Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn: Phần 1
lượt xem 7
download
Phần 1 cuốn "Giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" trình bày nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng của một số Đảng cộng sản trên thế giới về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; nhận thức và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong điều kiện Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn: Phần 1
- Chịu trách nhiệm xuất bản GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP PGS.TS. PHẠM MINH TUẤN Chịu trách nhiệm nội dung PHÓ GIÁM ĐỐC – PHÓ TỔNG BIÊN TẬP ThS. PHẠM THỊ THINH Biên tập nội dung: ThS. BÙI THỊ ÁNH HỒNG TS. LÊ THỊ THU MAI NGUYỄN MAI THẢO NHUNG TRẦN PHAN BÍCH LIỄU Trình bày bìa: PHẠM THÚY LIỄU Chế bản vi tính: HOÀNG MINH TÁM Đọc sách mẫu: NGUYỄN MAI THẢO NHUNG BỘI THU Số đăng ký xuất bản: 2650-2022/CXBIPH/12-106/CTQG. Quyết định xuất bản số: 1542-QĐ/NXBCTQG, ngày 09/8/2022. ISBN: 978-604-57-7940-8. Nộp lưu chiểu tháng 8/2022.
- TẬP THỂ TÁC GIẢ PGS.TS. PHẠM VĂN LINH (Chủ biên) PGS.TS. NGÔ TUẤN NGHĨA GS.TS. MẠCH QUANG THẮNG PGS.TS. NGUYỄN KHẮC THANH PGS.TS. VŨ HỒNG SƠN PGS.TS. LÊ MINH NGHĨA PGS.TS. VŨ THANH SƠN
- 5 LỜI GIỚI THIỆU M ối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được thể hiện thành một quy luật cơ bản của sự vận động, phát triển xã hội loài người - quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong phương thức sản xuất. Đó là quy luật khách quan, cơ bản, phổ biến, tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại và cùng với các quy luật khác làm cho lịch sử loài người vận động từ thấp đến cao, từ hình thái kinh tế - xã hội này lên hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn, quy định sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên. Khi nghiên cứu về xã hội loài người, C. Mác khẳng định mọi sự thay đổi của đời sống xã hội, xét đến cùng, đều bắt nguồn từ sự biến đổi của lực lượng sản xuất. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay, trình độ của lực lượng sản xuất đã có những bước phát triển nhảy vọt so với trước kia. Sự phát triển đó cung cấp thêm cho chúng ta những chứng cứ thực tiễn thuyết phục, để tiếp tục khẳng định quan điểm đúng đắn của C. Mác về lực lượng sản xuất, đồng thời cũng đặt ra yêu cầu cần phải bổ sung, phát triển quan điểm của C. Mác về vấn đề này cho phù hợp với thực tiễn.
- 6 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ... Ở Việt Nam, sau khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1954), Đại hội III của Đảng (tháng 9/1960) đã đề ra đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa mà nội dung chủ yếu là tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất; cách mạng khoa học - kỹ thuật; cách mạng tư tưởng - văn hóa; trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; coi công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ. Xây dựng công nghiệp, nông nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học tiên tiến. Kể từ sau đổi mới đến nay, Đảng ta thường xuyên đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, luôn gắn với yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Có thể nói, sự nhận thức và vận dụng mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa của Đảng, đã giúp nền kinh tế - xã hội nước ta đạt được những thành tựu đáng kể. Song, nó cũng chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu phát triển. Nhằm làm rõ nội dung cơ bản về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và mối quan hệ biện chứng của nó trong lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin từ đó khẳng định các giá trị bền vững, những vấn đề cần bổ sung, phát triển và đề xuất, kiến nghị những nội dung phù hợp vận dụng vào thực tiễn Việt Nam, góp phần đấu tranh chống lại những luận điểm xuyên tạc lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản cuốn chuyên khảo Giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn do PGS.TS. Phạm Văn Linh làm chủ biên. Cuốn sách là kết quả nghiên cứu của Đề tài khoa học cấp nhà nước “Tổng kết lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối
- LỜI NHÀ XUẤT BẢN 7 quan hệ giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất và đề xuất bổ sung, phát triển vào thực tiễn Việt Nam trong bối cảnh mới”, mã số KX.02.13/16-20 và bổ sung, cập nhật những quan điểm, chỉ đạo của Đại hội XIII của Đảng. Nội dung cuốn sách gồm bốn chương: Chương I: Nội dung cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng của một số đảng cộng sản trên thế giới về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Chương II: Nhận thức và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong điều kiện Việt Nam. Chương III: Bối cảnh tác động đến nhận thức và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất hiện nay. Chương IV: Tiếp tục bổ sung, phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong điều kiện mới. Mặc dù có nhiều cố gắng trong quá trình biên soạn, biên tập, song vấn đề lý luận này tiếp tục cần được nghiên cứu, bổ sung, làm sáng tỏ trong sự vận động và phát triển không ngừng, do vậy nội dung sách khó tránh khỏi những hạn chế. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của bạn đọc để nội dung sách được hoàn thiện hơn trong lần xuất bản sau. Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc. Tháng 9 năm 2021 NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA SỰ THẬT
- 9 LỜI NÓI ĐẦU M ối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là vấn đề lớn trong lịch sử phát triển của nhân loại; mỗi quốc gia, dân tộc trong quá trình phát triển đều phải giải quyết vấn đề này. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đây là mối quan hệ biện chứng, vận động và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người, qua các hình thái kinh tế - xã hội. Khởi đầu trong tiến trình đó là hình thái xã hội cộng sản nguyên thủy, với những đặc trưng lao động dưới hình thức săn bắn, hái lượm của con người sinh sống trong các bộ tộc, bộ lạc, tiếp đó là chế độ chiếm hữu nô lệ, hình thái kinh tế - xã hội phát triển hơn, có các đặc trưng của mối quan hệ giữa chủ nô và nông nô, với những hình thức bóc lột man rợ. Chế độ phong kiến, xét về sự tiến hóa xã hội, sẽ là văn minh hơn so với chế độ chiếm hữu nô lệ, cả về sức sản xuất xã hội, cùng với sự chiếm hữu ruộng đất của địa chủ, phong kiến, của cải xã hội được tạo ra nhiều hơn. Hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, với chế độ tư bản có mức độ
- 10 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ... phát triển khác nhau, là đỉnh cao so với các hình thái kinh tế - xã hội trước đó về trình độ phát triển sản xuất và văn minh xã hội. Chủ nghĩa tư bản đến nay vẫn tiếp tục phát triển, với đặc trưng là quan hệ tư bản và lao động làm thuê. Theo tiến trình phát triển, loài người đã và đang tiến tới một hình thái kinh tế - xã hội mới, chế độ mới là chủ nghĩa xã hội với nhiều nấc thang phát triển, ở đó con người được tự do phát triển toàn diện, bình đẳng, dựa trên trình độ phát triển cao của nền sản xuất xã hội. Cần khẳng định rằng, đây là một quá trình lịch sử, tự nhiên, phù hợp với tiến hóa của văn minh nhân loại. Điều này cũng không có nghĩa là, trong sự vận động đó, sự chia cắt, đứt đoạn là ranh giới của các hình thái kinh tế - xã hội. Đến nay, ở đâu đó, loài người vẫn chứng kiến sự tồn tại của kinh tế tự nhiên, của chiếm hữu nô lệ, phong kiến... dưới nhiều hình thức khác nhau. Vì vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, xét về đặc trưng của hình thái kinh tế - xã hội, tương ứng với mỗi hình thái là sự vận động của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đặc trưng, là quy luật vận động xuyên suốt, bên trong dẫn tới sự thay đổi của các hình thái kinh tế - xã hội. Đây là mối quan hệ biện chứng của quan hệ con người với tự nhiên và quan hệ con người với con người trong sản xuất, là mối quan hệ giữa mâu thuẫn - phù hợp..., trong xu thế phát triển của văn minh nhân loại, sự vận động này nhất định đi tới một trình độ phát triển mới cao hơn, là những nấc thang để tiến tới
