú làng Đoan Trang đến nay không còn. Bản<br /> dịch và hiệu chú “Ô Châu cận lục” của Văn Thanh và Phan Đăng (NXB Chính trị Quốc<br /> gia, Hà Nội, 2009) thì ghi chú làng Đoan Trang là làng Mỹ Chánh (Hải Chánh) hiện<br /> nay. Nhưng có lẽ 4 tác giả đã nhầm do không tiếp cận thực địa nguồn tư liệu Hán Nôm<br /> tại làng Trường Sanh.<br /> Trong Châu bộ của làng Trường Sanh lập vào năm Hoằng Định thứ 6 (1605) ghi rõ:<br /> “Triệu Phong phủ, Hải Lăng huyện, Đoan Trang xã. Lê Thời Danh, Võ Trạch Thủ<br /> đẳng, do tự Hồng Đức niên gian Lê vị trước chí Quang Hưng thập tứ (1591), Hoằng<br /> Định lục niên (1605), tiền tu tả kiến canh địa bộ, hậu khai báo chúc thơ tổ nghiệp, các<br /> họ khai canh bao chiếm điền thổ các sở cập lưu hoang, thượng tự sơn lâm thổ trạch, hạ<br /> cập điền thư như khê hác tích thủy kỳ như hải hoạt đẳng khai”* [6, tr.33]. Làng Trường<br /> Sanh có 12 họ, nhưng có 8 họ chính được coi là có công tạo lập nên xóm làng vào thời<br /> kỳ đầu lập nghiệp, gồm: Lê, Võ, Nguyễn, Trương, Hồ, Trần, Phan, Bùi.<br /> Đến đời thứ 3 – 4, con cháu họ Lê (Lê Khắc Trình), Trần (Trần Thiên Tải), Nguyễn<br /> (Nguyễn Khắc Ứng) làng Trường Sanh đã lên đây khai phá đất đai, sinh cơ lập nghiệp.<br /> Tương truyền ngài Lê Khắc Trình làm quan tri huyện Hải Lăng bị một số người ghen<br /> ghét nên tìm cách giết hại khi ông trên trường đi làm về. Nơi ông bị chém, người dân<br /> lập miếu thờ nay gọi là miếu Ông Huyện. Ông được phong làm tiền khai khẩn tri huyện<br /> phụ bộ Lê Đại La. Trần Thiên Tải, Nguyễn Khắc Ứng, Phan Khắc Ngạn (người làng<br /> Diên Sanh) làm hậu khai canh.<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2