- LỜI NÓI ĐẦU 11 một chế độ xã hội mới. Ngược lại, trong ngắn hạn, giải quyết không tốt mối quan hệ này cũng dẫn tới sự trì trệ, chậm phát triển, thậm chí khủng hoảng xã hội, điều này có thể xảy ra ở bất cứ chế độ xã hội nào. Chính tầm quan trọng và khía cạnh chính trị của vấn đề mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã dẫn tới nhiều quan điểm, cách tiếp cận, ý kiến khác nhau về vấn đề này. Cho đến nay, do đặc điểm và sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan, khách quan của thời đại, mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thậm chí được xác định, là một trong những vấn đề cốt lõi của cuộc đấu tranh ý thức hệ giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, cuộc đấu tranh “ai thắng ai” trong tiến trình phát triển của văn minh nhân loại. Đồng thời, chính từ tầm quan trọng của vấn đề trong quá trình phát triển, cũng đặt ra yêu cầu cần nghiên cứu kỹ lưỡng, sâu sắc hơn nội dung, bản chất của từng thành tố, mối quan hệ giữa chúng đáp ứng yêu cầu phát triển của mỗi quốc gia, đặc biệt là các nước xã hội chủ nghĩa. Các nhà kinh điển Mác - Lênin đã từng khẳng định, phương thức sản xuất này chỉ chiến thắng phương thức sản xuất trước đó khi tạo ra năng suất lao động cao hơn, do đó để chủ nghĩa xã hội hiện thực tạo ra năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản, cần giải quyết mối quan hệ này thế nào? Thực tiễn cũng cho thấy, chủ nghĩa xã hội có đủ điều kiện để giải quyết vấn đề này, mặc dù đó là quá trình không
- 12 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ... đơn giản, cần có cách tiếp cận biện chứng, xem xét đầy đủ các yếu tố tác động trong giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, trong đó đòi hỏi lý giải thấu đáo, thuyết phục. Có vấn đề đúng về lý luận, nhưng thực tiễn vận dụng, giải quyết không đúng, dẫn tới sai lầm và đương nhiên, cũng có những vấn đề từ sai lầm về quan điểm, dẫn tới vận dụng, tổ chức thực hiện trong thực tiễn thất bại. Đây là thực tế đặt ra, đòi hỏi phải nghiên cứu, tổng kết lý luận, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại. C. Mác, Ph. Ăngghen đã tổng kết, kế thừa những quan điểm đúng đắn của triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng trước đó. C. Mác là người có công làm cho lý luận của các nhà tư tưởng duy tâm trước đó về lực lượng sản xuất trở thành khoa học với cách tiếp cận duy vật biện chứng. Đồng thời, ông là người đầu tiên có công phát hiện ra mối quan hệ giữa người với người, trong quá trình sản xuất, được gọi là quan hệ sản xuất, các tư tưởng trên được thể hiện nhiều trong các tác phẩm: Hệ tư tưởng Đức, Sự khốn cùng của triết học, Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, hay Gia đình thần thánh..., từ đó ông chỉ rõ, lực lượng sản xuất, gồm tư liệu sản xuất và người lao động; quan hệ sản xuất gồm quan hệ sở hữu, quan hệ tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối. Những tư tưởng đó được V.I. Lênin vận dụng và phát triển vào thực tiễn nước Nga, sau này là Liên Xô đến năm 1924, với sự ra đời của
- LỜI NÓI ĐẦU 13 Chính sách kinh tế mới (NEP), là sự tổng kết khá đầy đủ về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cả về lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, nghiên cứu về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cũng đòi hỏi phải lý giải sâu sắc sự vận dụng, phát triển lý luận trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, những thành công và thất bại. Đây cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới sự sụp đổ của cả hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô, đồng thời cho thấy, thực tiễn sáng tạo của các quốc gia xã hội chủ nghĩa còn lại, như Trung Quốc, Việt Nam và một số nước khác. Nghiên cứu, giải quyết mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn đối với Việt Nam hiện nay. Trước hết là yêu cầu tổng kết lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, bổ sung và phát triển trong điều kiện mới, sau hơn 90 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, cũng là chuẩn bị kỷ niệm 100 năm nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam vào năm 2045, Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Tiếp đó, tầm quan trọng của nghiên cứu vấn đề này còn được đòi hỏi từ thực tiễn, tiếp tục đưa công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu, phát huy những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong điều kiện mới, đồng thời khắc phục những sai lầm, khuyết điểm đã từng có trong lịch sử cả ở Việt Nam và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một số nước trên thế giới. Cuối cùng, một nhiệm vụ quan trọng,
- 14 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ... đó là bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái của các thế lực cơ hội, thù địch về các vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và vấn đề mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất nói riêng. Hà Nội, tháng 9 năm 2021 T/M TẬP THỂ TÁC GIẢ PGS.TS. Phạm Văn Linh
- 15 Chương I NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀ VẬN DỤNG CỦA MỘT SỐ ĐẢNG CỘNG SẢN TRÊN THẾ GIỚI VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT I- TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUAN ĐIỂM CỦA C. MÁC, PH. ĂNGGHEN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT 1. Những tiền đề lý luận và thực tiễn cho sự hình thành lý luận của C. Mác và Ph. Ăngghen về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất a) Tiền đề lý luận Phép biện chứng duy vật của C. Mác được hình thành, phát triển trên cơ sở nghiên cứu toàn bộ lịch sử loài người, đó là sự kế thừa có chọn lọc, từ thấp đến cao toàn bộ tư tưởng nhân loại. Trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, quan niệm duy vật về lịch sử chưa hình thành với tư cách là hệ thống lý luận khoa học. Trong tác phẩm đó, tuy C. Mác chưa đưa ra các khái niệm như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, phương thức sản xuất, hình thái kinh tế - xã hội,... nhưng các quan điểm duy vật biện chứng đã cơ bản được
- 16 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ... xác lập. Ông được coi là người đi đầu trong việc xây dựng quan niệm duy vật lịch sử, tiếp thu những yếu tố tích cực từ những nhà tư tưởng trước đó. Trước hết là tư tưởng của Giambaxtixta Vicô (1688 - 1774) người Italia, về sự tiến triển lôgíc trong lịch sử, cho rằng lịch sử loài người là sự phát sinh, hình thành của lịch sử dân tộc, lịch sử nhân loại phát triển theo chu kỳ khép kín. Tiếp theo là tư tưởng của G.G. Rútxô (1712 - 1778), đã mô tả xu thế chung của lịch sử loài người, thông qua sự phát triển của các quan hệ xã hội và diễn ra theo quy luật phủ định của phủ định. Sau đó, phải kể đến tư tưởng vĩ đại của Hêghen (1770 - 1831), chia lịch sử nhân loại thành ba thời kỳ: thời kỳ phương Đông, thời kỳ cổ đại, thời kỳ Giécmanh. Ông đã thấy được lôgíc tiến triển của lịch sử, không giới hạn trong phạm vi dân tộc mà trong phạm vi toàn thế giới. Một đại biểu khác là Xanh Ximông (1760 - 1825), người theo tư tưởng chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp, đã phân chia lịch sử loài người thành các giai đoạn phát triển chủ yếu, gắn với các hệ thống xã hội khác nhau: thời cổ đại với hệ thống xã hội xây dựng trên cơ sở chế độ chiếm hữu nô lệ; thời trung đại với hệ thống xã hội xây dựng trên cơ sở chế độ phong kiến; thời kỳ cận đại với hệ thống xã hội xây dựng trên cơ sở chế độ tư bản chủ nghĩa. Ông đã lấy các tổ chức xã hội làm đơn vị để phân chia các giai đoạn phát triển lịch sử và lấy phương thức lao động làm yếu tố đặc trưng cho mỗi giai đoạn. Một nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng khác là Phuriê Sáclơ (1772 - 1837), đã chia lịch sử loài người thành bốn giai đoạn: giai đoạn mông muội, giai đoạn dã man, giai đoạn gia trưởng, giai đoạn văn minh. Đây là tư tưởng về sự phân kỳ xã hội thành những giai đoạn khác nhau của lịch sử
- Chương I: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN... 17 theo xu hướng phát triển của loài người, mỗi giai đoạn được đặc trưng bởi những biểu hiện của mối quan hệ giữa người với người. Đặc biệt, Phuriê Sáclơ đã thấy được mâu thuẫn của quá trình phát triển lịch sử, nhất là trong giai đoạn văn minh. Tiếp theo, trong các thế kỷ XVI - XVII đã xuất hiện trên thực tế các trào lưu tư tưởng chủ nghĩa xã hội, trở thành hệ thống được miêu tả sinh động phong phú qua các tác phẩm văn học, với các đại biểu như Campanela, Tômat Morơ, Uyn Xtenli... Từ thế kỷ XV, đến cuối thế kỷ XVIII, chủ nghĩa tư bản ra đời, phát triển ở một số nước, trước hết là ở châu Âu. Sự phân hóa giai cấp diễn ra mạnh mẽ, mâu thuẫn giai cấp diễn ra gay gắt. Giai cấp tư sản đã từng bước thiết lập địa vị thống trị và dùng nhiều phương thức áp bức, bóc lột tàn bạo đối với người lao động. Trong hoàn cảnh lịch sử đó đã xuất hiện các nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng. Thông qua các tác phẩm “văn học nhân đạo”, các nhà tư tưởng thời cận đại đã lên án, phê phán chế độ tư hữu, đòi hỏi phải thay thế xã hội đó bằng một xã hội mới thực sự tự do, công bằng, bác ái. Giai đoạn này có rất nhiều đại biểu ưu tú, điển hình là: Tômát Morơ (1478 - 1535) tác giả của tác phẩm văn học có tư tưởng xã hội chủ nghĩa không tưởng đầu tiên, tác phẩm Không tưởng (Utôpi). Tômađô Campanenla (1568 - 1639) là tác giả của tác phẩm văn học Thành phố mặt trời. Thế kỷ XVIII đã xuất hiện một loạt học thuyết xã hội của Môrenli, Giăng Mêliê, Giắccơ Babơp, Mabli... Lần đầu tiên trong lịch sử, Grắccơ Babớp (1760 - 1797) và những người bạn cùng chí hướng, đã bàn đến vấn đề đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội, với tính cách một phong trào thực tiễn, chứ không chỉ
- 18 GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ... là tư tưởng. Cuốn Tuyên ngôn của những người bình dân của chủ nghĩa Babớp được coi là cương lĩnh hành động, chưa từng có trong lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa trước đây, với những biện pháp, những nhiệm vụ cụ thể cần thực hiện ngay trong quá trình hành động, để đưa đến xã hội mới công bằng. Đỉnh cao của trào lưu chủ nghĩa xã hội không tưởng, gồm các đại biểu là: S. Phuriê, R. Ôoen, Xanh Ximông. Chủ nghĩa xã hội không tưởng - phê phán xuất hiện từ cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, khi cuộc cách mạng công nghiệp về cơ bản hoàn thành ở Anh và sau đó tiếp tục diễn ra ở một số nước Tây Âu. Đây là giai đoạn chủ nghĩa tư bản lật đổ chế độ phong kiến, giai cấp tư sản đã bắt đầu bộc lộ bản chất cố hữu: bóc lột, áp bức nhân dân lao động vì quyền lợi giai cấp; cũng là giai đoạn giai cấp công nhân hiện đại, hình thành và bắt đầu thức tỉnh về ý thức chính trị. Trong thời kỳ này, tư tưởng xã hội chủ nghĩa được thể hiện như là một học thuyết. Chủ nghĩa xã hội không tưởng - phê phán đã phê phán sâu sắc xã hội tư bản chủ nghĩa, đồng thời đề xuất biện pháp, con đường và những dự đoán thiên tài về xã hội tương lai. Tư tưởng nổi bật ở giai đoạn này, được thể hiện ở quan điểm của Rôbớt Ôoen (1771 - 1858) - nhà nhân đạo chủ nghĩa, nhà tư tưởng nổi tiếng và nhà cộng sản thực nghiệm. Khác với S. Phuriê và C.H. Xanh Ximông, điểm nổi bật trong học thuyết của Ôoen là khuynh hướng phủ nhận và lên án chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất một cách sâu sắc và toàn diện. Ông cho rằng, chế độ sở hữu tư nhân đã và đang là nguyên nhân của vô số tội phạm, tai họa mà con người phải chịu đựng, là nguyên nhân gây ra sự gian lận, lừa đảo, mại dâm,
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Tiểu luận Triết học: Vận dụng quan điểm triết học Mác xit về qui luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất để phát triển những thành tựu, hạn chế trong phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong giai đoạn từ đổi mới đến nay
15 p | 2837 | 887
-
Tiểu luận triết học - Vấn đề đổi mới lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong quá trình công ngh
36 p | 560 | 126
-
Vai trò quan hệ sản xuất trong nền kinh doanh
38 p | 381 | 67
-
Đề tài thảo luận: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất (hay quy luật QHSX phải phù hợp với trình độ phát triển của LLSX). Sự vận động quy luật này trong cuộc đổi mới, xây dựng đất nước như thế nào?
20 p | 325 | 40
-
Quá trình hình thành và phương pháp liên kết mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
22 p | 187 | 34
-
Vai trò của sản xuất vật chất và quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
27 p | 250 | 27
-
Nghiên cứu giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong giai đoạn hiện nay: Phần 1
206 p | 36 | 15
-
Nghiên cứu giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong giai đoạn hiện nay: Phần 2
208 p | 38 | 13
-
Xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp ở Việt Nam hiện nay
7 p | 239 | 13
-
Giải quyết mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phải phù hợp với thực tiễn Việt Nam
7 p | 173 | 11
-
Một số vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và từng bước xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
9 p | 115 | 11
-
Những nhân tố ảnh hưởng đến việc giải quyết quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất
5 p | 94 | 8
-
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất: Phần 1
302 p | 22 | 8
-
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất: Phần 2
300 p | 17 | 8
-
Quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở nước ta trong thời kỳ đổi mới
9 p | 67 | 6
-
Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn: Phần 2
198 p | 10 | 6
-
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đặc trưng “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”
13 p | 6 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn