BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
CAO HƯNG THÁI QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG KHÁM, CHỮA BỆNH CỦA BỆNH VIỆN CÔNG LẬP VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH CÔNG
Hà Nội - 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
CAO HƯNG THÁI QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG KHÁM, CHỮA BỆNH CỦA BỆNH VIỆN CÔNG LẬP VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH CÔNG
MÃ SỐ: 62 34 82 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS. TS. Lê Thị Vân Hạnh
2. GS.TS. Nguyễn Công Khẩn
Hà Nội - 2019
LỜI CẢM ƠN
Nhân dịp Luận án được hoàn thành, cho phép tôi được bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc và lời cảm ơn chân thành tới:
PGS. TS. Lê Thị Vân Hạnh và GS.TS. Nguyễn Công Khẩn
là Thầy, Cô đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong quá trình
hoàn thành Luận án này;
Ban Giám đốc, các thầy, cô giáo và cán bộ Học viện Hành chính
quốc gia, Ban Quản lý đào tạo sau đại học và Khoa Khoa học hành
chính và Tổ chức nhân sự của Học viện đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi
trong suốt thời gian tôi học tập và nghiên cứu tại Học viện.
Ban Lãnh đạo và cán bộ công chức Cục Quản lý Khám, chữa
bệnh - Bộ Y tế; bạn bè, đồng nghiệp và Gia đình đã tạo mọi điều kiện,
động viên tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu thực hiện Luận án.
Hà Nội, ngày 10 tháng 05 năm 2019
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Cao Hưng Thái
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng
tôi. Các tư liệu, số liệu được sử dụng và trích dẫn trong Luận án này là
trung thực và có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng, chính xác. Kết quả nghiên
cứu của Luận án chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.
Tác giả Luận án
Cao Hưng Thái
MỤC LỤC
Mở ĐầU .................................................................................................................. 1 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN…………………………………………………………….….10
1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài ............................................... 10
1.2. Nhận xét, đánh giá về các công trình nghiên cứu đã tổng quan ....................... 27
KếT LUậN CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 30 CHƯƠNG 2 CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG KHÁM, CHỮA BỆNH CỦA BỆNH VIỆN ……………….……………………………...31
2.1. Chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện .................................................... 31
2.2. Quản lý chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện ....................................... 41
KếT LUậN CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 77 CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG KHÁM, CHỮA
BỆNH CỦA BỆNH VIỆN CÔNG LẬP VIỆT NAM……………………….…..78
3.1. Thực trạng chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện công lập ..................... 78
3.2. Thực trạng quản lý chất lượng khám chữa bệnh của bệnh viện công lập Việt Nam ...................................................................................................................... 85
3.3. Đánh giá chung về quản lý chất lượng KCB của bệnh viện ........................... 118
KếT LUậN CHƯƠNG 3 .................................................................................... 122 CHƯƠNG 4 ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG
KHÁM, CHỮA BỆNH CỦA BỆNH VIỆN CÔNG LẬP VIỆT NAM……….123
4.1. Quan điểm chỉ đạo, định hướng của Đảng và Nhà nước về công tác khám, chữa bệnh .................................................................................................................... 123
4.2. Một số giải pháp quản lý chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện công lập Việt Nam ............................................................................................................. 134
KếT LUậN CHƯƠNG 4 .................................................................................... 147
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ................. 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 152
BẢNG DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Bảo hiểm y tế
BHYT
Chứng chỉ hành nghề
CCHN
Công nghệ thông tin
CNTT
Chăm sóc sức khỏe
CSSK
Cơ sở y tế
CSYT
Giấy phép hoạt động
GPHĐ
Kinh tế - xã hội
KTXH
Quản lý nhà nước
QLNN
QPPL
Quy phạm pháp luật
ISO
Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hóa
KCB
Khám, chữa bệnh
NSNN
Ngân sách nhà nước
PDCA
Hoạch định-Thực hiện-Kiểm tra-Khắc phục
QLCL
Quản lý chất lượng
TW
Trung ương
WHO
Tổ chức Y tế Thế giới
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1: Số bệnh viện theo các tuyến giai đoạn 2014 - 2016 .......................... 80 Bảng 3.2: Số giường bệnh theo các tuyến, giai đoạn 2014- 2016 ...................... 81 Bảng 3.3: Bác sỹ, Y sỹ, điều dưỡng theo loại hình ........................................... 81 Bảng 3.4: Kết quả hoạt động khám chữa bệnh ngoại trú và nội trú 2014 – 2016 ......................................................................................................................... 83 Bảng 3.5: Điểm đánh giá chất lượng trung bình của ......................................... 84 Bảng 3.6: Điểm đánh giá chất lượng trung bình của 37 bệnh viện .................... 84 Bảng 3.7: Kết quả điểm đánh giá chất lượng trung bình của một số bệnh viện 104 Bảng 3.8: Tác động của Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện ................ 105 Bảng 3.9: Một số tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện chưa phù hợp ......... 107 Bảng 3.10: Phân loại bệnh viện theo nhân lực ................................................ 111 Bảng 3.11: Công tác triển khai các biện pháp đảm bảo ................................... 112
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Phân loại bệnh viện theo phân hạng ............................................ 108 Biểu đồ 3.2: Phân loại bệnh viện theo loại hình hoạt động.............................. 109 Biều đồ 3.3: Phân loại theo tổ chức, quản lý bệnh viện ................................... 110 Biểu đồ 3.4: Đội ngũ viên chức làm công tác quản lý chất lượng ................... 111 Biểu đồ 3.5: Nhân lực đào tạo về quản lý chất lượng……………………………….111 Biểu đồ 3.6: Phân loại bệnh viện theo xây dựng quy trình xử lý sự cố ............ 112 Biểu đồ 3.7: Phương pháp, mô hình quản lý chất lượng ................................. 113 Biểu đồ 3.8: Lĩnh vực áp dụng ....................................................................... 113 Biều đồ 3.9: Tỷ lệ bệnh viện áp dụng CNTT trong QLCL bệnh viện .............. 114 Biểu đồ 3.10: Kết quả đánh giá chất lượng năm 2013 -2015 của 37 bệnh viện 115 Biểu đồ 3.11: Hình thức khen thưởng, xử phạt trong QLCL bệnh viện………115 Biểu đồ 3.12: Số cán bộ, nhân viên khen thưởng, kỷ luật trong năm 2015 ...... 116 Biểu đồ 3.13: Nguồn lực cho hoạt động QLCL khám chữa bệnh .................... 117 Biểu đồ 3.14: Những khó khăn khi triển khai QLCL khám, chữa bệnh ........... 117 Biểu đồ 3.15: Những kiến nghị, đề xuất ......................................................... 118
DANH MỤC SƠ ĐỒ Sơ đồ 1: Hệ thống quản lý chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện............. 46 Sơ đồ 2: Sơ đồ hệ thống tổ chức ngành y tế …………………………………....78 Sơ đồ 3: Mô hình tổ chức hệ thống KCB Việt Nam……………………………79
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Khi nói đến chất lượng cuộc sống của con người, chúng ta thường đề cập đến
vấn đề sức khỏe. Sức khỏe là trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất, tâm thần và
xã hội chứ không phải chỉ đơn thuần là tình trạng không có bệnh hay thương tật. Có
một sức khỏe tốt nhất là một trong những quyền cơ bản của con người dù thuộc bất
kỳ chủng tộc, tôn giáo, niềm tin, chính trị điều kiện kinh tế xã hội nào [90].
Do đó, sức khỏe là một trong những mục tiêu quan trọng của tiến trình phát
triển và được đặt ở vị trí cao: “Sức khỏe là vốn quý nhất của con người, là một
trong những điều kiện cơ bản để con người sống hạnh phúc, là mục tiêu và là nhân
tố quan trọng trong việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và bảo vệ Tổ quốc”[40].
Sức khỏe con người ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như môi trường thiên nhiên
(đất, nước, không khí, khí hậu); môi trường xã hội (văn hóa, giáo dục, lao động, học
tập); sinh học và di truyền; ý thức tự giữ gìn sức khỏe của mỗi người (rèn luyện
thân thể, vệ sinh cá nhân, chế độ ăn uống, thói quen sinh hoạt) và đặc biệt là các
hoạt động y tế. Để có sức khỏe tốt con người cần phải phòng bệnh chủ động và tích
cực, triển khai tổ chức các biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi
trường, vệ sinh lao động, vệ sinh học đường, khám sức khỏe định kỳ, tiêm chủng
mở rộng, kiểm dịch, phòng chống dịch bệnh và chỉ đến khi bị ốm đau, bệnh tật, tai
nạn, thì mới cần đến các cơ quan y tế tiến hành việc cấp cứu, khám, chữa bệnh,
phục hồi chức năng tùy theo tình trạng sức khỏe, thương tích của mỗi người. Có thể
nói sức khỏe và y tế có mối quan hệ mật thiết, hữu cơ với nhau.
Trong quá trình phát triển, tùy vào thể chế chính trị và điều kiện kinh tế-xã
hội, chính phủ mỗi nước đều có định hướng phát triển sự nghiệp y tế, ban hành các
chiến lược, chính sách và sử dụng công cụ quản lý nhà nước để can thiệp, điều tiết,
hỗ trợ hoạt động y tế cũng như kiểm soát chất lượng dịch vụ y tế sao cho đảm bảo
tính hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước và sử dụng một cách hợp lý nguồn
1
ngân sách nhà nước đầu tư cho y tế. Đồng thời, giúp người dân dễ dàng tiếp cận, thụ
hưởng dịch vụ y tế có chất lượng đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng
cao của nhân dân góp phần thực hiện công bằng, đảm bảo an sinh xã hội.
Ở các nước phát triển như các nước Bắc Âu (nhà nước phúc lợi), Mỹ, Anh,
Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc, vv, hoạt động cung cấp dịch vụ y tế nói chung và dịch
vụ khám chữa bệnh nói riêng được quan tâm đầu tư phát triển. Quản lý nhà nước
đối với các hoạt động cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh khá hoàn thiện, từ khung
pháp lý, đến tổ chức bộ máy quản lý nhà nước, các công cụ hỗ trợ, kiểm tra, giám
sát đánh giá để hoạt động cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh tuân thủ đúng pháp luật
và đảm bảo chất lượng. Các bệnh viện liên tục áp dụng các phương pháp quản lý
chất lượng mới như quản lý chất lượng toàn diện, quản lý chất lượng theo tiêu
chuẩn ISO, đánh giá chất lượng bệnh viện theo tiêu chuẩn JCI vv nhằm duy trì và
không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả khám chữa bệnh, đáp ứng sự hài lòng
của người bệnh.
Khoảng 20 năm trở lại đây, các nước trong khu vực Asean như Xinh-ga-po,
Thái Lan, Ma-lay-xi-a đã có chính sách quản lý chất lượng khám, chữa bệnh thông
qua các công cụ pháp luật và các chương trình nâng cao chất lượng quốc gia; các cơ
sở y tế đã triển khai thực hiện và đẩy mạnh việc áp dụng quản lý chất lượng theo
tiêu chuẩn ISO và JCI. Nhiều bệnh viện đã xây dựng và duy trì thương hiệu “bệnh
viện chất lượng” được thế giới và khu vực công nhận, đáp ứng nhu cầu và thu hút
được nhiều người dân đến khám chữa bệnh.
Ở nước ta, trong thời kỳ đổi mới, nhất là từ khi Luật khám bệnh, chữa bệnh
được ban hành và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2011, tạo dấu ấn quan trọng
trong hoạt động quản lý cũng như cung ứng dịch vụ khám chữa bệnh, với mục tiêu
lấy người bệnh làm trung tâm, đảm bảo an toàn người bệnh, thực hiện công khai,
công bằng, hiệu quả trong khám bệnh, chữa bệnh, khuyến khích các cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh áp dụng tiêu chuẩn quản lý chất lượng bệnh viện, nhờ đó, công tác
y tế nói chung và khám chữa bệnh nói riêng có nhiều đổi mới và tiến bộ. Hệ thống
chính sách, pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh tiếp tục được hoàn thiện; hệ thống
bệnh viện công lập được quan tâm đầu tư, củng cố nâng cấp cả về cơ sở vật chất,
2
trang thiết bị và nhân lực; năng lực khám chữa bệnh của các bệnh viện từng bước
được tăng cường góp phần năng cao chất lượng khám chữa bệnh đáp ứng sự hài
lòng của người bệnh.
Tuy nhiên, công tác khám, chữa bệnh thời gian qua còn bộc lộ nhiều hạn chế,
bất cập chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân [5] và đang đứng trước
những khó khăn thách thức:
Thứ nhất, thách thức giữa một bên là nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân
ngày càng tăng cao cả về số lượng lẫn chất lượng và một bên là năng lực cung ứng
dịch vụ khám, chữa bệnh của các cơ sở khám, chữa bệnh còn hạn chế, chưa đáp ứng
cả về quy mô lẫn chất lượng dịch vụ. Hiện nay, mô hình bệnh tật ở Việt Nam ngày
càng đa dạng và phức tạp. Bệnh không lây nhiễm gia tăng, bệnh lây nhiễm diễn
biến phức tạp, nhiều bệnh dịch mới nổi vv. Mặt khác, điều kiện kinh tế xã hội phát
triển, thu nhập của người dân tăng lên, giao thông thuận tiện hơn, dẫn đến nhu cầu
khám chữa bệnh của người dân tăng lên, trong khi đó các bệnh viện chưa được đầu
tư, nâng cấp kịp thời, nhiều bệnh viện cơ sở vật chất trang thiết bị đã xuống cấp,
năng lực chuyên môn của bệnh viện còn hạn chế, quá tải bệnh viện xảy ra ở các
bệnh viện Trung ương và bệnh viện tuyến cuối ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh.
Thứ hai, trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập khu vực và thế giới, trong đó
có y tế dẫn đến sự thay đổi nhanh chóng về khoa học công nghệ trong y tế, nhất là
công nghệ thông tin, đòi hỏi các bệnh viện Việt Nam phải kịp thời thay đổi cả về
công nghệ lẫn quản lý để cung ứng dịch vụ khám chữa bệnh cho nhân dân đảm bảo
chất lượng và an toàn. Điều đó, có nghĩa là chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh
viện Việt Nam phải đạt được một chuẩn mực chất lượng tối thiểu và thường xuyên
phải nâng cao hơn, phù hợp tiêu chuẩn chất lượng của khu vực và thế giới.
Thứ ba, khám, chữa bệnh là loại hình dịch vụ đặc biệt, liên quan đến sức
khỏe và tính mạng của con người. Đối tượng sử dụng, thụ hưởng dịch vụ khám,
chữa bệnh là người bệnh, khi mắc bệnh họ cần phải nhanh chóng, kịp thời đến cơ sở
khám chữa bệnh phù hợp để được cấp cứu, khám và điều trị, vì thế họ không có
3
hoặc ít có cơ hội để lựa chọn cơ sở khám, chữa bệnh.
Hệ thống bệnh viện Việt Nam hiện nay bao gồm cả công lập và ngoài công
lập. Tuy nhiên, hệ thống bệnh viện công lập do Nhà nước thành lập với quy mô lớn,
có vai trò chủ đạo, quyết định trong cung cấp dịch vụ khám, chữa bệnh cho nhân
dân. Tính đến 31/12/2016 cả nước có 1424 bệnh viện với 252.600 giường bệnh,
trong đó có 1252 bệnh viện công lập (chiếm 88%) với 239.544 giường bệnh (chiếm
95%) và 172 bệnh viên tư nhân (chiếm 12%) với 13.056 giường bệnh (chiếm 5 %).
Bên cạnh đó, hiện nay đang có sự thay đổi cơ chế quản lý đối với bệnh viện công
lập hướng đến mục tiêu công bằng, hiệu quả và phát triển trong hoạt động khám,
chữa bệnh. Bệnh viện công lập do nhà nước đầu tư, thành lập và quy định cơ chế
hoạt động, cơ chế tài chính, cơ chế quản lý nhân lực và tổ chức điều hành hoạt động
của bệnh viện nhằm thực hiện mục tiêu nhiệm vụ của nhà nước. Các bệnh viện đang
triển khai, thực hiện chủ trương của nhà nước giao quyền tự chủ, tự chịu trách
nhiệm cho các bệnh viện, tạo điều kiện cho bệnh viện phát huy hết khả năng của
mình, vì thế Nhà nước cần phải có cơ chế quản lý, kiểm soát để đánh giá, hạch toán
chi phí và hiệu quả hay nói cách khác là phải tăng cường quản lý chất lượng khám,
chữa bệnh của bệnh viện công lập.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, bản thân nghiên cứu sinh là
công chức đã có thời gian công tác lâu năm trong ngành y tế và hiện đang công tác
tại Cục Quản lý Khám, chữa bệnh là cơ quan có chức năng tham mưu cho Bộ
trưởng Bộ Y tế quản lý nhà nước về lĩnh vực khám, chữa bệnh, nhận thức được vai
trò quan trọng của công tác quản lý chất lượng, những vấn đề hạn chế, bất cập và
những khó khăn thách thức hiện nay trong quản lý chất lượng khám, chữa bệnh.
Những vấn đề này cần phải sớm được khắc phục, giải quyết góp phần nâng cao chất
lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân.
Chính vì vậy, để có bằng chứng khoa học cho việc xây dựng chính sách và
hoàn thiện cơ chế quản lý, đồng thời nhằm giải quyết được những vấn đề nêu trên,
nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài: “Quản lý chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh
viện công lập Việt Nam”
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về quản lý chất lượng khám, chữa
bệnh, luận án đề xuất một số giải pháp tăng cường quản lý chất lượng khám, chữa
bệnh của bệnh viện công lập, góp phần vào sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao
sức khỏe nhân dân.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích đặt ra, đề tài luận án tập trung giải quyết các
nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, phân tích làm
rõ những nội dung đề tài luận án có thể kế thừa, những nội dung, vấn đề luận án cần
tiếp tục nghiên cứu.
- Nghiên cứu tổng hợp và bổ sung cơ sở lý luận về quản lý chất lượng khám
chữa bệnh của bệnh viện: làm rõ các khái niệm và các yếu tố liên quan; phân tích
nội dung quản lý chất lượng bao gồm nội dung quản lý nhà nước và nội dung quản
lý chất lượng tại bệnh viện; nghiên cứu phân tích mô hình, phương pháp quản lý
chất lượng và bài học kinh nghiệm quốc tế về quản lý chất lượng khám chữa bệnh.
- Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý chất lượng khám
chữa bệnh của bệnh viện công lập ở nước ta hiện nay: phân tích kết quả đạt được,
những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế.
- Tổng hợp các quan điểm, định hướng và đề xuất một số giải pháp quản lý
chất lượng khám chữa bệnh của bệnh viện công lập phù hợp với quan điểm, định
hướng của Đảng và Nhà nước đáp ứng nhu cầu bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức
khỏe nhân dân và hội nhập quốc tế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
5
Đối tượng nghiên cứu của luận án là quản lý chất lượng khám chữa bệnh của
bệnh viện bao gồm quản lý nhà nước về chất lượng khám chữa bệnh và quản lý chất
lượng tại bệnh viện:
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án xác định phạm vi nghiên cứu như sau:
- Về nội dung: tập trung nghiên cứu các hoạt động quản lý chất lượng khám,
chữa bệnh của bệnh viện công lập gồm:
+ Hoạt động quản lý nhà nước (chủ thể Nhà nước), giới hạn ở cơ quan quản
lý cấp Trung ương.
+ Hoạt động quản lý chất lượng khám chữa bệnh tại bệnh viện (Chủ thể bệnh
viện) giới hạn đối tượng là các bệnh viện Trung ương trực thuộc Bộ Y tế.
- Về thời gian: giai đoạn từ năm 2011 trở lại đây, thời điểm Luật khám bệnh,
chữa bệnh có hiệu lực thi hành. Trong quá trình phân tích đánh giá có thể sử dụng
dữ liệu có trước 2011.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác-Lê
Nin về phép biện chứng duy vật và lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác y tế để diễn giải, phân tích và luận
giải hoạt động quản lý chất lượng khám chữa bệnh của bệnh viện công lập ở Việt
Nam.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Phương pháp phân tích tài liệu thứ cấp: Nghiên cứu sinh tập trung nghiên
cứu, tham khảo, phân tích các tài liệu như sách, tạp chí, các bài viết đã công bố, các
công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài ở trong nước và nước ngoài đề hình
thành các luận điểm, luận cứ và luận chứng về quản lý chất lượng khám chữa bệnh
6
của bệnh viện công lập Việt Nam.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Để xác định thực trạng chất lượng và
quản lý chất lượng khám chữa bệnh của các bệnh viện công lập một cách khoa học,
khách quan, trung thực. Nghiên cứu sinh thiết kế phiếu điều tra (bảng câu hỏi); gửi
phiếu điều tra đến 37 bệnh viện trung ương trực thuộc Bộ Y tế thuộc đối tượng
nghiên cứu của đề tài, để thu thập số liệu nghiên cứu; sau đó thống kê, tổng hợp, xử
lý số liệu bằng phần mềm Stata 12.
- Phương pháp phỏng vấn trưng cầu ý kiến: Nghiên cứu sinh tổ chức phỏng
vấn trưng cầu ý kiến các thành viên hội đồng kiểm tra đánh giá chất lượng bệnh
viện của các bệnh viện Trung ương trực thuộc Bộ Y tế, là những người trực tiếp tổ
chức triển khai thực hiện công tác quản lý chất lượng tại bệnh viện, có kiến thức,
kinh nghiệm sâu về quản lý chất lượng để nhằm bổ sung, kiểm chứng những nhận
định đánh giá và các đề xuất của luận án.
5. Câu hỏi nghiên cứu và giả thiết khoa học của đề tài
5.1. Câu hỏi nghiên cứu
Đề tài luận án giải quyết một số câu hỏi nghiên cứu chính sau đây:
Thứ nhất, chất lượng khám, chữa bệnh, quản lý chất lượng khám, chữa bệnh
của bệnh viện công lập được hiểu như thế nào? Đo lường bằng gì? Bao gồm những
nội dung gì? Phụ thuộc những yếu tố nào? Quản lý chất lượng khám, chữa bệnh ở
các nước trên thế giới như thế nào, có thể rút ra bài học gì để áp dụng vào thực tiễn
Việt Nam.
Thứ hai, thực trạng quản lý chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện công
lập bao gồm quản lý nhà nước và quản lý chất lượng tại bệnh viện hiện nay? Việc
thực hiện thí điểm bộ tiêu chí đánh giá chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện
được thực hiện như thế nào?
Thứ ba, các quan điểm, định hướng quản lý chất lượng khám chữa bệnh của
bệnh viện hiện nay là gì? Những giải pháp quản lý nhà nước nào cần thực hiện để
nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện công lập Việt Nam trong thời
7
gian tới?
5.2. Giả thuyết khoa học
Từ các câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu của đề tài luận án là:
Thứ nhất, các khái niệm liên quan chất lượng khám, chữa bệnh và quản lý
chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện chưa rõ, được hiểu khác nhau; nội dung
và các yếu tố liên quan đến quản lý chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện chưa
được làm rõ; có sự khác biệt về quản lý chất lượng khám, chữa bệnh ở Việt Nam và
các nước trên thế giới.
Thứ hai, hoạt động quản lý chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện công
lập Việt Nam còn những hạn chế, bất cập; chưa có bộ công cụ đo lường chuẩn để
đánh giá; chưa đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân.
Thứ ba, cần phải có giải pháp mới và thay đổi cách thực hiện quản lý chất
lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện công lập phù hợp với các quan điểm, định
hướng của Đảng và Nhà nước, đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng
tăng cao của nhân dân và xu thế hội nhập quốc tế.
6. Những đóng góp mới của luận án
Luận án được hoàn thành, là công trình nghiên cứu chuyên sâu thuộc chuyên
ngành quản lý hành chính công. Luận án có một số đóng góp mới cụ thể sau:
- Thông qua tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, tìm
ra khoảng trống còn bỏ ngỏ cần nghiên cứu tiếp về lý luận và thực tiễn về chất
lượng khám, chữa bệnh và quản lý chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện công
lập Việt Nam.
- Làm rõ các khái niệm, nội dung và các yếu tố liên quan tác động đến chất
lượng và quản lý chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện; chỉ ra các mô hình,
phương pháp quản lý chất lượng các nước tiến tiến đang áp dụng, rút ra bài học
kinh nghiệm có thể áp dụng cho Việt Nam.
- Luận án đã khắc họa được bức tranh thực trạng về chất lượng và quản lý
chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện công lập ở Việt Nam (từ phía nhà nước
8
và các bệnh viện).
- Đề xuất được một số giải pháp mới về quản lý chất lượng khám, chữa bệnh
của bệnh viện công lập phù hợp với quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước
đáp ứng nhu cầu bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân và hội nhập quốc
tế.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài luận án
Luận án góp phần bổ sung và làm phong phú thêm lý luận về quản lý chất
lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện, đặc biệt là bệnh viện công lập; góp phần làm
sáng tỏ một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với dịch vụ khám chữa bệnh,
đồng thời chỉ rõ thực trạng và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện quản lý chất
lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo hữu ích cho các nghiên cứu viên,
giảng viên và sinh viên trong công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập tại các cơ sở
đào tạo khoa học hành chính và y tế. Đồng thời, cũng có thể làm tài liệu tham khảo
đối với các cán bộ, công chức, viên chức, các nhà quản lý y tế trong công tác nghiên
cứu, thực hiện nhiệm vụ chuyên môn và hoạch định chính sách trong lĩnh vực
khám, chữa bệnh.
8. Nội dung luận án
Nội dung luận án được bố cục thành các phần sau:
Mục lục; mở đầu;
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án;
Chương 2: Cơ sở khoa học về quản lý chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh
viện;
Chương 3: Thực trạng quản lý chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện
công lập Việt Nam;
Chương 4: Định hướng và giải pháp quản lý chất lượng khám, chữa bệnh
của bệnh viện công lập Việt Nam;
9
Kết luận; tài liệu tham khảo; phụ lục.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
1.1.1. Công trình nghiên cứu quản lý nhà nước về chất lượng khám,
chữa bệnh
Công trình nước ngoài
- Cuốn sách “Đo lường và quản lý chất lượng y tế” của các tác giả
Maimunah A. Hamid, Sondi Sararaks, A.F.AI-Assaf, Low Lee Lan thuộc Viện
Nghiên cứu hệ thống y tế Bộ Y tế Malaysia đã chỉ ra rằng quản lý chất lượng y tế có
liên quan chặt chẽ tới việc cải thiện chăm sóc sức khỏe, muốn vậy hệ thống QLCL y
tế phải được xây dựng dựa trên các kinh nghiệm thực tiễn và lý luận của các tác giả
có uy tín. Cuốn sách cũng chỉ ra, phân tích, nêu ra các hợp phần đào tạo, trong đó:
Hợp phần xúc tiến chất lượng trình bày tổng quan về các khái niệm chung, các hoạt
động và lợi ích của việc thực hiện các hoạt động đảm bảo chất lượng trong nội bộ tổ
chức y tế; hợp phần thực hiện chất lượng và cải thiện kết quả thực hiện bao gồm các
nội dung như lên kế hoạch, triển khai và đánh giá các hoạt động đảm bảo chất
lượng, thể chế hóa đảm bảo chất lượng; hợp phần quản lý kết quả thực hiện đề cập
đến một loạt vấn đề liên quan đến QLCL như nguyên tắc QLCL, xu hướng tiến
triển hiện nay; hợp phần tập huấn cho cán bộ đào tạo và đảm bảo chất lượng chỉ ra
cán bộ quản lý phải có năng lực quản lý cả về nội dung quản lý lẫn đường hướng
đào tạo [36].
- Nghiên cứu của Ali Mohammad Mosadeghrad về các yếu tố ảnh hưởng đến
chất lượng dịch vụ CSSK với mục đích chính là xác định các yếu tố ảnh hưởng đến
chất lượng CSSK trong bối cảnh Iran. Các cuộc phỏng vấn sâu cá nhân và các cuộc
phỏng vấn nhóm đã được thực hiện với 222 người thuộc các bên liên quan đến
10
CSSK bao gồm các nhà cung cấp dịch vụ y tế, các nhà quản lý, các nhà hoạch định
chính sách và người trả tiền để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng dịch
vụ y tế được cung cấp tại các tổ chức y tế Iran.
Kết quả nghiên cứu cho thấy: Chất lượng trong CSSK là sản phẩm hợp tác
giữa bệnh nhân và nhà cung cấp dịch vụ y tế trong một môi trường hỗ trợ. Các yếu
tố cá nhân của nhà cung cấp và bệnh nhân và các yếu tố liên quan đến tổ chức y tế,
hệ thống CSSK và môi trường rộng hơn sẽ ảnh hưởng đến chất lượng CSSK. Chất
lượng CSSK có thể được cải thiện bằng cách lãnh đạo có tầm nhìn hỗ trợ, lập kế
hoạch phù hợp, giáo dục và đào tạo, nguồn lực sẵn có, quản lý hiệu quả các nguồn
lực, nhân viên và quy trình và hợp tác giữa các nhà cung cấp.
Kết quả nghiên cứu góp phần vào lý thuyết và thực tiễn về CSSK bằng cách
xây dựng khung khái niệm cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách và các nhà
quản lý sự hiểu biết thực tế về các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ CSSK
[38].
- Nghiên cứu Jack A. Meyer, Sharon Silow-Carroll, Todd Kutyla, Larry S.
Stepnick, và Lise S. Rybowski Tháng 7 năm 2004 về bệnh viện chất lượng thành
phần cho thành công – Tổng quát và bài học kinh nghiệm. Các bệnh viện trên cả
nước đang tìm kiếm các cách để nâng cao chất lượng chăm sóc và thúc đẩy chiến
lược cải thiện chất lượng hiệu quả. Nghiên cứu này, bởi các thành viên của viện
nghiên cứu kinh tế và xã hội, xác định và mô tả các yếu tố chính đóng góp vào sự
thành công của bốn bệnh viện có thành tích cao trên cả nước. Theo nghiên cứu, yếu
tố thiết yếu của một thành công chiến lược, bao gồm phát triển văn hóa phù hợp, thu
hút và duy trì đúng người, lập ra và cập nhật các quy trình ngay tại nhà và cho nhân
viên các công cụ thích hợp để thực hiện công việc. Các ảnh hưởng bên ngoài, chẳng
hạn như cạnh tranh thị trường địa phương và sức khoẻ công cộng hoặc tư nhân, các
sáng kiến và tiêu chuẩn chất lượng cũng có tác động [74].
- Buciuniene và cộng sự (2006) đã nghiên cứu thái độ của các nhà quản lý
đối với hệ thống QLCL tại các bệnh viện điều dưỡng và điều trị hỗ trợ tại Latvia. Ở
quốc gia này, Bộ Y tế đã ban hành quy định áp dụng hệ thống QLCL trong các
11
CSYT. Theo quy định này, giám đốc các bệnh viện phải bắt đầu triển khai hệ thống
QLCL. Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu thái độ của các nhà quản lý bệnh viện đối
với việc áp dụng hệ thống QLCL. Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 1 đến tháng
3 năm 2005 với 72 phiếu điều tra bao gồm các câu hỏi theo thang điểm Likert với 7
mức độ. Tỷ lệ trả lời là 80,6%. Kết quả cho thấy các hệ thống QLCL đang được
thực hiện ở 39,7% các bệnh viện điều dưỡng và điều trị hỗ trợ. Điểm trung bình về
nhận thức hệ thống QLCL là 5,8. Những vấn đề quan trọng nhất liên quan đến việc
thực hiện hệ thống QLCL là: xây dựng các quy trình (điểm trung bình 5,5); thiếu
kinh phí triển khai (điểm trung bình 5,4); thiếu thông tin (điểm trung bình 5,1); và
xây dựng hướng dẫn thực hiện công việc (điểm trung bình 4,6). Trong khi đó khi áp
dụng hệ thống QLCL thì các đối tượng nghiên cứu cho rằng đem lại những lợi ích
chính là: trách nhiệm được đề cao và quyền lực được chia sẻ (điểm trung bình 5,2);
chất lượng dịch vụ tốt hơn (điểm trung bình 5,1); khách hàng hài lòng hơn (điểm
trung bình 5,1). Điểm trung bình hài lòng với hệ thống QLCL của các nhà quản lý tại
các bệnh viện điều tra ở mức trung bình (3,6) [67].
- Nghiên cứu của Heidari Gorji AM, Farooquye JA. Thông qua việc so sánh
các dịch vụ chăm sóc y tế tại ba nước được thực hiện dựa trên các tiêu chí CSSK
Baldrige đánh giá hiệu suất hoạt động xuất sắc năm 2009-2010 và các hướng dẫn
được đề xuất bởi Hiệp hội các bệnh viện Hoa Kỳ cho các bệnh viện. Các dữ liệu
được thu thập từ các thành phố và những vùng lân cận ở Ấn Độ và Iran. Sử dụng
phương pháp phân tích phương sai ANOVAs, ba nhóm lập kế hoạch và thực hiện
các phương pháp QLCL đã được so sánh. Những kết quả chỉ ra rằng có sự chênh
lệch đáng kể giữa các nhóm và trong mọi trường hợp, các bệnh viện ở Ấn Độ và
Iran đều gần đạt điểm chuẩn. Các điểm số trung bình của các bệnh viện ở Ấn Độ và
Iran về cấu trúc khác nhau của mô hình IHCQPM đã được so sánh với những kết
quả đạt được từ những người nhận các giải thưởng Chất lượng quốc gia Malcolm
Baldride. Trong mọi trường hợp, các bệnh viện Ấn Độ và Iran đều gần đạt điểm
chuẩn (các tiêu chí CSSK Baldrige đánh giá hiệu suất hoạt động xuất sắc năm 2009-
2010 và các hướng dẫn được đề xuất bởi Hiệp hội các bệnh viện Hoa Kỳ cho các
bệnh viện). Những kết quả này cho thấy rằng các dịch vụ CSSK cần được quan tâm
12
nhiều hơn để đạt được chất lượng cao trong quản lý và hoạt động [72].
- Nghiên cứu của Selbmann HK về đánh giá và chứng nhận chất lượng chăm
sóc y tế ở Đức cho thấy ngày càng có nhiều các cuộc gọi để đánh giá và chứng nhận
chất lượng của bệnh viện để thấy được sự minh bạch trong hệ thống CSSK ở Đức.
Các bệnh viện có thể tự đánh giá hay so sánh theo 4 cấp độ chất lượng: cấp độ của
các dịch vụ y tế, điều dưỡng tổ chức, cấp độ hệ thống chất lượng của bệnh viện, cấp
độ QLCL nội bộ và cấp độ hoạt động hiệu quả. Sự so sánh bên ngoài của những
bệnh viện được thành lập hợp pháp ở Đức với các đánh giá của các dịch vụ cốt lõi
của bệnh viện. Tất cả các cấp độ khác bao gồm các quy trình chứng nhận và cấp
đánh giá toàn diện theo mô hình của EFQM và ISO, các hệ thống chứng nhận y tế
chuẩn mực, hoặc xét duyệt chặt chẽ. Mỗi một hệ thống có những mục đích khác
nhau và tất cả đều được áp dụng tại các bệnh viện cấp cứu tại Đức. Tuy nhiên,
phương pháp của họ chưa được phát triển đầy đủ và chắc chắn sẽ phải được tối ưu
hóa hơn nữa để phù hợp với những thay đổi sắp tới của hệ thống y tế Đức [84].
Công trình trong nước
- Cuốn tài liệu “Đào tạo liên tục về quản lý chất lượng bệnh viện” của Cục
Quản lý Khám, chữa bệnh – Bộ Y tế sử dụng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý
các bệnh viện, xuất bản năm 2015 với 6 chủ đề chính bao gồm: đại cương về QLCL
bệnh viện, hướng dẫn công tác QLCL bệnh viện, đo lường chất lượng, vai trò của
người lãnh đạo, khuyến khích động viên nhân viên và phương pháp lập kế hoạch
chiến lược và đề án cải thiện chất lượng bệnh viện[13].
- Cuốn sách “Báo cáo chung tổng quan Ngành Y tế năm 2012, nâng cao chất
lượng dịch vụ khám, chữa bệnh” được xuất bản năm 2012 đã cập nhật tình trạng
sức khỏe và những yếu tố ảnh hưởng, cập nhật thực trạng hệ thống y tế và thực hiện
các nhiệm vụ đã đề ra trong kế hoạch 5 năm Ngành Y tế 2011-2015, đồng thời phân
tích chuyên đề về chất lượng dịch vụ KCB như khái niệm chất lượng dịch vụ y tế,
QLCL dịch vụ y tế. Cuốn sách cũng đưa ra các khái niệm liên quan đến chất lượng
và QLCL, các chỉ số giám sát và đánh giá chất lượng dịch vụ KCB [4].
- Cuốn sách “Thực hành tốt quản lý chất lượng và an toàn người bệnh tại một
13
số bệnh viện Việt Nam”, chủ biên tác giả Lương Ngọc Khuê và cộng sự năm 2016
gồm 4 phần chính: (1) Triển khai áp dụng Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh
viện; (2) Giới thiệu bài học về QLCL và cải tiến chất lượng; (3) Các bài học về thực
hành sử dụng Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện phục vụ cho cải tiến chất
lượng; (4) Giới thiệu các biện pháp liên quan đến an toàn người bệnh, liên hệ với
các tiêu chí trong Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện [33].
- Tác giả Nguyễn Huy Quang trong Đề tài tiến sĩ “Quản lý nhà nước bằng
pháp luật trong lĩnh vực Y tế ở nước ta hiện nay” đã phân tích nội hàm, làm rõ khái
niệm lĩnh vực y tế chính là các hoạt động y tế để xác định y tế là một trong những
yếu tố tác động tích cực đến sức khỏe, nhằm bảo vệ sức khỏe nhân dân, đề xuất
những khái niệm mới về quản lý nhà nước bằng pháp luật đưa ra những luận chứng
cụ thể hơn, khoa học hơn về nội hàm các nội dung của công tác QLNN bằng pháp
luật trong lĩnh vực y tế; đánh giá thực trạng công tác QLNN bằng pháp luật, đưa ra
các quan điểm về để xuất các giải pháp tăng cường QLNN trong lĩnh vực y tế. Tuy
nhiên, đề tài không đề cập sâu về QLNN trong công tác KCB và quản lý chất lượng
KCB [39].
- Tác giả Phạm Văn Tác trong Đề tài tiến sĩ hành chính công “Quản lý nhà
nước đội ngũ cán bộ chuyên khoa sau đại học trong lĩnh vực y tế” đã nghiên cứu
vấn đề lý luận, thực tiễn và những giải pháp hoàn thiện QLNN đội ngũ cán bộ
chuyên khoa sau đại học trong lĩnh vực y tế. Một trong những giải pháp cần thiết là
cần có chính sách về kỳ thi quốc gia để cấp CCHN, chính sách về lương, phụ cấp và
đãi ngộ phù hợp với cán bộ làm chuyên môn y tế. Tuy nhiên, đề tài tập trung nghiên
cứu sâu về QLNN, đội ngũ cán bộ chuyên khoa sau đại học [48].
- Tác giả Nguyễn Minh Lợi trong Đề tài tiến sĩ hành chính công “Quản lý
nhà nước về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng ở Việt Nam hiện nay” đã phân tích
nội hàm các khái niệm liên quan và đề xuất khái niệm QLNN về đào tạo nguồn
nhân lực điều dưỡng; xác định các nội dung QLNN và phân tích các yếu tố liên
quan đến hoạt động QLNN; phân tích thực trạng, xác định nguyên nhân, kết quả đạt
được và hạn chế của thực trạng QLNN về đào tạo nguồn nhân lực điều dưỡng tại
Việt Nam; đề xuất các giải pháp hoàn thiện QLNN về đào tạo điều dưỡng. Tuy
14
nhiên, phạm vi và nội dung nghiên cứu của đề tài giới hạn trong khuôn khổ QLNN
về nhân lực điều dưỡng là một bộ phận, một phần nguồn nhân lực KCB của Việt
Nam [34].
- Tác giả Lê Quang Cường trong bài viết “Chăm sóc sức khỏe và thị trường y
tế” đã đưa ra kết luận: Do tính đặc thù của sức khỏe, dịch vụ CSSK và thị trường
CSSK, Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong quản lý và cung cấp dịch vụ CSSK.
Nhà nước cần giữ vai trò cung ứng các dịch vụ y tế “công cộng” và dịch vụ cho các
đối tượng cần ưu tiên còn để tư nhân cung ứng các dịch vụ y tế tư. Đồng thời, với
sự tạo điều kiện thuận lợi phát triển các loại hình dịch vụ y tế tư, vai trò QLNN rất
cần thiết trong việc kiểm soát giá cả và chất lượng dịch vụ, tăng cường thông tin,
thẩm định điều kiện hành nghề. Công cụ hữu hiệu nhất trong việc kiểm soát giá cả
và chất lượng dịch vụ cung ứng là phương thức thanh toán[23].
- Tác giả Trương Bảo Thanh trong Đề tài tiến sĩ “Chính sách cạnh tranh
trong cung ứng dịch vụ y tế ở Việt Nam” đã hệ thống hoá và luận giải rõ hơn cơ sở
lý luận về chính sách cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ y tế; phân tích kinh nghiệm
thành công và thất bại về xây dựng chính sách cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ y
tế ở một số nước trên thế giới, đánh giá rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam và
khả năng vận dụng kinh nghiệm đó vào thực tiễn của Việt Nam. Tác giả đã phân
tích đánh giá làm rõ được thực trạng chính sách cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ
y tế ở Việt Nam, trên cơ sở đó đặt ra các vấn đề cần phải giải quyết; đưa ra một số
quan điểm và các giải pháp hoàn thiện chính sách cạnh tranh trong cung ứng dịch
vụ y tế ở Việt Nam hiện nay [49].
- Tác giả Lê Thu Thủy trong đề tài tiến sĩ kinh tế chính trị năm 2018 “Nâng
cao chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh của các bệnh viện trung ương trên địa bàn
Hà Nội” đã bước đầu hệ thống hóa các quan điểm trong nước, quốc tế về các vấn đề
có liên quan đến nâng cao chất lượng KCB của bệnh viện; làm rõ vai trò của Nhà
nước, vai trò của thị trường trong việc nâng cao chất lượng KCB tại các bệnh viện
công lập; phân tích các cơ sở thực tiễn dựa trên kinh nghiệm của một số quốc gia
phát triển rút ra bài học cho việc nâng chất lượng dịch vụ KCB tại bệnh viện công
lập nói chung và tại bệnh viện TW trên địa bàn Hà Nội trong điều kiện nền kinh tế
15
thị trường ở Việt Nam; đánh giá thực trạng chất lượng dịch vụ KCB tại bệnh viện
TW trên địa bàn Hà Nội, xác định những nhân tố và mức tác động của từng nhân tố
tới thành tựu, hạn chế và nguyên nhân trong chất lượng dịch vụ KCB; chỉ ra sự
thiếu hụt trong thái độ chăm sóc người bệnh của cán bộ y bác sĩ, về cơ sở hạ tầng,
nhân lực, tài chính, hệ thống thông tin; đề xuất những giải pháp cơ bản để nâng cao
chất lượng dịch vụ KCB tại các bệnh viện TW trên địa bàn Hà Nội, bao gồm chính
sách cho việc phát triển hệ thống y tế Việt Nam dần hoàn thiện, đáp ứng được nhu
cầu ngày càng cao về chất lượng dịch vụ y tế phục vụ người dân và tiến tới hội nhập
với quốc tế; xác định vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường đối với hoạt
động của bệnh viện công lập nói chung, hay tập trung nghiên cứu sâu vào từng yếu
tố của luật pháp, thể chế tác động đến việc nâng cao chất lượng dịch vụ KCB.
Tuy nhiên, đề tài chưa đề cập đến công tác QLCL của bệnh viện công lập là
một trong những yếu tố có vai trò quan trọng nâng cao chất lượng dịch vụ khám
chữa bệnh.[56]
- Tác giả Trịnh Thị Lý với nghiên cứu “Mô hình quản lý chất lượng bệnh
viện và đề xuất giải pháp áp dụng ở Hải Phòng” đã tìm hiểu, phân tích mô hình
QLCL bệnh viện, từ đó lựa chọn mô hình phù hợp để áp dụng QLCL bệnh viện ở
Hải Phòng; nghiên cứu chỉ ra có nhiều mô hình QLCL cho một tổ chức, đồng thời
có thể áp dụng cho bệnh viện, trong đó có 3 mô hình đã được áp dụng thành công ở
nhiều nước và nhiều bệnh viện, đó là QLCL bệnh viện theo tiêu chuẩn quốc tế ISO,
TQM, JCI. Mô hình ISO được áp dụng cho mọi tổ chức, có bề dầy nhất và dễ thực
hiện. Mô hình JCI dành riêng cho các dịch vụ y tế và bệnh viện, tổ chức chứng thực
– công nhận quốc tế rất có uy tín, nhưng mô hình mới, chi phí cao, quá trình công
nhận kéo dài. Một số nghiên cứu đánh giá kết quả áp dụng tiêu chuẩn ISO trong
QLCL bệnh viện ở Việt Nam cho thấy: tăng hiệu quả điều trị, tăng sự hài lòng
người bệnh và nhân viên, cải thiện môi trường làm việc.[35]
- Tác giả Vũ Tiến Dũng trong đề tài tiến sĩ hành chính công “Quản lý nhà
nước về bồi dưỡng viên chức có trình độ chuyên môn sau đại học tại các bệnh viện
hạng đặc biệt ở Việt Nam” đã nghiên cứu, phân tích đưa ra khái niệm, nội dung của
QLNN về bồi dưỡng viên chức có trình độ chuyên môn sau đại học tại các bệnh
16
viện hạng đặc biệt ở Việt Nam; phân tích các yếu tố tác động đến hoạt động QLNN
trong lĩnh vực bồi dưỡng; đánh giá thực trạng, xác định được các nguyên nhân kết
quả đạt được và hạn chế của thực trạng QLNN về bồi dưỡng viên chức chuyên môn
có trình độ sau đại học tại các bệnh viện hạng đặc biệt ở Việt Nam; đề xuất các
giải pháp hoàn thiện QLNN về bồi dưỡng viên chức có trình độ sau đại học tại các
bệnh viện hạng đặc biệt ở Việt Nam.[29]
- Nghiên cứu đánh giá thực trạng triển khai quản lý chất lượng KCB của Cục
Quản lý Khám, chữa bệnh năm 2012. Tại 200 bệnh viện thuộc 21 tỉnh, thành phố
trên toàn quốc cho thấy có 82% bệnh viện dự kiến xây dựng kế hoạch chất lượng
trong 2 năm tới. Tuy nhiên tại thời điểm nghiên cứu, tỷ lệ bệnh viện đã có kế hoạch
chất lượng chỉ chiếm 9%. Trong đó tỷ lệ này ở bệnh viện hạng 1 là 29%, hạng II là
12%, bệnh viện hạng III là 2% và không có bệnh viện hạng IV nào có kế hoạch chất
lượng. Tỷ lệ các bệnh viện có xây dựng mục tiêu về cải thiện chất lượng chiếm
21%. Một số mục tiêu chất lượng khá cụ thể như cải thiện quy trình đón tiếp người
bệnh, giảm tỷ lệ nhiễm khuẩn bệnh viện, cải thiện thủ tục hành chính. Chỉ có 5%
bệnh viện xây dựng đề án, chương trình về chất lượng, tỷ lệ này ở bệnh viện hạng I
là 11%, bệnh viện hạng II là 10%. Tỷ lệ bệnh viện có chính sách về chất lượng còn
thấp hơn, chỉ chiếm 4%. Nghiên cứu này dừng lại ở việc đánh giá thực trạng việc
triển khai thực hiện QLCL của các bệnh viện mà chưa có đánh giá việc tổ chức thực
hiện của cơ quan QLNN [21].
1.1.2. Công trình nghiên cứu quản lý chất lượng tại bệnh viện
Công trình nước ngoài
- Trước tiên phải kể đến nghiên cứu của Alaraki M.S. về QLCL toàn diện
(TQM) đưa ra phương pháp giải quyết vấn đề an toàn cho bệnh nhân và giúp cải
thiện đáng kể hoạt động của bệnh viện. Tuy nhiên, tại các quốc gia đang phát triển,
chỉ một số ít nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp này, đặc biệt là tại Ả-
Rập- Xê Út. Nghiên cứu này tìm ra các tác động của phương pháp TQM tới hoạt
động của các bệnh viện thuộc Bộ Y tế Ả- Rập- Xê Út, bao gồm 4 bệnh viện ở khu
vực Tabuk, cụ thể là: bệnh viện King Khaled, bệnh viện King Fahad, bệnh viện Phụ
17
Sản và Nhi và bệnh viện đa khoa Hagel. Những phát hiện của nghiên cứu cho thấy
có mối tương quan đáng kể giữa 8 phương pháp QLCL toàn diện và hiệu suất hoạt
động của bệnh viện với một giá trị hệ số tương quan r bằng 0,9 (P = 0,0001).
Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các bệnh viện tại Ả- Rập- Xê Út đang phải đối mặt với
những khó khăn trong việc khuyến khích các nhân viên y tế đưa ra sáng kiến cải
thiện chất lượng. Hơn nữa, những phát hiện cũng cho thấy các bệnh viện đạt chuẩn
đã áp dụng phương pháp TQM nhiều hơn hơn các bệnh viện chưa được công nhận
[62].
- Nghiên cứu của Nicolay CR, Purkayastha S, Greenhalgh A, Benn J,
Chaturvedi S, Phillips N, Darzi A. về thực nghiệm thực hiện một phương pháp QI
mô tả nhằm phục vụ cho việc chăm sóc phẫu thuật và phân tích kết quả thống kê.
Có 34 trong số 1595 bài nghiên cứu đã đáp ứng các tiêu chuẩn sau khi được sự
đồng thuận từ hai nhà nghiên cứu độc lập, 9 nghiên cứu mô tả sự cải tiến chất lượng
không ngừng, 5 hệ thống 6 Sigma, 5 hệ thống TQM, 5 Chu trình Lập kế hoạch –
Thực hiện – Kiểm tra – Điều chỉnh (PDSA) hoặc Hoạch định - Thực hiện - Kiểm tra
- Khắc phục (PDCA), 5 quản lý quá trình thống kê hoặc QLCL thống kê, 4 phương
pháp Lean và một phương pháp Lean - 6 Sigma; 20 trong tổng số các nghiên cứu
được thực hiện tại Mỹ. Các mục tiêu quan trọng nhất là giảm các biến chứng hay
cải thiện kết quả (11), giảm nhiễm trùng (7), và giảm sự chậm trễ (7). Các nhà
nghiên cứu đã tiến hành một nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên. Các
phương pháp QI từ ngành y tế có thể mang lại hiệu quả to lớn cho việc cải thiện
dịch vụ chăm sóc giải phẫu, từ việc giảm tỷ lệ nhiễm trùng đến tăng hiệu quả phòng
mổ. Bằng chứng là các nghiên cứu đa trung tâm ngẫu nhiên và chất lượng tối ưu là
rất cần thiết để lồng ghép việc quản lý y tế thực chứng trong một liên đoàn y tế
tương tự nhau giống như y học thực chứng [79].
- Nghiên cứu của Sussmane JB, Torbati D, Gitlow HS. với mục đích là đo
lường, đánh giá chất lượng CSSK tại đơn vị hồi sức tích cực nhi khoa (PICU) trong
suốt quá trình thay huyết tương. Nghiên cứu mô tả từng bước quy trình CSSK, vẽ
biểu đồ để trình bày một cách cẩn thận và tỉ mỉ mỗi bước của cả quá trình. Sau đó
xác định từng bước với một chỉ số lâm sàng. Chỉ số này biểu hiện cho từng nhiệm
18
vụ cụ thể khi chúng ta nhận được các dịch vụ CSSK. Các chỉ số này được nghiên
cứu và thay đổi trong vòng 1 năm. Tiến hành đo lường hiệu suất trong quá trình này
bằng số lần hoàn thành các chỉ số lâm sàng và tổng số các chỉ số lâm sàng đã được
thực hiện. Mức độ tuân thủ, cùng với các chỉ số lâm sàng, được phân tích và sử
dụng như một thước đo cho chất lượng bằng cách tính toán quá trình đang thực hiện
gần đúng so với kế hoạch hoặc trong tầm kiểm soát như thế nào. Quá trình tách máu
vẫn nằm trong tầm kiểm soát khoảng 47% tổng các chỉ số, được tổng hợp trong năm
quan sát đầu tiên. Sau đó sẽ áp dụng lý thuyết của phương pháp TQM thông qua mô
hình thiết kế, phân tích, đo lường, cải tiến và kiểm soát. Có thể thúc đẩy quá trình
và kiểm soát quá trình bằng cách nâng cao sự tuân thủ đến 99.74% cho quý 3 và
quý 4 của năm thứ 2. Tiến hành phương pháp TQM để nâng cao sự tuân thủ, nhờ đó
để kiểm soát liệu pháp hồi sức tích cực nhi khoa có độ phức tạp cao và đa ngành.
Nghiên cứu đã chỉ ra một biện pháp cải thiện chất lượng có thể mở rộng quy mô
cho một quá trình lâm sàng phức tạp tại đơn vị hồi sức tích cực Nhi khoa, mà không
làm phát sinh thêm chi phí [86].
- Bài viết của Hansson J. Tìm hiểu các khái niệm về sự ra đời của TQM
trong lĩnh vực CSSK cộng đồng chỉ là một đoạn gãy khái niệm với truyền thống mà
thẩm quyền để xác định và giải thích ý nghĩa của hành nghề y đã được đặt chủ yếu
trong ngành y. Nó cũng dùng để thay đổi trọng tâm của hành nghề y khỏi đặc điểm
khái niệm và tương tác của nó đối với quá trình tái hiện số và mã hóa số trong điều
kiện tiền tệ. Hơn nữa, người ta cho rằng việc thực hiện những ý tưởng quản lý trong
thực tế hàng ngày phụ thuộc vào sự sẵn có của những công nghệ và quy trình tiêu
chuẩn tồn tại trước đó hơn là những nhân tố thể chế và tổ chức đặc biệt. Những lập
luận đó đã được minh họa bởi sự tái sử dụng cho các mục đích TQM của “những
báo cáo sự cố địa phương” trong một bệnh viện Thụy Điển [71].
- Nghiên cứu của Revere L, Black K. về việc lồng ghép 6 Sigma vào chương
trình TQM hiện có, tạo điều kiện cho việc cải tiến quá trình thông qua phân tích dữ
liệu chi tiết. Một cách tiếp cận chuyên sâu để phân tích các nguyên nhân cốt lõi của
vấn đề đã nâng cao hiệu quả của phương pháp TMQ hiện có. Sử dụng phương pháp
6 Sigma, so sánh dự án nội bộ tạo điều kiện cho việc phân bổ nguồn lực trong khi
19
so sánh dự án bên ngoài lại xem xét đến các tiêu chuẩn. Như vậy, việc áp dụng 6
Sigma sẽ giúp cho việc QLCL toàn diện có hiệu quả hơn. Một cơ cấu lồng ghép 6
Sigma vào kế hoạch TQM của một tổ chức trong khi vẫn cung cấp một ví dụ cụ thể
về sai lầm trong y khoa. Bằng cách sử dụng quy trình được trình bày trong bài này,
các cán bộ CSSK có thể lồng ghép 6 Sigma vào tất cả các dự án TQM của họ [81].
- Theo Website www.health-toursim.com.thailand-hospitals, có khoảng 30%
các bệnh viện ở Thái Lan đã áp dụng ISO 9001-2000 trong quản lý toàn bộ bệnh
viện hoặc quản lý một số khoa phòng, một số quy trình, một số hoạt động trong
bệnh viện, nhìn chung cho kết quả tương đối tốt.[88]
- Nghiên cứu của Lebuisson và cộng sự tại một bệnh viện của Pháp với mục
tiêu đạt được chứng nhận ISO 9001-2000 trong việc điều trị laser tật khúc xạ. Bệnh
viện đã đánh giá và huy động tối đa các nguồn lực cần thiết, đánh giá sự hài lòng
khách hàng; tiến hành các vòng chất lượng với đội ngũ phẫu thuật viên, y tá và kỹ
thuật viên. Dựa vào những sự chuẩn bị như vậy, bệnh viện đã xác định lại và giải
thích tất cả các quy trình, bao gồm trách nhiệm của nhân viên, cán bộ trong khoa và
các nguồn lực cần thiết trong sổ tay chất lượng. Quá trình thực hiện mất 14 tháng,
với sự tham gia liên tục của bộ phận quản lý trong bệnh viện. Kết quả là bệnh viện
đã được cấp chứng nhận ISO 9001-2000 mà không có điều kiện ràng buộc bởi một
tổ chức kiểm định độc lập vào tháng 12 năm 2003 cho việc điều trị laser tật khúc xạ.
Qua quá trình này chúng ta có thể thấy phiên bản 2000 của tiêu chuẩn ISO 9001-
2000 đã đáp ứng được nhu cầu cải thiện chất lượng cung cấp dịch vụ trong lĩnh vực
này, thông qua việc xác định các quy trình công việc một cách rõ ràng. Chứng nhận
ISO 9001-2000 góp phần thúc đẩy làm việc nhóm, duy trì các phương pháp và kết
quả công việc, tăng cường việc tự đánh giá. Qua đó sẽ hạn chế được các vấn đề gặp
phải, giúp giảm chi phí giải quyết các vấn đề và sẽ làm tăng nguồn thu cho tổ chức
[77].
- Một Nghiên cứu gần đây nhất của Lorenzen và cộng sự tại khoa xạ trị của
một bệnh viện thuộc trường đại học tại Đức, đánh giá sự thay đổi các chỉ số chất
lượng của khoa sau khi áp dụng hệ thống QLCL theo ISO 9001-2000. Các chỉ số
chất lượng về việc dạy học sinh viên, nghiên cứu, đào tạo liên tục, và sự hài lòng
20
của nhân viên y tế được xây dựng. Các chỉ số này được thu thập thông tin chứng
minh sự thay đổi sau khi các kế hoạch hành động thuộc từng lĩnh vực cụ thể trên
được thực hiện. Kết quả cho thấy, qua điều tra sự hài lòng của sinh viên về công tác
giảng dạy thì điểm trung bình hài lòng luôn tăng qua các năm (năm 2003: 2,7; năm
2007: 3,9). Các chỉ số hẹn khám, tư vấn, thời gian chờ khám cải thiện rõ rệt. Qua
nghiên cứu, chúng ta có thể thấy được tác động tích cực của hệ thống QLCL ISO
9001-2000 [78].
- Một nghiên cứu khác của Helbig và cộng sự tại một khoa khám bệnh ngoại
trú của bệnh viện thuộc trường đại học tại Đức. Nghiên cứu tìm hiểu xem việc thực
hiện các hoạt động theo hệ thống QLCL ISO 9001-2000 có làm giảm thời gian chờ
đợi, tăng hiệu quả công việc của nhân viên y tế lên hay không. Với thực tế là hệ
thống y tế nhà nước đang phải đối diện với chi phí liên tục tăng cao. Bên cạnh đó,
việc chẩn đoán và điều trị ngày càng chuyên môn hóa. Với lý do như vậy, cần có
một dự án với sự tham gia của nhiều bên một mặt nhằm đơn giản quá trình lập kế
hoạch và đặt lịch hẹn khám bệnh, mặt khác đáp ứng các yêu cầu về chất lượng
CSSK. Các thành viên dự án đã thực hiện tuần tự các hoạt động giải quyết vấn đề:
phân tích tình hình hiện tại xác định vấn đề, phân tích nguyên nhân, xác định lại
giải pháp và đánh giá kết quả. Nhiều biện pháp QLCL khác nhau được sử dụng như
trưng cầu ý kiến, thu thập thông tin, và một vài quy trình xác định vấn đề cũng như
giải pháp được sử dụng. Kết quả là có 5 vấn đề cần giải quyết được xác định. Sau
khi phân tích nguyên nhân thì các giải pháp chính được đưa ra là: (1) Lắp đặt đường
dây điện thoại nóng cho khách hàng; (2) chuẩn hóa việc đặt lịch hẹn với tất cả
khách hàng; (3) chỉnh sửa các sổ hẹn; (4) cải thiện việc tư vấn qua điện thoại; (5) áp
dụng hình thức lập kế hoạch thời gian linh hoạt qua việc cập nhật sổ hẹn hàng ngày.
Sau khi thực hiện các giải pháp này vào các hoạt động thường ngày của khoa đã
mang lại kết quả đáng mong đợi, như thời gian chờ đợi của khách hàng giảm hẳn,
khách hàng hài lòng hơn với công tác CSSK. Kết luận của nghiên cứu cho thấy việc
đánh giá có hệ thống cấu trúc tổ chức hiện tại của phòng khám ngoại trú qua việc
phân tích tình hình hiện tại xác định vấn đề, phân tích tìm nguyên nhân là việc làm
21
cần thiết để cải thiện chất lượng dịch vụ [73].
- Beholz S, Koch C, Konertz W. nghiên cứu về chứng nhận và QLCL một
trung tâm tim mạch thuộc Trường Đại học tổng hợp theo luật ISO 9001-2000. Đi
theo định hướng hệ thống QLCL có thể cải thiện chất lượng hoạt động CSSK tại
các CSYT. Việc ứng dụng hệ thống QLCL theo ISO 9001-2000 tại khoa phẫu thuật
tim mạch thuộc trường đại học được mô tả như sau: trước tiên việc phân tích kỹ
lưỡng các quy trình điều trị và nghiên cứu lâm sàng được thực hiện. Rất nhiều khía
cạnh công việc được xác định cho các khoa phòng khác nhau kể cả các đơn vị hành
chính. Tất cả nguồn lực cần thiết được đánh giá và huy động ở mức tối đa. Sự hài
lòng của khách hàng cũng được đánh giá qua điều tra. Các vòng đánh giá chất
lượng với sự tham gia của nhân viên y tế, y tá và kĩ thuật viên cũng được thực hiện.
Dựa vào công việc chuẩn bị, tất cả các quy trình, bao gồm người chịu trách nhiệm
và các nguồn lực cần thiết được xác định và mô tả trong sổ tay chất lượng. Sau 18
tháng, đơn vị CSSK này đã được một tổ chức độc lập, có uy tín cấp chứng nhận đạt
tiêu chuẩn chất lượng theo ISO 9001-2000 [66].
- Năm 2003, Beholz và cộng sự cũng lại tiến hành nghiên cứu đánh giá tác
động của hệ thống QLCL theo ISO 9001-2000 tại trung tâm phẫu thuật tim nói trên.
Thực tế cho thấy, việc triển khai ISO 9001-2000 tại trung tâm này là hoàn toàn có
thể. Tuy nhiên, các nhà quản lý vẫn chưa có được bằng chứng rõ ràng liệu hệ thống
QLCL này có góp phần cải thiện chất lượng, thể hiện qua chi phí hiệu quả và sự hài
lòng của khách hàng hay không. Để kiểm soát chi phí cho các dịch vụ lâm sàng và
xét nghiệm, các nhà quản lý đã xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ cho việc phân
bố nguồn lực. Chi phí xét nghiệm và lâm sàng cho mỗi một ca mổ tim hở được điều
tra từ năm 2000 đến 2003. Đánh giá sự hài lòng khách hàng được thực hiện từ năm
2001 đến 2003. Ngoài ra, đánh giá tác động của các can thiệp liên quan đến tương
tác và giao tiếp giữa nhân viên y tế và khách hàng cũng được tiến hành. Kết quả cho
thấy chi phí cho dịch vụ lâm sàng giảm khoảng 6,1% và cho xét nghiệm mỗi ca
phẫu thuật giảm 35%. Khách hàng hài lòng hơn, đặc biệt với sự tiếp cận dịch vụ và
sự tương tác giao tiếp của nhân viên y tế sau phẫu thuật [63].
- Nghiên cứu của Duvauferrier R, Badonnel S, Vannoorenberghe Y, Philippe
22
C, Hamon J, Rambeau M, De Korvin B, Milon J, Rolland Y. với mục đích là sự
chuyển tiếp từ mô hình quản lý kết hợp TQM dựa trên mô hình “EFQM” châu Âu,
và đảm bảo chất lượng dựa trên mô hình cấp giấy chứng nhận đạt chuẩn ISO 9000 -
1994, tới mô hình chứng nhận đạt chuẩn ISO 9001-2000 áp dụng quản lý quy trình
và tích hợp cả đảm bảo quản lý và chất lượng. Để hình dung sự tương quan giữa các
quá trình, một bản đồ quá trình đã được tạo ra. Biểu đồ chỉ ra sơ đồ tổ chức kết quả
đầu vào và đầu ra. Các quá trình đó được chia ra từng bước, các quá trình từ tổng
quát đến cụ thể được chuyển sang phép tiếp cận thuật toán. Sau đó, hai kiểm toán
viên bên ngoài sẽ được yêu cầu đánh giá hệ thống chất lượng mới. Họ sử dụng ba
tiêu chuẩn chất lượng (ISO 9001 – 2000, MFQ và ANAES) để xác định số điểm
thích nghi của hệ thống chất lượng. Cuối cùng, việc thực hiện hệ thống bộ phận tài
liệu trên mạng nội bộ được đánh giá qua hai bảng câu hỏi: một bảng định lượng giải
quyết khả năng chấp thuận của nhân viên và một bảng giải quyết hiệu quả nghiên
cứu [69].
- Bài viết của Pereira P, Westgard JO, Encarnação P, Seghatchian J, de Sousa
G. thảo luận về việc thực hành sản xuất tốt và thực hành phòng thí nghiệm tốt cũng
như các xu hướng trong các tiêu chuẩn. Hiện nay, các phòng thí nghiệm sàng lọc
giữ một vai trò quan trọng trong việc an toàn sau truyền máu. Thành công của mục
tiêu và hiệu quả của phòng thí nghiệm sàng lọc phụ thuộc vào hệ thống quản lý
được sử dụng. Mặc dù chỉ thị 2002/98/EC của liên minh Châu Âu yêu cầu hệ thống
QLCL các cơ sở truyền máu, nhưng các yêu cầu về các phòng thí nghiệm sàng lọc
là chỉ mang tính chung chung. Phương pháp bổ sung là cần thiết để thực hiện một
hệ thống QLCL tập trung vào các phòng thí nghiệm sàng lọc. Hệ thống QLCL tiêu
chuẩn ISO 9001 là tiêu chuẩn QLCL được áp dụng một cách rộng rãi ở một vài cơ
sở máu của liên minh châu Âu, tuy nhiên điều này không đồng nghĩa với việc áp
dụng tiêu chuẩn này là thành công. Các tiêu chuẩn ISO “tư duy dựa trên rủi ro” có
mối tương quan với các quá trình quản lý rủi ro chất lượng của EuBIS “Tiêu chuẩn
và tiêu chí kiểm tra của các cơ sở huyết”. ISO 15189 nên là bước tiếp theo cho việc
đảm bảo chất lượng của phòng thí nghiệm sàng lọc, vì nó tập trung vào phòng thí
23
nghiệm y tế. Để chuẩn hóa hệ thống QLCL trong các phòng thí nghiệm sàng lọc của
các cơ sở máu, các chính sách ở cấp quốc gia và châu Âu tập trung vào các yêu cầu
kỹ thuật theo chuẩn ISO 15189 là cần thiết [80].
- Nghiên cứu của Seki A, Kugawa S, Miya T. cho thấy đã hơn 10 năm trôi
qua kể từ khi Chương trình tiêu chuẩn hóa quốc tế ISO 15189 quy định về chất
lượng và năng lực của các phòng thí nghiệm y tế đã được ban hành vào năm 2003.
Hiện nay, số lượng các cơ sở tự nguyện cam kết cung cấp các dịch vụ y tế có chất
lượng cao hơn bằng cách thiết lập một hệ thống QLCL (QMS) và công nhận việc
mua đã tăng lên 70. QMS được định nghĩa là “thiết lập chính sách và mục tiêu liên
quan đến chất lượng và áp dụng hệ thống một cách phù hợp” và là một chương trình
bao gồm tất cả các yếu tố cả về quản lý và kỹ thuật có thể ảnh hưởng tới kết quả xét
nghiệm. Một số phòng thí nghiệm lâm sàng đã đăng ký có nhận được sự chứng
nhận trên, tuy nhiên, trong quá trình thực hiện QMS, một số vấn đề đã được xác
định. Ở đây, chúng ta báo cáo trên sự chuyển đổi từ hệ thống điều khiển chất lượng
sang QLCL, tính hữu ích của kiểm toán độc lập bởi cơ quan thanh tra chính thức
công nhận và những vấn đề đã trải qua trong suốt 10 năm vừa qua [83].
- Nghiên cứu của Song P, Li W, Zhou Q. được thực hiện tại một bệnh viện
trong một trường đại học của Trung Quốc với 2,8 triệu lượt thăm khám ngoại trú
hàng năm, trong suốt quá trình hướng tới kiểm định JCI ( 03/2012 – 03/2013). Các
biện pháp can thiệp toàn diện bao gồm điều chỉnh công thức, quản lý phân loại, các
biện pháp khuyến khích, công nghệ thông tin, giáo dục và tổ chức. Phương pháp
DDD (liều tổng cộng trung bình thuốc dùng cho 1 ngày của 1 nhóm thuốc cho 1 chỉ
định chính của người bệnh) đã được áp dụng. Dữ liệu dược-kinh tế và những vấn đề
sử dụng thuốc được so sánh thống kê giữa hai giai đoạn. Sự đa dạng của kháng
khuẩn có sẵn trong thuốc cho bệnh nhân ngoại trú giảm từ 38 xuống còn 16. Tỷ lệ
đơn thuốc kháng khuẩn giảm một cách đáng kể (12,7% so với 9,9%, P < 0,01). Tỷ
lệ đơn thuốc có chứa kháng khuẩn giới hạn là 30,4% trong giai đoạn thứ hai, thấp
hơn đáng kể so với giai đoạn đầu là 44,7%, P <0,01. Tỷ lệ kê đơn thuốc kháng sinh
uống so với tất cả đơn thuốc kháng sinh đã tăng (90,0% - 100%, P < 0,01) khi đo
24
theo quy định liều hàng ngày. Tổng chi phí kháng khuẩn cho bệnh nhân ngoại trú
giảm còn 34,7% và các chương trình can thiệp tiết kiệm được 6 triệu nhân dân tệ
hàng năm [85].
- Nghiên cứu của Rizzi F, Pizzuto M, Lodetti L, Corli O, Da Col D, Damiani
ME, Mihali D, Piva L, Saita L, Vinci M, Bonaldi A, mô tả kết quả chính của quá
trình chứng nhận dựa trên các tiêu chí của JCI cho mô hình nhà bệnh viện được
thực hiện bởi những CSYT chăm sóc giảm nhẹ của 7 bệnh viện ở Milan cho những
bệnh nhân ung thư. Năm 2006, tổ công tác giữa các bệnh viện triển khai dự án
chứng nhận dựa trên chương trình chăm sóc bệnh hoặc điều kiện đặc biệt của JCI.
Ba mươi tiêu chuẩn được chia thành năm lĩnh vực chức năng với 150 yếu tố đo
lường là điểm khởi đầu cho kế hoạch cải thiện chất lượng định kỳ trong phạm vi nội
bộ và giữa các bệnh viện tham gia. Việc tuân thủ chương trình được phân tích về
mặt nâng cao và đồng bộ hiệu suất hàng năm giữa bảy PCU trong việc đạt được
mục tiêu đề ra. Các tiêu chuẩn của JCI đã được áp dụng trên 3316 bệnh nhân ung
thư được điều trị tại nhà từ năm 2005 đến 2009. Theo kết quả của công việc đã thực
hiện, khảo sát của JCI đã được tiến hành; 14 năm sau khi thực hiện dự án đã chứng
minh sự tuân thủ đầy đủ các tiêu chuẩn đã được đề ra, dẫn tới việc được trao chứng
nhận JCI. Công trình đã được thực hiện với mục đích chứng nhận đã xác nhận khả
năng các cơ sở trải rộng khắp các bệnh viện khác nhau thực sự có thể chia sẻ các
quá trình chung và chuẩn hóa các hoạt động trong việc chăm sóc bệnh nhân ung thư
giai đoạn cuối tại nhà nếu các CSYT này là một nhà cung cấp dịch vụ duy nhất [82].
- Nghiên cứu của Tekkesin N, Kilinc C, Keskin K. tại bệnh viện Memorial
có một dịch vụ phòng thí nghiệm cung cấp xét nghiệm Easy Stat và thường quy. Từ
01/2015 – 12/2007, phòng thí nghiệm đã nhận tổng cộng 766,095 mẫu. Tần số và
các loại lỗi tiền phân tích cùng với các mục tiêu tiềm năng cho chiến lược cải thiện
chất lượng được đem ra đánh giá. Các tần số tương đối của những lỗi trước phân
tích có xu hướng giảm dần qua nhiều năm, cụ thể 0,50% năm 2005; 0,25% năm
2006 và 0,07% năm 2007 (P<0,0001; giữa năm 2005 và 2007). Lỗi phổ biến nhất là
xác định sai/nhầm (42%). Chúng tôi tin rằng việc sử dụng các quy trình tiêu chuẩn
25
hóa và đào tạo đội ngũ nhân viên thường xuyên, kết hợp với một cuộc trao đổi với
hệ thống quản lý giới thiệu dựa trên nghiên cứu hiện có với một hệ thống điện tử, có
thể tăng sự an toàn trong quá trình tiền phân tích [87].
Công trình trong nước Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Xuyên và cộng sự tại 5 bệnh viện có ứng
dụng hệ thống QLCL theo tiêu chuẩn ISO 9001-2000 và 4 bệnh viện chưa ứng dụng
ISO trong thời gian từ năm 2007-2008, đã rút ra kết luận: Ứng dụng hệ thống
QLCL theo tiêu chuẩn ISO 9001-2000 đã góp phần nâng cao hiệu quả công tác
quản lý bệnh viện và nâng cao chất lượng chuyên môn của bệnh viện. Khi áp dụng
ISO đã giúp bệnh viện xây dựng và hình thành nền nếp làm việc khoa học trong
toàn bệnh viện. Hướng các hoạt động khám, chữa của bệnh viện vào đối tượng phục
vụ chính của bệnh viện, làm cho người bệnh ngày càng hài lòng hơn, cán bộ, nhân
viên bệnh viện hài lòng hơn. Xây dựng được tài liệu khoa học về quản lý bệnh viện
mà từ trước đến nay chúng ta chưa làm được. Góp phần xây dựng hình ảnh mới về
bệnh viện, hiện đại, văn hóa và quản lý chuyên nghiệp, giúp xây dựng thương hiệu
bệnh viện. Các chỉ số về chất lượng bệnh viện như tỷ lệ tử vong, ngày điều trị trung
bình, tình trạng lạm dụng thuốc, lạm dụng xét nghiệm giảm, tỉ lệ khỏi bệnh tăng lên,
thời gian chờ đợi giảm, người bệnh hài lòng hơn khi tương tác với nhân viên y tế.
Công việc của cán bộ y tế được bố trí phù hợp hơn, nhân viên y tế hài lòng hơn với
công việc. Sự phối hợp trong công việc được thực hiện tốt hơn. Thu nhập của cán
bộ nhân viên bệnh viện cao hơn. Lãnh đạo bệnh viện quan tâm hơn đối với nhân
viên. Môi trường làm việc thuận lợi hơn. Thông tin được chia sẻ, cung cấp tốt hơn.
Đào tạo, tập huấn cho cán bộ, nhân viên được thực hiện tốt hơn.
Nghiên cứu đã khuyến nghị: Bộ Y tế cần đẩy mạnh công tác QLCL bệnh
viện, chỉ đạo các bệnh viện tùy theo khả năng của từng bệnh viện mà áp dụng ISO
trong quản lý bệnh viện hoặc phương pháp quản lý khoa học khác phù hợp với đơn
vị.
Tuy nhiên, nghiên cứu còn một số hạn chế: mặc dù có sự khác biệt về chất
lượng CSSK giữa các bệnh viện áp dụng và không áp dụng hệ thống QLCL theo
ISO, nhưng không tách biệt được hoàn toàn tác động của các công cụ QLCL khác;
26
nghiên cứu không áp dụng phân tích nhân tố để xác định các nhân tố khác nhau đo
lường sự hài lòng của người bệnh cũng như sự hài lòng của nhân viên y tế; công cụ
đo lường sự hài lòng của nhân viên y tế chưa được xác định tính giá trị cũng như độ
tin cậy; việc chọn mẫu chủ đích bệnh viện nghiên cứu và số lượng người bệnh tại
hai nhóm bệnh viện áp dụng và không áp dụng ISO sẽ ảnh hưởng đến tính đại diện
cho cả quần thể người bệnh và kết quả thu được sẽ không đại diện cho các bệnh
viện tại Việt Nam [61].
1.2. Nhận xét, đánh giá về các công trình nghiên cứu đã tổng quan
Các công trình nghiên cứu tổng quan nêu trên đề cập tương đối toàn diện,
đầy đủ các vấn đề, lĩnh vực liên quan đến quản lý chất lượng KCB từ QLNN bao
gồm hệ thống thể chế QLNN, tổ chức bộ máy QLCL, các khái niệm, nguyên tắc và
QLCL tại bệnh viện như đề cập các mô hình phương pháp áp dụng trong QLCL.
Các công trình tổng quan cũng cho thấy có một số nội dung, vấn đề liên quan đến
đề tài luận án đã được các công trình tổng quan làm rõ cần kế thừa, phát huy. Đồng
thời, còn những nội dung, vấn đề mà các công trình chưa đề cập hoặc đề cập nhưng
chưa đầy đủ, chưa rõ cần được nghiên cứu rộng hơn, sâu hơn trong đề tài nghiên
cứu của Nghiên cứu sinh.
1.2.1. Những nội dung kế thừa từ các công trình tổng quan
Thứ nhất, các công trình tổng quan đã chỉ rõ một số nội dung về tính cấp
thiết và lợi ích của việc thực hiện hoạt động QLCL nói chung và QLCL trong y tế
nói riêng; nguyên tắc, xu hướng QLCL hiện nay và một số khái niệm, yếu tố liên
quan đến chất lượng và QLCL trong y tế.
Thứ hai, các công trình tổng quan đã khẳng định dịch vụ y tế là một loại hình
dịch vụ nhưng có đặc điểm riêng, liên quan trực tiếp đến sức khỏe con người, là thị
trường dịch vụ thiếu cạnh tranh, thị trường không hoàn chỉnh.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu tổng quan cả trong nước và nước ngoài
đều cho thấy vai trò quan trọng của Nhà nước trong việc kiểm soát chất lượng dịch
vụ y tế và yêu cầu QLNN bằng pháp luật trong y tế. Đồng thời đưa ra thực trạng và
27
định hướng QLNN về y tế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Thứ tư, các công trình nghiên cứu tổng quan đã cho thấy một số mô hình
QLCL đang được các quốc gia trên thế giới nhất là các nước phát triển áp dụng
trong QLCL để nâng cao chất lượng KCB và hiệu quả hoạt động của các tổ chức y
tế như mô hình TQM, PDCA, 6 sigma, Lean, ISO.
Thứ năm, công trình nghiên cứu tổng quan chỉ rõ một số giải pháp QLNN
đối với đội ngũ cán bộ chuyên môn sau đại học và phát triển đội ngũ điều dưỡng ở
Việt Nam hiện nay.
Thứ sáu, các công trình nghiên cứu tổng quan nêu lên việc đo lường, đánh
giá chất lượng dịch vụ y tế cần phải có bộ công cụ bao gồm các tiêu chí đánh giá,
nhóm tiêu chí đánh giá về các điều kiện đầu vào, quá trình và đầu ra.
1.2.2. Những nội dung chưa đề cập hoặc chưa được làm rõ trong các
công trình tổng quan
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu tổng quan có đề cập đến tính cấp thiết
và lợi ích của QLCL trong y tế nói chung đối với các nước trên thế giới nhưng chưa
đề cập sâu, cụ thể đối với thực tiễn ở Việt Nam.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu tổng quan có đề cập đến các khái niệm
chung liên quan đến chất lượng và QLCL y tế nhưng tiếp cận dưới nhiều góc độ
khác nhau. Vì thế, nội hàm các khái niệm liên quan đến quản lý chất lượng KCB
chưa được làm rõ.
Thứ ba, có một số tài liệu, công trình nghiên cứu tổng quan đề cập đến
QLCL dịch vụ y tế nhưng mới dừng ở một số khía cạnh của QLNN trong y tế hoặc
đề cập việc tổ chức thực hiện QLCL tại bệnh viện nhưng chưa có công trình nghiên
cứu nào đề cập toàn diện, đầy đủ về phạm vị QLCL đối với bệnh viện nói chung và
bệnh viện công lập ở Việt Nam.
Thứ tư, các công trình nghiên cứu tổng quan có đề cập đến các yếu tố ảnh
hưởng đến chất lượng và QLCL nhưng ở phạm vi của một bệnh viện hoặc khoa
phòng của bệnh viện, chưa đề cập tổng thể yếu tố ảnh hưởng và trách nhiệm của các
bên liên quan đến quản lý chất lượng KCB cả về QLNN của chủ thể nhà nước lẫn
28
quản lý chất lượng tại bệnh viện của chủ thể là bệnh viện.
Thứ năm, nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài đề cập mô
hình quản lý mới áp dụng tại các bệnh viện như ứng dụng quản lý theo tiêu chuẩn
ISO, theo phương pháp PDCA, phương pháp 6 sigma, Lean, còn nghiên cứu trong
nước có đề cập ứng dụng mô hình ISO áp dụng trong bệnh viện, nhưng chưa có đề
xuất việc áp dụng các mô hình như PDCA, 6 sigma, Lean tại các bệnh viện Việt
Nam như các nước đang triển khai mạnh mẽ hiện nay.
Thứ sáu, công trình nghiên cứu tổng quan cũng cho thấy một số bộ tiêu chí
đánh giá chất lượng KCB mà một số nước phát triển đang áp dụng và Bộ tiêu chí
đánh giá chất lượng mà bệnh viện Việt Nam đang được áp dụng thí điểm. Vì thế
cần nghiên cứu hoàn thiện bộ công cụ đánh giá chất lượng bệnh viện phù hợp với
Việt Nam.
Thứ bảy, chưa có công trình nghiên cứu nào về thực trạng quản lý chất lượng
KCB hiện nay và đánh giá chất lượng KCB của bệnh viện ở Việt Nam, như làm rõ
tổ chức nào có chức năng đánh giá, đánh giá như thế nào. Những vấn đề này cần
nghiên cứu hoàn thiện.
1.2.3. Hướng nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở phân tích những nội dung đã được làm rõ cần kế thừa và những
nội dung chưa được đề cập hoặc đề cập nhưng chưa đầy đủ cần làm rõ hơn từ các
công trình nghiên cứu nêu trên, đề tài luận án cần tiếp tục nghiên cứu và làm rõ hơn
các vấn đề, nội dung chính sau đây:
Thứ nhất, đề tài luận án cần nghiên cứu làm rõ hơn cả về cơ sở lý luận và
thực tiễn của vấn đề quản lý chất lượng KCB như: làm rõ các khái niệm liên quan
đến đề tài; phân tích nội dung quản lý chất lượng KCB của bệnh viện cả về nội
dung QLNN và nội dung quản lý chất lượng tại bệnh viện; quản lý chất lượng KCB;
phân tích, nghiên cứu các mô hình, bài học kinh nghiệm của các nước trên thế giới
để lựa chọn áp dụng ở Việt Nam trong lĩnh vực quản lý chất lượng KCB.
Thứ hai, nghiên cứu đánh giá thực trạng về quản lý chất lượng KCB của
29
bệnh viện. Đề xuất các tiêu chuẩn, quy chuẩn và việc tổ chức triển khai hoạt động
QLCL, làm rõ hơn các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý chất lượng KCB của bệnh
viện.
Thứ ba, nghiên cứu các quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về công
tác y tế, từ đó đề xuất các giải pháp quản lý chất lượng KCB của bệnh viện công lập
Việt Nam trong tình hình mới.
Kết luận Chương 1
Kết quả tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước và nước ngoài liên quan
đến đề tài luận án cho thấy có nhiều công trình nghiên cứu nước ngoài và trong
nước liên quan đến đề tài luận án. Theo đó, có một số nội dung, vấn đề các công
trình nghiêu cứu đã làm rõ mà đề tài luận án cần thiết phải kế thừa như một số nội
dung về tính cấp thiết, một số khái niệm, yếu tố liên quan, các mô hình QLCL tại cơ
sở KCB mà các nước tiên tiến đang áp dụng, vai trò trách nhiệm của Nhà nước
trong quản lý chất lượng KCB và cần thiết phải có bộ công cụ đánh giá chất lượng
KCB của bệnh viện.
Tuy nhiên, còn những vấn đề liên quan đến đề tài luận án mà các công trình
nghiên cứu trong nước và nước ngoài chưa đề cập đến hoặc đề cập nhưng chưa đầy
đủ, chưa cụ thể, chuyên sâu, toàn diện như tính cấp thiết quản lý chất lượng KCB
của bệnh viện công lập ở Việt Nam hiện nay, các khái niệm về bệnh viện, về KCB
về quản lý chất lượng KCB; những yếu tố liên quan đến chất lượng và quản lý chất
lượng KCB; nội dung quản lý chất lượng KCB của bệnh viện, những bài học, kinh
nghiệm quốc tế có thể lựa chọn áp dụng tại Việt Nam, thực trạng quản lý chất lượng
KCB của bệnh viện hiện nay như thế nào, quan điểm, đinh hướng, về QLCL và các
giải pháp cụ thể để tăng cường quản lý chất lượng KCB của các bệnh viện công lập
hiện nay.
Những vấn đề trên cần được tìm hiểu, nghiên cứu làm rõ trong đề tài luận án:
Quản lý chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện công lập Việt Nam.
30
***
Chương 2
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG KHÁM CHỮA BỆNH CỦA BỆNH VIỆN
2.1. Chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện
2.1.1. Bệnh viện và vai trò của bệnh viện
2.1.1.1. Khái niệm bệnh viện
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), bệnh viện là một loại hình của cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh, là bộ phận không thể tách rời của tổ chức xã hội y tế, chức
năng của nó là CSSK toàn diện cho nhân dân, cả phòng bệnh, chữa bệnh và dịch vụ
ngoại trú của bệnh viện phải vươn tới gia đình và môi trường cư trú. Bệnh viện còn
là trung tâm đào tạo cán bộ y tế và nghiên cứu khoa học [89].
Theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Xuyên và cộng sự, bệnh viện là cơ
sở khám bệnh, chữa bệnh đã được cấp phép hoạt động và cung cấp dịch vụ khám
bệnh, chữa bệnh cho nhân dân. Bệnh viện là một hình thức tổ chức chính của cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh, có đội ngũ thầy thuốc, cán bộ quản lý, giường bệnh, trang
thiết bị y tế và cơ sở hạ tầng phục vụ hoạt động của bệnh viện. Bệnh viện tồn tại các
mối quan hệ như cán bộ nhân viên bệnh viện với người bệnh, cán bộ nhân viên
bệnh viện với người nhà người bệnh, cán bộ nhân viên y tế với nhau, người bệnh
với nhau và người bệnh với gia đình họ. Trong đó mối quan hệ giữa nhân viên bệnh
viện với người bệnh và người nhà người bệnh phản ánh phần nào chất lượng hoạt
động của bệnh viện [61].
Theo tác giả, có thể hiểu “Bệnh viện là cơ sở khám, chữa bệnh có cơ sở hạ
tầng, trang thiết bị tối thiểu đáp ứng tiêu chuẩn, điều kiện khám, chữa bệnh theo quy
định; có đội ngũ nhân lực, người hành nghề (được cấp chứng chỉ hành nghề) phù
hợp; được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép hoạt động khám, chữa
bệnh; có tổ chức bộ máy quản lý điều hành và các bộ phận chức năng, điều phối sử
dụng các nguồn lực tổ chức hoạt động khám, chữa bệnh và ứng dụng các tiến bộ
khoa học kỹ thuật và quản lý để duy trì và nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh
31
đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh ngày càng cao của nhân dân. Ngoài ra, bệnh viện
còn thực hiện một số hoạt động dự phòng, đào tạo, nghiên cứu khoa học, chỉ đạo
tuyến và hợp tác quốc tế”
2.1.1.2. Phân loại bệnh viện
Bệnh viện được phân loại theo nhiều cách tiếp cận khác nhau:
- Theo chức năng, có bệnh viện đa khoa và bệnh viện chuyên khoa. Bệnh
viện đa khoa là những bệnh viện lớn, có thể xét nghiệm và chữa trị hầu hết các loại
chứng bệnh. Tại đây bác sĩ chuyên khoa mỗi ngành làm việc tại một khu riêng của
ngành mình nhưng vẫn có thể liên lạc với những bác sĩ của ngành khác để cộng tác
chữa trị công hiệu, nhất là nghiên cứu những bệnh khó chẩn đoán hay chữa trị.
Bệnh viện đa khoa thực hiện chức năng KCB tất cả các chuyên khoa chuyên ngành
bao gồm: Nội, ngoại, sản, nhi, y học cổ truyền, tai mũi họng, mắt, răng hàm mặt,
vv. Bệnh viện chuyên khoa chỉ thực hiện chức năng KCB một chuyên khoa, chuyên
ngành vì nhu cầu điều trị đặc biệt. Ví dụ: bệnh viện Tai Mũi Họng, bệnh viện Mắt,
bệnh viện Răng Hàm Mặt vv.
- Theo năng lực điều trị, bệnh viện được xếp theo cấp độ. Ví dụ, ở Nhật có
bệnh viện vùng 1, bệnh viện vùng 2, bệnh viện vùng 3 theo đó vùng 3 có năng lực
điều trị cao nhất và chủ yếu là các bệnh viện thuộc các đại học là cơ sở KCB và cơ
sở thực hành của nhà trường; ở Úc, có một số bệnh viện rất lớn được xếp hạng cấp
3 là bệnh viện có khả năng tiếp nhận tất cả những ca bệnh khó chữa, hiểm nghèo
trong toàn vùng hay tiểu bang. Bệnh viện cấp 3 có bác sĩ cao cấp, nhiều kinh
nghiệm và phòng ốc trang bị máy móc y tế hiện đại; ở Thái lan tương tự có bệnh
viện cấp 1, bệnh viện cấp 2, bệnh viện cấp 3. Ở Việt Nam, có bệnh viện hạng đặc
biệt, bệnh viện hạng I, bệnh viện hạng II, bệnh viện hạng III, bệnh viện hạng IV.
Theo đó bệnh viện hạng đặc biệt có quy mô và năng lực cao nhất [6].
- Theo tuyến, địa bàn, có bệnh viện Trung ương, bệnh viện tỉnh, bệnh viện
huyện.
- Theo sở hữu, có bệnh viện công lập (Nhà nước là chủ sở hữu) và bệnh viện
ngoài công lập (tư nhân là chủ sở hữu). Tùy theo tình hình KTXH và đặc thù của
mỗi nước, mà tỷ lệ khu vực y tế công và tư có sự khác nhau, nhưng phổ quát khu
32
vực y tế công giữ vai trò chủ đạo [5].
- Theo mức độ cải cách quản lý:
Hiện nay, Chính phủ ở tất cả các nước trên thế giới đều phải đối mặt với vấn
đề chất lượng dịch vụ y tế, hiệu quả hoạt động và chi phí ngày càng lớn tại các bệnh
viện công. Vì vậy, từ những năm đầu của thập kỷ 80 cuộc cải cách bệnh viện đã lan
rộng trên khắp mọi nơi trên thế giới [7].
Việc cải cách bệnh viện công đã được nhóm chuyên gia của Ngân hàng Thế
giới phân loại theo 4 nhóm: bệnh viện hưởng thụ ngân sách theo dự toán; bệnh viện
tự chủ; bệnh viện tự trị; bệnh viện tư nhân.
+ Bệnh viện thụ hưởng ngân sách nhà nước (NSNN) là nhóm bệnh viện phụ
thuộc hoàn toàn vào NSNN, toàn bộ hoạt động của bệnh viện được thực hiện trong
khuôn khổ các quy định, hướng dẫn hành chính của Bộ Y tế hoặc chính quyền địa
phương.
+ Bệnh viện tự chủ có đặc điểm là giám đốc bệnh viện ngoài việc thực hiện
các chức năng theo mệnh lệnh hành chính, còn được giao quyền quyết định một số
chức năng, nhiệm vụ và hoạt động của bệnh viện. Tuy sự phân công chịu trách
nhiệm trong bệnh viện vẫn còn mang tính hành chính, nhưng các mục tiêu hoạt động
được xác định rõ ràng hơn. Về quản lý tài chính, bệnh viện được tự chủ một phần:
cơ chế chi tiêu theo khoản mục ngân sách cứng nhắc được thay thế bằng cơ chế chi
tiêu theo ngân sách tổng, bệnh viện có quyền quyết định điều chỉnh ngân sách giữa
các khoản mục chi trong tổng ngân sách đã được cấp. Đáng chú ý là bệnh viện tự
chủ có quyền tạo thêm các nguồn thu ngoài ngân sách và sử dụng các nguồn tài
chính ngoài ngân sách này; bệnh viện được quyền giữ lại số dư cuối năm tài chính
để chuyển cho năm tài chính tiếp theo mà không phải nộp vào NSNN.
+ Bệnh viện tự trị là bước phát triển tiếp theo của bệnh viện tự chủ. Về tư
cách pháp nhân, bệnh viện tự trị là một đơn vị hoàn toàn độc lập, tự chịu trách
nhiệm về tổ chức, nhân lực và cân đối thu chi tài chính. Giám đốc của bệnh viện tự
trị chịu trách nhiệm tuyệt đối về vận hành của bệnh viện, trong khi bệnh viện hoàn
toàn thuộc sở hữu của Nhà nước. Tuy nhiên, có khá nhiều cảnh báo về nguy cơ các
33
tác động bất lợi của bệnh viện tự trị, khi bệnh viện tự trị quan tâm nhiều tới việc
tăng nguồn thu từ thu phí trực tiếp của người bệnh, đặc biệt là tại các nước chưa
đảm bảo được CSSK toàn dân qua BHYT hoặc qua ngân sách.
+ Bệnh viện tư nhân là nhóm bệnh viện có vốn sở hữu hoàn toàn do tư nhân,
hoạt động vì lợi nhuận, trong một số trường hợp có các bệnh viện tư nhân không vì
2.1.1.3. Vai trò của bệnh viện và bệnh viện công lập
lợi nhuận (có thể là bệnh viện tình thương hay các quỹ hỗ trợ).[7]
Vai trò của bệnh viện: Bệnh viện là bộ phận cấu thành hệ thống y tế và là
thành tố quan trọng trong cung cấp dịch vụ KCB cho người dân. Để triển khai các
hoạt động y tế đòi hỏi cần phải có một hệ thống cung ứng dịch vụ y tế bao gồm y tế
dự phòng (y tế công cộng, vệ sinh phòng bệnh, CSSK ban đầu….) và KCB có chất
lượng, đa dạng và phù hợp. Hoạt động phòng bệnh và KCB là hai mặt thống nhất
trong phạm trù CSSK trong đó lấy phòng bệnh là chính và KCB là quan trọng. Hệ
thống cung ứng dịch vụ KCB bao gồm các cơ sở KCB với nhiều loại hình khác
nhau trong đó có 2 loại hình chính là bệnh viện và phòng khám. Bệnh viện là nơi
thực hiện hầu hết các danh mục kỹ thuật và các kỹ thuật cao chuyên sâu, là tuyến
điều trị cuối cùng, còn phòng khám, chủ yếu thực hiện các kỹ thuật đơn giản và là
tuyến đầu trong hệ thống khám chữa bệnh.Vì vậy, trong hệ thống y tế, bệnh viện là
một bộ phận cấu thành của hệ thống cung cấp dịch vụ y tế, là thành tố chủ yếu và
đóng vai trò quan trọng trong việc chăm sóc bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân.
Ngoài ra, bệnh viện còn là “Bộ mặt” của ngành y tế: nhìn chung, các bệnh
viện trên thế giới kể cả những nước phát triển, đang phát triển và chậm phát triển
đều có chức năng, nhiệm vụ cơ bản là CSSK toàn diện cho người dân và cộng đồng
bao gồm cả phòng bệnh, chữa bệnh và nâng cao sức khỏe; bao gồm cả nghiên cứu
khoa học, đào tạo cán bộ y tế lẫn hợp tác quốc tế với các hình thức KCB, điều trị
bệnh nội ngoại trú. Bên cạnh đó hệ thống mạng lưới cung ứng dịch vụ KCB được
hình thành theo xu hướng gần dân để người dân dễ dàng tiếp cận với dịch vụ y tế.
Đối với bệnh viện công lập nhìn chung được thiết lập phù hợp sao cho vừa gần dân
và vừa đáp ứng nhu cầu KCB của người dân. Quy mô bệnh viện được tính theo số
giường bệnh tương ứng với quy mô dân số. Ví dụ, đến năm 2017, Việt Nam đạt 24,1
34
giường bệnh /vạn dân, phấn đấu đến 2020 đạt 27 giường bệnh/vạn dân [5].
Vai trò của bệnh viện công lập: Bệnh viện công lập là đơn vị sự nghiệp của
Nhà nước có vị trí và vai trò quan trọng, chủ đạo trong hoạt động cung cấp dịch vụ
KCB cho nhân dân thể hiện ở chỗ:
Hệ thống cung cấp dịch vụ KCB như đã nói ở trên, gồm bệnh viện công lập
và bệnh viện ngoài công lập. Thực tiễn ở nhiều nước trên thế giới đã chứng minh
rằng việc chính phủ các nước đã xây dựng chính sách cạnh tranh trong cung ứng
dịch vụ y tế bằng việc tạo lập các cơ hội bình đẳng không phân biệt đối xử trong
cạnh tranh. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong nền kinh tế và
khuyến khích cạnh tranh lành mạnh đã góp phần nâng cao hiệu quả, cải thiện chất
lượng dịch vụ y tế và đảm bảo sự bình đẳng trong tiếp cận các nguồn lực và tạo
thêm nhiều cơ hội lựa chọn và tiếp cận các dịch vụ y tế của người dân. Đối với Việt
Nam, Chính phủ đã chủ trương thực hiện xã hội hoá trong cung ứng dịch vụ y tế,
từng bước xây dựng chính sách cạnh tranh trong cung ứng dịch vụ y tế, góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động cung ứng, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, tạo ra
nhiều cơ hội cho người dân trong việc tiếp cận dịch vụ y tế. Tuy nhiên, thực tế bệnh
viện tư hiện nay so với bệnh viện công còn ít và quy mô giường bệnh thấp. Ví dụ ở
Nhật Bản, Thái Lan khuyến khích phát triển y tế tư nhân, nhưng y tế Nhà nước vẫn
là chính, bệnh viện Nhà nước có số giường bệnh chiếm khoảng 65%, bệnh viện tư
nhân khoảng 35%. Ở Việt Nam, bệnh viện công lập về số lượng chiếm 88%, bệnh
viện tư nhân chiếm 12%; theo quy mô giường bệnh, bệnh viện công lập chiếm 95%,
bệnh viện tư nhân chiếm khoảng 5%) [20].
Mặt khác, bệnh viện công lập, được Nhà nước thành lập, duy trì và phát triển
với lý do: Thứ nhất, để thực hiện sứ mệnh phục vụ của Nhà nước (đáp ứng nhu cầu
hợp pháp của công dân, tổ chức), đảm bảo sự tiếp cận của tất cả các công dân (bất
kể giàu hay nghèo, thành thị hay nông thôn, tôn giáo hay không tôn giáo, nam hay
nữ, già hay trẻ, gái hay trai, có việc làm hay thất nghiệp…) đều có thể tiếp cận dịch
vụ KCB; thứ hai, thông qua hệ thống các bệnh viện công lập, Nhà nước thiết lập các
chuẩn mực (trần và sàn) về KCB, về các nguồn lực (lao động và tiền lương) và là
35
nơi, Nhà nước thử nghiệm các chính sách, vì thế dù ở các nước có nền kinh tế thị
trường phát triển mạnh và khu vực tư nhân chiếm ưu thế thì vẫn có cơ sở y tế công
lập.
Hiện nay, ở Việt Nam nhu cầu KCB của nhân dân ngày càng tăng cao cả về
số lượng lẫn chất lượng do mô hình và cơ cấu bệnh tật thay đổi theo hướng gia tăng
các bệnh không lây nhiễm và tai nạn thương tích, trong khi tỷ lệ mắc một số bệnh
truyền nhiễm vẫn còn cao và diễn biến phức tạp, xuất hiện nhiều dịch bệnh mới nổi.
Bên cạnh đó, khả năng tiếp cận của người dân đối với dịch vụ y tế còn nhiều khó
khăn, nhất là người nghèo, cận nghèo và dân cư vùng sâu vùng xa. Sự bất bình đẳng
trong việc cung ứng và thụ hưởng các dịch vụ y tế có xu hướng gia tăng. Người có
thu nhập cao thường đến KCB tại bệnh viện tư còn đại bộ phận nhất là người nghèo
chủ yếu KCB tại bệnh viện công. Ví dụ: Xinh-ga-po là Quốc gia phát triển nhưng
có khoảng 70-80% người dân sử dụng các dịch vụ y tế trong hệ thống y tế của Nhà
nước. Ở Việt Nam trên 91% người dân KCB ngoại trú và trên 95% điều trị nội trú
sử dụng dịch vụ tại bệnh viện công lập [11].
Như vậy, có thể nói bệnh viện công lập ở Việt Nam có vai trò rất quan trọng
trong hệ thống y tế, có tầm quan trọng, chủ đạo trong cung cấp dịch vụ KCB cho
nhân dân.
2.1.2. Chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện
2.1.2.1. Khái niệm khám, chữa bệnh
Cụm từ “khám, chữa bệnh” được hiểu bao gồm hai hoạt động khám bệnh và
chữa bệnh:
Khám bệnh, theo Từ điển Bách khoa toàn thư là xem xét thân thể người ốm
để nghiên cứu triệu chứng mà đoán bệnh [3]; theo Điều 2, Luật Khám bệnh, chữa
bệnh số 40/2009/QH12 ngày 23/11/2009: Khám bệnh là việc hỏi bệnh, khai thác
tiền sử bệnh, thăm khám thực thể, khi cần thiết thì chỉ định làm xét nghiệm cận lâm
sàng, thăm dò chức năng để chẩn đoán và chỉ định phương pháp điều trị phù hợp đã
được công nhận [42].
Chữa bệnh, theo Từ điển Bách khoa toàn thư là dùng các phương pháp y học
kết hợp các loại thuốc để giúp bệnh nhân không còn mắc bệnh nào đó hoặc làm
36
thuyên giảm bệnh nào đó [4]; theo Luật Khám bệnh, chữa bệnh: Chữa bệnh là việc
sử dụng phương pháp chuyên môn kỹ thuật đã được công nhận và thuốc đã được
phép lưu hành để cấp cứu, điều trị, chăm sóc, phục hồi chức năng cho người bệnh
[42].
Như vậy, khái niệm khám, chữa bệnh có thể được hiểu như sau:
Theo nghĩa hẹp, là việc khám, chữa bệnh của thầy thuốc (người hành nghề)
thực hiện thăm khám (hỏi bệnh, tìm hiểu tiền sử bệnh, khám thực thể) và chỉ định
các xét nghiệm (nếu cần thiết) để chẩn đoán bệnh, sau đó sử dụng các phương pháp,
kỹ thuật chuyên môn y học đã được công nhận và thuốc đã được cấp phép lưu hành
để cấp cứu, điều trị, chăm sóc, phục hồi chức năng cho người bệnh.
Theo nghĩa rộng, là hoạt động khám, chữa bệnh của bệnh viện, đó là việc
bệnh viện tổ chức các hoạt động quản lý, điều hành, sử dụng nhân lực (người hành
nghề và cán bộ y tế), cơ sở vật chất, trang thiết bị, tài chính …và các phương pháp,
kỹ thuật y học để khám, chẩn đoán bệnh, cấp cứu, điều trị, chăm sóc, phục hồi chức
năng cho người bệnh.
2.1.2.2. Khái niệm chất lượng khám, chữa bệnh
Để hiểu rõ, đầy đủ khái niệm chất lượng KCB, trước hết cần tìm hiểu khái
niệm chất lượng. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về chất lượng:
Theo W. Edwards Deming khi chất lượng và hiệu suất tăng thì độ biến động
giảm, vì mọi vật đều biến động, nên cần sử dụng các phương pháp thống kê điều
khiển chất lượng. Joseph Juran cho rằng chất lượng trước hết là phải nhận dạng
khách hàng, khách hàng là bất kỳ một người nào tác động lên quy trình. Theo quan
điểm của ông, chi phí phù hợp (chi phí đánh giá và chi phí phòng ngừa) tăng lên khi
tỉ lệ lỗi giảm xuống. Philip Crosby đưa ra quan niệm “không có sai lỗi” cái tốn kém
nhất chính là cái thiếu chất lượng, nghĩa là không làm đúng mọi việc ngay từ đầu.
Không những chất lượng không mất tiền mua mà nó còn là những nguồn lãi chân
chính nhất. Chất lượng là sự phù hợp với các yêu cầu. Chất lượng là sự phòng ngừa.
Phòng ngừa là kết quả của đào tạo, của nguyên tắc, của sự lãnh đạo và của nhiều cái
khác. Tiêu chuẩn thực hiện chất lượng là lỗi zero. Các lỗi sai không thể dùng thử.
37
Đo chất lượng là giá của sự không phù hợp. Armand Feigenbaum cho rằng chất
lượng tổng hợp là việc đạt đến sự hoàn hảo hơn là việc tìm ra lỗi. Kaoru Ishikawa
coi khách hàng như một nhân tố cơ bản để xác định chất lượng [58], [57].
- Tiếp cận theo các quy trình, nhiệm vụ và kỳ vọng về kết quả thực hiện thì
“Chất lượng không có một cách ngẫu nhiên mà là kết quả của ý định quyết đoán, nỗ
lực nghiêm túc, hướng đi thông minh và sự thực thi khéo léo”. Đây là một định
nghĩa gắn chất lượng với các quy trình, nhiệm vụ và kỳ vọng về kết quả thực hiện.
Nó mô tả một cách rất phù hợp về chất lượng như là các hoạt động, hiện tượng đã
được lập kế hoạch, được hướng tới và phấn đấu để thực hiện. Theo đó, lập kế hoạch
là việc làm quan trọng để có được chất lượng. Xác định được đúng mục tiêu, mục
đích đúng đắn và các tiêu chí phù hợp là những điều cần thiết để có được chất
lượng. Nỗ lực lập kế hoạch cần phải đi kèm với sự toàn tâm, sự cống hiến để thực
hiện kế hoạch và đạt được các mục tiêu đặt ra. Song tất cả những điều này sẽ không
trọn vẹn nếu không xem xét các khả năng và chiến lược khác nhau để lựa chọn và
làm theo; mặt khác, đặt ra các ưu tiên và xác định được chiến lược quan trọng nhất
là một nhiệm vụ cần phải được hoàn thành để đáp ứng yêu cầu về chất lượng. Hành
động này phải được thực hiện với sự chính xác và với các kỹ năng cần thiết để triển
khai công việc một cách đúng đắn và có hiệu quả [12].
- Tiếp cận dựa trên mô hình công nghiệp thì “Chất lượng lấy khách hàng làm
trọng tâm. Vì vậy, việc đáp ứng được nhu cầu và mong đợi của khách hàng là mục
đích chính của chất lượng”. Đây là một định nghĩa về chất lượng đã được áp dụng
rộng rãi ở các mô hình công nghiệp ngoài lĩnh vực y tế. Nó đặt trọng tâm rõ ràng
vào người sử dụng và người nhận dịch vụ từ một nhà cung cấp. Ở đây, cần phải xác
định và ưu tiên mọi khách hàng (khách hàng sống còn, khách hàng quan trọng và
các khách hàng khác), sau đó diễn ra quá trình đánh giá mong đợi và nhu cầu của
khách hàng [4],[12].
- Tiếp cận dựa trên nguyên tắc cơ bản của lãnh đạo và quản lý thì “Chất
lượng là làm việc đúng đắn ngay từ lần đầu tiên và làm điều đó tốt hơn trong những
lần tiếp theo”. Định nghĩa dựa trên các nguyên tắc cơ bản của công tác lãnh đạo và
quản lý. Người ta thường kỳ vọng người lãnh đạo phải làm việc đúng đắn ngay từ
38
lần đầu tiên, còn nhà quản lý phải làm tốt và làm đúng điều đúng đắn đó [12], [36].
Khái niệm chất lượng khám, chữa bệnh:
- Bác sĩ, thạc sĩ y tế công cộng A.F.AL-ASAF, CQA Đại học Oklahoma, Mỹ
cho rằng: Từ góc độ của người bệnh và người nhà người bệnh với tư cách là người
thụ hưởng dịch vụ, là khách hàng quan tâm đến loại hình chăm sóc và tính hiệu quả
của nó, có thể chú trọng hơn vào tính tiện ích của dịch vụ, thái độ thân thiện, được
đối xử tôn trọng, sự thoải mái, sự sạch sẽ và sự sẵn có của nhiều dịch vụ phù hợp
với túi tiền; từ góc độ tiếp cận của người cung cấp dịch vụ (nhân viên y tế hoặc cơ
sở y tế) sẽ quan tâm nhiều hơn đến quy trình khoa học của chăm sóc y tế, khả năng
chẩn đoán và điều trị một ca bệnh mà ít để ý đến tính tiện lợi và càng ít tập trung
vào khía cạnh “chăm sóc”; đối với nhà quản lý có quan niệm tiếp cận khác về chất
lượng. Các nhà quản lý cho rằng chất lượng là sự tiếp cận, hiệu lực, tính phù hợp,
khả năng có thể chấp nhận được và hiệu quả trong cung ứng dịch vụ KCB. Chi phí
cho KCB cũng là yếu tố quan trọng đối với nhà quản lý [36].
Vì vậy, khi phải định nghĩa chất lượng KCB là gì, cần phải tính đến quan
điểm khác nhau của từng đối tượng liên quan từ người cung ứng, người thụ hưởng
cũng như nhà quản lý dịch vụ KCB.
- Theo ý kiến của Hội nghị bàn tròn Quốc gia về Chất lượng, Viện Y khoa
Masachusetts “Chất lượng là sự cải thiện gia tăng, là mức độ nâng cao khả năng đạt
được kết quả về sức khỏe cho cá nhân và cho công chúng mà dịch vụ y tế làm được
và tương đồng với kiến thức chuyên môn hiện tại” [12]. Đây là một định nghĩa khá
đơn giản về chất lượng, thế nhưng lại khá rắc rối. Gia tăng có nghĩa là hệ thống có
thể trả lời khẳng định hai câu hỏi: Hôm nay bạn có tốt hơn hôm qua không? Và liệu
ngày mai bạn có tốt hơn hôm nay không? Tuy nhiên để trả lời các câu hỏi trên là
không đơn giản, vì nếu muốn trả lời chính xác thì chúng ta phải có khả năng đo
lường một cách chính xác mức độ thực hiện nhiệm vụ của một ai đó trước đây, hiện
tại và tương lai. Vì vậy, đo lường mức độ thực hiện nhiệm vụ rất quan trọng trong
chất lượng và khả năng xác định được biện pháp và cách thức để đo lường mức độ
thực hiện đó một cách đầy đủ và phù hợp cũng quan trọng không kém. Điều đó cho
thấy, cần có một hệ thống thu thập số liệu, phân tích số liệu và báo cáo số liệu, tất
39
cả đều liên quan đến mức độ thực hiện nhiệm vụ của hệ thống đó. Quy trình này cần
phải liên kết với hệ thống thường xuyên giám sát kết quả thực hiện và thường xuyên
nâng cấp khả năng thực hiện của nó [12].
- Theo Christian Grönroos: Chất lượng KCB bao hàm hai cấu phần riêng biệt
là chất lượng vận hành, tức là cách thức người bệnh được nhận dịch vụ (chất lượng
thức ăn, tiếp cận dịch vụ) và chất lượng chuyên môn, tức là chất lượng của việc
cung ứng dịch vụ KCB (năng lực và kết quả điều trị) [70].
- Theo Donabedian A: Chất lượng dịch vụ KCB bao gồm cả việc ứng dụng
khoa học và kỹ thuật y khoa theo cách thức nào đó để tối đa hóa lợi ích về sức khỏe
mà không làm gia tăng các rủi ro tương ứng do ứng dụng các kỹ thuật này. Do đó,
chất lượng dịch vụ KCB chính là mức độ mà dịch vụ y tế được kỳ vọng sẽ đem lại
sự cân bằng mong muốn nhất giữa rủi ro và lợi ích [68].
- Theo John Øvretveit: Chất lượng dịch vụ KCB là hình thức tổ chức các
nguồn lực một cách hiệu quả nhất nhằm đáp ứng nhu cầu CSSK của những người
có nhu cầu nhất nhằm mục đích phòng bệnh và CSSK, không gây lãng phí mà vẫn
đảm bảo đáp ứng được các yêu cầu cao hơn. Theo tiếp cận này rất hữu ích cho việc
xây dựng chiến lược và kế hoạch quốc gia về chất lượng dịch vụ y tế bởi vì nó nhấn
mạnh tới cách thức sử dụng nguồn lực hiện tại thay vì chỉ tập trung vào việc gia
tăng nguồn lực sẵn có. Định nghĩa này bao gồm ba khía cạnh của chất lượng: chất
lượng đáp ứng nhu cầu của người bệnh, chất lượng chuyên môn và chất lượng quản
lý. Chính điều này khiến định nghĩa của John Øvretveit được WHO đưa áp dụng
trong bản hướng dẫn xây dựng chiến lược an toàn và chất lượng trong sự tiếp cận hệ
thống y tế [75].
- Theo WHO, chất lượng dịch vụ KCB là mức độ đạt được các mục đích bên
trong của một hệ thống y tế nhằm nâng cao sức khỏe và đáp ứng được kỳ vọng
chính đáng của nhân dân [89].
Các định nghĩa trên đều có sự linh hoạt trong việc xác định chất lượng dịch
vụ KCB tùy thuộc vào mục đích và vào điều kiện hiện tại của hệ thống KCB; đều
đề cập tới sự kỳ vọng của nhân dân, đến tính hiệu quả - chi phí của dịch vụ và hiệu
40
quả điều trị của các dịch vụ KCB nhằm đạt được mục đích cuối cùng là sức khỏe.
Tóm lại, có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau về chất lượng dịch vụ KCB,
tuy nhiên, theo tác giả khi tiếp cận khái niệm chất lượng KCB chúng ta cần quan
tâm và đề cập đến 6 tiêu chí, khía cạnh chất lượng sau đây:
Một là - An toàn: cung cấp dịch vụ KCB với sự giảm thiểu rủi ro và nguy hại
cho người sử dụng dịch vụ KCB. Điều này phù hợp với mục tiêu của Luật Khám
bệnh, chữa bệnh là an toàn người bệnh, đây là điều cần thiết và quan trọng nhất.
Hiện nay, Bộ Y tế đã ban hành chương trình và tài liệu đào tạo “An toàn người
bệnh” và Thông tư số 43/2018/TT-BYT phòng ngừa sự cố y khoa trong các cơ sở
KCB.
Hai là - Hiệu quả: cung cấp dịch vụ KCB dựa vào cơ sở bằng chứng và đem
lại các kết quả cải thiện sức khỏe cho các cá nhân và cộng đồng, đồng thời không
ngừng nâng cao chất lượng đáp ứng nhu cầu của người bệnh.
Ba là - Người bệnh là trung tâm: cung cấp dịch vụ KCB có tính đến sở thích
và nguyện vọng của người sử dụng dịch vụ cá nhân và các nền văn hóa của các
cộng đồng. Mục tiêu hiện nay của Luật Khám bệnh, chữa bệnh và cả hệ thống
khám, chữa bệnh là lấy người bệnh làm trung tâm, đáp ứng sự hài lòng của người
bệnh.
Bốn là - Kịp thời: dịch vụ KCB được cung cấp kịp thời, hợp lý về mặt địa lý,
và trong các cơ sở có kỹ năng và nguồn lực phù hợp với yêu cầu y học;
Năm là - Hiệu suất: cung cấp dịch vụ KCB với việc sử dụng nguồn lực có
hiệu quả tối đa và tránh lãng phí;
Sáu là - Công bằng: cung cấp dịch vụ KCB không có khác biệt về chất lượng
theo các đặc điểm cá nhân người bệnh như giới tính, chủng tộc, dân tộc, vị trí địa lý,
hoặc tình trạng KTXH, thực hiện công bằng trong chăm sóc sức khỏe
[89],[36],[12].
2.2. Quản lý chất lượng khám chữa bệnh của bệnh viện
2.2.1. Khái niệm quản lý chất lượng khám chữa bệnh của bệnh viện
2.2.1.1. Khái niệm quản lý chất lượng
Chất lượng không tự nhiên sinh ra, nó là kết quả của sự tác động hàng loạt
41
yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau. Muốn đạt được chất lượng mong muốn cần
phải quản lý một cách đúng đắn các yếu tố này. QLCL là một khía cạnh của chức
năng quản lý để xác định và thực hiện chính sách chất lượng. Hoạt động quản lý
trong lĩnh vực chất lượng được gọi là QLCL. Hiện nay, có các quan điểm khác nhau
về QLCL [57].
- Theo GOST 15467-70, QLCL là xây dựng và duy trì mức chất lượng tất
yếu của sản phẩm khi thiết kế, chế tạo, lưu thông và tiêu dùng. Điều này được thực
hiện bằng cách kiểm tra chất lượng có hệ thống, cũng như những tác động hướng
đích tới các nhân tố và điều kiện ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm [57],[58].
- A.G. Robertson, một chuyên gia người Anh về chất lượng cho rằng: QLCL
được xác định như là một hệ thống quản trị nhằm xây dựng chương trình và sự phối
hợp các cố gắng của những đơn vị khác nhau để duy trì và tăng cường chất lượng
trong các tổ chức thiết kế, sản xuất, sao cho đảm bảo nền sản xuất có hiệu quả nhất,
đồng thời cho phép thỏa mãn đầy đủ các yêu cầu của người tiêu dùng [57].
- A.V. Feigenbaum, nhà khoa hoạc người Mỹ cho rằng: QLCL là một hệ
thống hoạt động thống nhất có hiệu quả của những bộ phận khác nhau trong một tổ
chức (một đơn vị kinh tế) chịu trách nhiệm triển khai các tham số chất lượng, duy
trì mức chất lượng đã đạt được và nâng cao nó để đảm bảo sản xuất và tiêu dùng
sản phẩm một các kinh tế nhất, thỏa mãn nhu cầu của tiêu dùng. Trong các tiêu
chuẩn công nghiệp Nhật Bản (JIS) xác định: QLCL là hệ thống các phương pháp
sản xuất tạo điều kiện sản xuất tiết kiệm những hàng hóa có chất lượng cao hoặc
đưa ra những dịch vụ có chất lượng thỏa mãn yêu cầu của người tiêu dùng [57]:
- Giáo sư, tiến sĩ Kaoru Ishikawwa, một chuyên gia nổi tiếng trong lĩnh vực
QLCL định nghĩa là: nghiên cứu triển khai, thiết kế sản xuất và bảo dưỡng một số
sản phẩm có chất lượng, kinh tế nhất, có ích nhất cho người tiêu dùng và bao giờ
cũng thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng.
- Philip Crosby, một chuyên gia người Mỹ về chất lượng định nghĩa QLCL
là một phương tiện có tính chất hệ thống đảm bảo việc tôn trọng tổng thế tất cả các
thành phần của một kế hoạch hành động.
- Tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế ISO 9000 cho rằng: QLCL là một hoạt
42
động có chức năng quản lý chung nhằm mục đích đề ra chính sách, mục tiêu, trách
nhiệm và thực hiện chúng bằng các biện pháp như hoạch định chất lượng, kiểm soát
chất lượng, đảm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng trong khuôn khổ một hệ
thống chất lượng [49]. Nói cách khác QLCL là các hoạt động có phối hợp để định
hướng và kiểm soát một tổ chức về chất lượng. Việc định hướng và kiểm soát về
chất lượng nói chung bao gồm lập chính sách chất lượng và mục tiêu chất lượng,
hoạch định chất lượng, kiểm soát chất lượng, đảm bảo chất lượng và cải tiến chất
lượng [57],[58].
QLCL hiện đã được áp dụng trong mọi ngành công nghiệp, không chỉ trong
sản xuất mà trong mọi lĩnh vực, trong mọi loại hình tổ chức, từ quy mô lớn đến quy
mô nhỏ, cho dù có tham gia vào thị trường quốc tế hay không. QLCL đảm bảo cho
tổ chức làm đúng những việc phải làm và những việc quan trọng, theo triết lý "làm
việc đúng" và "làm đúng việc", "làm đúng ngay từ đầu" và "làm đúng tại mọi thời
điểm" [57].
Từ các cách tiếp cận khác nhau về QLCL nêu trên, theo tác giả có thể hiểu
QLCL bao gồm các hoạt động chính như đảm bảo chất lượng, kiểm soát chất lượng,
cải tiến chất lượng và đánh giá chất lượng.
- Đảm bảo chất lượng (Quality assurance - QA) là toàn bộ hoạt động có kế
hoạch và hệ thống, được tiến hành trong QLCL và được chứng minh là đủ mức cần
thiết để tạo sự tin tưởng thỏa đáng rằng sản phẩm hay dịch vụ của tổ chức sẽ đáp
ứng các yêu cầu về chất lượng. Theo ISO, đảm bảo chất lượng là một phần
của QLCL tập trung vào việc cung cấp lòng tin rằng các yêu cầu chất lượng sẽ được
thực hiện. Đảm bảo chất lượng nhằm cả hai mục đích: trong nội bộ tổ chức nhằm
tạo lòng tin cho tổ chức và đối với bên ngoài tổ chức, việc bảo đảm chất lượng sẽ
tạo lòng tin cho khách hàng và những người khác có liên quan về chất lượng sản
phẩm, dịch vụ mà tổ chức đó cung cấp [58].
- Kiểm soát chất lượng (Quality Control hay - QC) và kiểm soát chất lượng
toàn bộ (Total Quality Control - TQC) là một phần của QLCL tập trung vào thực
hiện các yêu cầu chất lượng. Kiểm soát chất lượng là việc kiểm soát các quá
trình tạo ra sản phẩm, dịch vụ thông qua kiểm soát các yếu tố như con người, máy
43
móc, nguyên vật liệu, phương pháp, thông tin và môi trường làm việc. Yếu tố
nguyên vật liệu là yếu tố chính đầu vào, có ảnh hưởng chủ yếu đến chất lượng sản
phẩm. Để sản phẩm đầu ra có chất lượng thì nguyên vật liệu đầu vào phải có chất
lượng. Yếu tố thiết bị và công nghệ là các yếu tố có tầm quan trọng đặc biệt ảnh
hưởng đến sự hình thành chất lượng sản phẩm. Yếu tố con người ở đây bao gồm
toàn bộ nguồn nhân lực trong một tổ chức từ lãnh đạo cao nhất đến các nhân viên
đều tham gia vào quá trình tạo chất lượng. Tuy nhiên ở đây người ta nhấn mạnh đến
vai trò của lãnh đạo và trưởng các phòng, ban, bộ phận, những người chịu trách
nhiệm chính trong việc kiểm soát chất lượng sản phẩm, dịch vụ [58].
- Cải thiện chất lượng (Quality improvement - QI) là khái niệm mở rộng của
nội dung bảo đảm chất lượng trong đó đảm bảo chất lượng có phạm vi hẹp và chỉ
phát hiện sai sót (“finding bad apples”) trong khi cải thiện chất lượng hướng tới
mục tiêu nâng cao chất lượng. Cải thiện chất lượng là một nội dung của QLCL
[57],[58].
- Đánh giá chất lượng là một quá trình kiểm tra, đánh giá một hệ thống chất
lượng để tìm ra các điểm phù hợp hay không phù hợp của một hệ thống chất lượng
trong một tổ chức. Kết quả đánh giá là các thông tin, đầu vào quan trọng cho việc
cải tiến chất lượng. Việc đánh giá chất lượng có thể tiến hành bởi một đoàn đánh
giá nội bộ hoặc một đoàn đánh giá độc lập. Đây là một phần quan trọng của một hệ
thống QLCL của tổ chức và là yếu tố then chốt trong tiêu chuẩn hệ thống quản lý
2.2.1.2. Khái niệm Quản lý chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện
ISO, ISO 9001 [58].
Từ cách hiểu về QLCL, muốn quản lý được chất lượng KCB của bệnh viện
phải có một loạt các hoạt động, kỹ thuật cũng như các giải pháp, từ xây dựng mục
tiêu chính sách, kế hoạch, biện pháp thực hiện để đạt được mục tiêu đề ra. Nói cách
khác, để quản lý được chất lượng KCB của bệnh viện cần thiết phải có hệ thống
QLCL. Hệ thống ấy có 2 cấp độ:
Một là, QLCL của Nhà nước với tư các là chủ thể quản lý hay nói cách khác
là QLNN về chất lượng KCB (Quản lý vĩ mô). Theo đó, Nhà nước tổ chức một hệ
thống QLCL để thực hiện các chức năng bao gồm: Xây dựng các văn bản quy phạm
44
pháp luật về chất lượng KCB; xây dựng và thực hiện các chương trình quốc gia về
nâng cao chất lượng KCB; thực hiện QLNN về chất lượng như định hướng việc
đảm bảo và cải tiến chất lượng cho các cơ sở KCB trong nước; xây dựng và kiểm
tra việc thực hiện một số tiêu chuẩn Nhà nước và tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng
KCB; cấp đăng ký chất lượng, chứng nhận và công nhận chất lượng KCB; thanh tra
việc chấp hành pháp luật về chất lượng KCB; xây dựng cơ cấu tổ chức và đội ngũ
nhân lực làm công tác QLCL; huy động các nguồn lực để triển khai thực hiện quản
lý chất lượng KCB.
Hai là, QLCL của chủ thể là bệnh viện (Quản lý vi mô). Các bệnh viện tổ
chức các hoạt động quản lý nhằm đảm bảo, cải tiến và nâng cao chất lượng KCB
đáp ứng nhu cầu của người bệnh. Đồng thời, các hoạt động QLCL tại bệnh viện
phải tuân thủ và đảm bảo những yêu cầu của QLNN về chất lượng KCB.
Như vậy, quản lý chất lượng khám chữa bệnh của bệnh viện được hiểu là:
“(1) Tổng thể các hoạt động quản lý của Nhà nước bao gồm việc đưa ra chính sách,
quy định lẫn tổ chức kiểm tra, giám sát, đánh giá cùng với các biện pháp xử lý vi
phạm để các quy định được thực hiện và (2) các hoạt động của bệnh viện bao gồm
việc triển khai thực hiện các chính sách, quy định của Nhà nước và áp dụng các
phương pháp, biện pháp quản lý nhằm đảm bảo, duy trì và cải tiến chất lượng khám
chữa bệnh của bệnh viện. Theo nghiên cứu của tác giả có 96,65% ý kiến được hỏi
đồng ý với khái niệm này.
Có thể khái quát quản lý chất lượng khám chữa bệnh của bệnh viện theo mô
hình sau:
Sơ đồ mô hình cho thấy hệ thống quản lý chất lượng KCB đối với bệnh viện
công lập và bệnh viện tư là hoàn toàn giống nhau trong đó QLNN không có sự phân
biệt bệnh viện công hay tư. Tuy nhiên QLCL tại bệnh viện có sự khác nhau giữa
bệnh viện công và bệnh viện tư và giữa các bệnh viện với nhau tùy thuộc vào chủ
thể bệnh viện. Ví dụ: Về QLNN, Luật Khám bệnh, chữa bệnh quy định điều kiện
cấp giấy phép hoạt động cho bệnh viện; điều kiện cấp chứng chỉ hành nghề cho
người hành nghề không có phân biệt khu vực bệnh viện công lập và bệnh viện tư.
Các quy định và quy chế chuyên môn của Bộ Y tế ban hành áp dụng cho cả bệnh
45
viện công lập và bệnh viện tư. Đối với quản lý chất lượng KCB của bệnh viện, Luật
Khám bệnh, chữa bệnh quy định khuyến khích các bệnh viện áp dụng quản lý chất
lượng KCB, vì thế hoạt động quản lý chất lượng tại bệnh viện có sự khác nhau tùy
thuộc vào từng bệnh viện.
Sơ đồ 1. Hệ thống quản lý chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện
Hệ thống quản lý chất lượng Khám chữa bệnh của bệnh viện
QLCL tại BV
QLNN về chất lượng KCB
Bệnh viện
BV Công lập
BV tư
QLNN về chất lượng KCB - quản lý vĩ mô và QLCL tại bệnh viện – quản lý
vi mô có mối quan hệ hữu cơ, khăng khít với nhau, theo đó QLNN giữ vai trò chủ
đạo, quyết định. QLNN có tính chất định hướng dẫn dắt, đảm bảo duy trì chất lượng
KCB của bệnh viện còn QLCL tại bệnh viện có vai trò thúc đẩy, nâng cao chất
lượng KCB của bệnh viện.
2.2.2. Nội dung quản lý chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện
2.2.2.1. Quản lý nhà nước về chất lượng khám chữa bệnh
Quản lý là quá trình tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý bằng
các công cụ, phương tiện nhất định nhằm đạt được các mục tiêu đề ra hay nói cách
khác là tác động có tổ chức và hướng đích của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý
nhằm đạt được mục đích đề ra [31],[32]. Quản lý bao gồm các chức năng: lập kế
hoạch, tổ chức, lãnh đạo, điều hành, nhân sự, tài chính, kiểm tra, xử lý vi phạm.
46
Cũng như các hoạt động khác trong đời sống xã hội, hoạt động quản lý chất lượng
KCB muốn đạt được các mục tiêu đề ra, tất yếu cần phải thực hiện hoạt động
QLNN.
QLNN là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối
với các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người để duy trì và phát triển
các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật nhằm thực hiện những chức năng và
nhiệm vụ của Nhà nước trong công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc XHCN
[31].
QLNN về chất lượng KCB của bệnh viện là việc Nhà nước thông qua hệ
thống luật pháp, chính sách và hệ thống tổ chức các cơ quan quản lý của mình để
điều khiển và tác động vào các đối tượng của quản lý nhằm bảo đảm và bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của người bệnh, người hành nghề để thực hiện mục tiêu
nâng cao chất lượng KCB và an toàn người bệnh đảm bảo an sinh xã hội. Theo đó,
Nhà nước định hướng chuẩn chất lượng và các điều kiện để đạt chuẩn chất lượng
thông qua chiến lược, chương trình, kế hoạch, hệ thống chỉ tiêu, chỉ số, chỉ báo…;
hỗ trợ các bệnh viện bằng hệ thống thể chế và các nguồn lực cần thiết để đạt được
chuẩn chất lượng và có những biện pháp xử lý khi các bệnh viện không đạt chuẩn
chất lượng.
Quá trình quản lý đó đi từ việc nghiên cứu hoạch định chính sách, xây dựng
pháp luật, các chiến lược, chương trình, kế hoạch, xây dựng hệ thống tổ chức bộ
máy, hình thành cơ chế quản lý điều hành và tác động làm cho các chủ trương,
chính sách đến người dân và biến nó thành hiện thực trong cuộc sống. QLNN về
chất lượng KCB đòi hỏi phải nắm được một cách đầy đủ, kịp thời và chính xác thực
trạng tình hình quản lý chất lượng KCB và xu hướng của nó trong tương lai.
Chủ thể QLNN về hoạt động KCB là Nhà nước với hệ thống các cơ quan của
Nhà nước được phân chia thành các cấp từ Trung ương đến địa phương và bao gồm
cả 3 lĩnh vực là lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó quản lý hành chính (hành
pháp) về KCB là lĩnh vực rất quan trọng. Khách thể của QLNN về chất lượng KCB
là các tổ chức, cá nhân các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, người hành nghề và người
47
bệnh. Mục tiêu QLNN về chất lượng KCB nhằm nâng cao chất lượng KCB đảm
bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của người bệnh, người hành nghề, an toàn người
bệnh đáp ứng sự hài lòng của người bệnh.
Nội dung QLNN về chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện bao gồm:
a) Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chương trình, kế hoạch quản lý
chất lượng KCB của bệnh viện
Việc xây dựng và ban hành chiến lược, chương trình, kế hoạch là một nội
dung quan trọng trước tiên của công tác QLNN về chất lượng KCB để đảm bảo
thực hiện đúng các định hướng chung của Đảng và Nhà nước trong quá trình phát
triển KTXH tránh việc đưa ra những mục tiêu giải pháp phát triển nóng vội không
phù hợp với đặc điểm tình hình KTXH, hiện trạng hệ thống KCB, sự phát triển
chưa đồng bộ đồng đều của các bệnh viện giữa các tuyến, các khu vực vùng miền
trên cả nước, và đặc thù của công tác KCB, không phù hợp với các nguồn lực như
cơ sở hạ tầng trang thiết bị y tế, đội ngũ nhân lực và nguồn tài chính, đồng thời
không phù hợp với nhu cầu KCB, CSSK đa dạng hiện nay của nhân dân, dẫn đến
không khả thi. Việc đánh giá chiến lược, chương trình, kế hoạch quản lý chất lượng
KCB làm cơ sở cho việc điều chỉnh chính sách.
Chiến lược là một hình thức của chính sách là một định hướng hành động,
thể hiện ý chí của Nhà nước trong việc lựa chọn mục tiêu có thể đề ra mục tiêu dài
hạn từ 10 đến 20 năm hoặc lâu hơn. Chiến lược quản lý chất lượng KCB là việc xác
định các mục tiêu cơ bản, lâu dài và các giải pháp để thực hiện mục tiêu của QLCL
trong phạm vi rộng với quy mô lớn [47],[31].
Chương trình kế hoạch hay (đề án dự án) là bản đề cương triển khai thực
hiện một số công việc nào đó nhằm đạt được một số mục tiêu cụ thể hoặc một số
hoạt động nhất định nhằm đạt được một số mục tiêu. Chương trình, kế hoạch quản
lý chất lượng KCB là hệ thống các mục tiêu, chỉ tiêu nhiệm vụ cụ thể, biện pháp, cơ
chế vận hành được thực hiện bằng văn bản trong thời gian nhất định khoảng 5 đến
10 năm nhằm thực hiện chiến lược QLCL đã đề ra.
Xây dựng chiến lược, chương trình kế hoạch quản lý chất lượng KCB phải
đảm bảo các yêu cầu [31],[32]: đánh giá đúng thực trạng chất lượng KCB, quản lý
48
chất lượng KCB hiện nay, những hạn chế khó khăn thách thức, nguyên nhân tồn tại
hạn chế; xác định các mục tiêu, xu hướng chất lượng, QLCL và xu hướng thay đổi
phát triển của y tế và nhu cầu KCB của người dân, yêu cầu của sự phát triển KTXH,
xu thế hội nhập khu vực và thế giới; xác định các giải pháp chủ yếu để tăng cường
quản lý chất lượng KCB phù hợp với hiện trạng và thực trạng và yêu cầu của phát
triển KTXH và xu thế phát triển chung của đất nước.
b) Xây dựng và triển khai thực hiện pháp luật về quản lý chất lượng KCB
Pháp luật là công cụ để Nhà nước duy trì sự thống trị, thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước. Quyền lực Nhà nước dựa trên cơ sở pháp luật, được thực
hiện thông qua pháp luật và bị hạn chế bởi pháp luật. Vì vậy xây dựng pháp luật về
quản lý chất lượng KCB là nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, hành vi của các cơ
quan tổ chức, cá nhân liên quan đến quản lý chất lượng KCB là một nhiệm vụ quan
trọng [32].
Quá trình xây dựng pháp luật quản lý chất lượng KCB từ khâu nghiên cứu
đánh giá tác động, tổ chức soạn thảo, ban hành, phổ biến quán triệt và thực thi pháp
luật quản lý chất lượng KCB sẽ giúp cho chúng ta có được một hành lang pháp lý
trong việc thực hiện mục tiêu mà chính sách, chương trình kế hoạch về QLCL đã
đặt ra góp phần vào việc nâng cao chất lượng KCB, CSSK nhân dân theo định
hướng của Đảng đã đề ra.
Hệ thống pháp luật về QLCL phải mang tính tổng thể khách quan, đảm bảo
phù hợp với đặc điểm, đặc thù của lĩnh vực y tế nói chung và lĩnh vực KCB nói
riêng, đồng thời đạt được những yêu cầu sau:
- Quy định về điều kiện hoạt động đối với các cơ sở KCB với các loại hình
khác nhau như bệnh viện, phòng khám ... Quy định tiêu chuẩn tối thiểu để đảm bảo
chất lượng KCB của bệnh viện. Đây là quy chuẩn quốc gia đối với từng loại hình
như quy chuẩn về cơ sở hạ tầng (diện tích, không gian, môi trường, phòng thí
nghiệm, nhà xưởng và các công trình phụ trợ; quy chuẩn về trang thiết bị y tế như
độ chính xác, độ tin cây, độ an toàn; quy định về đảm bảo an toàn cho người bệnh
và nhân viên y tế như an toàn bức xạ, phòng chống cháy nổ, an toàn sinh học...; quy
định về môi trường như kiểm soát nhiễm khuẩn, tiêu chuẩn nước thải, rác thải, vệ
49
sinh y tế chất lượng...; quy định về điều kiện đối với nhân lực làm việc trong cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh cả về số lượng cơ cấu lẫn chất lượng; các điều kiện đảm bảo
quản lý sử dụng thuốc an toàn hợp lý và hiệu quả. Đây là những điều kiện để chứng
nhận cấp GPHĐ đối với cơ sở KCB.
- Quy định tiêu chuẩn năng lực đối với người hành nghề và đội ngũ lãnh đạo
quản lý bệnh viện như người hành nghề phải có CCHN và chỉ được hành nghề theo
phạm vi hoạt động chuyên môn được cấp trong CCHN; cơ sở KCB phải có người
phụ trách chuyên môn phải có CCHN và thời gian làm công tác chuyên môn đủ thời
gian nhất định; đội ngũ lãnh đạo quản lý phải được đào tạo bồi dưỡng kiến thức
quản lý nói chung và QLNN nói riêng.
- Quy định tổ chức bộ máy, đội ngũ bao gồm cả cán bộ có CCHN và đội ngũ
cán bộ khác của cơ sở KCB và tổ chức bộ máy, nhân lực của cơ quan, đơn vị làm
công tác QLCL.
- Quy định vai trò, trách nhiệm của các bên liên quan trong quản lý chất
lượng KCB, các điều kiện hỗ trợ như đào tạo, tập huấn, thu hút kinh phí cho hoạt
động QLCL.
Để việc ban hành và triển khai thực hiện pháp luật về QLCL đi vào thực tiễn
cuộc sống, việc xây dựng và ban hành phải đảm bảo các nguyên tắc: đảm bảo tính
phù hợp, cần phải xác định đúng các vấn đề ưu tiên, cấp thiết đặt ra trong quản lý
chất lượng KCB, trên cơ sở phân tích đánh giá thực trạng và nhu cầu QLCL. Phân
tích cụ thể sâu các mối quan hệ giữa nhu cầu, yêu cầu và khả năng đáp ứng “cung -
cầu” để đưa ra mục tiêu giải pháp phù hợp. Đây là một trong các nguyên tắc cơ bản
của xây dựng pháp luật XHCN; đảm bảo tính hợp pháp, tính thống nhất của văn bản
QPPL. Việc xây dựng các văn bản QPPL về QLCL phải phù hợp với Hiến pháp,
luật và không được trái và trùng lặp với các luật khác và tạo nên hệ thống văn bản
QPPL đồng bộ thống nhất; tuân thủ thẩm quyền, trình tự, thủ tục, hình thức ban
hành văn bản QPPL. Nhà nước có hệ thống giám sắt chặt chẽ việc xây dựng và ban
hành các văn bản QPPL. Các văn bản QPPL trái thẩm quyền, sai thể thức, trình tự
thủ tục đều bị đình chỉ, bãi bỏ; đảm bảo tính công khai, minh bạch trong quá trình
xây dựng văn bản QPPL. Công khai để mọi người dân mọi tổ chức cá nhân có liên
50
quan, các đối tược tác động của luật tham gia góp ý xây dựng văn bản QPPL. Mặt
khác các văn bản QPPL phải rõ ràng cụ thể để mọi người đều hiểu giống nhau; đảm
bảo độ tin cậy, tính khách quan bình đẳng và công bằng đối với các chủ thể và
khách thể liên quan đến hoạt động quản lý chất lượng KCB, đồng thời trong quá
trình triển khai thực hiện phải có các nguồn lực hỗ trợ đảm bảo cho pháp luật được
thực hiện trong đời sống. [30]
c) Tổ chức bộ máy, phát triển đội ngũ QLNN và cán bộ làm công tác QLCL
ở các bệnh viện
Xây dựng và kiện toàn tổ chức bộ máy và phát triển đội ngũ QLNN là nội
dung quan trọng trong QLNN và là hai trong bốn nội dung cải cách hành chính Nhà
nước. Khi đã có thể chế, pháp luật muốn đưa pháp luật vào cuộc sống cần phải có tổ
chức bộ máy và đội ngũ thực hiện, làm công tác QLNN [51].
Bộ máy tổ chức được thiết lập trên cơ sở nhu cầu quản lý, trên cơ sở chức
năng nhiệm vụ đặt ra để xây dựng, thiết lập tổ chức bộ máy phù hợp từ Trung ương
đến địa phương. Đối với tổ chức bộ máy QLNN: Ở Trung ương có thể hình thành
Vụ, Cục hoặc Phòng thực hiện chức năng tham mưu QLNN về quản lý chất lượng
KCB, ở địa phương có thể là phòng, bộ phận. Đối với các bệnh viện, có thể là
Phòng hoặc bộ phận trực tiếp làm nhiệm vụ QLCL tại bệnh viện. Cấp độ của các tổ
chức tùy thuộc quy mô nhu cầu của nhiệm vụ. Bộ máy QLNN về quản lý chất
lượng KCB được thiết lập theo quy định của pháp luật [9].
Việc xây dựng tổ chức bộ máy phải đảm bảo các nguyên tắc: Tổ chức bộ
máy trong một thể thống nhất, phù hợp với chức năng nhiệm vụ, có cơ cấu hợp lý,
tinh gọn, hiệu quả; có sự phân công nhiệm vụ, trách nhiệm rõ ràng giữa các bộ phận
cấu thành và các cá nhân lãnh đạo và cán bộ thuộc đơn vị, có hệ thống quy chế hoạt
động phối hợp, tránh chồng chéo giữa các bộ phận; cùng với việc xây dựng tổ chức
bộ máy, cần thết xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ làm công tác QLNN và
QLCL tại đơn vị. Đây là nội dung có mối quan hệ hữu cơ với nội dung xây dựng thể
chế, tổ chức bộ máy. Từ việc quy định chức năng nhiệm vụ của tổ chức, để quy
định cơ cấu tổ chức bộ máy và từ cơ cấu tổ chức bộ máy quy định nhân lực trong bộ
máy đó. Tức là phải xây dựng mô tả vị trí việc làm cho từng vị trí trong tổ chức để
51
tuyển dụng, bố trí sử dụng đội ngũ cán bộ. Chất lượng hoạt động của bộ máy phụ
thuộc nhiều và trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ do đó phải thường xuyên tổ
chức đào tạo, tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng quản lý cho đội ngũ
này. Xây dựng và phát triển đội ngũ QLNN và QLCL tại bệnh viện bao gồm các nội
dung: Quy hoạch, tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bổ nhiệm
và thực hiện chế độ, chính sách được thực hiện theo đúng quy định của Luật Công
chức đối với công chức QLNN và Luật Viên chức đối với, viên chức đơn vị sự
nghiệp [41], [44].
d) Hỗ trợ và huy động các nguồn lực cho hoạt động quản lý chất lượng KCB
Muốn đưa chiến lược, chương trình kế hoạch và pháp luật vào thực tế cuộc
sống, cùng với hệ thống tổ chức bộ máy và đội ngũ QLNN, cần phải có nguồn lực
bao gồm cả tài chính, nhân lực, cơ sở vật chất cho hoạt động quản lý chất lượng
KCB. Nguồn lực được bố trí đầu tư phù hợp với mục tiêu của chiến lược, chương
trình kế hoạt đặt ra, phù hợp để xây dựng thể chế pháp luật cũng như tổ chức bộ
máy và phát triển đội ngũ QLCL. Trước hết, bố trí đủ kinh phí cho việc xây dựng
thể chế hoàn thiện Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật khám bệnh, chữa
bệnh; xây dựng hoàn thiện bộ công cụ đánh giá chất lượng KCB của bệnh viện.
Kinh phí để thành lập, kiện toàn tổ chức bộ máy xây dựng cơ sở trụ sở làm việc và
bố trí ngân sách chi cho tiền lương, phụ cấp và đào tạo bồi dưỡng đối với công
chức... Nguồn kinh phí có thể từ NSNN hoặc các nguồn thu hợp pháp khác, các
nguồn hỗ trợ của các tổ chức quốc tế.
đ)Thanh kiểm tra, giám sát, đánh giá hoạt động quản lý chất lượng KCB
Công tác thanh kiểm tra là một trong những nội dung quan trọng không thể
thiếu được của QLNN bằng pháp luật nhằm bảo đảm cho bộ máy quản lý vận hành
theo đúng quy định của pháp luật đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của QLNN. Thông
qua hoạt động thanh kiểm tra Nhà nước phát hiện các sơ hở trong cơ chế quản lý,
chính sách pháp luật để kiến nghị với cơ quan chức năng có thẩm quyền, khắc phục
phòng ngừa đồng thời phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật
giúp cơ quan tổ chức thực hiện đúng các quy định của pháp luật, phát huy nhân tố
tích cực, hạn chế bất cập góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN. Bảo vệ
52
quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân [47],[43].
Thanh tra bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. Thanh
tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đối với
các tổ chức cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách pháp luật, nhiệm vụ
quyền hạn được giao. Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan
nhà nước có thầm quyền theo ngành lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn kỹ thuật
chuyên ngành thuộc ngành và lĩnh vực [43].
Việc đánh giá chất lượng KCB của bệnh viện là một công việc khó khăn,
phức tạp vì chất lượng phụ thuộc vào nhiều vấn đề từ cơ sở hạ tầng, trang thiết bị,
nhân lực, năng lực chuyên môn kỹ thuật đến cả vấn đề tổ chức quản lý và tinh thần
thái độ của cán bộ y tế. Vì thế, khi tiến hành hoạt động đánh giá, kiểm tra chất
lượng KCB, cần có bộ công cụ đánh giá chất lượng KCB của bệnh viện. Bộ công cụ
phải được xây dựng với nội dung phù hợp để đánh giá được chất lượng KCB theo
2.2.2.2. Quản lý chất lượng khám, chữa bệnh tại bệnh viện
kết quả đầu vào, theo quá trình và theo cả kết quả đầu ra.
a) Hệ thống quản lý chất lượng tại bệnh viện
- Các yếu tố của hệ thống QLCL bệnh viện: Theo tổ chức quốc về về tiêu
chuẩn hóa thì một hệ thống QLCL bao gồm các yếu tố: cơ cấu tổ chức; các quy định
mà tổ chức phải tuân thủ; các quá trình. Như vậy, hệ thống quản lý chất lượng KCB
tại bệnh viện sẽ bao gồm 3 yếu tố sau đây:
+ Cơ cấu tổ chức của bệnh viện. Đó là sự bố trí sắp xếp, tổ chức, vị trí, vai
trò của từng cá nhân, khoa phòng, bộ phận trong bệnh viện, quy định trách nhiệm
quyền hạn của từng cá nhân cũng như khoa phòng, bộ phận và hệ thống điều hành
chung của bệnh viện. Trong đó, các cá nhân các khoa phòng, bộ phận có mối liên hệ
qua lại khăng khít với nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Cơ cấu tổ chức của bệnh viện
chính là bộ khung quan trọng cho hệ thống quản trị chất lượng. Các thiết kế, bố trí
cơ cấu tổ chức có thể theo cơ cấu tổ chức trực tuyến, cơ cấu tổ chức chức năng, cơ
53
cấu tổ chức trực tuyến chức năng, cơ cấu ma trận.
+ Các quy định mà bệnh viện tuân thủ gồm nhiều loại bao gồm các nguyên
tắc, các tiêu chuẩn, các yêu cầu, quy chế chuyên môn như hướng dẫn chẩn đoán và
điều trị, quy trình kỹ thuật, các quy chế nội bộ, các hướng dẫn, các nội quy vv.
+ Các quá trình. Quá trình là tập hợp các hoạt động có liên quan đến nhau để
biến đầu vào thành đầu ra. Quá trình là tập hợp các yếu tố quan trọng tạo nên hệ
thống chất lượng. Ví dụ quá trình KCB bao gồm nhiều hoạt động nhiều quá trình
con như quá trình thăm khám của bác sĩ, quá trình xét nghiệm của kỹ thuật viên,
quá trình cấp phát thuốc của dược sĩ. Đầu ra của quá trình này có thề là đầu vào của
quá trình kia.
- Xây dựng hệ thống quản lý chất lượng KCB tại bệnh viện:
+ Phải lựa chọn được hệ thống quản lý chất lượng phù hợp. Hiện nay, có
nhiều hệ thống QLCL có thể lựa chọn áp dụng trong quản lý chất lượng KCB của
bệnh viện như: Hệ thống QLCL theo tiêu chuẩn ISO 9000; QLCL toàn diện PDCA;
6 sigma và lean, vv. Tuy nhiên, việc lựa chọn hệ thống nào tùy thuộc vào lĩnh vực
hoạt động, chức năng nhiệm vụ của các khoa phòng; hình thức hoạt động của các
khoa phòng của bệnh viện, vấn đề tài chính và các điều kiện khác. Ví dụ, có thể lựa
chọn hệ thống QLCL theo tiêu chuẩn ISO 17025 hoặc 6 sigma cho khu vực xét
nghiệm; lựa chọn hệ thống QLCL toàn diện PDCA cho phòng ban khu vực hành
chính, vv.
+ Sau khi lựa chọn, lập kế hoạch xây dựng bao gồm: xây dựng hệ thống kế
hoạch tổng thể và hệ thống các kế hoạch chi tiết, lộ trình, thời gian thực hiện, kinh
phí và quy mô phạm vi áp dụng, vv.
+ Xây dựng hệ thống QLCL gồm các công việc: Thiết lập cơ cấu tổ chức về
chất lượng; bổ nhiệm lãnh đạo, thành lập phòng, ban, tổ, đội, nhóm điều phối, tư
vấn nếu cần, các hội đồng của bệnh viện như Hội đồng chất lượng, Hội đồng khoa
học, Hội đồng thuốc và điều trị vv; tổ chức đào tạo nhận thức về QLCL mà bệnh
viện cần hướng tới; tổ chức khảo sát hiện trạng để đánh giá các yêu cầu nào đã được
thực hiện, thực hiện được mức độ nào, đáp ứng được yêu cầu ra sao; đào tạo viết tài
54
liệu hệ thống chất lượng; xây dựng hệ thống tài liệu; công bố áp dụng; triển khai áp
dụng; đánh giá nội bộ xác định những điểm phù hợp và không phù hợp; đánh giá
chứng nhận; nhận chứng chỉ và duy trì hệ thống.
+ Đánh giá hệ thống QLCL. Khi triển khai áp dụng hệ thống QLCL. Bệnh
viện cần tổ chức đánh giá hệ thống để đánh giá thực trạng hệ thống có đạt được mục
tiêu đề ra hay không để sửa đổi bổ sung, điều chỉnh. Đánh giá được thực hiện ở 3
hình thức: Đánh giá nội bộ - đánh giá của bên thứ nhất; đánh giá của người bệnh và
gia đình người bệnh - đánh giá của bên thứ hai; đánh giá chứng nhận - đánh giá của
bên thứ ba.
+ Duy trì và phát triển hệ thống QLCL. Sau khi có chứng nhận hệ thống
QLCL, bệnh viện cần tiến hành các hoạt động duy trì với các nội dung: Duy trì các
hoạt động chất lượng; đánh giá định kỳ, kịp thời tìm ra những điểm không phù hợp,
đồng thời khắc phục những điểm không phù hợp đó; khuyến khích cải tiến đổi mới
sáng tạo để nâng cao hiệu quả và hiệu lực của hệ thống QLCL [58],[57].
b) Nguyên tắc xây dựng hệ thống QLCL khám, chữa bệnh tại bệnh viện
Quản lý chất lượng KCB là một lĩnh vực đặc thù, đối tượng là người bệnh -
khách hàng đặc biệt, trong quá trình xây dựng và triển khai hệ thống quản lý chất
lượng tại bệnh viện cần đảm bảo một số nguyên tắc:
Một là, nguyên tắc định hướng khách hàng. Trong KCB người bệnh và người
nhà người bệnh là khách hàng của bệnh viện. Sự hài lòng của người bệnh vừa là
mục tiêu vừa là động lực của bệnh viện. Uy tín thương hiệu của bệnh viện chính là
sự hài lòng của khách hàng.
Hai là, coi trọng yếu tố con người trong QLCL. Nhân tố con người là yếu tố
quan trọng quyết định chất lượng KCB của bệnh viện. Thực tiễn cho thấy bệnh viện
nào có đội ngũ thầy thuốc giỏi thì được người bệnh tín nhiệm và có nhiều người
bệnh đến khám và điều trị. Lãnh đạo bệnh viện cần phải lôi kéo huy động, động
viên, tập hợp đội ngũ cán bộ nhân viên y tế vào quá trình duy trì, đảm bảo, cải tiến
chất lượng KCB của bệnh viện.
Ba là, QLCL phải đồng bộ và toàn diện. Chất lượng KCB phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố cơ sở vật chất, trang thiết bị, đội ngũ nhân lực, trình độ chuyên môn,
55
tay nghề và tinh thần thái độ của cán bộ y tế, vào các khu vực khác nhau từ khoa
phòng chức năng đến các khoa lâm sàng và cận lâm sàng, các bộ phận hỗ trợ khác.
Vì thế cần phải đảm bảo nguyên tắc toàn diện, đồng bộ thì chất lượng KCB của
bệnh viện mới đảm bảo.
Bốn là, QLCL phải thực hiện đồng thời với các yêu cầu đảm bảo và cải tiến
chất lượng. Đảm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng là hai vấn đề có liên quan tới
nhau. Đảm bảo chất lượng bao hàm việc duy trì và cải tiến chất lượng. Cải tiến chất
lượng bao hàm cả việc đảm bảo chất lượng và nâng cao hiệu quả, hiệu suất của chất
lượng.
Năm là, QLCL phải đảm bảo tính quá trình. Có 2 hình thức QLCL phổ biến
hiện nay: QLCL theo quá trình hoặc QLCL theo mục tiêu. Tuy nhiên trong giai
đoạn đầu của quản lý theo mục tiêu cũng phải đảm bảo quản lý theo quá trình.
Sáu là, nguyên tắc kiểm tra. Kiểm tra là khâu quan trọng trong bất kỳ hệ
thống quản lý nào. Trong hoạt động KCB nếu không kiểm tra thì không những
không biết được việc tiến hành đến đâu, kết quả như thế nào mà còn có thể gây ra
những tai biến y khoa, tai biến cho người bệnh. Ví dụ việc sử dụng thuốc đặc biệt
thuốc kháng sinh, những thuốc có nguy cơ nhầm lẫn nếu không kiểm tra rất dễ
nhầm lẫn, mất an toàn cho người bệnh; khi người bệnh cấp cứu phải tuân thủ
nghiêm ngặt quy trình và phải có hệ thống giám sát để đảm bảo an toàn người bệnh
vv [57],[58].
c) Các mô hình quản lý chất lượng KCB phổ biến áp dụng tại bệnh viện
Trong hoạt động quản lý, mỗi tổ chức, bệnh viện có thể áp dụng nhiều cách
thức, mô hình khác nhau để nhằm hoàn thiện chất lượng dịch vụ, phục vụ theo
hướng hiệu quả. Hiện nay, các nước đang áp dụng một số mô hình sau đây:
- Hệ thống QLCL theo tiêu chuẩn ISO. Cải cách hành chính của một số nước
cũng đề cập đến vấn đề này và coi đó như cách thức để hoàn thiện chất lượng dịch
vụ công dân [65].
ISO là Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn (International Organization for
Standards); Liên đoàn của các tổ chức tiêu chuẩn quốc gia, có tính chất phi Chính
56
phủ, được thành lập từ năm 1947, thành viên từ 140 nước, gồm có các cơ quan tiêu
chuẩn quốc gia, các cơ quan thành viên, các cơ quan thông tấn và cả những người
nộp lệ phí để trở thành thành viên [76],[64].
Mục đích của ISO là thúc đẩy tiêu chuẩn hóa trong quá trình trao đổi hàng
hóa và dịch vụ giữa các nước và phát triển hợp tác trên các lĩnh vực trí tuệ, khoa
học, công nghệ, kinh tế.
Hệ thống ISO 9000:2000 và ISO 9004:2000 đưa ra 8 nguyên tắc của tiêu
chuẩn của hệ thống QLCL. Các nhà quản lý có thể sử dụng các nguyên tắc này như
một khuôn khổ để hướng dẫn tổ chức mình hướng đến hoàn thiện công việc. Những
nguyên tắc này do nhóm chuyên gia có kinh nghiệm của ISO đề ra, phù hợp để xây
dựng và duy trì các tiêu chuẩn của ISO 9000: Một là, tập trung vào khách hàng; hai
là, sự lãnh đạo; ba là, sự tham gia của nhân dân; bốn là, cách tiếp cận theo quá trình;
năm là, tiếp cận hệ thống quản lý; sáu là, hoàn thiện liên tục; bảy là, tiếp cận thực tế
để đưa ra quyết định; tám là, quan hệ cùng có lợi.
Tiêu chuẩn QLCL theo ISO 9000: 2000 khuyến khích tiếp cận quá trình để
phát triển, thực hiện và hoàn thiện QLCL.
Theo quan điểm của ISO 9000, mọi hoạt động hay tập hợp nhiều hoạt động
sử dụng đầu vào để tạo thành sản phẩm đều có thể coi là như một quá trình. Để điều
hành có hiệu quả hoạt động của tổ chức, cần phải xác định và lượng hóa được các
quá trình có mối quan hệ với nhau [50],[63].
Cách tiếp cận quá trình nhằm giúp tổ chức xác định sự vận động của hoạt
động và đòi hỏi sự hoàn thiện liên tục. Cách tiếp cận này cũng thừa nhận tập trung
vào khác hàng và tăng sự hài lòng của khách hàng là quan trọng.
- Chu trình PDCA. Chu trình này dựa trên phương pháp khoa học được phát
triển từ tác phẩm của Francis Bacon năm 1620, mô tả tiến trình 3 bước là “giả
thuyết” – “thực nghiệm” – “lượng giá”. Người đầu tiên áp dụng khái niệm trên vào
cải tiến chất lượng là Walter Andrew Shewhart (1891-1967). Vào năm 1924 khi
thực hiện một yêu cầu cải tiến chất lượng của công ty, ông đã phác thảo 4 thành tố
quan trọng được xem là nguyên lý của chu trình chất lượng ngày nay. Trong những
năm cuối thập niên 30 của thế kỷ trước, những ý tưởng của Shewhart được mở rộng
57
từ QLCL công nghiệp sang những lĩnh vực khoa học khác. Đến thập niên 50, khái
niệm trên được phát triển và giới thiệu rộng rãi nhờ công của William Edward
Deming. Ông mô tả dưới tên gọi “Shewhart cycle” nhưng người ta thường nhớ đến
nó với tên gọi “Deming cycle”, hay chu trình cải tiến chất lượng PCDA hay PDSA.
Chu trình PDCA là nguyên lý cốt lõi của nhiều mô hình QLCL như TQM
(Total Quality Management), CQI (Continuous Quality Improvement), được sử
dụng trong hệ thống QLCL ISO và cả trong mô hình đánh giá và công nhận chất
lượng (healthcare accreditation).
Để xây dựng cách tiếp cận quá trình, cần nghiên cứu chu trình PDCA (chữ
viết tắt của các chữ cái đầu: Plan – P; Do – D; Check – C; Act – A).
Plan: thiết lập mục tiêu, quá trình cấn thiết để cung cấp dịch vụ theo yêu cầu
của khách hàng và chính sách tổ chức đã đề ra.
Do: thực hiện quá trình.
Check: giám sát, theo dõi và đo lường quá trình dựa trên các đòi hỏi đã xác
định.
Act: thực hiện các hoạt động điều chỉnh, hoàn thiện.
Plan Kế hoạch
Do Hành động
Check Kiểm tra
Act Hoàn thiện
- Mô hình 6 Sigma: 6 Sigma là một phương pháp được tiến hành một cách
chặt chẽ, khoa học, tập trung vào việc thực hiện có hiệu quả các kỹ thuật và các
nguyên tắc QLCL đã được thừa nhận. Bằng việc kết hợp các yếu tố trong nhiều lĩnh
vực công việc khác nhau. 6 Sigma tập trung vào việc làm thế nào để thực hiện công
việc mà không có lỗi hay khiếm khuyết. Chữ Sigma theo ký tự Hy Lạp đã được
dùng trong kỹ thuật xác suất - thống kê để đánh giá sự sai lệch của các quá trình.
Hiệu quả hoạt động của một công ty cũng được đo bằng mức Sigma mà công ty đó
58
đạt được đối với các quá trình sản xuất kinh doanh của họ. Các công ty truyền thống
thường đặt 3 hoặc 4 Sigma là mức Sigma chuẩn cho công ty, mặc dù ở mức đó, xác
suất lỗi có thể xảy ra là từ 6200 tới 6700 trên một triệu cơ hội. Nếu đạt tới mức 6
Sigma, con số này chỉ còn là 3,4 lỗi trên một triệu cơ hội. Ðiều này cho phép đáp
ứng được sự mong đợi ngày càng tăng của khách hàng cũng như sự phức tạp của
các sản phẩm và quy trình công nghệ mới ngày nay.
6 Sigma không hẳn là một kỹ thuật thống kê hay một công nghệ cao, 6
Sigma dựa trên chính những kỹ thuật đã được thử nghiệm và được khẳng định giá
trị từ hàng chục năm nay. Về thực chất, 6 Sigma đã loại bỏ khá nhiều các yếu tố
phức tạp, 6 Sigma chỉ lựa chọn các công cụ hữu dụng nhất và đã được kiểm chứng
và đào tạo cho một số nhỏ cán bộ kỹ thuật chủ chốt. Những người này sẽ được gọi
là "Ðai đen 6 Sigma" và có chức năng làm đầu mối chỉ đạo việc triển khai thực hiện
ở tầm vĩ mô. Vì vậy, các kỹ thuật do nhóm đai đen này sử dụng thường là các ứng
dụng công nghệ cao, chẳng hạn như là các chương trình ứng dụng máy tính tiên tiến
nhất. Còn các công cụ được sử dụng phổ biến nhằm cải tiến hiệu quả hoạt động
được gọi tắt là DMAIC (viết tắt của các từ tiếng Anh: Define-xác định; Measure -
đo lường; Analyze- phân tích; Improve-cải tiến; Control- kiểm soát).
6 Sigma là khái niệm đang và sẽ được sử dụng ngày càng rộng rãi hơn trong
các cơ sở y tế trong vài năm tới, đặc biệt trong một số lĩnh vực thực hiện kỹ thuật
lặp lại với số lượng lớn như xét nghiệm y học hay chẩn đoán hình ảnh.
- Quản lí tinh gọn (Lean) bắt nguồn từ hệ thống sản xuất Toyota (TPS) và đã
được dần triển khai xuyên suốt các hoạt động của Toyota từ những năm 1950. Từ
trước những năm 1980, Toyota đã ngày càng được biết đến nhiều hơn về tính hiệu
quả trong việc triển khai hệ thống sản xuất Just-In-Time (JIT). Ngày nay, Toyota
thường được xem là một trong những công ty sản xuất hiệu quả nhất trên thế giới và
là công ty đã đưa ra chuẩn mực về điển hình áp dụng quản lí tinh gọn.
Quản lí tinh gọn đang được áp dụng ngày càng rộng rãi tại các công ty sản
xuất hàng đầu trên toàn thế giới, dẫn đầu là các nhà sản xuất ô tô lớn và các nhà
cung cấp thiết bị cho các công ty này. Quản lí tinh gọn đang trở thành đề tài ngày
càng được quan tâm tại các công ty sản xuất ở các nước phát triển khi các công ty
59
này đang tìm cách cạnh tranh hiệu quả hơn đối với khu vực châu Á [37].
Trong y tế, quản lí tinh gọn cũng ngày càng được áp dụng rộng rãi với góc
nhìn bệnh viện là một hệ thống phức tạp với hàng loạt các quy trình và mối liên hệ.
Chi phí y tế đang ngày càng gia tăng nhanh chóng, nhiều sai sót có thể phòng
ngừa được đã xảy ra. Quản lí tinh gọn có thể áp dụng tại bệnh viện và các cơ sở y tế
nhằm làm giảm lãng phí và các chi phí không cần thiết. Các nguyên tắc chính trong
Quản lí tinh gọn có thể được tóm tắt như sau:
+ Nhận thức về sự lãng phí - Bước đầu tiên là nhận thức về những gì có và
những gì, không làm tăng thêm giá trị từ góc độ khách hàng. Bất kỳ vật liệu, quy
trình hay tính năng nào không tạo thêm giá trị theo quan điểm của khách hàng được
xem là thừa và nên loại bỏ. Ví dụ, như việc giảm thời gian và khoảng cách đi lại của
nhân viên y tế và người bệnh trong bệnh viện.
+ Chuẩn hoá quy trình - Lean đòi hỏi việc triển khai các hướng dẫn chi tiết
gọi là quy trình chuẩn, trong đó ghi rõ nội dung, trình tự, thời gian và kết quả cho
tất cả các thao tác do nhân viên thực hiện. Điều này giúp loại bỏ sự khác biệt trong
cách các nhân viên y tế thực hiện công việc.
+ Quy trình liên tục - Trong sản xuất, Lean thường nhắm tới việc triển khai
một quy trình sản xuất liên tục, không bị ùn tắc, gián đoạn, đi vòng lại, trả về hay
phải chờ đợi. Khi được triển khai thành công, thời gian chu kỳ sản xuất sẽ được
giảm đến 90%. Trong y tế điều này có thể nhận thấy và áp dụng trong quy trình
khám bệnh, quy trình phẫu thuật, xuất viện vv.
+ Sản xuất “Pull” - Còn được gọi là Just-in-Time, sản xuất Pull chủ trương
chỉ sản xuất những gì cần và vào lúc cần đến. Sản xuất được diễn ra dưới tác động
của các công đoạn sau, nên mỗi phân xưởng chỉ sản xuất theo yêu cầu của công
đoạn kế tiếp.
+ Chất lượng từ gốc - Lean nhắm tới việc loại trừ phế phẩm từ gốc và việc
kiểm soát chất lượng được thực hiện bởi các công nhân như một phần công việc
trong quy trình sản xuất.
+ Liên tục cải tiến - Lean đòi hỏi sự cố gắng đạt đến sự hoàn thiện bằng cách
không ngừng loại bỏ những lãng phí khi phát hiện ra chúng. Điều này cũng đòi hỏi
60
sự tham gia tích cực của nhân viên trong quá trình cải tiến liên tục.
Các chuyên gia y tế ước tính rằng, khoảng 30-50% các hoạt động y tế có thể
được coi là lãng phí. Cơ hội sử dụng Lean để giảm chi phí là rất lớn, mang lại lợi
ích cho người bệnh, nhân viên y tế, bệnh viện, cơ sở y tế và cộng đồng.
Ngoài các phương pháp chất lượng trên, còn có các phương pháp chất lượng
khác như hệ thống QLCL dựa trên việc đáp ứng tiêu chí của giải thưởng chất lượng
như giải thưởng chất lượng Deming; giải thưởng chất lượng quốc gia Mỹ (Macolm
Baldrige National quylity Award - MBNQA); giải thưởng chất lượng Châu Âu. Hệ
thống quản lý môi trường ISO 14000 [58].
2.2.3. Những yếu tố tác động đến quản lý chất lượng khám, chữa
bệnh của bệnh viện công lập
2.2.3.1. Môi trường chính trị - hành chính và chính sách của Nhà nước
Điều 4, Hiến pháp năm 2013 chỉ rõ “Đảng cộng sản Việt Nam - Đội tiên
phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và
của dân tộc Việt Nam…..là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”.
Điều 3, Hiến pháp năm 2013 quy định “ 1. Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân….3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối
hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp”[26]. Vì thế hoạt động QLNN nói chung và hoạt động QLNN
về chất lượng KCB của bệnh viện nói riêng luôn chịu sự chi phối bởi yếu tố môi
trường chính trị - hành chính và chính sách của Nhà nước. Trong quá trình hoạt
động QLNN các chủ thể quản lý cần lưu ý đến những yếu tố này, coi đây là một
trong những nguyên tắc cơ bản của QLNN về chất lượng KCB.
Chính vì vậy, QLNN về chất lượng KCB của bệnh viện phải phù hợp với
các quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam, phù hợp với các chính sách
và hệ thống thể chế của Nhà nước.
Các chính sách của Nhà nước về y tế nói chung và KCB nói riêng có tác
động rất lớn đến chất lượng và QLCL khám chữa bệnh của bệnh viện. Chính sách
về KCB bao gồm các chương trình, kế hoạch, quy hoạch phát triển mạng lưới KCB,
61
đầu tư phát triển bệnh viện, đào tạo phát triển nhân lực KCB, phát triển khoa học
công nghệ trong lĩnh vực KCB, đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính, bảo
hiểm y tế và chính sách về hoạt động chuyên môn trong KCB như các quy chuẩn kỹ
thuật, tiêu chuẩn của cơ sở KCB phù hợp với điều kiện KTXH; thiết lập hệ thống
quốc gia để cấp CCHN cho người hành nghề, cấp GPHĐ cho cơ sở cung cấp dịch
vụ KCB; về khai báo các sai sót, sự cố y khoa; về cơ sở dữ liệu chuẩn hóa quốc gia
về KCB; tổ chức thẩm định, phản biện độc lập vv. Tất cả những chính sách nói trên
cần được nghiên cứu, xây dựng và thực hiện đảm bảo theo định hướng của Nhà
nước và có tính khả thi trong thực tế.
Các chính sách của Nhà nước đối với lĩnh vực KCB phù hợp, không chỉ góp
phần thúc đẩy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN về chất lượng KCB mà còn góp
2.2.3.2. Xu hướng toàn cầu hóa kinh tế xã hội và sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học kỹ thuật và công nghệ
phần vào việc đảm bảo, đáp ứng nhu cầu KCB ngày càng tăng cao của nhân dân.
Quá trình toàn cầu hóa về KTXH đem lại sự giao thoa và không còn ranh
giới giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ, đặc biệt là vấn đề phát triển kinh tế, tiến bộ
của khoa học kỹ thuật, công nghệ, số hóa, truyền thông, thương mại, du lịch, giáo
dục và y tế. Toàn cầu hóa tạo ra xu hướng giao lưu văn hóa, dịch chuyển dân cư
giữa các vùng lãnh thổ, các quốc gia.
Toàn cầu hóa cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công
nghệ có nhiều tích cực, dẫn đến sự thay đổi nhanh chóng của khoa học công nghệ
về y tế như sự phát triển của y học thực chứng mà nền tảng là y học lâm sàng kết
hợp với dịch tễ học thống kê y học, kinh tế y tế, nối mạng toàn cầu, KCB từ xa
(telemedicin), sự hợp tác của các thầy thuốc trong KCB ra đời và dần dần thay thế y
học truyền thống với đặc trưng lấy kinh nghiệm và suy đoán làm nền tảng; công
nghệ y sinh học như việc nhân bản vô tính ở người, vấn đề y học tái sinh, sử dụng tế
bào gốc trong y học vv; việc chuyển giao kỹ thuật trong KCB giữa các quốc gia, các
cơ sở KCB áp dụng thành tựu y học mới, hiện đại như mổ rô bốt, nội soi, ghép tạng,
ghép gan, tim, thận; việc các bệnh viện áp dụng các mô hình, phương pháp quản lý
mới trong QLCL tại bệnh viện vv; nhu cầu công nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn, quy
62
chuẩn KCB giữa các quốc gia.
Toàn cầu hóa, bên cạnh mặt tích cực, cũng có mặt hạn chế, tiêu cực, có thể
làm mất đi bản sắc văn hóa của quốc gia, khu vực và là nguyên nhân lây truyền dịch
bệnh nhanh chóng giữa các quốc gia, khu vực. Hiện nay, ở Việt Nam nhu cầu ra
nước ngoài KCB của người dân đã, đang và có xu hướng gia tăng, hàng năm ước
tính, mất hàng tỷ đô la khi người bệnh ra nước ngoài KCB, đó là một thách thức lớn
đối với công tác KCB.
Vì thế, trong hoạt động KCB và QLCL khám, chữa bệnh, cần thiết phải có
chính sách và giải pháp phù hợp để giải quyết các vấn đề mà toàn cầu hóa, sự phát
triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ mang lại cả về khía cạnh tích cực và tiêu
2.2.3.3. Sự thay đổi mô hình bệnh tật, biến động về dân số và nhu cầu
khám chữa bệnh của nhân dân ngày càng tăng cao
cực.
Hiện nay, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, sự phát triển KTXH kéo
theo sự thay đổi của mô hình bệnh tật. Bệnh không lây nhiễm gia tăng nhanh, bệnh
lây nhiễm tiếp tục diễn biến phức tạp, dịch bệnh thường xuyên xảy ra, nguy cơ bùng
phát, đặc biệt là các bệnh truyền nhiễm mới nổi, vấn đề kháng kháng sinh đang trở
nên ngày càng trầm trọng vv. Sự gia tăng dân số, tốc độ già hóa nhanh, giai đoạn
dân số vàng đã đi qua cũng là một trong những nguyên nhân làm tăng nhu cầu KCB
của người dân. Điều đó tác động lớn đến công tác KCB [25].
KTXH ngày một phát triển, thu nhập bình quân của người dân tăng, trình độ
dân trí ngày càng được nâng cao, người dân được biết rõ quyền và lợi ích hợp pháp,
chính đáng của họ trong KCB. Bên cạnh đó, trong quá trình thực thi pháp luật, nếu
cơ quan nhà nước, tổ chức y tế giải quyết không thỏa đáng quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, của người bệnh, sẽ dẫn đến các khiếu nại, tố cáo của người
bệnh, của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, nên đòi hỏi phải có hệ thống
các văn bản QPPL về chế độ, chính sách, các quy định chuyên môn KCB cần phải
đầy đủ, rõ ràng và minh bạch nhằm từng bước đáp ứng tốt hơn quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của công dân trong hoạt động KCB.
Luật Khám bệnh, chữa bệnh ra đời với mục tiêu tôn chỉ: lấy người bệnh làm
63
trung tâm; đảm bảo an toàn người bệnh; thực hiện công khai, minh bạch, công bằng
và hiệu quả trong KCB. Đây là một yêu cầu đối với công tác QLNN về chất lượng
KCB.
Như vậy, với sự thay đổi mô hình bệnh tật, biến động dân số và nhu cầu
KCB ngày càng tăng cao của nhân dân, cần có chính sách, chiến lược và đổi mới
quản lý hoạt động KCB, đặc biệt là công tác QLCL khám chữa bệnh của bệnh viện
2.2.3.4. Nguồn nhân lực
công lập.
Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển KTXH, con người có
vai trò quan trọng, chủ đạo quyết định sự phát triển của mỗi quốc gia, tổ chức. Một
nhà kinh tế học của Mỹ đã nghiên cứu và phát hiện từ năm 1900-1957, đầu tư cho
nông nghiệp của Mỹ tăng 4,5 lần thì lợi nhuận tăng lên 3,5 lần, nhưng đầu tư cho
nhân lực tăng lên 3,5 lần thì lợi nhuận tăng 17,5 lần.[60]
Trong quản trị chất lượng, con người giữ vị trí quan trọng hàng đầu trong
quá trình hình thành, đảm bảo chất lượng, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ.
Trong quản lý chất lượng KCB của bệnh viện, nhân lực trong bộ máy quản lý và
nhận lực là đội ngũ những người làm chuyên môn trực tiếp cung ứng dịch vụ KCB
có vai trò chủ đạo, quyết định, có tác động ảnh hưởng lớn đến chất lượng và QLCL
dịch vụ KCB. Khi căn cứ vào chức năng nhiệm vụ QLNN của mình, các cơ quan
QLNN từ TW đến điạ phương sẽ xác định được số lượng, cơ cấu, yêu cầu trình độ,
kiến thức, kỹ năng đối với nhân sự để tuyển dụng, bố trí, sử dụng đảm bảo, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả QLNN. Tương tự đối với bệnh viện cũng sẽ xác định được
nhu cầu nhân lực trên cơ sở bản mô tả vị trí việc làm của đơn vị để tuyển dụng, bố
trí, sử dụng hợp lý đảm bảo hoạt động và nâng cao chất lượng và quản lý chất lượng
2.2.3.5. Lãnh đạo và quản lý
KCB.[58]
Lãnh đạo (Leadership) và quản lý (Management) là hai thuật ngữ được sử
dụng nhiều trong quản lý con người, tổ chức và xã hội. Lãnh đạo và quản lý có sự
khác nhau. Lãnh đạo là quá trình dẫn dắt, định hướng cho chuỗi các tác động của
chủ thể quản lý để đạt được mục tiêu và là quản lý các mục tiêu rộng hơn, xa hơn và
64
khái quát hơn. Đối tượng của Lãnh đạo là con người. Quản lý là quá trình chủ thể
quản lý tác động lên đối tượng quản lý để đạt được mục tiêu cụ thể đã đặt ra. Đối
tượng của quản lý là nguồn lực (nhân lực, vật lực và tài lực).
Trong quản lý nói chung một trong những yếu tố quyết định đường lối, sự
thành công là vai trò của người lãnh đạo, quản lý. Chính vì vậy, tất cả các nước đều
quan tâm đến phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong tương lai, mặc dù
mức độ quan tâm có thể khác nhau. Nhiều nước đã coi phát triển đội ngũ lãnh đạo,
quản lý như là một chiến lược dài hạn của phát triển nguồn nhân lực trong các cơ
quan nhà nước và tổ chức, đơn vị sự nghiệp.
Quản lý chất lượng KCB của bệnh viện trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập
kinh tế quốc tế, sự tiến bộ mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, sự thay đổi cơ chế hoạt
động, cơ chế tài chính…, đòi hỏi phải xây dựng đội ngũ lãnh đạo, quản lý giỏi.
Theo đó đội ngũ lãnh đạo, quản lý nhà nước và quản lý bệnh viện phải có năng lực
xây dựng, tổ chức thực hiện kế hoạch; năng lực tư vấn chính sách, ra quyết định;
năng lực đánh giá hoạt động công vụ, công chức; năng lực lãnh đạo, chỉ huy; năng
lực xây dựng và làm việc nhóm; năng lực đề xuất, giải quyết và quản lý sự thay đổi;
2.2.3.6. Cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính đối với bệnh viện
năng lực giao tiếp, giải quyết mâu thuẫn, xung đột vv.
Trong thời kỳ đổi mới, có sự chuyển đổi vai trò quản lý của Nhà nước đối
với công tác y tế. Khi nước ta chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hệ thống y tế đã có những đổi mới
quan trọng: Từ chế độ KCB miễn phí hoàn toàn sang chế độ thu một phần viện phí;
thực hiện chính sách BHYT bắt buộc đối với người dân; phát triển hành nghề y tư
nhân, mở cửa thị trường thuốc chữa bệnh và đổi mới cơ chế hoạt động cơ chế tài
chính đối với đơn vị sự nghiệp y tế công lập.
Vai trò của quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực y tế đã thay đổi một cách cơ
bản. Từ chỗ Nhà nước sở hữu (và quản lý) toàn bộ hệ thống cung ứng dịch vụ, nay
chỉ còn sở hữu một phần (dù đó vẫn đang là phần lớn). Nhà nước trước đây bảo
đảm toàn bộ nguồn tài chính y tế, nhưng trong thời điểm hiện nay chỉ bảo đảm (và
chỉ quản lý trực tiếp) một phần nhỏ trong tổng chi tiêu cho y tế quốc gia. Vấn đề sở
65
hữu hệ thống bệnh viện công đang tiếp tục có những biến đổi lớn, như vậy việc hình
thành các chính sách và chủ trưởng về bệnh viện công tự chủ đã, đang và sẽ được
đặt ra.
Sự thay đổi vai trò quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực y tế hướng tới mục
tiêu công bằng, hiệu quả và phát triển. Tính công bằng, hiệu quả và phát triển của
mỗi hệ thống y tế, có 3 yếu tố cơ bản, ảnh hưởng lớn nhất: Sở hữu hệ thống cung
ứng dịch vụ (công - tư hoặc hỗn hợp), cung cấp tài chính y tế (công - tư) và quản lý
điều hành của Nhà nước đối với hệ thống y tế (tập trung hay phân cấp, mức độ can
thiệp lớn hay nhỏ). Như vậy, vai trò của Nhà nước đối với hệ thông y tế khác biệt,
tùy theo hai yếu tố sở hữu hệ thống cung ứng dịch vụ và nguồn tài chính cho y tế.
Nếu hệ thống cung ứng dịch vụ chủ yếu thuộc sở hữu tư nhân thì Nhà nước
can thiệp vào hệ thống này thông qua việc hoàn thiện hành lang pháp lý và hoạt
động giám sát, kiểm tra, thanh tra. Trong trường hợp hệ thống cung ứng dịch vụ
thuộc sở hữu Nhà nước thì ngoài chức năng, nhiệm vụ nêu trên, Nhà nước hoặc trực
tiếp điều chỉnh hệ thống cung ứng dịch vụ, hoặc giao quyền tự chủ cho bệnh viện và
quản lý thông qua các chính sách hợp đồng - chi trả phù hợp. Xu hướng sau ngày
càng phổ biến hơn ở các nước có hệ thống cung ứng dịch vụ công. Tính công bằng -
hiệu quả phụ thuộc vào yếu tố nguồn tài chính y tế là công hay tư nhiều hơn là vào
yếu tố sở hữu tư nhân, hoạt động hoàn toàn vì lợi nhuận thì kinh nghiệm quốc tế
cho thấy vai trò của QLNN đối với chi phí - hiệu quả (xét về khía cạnh sức khỏe
cộng đồng) là hạn chế.
Khi tỷ trọng tài chính công cho y tế càng thấp thì vai trò của Nhà nước trong
kiểm soát chi phí y tế, chi phí - hiệu quả cũng bị giảm đi vì Nhà nước không có cơ
chế người thứ ba chi trả để làm nhiệm vụ giám sát - kiểm soát.
Nếu tài chính y tế chủ yếu từ nguồn viện phí thì vai trò của Nhà nước trong
việc đảm bảo công bằng - hiệu quả cũng rất hạn chế, kể cả khi hệ thống cung ứng
dịch vụ thuộc sở hữu công.
Những đổi mới nói trên đặc biệt là đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài
chính đối với bệnh viện công lập có tác động lớn đến hệ thống quản lý nhà nước và
QLCL khám chữa bệnh tại bệnh viện, vì thế trong hoạt động QLCL, chúng ta phải
66
quan tâm đến vấn đề này để đề ra những giải pháp phù hợp.
2.2.4. Kinh nghiệm quốc tế về quản lý chất lượng khám, chữa bệnh
và bài học cho Việt Nam
2.2.4.1. Kinh nghiệm quốc tế về quản lý chất lượng khám, chữa bệnh
a) Kinh nghiệm quản lý nhà nước về chất lượng khám, chữa bệnh
Hiện nay, trên thế giới nhiều nước áp dụng chiến lược quốc gia về chất lượng
dựa trên sự pha trộn giữa bắt buộc và tự nguyện về QLCL. Các chính sách, chiến
lược, kế hoạch về QLCL khám, chữa bệnh được ban hành dưới hình thức là luật,
nghị định hay thông tư hướng dẫn. Ví dụ, một số quốc gia có truyền thống và quan
tâm đến QLCL đã đưa vấn đề chất lượng cơ sở y tế vào trong luật.
Các nước khu vực Châu Âu điển hình như:
- Pháp: năm 1984, đã đưa vào Luật yêu cầu Ủy ban y khoa của bệnh viện
phải có báo cáo đánh giá chất lượng hàng năm. Năm 1991, Luật yêu cầu bệnh viện
phải có hệ thống chất lượng nội bộ. Năm 1996, Pháp lệnh yêu cầu cải tiến chất
lượng bắt buộc, đánh giá và chứng nhận chất lượng bệnh viện và khảo sát người
bệnh ở tất cả các bệnh viện công lập và ngoài công lập;
- Thuỵ Điển: năm 1997, Luật Sức khoẻ và Dịch vụ khám, chữa bệnh yêu cầu
tất cả nhân viên phải cải tiến chất lượng có hệ thống, tự đánh giá, thực hành dựa
trên bằng chứng, quản lý rủi ro, đánh giá kết quả và cải thiện chất lượng liên tục;
- Các nước Bỉ, năm 1987; Ý, năm 1986; Hà Lan, năm 1981, Luật yêu cầu
phải có Uỷ ban chất lượng bệnh viện.
Các nước phát triển khu vực Châu Mỹ, Úc:
- Úc, năm 1993, ban hành Luật bệnh viện và phòng khám xác định rõ quyền
người bệnh, vấn đề đánh giá chất lượng từ bên ngoài, hệ thống chất lượng nội bộ và
ủy ban bảo đảm chất lượng;
- Mỹ, năm 1986, Luật quy định cơ quan tài trợ liên bang, quy định bắt buộc
vấn đề bảo đảm chất lượng và hiệu quả chăm sóc bởi Medicare và Medicaid.
Các nước khu vực Asean:
- Phi-líp-pin: năm 1995, Luật yêu cầu tất cả các cơ sở khám, chữa bệnh
67
BHYT phải tham gia chương trình bảo đảm chất lượng;
- Một số quốc gia như Ma-lay-xi-a, Thái Lan, In-đô-nê-xi-a, Chính phủ ban
hành chính sách riêng về quản lý chất lượng KCB, hoặc đưa vào chiến lược y tế hay
kế hoạch chất lượng quốc gia. Các văn bản QPPL có những điều khoản quy định
liên quan đến hoạt động thẩm định chất lượng bệnh viện, như: Quy định về cấp
phép hoạt động đối với cơ sở KCB và cấp CCHN đối với người hành nghề KCB;
quy định việc xây dựng hoặc thừa nhận bộ tiêu chuẩn chất lượng bệnh viện; thành
lập hoặc cho phép tổ chức đánh giá và chứng nhận chất lượng bệnh viện hoạt động;
thành lập cơ quan QLCL cấp quốc gia ...[11],[4].
b) Kinh nghiệm xây dựng bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng khám, chữa
bệnh của bệnh viện
Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng KCB của bệnh viện được xây dựng dựa
trên sự đồng thuận của các cơ quan Bộ Y tế, hiệp hội y khoa, hiệp hội bệnh viện tuỳ
theo bối cảnh và cấu trúc hệ thống y tế của từng nước. Bộ tiêu chuẩn được xây dựng
thường có nhiều lớp, được kết cấu gồm các nhóm tiêu chuẩn (hoặc chức năng), mỗi
nhóm tiêu chuẩn gồm một hoặc nhiều tiêu chuẩn, mỗi tiêu chuẩn có một hoặc nhiều
tiêu chí.
Hiệp hội Quốc tế về Chất lượng CSSK (The International Society for Quality
in Health Care-ISQua) đã đưa ra nguyên tắc cơ bản và khung yêu cầu cho việc xây
dựng tiêu chuẩn đánh giá chất lượng KCB của bệnh viện.
Phiên bản 3.0 năm 2007 đưa ra 6 nguyên tắc xây dựng bộ tiêu chuẩn chất
lượng gồm: Một là, cải tiến chất lượng; hai là, tập trung vào người bệnh và người sử
dụng dịch vụ; ba là, lập kế hoạch và thực hiện của tổ chức; bốn là, an toàn; năm là,
xây dựng tiêu chuẩn; sáu là, đo lường tiêu chuẩn.
Để có thể thực hiện đánh giá và chứng nhận chất lượng, ngoài bộ tiêu chuẩn
chất lượng còn có hướng dẫn đánh giá các tiêu chuẩn, quy trình đánh giá và chứng
nhận bao gồm các bước như: đăng ký, tự đánh giá nội bộ của bệnh viện, đánh giá sơ
bộ của tổ chức đánh giá, phản hồi của tổ chức đánh giá đối với bệnh viện, đệ trình
Hội đồng chất lượng, công nhận.
Chu kỳ đánh giá và chứng nhận thường từ 3 đến 5 năm tuỳ thuộc vào từng
68
quốc gia và tổ chức đánh giá và chứng nhận. Những quốc gia có số bệnh viện nhiều
như Nhật Bản, Pháp chu kỳ đánh giá và chứng nhận thường là 5 năm. Một số nước
khác có số bệnh viện ít như Đài Loan, Ma-lay-xi-a, Úc thì chu kỳ thẩm định đánh
giá là 3 hoặc 4 năm. [4]
Ví dụ: Tại Úc, việc đánh giá và chứng nhận chất lượng bệnh viện do Hội
đồng của Úc về chuẩn CSSK (Australian Council on Healthcare Standards-ACHS)
thực hiện dựa trên chương trình lượng giá và cải tiến chất lượng (EQuyP) và Bộ
Tiêu chuẩn EQuyP4. Bộ Tiêu chuẩn EQuyP4 bao gồm 3 nhóm tiêu chuẩn hay 3
chức năng, với chu kỳ thẩm định là 4 năm, gồm:
- Chức năng lâm sàng: gồm 6 tiêu chuẩn (21 tiêu chí):
+ Tiêu chuẩn 1.1: Chăm sóc liên tục
+ Tiêu chuẩn 1.2: Tiếp cận
+ Tiêu chuẩn 1.3: Sự phù hợp
+ Tiêu chuẩn 1.4: Hiệu quả
+ Tiêu chuẩn 1.5: An toàn
+ Tiêu chuẩn 1.6: Khách hàng là trung tâm
- Chức năng hỗ trợ: gồm 5 tiêu chuẩn (14 tiêu chí)
+ Tiêu chuẩn 2.1: Cải tiến chất lượng và quản lý rủi ro
+ Tiêu chuẩn 2.2: Quản lý nhân lực
+ Tiêu chuẩn 2.3: Quản lý thông tin
+ Tiêu chuẩn 2.4: Sức khoẻ cộng đồng
+ Tiêu chuẩn 2.5: Nghiên cứu
- Chức năng phối hợp: gồm 2 tiêu chuẩn (5 tiêu chí)
+ Tiêu chuẩn 3.1: Lãnh đạo và Quản lý
+ Tiêu chuẩn 3.2: Thực hành an toàn và Môi trường
Hoa Kỳ và một số nước tiếp cận theo Bộ tiêu chuẩn JCI. Theo đó tiến trình
để đánh giá và chứng nhận chất lượng của JCI chia làm 4 cấp độ: cấp độ 1 - Thiết
yếu: xác nhận những gì đã đạt được/tự đánh giá và thực hiện cải tiến; cấp độ 2 -
Chứng chỉ: đối với các chương trình cải tiến chất lượng; cấp độ 3 - Chứng nhận: cấp
69
chứng nhận phù hợp cho toàn bộ tổ chức; cấp độ 4 - Các tổ chức được đánh giá cao.
Bộ tiêu chuẩn thiết yếu được phát triển từ các tài liệu y khoa quốc tế và kinh
nghiệm bao quát, mỗi khu vực nguy cơ có 10 chuẩn mực đưa ra các chiến lược
giảm thiểu nguy cơ một cách rõ ràng và khả thi. “Mức độ nỗ lực” ghi nhận sự
tiến bộ đối với từng chuẩn mực. 5 nhóm nguy cơ của Bộ tiêu chuẩn thiết yếu
gồm: nhóm 1: Cách thức lãnh đạo và trách nhiệm giải trình; nhóm 2: Lực lượng lao
động có năng lực và thành thạo; nhóm 3: An toàn môi trường cho nhân viên và người
bệnh; nhóm 4: Chăm sóc lâm sàng cho người bệnh; nhóm 5: Cải thiện chất lượng và
an toàn.
Ở Thái Lan cũng xây dựng một bộ chỉ số đánh giá chất lượng riêng cho các
cơ sở cung ứng dịch vụ y tế với tổng số 42 chỉ số trong 6 nhóm: nhóm chỉ số thông
tin chung về cơ sở y tế: 10 chỉ số; nhóm chỉ số về đầu vào cơ sở vật chất: 7 chỉ số;
nhóm chỉ số quá trình và đầu ra lâm sàng: 10 chỉ số; nhóm chỉ số quá trình và đầu ra
cho dịch vụ: 9 chỉ số; nhóm chỉ số về chất lượng quản lý: 3 chỉ số; nhóm chỉ số về
hệ thống và quá trình QLCL: 3 chỉ số [12].
c) Kinh nghiệm về tổ chức đánh giá và chứng nhận chất lượng khám, chữa
bệnh của bệnh viện
Thập niên của những năm 1990 có sự phát triển nhanh chóng với sự ra đời
các tổ chức tiêu chuẩn và thẩm định chất lượng bệnh viện tại các nước Châu Âu,
Úc, Mỹ và một số quốc gia Châu Á, Châu Phi. Trong đó Hoa Kỳ là một trong
những quốc gia thực hiện đánh giá và chứng nhận chất lượng bệnh viện và các tổ
chức CSSK sớm nhất trên thế giới. Các nước Đông Nam Á như In-đô-nê-xi-a,
Ma-lay-xi-a, Thái Lan, Phi-líp-pin là những nước sớm đưa chương trình đánh giá
và chứng nhận chất lượng vào thực hiện đánh giá chất lượng bệnh viện theo các
bộ tiêu chuẩn do tổ chức đánh giá và chứng nhận chất lượng xây dựng. Úc và
Anh là những quốc gia có 3-5 tổ chức thẩm định chất lượng y tế.
Tổ chức đánh giá và chứng nhận chất lượng bệnh viện thường là một tổ chức
phi lợi nhuận hoạt động mang tính chất quốc tế hoặc trong phạm vi quốc gia. Tổ
chức đánh giá và chứng nhận chất lượng được thành lập thường do sự phối hợp
và thoả thuận giữa Bộ Y tế, Hiệp hội y khoa, Hiệp hội bệnh viện hoặc là một tổ
70
chức độc lập hoạt động trong lĩnh vực đánh giá và chứng nhận chất lượng CSYT.
Tính đến tháng 11/2011, có 19 tổ chức đánh giá và chứng nhận chất
lượng được ISQua công nhận dựa trên các tiêu chuẩn về tổ chức đánh giá chất
lượng từ bên ngoài do ISQua đưa ra (International accreditation standards for
healthcare external evaluation organisations). Các tổ chức đánh giá và chứng
nhận chất lượng do ISQua công nhận gồm:
- Hiệp hội Ngân hàng máu Hoa Kỳ, Chương trình Thẩm định và Chất
lượng (American Association of Blood Banks, Accreditation and Quality
Programme – AABB);
- Ủy ban Hỗn hợp Quốc tế (Joint Commission International, USA – JCI);
- Đơn vị Thẩm định Chất lượng CSSK Anh (Healthcare Accreditation
Quality Unit, UK - CHKS-HAQU);
- Tổ chức Thẩm định Canada (Accreditation Canada);
- Hội đồng Tiêu chuẩn CSSK Úc (The Australian Council on Healthcare
Standard – ACHS); Hội đồng Cải tiến Chất lượng và Chương trình Thẩm định Chất
lượng Úc (Quality Improvement Council and the QIC Accreditation Program,
Australia – QIC); Chương trình Chứng nhận Y tế của Công ty Global Mark –Úc
(Global- Mark Pty Ltd, Healthcare Certification Programme); Cơ quan Tiêu chuẩn
và Thẩm định CSSK người cao tuổi Úc (Aged Care Standards and Accreditation
Agency, Australia – ACSAA); Tổ chức Thẩm định Thực hành Đa khoa Úc/Chất
lượng Thực hành (Australian General Practice Accreditation Limited/Quality in
Practice - QIP/AGPAL );
- Viện Thẩm định CSSK Hà Lan (Netherlands Institute for Accreditation in
Healthcare – NIAZ);
- Ủy ban Hỗn hợp Thẩm định CSSK Đài Loan (Taiwan Joint Commission
on Healthcare Accreditation – TJCHA);
- Thẩm định Y tế và Khuyết tật Niu Di lân (Health and Disability Auditing
New Zealand – HDANZ);
- Hội đồng Thẩm định Dịch vụ Y tế Nam Phi (Council for Health Service
Accreditation of Southern Africa – COHSASA);
71
- Hệ thống Thẩm định Y tế của Viện Tiêu chuẩn Kỹ thuật và Chứng nhận Colombia (Health Accreditation System of Instituto Colombiano de Normas Técnicas y Certificación, Co – ICONTEC);
- Ban Thẩm định Dịch vụ Y tế Hồi giáo (The Irish Health Service
Accreditation Board – IHSAB);
- Hội Chất lượng Y tế Ma-lay-xi-a (Malaysian Society for Quality in Health
– MSQH);
- Hội đồng Thẩm định CSSK Giooc-da-ni (Health Care Accreditation
Council of Jordan – HCAC).
ISQua cũng thẩm định các bộ tiêu chuẩn chất lượng bệnh viện do các tổ chức tiêu chuẩn và thẩm định xây dựng. Đến nay, đã có 35 bộ tiêu chuẩn của 21 tổ chức đã được ISQua thẩm định. Ngoài ra, ISQua còn thẩm định cho 8 chương trình đào tạo đánh giá viên. d) Kinh nghiệm về chương trình đảm bảo chất lượng khám chữa bệnh của
Ma-lay-xi-a
Chương trình áp dụng lần đầu tiên vào năm 1985, được thử nghiệm ở 14
bệnh viện đa khoa tỉnh và 12 bệnh viện huyện cỡ lớn để tiến hành đánh giá chất
lượng với 12 chỉ số đánh giá vào năm 1986. Những năm sau đó, chương trình này
đã được mở rộng ra tất cả các bệnh viện trong cả nước và có thêm 9 chỉ số nữa
được dùng để đánh giá chất lượng cho các BV của tỉnh và bệnh viện cỡ lớn ở
huyện. Như vậy đã có sự quan tâm đến việc đảm bảo chất lượng ở các bệnh viện
khác nhau với các mức độ khác nhau.
Chương trình đảm bảo chất lượng lúc đầu được áp dụng ở tất cả các bộ
phận của Ban dịch vụ y tế, nhưng tới năm 1990 các Ban khác như: Ban sức khỏe,
Ban dược lý. Sau đó chương trình này được mở rộng ra Ban Nha khoa và Ban kỹ
thuật y học.
Mục tiêu của chương trình đảm bảo chất lượng là đàm bảo cho bệnh nhân,
người nhà bệnh nhân và cộng đồng có thể được hưởng lợi ích cao nhất ở các dịch
vụ của Bộ Y tế với nguồn lực cho phép. Để đạt được mục tiêu của chương trình
này phải thiết kế một hệ thống theo dõi chất lượng của các dịch vụ CSSK để phát
hiện ra những thiếu sót về chất lượng trong bản kế hoạch đề ra, tìm ra nguyên
nhân của sự thiếu hụt đó, và đưa ra những giải pháp hiệu quả nhằm cải thiện chất
lượng.
Chương trình đảm bảo chất lượng trong CSSK, có 2 phương pháp đánh giá
72
cơ bản đã được thừa nhận:
+ Một là những chỉ số y tế quốc gia (NIA: The National Indicator
Approach);
+ Hai là những chỉ số riêng cho bệnh viện (HSA: The National Specific
Approach)
Với các chỉ số y tế quốc gia, những chỉ số phổ biến nhất được sử dụng để
đánh giá chất lượng CSSK. Các chỉ số được quan tâm nhiều ở các vùng khác nhau
được chọn làm chỉ số đánh giá chung cho hầu hết các bệnh viện. Với mỗi nhóm
chỉ số này, có một tiêu chuẩn chung được đặt ra để so sánh việc thực hiện của các
bệnh viện. Những bệnh viện mà không đạt tiêu chuẩn chung này thì sẽ phải tiến
hành điều tra để xác định những nhân tố hoặc lý do làm cản trở việc đảm bảo chất
lượng. Sau đó có các biện pháp khắc phục để những bệnh viện đó có thể sử dụng
các chỉ số đo lường chung. Sự đầy đủ hay thiếu hụt bất cứ một yếu tố đảm bảo
chất lượng nào sẽ phản ánh hiệu quả các giải pháp của các bệnh viện đó. Hệ thống
theo dõi dựa trên các chỉ số quốc gia sẽ đảm bảo rằng các hoạt động liên quan đến
chất lượng được duy trì liên tục cho tới khi chương trình đảm bảo chất lượng trở
thành một thể chế hoá của bệnh viện nghĩa là trở thành một công cụ để cải tiến
chất lượng CSSK.
Với các chỉ số đo lường cụ thể ở bệnh viện, có thể nhận ra những thiếu sót
cụ thể cho từng bệnh viện. Sau khi tiến hành điều tra đánh giá quá trình thực hiện
công tác CSSK của bệnh viện sẽ xác định được những mặt yếu kém. Đề ra các
giải pháp nhằm khắc phục những mặt yếu kém đó và hiệu quả của các giải pháp
này sẽ được đánh giá lại.
Trong hoàn cảnh bệnh viện đó, HSA được coi là công cụ hữu ích để phát
triển các kỹ năng của chương trình đảm bảo chất lượng.
Cơ cấu tổ chức của chương trình đảm bảo chất lượng gồm: Cấp quốc gia -
Cấp tỉnh, thành phố - Cấp bệnh viện.
Cấp quốc gia: Cơ cấu tổ chức chương trình đảm bảo chất lượng của Bộ Y
tế là một tổ chức gồm tập hợp các thành viên của các cơ quan có liên quan đến
chương trình này. Chương trình này được điều hành bởi Trưởng Ban và Giám đốc
73
các sở đóng vai trò là các thành viên. Mỗi một ban sẽ có một hội đồng của chương
trình đảm bảo chất lượng riêng được điều hành bởi những người quản lý... Như
hội đồng của chương trình đảm bảo chất lượng CSSK được điều hành bởi trưởng
ban dịch vụ CSSK cấp tỉnh - thành:
Ở cấp độ các tỉnh - thành, giám đốc sở y tế và CSSK là người điều hành
chương trình đảm bảo chất lượng. Các nhân viên chịu trách nhiệm về chương
trình QLCL này giữ các vị trí khác nhau trong tỉnh.
Cấp bệnh viện: Một bác sỹ lâm sàng, giám đốc của bệnh viện là người điều
hành chương trình QLCL bệnh viện và đồng thời đóng vai trò là người giám sát.
Trong trường hợp khác, phó giám đốc bệnh viện có thể làm người quản lý chương
trình đảm bảo chất lượng bệnh viện.
Các bước tiến hành chương trình đảm bảo chất lượng gồm 8 bước, được
tiến hành thành một chu trình khép kín như sau:
Bước 1 - Xác định vấn đề
Đây là bước đầu tiên của chương trình đảm bảo chất lượng. Tất cả những
vấn đề mà được coi là quan trọng hoặc là được nhiều người quan tâm nhất đều
được liệt kê ở đây. Trong giai đoạn này, xác định vấn đề chủ yếu dựa vào sự giả
định và những hiểu biết về vấn đề đó hơn là dựa trên các thông tin đầy đủ chính
xác. Những vấn đề được phát hiện dựa trên các chỉ số y tế quốc gia (NIA) là
những vấn đề phổ biến nhất ở hầu hết các bệnh viện trong khi ở các bệnh viện thì
lại được xác định bởi các chỉ số riêng cho từng bệnh viện (HSA).
Bước 2 - Lựa chọn vấn đề ưu tiên
Vấn đề ưu tiên sẽ được chọn ra dựa trên các vấn đề đã được liệt kê ở bước
1 - xác định vấn đề. Từ danh sách được liệt kê đó chúng ta sẽ phân biệt các sự
khác nhau của các vấn đề có liên quan đến chất lượng so với các vấn đề còn lại.
Ví dụ: Các vấn đề liên quan đến quản lý và nguồn lực. Khi đã tách biệt các vấn đề
liên quan đến chất lượng, các vấn đề này sẽ được liệt kê ra theo thứ tự ưu tiên.
Chúng ta không thể tiến hành giải quyết đồng thời tất cả các vấn đề, do đó phải
quyết định lựa chọn vấn đề mà được đồng ý là ưu tiên cao nhất.
74
Bước 3 - Đánh giá nhanh về chất lượng dịch vụ CSSK tại địa bàn đó
Khi đã chọn ra vấn đề ưu tiên, cần phải đưa ra bằng chứng để chứng minh
vấn đề này thực sự tồn tại. Bước này được tiến hành bằng cách trình bày thật rõ
ràng khái niệm “CSSK tốt” dựa trên các chỉ số, các tiêu chuẩn. Chất lượng của
chương trình đó sẽ được đánh giá dựa trên các chỉ số và các tiêu chuẩn này. Nếu
chất lượng của chương trình sau đánh giá là được chấp nhận, thì sẽ tới vấn đề tiếp
theo trong chuỗi vấn đề đã chọn ở trên để đánh giá. Nhưng nếu chất lượng của
chương trình chưa đạt tiêu chuẩn, thì khẳng định lại là có vấn đề về chất lượng và
tiếp tục tiến hành các bước tiếp theo của chương trình đảm bảo chất lượng.
Bước 4 - Phân tích vấn đề
Bước này xác định nguyên nhân của vấn đề. Bước này mọi người sẽ đưa ra
một ý tưởng của tất cả những chỗ cần tìm hiểu phân tích. Sau đó sẽ liên kết các ý
tưởng này với nhau.
Bước 5 - Thu thập thông tin xác định nguyên nhân gốc rễ
Khi xác định được tất cả các nguyên nhân có thể của vấn đề, một cuộc điều
tra được tiến hành để xác định lại các nguyên nhân ở trên. Cuộc điều tra này có
thể theo một bản thiết kế nghiên cứu chi tiết hoặc có thể là những quan sát đơn
giản.
Bước 6 - Lựa chọn giải pháp
Khi đã xác định được chính xác nguyên nhân của vấn đề, đưa ra các giải
pháp để khắc phục các điểm yếu kém. Các giải pháp đưa ra phải được cân nhắc
phù hợp với thực tế và dễ thực hiện.
Bước 7 - Thực thi giải pháp
Những giải pháp đưa ra sẽ được thực hiện. Giải pháp được thực hiện hiệu
quả khi thiết kế một bản kế hoạch chỉ rõ công việc cụ thể cho từng người và thời
gian hoàn thành.
Bước 8 - Đánh giá chất lượng chương trình
Sau khi giải pháp được thực hiện, chất lượng của chương trình sẽ được
đánh giá lại. Chất lượng của chương trình CSSK đạt tiêu chuẩn thì có nghĩa là vấn
75
đề đã được giải quyết. Mặt khác, nếu chất lượng của chương trình CSSK chưa đạt
tiêu chuẩn, thì toàn bộ quy trình đảm bảo chất lượng phải được lặp lại cho đến khi
2.2.4.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
giải quyết được vấn đề.
Từ những kinh nghiệm phong phú, đa dạng về quản lý chất lượng KCB của
các nước trên thế giớí và đặc điểm tình hình thực tiễn ở Việt Nam, có thể rút ra
một số bài học kinh nghiệm sau đây, áp dụng cho Việt Nam trong thời gian tới:
Một là, hoàn thiện thể chế quản lý chất lượng KCB, theo đó xây dựng
khung pháp lý về quản lý chất lượng KCB của bệnh viện theo hướng bắt buộc các
bệnh viện phải đảm bảo quy chuẩn, chất lượng bệnh viện về cơ sở hạ tầng, trang
thiết bị và nguồn nhân lực và các điều kiện đảm bảo an toàn khác trước khi tổ
chức các hoạt động KCB, đồng thời khuyến khích các bệnh viện áp dụng các
phương pháp cải thiện chất lượng bệnh viện.
Hai là, nghiên cứu áp dụng tiêu chuẩn, mô hình, phương pháp QLCL: Có
thể lựa chọn một hay nhiều mô hình, phương pháp QLCL cho tất cả lĩnh vực hoặc
từng lĩnh vực cụ thể của từng bệnh viện. Hiện nay, đối với các bệnh viện có nguồn
lực hạn chế có thể lựa chọn phương pháp QLCL theo chu trình PDCA và QLCL
toàn diện TQM; đối với các bệnh viện lớn có thể áp dụng hỗn hợp nhiều phương
pháp QLCL như PDCA, 6 sigma hoặc Lean.
Ba là, về đo lường chất lượng, có thể xây dựng ban hành bộ công cụ đánh
giá chất lượng bệnh viện thống nhất áp dụng trong cả nước. Bộ công cụ thực hiện
được đầy đủ các nội dung cả về cấu trúc, quy trình và kết quả; đo lường cả về hiện
trạng và xu hướng hoặc nghiên cứu áp dụng các bộ tiêu chuẩn đã được ISQua
công nhận:
- Đo lường cấu trúc: bao gồm cả về thiết kế, chính sách và phương pháp, số
lượng và chất lượng nhân lực, trình độ cán bộ, trang thiết bị, vật tư, cơ sở hạ tầng.
- Đo lường quy trình: lượng giá các quy trình hoạt động có được thực thi
đúng cách nhằm đạt được kết quả mong muốn hay không.
- Đo lường kết quả: đánh giá sự thay đổi về sức khỏe của người bệnh sau
76
khi đã thực hiện hàng loạt các quy trình.
Bốn là, quy định bắt buộc các bệnh viện xây dựng chương trình hoặc kế
hoạch QLCL và tổ chức triển khai thực hiện theo hướng cải tiến, nâng cao chất
lượng KCB đáp ứng sự hài lòng của người bệnh.
Năm là, hình thành tổ chức công nhận/ kiểm định chất lượng KCB đảm bảo
tính chuyên nghiệp và tính độc lập khách quan trong đánh giá chất lượng. Tổ chức
này có thể là đơn vị sự nghiệp do Nhà nước thành lập hoặc Hội nghề nghiệp hoặc
cá nhân thành lập.
Sáu là, xây dựng chương trình đảm bảo chất lượng quốc gia, áp dụng thống
nhất cho tất cả các bệnh viện từ cấp trung ương, đến cấp địa phương trên cả nước.
Kết luận Chương 2
Thông qua việc nghiên cứu, tìm hiểu, tham khảo các tài liệu, công trình
nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án ở trong nước và nước ngoài, đồng thời
sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học hiện đại như phân tích tài liệu thứ
cấp và phương pháp so sánh, Chương 2 của Luận án đã làm sáng tỏ cơ sở lý luận
và thực tiễn về quản lý chất lượng khám chữa bệnh của bệnh viện công lập. Các
kết quả nghiên cứu cụ thể của Chương 2 Luận án, đó là:
Thứ nhất, làm rõ khái niệm bệnh viện, phân loại bệnh viện, vai trò của
bệnh viện và bệnh viện công lập Việt Nam.
Thứ hai, làm sáng tỏ các khái niệm: Khám chữa bệnh, chất lượng khám
chữa bệnh, quản lý chất lượng và quản lý chất lượng khám chữa bệnh của bệnh
viện.
Thứ ba, phân tích làm rõ nội dung quản lý chất lượng khám chữa bệnh của
bệnh viện. Theo đó, quản lý chất lượng khám chữa bệnh của bệnh viện bao gồm 2
cấp độ: Cấp độ vĩ mô - quản lý nhà nước về chất lượng khám chữa bệnh và cấp độ
vi mô - quản lý chất lượng khám chữa bệnh tại bệnh viện.
Thứ tư, tìm hiểu, phân tích, chỉ ra một số yếu tố liên quan tác động đến chất
lượng và quản lý chất lượng khám chữa bệnh của bệnh viện.
Thứ năm, tìm hiểu nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về quản lý chất lượng
khám chữa bệnh, từ đó so sánh rút ra bài học kinh nghiệm về quản lý chất lượng
77
khám chữa bệnh của bệnh viện có thể áp dụng tại Việt Nam.
Chương 3 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG KHÁM
CHỮA BỆNH CỦA BỆNH VIỆN CÔNG LẬP VIỆT NAM
3.1. Thực trạng chất lượng khám chữa bệnh của bệnh viện công lập
3.1.1. Khái quát hệ thống y tế Việt Nam
Sơ đồ 2: Sơ đồ hệ thống tổ chức ngành y tế
1. Tuyến Trung ương
Chính phủ
Bộ y tế
Các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ: - KCB: 35 bệnh viện, viện, 01 TT - Y tế dự phòng: 11 viện - Giám định, kiểm định: 6 viện - Lĩnh vực đào tạo: 13 (11 ĐH, 2CĐ) - Lĩnh vực truyền thông: 5 đơn vị - Lĩnh vực dược, Trang thiết bị y tế : 4
- 08 vụ, - 09 Cục - 01 Tổng cục - Văn phòng Bộ - Thanh tra Bộ. viện.
UBND tỉnh, thành phố
2. Tuyến tỉnh, thành phố Các đơn vị sự nghiệp trực thuộc sở: - KCB: Bệnh viện đa khoa, chuyên
khoa
Sở Y tế
- Y tế dự phòng: các trung tâm: - Các trung tâm chuyên khoa - Giám định, kiểm định: trung tâm - Lĩnh vực đào tạo: trường trung học
hoặc cao đẳng
- Văn phòng - Thanh tra - Các Phòng Nghiệp vụ - Các Chi cục
UBND huyÖn QuËn, TX, TP
3. Tuyến quận, huyện
Ghi chú
Phòng Y tế
Trung tâm Y tế huyện
Quản lý trực tiếp QLNN
- bệnh viện đa khoa huyện - Phòng khám đa khoa
4. Tuyến xã
TYT xã
78
- Trưởng trạm - Các nhân viên
Khu vực y tế chuyên sâu
Tuyến y tế Trung ương
Tuyến y tế tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
Khu vực y tế phổ cập
Tuyến y tế cơ sở (huyện/quận, xã/phường
Sơ đồ 3: Mô hình tổ chức hệ thống KCB Việt Nam
3.1.2. Khái quát hệ thống bệnh viện công lập Việt Nam
3.1.2.1. Hệ thống mạng lưới bệnh viện
Hệ thống bệnh viện công lập được chia làm 3 tuyến: Tuyến trung ương gồm
các bệnh viện đa khoa, chuyên khoa trực thuộc Bộ Y tế có chức năng điều trị các
bệnh nặng, khó với các can thiệp, chuyên khoa sâu, sử dụng kỹ thuật phức tạp và
hiện đại; tuyến tỉnh gồm các bệnh viện đa khoa, chuyên khoa thuộc tỉnh, thành phố
trong đó có một số bệnh viện đóng vai trò như bệnh viện tuyến cuối của khu vực.
Các bệnh viện chuyên khoa tuyến tỉnh hiện nay chủ yếu là bệnh viện lao, tâm thần, y
học cổ truyền, phụ sản, nhi, một số bệnh viện phong, điều dưỡng và phục hồi chức
năng; tuyến huyện gồm các bệnh viện quận, huyện, thị xã là các bệnh viện đa khoa
hoặc đa khoa khu vực liên huyện đóng vai trò CSSK ban đầu cho nhân dân trong
79
khu vực.
Ngoài ra, có các bệnh viện trực thuộc các Bộ, Ngành khác phục vụ công tác
KCB cho cán bộ công chức, viên chức các ngành và đồng thời kết hợp phục vụ
nhân dân; các bệnh viện ngoài công lập (tư nhân, dân lập, vốn đầu tư nước
ngoài,…) phát triển mạnh ở những thành phố, tỉnh lớn nơi có điều kiện kinh tế,
xã hội thuận lợi và người dân có khả năng chi trả.
Căn cứ vào chức năng nhiệm vụ, quy mô giường bệnh và khả năng chuyên
môn kỹ thuật, các bệnh viện được phân thành 5 hạng theo Thông tư số 23/2005/TT-
BYT của Bộ Y tế gồm: Hạng đặc biệt, hạng I, hạng II, hạng III và hạng IV. Hạng
đặc biệt và hạng I là hạng cao nhất bao gồm một số bệnh viện có quy mô lớn, trang
thiết bị hiện đại như bệnh viện Bạch Mai, bệnh viện Trung ương Huế, bệnh viện Chợ
Rẫy và bệnh viện Việt Đức, hạng IV là thấp nhất bao gồm cả nhóm các bệnh viện
chưa xếp hạng [8].
Bảng 3.1: Số bệnh viện theo các tuyến giai đoạn 2014 - 2016
Năm Tuyến 2015 2016 2014
I. Bệnh viện công lập 1.251 1.252 1.244
1. Bộ Y tế 40 40 40
2. Tỉnh/ Thành phố 466 472 467
3. Huyện/Quận 677 667 670
4. Y tế Bộ, Ngành 68 63 67
166 172 165 II. Bệnh viện ngoài công lập
Tổng 1.409 1.417 1.424
80
Nguồn: Cục Quản lý khám chữa bệnh
Bảng 3.2: Số giường bệnh theo các tuyến, giai đoạn 2014- 2016
Năm Tuyến 2015 2016 2014
I. Bệnh viện công lập 233.482 239.544 223.751
1. Bộ Y tế 29.499 29.204 27.375
2. Tỉnh/ Thành phố 122.235 126.839 116.962
3. Huyện/Quận 76.724 78.769 72.824
4. Y tế Bộ, Ngành 5.024 4.735 6.590
II. Bệnh viện ngoài công lập 12.641 13.056 13.355
246.123 252.600 237.106 Tổng
Nguồn: Cục Quản lý khám chữa bệnh Bảng 3.3: Bác sỹ, Y sỹ, điều dưỡng theo loại hình sở hữu giai đoạn 2013 - 2015
Năm Tuyến
2014 2015 2013
52.038 55.098 48.165 Bác sỹ
47.576 50.405 44.292 Công lập
4.462 4.693 3.873 Tư nhân
12.693 13.102 12.562 Y sỹ
12.340 12.717 12.408 Công lập
353 385 154 Tư nhân
100.714 104.136 93.243 Điều dưỡng
93.651 96.395 87.308 Công lập
7.063 7.741 5.935 Tư nhân
81
Nguồn: Niên giám thống kê y tế năm 2016 [16]
3.1.2.2. Chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện
Sau hơn 30 năm đổi mới, hệ thống KCB có những đóng góp quan trọng trong
công tác bảo vệ chăm sóc và nâng cao sức khỏe cho nhân dân. Mạng lưới cơ sở
KCB y học hiện đại, y học cổ truyền phát triển nhanh với nhiều mô hình công, tư,
kết hợp công-tư phong phú, đa dạng. Số giường bệnh trên một vạn dân tăng từ 13,9
năm 1993 lên 25,0 năm 2016, gần bằng mức trung bình thế giới. Nhiều bệnh viện
có cơ sở vật chất khang trang, thiết bị hiện đại.
Năng lực, chất lượng điều trị ở các tuyến được nâng lên rõ rệt. Hệ thống phác
đồ, hướng dẫn chẩn đoán điều trị nhiều loại bệnh được xây dựng, triển khai thống nhất
trong cả nước.
Nhiều kỹ thuật cao, công nghệ mới trong điều trị như ghép tạng, can thiệp tim
mạch, phẫu thuật nội soi, hỗ trợ sinh sản, y học hạt nhân... đã được ứng dụng, làm chủ.
Không ít kỹ thuật cao trước đây chỉ làm được ở các bệnh viện tuyến cuối nay đã trở
thành thường quy ở nhiều bệnh viện tỉnh, huyện.
Bằng nhiều giải pháp đồng bộ, quyết liệt nhất là triển khai mô hình bệnh viện
vệ tinh, kết hợp công tư, cải cách thủ tục hành chính trong KCB bước đầu đã giảm
được quá tải ở các bệnh viện tuyến trên.
Kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại trong KCB được đẩy mạnh. Nhiều
phương pháp điều trị kết hợp đông tây y, điều trị không dùng thuốc theo nguyên lý
y học cổ truyền được nghiên cứu, triển khai, phổ biến rộng rãi. Số lượng người bệnh
được KCB bằng y học cổ truyền tăng đáng kể. Một số chuyên khoa, kỹ thuật y học
cổ truyền được quốc tế đánh giá cao, đề nghị được tìm hiểu, chuyển giao.
Năng lực KCB của các cơ sở y tế thuộc lực lượng vũ trang được tăng cường.
Mô hình kết hợp quân dân y, y tế biển đảo được đẩy mạnh, phát huy hiệu quả đặc
biệt là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Đổi mới căn bản phương thức đánh giá chất lượng, phân loại bệnh viện theo
bộ tiêu chí phù hợp với quốc tế và chỉ số hài lòng của người dân. Đạo đức, phong
cách, thái độ phục vụ của đội ngũ bác sỹ, nhân viên y tế được quan tâm, có nhiều
tiến bộ. Nhiều tấm gương tận tụy phục vụ người bệnh được xã hội trân trọng ghi
82
nhận.
Triển khai thực hiện thông tuyến khám, chữa bệnh BHYT tạo điều kiện cho
người dân được lựa chọn cơ sở KCB ban đầu. Thực hiện liên thông, công nhận kết
quả xét nghiệm giữa các bệnh viện cùng hạng nhằm hạn chế lạm dụng kỹ thuật
trong khám chữa bệnh và tiết kiệm chi phí.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong KCB, quản lý bệnh viện được đẩy mạnh.
Thực hiện kết nối mạng gần 14.000 cơ sở y tế trong cả nước với cơ quan BHXH
phục vụ giám định tự động BHYT và từng bước triển khai lập bệnh án điện tử, quản
lý hồ sơ sức khỏe toàn dân.
Bảng 3.4: Kết quả hoạt động khám chữa bệnh ngoại trú và nội trú 2014 – 2016 Nguồn: Báo cáo công tác khám chữa bệnh của Cục Quản lý Khám, chữa bệnh năm 2017
Tổng số Khám ngoại trú Điều trị nội trú
lượt
2014 2015 2016 2014 2015 2016 Bệnh viện
I. Bệnh viện
126.988.146 130.766.73 145.671.661 12.653.581 12.800.860 15.340.526
Công lập
1. Bộ Y tế
1.154.903
1.314.060
9.251.813 9.817.175 13.808.070 1.024.898
2. Tỉnh/Thành
54.634.803 55.489.148 60.530.937 6.525.675
6.532.384
7.615.088
phố
3. Quận/Huyện
4.972.866
6.222.531
61.294.807 63.265.128 69.185.210 4.965.746
4. Bộ/Ngành
140.707
188.847
1.806.723 2.195.279 2.147.444 137.262
II. Bệnh viện
10.124.988 12.627.537 13.437.257 717.378
699.718
946.555
ngoài công lập
140.046.841 143.394.267 159.108.918 13.491.850 13.500.578 16.287.081
Tổng cộng
Số lượt KCB ngoại trú liên tục tăng qua các năm theo tất cả các tuyến bệnh
viện. Số lượt người bệnh điều trị nội trú tăng đều qua các năm và cũng tăng ở tất cả
83
các tuyến bệnh viện.
Bảng 3.5: Điểm đánh giá chất lượng trung bình của bệnh viện công lập từ 2013 - 2015
Tuyến bệnh
Điểm trung
Tỉnh/Thành
viện
Trung ương
Huyện/ Quận
bình các bệnh
phố
Năm
viện
3,03 2,67 2,40 2,70 2013
3,40 2,80 2,55 2,92 2014
3,45 2,85 2,58 2,96 2015
Nguồn: Kết quả khảo sát của Bộ Y tế năm 2016
3,29 2,77 2,51 Điểm trung bình
Kết quả đánh giá chất lượng bệnh viện theo bộ công cụ 83 tiêu chí: Bảng 3.5
cho thấy điểm đánh giá chất lượng trung bình của các bệnh viện công lập toàn quốc
tăng đều qua các năm, chất lượng KCB của bệnh viện Trung ương cao hơn bệnh
viện tỉnh và huyện. Điều đó cho thấy chất lượng khám chữa bệnh từng bước được
nâng cao.
Kết quả đánh giá chất lượng bệnh viện theo bộ công cụ 83 tiêu chí tại Bảng
3.6 cho thấy điểm đánh giá chất lượng trung bình của 37 bệnh viện tuyến trung
ương trực thuộc Bộ Y tế cũng tăng đều qua các năm và điểm đánh giá chất lượng
trung bình của bệnh viện trung ương trực thuộc Bộ Y tế cao hơn các bệnh viện trên
toàn quốc.
Bảng 3.6: Điểm đánh giá chất lượng trung bình của 37 bệnh viện Trung ương trực thuộc Bộ Y tế từ 2013 - 2015
Nhóm tiêu chí 2014 2015 2013
3,35 3,59 3,25 Điểm Trung bình
- Điểm hướng đến người bệnh 3,42 3,55 3,34
- Điểm phát triển nguồn lực bệnh 3,73 3,81 3,44
- Điểm hoạt động chuyên môn 3,27 3,44 3,32
- Điểm cải tiến chất lượng 2,91 3,25 2,55
Nguồn: Kết quả khảo sát điều tra của nghiên cứu sinh và nhóm nghiên cứu
84
- Điểm đặc thù chuyên khoa 3,45 3,86 3,66
3.2. Thực trạng quản lý chất lượng khám chữa bệnh của bệnh viện
công lập Việt Nam
3.2.1. Thực trạng quản lý nhà nước 3.2.1.1. Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch quản lý chất lượng
khám chữa bệnh
Những kết quả đạt được
Trong giai đoạn vừa qua nhiều chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về công tác y
tế nói chung và KCB nói riêng đã được ban hành để định hướng và hướng dẫn cũng
như thực hiện các quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước về công tác y tế,
công tác KCB:
Chiến lược phát triển KTXH giai đoạn 2011-2020 đã được Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XI thông qua, xác định: “phát triển mạnh sự nghiệp y tế, nâng cao
chất lượng công tác CSSK nhân dân; tập trung phát triển mạnh hệ thống CSSK và
nâng cao chất lượng dịch vụ y tế. Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư, đồng thời đẩy
mạnh xã hội hóa để phát triển nhanh hệ thống y tế công lập và ngoài công lập;…
Khắc phục tình trạng quá tải ở các bệnh viện, đặc biệt là bệnh viện tuyến trung
ương và tuyến tỉnh. Đổi mới cơ chế hoạt động, nhất là cơ chế tài chính của các cơ
sở y tế công lập theo hướng tự chủ, công khai, minh bạch. Chuẩn hóa chất lượng
dịch vụ y tế, chất lượng bệnh viện, từng bước tiếp cận với tiêu chuẩn khu vực và
quốc tế. Đổi mới và hoàn thiện đồng bộ chính sách BHYT, khám bệnh, chữa bệnh
và viện phí phù hợp; có lộ trình thực hiện BHYT toàn dân” [27].
Chiến lược Quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai
đoạn 2011-2020 và tầm nhìn 2030 đưa ra quan điểm: “Nhà nước thống nhất quản lý
vĩ mô, định hướng phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân
dân thông qua hệ thống pháp luật và chính sách; điều tiết, phân bổ nguồn lực;
QLCL dịch vụ y tế, giá dịch vụ y tế và giải pháp: Hoàn thiện mạng lưới KCB các
tuyến; thực hiện chăm sóc liên tục và toàn diện cho người bệnh; lấy người bệnh làm
trung tâm; xây dựng chương trình bảo đảm và cải thiện chất lượng dịch vụ KCB;
kiện toàn cơ chế xử lý, phản hồi ý kiến, bảo vệ quyền lợi của người bệnh; xây dựng
85
và áp dụng tiêu chuẩn QLCL phù hợp đối với các bệnh viện ở Việt Nam, từng bước
áp dụng chuẩn khu vực và quốc tế trong khám bệnh, chữa bệnh. Thiết lập hệ thống
quản lý, kiểm định và kiểm soát chất lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh từ trung
ương đến địa phương.
Nâng cao năng lực quản lý bệnh viện, bảo đảm sử dụng hiệu quả nguồn lực ở
các bệnh viện; tăng cường cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông
tin trong quản lý bệnh viện. Phát huy hiệu quả hoạt động của hội đồng thuốc và điều
trị, tăng cường kiểm soát kê đơn, sử dụng thuốc, chỉ định xét nghiệm, chỉ định kỹ
thuật; hạn chế tối đa việc lạm dụng thuốc và công nghệ y tế; thực hiện các biện
pháp phòng ngừa và giảm các tai biến, sai sót chuyên môn, bảo đảm an toàn cho
người bệnh và minh bạch trong quản lý, hoạt động chuyên môn và phân bổ nguồn
lực. Tăng cường giáo dục y đức, quy tắc ứng xử cho cán bộ y tế” [54].
Quyết định số 153/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy
hoạch hệ thống y tế Việt Nam giai đoạn 2010 và tầm nhìn đến 2020 chỉ rõ việc hình
thành mạng lưới KCB theo các tuyến kỹ thuật từ thấp đến cao, bảo đảm tính liên tục
về cấp độ chuyên môn. Mỗi cơ sở đảm nhiệm việc cung cấp dịch vụ KCB cho một
cụm dân cư không phụ thuộc địa giới hành chính, bảo đảm đạt tiêu chuẩn xếp hạng
bệnh viện theo quy định của Bộ Y tế cho từng tuyến [52].
Quyết định số 30/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy
hoạch phát triển mạng lưới KCB đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 với mục
tiêu xây dựng và phát triển mạng lưới KCB phù hợp với điều kiện phát triển KT-
XH của đất nước, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế ngang tầm các nước tiên tiến
trong khu vực, đáp ứng nhu cầu KCB của nhân dân, hướng tới mục tiêu công bằng,
hiệu quả và phát triển. Đến năm 2010, có trên 80% và đến năm 2020 tất cả các bệnh
viện có hệ thống xử lý chất thải theo quy định của Bộ Y tế; tất cả các cơ sở KCB
phải tự kiểm soát chất lượng các dịch vụ y tế theo quy định của Bộ Y tế. Đến năm
2015, phải định kỳ kiểm định chất lượng dịch vụ y tế ở tất cả các cơ sở KCB [53].
Quyết định số 2348/QĐ-TTg năm 2016 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt
Đề án xây dựng và phát triển mạng lưới y tế cơ sở trong tình hình mới với mục tiêu:
Đổi mới tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính, phát triển nguồn nhân
86
lực để nâng cao năng lực cung ứng và chất lượng dịch vụ của mạng lưới y tế cơ sở,
bảo đảm cung ứng đầy đủ các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, khám bệnh, chữa
bệnh cho từng người dân trên địa bàn, cung ứng dịch vụ theo hướng toàn diện, liên
tục, phối hợp và lồng ghép chặt chẽ giữa dự phòng và điều trị giữa các cơ sở y tế
trên địa bàn và với tuyến trên, góp phần giảm quá tải cho các bệnh viện tuyến trên,
bảo đảm công bằng, hiệu quả trong công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe
nhân dân.[55]
Kế hoạch số 39/KH-BYT của Bộ Y tế về bảo vệ chăm sóc và nâng cao sức
khỏe nhân dân giai đoạn 2016-2020 đưa ra giải pháp: Giảm quá tải bệnh viện, nâng
cao chất lượng dịch vụ KCB và phục hồi chức năng; Hoàn thiện hệ thống QLCL
dịch vụ KCB các cấp và hệ thống đánh giá phản hồi của người dân; ban hành các
quy trình chuyên môn [15].
Quyết định số 4276/QĐ-BYT năm 2015 của Bộ trưởng Bộ Y tế Phê duyệt
“Chương trình hành động Quốc gia về nâng cao năng lực QLCL khám bệnh, chữa
bệnh giai đoạn từ nay đến năm 2025” với mục tiệu xây dựng và hoàn thiện hệ thống
QLCL khám bệnh, chữa bệnh quốc gia nhằm bảo đảm và cải tiến chất lượng dịch
vụ y tế trong các cơ sở KCB: xây dựng và hoàn thiện cơ bản khung pháp lý, chính
sách, hệ thống tổ chức nhằm tăng cường QLCL khám bệnh, chữa bệnh; xây dựng và
ban hành các chuẩn chất lượng, các công cụ đánh giá, đo lường chất lượng dịch vụ
của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; thúc đẩy việc áp dụng các phương pháp QLCL và
triển khai các chương trình can thiệp nâng cao năng lực QLCL khám bệnh, chữa
bệnh; nâng cao nhận thức về tăng cường quản lý chất Iượng khám bệnh, chữa bệnh,
từng bước xây dựng văn hóa chất lượng trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh [13].
Các chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch nói trên được ban hành và
triển khai thực hiện trong thực tế, thể hiện sự chỉ đạo xuyên suốt của Đảng và Nhà
nước ta. Với mục tiêu tăng cường và nâng cao chất lượng công tác y tế nói chung và
công tác KCB nói riêng, góp phần vào sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức
khỏe nhân dân và cũng thể hiện công tác quản lý chất lượng KCB có ý nghĩa quan
trọng đối với sự phát triển KTXH.
87
Hạn chế, tồn tại
Một số chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch chậm được ban hành và
bổ sung sửa đổi kịp thời, chưa sát với thực tế, tính khả thi chưa cao. Bộ Y tế chưa
trình Thủ tướng chính phủ phê duyệt quy hoạch phát triển hệ thống mạng lưới y tế
và quy hoạch phát triển hệ thống mạng lưới KCB thay thế các quyết định
153/2006/QĐ-TTg và Quyết định số 30/2008/QĐ-TTg về phạm vi thời gian đến
2020.
Bên cạnh đó việc tổ chức thực hiện ở các cấp Bộ ngành và địa phương chưa
3.2.1.2. Xây dựng và triển khai hệ thống pháp luật về quản lý chất
lượng khám chữa bệnh
quyết liệt, chưa chủ động và thiếu giải pháp đồng bộ.
Những kết quả đạt được
Ngày 23 tháng 11 năm 2009, Luật Khám bệnh, chữa bệnh được Quốc hội
khóa XII thông qua và ngày 04 tháng 12 năm 2009, Chủ tịch nước đã ký ban hành
Lệnh số 17/2009/L-CTN công bố Luật và có hiệu lực từ 01 tháng 01 năm 2011. Đây
là đạo luật đầu tiên về khám bệnh, chữa bệnh, là một lĩnh vực quan trọng của ngành
y tế Việt Nam. Luật Khám bệnh, chữa bệnh thể chế hóa quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về khám bệnh, chữa bệnh. Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định, mục
tiêu nhất quán là từng bước nâng cao chất lượng công tác khám bệnh, chữa bệnh
nhằm đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe
nhân dân.
Trước thời điểm Luật có hiệu lực, việc cấp CCHN cho người hành nghề và
cấp GPHĐ cho cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, được thực hiện theo quy định của
Pháp lệnh hành nghề y dược tư nhân. Theo đó chỉ cấp CCHN và GPHĐ cho khu
vực ngoài công lập mà chưa cấp cho khu vực công lập, việc đăng ký kiểm tra, giám
sát hoạt động của khu vực công lập chưa đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn. Do
đó, việc quy định cấp CCHN cho người hành nghề và GPHĐ cho cơ sở hành nghề
là cần thiết. Đây là một điểm mới của Luật Khám bệnh, chữa bệnh góp phần nâng
cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh, nâng cao trình độ chuyên môn cho người
88
hành nghề và không có phân biệt khu vực công lập và ngoài công lập [59].
Bên cạnh đó, việc ban hành Luật khám bệnh, chữa bệnh nhằm đáp ứng yêu
cầu hội nhập khu vực và thế giới khi nước ta đã trở thành thành viên của tổ chức
thương mại thế giới. Việt Nam cũng đã ký kết Hiệp định khung về điều kiện hành
nghề điều dưỡng giữa các nước ASEAN và sắp tới là Hiệp định khung về điều kiện
hành nghề bác sĩ và nha sĩ.
Luật khám bệnh, chữa bệnh bao gồm các quy định cơ bản gồm: chính sách
Nhà nước và nguyên tắc trong hành nghề khám bệnh, chữa bệnh; trách nhiệm
QLNN về khám bệnh, chữa bệnh; quy định quyền và nghĩa vụ của người bệnh,
người hành nghề và cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; điều kiện đối với người hành
nghề và cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; quy định chuyên môn kỹ thuật trong khám
bệnh, chữa bệnh; áp dụng kỹ thuật, phương pháp mới trong khám bệnh, chữa bệnh;
sai sót chuyên môn kỹ thuật, giải quyết khiếu nại, tố cáo và tranh chấp trong khám
bệnh, chữa bệnh; điều kiện bảo đảm công tác khám bệnh, chữa bệnh.
Thi hành Luật khám bệnh, chữa bệnh, Chính phủ đã ban hành 04 Nghị định:
Nghị định số 87/2011/NĐ-CP ngày 27/9/2011 quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật khám bệnh, chữa bệnh; Nghị định số 86/2011/NĐ-CP
ngày 21/10/2011 quy định xử phạt vị phạm hành chính trong khám bệnh, chữa
bệnh; Nghị định số 102/2011/NĐ-CP ngày 14/11/2011 quy định về bảo hiểm trách
nhiệm trong khám bệnh, chữa bệnh; Nghị định số 109/2016/NĐ-CP quy định hướng
dẫn một số điều của Luật khám bệnh, chữa bệnh thay thế Nghị định số
87/2011/NĐ-CP.
Thực hiện Luật khám bệnh, chữa bệnh và các Nghị định của Chính phủ, Bộ
Y tế đã ban hành hơn 40 thông tư hướng dẫn thuộc 6 nhóm lĩnh vực và vấn đề sau:
Một là, quy định điều kiện cấp GPHĐ đối với các cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh, theo đó:
+ Bệnh viện phải đáp ứng các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, đây là điều kiện
về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị y tế là những yếu tố quan trọng để đảm bảo chất
lượng khám bệnh, chữa bệnh.
+ Bệnh viện có đủ người hành nghề phù hợp với phạm vi hoạt động chuyên
89
môn và người phụ trách chuyên môn của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Đây là một
điểm mới mà trước đây Pháp lệnh hành nghề Y Dược tư nhân chỉ mới quy định cho
bệnh viện khu vực ngoài công lập.
Bộ Y tế đã tập trung chỉ đạo hoàn thiện việc cấp CCHN cho người hành
nghề, GPHĐ cho các cơ sở KCB theo quy định của Luật khám bệnh, chữa bệnh.
Hai là, quy định hoạt động chuyên môn trong khám bệnh, chữa bệnh: Luật
khám bệnh, chữa bệnh quy định về cấp cứu, chẩn đoán bệnh, chỉ định phương pháp
điều trị và kê đơn thuốc, hội chẩn, điều trị nội, ngoại trú, hồ sơ bệnh án, sử dụng
thuốc trong bệnh viện, thực hiện phẫu thuật ngoại khoa, kiểm soát nhiễm khuẩn, xử
lý chất thải trong y tế, giải quyết đơn đối với trường hợp không thừa nhận, người
bệnh tử vong, trực KCB, kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại. Những quy
định này làm cơ sở cho các bệnh viện triển khai thực hiện công tác khám bệnh, chữa
bệnh, nhằm đảm bảo chất lượng, hiệu quả điều trị, an toàn người bệnh.
Ba là, quy định áp dụng kỹ thuật mới, phương pháp mới trong khám bệnh,
chữa bệnh. Đây cũng là một điểm mới của Luật khám bệnh, chữa bệnh giúp cho các
bệnh viện có cơ sở căn cứ áp dụng các kỹ thuật, phương pháp mới trên thế giới giúp
người bệnh được hưởng thành quả của y học hiện đại. Đồng thời, yêu cầu các bệnh
viện hết sức thận trọng trong việc áp dụng kỹ thuật phương pháp mới nhưng chưa
được kiểm chứng ở Việt Nam, đảm bảo an toàn cho người bệnh.
Điều kiện áp dụng kỹ thuật, phương pháp mới trong khám bệnh, chữa bệnh
tại Việt Nam các bệnh viện phải “1. Có đủ điều kiện về nhân lực, cơ sở vật chất,
thiết bị để có thể áp dụng kỹ thuật, phương pháp mới. 2. Được Bộ trưởng Bộ Y tế
hoặc Giám đốc Sở Y tế cho phép áp dụng” [42].
Bốn là, quy định sai sót chuyên môn kỹ thuật trong khám bệnh, chữa bệnh là
một điểm mới tiến bộ, theo đó xác định người hành nghề có sai sót khi vi phạm
trách nhiệm trong chăm sóc và điều trị người bệnh; vi phạm các quy định chuyên
môn kỹ thuật và đạo đức nghề nghiệp; xâm phạm quyền của người bệnh hoặc
không có sai sót chuyên môn kỹ thuật, đã thực hiện đúng các quy định chuyên môn
kỹ thuật trong quá trình khám bệnh, chữa bệnh nhưng vẫn xảy ra tai biến đối với
người bệnh; trong trường hợp cấp cứu nhưng do thiếu phương tiện, thiết bị kỹ thuật,
90
thiếu người hành nghề theo quy định của pháp luật mà không thể khắc phục được
hoặc bệnh đó chưa có quy định chuyên môn để thực hiện dẫn đến xảy ra tai biến đối
với người bệnh; các trường hợp bất khả kháng khác dẫn đến xảy ra tai biến đối với
người bệnh. Điều đó giúp tránh sai sót không đáng có trong khám bệnh, chữa bệnh
đồng thời có cơ sở xử lý người hành nghề vi phạm nếu có, góp phần nâng cao chất
lượng điều trị, an toàn người bệnh, giảm chi phí rủi ro trong khám bệnh, chữa bệnh.
Năm là, quy định chứng nhận chất lượng đối với cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh. Quy định này không chỉ đảm bảo chất lượng đầu vào của dịch vụ khám bệnh,
chữa bệnh mà còn là động lực khuyến khích các bệnh viện không ngừng, liên tục
nâng cao chất lượng KCB của bệnh viện. Đây là điểm mới trong công tác quản lý
hoạt động KCB của các bệnh viện vừa đảm bảo chất lượng KCB đáp ứng nhu cầu
KCB ngày càng cao của nhân dân vừa hướng tới hội nhập khu vực và thế giới.
Sáu là, quy định các tổ chức chứng nhận chất lượng đối với cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh, nhằm bảo đảm tính độc lập, công khai trong việc đánh giá chất
lượng khám bệnh, chữa bệnh của bệnh viện và phát huy các nguồn lực xã hội hóa
và hội nhập quốc tế.
Cùng với việc ban hành các văn bản QPPL thi hành Luật Khám bệnh, chữa
bệnh, Bộ Y tế còn ban hành nhiều quy định hướng dẫn chuyên môn kỹ thuật, hướng
dẫn chẩn đoán và điều trị, quy trình chuyên môn kỹ thuật trong khám bệnh, chữa
bệnh, về an toàn bức xạ, an toàn truyền máu, vv. Hàng trăm hướng dẫn và quy trình
kỹ thuật thuộc 28 chuyên ngành, chuyên khoa đã ban hành như: "Hướng dẫn quy
trình kỹ thuật Nội khoa, chuyên ngành Tiêu hóa”; “Hướng dẫn quy trình kỹ thuật
Nội khoa, chuyên ngành Hô hấp"; "Hướng dẫn quy trình kỹ thuật chuyên ngành
Huyết học - Truyền máu - Miễn Dịch - Di truyền - Sinh học phân tử" vv.
Các văn bản QPPL và các quy trình kỹ thuật trên đã giúp các bệnh viện thực
hiện đầy đủ, thống nhất, hiệu quả, nâng cao chất lượng hoạt động KCB tại bệnh
viện [18].
Song song với việc xây dựng ban hành các văn bản QPPL hướng dẫn thi hành
Luật khám bệnh, chữa bệnh và quy chế chuyên môn, Bộ Y tế có những chỉ đạo điều
hành giải quyết các vấn đề cấp bách, phát sinh như:
91
Ban hành các chỉ thị:
+ Chỉ thị số 05/CT-BYT ngày 10 tháng 9 năm 2012 về việc tăng cường thực
hiện các giải pháp nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh sau khi điều chỉnh
giá dịch vụ y tế.
+ Chỉ thị số 03/CT-BYT ngày 01/4/2013 về việc tăng cường các giải pháp
thực hiện tốt Quy tắc ứng xử, nâng cao đạo đức nghề nghiệp, học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
+ Chỉ thị số 09/CT-BYT Ngày 22/11/2013 về việc tăng cường tiếp nhận và
xử lý ý kiến phản ánh của người dân về chất lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh
thông qua đường dây nóng.
- Ban hành Quyết định số 1313/QĐ-BYT ngày 22/4/2013, hướng dẫn quy
trình khám bệnh tại bệnh viện. Với mục đích nhằm: Thống nhất quy trình khám
bệnh của các bệnh viện; hướng dẫn các bệnh viện thực hiện các giải pháp cải tiến
quy trình và thủ tục trong khám bệnh, rút ngắn thời gian chờ, tránh gây phiền hà và
tăng sự hài lòng của người bệnh, đặc biệt đối với người bệnh BHYT khi đến khám
tại bệnh viện; giúp người bệnh biết rõ quy trình khám bệnh để cùng phối hợp với
bệnh viện trong quá trình khám bệnh.
- Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong khám bệnh, chữa bệnh là
một bước cải cách hành chính mạnh mẽ thông qua phần mềm quản lý trực tuyến số
liệu kiểm tra đánh giá chất lượng bệnh viện; số liệu chuyên môn, tài chính, nhân sự;
trang thiết bị, dược, danh mục kỹ thuật, bảng giá dịch vụ; đăng ký ca bệnh truyền
nhiễm và báo cáo tình hình bệnh truyền nhiễm nhập viện; quản lý xử lý thông tin
đường dây nóng KCB; báo cáo cấp cứu, tai nạn, ngộ độc trong các dịp lễ, Tết. Hiện
nay đã có 863 (72,5%) bệnh viện ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý bệnh
viện.
Những hạn chế, bất cập
- Hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành Luật khám bệnh, chữa bệnh chưa
được hoàn thiện. Một số văn bản QPPL hướng dẫn thi hành Luật khám bệnh, chữa
92
bệnh ban hành chậm, chưa kịp thời.
- Tính khả thi trong một số nội dung của Luật khám bệnh, chữa bệnh và văn
bản hướng dẫn thi hành Luật chưa cao.
- Tính thống nhất của Luật và văn bản hướng dẫn với hệ thống văn bản Luật
khác chưa cao, chưa phù hợp với thực tiễn.
- Tính phù hợp không cao như: Quy định cấp CCHN và GPHĐ một lần là
không phù hợp với xu hướng hội nhập ASEAN và quốc tế; quy định ràng buộc
CCHN phải thực hiện 2 năm đào tạo cập nhật kiến thức y khoa liên tục nhưng việc
này khó theo dõi, quản lý và không có cơ chế rõ ràng để phát hiện đình chỉ hành
nghề. Nhóm đối tượng được cấp CCHN chưa bao phủ những chức danh thực tế
người hành nghề đang hoạt động KCB như cử nhân sinh học, hoá học, tâm lý liệu
pháp, thể dục liệu pháp; kỹ sư y học hạt nhân, công nghệ sinh học; xác định thời
gian thực hành đối với bác sỹ 18 tháng, y sỹ 12 tháng, các chức danh còn lại 9
tháng. Như vậy thời gian thực hành để được cấp CCHN đối với y sỹ dài hơn thời
gian tập sự theo quy định tại Luật viên chức quy định là 9 tháng; Luật chưa quy
định cụ thể về phạm vi hoạt động chuyên môn và thay đổi bổ sung hoạt động
chuyên môn đối với người hành nghề; quy định lý lịch tư pháp áp dụng đối với cán
bộ, viên chức đang làm việc tại các cơ sở công lập là không cần thiết gây phiền hà,
tốn kém cho người hành nghề.
Luật khám bệnh, chữa bệnh quy định cấp GPHĐ một lần, nhưng khi cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh xuống cấp, nhân lực thay đổi cơ quan quản lý không nắm
được để yêu cầu cơ sở phải nâng cấp hoặc bổ sung nhân lực, trang thiết bị bảo đảm
chất lượng dịch vụ. Hiện nay, khu vực nhà nước thành lập nhiều cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh không có trong loại hình quy định của Luật khám bệnh, chữa bệnh. Ví dụ
như trung tâm, viện có chức năng khám bệnh, chữa bệnh do đó cần quy định thống
nhất các hình thức tổ chức của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
Quy định về áp dụng kỹ thuật mới và phương pháp mới là quy định bắt buộc
đối với các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nhằm nâng cao chất lượng khám bệnh,
chữa bệnh và an toàn tính mạng cho người bệnh, nhưng quy định nhiều thủ tục
3.2.1.3. Tổ chức bộ máy quản lý chất lượng khám chữa bệnh
93
phiền hà, phức tạp và quá cao so với thực tế, vì thế khó khả thi.
Những kết quả đạt được
Cùng với việc ban hành chính sách pháp luật, tổ chức bộ máy QLNN về y tế
nói chung và KCB nói riêng được hình thành và thường xuyên được kiện toàn phù
hợp với chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm tình hình cụ thể từng giai đoạn phát triển
của đất nước. Các tổ chức bao gồm các cơ quan Nhà nước: Quốc hội, Chính phủ,
Bộ Y tế và các Bộ ngành liên quan, Ủy ban nhân dân các tỉnh thành phố trực thuộc
Trung ương.
Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, thực hiện quyền lập hiến lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của
đất nước và giám sát tối cao với hoạt động của Nhà nước. Quốc hội quyết định
thành lập Chính phủ và quy định tổ chức hoạt động của Chính phủ, chính quyền địa
phương, quyết định mục tiêu, chi tiêu ngân sách nhiệm vụ cơ bản phát triển KTXH
của đất nước; ban hành và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước trong
việc xây dựng các Luật trong đó có Luật khám bệnh, chữa bệnh và các Luật liên
quan.
Chính phủ là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của
Quốc hội, chịu trách nhiệm quản lý mọi hoạt động của đời sống KTXH của đất
nước, trong đó có nội dung QLNN về y tế. Chính phủ thống nhất QLNN về y tế và
phát triển sự nghiệp y tế. Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ. Chính phủ
hướng dẫn thi hành các Luật trong đó có Luật Khám bệnh, chữa bệnh và ban hành
các quy định QLNN về y tế và quy hoạch ngành y tế [45].
Luật Khám bệnh, chữa bệnh quy định trách nhiệm QLNN về khám bệnh, chữa
bệnh, theo đó:
- Chính phủ thống nhất QLNN về khám bệnh, chữa bệnh
- Bộ Y tế chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện QLNN về khám bệnh,
94
chữa bệnh và có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
+ Xây dựng và ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan có thẩm quyền
ban hành văn bản QPPL, quy chuẩn kỹ thuật về khám bệnh, chữa bệnh, chiến lược
phát triển, quy hoạch hệ thống cơ sở khám bệnh, chữa bệnh;
+ Chỉ đạo hướng dẫn, tuyên truyền và tổ chức triển khai thực hiện văn bản
QPPL về khám bệnh, chữa bệnh, chiến lược phát triển, quy hoạch hệ thống cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh;
+ Quản lý thống nhất việc cấp, cấp lại, thu hồi CCHN và GPHĐ;
+ Xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu quốc gia về người hành nghề và cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh;
+ Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật
về khám bệnh, chữa bệnh;
+ Tổ chức đào tạo, đào tạo liên tục, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực;
hướng dẫn việc luân phiên người hành nghề; nghiên cứu, ứng dụng khoa học và
công nghệ trong khám bệnh, chữa bệnh;
+ Thực hiện hợp tác quốc tế về khám bệnh, chữa bệnh; thừa nhận CCHN giữa
các nước; hướng dẫn khám bệnh, chữa bệnh nhân đạo; hợp tác chuyên gia, chuyển
giao kỹ thuật và phương pháp chữa bệnh mới.
- Bộ Quốc phòng trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình tổ chức thực
hiện và hướng dẫn việc khám bệnh, chữa bệnh tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
thuộc thẩm quyền quản lý theo quy định của Luật này và phù hợp với điều kiện thực
tế của quân đội.
- Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
trách nhiệm phối hợp với Bộ Y tế thực hiện QLNN về khám bệnh, chữa bệnh.
- Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình thực hiện QLNN về khám bệnh, chữa bệnh trong phạm vi
95
địa phương.” [42].
- Nghị định số 75/2017/NĐ-CP ngày 20/6/2017 của Chính phủ quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Y tế: quy định nhiệm vụ về
khám bệnh, chữa bệnh:
+ Xây dựng, ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật, các quy định chuyên môn, các tiêu chuẩn
quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, các định mức kinh tế - kỹ thuật về lĩnh vực
khám bệnh, chữa bệnh;
+ Thẩm định và cho phép các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh áp dụng các kỹ
thuật mới, phương pháp mới lần đầu tiên được áp dụng tại Việt Nam theo quy định
của pháp luật;
+ Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành có liên quan quản lý nhà nước về giá
dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh theo quy định của pháp luật;
+ Quản lý thống nhất việc cấp, cấp lại, thu hồi chứng chỉ hành nghề và giấy
phép hoạt động trong lĩnh vực khám bệnh, chữa bệnh; tổ chức thực hiện việc cấp,
cấp lại, thu hồi chứng chỉ hành nghề khám bệnh, chữa bệnh đối với người làm việc
tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thuộc Bộ Y tế, người làm việc tại cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh thuộc các Bộ khác (trừ Bộ Quốc phòng), người nước ngoài đến hành
nghề khám bệnh, chữa bệnh tại Việt Nam; cấp, cấp lại, điều chỉnh và thu hồi giấy
phép hoạt động đối với các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trực thuộc Bộ Y tế, bệnh
viện tư nhân hoặc bệnh viện thuộc các Bộ khác (trừ Bộ Quốc phòng) theo quy định
của pháp luật;
+ Cấp giấy xác nhận nội dung hồ sơ quảng cáo hoạt động khám bệnh, chữa
bệnh thuộc thẩm quyền theo quy định của pháp luật;
+ Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện các văn bản
QPPL, quy định chuyên môn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về lĩnh vực khám bệnh,
chữa bệnh, phục hồi chức năng, phẫu thuật thẩm mỹ, giám định y khoa, giám định
96
pháp y, giám định pháp y tâm thần”.
- Về cơ cấu tổ chức của Bộ Y tế gồm có 23 đơn vị thuộc Bộ, trong đó có Cục
Quản lý Khám, chữa bệnh là cục quản lý chuyên ngành, thuộc Bộ Y tế, thực hiện
chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Y tế QLNN và tổ chức thực hiện các quy
định của pháp luật về công tác khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng, giám
định y khoa, giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần trong cả nước. Cục Quản
lý Khám, chữa bệnh có 5 phòng và Văn phòng Cục.
Về thực hiện QLNN về chất lượng KCB tại địa phương: theo Luật Tổ chức
chính quyền địa phương, Ủy ban nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương
xây dựng và trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định quy hoạch, kế hoạch
chương trình, dự án chính sách phát triển sự nghiệp y tế trên địa bàn; chỉ đạo,
hướng dẫn và kiểm tra việc tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch, chương trình dự
án, chính sách phát triển y tế sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Tổ chức
kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật trên địa bàn. Ban hành chính
sách của địa phương để phát triển y tế trên địa bàn [46].
Theo Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 14/4/2014 của Chính phủ, Sở Y tế
là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương có trách
nhiệm tham mưu giúp UBND cấp tỉnh thực hiện chức năng QLNN về y tế trên địa
bàn. Sở Y tế có các phòng chức năng tham mưu giúp Sở thực hiện công tác QLNN
trên địa bàn [17].
Như vậy, tổ chức bộ máy cơ quan QLNN được thiết kế đồng bộ từ Trung
ương đến địa phương.
Thông tư số 19/2013/TT-BYT ngày 12/7/2013 của Bộ trưởng Bộ Y tế hướng
dẫn thực hiện QLCL dịch vụ KCB tại bệnh viện quy định: Hệ thống QLCL trong
bệnh viện gồm: Hội đồng QLCL bệnh viện do giám đốc bệnh viện làm chủ tịch và
phó giám đốc phụ trách chuyên môn làm phó chủ tịch; phòng/tổ QLCL; nhân viên
chuyên trách về QLCL; mạng lưới QLCL phù hợp với quy mô của bệnh viện.
Bệnh viện hạng đặc biệt và bệnh viện đa khoa hạng I thành lập phòng QLCL;
các bệnh viện khác tùy theo quy mô, điều kiện và nhu cầu của từng bệnh viện để
quyết định thành lập phòng hoặc tổ QLCL. Phòng/tổ QLCL phối hợp chặt chẽ với
97
các khoa, phòng chức năng để thực hiện nhiệm vụ QLCL bệnh viện.
Mạng lưới QLCL bệnh viện được thiết lập từ cấp bệnh viện đến các khoa,
phòng, đơn vị trong bệnh viện, do phòng/tổ QLCL làm đầu mối điều phối các hoạt
động.
Thông tư số 19/2013/TT-BYT được ban hành là một giải pháp về mặt chính
sách hết sức quan trọng để nâng cao chất lượng KCB của bệnh viện. Lần đầu tiên,
các bệnh viện tại Việt Nam đã có đơn vị chuyên trách về QLCL. [9]
Tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, bệnh viện có trách nhiệm hình thành và
trình cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt tổ chức bộ máy quản lý để triển
khai thực hiện chức năng quản lý chất lượng KCB.
Hạn chế, tồn tại
Tổ chức bộ máy cơ quan QLNN về y tế ở Trung ương và ở địa phương có sự
thay đổi theo nhiệm kỳ, có thể tạo nên sự xáo trộn và thiếu tính ổn định.
Sự phối hợp giữa cơ quan QLNN ở Trung ương là Bộ Y tế và UBND tỉnh,
thành phố ở địa phương còn chưa chặt chẽ và sự phối hợp giữa các tổ chức thuộc
Bộ Y tế và các Sở Y tế còn chưa chặt chẽ, đồng bộ, thống nhất.
Phòng/bộ phận QLCL tại các bệnh viện mới được hình thành, cơ chế phối
hợp với các khoa phòng trong bệnh viện chưa cụ thể, hoạt động còn có tình trạng
3.2.1.4. Đội ngũ công chức quản lý nhà nước và viên chức quản lý chất
lượng khám chữa bệnh tại bệnh viện
chồng chéo.
Kết quả đạt được
Đội ngũ QLNN về chất lượng KCB ở Trung ương là công chức thuộc Văn
phòng, Thanh tra và các các Vụ, Cục thuộc Bộ Y tế, tập trung đầu mối thực hiện
nhiệm vụ QLNN là Cục Quản lý Khám, chữa bệnh: Theo báo cáo số lượng, chất
lượng công chức năm 2017, Cục Quản lý Khám, chữa bệnh có tổng số 42 biên chế
công chức trong đó có 06 biên chế trực tiếp làm công tác quản lý chất lượng KCB.
Phân loại theo ngạch công chức: có 04 chuyên viên cao cấp và tương đương, 11
chuyên viên chính và tương đương, 27 chuyên viên và tương đương; Phân loại theo
98
trình độ chuyên môn: có 04 tiến sĩ và tương đương, 26 thạc sĩ, 09 đại học. Công
chức của Cục Quản lý Khám, chữa bệnh có trình độ đào tạo cơ bản tương đối đồng
đều, hầu hết có trình độ đào tạo sau đại học, được tập huấn đào tạo ở trong nước và
nước ngoài về quản lý chất lượng KCB của bệnh viện [22].
Đội ngũ QLNN ở các Sở Y tế tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương và y tế
Bộ Ngành là công chức thuộc Phòng Nghiệp vụ Y thuộc Sở Y tế, các công chức
QLCL thường kiêm nhiệm, được tham dự các lớp tập huấn cơ bản về QLCL bệnh
viện.
Đội ngũ công chức QLNN ở Trung ương và địa phương được tuyển dụng, bố
trí sử dụng theo quy định của Luật Công chức.
Đội ngũ quản lý chất lượng KCB tại các bệnh viện là viên chức thuộc Phòng
QLCL hoặc tổ QLCL hoặc cán bộ thuộc Phòng Kế hoạch Tổng hợp được giao kiêm
nhiệm thực hiện nhiệm vụ quản lý chất lượng KCB của bệnh viện, đội ngũ này
được tập huấn đào tạo về QLCL bệnh viện.
Thực hiện Luật Viên chức, Bộ Y tế đã phối hợp với Bộ Nội vụ xây dựng tiêu
chuẩn, mã số chức danh nghề nghiệp của bác sỹ, y sỹ, điều dưỡng, kỹ thuật viên y
làm cơ sở để tuyển dụng, bổ nhiệm chức danh nghề nghiệp và đánh giá viên chức
trong ngành y tế.
Hạn chế, tồn tại
Số lượng và chất lượng công chức QLNN về KCB còn hạn chế chưa đáp ứng
được yêu cầu nhiệm vụ QLCL; trình độ không đồng đều, chưa được đào tạo đầy đủ
về quản lý chất lượng KCB; công chức được giao nhiệm vụ chuyên trách số lượng
ít, chủ yếu là công chức kiêm nhiệm.
Viên chức trực tiếp làm công tác QLCL tại bệnh viện chủ yếu là kiêm nhiệm,
3.2.1.5. Hỗ trợ, thu hút và huy động nguồn lực cho quản lý chất lượng
khám, chữa bệnh
ít được đào tạo bồi dưỡng về kiến thức, kỹ năng QLCL.
99
Những kết quả đạt được
Nguồn lực dành cho hoạt động quản lý chất lượng KCB nằm trong kế hoạch
ngân sách được Chính phủ giao hàng năm. Thực hiện các chính sách, chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch, Chính phủ đã phê duyệt nhiều dự án đầu tư nâng cấp cải tạo
các bệnh viện Việt Nam thông qua huy động trái phiếu Chính phủ như Quyết định
số 225/QĐ-TTg, Quyết định số 47/QĐ-TTg đầu tư nâng cấp bệnh viện tuyến huyện;
Quyết định số 930/QĐ-TTg đầu tư nâng cấp các bệnh viện sản, nhi, lao, phong, tâm
thần và bệnh viện đa khoa các tỉnh miền núi vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
Trong điều kiện KTXH còn khó khăn, các nguồn lực đầu tư từ nguồn NSNN
còn hạn chế, Chính phủ đã có nhiều chính sách hỗ trợ và huy động nguồn lực trong
và ngoài nước, kêu gọi hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, các đối tác phát triển giúp đỡ
Việt Nam thực hiện các chiến lược, chính sách, pháp Luật đặc biệt là xây dựng và
thi hành Luật khám bệnh, chữa bệnh. Một số Dự án hỗ trợ nâng cao chất lượng
KCB các bệnh viện tỉnh vùng do JICA hỗ trợ; Dự án hỗ trợ quản lý việc cấp CCHN
và GPHĐ do Ngân hàng thế giới; Dự án hỗ trợ nâng cao năng lực QLCL bệnh viện
do EU; Dự án phát triển năng lực KCB do Jica hỗ trợ vv. Sự hỗ trợ quan trọng của
các đối tác y tế, các chính phủ đã giúp Việt Nam triển khai được nhiều hoạt động
đảm bảo, cải tiến duy trì chất lượng KCB, góp phần cải thiện chất lượng y tế nói
chung và KCB nói riêng.
Bên cạnh đó, Chính phủ có các Nghị quyết về chủ trương xã hội hóa y tế
nhằm huy động các nguồn lực từ doanh nghiệp và người dân. Nghị định số
59/2014/NĐ-CP của Chính phủ: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
69/2008/NĐ-CP ngày 30 tháng 5 năm 2008 của Chính phủ về chính sách khuyến
khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn
hóa, thể thao, môi trường và hợp tác công tư trong lĩnh vực y tế vv.
Chính phủ đã chỉ đạo triển khai thực hiện đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài
chính đối với đơn vị sự nghiệp công như thực hiện Nghị định số 43/2004/NĐ-CP,
Nghị định số 16/NĐ-CP Nghị định số 85/2012/NĐ-CP của Chính phủ về cơ chế
hoạt động, cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công lập và giá dịch vụ
100
khám bệnh, chữa bệnh của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh công lập,
Ngoài ra, để khuyến khích tăng cường công tác quản lý chất lượng KCB của
bệnh viện, Bộ Y tế đã quy định trong việc xem xét thi đua khen thưởng đối với các
bệnh viện hàng năm. Theo đó bệnh viện đạt điểm chất lượng trung bình từ 3.0/5.0
trở lên sẽ được xem xét để đánh giá thi đua khen thưởng.
Hạn chế, tồn tại
Kinh phí từ nguồn ngân sách nhà nước cấp hàng năm chưa đáp ứng nhu cầu
đầu tư, nâng cấp các bệnh viện, còn dản trải và thiếu ổn định.
Kinh phí từ ngân sách nhà nước cấp hàng năm nhưng phê duyệt còn chậm, thủ
tục phiền hà và còn cơ chế xin cho.
Công tác quản lý tài chính như giải ngân, thanh quyết toán còn chậm. Một số
3.2.1.6. Về thanh tra, kiểm tra giám sát chất lượng bệnh viện
công trình đội vốn và chậm tiến độ, chậm đưa vào sử dụng.
Những kết quả đạt được
Công tác thanh tra được Lãnh đạo Bộ Y tế, Sở Y tế các tỉnh, thành phố quan
tâm, coi trọng. Hàng năm, Bộ Y tế, Sở Y tế đều xây dựng kế hoạch thanh tra công
tác khám bệnh, chữa bệnh từ Trung ương đến địa phương (thanh tra theo kế hoạch).
Ngoài ra, còn tổ chức thực hiện thanh tra đột xuất. Cục Quản lý Khám, chữa bệnh
cũng tăng cường tổ chức thanh tra chuyên ngành thông qua đó để kịp thời chấn
chỉnh vi phạm của các bệnh viện trong hoạt động KCB.
Đặc biệt công tác kiểm tra đánh giá chất lượng bệnh viện trong khoảng 10
năm trở lại đây được quan tâm hơn và bắt đầu đi vào thường quy hàng năm: Từ năm
2012 trở về trước, công tác kiểm tra đánh giá chất lượng bệnh viện thông qua Bộ
công cụ là “Bảng kiểm tra đánh giá chất lượng bệnh viện”. Bộ công cụ có 100 tiêu
chí, đánh giá phân loại bệnh viện làm 4 mức: bệnh viện đạt 90-100 điểm - bệnh viện
xuất sắc toàn diện; 75-90 điểm - bệnh viện xuất sắc; 50- 75 điểm - bệnh viện trung
bình; dưới 50 điểm - bệnh viện yếu kém. Theo cách đánh giá này hàng năm có
khoảng 35-40 % bệnh viện đạt xuất sắc toàn diện nhưng thực tế chất lượng KCB rất
hạn chế, thậm chí còn có vi phạm các quy định, quy chế chuyên môn; không đánh
101
giá đúng chất lượng bệnh viện, không khuyến khích được bệnh viện làm tốt [3].
Để khắc phục tình trạng nêu trên, năm 2013, Bộ Y tế xây dựng và ban hành
Quyết định số 4858/QĐ-BYT về Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện Việt
Nam. Bộ Tiêu chí có 5 phần với 83 tiêu chí, trên 1500 tiểu mục bao gồm: Nhóm
tiêu chí về hướng tới sự hài lòng của người bệnh; nhóm tiêu chí về chất lượng đội
ngũ cán bộ; nhóm tiêu chí về chuyên môn kỹ thuật; nhóm tiêu chí về cải tiến chất
lượng. Đối với bệnh viện chuyên khoa bổ sung thêm một nhóm tiêu chí đặc thù
chuyên khoa. Bộ công cụ có các chỉ số đánh giá một cách toàn diện, từ chỉ dẫn,
hướng dẫn, đón tiếp, quy trình khám bệnh, cơ sở vật chất phục vụ người bệnh đến
chất lượng chuyên môn, chất lượng chăm sóc người bệnh, việc tổ chức QLCL bệnh
viện, yêu cầu bệnh viện cần cải cách hàng loạt các thủ tục hành chính như xếp hàng,
thủ tục, quy trình khám bệnh, chữa bệnh.
Bộ tiêu chí được áp dụng thí điểm 3 năm từ 2013-2015. Trong quá trình thực
hiện thí điểm, hầu hết các bệnh viện và các Sở Y tế, Y tế các Bộ, ngành đã thực
hiện áp dụng Bộ tiêu chí để đánh giá thực trạng chất lượng, phân tích điểm mạnh,
yếu để cải tiến chất lượng. Sau 3 năm triển khai thí điểm, Bộ Y tế đã tổ chức đánh
giá việc thực hiện thí điểm [10].
Kết quả thực hiện theo báo cáo của 25/63 Sở Y tế tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương, 17/38 bệnh viện Trung ương trực thuộc Bộ Y tế và 291/1.300 bệnh viện
thuộc Sở Y tế và kết quả khảo sát, đánh giá của Bộ Y tế tại 03 tỉnh: Điện Biên, Thừa
Thiên Huế, Thành phố Hồ Chí Minh về xây dựng và triển khai thực hiện đánh giá
chất lượng bệnh viện theo bộ tiêu chí chất lượng gồm 83 tiêu chí cho thấy [14]:
Thứ nhất, công tác hướng dẫn, tuyên truyền, phổ biến Bộ tiêu chí:
Bộ Y tế đã ban hành quyết định về nội dung kiểm tra đánh giá chất lượng
bệnh viện và thành lập các đoàn kiểm tra đánh giá chất lượng bệnh viện. Cục Quản
lý Khám, chữa bệnh ban hành nhiều công văn chỉ đạo, hướng dẫn các Sở Y tế, y tế
ngành, bệnh viện thực hiện kiểm tra đánh giá hàng năm; tổ chức tập huấn về Bộ
công cụ và phương pháp đánh giá cho đội ngũ đánh giá viên các Sở Y tế; xây dựng
các tài liệu về QLCL, an toàn người bệnh, quản lý bệnh viện. Một số bệnh viện đã
thiết lập hệ thống quản lý sự cố rủi ro của bệnh viện; xây dựng các quy định bảo
102
đảm an toàn người bệnh: Quy định phòng ngừa người bệnh bị ngã; an toàn phẫu
thuật, thủ thuật; thực hiện báo cáo sự cố y khoa; an toàn trong sử dụng trang thiết bị
y tế; xử lý chất thải tại bệnh viện. Việc ban hành văn bản chỉ đạo triển khai thực
hiện Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện bước đầu được Sở Y tế và các bệnh
viện quan tâm, triển khai thực hiện.
Cục Quản lý Khám, chữa bệnh đã giới thiệu, phổ biến Bộ tiêu chí đánh giá
chất lượng bệnh viện trên các phương tiện thông tin đại chúng và đăng tải nội dung
Quyết định số 4858/QĐ-BYT ngày 03 tháng 12 năm 2013 của Bộ trưởng Bộ Y tế
về việc ban hành “Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện” trên website kcb.vn
của cục, đồng thời tổ chức 20 lớp tập huấn về QLCL bệnh viện cho cán bộ thuộc 15
tỉnh với hơn 2.500 người tham gia. Tổ chức các hội nghị hướng dẫn, sơ kết, tổng kết
công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng bệnh viện năm 2013, 2014 và năm 2015. Tổ
chức 02 Hội nghị triển khai hướng dẫn thực hiện Bộ tiêu chí cho một số Cục, Vụ có
liên quan thuộc Bộ Y tế, 63 Sở Y tế, các bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế, các bệnh
viện đa khoa tỉnh, bệnh viện y dược cổ truyền, các bệnh viện hạng I và một số bệnh
viện tư nhân; có 64% cán bộ, nhân viên của 16/25 Sở Y tế được đào tạo, tập huấn kĩ
năng kiểm tra, đánh giá chất lượng bệnh viện; 88% cán bộ của 15/17 bệnh viện
trung ương được đào tạo, tập huấn kỹ năng về kiểm tra, đánh giá chất lượng bệnh
viện.
Thứ hai, về bảo đảm các điều kiện để áp dụng Bộ tiêu chí đánh giá chất
lượng bệnh viện: Về tổ chức, bộ máy và nhân lực, Bộ Y tế đã thành lập Phòng
QLCL thuộc Cục Quản lý Khám, chữa bệnh; ở địa phương, có 23/25 Sở Y tế có
phân công phòng ban làm đầu mối và phối hợp trong kiểm tra, đánh giá chất lượng
bệnh viện; phân công lãnh đạo Sở phụ trách công tác QLCL bệnh viện. 17/17 bệnh
viện trực thuộc trung ương có thành lập hội đồng, tổ, mạng lưới hoặc nhân viên
chuyên trách về QLCL. 132/291 bệnh viện thuộc tỉnh thành lập hội đồng, phòng, tổ,
mạng lưới QLCL bệnh viện. Năm 2014, cả nước có 2,97% bệnh viện thành lập
phòng QLCL, 43,6% bệnh viện thành lập tổ QLCL. Năm 2015, có 15,19% bệnh
viện thành lập phòng QLCL và 91,19% bệnh viện thành lập tổ QLCL.
Về kinh phí: ở Trung ương, kinh phí hằng năm cấp cho triển khai thực hiện
103
Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện chủ yếu cho các hoạt động đào tạo, tập
huấn, kiểm tra, đánh giá chất lượng bệnh viện. Ở địa phương, kinh phí cấp hàng
năm cho việc triển khai thực hiện Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện vẫn ở
mức thấp, chủ yếu cho công tác đào tạo, tập huấn và chi mua sắm trang thiết bị
thông thường cho việc triển khai thực hiện đánh giá chất lượng bệnh viện như máy
vi tính, máy in, máy photocopy, điện thoại.
Thứ ba, công tác tổ chức, kiểm tra, đánh giá chất lượng bệnh viện bằng bộ
công cụ 83 tiêu chí:
Kết quả đánh giá có sự chênh lệch giữa tự đánh giá của bệnh viện và phúc tra
của Bộ Y tế, Sở Y tế, tuy nhiên khác biệt không lớn và có xu hướng giảm. Năm
2013, các bệnh viện tự đánh giá điểm trung bình đạt: 2,5 điểm, Bộ Y tế đánh giá
điểm trung bình đạt: 2,45 điểm. Năm 2014, các bệnh viện tự đánh giá điểm trung
bình đạt: 2,8 điểm, Bộ Y tế đánh giá điểm trung bình đạt: 2,4 điểm. Năm 2015, các
bệnh viện tự đánh giá điểm trung bình đạt: 3,03 điểm, Bộ Y tế đánh giá điểm trung
bình đạt: 2,7 điểm.
Bảng 3.7: Kết quả điểm đánh giá chất lượng trung bình của một số bệnh viện
TT Bệnh viện Điểm TB
1 4,8 Bệnh viện Vinmec (bệnh viện tư nhân)
2 4,3 Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương
3 4,1 Bệnh viện Phụ sản Nhi Đà Nẵng
4 4,0 Bệnh viện Quận Thủ Đức TP. HCM
5 3,5 Bệnh viện Mắt Trung ương
6 3,5 Bệnh viện Nhi Trung ương
7 2,7 Bệnh viện Tâm thần Trung ương 2
Nguồn: Kết quả khảo sát của Bộ Y tế
Điểm chất lượng chưa đồng đều giữa các tuyến trong hệ thống KCB. Một số
bệnh viện tuyến trung ương có điểm số chất lượng thấp hơn bệnh viện thành phố,
104
thậm chí thấp hơn bệnh viện tuyến quận/huyện; các bệnh viện tư nhân cao hơn bệnh
số bệnh viện điển hình được minh họa tại Bảng 3.7.
viện trung ương. Ví dụ về kết quả điểm đánh giá chất lượng trung bình của một
Tác động của Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện tới chất lượng KCB:
Bảng 3.8: Tác động của Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện
Số Tỷ lệ STT Tác động lượng %
1 Thành lập hội đồng/phòng/tổ/mạng lưới QLCL bệnh viện 134/291 46,0
2 Nâng cao chất lượng KCB 92/291 31,6
63/291 21,6 3
Xác định được ưu, nhược điểm, thực trạng của bệnh viện; xác định được mục tiêu; xây dựng kế hoạch cải tiến chất lượng bệnh viện vv Nâng cao năng lực chuyên môn, quy trình kỹ thuật, giảm 55/291 18,9 4 sai sót trong điều trị vv
Cải thiện cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng, trang thiết bị phục 53/291 18,2 5 vụ người bệnh, cảnh quan môi trường bệnh viện….
Người bệnh được chỉ dẫn đón tiếp cụ thể, hướng đến 49/291 16,8 6 người bệnh nhiều hơn, đảm bảo quyền người bệnh
Thu hút được người bệnh đến cơ sở KCB; tạo sự hài 37/291 12,7 7 lòng, tin tưởng đội ngũ y, bác sĩ
25/291 8,6 8 Cải thiện thái độ của nhân viên y tế
Giảm thời gian chờ đợi của người bệnh và thời gian làm 23/291 7,9 9 việc của đội ngũ y, bác sĩ
Nhận thức của lãnh đạo và cán bộ y tế về cải tiến chất 14/219 4,8 10 lượng bệnh viện
10/291 3,4 11 Cải thiện về nhân lực bệnh viện
Nguồn: Kết quả khảo sát của Bộ Y tế
105
Hạn chế, tồn tại
- Mặc dù công tác thanh kiểm tra đã đi vào thường quy, nề nếp, tuy nhiên, số
đoàn thanh tra hàng năm còn ít, chủ yếu là thanh tra quản lý chất lượng KCB phối
hợp trong thanh tra chuyên ngành y tế; số lượng thanh tra đột xuất, các đoàn thanh
tra hoạt động KCB của bệnh viện công lập không nhiều, do lực lượng thanh tra
mỏng, trong khi số lượng bệnh viện quá lớn, năng lực đội ngũ thanh tra về chất
lượng KCB còn hạn chế, nguồn lực cho hoạt động thanh tra còn ít.
- Việc triển khai thí điểm kiểm tra đánh giá chất lượng bệnh viện theo Bộ
tiêu chí bên cạnh những mặt được còn bộc lộ hạn chế, khó khăn vướng mắc, đó là
có sự khác nhau về chất lượng của các bệnh viện công lập và tư nhân. Các bệnh
viện tuyến trung ương có điểm cao hơn đối với nội dung về nhân lực y tế, chất
lượng hoạt động chuyên môn, nhưng thấp hơn bệnh viện tư nhân về phần hướng
đến người bệnh.
- Lãnh đạo các Sở Y tế và các bệnh viện chưa quan tâm đến công tác triển
khai thực hiện Bộ tiêu chí. Công tác phổ biến, tập huấn việc kiểm tra, đánh giá chất
lượng bệnh viện hoặc ban hành kế hoạch cải tiến chất lượng bệnh viện chưa được
chú trọng. Ý thức tuân thủ kỷ luật hành chính chưa được chấp hành nghiêm, nhiều
bệnh viện không có báo cáo và sơ kết hàng năm theo quy định của Bộ Y tế.
- Phần lớn viên chức làm việc tại Phòng, bộ phận QLCL theo chế độ kiêm
nhiệm, ít bệnh viện có cán bộ chuyên trách.
- Hầu hết các bệnh viện chưa xây dựng quy trình xử lý sự cố, quy chế phối
hợp trong xử lý sự cố, xây dựng và thực hiện quy trình chuyên môn của bệnh viện.
- Tự đánh giá của bệnh viện chưa thực chất, chính xác; người đánh giá chưa
được đào tạo, tập huấn bài bản, chưa chuyên nghiêp.
- Bộ tiêu chí đang được thực hiện thí điểm để rút kinh nghiệm và hoàn
chỉnh, nên các bệnh viện chưa quan tâm đến việc triển khai áp dụng mạnh mẽ. Bệnh
viện thực hiện cải tiến về cơ sở vật chất, trang thiết bị và cơ sở hạ tầng đa phần là
những cải tiến nhỏ, cần ít kinh phí và ít thời gian.
Về nguyên nhân của những hạn chế, bất cập khi thí điểm Bộ tiêu chí đánh
106
giá chất lượng bệnh viện
Một là, do chủ quan từ các đơn vị thực thi như Lãnh đạo bệnh viện chưa
quan tâm, chưa xây dựng kế hoạch cụ thể để thực hiện hằng năm; kinh phí cho hoạt
động hạn chế, có nhiều bệnh viện chưa bố trí kinh phí cho hoạt động xây dựng kế
hoạch. Lực lượng kiểm tra còn mỏng cán bộ đánh giá chưa được tập huấn bài bản,
đánh giá còn theo chủ quan vv.
Hai là, do khách quan từ quy định của Bộ tiêu chí chưa phù hợp. Ví dụ Tiêu
chí A2.5 mức 5, câu 15 “có nhân viên phiên dịch cho người bệnh khiếm thính đến
khám”; Tiêu chí C4.6 mức 5, câu 14 “chất thải lỏng…tái sử dụng cho một số hoạt động
phù hợp”; B1.2 tiểu mục 5, có nhân viên y tế phải trực 24/24h với tần suất cao, dưới 4
ngày 1 lần; C8.1 “Có ít nhất một phòng/đơn vị xét nghiệm trong các lĩnh vực hóa sinh,
huyết học, vi sinh đạt tiêu chuẩn ISO 15189 hoặc tương đương”; C9.2 “Có hệ thống vận
chuyển thuốc tự động trong bệnh viện”
Ba là, một số tiêu chí khó cải tiến để nâng điểm:
Bảng 3.9: Một số tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện chưa phù hợp
STT Tiêu chí Số lượng Tỷ lệ Lý do
Thiếu kinh phí, 1 Dinh dưỡng tiết chế (C7) 61/219 21,00
2 Hoạt động chuyên môn (C) 114/291 39,10 không có bác sỹ Không rõ
Liên quan đến nhân lực, Đào tạo nhân lực 77/291 26,40 3
cần thời gian
4 49/291 16,80 Thiếu kinh phí
chế độ đãi ngộ (B) Cơ sở vật chất, trang thiết bị, đặc biệt là cơ sở vật chất người bệnh (A2)
5 Cải tiến chất lượng (D) 36/291 12,30 Không rõ
Tiêu chí đặc thù chuyên 6 31/291 10,60 Không rõ
khoa (E)
107
Nguồn: Kết quả khảo sát của Bộ Y tế
Ví dụ trong phần A, tiêu chí được nhiều bệnh viện phản ánh khó cải tiến nhất là
A2.5: Người khuyết tật được tiếp cận với các khoa, phòng, phương tiện và dịch vụ KCB
trong bệnh viện (11 bệnh viện); Trong phần C, Tiêu chí C7.1 (15 bệnh viện): bệnh viện
thiết lập hệ thống tổ chức để thực hiện công tác dinh dưỡng và tiết chế trong bệnh viện;
C7.5 (13 bệnh viện): Người bệnh được cung cấp chế độ dinh dưỡng, phù hợp với bệnh lý
trong thời gian nằm viện; C10.1 (8 bệnh viện): Tích cực triển khai hoạt động nghiên cứu
khoa học,…
Bốn là, việc thống kê để tính điểm của Bộ tiêu chí đòi hỏi người dùng phải
thành thạo Excel, công việc này không phải bệnh viện nào cũng làm được, đặc biệt
là các bệnh viện tuyến huyện, vùng sâu, vùng xa. Việc quản lý tiến độ thực hiện của
các bộ phận cần thời gian và công sức.
3.2.2. Thực trạng quản lý chất lượng khám chữa bệnh tại bệnh viện
Để đánh giá thực trạng quản lý chất lượng KCB tại bệnh viện, nghiên cứu
sinh và nhóm nghiên cứu thực hiện khảo sát điều tra tại 37 bệnh viện Trung ương
trực thuộc Bộ Y tế, thời gian nghiên cứu từ 01/2015 - 6/2016, (phụ lục 1); kết quả
3.2.2.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu
nghiên cứu cho thấy:
108
Biểu đồ 3.1. Phân loại bệnh viện theo phân hạng
- Có 31/37 bệnh viện hạng 1, chiếm tỷ lệ 83,8%.
- Có 4/37 bệnh viện hạng đặc biệt, chiếm tỷ lệ 10,8%.
- Có 2/37 bệnh viện hạng 2 chiếm tỷ lệ 5,4%.
Nhận xét:
Biểu đồ 3.2: Phân loại bệnh viện theo loại hình hoạt động
Nhận xét:
- Loại hình hoạt động bệnh viện chuyên khoa chiếm tỷ lệ 59,5%.
3.2.2.2. Hoạt động quản lý chất lượng tại bệnh viện
- Loại hình hoạt động bệnh viện đa khoa chiếm tỷ lệ 40,5%.
Thứ nhất, về xây dựng tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch quản lý chất
lượng KCB tại bệnh viện:
- 100% bệnh viện đã được cấp phép hoạt động theo Nghị định số
87/2011/NĐ-CP của Chính phủ, có áp dụng Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh
viện do Bộ Y tế ban hành; có kế hoạch, chương trình quản lý chất lượng KCB của
bệnh viện và sử dụng biện pháp an toàn trong sử dụng thuốc.
- 36/37 bệnh viện có các biện pháp đảm bảo an toàn trong “Thủ thuật” và có
“Phòng kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện”, chiếm tỷ lệ 97,3%.
- 32/37 bệnh viện có các biện pháp phòng ngừa người bệnh bị ngã, chiếm tỷ
109
lệ 86,4 %.
- 29/27 bệnh viện có biện pháp đảm bảo an toàn trong “Phòng ngừa nhầm
lẫn trong trao đổi thông tin”, chiếm tỷ lệ 78,4%.
100 100 100 100 97,3 97,3
56,7
51,4
21,6
Hội đồng thi đua KT Hội đồng KSNK Hội đồng thuốc và điều trị Hội đồng QLCLBV Hội đồng KHCN Hội đồng người bệnh Phòng QLCL Tổ QLCL Hội đồng khác Đơn vị QL nguy cơ
18,9
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
100
Thứ hai, về kiện toàn, thành lập đơn vị QLCL tại bệnh viện:
Biều đồ 3.3: Phân loại theo tổ chức, quản lý bệnh viện
Nhận xét:
- 100% bệnh viện có các hội đồng: Hội đồng QLCL bệnh viện; Hội đồng
thuốc và điều trị; Hội đồng kiểm soát nhiễm khuẩn; Hội đồng thi đua khen thưởng.
- 36/37 bệnh viện có hội đồng người bệnh chiếm tỷ lệ 97,3%.
- 6/37 bệnh viện có Hội đồng đạo đức, chiếm tỷ lệ 16,2%.
- 2/37 bệnh viện có Hội đồng điều dưỡng, chiếm tỷ lệ 5,4%.
- 7/37 bệnh viện có đơn vị quản lí nguy cơ, chiếm tỷ lệ 18,9%.
- 21/37 bệnh viện có phòng quản lí chất lượng, chiếm tỷ lệ 56,8.
- 19/37 bệnh viện có tổ quản lý chất lượng, chiếm tỷ lệ 51,4%.
Thứ ba, về đội ngũ viên chức trực tiếp làm công tác QLCL tại bệnh viện:
Nhận xét (Bảng 3.10):
Trong số 33/37 bệnh viện thống kê nhân lực quản lý chất lượng KCB:
- Số lượng cán bộ chuyên trách trung bình là 2,4 người, cao nhất là bệnh
viện Phụ sản TW với 6 người.
- Số lượng cán bộ kiêm nhiệm trung bình là 13,7 người, cao nhất là bệnh
110
viện C Đà Nẵng với 83 người.
- Tổng số cán bộ làm công tác QLCL bệnh viện trung bình là 16,1 người.
Bảng 3.10: Phân loại bệnh viện theo nhân lực quản lý chất lượng KCB (n=33)
Nội dung Trung bình Min Max
2,4 0 Số cán bộ chuyên trách
13,7 0 Số cán bộ kiêm nhiệm
16,1 3 Số cán bộ làm công tác QLCL bệnh viện 6 (Bệnh viện Phụ sản TW) 83 (Bệnh viện C Đà Nẵng) 83 (Bệnh viện C Đà Nẵng)
Biểu đồ 3.4: Đội ngũ viên chức làm công tác quản lý chất lượng
111
Biểu đồ 3.5: Nhân lực đào tạo về quản lý chất lượng
Tổng số cán bộ làm công tác QLCL tại 37 bệnh viện là 703 người, trong đó
chuyên trách là 74 người, chiểm 11% và kiêm nhiệm là 629 người, chiếm 89%. Số
người được đào tạo về QLCL với thời gian dưới 1 tuần 28 người; từ 1-4 tuần là 21
người; từ 1-3 tháng là 9 người; trên 3 tháng là 1 người.
Thứ tư, về đảm bảo an toàn người bệnh:
Bảng 3.11: Công tác triển khai các biện pháp đảm bảo an toàn người bệnh và nhân viên y tế
Các biện pháp đảm bảo an Số BV Các bệnh viện chưa triển khai toàn
An toàn thủ thuật Bệnh viện Tâm thần TW I 36
An toàn trong sử dụng thuốc 37
An toàn trong sử dụng trang Bệnh viện Đa khoa TW Cần Thơ, Bệnh 35 thiết bị y tế viện Nhi TW
Phòng kiểm soát nhiễm khuẩn Bệnh viện Tai mũi họng TW 36 bệnh viện
Phòng ngừa sai sót nhầm lẫn Bệnh viện ĐH Y HN, Bệnh viện E, Bệnh 29
trong trao đổi thông tin viện Chợ Rẫy, Bệnh viện Da Liễu TW,
Phòng ngừa người bệnh bị Bệnh viện E, Bệnh viện 74 TW, Bệnh
32 ngã viện Da liễu TW, Bệnh viện K, Bệnh viện
2,7%
97,3%
Có
Không
Nội tiết TW
112
Biểu đồ 3.6: Phân loại bệnh viện theo xây dựng quy trình xử lý sự cố
Nhận xét:
100% bệnh viện tham gia nghiên cứu có sử dụng biện pháp an toàn trong sử
dụng thuốc; 36/37 (97,3%) bệnh viện có các biện pháp đảm bảo an toàn thủ thuật,
phòng kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện và có quy trình xử lý sự cố; 29/27 (78%)
bệnh viện có biện pháp phòng ngừa sai sót nhẫm lẫn trong trao đổi thông tin; 36/37
(97,3%) bệnh viện xây dựng quy trình xử lý sự cố y khoa.
Thứ năm, về nghiên cứu áp dụng mô hình, phương pháp QLCL:
5,3%
10,5%
Hành chính
Lâm sàng
21,1%
Cận lâm sàng
Toàn bệnh viện
63,1%
Biểu đồ 3.7: Phương pháp, mô hình quản lý chất lượng
113
Biểu đồ 3.8: Lĩnh vực áp dụng
Nhận xét:
- 19/37 (51%) bệnh viện đã áp dụng các mô hình, phương pháp trong QLCL
bệnh viện trong đó:
+ 4/19 (21%) bệnh viện áp dụng mô hình ISO: 9001-2001; 9001-2008; 9001-
2015;
+ 4/19 (21%) bệnh viện áp dụng mô hình ISO 16189; 2/19 (10%) bệnh viện
áp dụng mô hình TQM/CQI/QA-QI;
+ 6/19 (32%) bệnh viện áp dụng mô hình PDCA; 2/19 (10%) bệnh viện áp
dụng mô hình 5S;
+ 1/19 (5%) bệnh viện áp dụng mô hình SLAMTA.
- Có 12/19 bệnh viện (63,1%) áp dụng trên quy mô toàn bệnh viện. Tỷ lệ
bệnh viện áp dụng mô hình QLCL trong khu vực hành chính các khoa phòng chức
năng chiếm tỷ lệ thấp nhất với 5.3%.
Thứ sáu, về xây dựng kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý
chất lượng KCB tại bệnh viện:
Biều đồ 3.9: Tỷ lệ bệnh viện áp dụng CNTT trong QLCL bệnh viện
Nhận xét
- 36/37 (97,3%)bệnh viện áp dụng CNTT trong việc kê đơn thuốc;
114
- 22/37 (59,5%) bệnh viện áp dụng CNTT trong quản lý bệnh án điện tử;
- 23/37 (62,2%) bệnh viện áp dụng CNTT trong quản lý thiết bị y tế.
- Ngoài ra các bệnh viện còn áp dụng CNTT trong việc quản lí vật tư tiêu
hao, quản lý tài chính kế toán, quản lý nhân lực, thanh toán BHYT…
Thứ bảy, về điểm kiểm tra đánh giá chất lượng bệnh viện:
Biểu đồ 3.10: Kết quả đánh giá chất lượng năm 2013 -2015 của 37 bệnh viện
Nhận xét:
Hàng năm 100% bệnh viện tự tổ chức kiểm tra đánh giá chất lượng bệnh
viện. Kết quả điểm đánh giá chất lượng KCB của các bệnh viện có xu hướng tăng
đều qua các năm. Năm 2013 đạt 3,25 điểm; năm 2014 đạt 3,35 điểm; năm 2015 đạt
3,59 điểm.
%
73
59,5
80
40,5
60
21,6
40
20
0
Khác
Bình xét ABC cuối năm
Thưởng phạt bằng tiền
Xét thưởng hàng năm
Thứ tám, về khen thưởng, xử phạt
115
Biểu đồ 3.11: Hình thức khen thưởng, xử phạt trong QLCL bệnh viện
Biểu đồ 3.12: Số cán bộ, nhân viên khen thưởng, kỷ luật trong năm 2015
Nhận xét:
27/37 (73,0%) bệnh viện dựa vào kết quả đánh giá chất lượng KCB của bệnh
viện, có hình thức xét thưởng hàng năm;
22/37 (59,5%) bệnh viện có hình thức bình xét ABC cuối năm.
Ngoài 2 hình thức trên, các bệnh viện còn có hình thức thưởng phạt bằng
tiền, bình xét ABC hàng tháng, đánh giá thi đua để khen thưởng, xử phạt. Trong 28
bệnh viện thống kê số lượng khen thưởng trong năm 2015, tổng số khen thưởng kỷ
luật của 28 bệnh viện là 1264 người, trong đó có 1263 người được khen thưởng, 01
người bị kỷ luật.
Thứ chín, về đánh giá sự hài lòng của người bệnh
34/37 (91%) bệnh viện lấy ý kiến thăm dò hài lòng người bệnh 3 tháng/lần;
3/37 (9%) bệnh viện triển khai lấy ý kiến thăm dò hài lòng người bệnh 6 tháng/lần
Thứ mười, về kinh phí cấp cho hoạt động QLCL bệnh viện:
Nhận xét (biểu đồ 3.13):
27/37 (72,9%) bệnh viện có đủ kinh phí hoạt động cho quản lý chất lượng
KCB; có 10/37 (27,03%) bệnh viện chưa có đủ kinh phí hoạt động cho quản lý chất
lượng KCB do kinh phí còn hạn hẹp, không đủ để phân bổ cho quản lý chất lượng
116
KCB.
27,1%
Có đủ KP
Không đủ KP
72,9%
Biểu đồ 3.13: Nguồn lực cho hoạt động QLCL khám chữa bệnh
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy những khó khăn trong việc triển khai quản
lý chất lượng KCB tại bệnh viện:
31/37 (83,8%) bệnh viện gặp khó khăn về một số vấn đề liên quan đến cơ sở
vật chất (trang thiết bị, kinh phí thực hiện, …); 94,6% bệnh viện gặp khó khăn về
tình trạng quá tải bệnh viện; 100% bệnh viện gặp khó khăn về nhân lực (số lượng
nhân viên không đủ, chất lượng nhân viên về quản lý chất lượng KCB chưa đáp
%
100
94,6
94,6
83,8
100 95 90 85 80 75
Cơ sở vật chất
Quá tải bệnh viện
Nhân lực Khó khăn trong quá trình triển khai
Biểu đồ 3.14: Những khó khăn khi triển khai QLCL khám, chữa bệnh Ngoài ra, trong quá trình thực hiện, các bệnh viện đề xuất với Bộ Y tế và các
ứng,…)
cơ quan liên quan:
- 100% bệnh viện đề nghị cần thiết phải tổ chức những lớp tập huấn ngắn
hạn, dài hạn về quản lý chất lượng KCB nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Song song với đó, cần thiết phải ban hành thông tư, hướng dẫn về việc triển khai
117
quản lý chất lượng KCB, ban hành sổ tay hướng dẫn về 83 tiêu chí.
- 86,5% bệnh viện đề nghị đầu tư cơ sở vật chất, cấp thêm kinh phí.
- 40,5% bệnh viện đề nghị cần sửa đổi, bổ sung một số nội dung trong bộ
100
100
%
86,5
100
80
40,5
60
40
20
0
Mở rộng CSVC, xin thêm kinh phí
Tổ chức tập huấn về QLCLKCB
Ban hành hướng dẫn triển khai
Sửa đổi, bổ sung một số nội dung
công cụ đánh giá chất lượng bệnh viện, 83 tiêu chí.
Biểu đồ 3.15: Những kiến nghị, đề xuất
3.3. Đánh giá chung về quản lý chất lượng KCB của bệnh viện
3.3.1. Công tác quản lý nhà nước về quản lý chất lượng khám, chữa bệnh
Về ưu điểm
Thứ nhất, trên cơ sở các Nghị quyết của Trung ương về công tác y tế, hệ
thống các chính sách vĩ mô, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về y tế nói chung và
quản lý chất lượng KCB nói riêng đã được xây dựng, ban hành và tổ chức triển khai
thực hiện nghiêm túc, từng bước hiện thực hóa trên thực tế.
Hệ thống mạng lưới y tế, mạng lưới KCB trong đó có hệ thống bệnh viện
công lập đã được hình thành rộng khắp từ Trung ương tới địa phương, tiếp cận
người dân ở các vùng miền kể cả khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, địa bàn
khó khăn, biên giới, hải đảo trong cả nước và không ngừng phát triển cả về số lượng
lẫn chất lượng, từng bước đáp ứng nhu cầu KCB của nhân dân. Trong đó, hệ thống
các bệnh viện công lập giữ vai trò chủ đạo, vị trí then chốt trong hoạt động cung
ứng dịch vụ KCB và thực hiện chính sách an sinh xã hội.
Thứ hai, hệ thống pháp luật về KCB từng bước được củng cố, hoàn thiện,
118
đặc biệt sự ra đời của Luật Khám bệnh, chữa bệnh, các luật liên quan và các văn
bản QPPL hướng dẫn thi hành luật được ban hành và triển khai thực hiện. Luật
khám bệnh, chữa bệnh ra đời là điểm mốc quan trọng đánh dấu bước phát triển mới,
thể chế hóa quan điểm của Đảng và Nhà nước về khám bệnh, chữa bệnh, tạo hành
lang pháp lý cho hoạt động khám bệnh, chữa bệnh. Trong giai đoạn đổi mới hệ
thống y tế hiện nay, Luật khám bệnh, chữa bệnh là cơ sở pháp lý bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người bệnh, người hành nghề khám bệnh, chữa bệnh; nâng cao
chất lượng khám bệnh, chữa bệnh, giảm phiền hà cho người bệnh; nâng cao tính sẵn
có trong việc tiếp cận dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh; xác định nền tảng cho sự phát
triển của y học thực chứng vì quyền lợi của người bệnh. Đây là cơ sở pháp lý để
điều chỉnh mối quan hệ giữa người bệnh, người hành nghề với cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh [42]. Công tác tổ chức thực hiện được đẩy mạnh và tăng cường, góp
phần từng bước nâng cao chất lượng KCB, đáp ứng sự hài lòng của người bệnh.
Thứ ba, tổ chức bộ máy QLNN về KCB và quản lý chất lượng KCB từ
Trung ương đến điạ phương tiếp tục được củng cố, kiện toàn, quy định rõ thẩm
quyền, trách nhiệm, sự phối hợp giữ các cơ quan QLNN các cấp. Trong đó, quy
định rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Bộ Y tế và sở y tế tỉnh thành
phố.
Thứ tư, đội ngũ công chức QLNN ở Trung ương và địa phương được đào tạo
về QLCL cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Thứ năm, công tác thanh, kiểm tra được quan tâm và thực hiện thường
xuyên. Bộ Y tế đã ban hành và triển khai thí điểm Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng
KCB của bệnh viện là công cụ quan trọng kiểm soát chất lượng KCB của bệnh viện.
Thứ bảy, đầu tư từ NSNN được tăng cường và thực hiện có kế hoạch; việc
thu hút đầu tư, xã hội hóa, thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các bệnh
viện đã đạt được kết quả bước đầu.
Về hạn chế và nguyên nhân của hạn chế
Thứ nhất, một số chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch chậm được
ban hành và bổ sung sửa đổi kịp thời, chưa sát với thực tế, tính khả thi chưa cao;
việc tổ chức thực hiện ở các cấp Bộ ngành và địa phương chưa quyết liệt, chưa chủ
119
động và thiếu giải pháp đồng bộ.
Thứ hai, việc ban hành văn bản QPPL hướng dẫn thi hành Luật khám bệnh,
chữa bệnh còn chậm, chưa kịp thời; một số nội dung của Luật khám bệnh, chữa
bệnh và văn bản hướng dẫn thi hành Luật chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, ít khả
thi, không thống nhất với các Luật khác, chưa phù hợp với thực tiễn, thậm chí còn
gây phiền hà, phức tạp khó khăn cho việc thực hiện.
Thứ ba, tổ chức bộ máy QLNN các cấp theo nhiệm kỳ, tạo ra sự thiếu ổn
định; sự phối kết hợp QLNN giữa Trung ương và địa phương còn chưa chặt chẽ; số
lượng, cơ cấu và chất lượng công chức QLNN về KCB còn hạn chế so với nhu cầu.
Thứ tư, công tác thanh kiểm tra chưa thường xuyên; bộ tiêu chí đánh giá chất
lượng KCB triển khai, áp dụng thí điểm còn một số hạn chế, bất cập cần phải điều
chỉnh; tổ chức đánh giá chưa chuyên nghiệp, kết quả đánh giá chưa sát thực tế; kinh
phí cho hoạt động QLCL ít; thiếu giải pháp hỗ trợ cần thiết thúc đẩy QLCL.
Thứ năm, ngân sách nhà nước, thu hút đầu tư cho y tế nói chung và QLCL
nói riêng còn hạn chế chưa đáp ứng nhu cầu.
Những hạn chế bất cập nêu trên chủ yếu do nguyên nhân chủ quan: việc thể
chế hoá các chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật của Nhà nước về lĩnh
vực KCB còn chậm, chưa đầy đủ, đồng bộ và phù hợp với tình hình. Nhiều cấp uỷ
đảng, lãnh đạo và người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị nhận thức chưa đầy đủ,
thiếu quyết tâm chính trị, thiếu quyết liệt và đồng bộ trong chỉ đạo, tổ chức thực
hiện. Công tác tuyên truyền, quán triệt chủ trương, chính sách, pháp luật chưa
thường xuyên; tư tưởng trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước trong hoạt động QLCL khám
chữa bệnh còn khá phổ biến.
Hệ thống chính sách, pháp luật và các quy chế chuyên môn liên quan đến
QLCL chưa hoàn thiện.
Nguồn lực cho hoạt động QLCL hạn chế, cơ sở vật chất, trang thiết bị của
các bệnh viện chưa đáp ứng; kinh phí hạn hẹp, nhân lực thiếu và yếu nhất là miền
núi, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Tình trạng quá tải bệnh viện, nhất là ở các
bệnh viện tuyến Trung ương, bệnh viện tuyến cuối của thành phố Hà Nội và thành
120
phố Hồ Chí Minh.
Sự tham gia của cộng đồng, người bệnh, người nhà người bệnh trong việc
3.3.2. Công tác quản lý chất lượng khám chữa bệnh tại bệnh viện
nâng cao chất lượng KCB của bệnh viện còn hạn chế.
Về ưu điểm
Các bệnh viện nói chung và bệnh viện Trung ương trực thuộc Bộ Y tế nói
riêng đã tăng cường công tác QLCL bệnh viện như xây dựng chương trình, kế
hoạch QLCL; tổ chức kiện toàn, củng cố phòng QLCL, bộ phận QLCL tại bệnh
viện; củng cố các hội đồng: thi đua khen thưởng, thuốc và điều trị, kiểm soát nhiễm
khuẩn, quản lý chất lượng, khoa học công nghệ, hội đồng người bệnh vv; phân công
người trực tiếp làm công tác QLCL; nghiên cứu áp dụng các mô hình QLCL tại
bệnh viện; triển khai ứng dụng công nghệ thông tin; tổ chức đánh giá chất lượng
bệnh viện hàng năm; thực hiện các giải pháp đảm bảo an toàn người bệnh. Nhờ đó
chất lượng KCB của các bệnh viện từng bước được nâng lên đáp ứng nhu cầu KCB
của nhân dân.
Han chế và nguyên nhân hạn chế
Hoạt động của các hội đồng trong bệnh viện còn mang tính hình thức; nhiều
bệnh viện chưa thành lập các hội đồng như hội đồng đạo đức, hội đồng điều dưỡng,
chưa thành lập đơn vị quản lý nguy cơ.
Đội ngũ viên chức trực tiếp làm công tác QLCL tại bệnh viện còn thiếu, ít
chuyên trách, đa số kiêm nhiệm, chưa được đào tạo đầy đủ về QLCL và thường
xuyên có biến động.
Việc triển khai áp dụng các mô hình QLCL tiên tiến trên thế giới còn hạn
chế. Việc triển khai áp dụng phương pháp, mô hình QLCL bệnh viện khu vực hành
chính và lâm sang còn thấp.
Nguyên nhân của hạn chế chủ yếu do nhận thức của cán bộ, công chức, viên
chức, người lao động trong bệnh viện chưa đầy đủ về QLCL và vai trò của QLCB
tại bệnh viện; sự quyết tâm của lãnh đạo đơn vị chưa cao. Một số bệnh viện lãnh
đạo chưa quan tâm đúng mức. Cơ sở vật chất, trang thiết bị chưa đáp ứng, đội ngũ
121
công chức, viên chức trực tiếp làm công tác QLCL còn thiếu, yếu.
Kết luận Chương 3
Trên cơ sở kết quả tổng quan tài liệu và cơ sở khoa học về quản lý chất
lượng KCB của bệnh viện, Chương 3 của Luận án đã làm rõ thực trạng quản lý chất
lượng KCB của bệnh viện công lập Việt Nam bao gồm những nội dung chính sau:
Thứ nhất, mô tả và khái quát hóa hệ thống y tế và hệ thống mạng lưới KCB
của Việt Nam, đặc biệt là hệ thống mạng lưới bệnh viện công lập Việt Nam.
Thứ hai, phân tích, đánh giá tổng quát chất lượng KCB của bệnh viện cả về
số lượng lẫn chất lượng thông qua một số chỉ số cơ bản từ các báo cáo và kết quả
đánh giá chất lượng bệnh viện của Bộ Y tế và các Sở Y tế.
Thứ ba, phân tích khắc họa bức tranh thực trạng quản lý chất lượng KCB của
bệnh viện công lập thông qua đánh giá cả về công tác QLNN về chất lượng KCB
lẫn công tác QLCL tại các bệnh viện. Phân tích các kết quả đạt được, những hạn chế
bất cập hiện nay của công tác QLNN thể hiện ở các nội dung về chính sách, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch; hệ thống văn bản Luật và văn bản QPPL hướng dẫn thi
hành Luật; tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ; công tác thanh, kiểm tra; phân tích
đánh giá thực trạng Bộ công cụ đánh giá chất lượng bệnh viện được Bộ Y tế triển
khai thí điểm; phân tích đánh giá thực trạng QLCL tại bệnh viện theo các nội dung
như việc xây dựng chương trình, kế hoạch QLCL, lựa chọn hệ thống QLCL, tổ chức
đảm bảo các điều kiện về bộ máy, đội ngũ QLCL và các đề xuất kiến nghị về QLCL
của các đơn vị.
Thứ tư, phân tích đánh giá những mặt tích cực, ưu điểm trong hoạt động
quản lý chất lượng KCB của bệnh viện, những hạn chế, tồn tại cần khắc phục và
nguyên nhân của hạn chế, tồn tại để đề xuất các giải pháp khắc phục trong thời gian
122
tới góp phần nâng cao chất lượng KCB đáp ứng sự hài lòng của người bệnh.
Chương 4
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG KHÁM CHỮA BỆNH CỦA BỆNH VIỆN CÔNG LẬP VIỆT NAM
4.1. Quan điểm chỉ đạo, định hướng của Đảng và Nhà nước về công
tác khám, chữa bệnh
Trong các giai đoạn phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn quan
tâm đến phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân. Quan
điểm ấy được thể hiện trong các văn kiện của Đảng:
Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày 23/2/2005, của Bộ Chính trị về chăm sóc bảo
vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới đã đưa ra 5 quan điểm chỉ đạo
của Đảng ta về công tác y tế:
“Thứ nhất, sức khoẻ là vốn quý nhất của mỗi con người và của toàn xã hội.
Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân là hoạt động nhân đạo, trực tiếp
bảo đảm nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là một trong
những chính sách ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước. Đầu tư cho lĩnh vực này
là đầu tư phát triển, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ.
Thứ hai, đổi mới và hoàn thiện hệ thống y tế theo hướng công bằng, hiệu quả
và phát triển, nhằm tạo cơ hội thuận lợi cho mọi người dân được bảo vệ, chăm sóc
và nâng cao sức khoẻ với chất lượng ngày càng cao, phù hợp với sự phát triển
KTXH của đất nước. Phát triển BHYT toàn dân, nhằm từng bước đạt tới công bằng
trong CSSK, thực hiện sự chia sẻ giữa người khỏe với người ốm, người giầu với
người nghèo, người trong độ tuổi lao động với trẻ em, người già; công bằng trong
đãi ngộ đối với cán bộ y tế.
Thứ ba, thực hiện chăm sóc sức khoẻ toàn diện: gắn phòng bệnh với chữa
bệnh, phục hồi chức năng và tập luyện thể dục thể thao nâng cao sức khoẻ. Phát
triển đồng thời y tế phổ cập và y tế chuyên sâu; kết hợp đông y và tây y.
Thứ tư, xã hội hóa các hoạt động CSSK gắn với tăng cường đầu tư của Nhà
nước; thực hiện tốt việc trợ giúp cho các đối tượng chính sách và người nghèo trong
123
chăm sóc và nâng cao sức khỏe. Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ là bổn
phận của mỗi người dân, mỗi gia đình và cộng đồng, là trách nhiệm của các cấp uỷ
đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và các tổ chức xã hội,
trong đó ngành y tế giữ vai trò nòng cốt về chuyên môn và kỹ thuật. Khuyến khích
các thành phần kinh tế đầu tư phát triển các dịch vụ chăm sóc và nâng cao sức khỏe.
Thứ năm, nghề y là một nghề đặc biệt, cần được tuyển chọn, đào tạo, sử
dụng và đãi ngộ đặc biệt. Mỗi cán bộ, nhân viên y tế phải không ngừng nâng cao
đạo đức nghề nghiệp và năng lực chuyên môn, xứng đáng với sự tin cậy và tôn vinh
của xã hội, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Người thầy thuốc giỏi
đồng thời phải là người mẹ hiền” [2].
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI chỉ rõ: “Tập trung phát triển
mạnh hệ thống CSSK và nâng cao chất lượng dịch vụ y tế. Nhà nước tiếp tục tăng
đầu tư đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa để phát triển nhanh hệ thống y tế công lập và
ngoài công lập;… Khắc phục tình trạng quá tải ở các bệnh viện, đặc biệt là bệnh
viện tuyến trung ương và tuyến tỉnh. Đổi mới cơ chế hoạt động, nhất là cơ chế tài
chính của các cơ sở y tế công lập theo hướng tự chủ, công khai, minh bạch. Chuẩn
hóa chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng bệnh viện, từng bước tiếp cận với tiêu chuẩn
khu vực và quốc tế. Đổi mới và hoàn thiện đồng bộ chính sách BHYT, khám chữa
bệnh và viện phí phù hợp, có lộ trình thực hiện BHYT toàn dân” [27].
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII tiếp tục chỉ rõ: “Nâng cao
chất lượng KCB và phục hồi chức năng ở tất cả các tuyến. Quan tâm chăm sóc sức
khoẻ ban đầu, phát triển hệ thống y tế dự phòng, chủ động phòng bệnh, không để
xảy ra dịch bệnh lớn. Thực hiện đồng bộ các giải pháp khắc phục nhanh tình trạng
quá tải bệnh viện. Hoàn thiện mạng lưới cơ sở y tế, nhất là miền núi, biên giới, hải
đảo; hoàn thành việc xây dựng một số bệnh viện tuyến cuối; nhân rộng mô hình
bệnh viện vệ tinh và bác sĩ gia đình. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, ứng
dụng công nghệ thông tin, áp dụng tiêu chuẩn quản lý và kiểm tra chất lượng dịch
vụ KCB. Tăng cường đào tạo, phát triển nguồn nhân lực y tế cả về số lượng và chất
lượng. Nâng cao trình độ chuyên môn, trách nhiệm và y đức của đội ngũ cán bộ y
tế. Chú trọng phát triển nhân lực y tế trình độ cao, tăng cường nhân lực y tế cho khu
124
vực nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo” [28].
Kết luận số 118-KL/TW ngày 04/01/2016 của ban Bí thư Trung ương Đảng
về việc tiếp tục thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 46-NQ/BCT, Ban Bí thư yêu cầu
các cấp ủy, chính quyền, các ban, bộ, ngành, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị -
xã hội các cấp tiếp tục quán triệt, tổ chức thực hiện đầy đủ và tích cực hơn nữa các
quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đã được đề ra trong Nghị quyết
46, trước mắt cần tập trung vào một số nội dung trong đó chỉ rõ: “Nâng cao chất
lượng KCB, bảo đảm cho người dân dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ y tế cơ bản,
triển khai đồng bộ các giải pháp giảm quá tải bệnh viện, nhất là ở tuyến Trung
ương. Sớm có giải pháp tiếp tục nâng cao chất lượng KCB tại tuyến y tế cơ sở, nhất
là đối với khu vực nông thôn, miền núi, hải đảo... tăng cường hợp tác và hội nhập
quốc tế về y tế. Nâng cao tinh thần, thái độ, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, viên
chức y tế trong phục vụ người bệnh” [24].
Thể chế hóa các quan điểm của Đảng về công tác y tế, Quyết định số
122/QĐ-TTg ngày 10/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược quốc gia
bảo vệ chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn
2030 nêu ra một số quan điểm: “Sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi con người và
của toàn xã hội; dịch vụ y tế công là dịch vụ xã hội đặc biệt, không vì mục tiêu lợi
nhuận; đầu tư cho y tế là đầu tư phát triển, thể hiện bản chất tốt đẹp của xã hội; Đổi
mới và hoàn thiện hệ thống y tế Việt Nam theo hướng Công bằng - Hiệu quả - Phát
triển; bảo đảm mọi người dân, đặc biệt người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, trẻ
em dưới 6 tuổi, các đối tượng chính sách, người dân vùng khó khăn, vùng sâu, vùng
xa, biên giới, hải đảo và các nhóm người dễ bị tổn thương được tiếp cận với dịch vụ
CSSK cơ bản có chất lượng. Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân là
bổn phận của mỗi người dân, mỗi gia đình và cộng đồng; là trách nhiệm của các Bộ,
ngành, các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và
các tổ chức xã hội nghề nghiệp, trong đó ngành y tế giữ vai trò nòng cốt về chuyên
môn và kỹ thuật. Nhà nước thống nhất quản lý vĩ mô, định hướng phát triển sự
nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân thông qua hệ thống pháp
luật và chính sách; điều tiết, phân bổ nguồn lực; QLCL dịch vụ y tế và giá dịch vụ y
125
tế. Đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính trong các đơn vị y tế gắn với việc
thực hiện lộ trình BHYT toàn dân để nhanh chóng thích ứng với thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong các hoạt động của ngành y tế. Kết hợp
hài hòa giữa củng cố mạng lưới y tế cơ sở với phát triển y tế chuyên sâu; giữa phát
triển y tế công lập với y tế ngoài công lập; giữa y học hiện đại với y học cổ truyền”.
Chiến lược đưa ra một số giải pháp: “Nhà nước thống nhất quản lý vĩ mô,
định hướng phát triển sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân
thông qua hệ thống pháp luật và chính sách; điều tiết, phân bổ nguồn lực; QLCL
dịch vụ y tế và giá dịch vụ y tế và giải pháp: Hoàn thiện mạng lưới khám bệnh,
chữa bệnh các tuyến; thực hiện chăm sóc liên tục và toàn diện cho người bệnh; lấy
người bệnh làm trung tâm; xây dựng chương trình bảo đảm và cải thiện chất lượng
dịch vụ KCB; kiện toàn cơ chế xử lý, phản hồi ý kiến, bảo vệ quyền lợi của người
bệnh; xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn QLCL phù hợp đối với các bệnh viện ở Việt
Nam, từng bước áp dụng chuẩn khu vực và quốc tế trong khám bệnh, chữa bệnh.
Thiết lập hệ thống quản lý, kiểm định và kiểm soát chất lượng dịch vụ khám bệnh,
chữa bệnh từ trung ương đến địa phương.
Nâng cao năng lực quản lý bệnh viện, bảo đảm sử dụng hiệu quả nguồn lực ở
các bệnh viện; tăng cường cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông
tin trong quản lý bệnh viện. Phát huy hiệu quả hoạt động của hội đồng thuốc và điều
trị, tăng cường kiểm soát kê đơn, sử dụng thuốc, chỉ định xét nghiệm, chỉ định kỹ
thuật; hạn chế tối đa việc lạm dụng thuốc và công nghệ y tế; thực hiện các biện
pháp phòng ngừa và giảm các tai biến, sai sót chuyên môn, bảo đảm an toàn cho
người bệnh và minh bạch trong quản lý, hoạt động chuyên môn và phân bổ nguồn
lực. Tăng cường giáo dục y đức, quy chế ứng xử cho cán bộ y tế” [54].
Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp
hành Trung ương khóa XII về bảo vệ chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân
trong tình hình mới trong phần nhiệm vụ và giải pháp chỉ rõ:
“Nâng cao chất lượng KCB, khắc phục căn bản tình trạng quá tải bệnh viện.
Phát triển hệ thống KCB, phục hồi chức năng hoàn chỉnh ở từng tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương bên cạnh hệ thống bệnh viện thuộc lực lượng vũ trang; tăng
126
cường phối kết hợp quân - dân y.
Hoàn thiện hệ thống phác đồ, quy trình, hướng dẫn điều trị thống nhất trong cả
nước. Ban hành tiêu chí đánh giá, thực hiện kiểm định độc lập, xếp hạng bệnh viện
theo chất lượng phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thực hiện lộ trình thông tuyến KCB; lộ trình liên thông, công nhận kết quả xét
nghiệm, giữa các cơ sở KCB gắn với nâng cao chất lượng dịch vụ và có chính sách
khuyến khích người dân sử dụng dịch vụ ngay tại tuyến dưới.
Phát triển mạng lưới bệnh viện vệ tinh; tăng cường đào tạo, luân phiên cán bộ
y tế, chuyển giao kỹ thuật cho tuyến dưới. Ban hành danh mục dịch vụ kỹ thuật các
tuyến phải có đủ năng lực thực hiện, tiến tới bảo đảm chất lượng từng dịch vụ kỹ
thuật đồng đều giữa các tuyến.
Xây dựng và thực hiện chương trình phát triển y học cổ truyền, tăng cường kết
hợp với y học hiện đại trong phòng bệnh, khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức
năng, nâng cao sức khoẻ.
Phát triển đồng bộ, tạo môi trường bình đẳng cả về hỗ trợ, chuyển giao chuyên
môn kỹ thuật giữa các cơ sở KCB công và tư.
Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ, nâng cao y đức; xây dựng bệnh viện
xanh - sạch - đẹp, an toàn, văn minh, hướng tới thực hiện chăm sóc toàn diện người
bệnh.
Tập trung đẩy nhanh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin từ
quản lý bệnh viện, giám định bảo hiểm y tế, bệnh án điện tử tới chẩn đoán, xét
nghiệm, KCB từ xa.
Tăng cường KCB cho các đối tượng chính sách. Phát huy thế mạnh y tế của
lực lượng vũ trang; triển khai các mô hình tổ chức linh hoạt, phù hợp với điều kiện
từng nơi để bảo đảm dịch vụ KCB cho người dân vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải
đảo”[1].
Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp
hành Trung ương khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng
cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, trong phần
127
quan điểm chỉ đạo, chỉ rõ: “(1) Đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất
lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm ưu tiên hàng đầu, là nhiệm vụ chính trị vừa cấp bách, vừa lâu
dài của tất cả các cấp uỷ đảng, chính quyền và toàn hệ thống chính trị; (2) Nhà nước
chăm lo, bảo đảm cung cấp dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu, nâng cao khả
năng tiếp cận và chất lượng dịch vụ sự nghiệp công cho mọi tầng lớp nhân dân trên
cơ sở giữ vững, phát huy tốt hơn nữa vai trò chủ đạo, vị trí then chốt, bản chất tốt
đẹp, ưu việt, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận của các đơn vị sự nghiệp công
lập; (3) Đẩy mạnh xã hội hoá, nhất là trong các ngành, lĩnh vực và địa bàn mà khu
vực ngoài công lập làm được và làm tốt; huy động và sử dụng có hiệu quả mọi
nguồn lực cho đầu tư phát triển lành mạnh thị trường dịch vụ sự nghiệp công trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện công khai, minh
bạch, không thương mại hoá. Bảo đảm công bằng, bình đẳng giữa các đơn vị sự
nghiệp công lập và ngoài công lập; (4) Thực hiện quyết liệt, đồng bộ các nhiệm vụ,
giải pháp đã đề ra trong quá trình đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, gắn với đổi mới
hệ thống chính trị và cải cách hành chính, đồng thời có lộ trình và bước đi phù hợp,
có trọng tâm, trọng điểm; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, tổng kết thực tiễn
để kịp thời bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách; (5) Bảo đảm sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý của Nhà nước, quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm toàn diện về
thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính của đơn vị sự nghiệp công
lập, phát huy vai trò giám sát của người dân trong quá trình đổi mới hệ thống tổ
chức và quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp
công lập”
Về mục tiêu tổng quát Nghị quyết nêu: “Đổi mới căn bản, toàn diện và đồng
bộ hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập, bảo đảm tinh gọn, có cơ cấu hợp lý, có
năng lực tự chủ, quản trị tiên tiến, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; giữ vai trò chủ đạo,
128
then chốt trong thị trường dịch vụ sự nghiệp công; cung ứng dịch vụ sự nghiệp công
cơ bản, thiết yếu có chất lượng ngày càng cao. Giảm mạnh đầu mối, khắc phục tình
trạng manh mún, dàn trải và trùng lắp; tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại, nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, viên chức. Giảm mạnh tỉ trọng, nâng cao hiệu quả
chi ngân sách nhà nước cho đơn vị sự nghiệp công lập để cơ cấu lại ngân sách nhà
nước, cải cách tiền lương và nâng cao thu nhập cho cán bộ, viên chức trong đơn vị
sự nghiệp công lập. Phát triển thị trường dịch vụ sự nghiệp công và thu hút mạnh
mẽ các thành phần kinh tế tham gia phát triển dịch vụ sự nghiệp công”.
Về nhiệm vụ giải pháp đối với lĩnh vực y tế, Nghị quyết cũng chỉ rõ: “Tổ
chức các cơ sở y tế theo hướng toàn diện, liên tục và lồng ghép theo 3 cấp: Chăm
sóc ban đầu, chăm sóc cấp 2, chăm sóc cấp 3. Sắp xếp lại các đơn vị làm nhiệm vụ
kiểm nghiệm, kiểm định, kiểm chuẩn thành đơn vị kiểm soát dược phẩm, thực phẩm
và thiết bị y tế; xây dựng một số bệnh viện hiện đại ngang tầm khu vực và quốc
tế. Sớm hoàn thành việc sắp xếp các đơn vị làm nhiệm vụ y tế dự phòng cấp tỉnh và
Trung ương thành trung tâm phòng ngừa và kiểm soát dịch bệnh cùng cấp trên cơ
sở sáp nhập các tổ chức, đơn vị có cùng chức năng, nhiệm vụ và hoạt động lồng
ghép; thực hiện thống nhất mô hình mỗi cấp huyện chỉ có một trung tâm y tế đa
chức năng (trừ các huyện có bệnh viện đạt hạng II trở lên), bao gồm y tế dự phòng,
dân số, khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng và các dịch vụ y tế khác; trung
tâm trực tiếp quản lý trạm y tế xã và phòng khám đa khoa khu vực (nếu có). Rà
soát, sắp xếp hợp lý các phòng khám đa khoa khu vực. Nơi đã có cơ sở y tế trên địa
bàn cấp xã thì có thể không thành lập trạm y tế xã; điều chỉnh, sắp xếp lại các bệnh
viện bảo đảm mọi người dân đều có thể tiếp cận thuận lợi về mặt địa lý. Chuyển dần
các bệnh viện thuộc Bộ Y tế và các bộ, cơ quan nhà nước ở Trung ương về địa
phương quản lý (trừ các bệnh viện thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an; một số ít
bệnh viện chuyên khoa đầu ngành, bệnh viện của các trường đại học)”.
Nghị quyết 139/NQ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2017 của Chính phủ ban hành
129
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày
25 tháng 10 năm 2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XII về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân
trong tình hình mới giao Bộ Y tế thực hiện nhiệm vụ thứ tư: “4. Nâng cao chất
lượng khám, chữa bệnh; khắc phục căn bản tình trạng quá tải bệnh viện:
- Thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ KCB các
tuyến, đặc biệt là tuyến cơ sở nhằm tăng sự hài lòng của người bệnh; giải quyết căn
bản tình trạng quá tải tại một số bệnh viện tuyến cuối vào năm 2020; tiếp tục phát
triển hệ thống bệnh viện vệ tinh, tăng cường công tác chỉ đạo tuyến, luân phiên, đào
tạo, chuyển giao kỹ thuật cho tuyến dưới; đẩy mạnh đổi mới phong cách, thái độ
phục vụ, nâng cao y đức và xây dựng cơ sở y tế xanh, sạch, đẹp, thân thiện với môi
trường;
- Ban hành các quy chế, quy định, quy trình, hướng dẫn điều trị thống nhất
trong cả nước để bảo đảm chất lượng KCB. Xây dựng quy trình bảo đảm an toàn
người bệnh, kiểm soát tốt tai biến y khoa, giảm tình trạng nhiễm khuẩn bệnh viện,
kiểm soát kháng kháng sinh, dinh dưỡng tiết chế, chăm sóc toàn diện người bệnh.
Ban hành danh mục kỹ thuật phù hợp với các tuyến, tiến tới bảo đảm chất lượng
dịch vụ đồng đều giữa các cơ sở y tế, các tuyến. Xây dựng, triển khai các quy định
để liên thông kết quả xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh, các thông tin, kết quả chẩn
đoán, điều trị giữa các cơ sở KCB và với tuyến y tế cơ sở để tiến tới theo dõi, chăm
sóc liên tục người bệnh. Thực hiện kiểm định độc lập, đánh giá chất lượng dịch vụ,
xếp hạng bệnh viện theo chất lượng phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Giảm phiền hà, giảm thời gian chờ đợi, tạo thuận lợi cho người bệnh thông
qua đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong
quản lý KCB (bệnh án điện tử, khám, chữa bệnh từ xa, chiếu chụp không cần in
phim). Xây dựng cơ chế, chính sách và thực hiện lộ trình thông tuyến KCB bảo
hiểm y tế theo quy định. Phát triển mạnh hệ thống cấp cứu tại cộng đồng và trước
130
khi vào bệnh viện.
- Đổi mới cơ chế hoạt động, quản lý các bệnh viện công lập gắn trao quyền
tự chủ với trách nhiệm giải trình, bảo đảm công khai, minh bạch, có sự kiểm soát
của cơ quan có thẩm quyền. Cơ sở công lập bảo đảm cung cấp đầy đủ dịch vụ y tế ở
mức độ cơ bản; được cung cấp các dịch vụ cao hơn, dịch vụ theo yêu cầu, bảo đảm
công khai, minh bạch. Xây dựng cơ chế, chính sách về tài chính, nhân lực và thực
hiện lộ trình tính đúng, tính đủ giá dịch vụ để chăm sóc toàn diện người bệnh, đồng
thời nâng cao thu nhập, đãi ngộ xứng đáng cho cán bộ y tế (xây dựng lộ trình về
nhân lực để bảo đảm chăm sóc toàn diện; giá dịch vụ được tính đúng, tính đủ chi
phí tiền lương cho số nhân lực theo quy định, chi phí về dinh dưỡng tiết chế, chi phí
để thực hiện tư vấn, tâm lý...).
- Xây dựng cơ chế, chính sách và khuyến khích xã hội hóa để phát triển một
số cơ sở KCB với chất lượng dịch vụ kỹ thuật và chăm sóc ngang tầm với các nước
tiên tiến trong khu vực nhằm thu hút người có điều kiện đến KCB, không phải ra
nước ngoài. Gắn một số cơ sở chăm sóc, khám bệnh, chữa bệnh với du lịch của
khách trong nước và nước ngoài.
- Xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách để khuyến khích phát triển y tế tư
nhân, nhất là mô hình bệnh viện hoạt động không vì lợi nhuận; thúc đẩy hợp tác
công - tư, tạo môi trường bình đẳng cả về hỗ trợ, chuyển giao chuyên môn kỹ thuật
giữa các cơ sở KCB công lập và tư nhân.
- Phối hợp với Bộ Quốc phòng tăng cường KCB cho các đối tượng chính
sách. Phát huy thế mạnh y tế của lực lượng vũ trang; triển khai các mô hình tổ chức
linh hoạt, phù hợp với điều kiện từng nơi để bảo đảm dịch vụ KCB cho người dân
vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
- Tăng cường bồi dưỡng, rèn luyện, nâng cao trình độ chuyên môn, đạo đức
nghề nghiệp cho cán bộ y tế. Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm quy chế chuyên
môn và đạo đức nghề nghiệp, xâm hại đến nhân phẩm và sức khỏe thầy thuốc; bảo
131
đảm an ninh, trật tự, an toàn cơ sở y tế”.[19]
Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 đưa ra chính sách Nhà nước về khám
bệnh, chữa bệnh: “Ưu tiên bố trí ngân sách nhằm đáp ứng nhu cầu khám bệnh, chữa
bệnh cơ bản của nhân dân. Quan tâm dành ngân sách cho việc CSSK đối với người
có công với cách mạng, trẻ em, người nghèo, nông dân, đồng bào dân tộc thiểu số,
nhân dân ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và vùng có điều kiện KTXH
đặc biệt khó khăn; tăng cường phát triển nguồn nhân lực y tế, đặc biệt là nguồn
nhân lực y tế ở vùng có điều kiện KTXH khó khăn và vùng có điều kiện KTXH đặc
biệt khó khăn. Thực hiện chế độ luân phiên có thời hạn đối với người hành nghề tại
cơ sở khám bệnh, chữa bệnh từ tuyến trên xuống tuyến dưới, từ vùng có điều kiện
KTXH không khó khăn đến vùng có điều kiện KTXH khó khăn và vùng có điều
kiện KTXH đặc biệt khó khăn; đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động khám bệnh,
chữa bệnh; khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển dịch vụ khám bệnh,
chữa bệnh; Khuyến khích việc nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ trong
khám bệnh, chữa bệnh; kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền trong khám bệnh,
chữa bệnh”. [42]
Như vậy, xuyên suốt các thời kỳ, Đảng và Nhà nước ta luôn có quan điểm
nhất quán trong việc bảo vệ chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, coi đây là
nhiệm vụ chính trị quan trọng góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc
xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu về cơ sở khoa học của quản lý chất lượng
KCB của bệnh viện (Chương 2) và thực trạng quản lý chất lượng KCB của bệnh
viện công lập Việt Nam (Chương 3), đồng thời xuất phát từ các quan điểm chỉ đạo
của Đảng và Nhà nước nêu trên, tác giả đề xuất một số định hướng cơ bản của công
tác quản lý chất lượng KCB đối với bệnh viện trong giai đoạn hiện nay như sau:
Thứ nhất, cần tăng cường công tác phổ biến, quán triệt nâng cao nhận thức
của người dân và cộng đồng, của các cấp các ngành trong việc thực hiện các chiến
lược, chính sách, chương trình, kế hoạch quốc gia về y tế nói chung và quản lý chất
lượng KCB nói riêng để đưa các quan điểm, Nghị quyết của Đảng vào thực tiễn
132
cuộc sống.
Thứ hai, hoàn thiện thể chế quản lý chất lượng KCB đối với bệnh viện công
lập theo hướng đảm bảo tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của bệnh viện công lập để
thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về công tác Y tế
nói chung và KCB nói riêng. Các chính sách và quy định pháp luật cần được thể
chế kịp thời, đầy đủ, tạo hành lang pháp lý làm cơ sở, căn cứ quan trọng để các cấp,
các ngành các tổ chức, cá nhân triển khai thực hiện, góp phần nâng cao hiệu quả,
hiệu lực QLNN nâng cao chất lượng KCB cho nhân dân.
Thứ ba, tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy QLNN về KCB từ trung
ương tới địa phương phù hợp với tình hình thực tiễn, đủ năng lực thực hiện nhiệm
vụ; quan tâm đến xây dựng và phát triển đội ngũ công chức QLNN và đội ngũ viên
chức trực tiếp làm công tác QLCL của các bệnh viện thông qua việc tuyển dụng,
đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, bố trí sử dụng đội ngũ này một cách hợp lý. Tổ chức
bộ máy với cơ cấu hợp lý và đội ngũ cán bộ có đủ năng lực sẽ là nòng cốt trong việc
triển khai thực hiện quản lý chất lượng KCB của bệnh viện, đáp ứng được nhu cầu
nhiệm vụ đặt ra.
Thứ tư, tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát việc triển khai
thực hiện, sơ kết tổng kết đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế khó
khăn thách thức, tìm nguyên nhân từ đó đề xuất những giải pháp để tiếp tục điều
chỉnh, bổ sung hoàn thiện các quy định pháp luật và tổ chức triển khai thực hiện tốt
hơn công tác quản lý chất lượng KCB.
Thứ năm, hoàn thiện Bộ công cụ đánh giá chất lượng KCB của bệnh viện hội
nhập với quốc tế và phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam. Nghiên cứu thành
lập tổ chức đánh giá độc lập chất lượng KCB của các cơ sở y tế; thu hút huy động
các nguồn lực như cơ sở vật chất trang thiết bị, nhân lực và tài chính để triển khai
thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước về KCB và
quản lý chất lượng KCB của bệnh viện trong tình hình mới.
Thứ sáu, tăng cường QLCL tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nhất là các
bệnh viện công lập; phát huy vai trò chủ động của các bệnh viện trong việc xây
dựng triển khai chương trình, kế hoạch quản lý chất lượng KCB, khuyến khích ứng
133
dụng công nghệ thông tin và áp dụng các mô hình, phương pháp QLCL tiên tiến.
4.2. Một số giải pháp quản lý chất lượng khám, chữa bệnh của
bệnh viện công lập Việt Nam
Căn cứ các quan điểm chỉ đạo, định hướng của Đảng và Nhà nước về công
tác y tế; xuất phát từ thực trạng công tác quản lý chất lượng KCB của bệnh viện
trong thời gian qua đã đạt được một số kết quả nhất định, song còn bộc lộ một số
hạn chế, tồn tại; đồng thời vận dụng, áp dụng lý luận khoa học về quản lý chất
lượng và các bài học kinh nghiệm quốc tế; để đẩy mạnh, tăng cường công tác quản
lý chất lượng KCB, nghiên cứu sinh đề xuất một số nhóm giải pháp quản lý chất
lượng khám chữa bệnh của bệnh viện công lập Việt Nam cụ thể sau đây:
4.2.1. Hoàn thiện và tổ chức thực hiện chính sách, chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch về quản lý chất lượng khám, chữa bệnh
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện chính sách, chiến lược,
quy hoạch, chương trình, kế hoạch dài hạn, trung hạn và hàng năm:
Thứ nhất, tổ chức rà soát, đánh giá tác động của các chính sách, chiến lược,
quy hoạch, chương trình, kế hoạch đã ban hành; nghiên cứu điều chỉnh, sửa đổi, bổ
sung các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp của chính sách, chiến lược quy hoạch, kế
hoạch sao cho phù hợp với các quan điểm chỉ đạo của Đảng tại Nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nghị quyết số 20-NQ/TW của Hội nghị Ban chấp hành
Trung ương sáu Khóa XII và tình hình thực tế hiện nay để đảm bảo tính thống nhất,
tính phù hợp và tính khả thi của chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch. Đồng
thời triển khai thực hiện nghiêm túc, hiệu quả. [19]
Cụ thể điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung các quyết định:
- Quyết định số 122/QĐ-TTg ngày 10/01/2013, của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân
giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Chiến lược này được thực hiện từ
năm 2013 đến nay, cần sửa đổi, bổ sung phù hợp với Nghị quyết số 20-NQ/TW của
Hội nghị Ban chất hành Trung ương sáu Khóa XII.
- Quyết định số 153/2006/QĐ-TTg ngày 30/06/2006 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống y tế Việt Nam giai đoạn đến
134
năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Quy hoạch này được thực hiện từ năm 2006
đến nay, sắp tới cần thiết xây dựng quy hoạch mới sao cho phù hợp với định hướng
của Nghị quyết số 20-NQ/TW của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương sáu Khóa
XII và tình hình thực tế đã có nhiều thay đổi. [52]
- Quyết định số 30/2008/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy
hoạch phát triển mạng lưới KCB đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 phù hợp
với các chiến lược, chính sách, quy hoạch trong tình hình mới. [53]
Thứ hai, tổ chức rà soát, đánh giá thực trạng hệ thống mạng lưới KCB nhất là
bệnh viện công lập cả về cơ sở hạ tầng, máy móc, trang thiết bị, nhân lực, năng lực
chuyên môn kỹ thuật và các điều kiện đáp ứng để đủ điều kiện được cấp GPHĐ
khám, chữa bệnh của tất cả các bệnh viện từ Trung ương tới địa phương, bệnh viện
trực thuộc Bộ Ngành, bệnh viện trực thuộc UBND tỉnh thành phố trên cả nước.
Thực hiện phân loại bệnh viện theo mức độ đạt hoặc không đạt quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia để có hướng xem xét giải quyết vừa đảm bảo thực hiện nhiệm vụ KCB
được giao và vừa đáp ứng yêu cầu theo quy định đảm bảo chất lượng KCB cho
nhân dân: Đối với các bệnh viện đạt quy chuẩn, kỹ thuật quốc gia được tiếp tục thực
hiện hoạt động KCB cho nhân dân; Đối với các bệnh viện không đạt quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia, nhưng có chương trình kế hoạch cụ thể để đảm bảo đạt quy chuẩn
vào năm 2020, đề nghị cho phép tiếp tục hoạt động KCB; Đối với những bệnh viện
không đạt quy chuẩn và không có giải pháp cụ thể hoàn thành các điều kiện hoạt
động theo quy định của pháp luật vào năm 2020, đề nghị không cấp GPHĐ.
Thứ ba, tổ chức đánh giá việc triển khai thực hiện Quyết định số 4276/QĐ-
BYT ngày 14/10/2015 của Bộ trưởng Bộ Y tế Phê duyệt “Chương trình hành động
Quốc gia về nâng cao năng lực quản lý chất lượng khám bệnh, chữa bệnh giai đoạn
từ nay đến năm 2025” rà soát điều chỉnh các mục tiêu, tiêu chí và các giải pháp phù
hợp với các quan điểm của Đảng và bám sát các chỉ đạo của Chính phủ và Thủ
tướng Chính phủ [13].
4.2.2. Hoàn thiện và tổ chức thực hiện hệ thống pháp luật và quy chế
chuyên môn trong khám, chữa bệnh
Đẩy mạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật (Luật và văn bản QPPL) và
135
quy chế chuyên môn tạo hành lang pháp lý cho hoạt động KCB của bệnh viện và
khuyến khích nâng cao chất lượng KCB của các bệnh viện nhất là bệnh viện công
lập.
Trước tiên, cần tổ chức đánh giá tác động của Luật khám bệnh, chữa bệnh
sau 8 năm triển khai thực hiện. Việc đánh giá cần triển khai đồng bộ, toàn diện trên
phạm vi cả nước, trên tất cả các mặt của đời sống xã hội và tất cả các đối tượng liên
quan chịu tác động của Luật. Đánh giá cả về tính phù hợp, tính thống nhất, tính khả
thi của các quy định của Luật, cả về việc tổ chức thực thi của đối tượng thực hiện
trên cơ sở đó phát hiện những vấn đề còn bất cập của các quy định và những vấn đề
mới mà nội dung Luật khám bệnh, chữa bệnh chưa đề cập để đề xuất sửa đổi, bổ
sung.
Thứ hai, trên cơ sở những luận chứng từ các kết quả đánh giá thực trạng thi
hành Luật khám bệnh, chữa bệnh trong thời gian vừa qua, đề nghị Bộ Y tế nghiên
cứu để đề nghị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung một số
nội dung, vấn đề sau đây của Luật khám bệnh, chữa bệnh:
- Bỏ quy định của Luật khám bệnh, chữa bệnh về yêu cầu hồ sơ cấp CCHN
phải có lý lịch tư pháp đối với người hành nghề đang làm việc trong các cơ sở KCB
công lập. Khu vực công lập có hệ thống quản lý nhân sự chặt chẽ theo quy định của
Luật Viên chức. Vì vậy, quy định lý lịch tư pháp đối với người hành nghề trong khu
vực Nhà nước là không cần thiết.
- Điều chỉnh, sửa đổi các quy định:
+ Cấp CCHN một lần cho người hành nghề thành cấp có thời hạn 3 năm
hoặc 5 năm phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn nước ta.
+ Điều chỉnh thời gian thực hành y khoa để cấp CCHN cho các đối tượng
theo hướng trùng với thời gian tập sự, thử việc cho từng đối tượng, thuận lợi cho
việc quản lý tiền hành nghề đối với người hành nghề.
+ Quy định thống nhất hoặc có lộ trình thống nhất các hình thức tổ chức của
cơ sở khám bệnh, chữa bệnh để thống nhất mô hình phù hợp với đặc điểm hệ thống
y tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và thuận lợi cho công tác quản lý, phát triển
chuyên môn kỹ thuật, quy hoạch phát triển hệ thống mạng lưới khám bệnh, chữa
136
bệnh.
+ Quy định cụ thể phạm vi hoạt động chuyên môn, bổ sung phạm vi hành
nghề chuyên môn và thay đổi phạm vi hoạt động hành nghề của người hành nghề.
+ Điều chỉnh, bổ sung các quy định về quyền và lợi ích hợp pháp của người
hành nghề như có quy định về chế tài đảm bảo an toàn cho cán bộ, nhân viên y tế
khi họ đang thực thi nhiệm vụ mà bị người bệnh, người nhà người bệnh hành hung
ảnh hưởng đến danh dự, sức khỏe, tính mạng của họ.
+ Phân cấp thẩm quyền cấp GPHĐ và CCHN cho các Sở Y tế theo nguyên
tắc cấp dưới làm được thì cấp trên phân quyền.
+ Giảm bớt các thủ tục hành chính trong việc xét cấp GPHĐ đối với các cơ
sở khám bệnh, chữa bệnh và CCHN đối với người hành nghề khám bệnh, chữa
bệnh.
+ Quy định cụ thể lộ trình cấp CCHN cho người hành nghề làm việc tại vùng
sâu, vùng xa, vùng khó khăn vv. Đây là một vấn đề thực tế khách quan cần chấp
nhận lộ trình thực hiện để đảm bảo được nhu cầu KCB của nhân dân.
+ Hoàn thiện hệ thống quản lý chất lượng KCB và lồng ghép QLCL trong
các hoạt động của bệnh viện.
- Bổ sung các quy định, nội dung của Luật khám bệnh, chữa bệnh:
+ Mở rộng đối tượng cấp CCHN đối với các đối tượng là cử nhân hóa học,
kỹ sư y học hạt nhân, cử nhân y học liệu pháp vv. Những đối tượng này tham gia
trực tiếp hoạt động KCB và có vai trò đóng góp vào chất lượng KCB của bệnh viện,
cần phải quản lý năng lực chuyên môn kỹ thuật của họ thông qua cấp CCHN.
+ Công nhận CCHN của người hành nghề ở các nước khu vực và thế giới khi
họ đến KCB tại Việt Nam phù hợp với xu thế hội nhập và thông lệ quốc tế. Hiện
nay, với xu thế hội nhập rất nhiều người hành nghề ở nước ngoài muốn đến hành
nghề tại Việt Nam hoặc KCB từ thiện. Việc công nhận CCHN của các nước khác có
ký thỏa thuận hợp tác về y tế với Việt Nam sẽ giảm bớt những thủ tục hành chính,
tạo thuận lợi cho người hành nghề nước ngoài và vẫn đảm bảo được chất lượng
137
KCB và an toàn người bệnh.
+ Luật hóa phương thức đánh giá chất lượng bệnh viện, khung tiêu chí đánh
giá chất lượng bệnh viện và tổ chức đánh giá chất lượng bệnh viện để thống nhất
việc QLCL trong cả nước.
Thứ ba, tổ chức rà soát, đánh giá tác động trong quá trình thực hiện các văn
bản hướng dẫn thi hành Luật khám bệnh, chữa bệnh bao gồm các Nghị định và các
Thông tư hướng dẫn thi hành Luật khám bệnh, chữa bệnh để phát hiện những vấn
đề, nội dung chồng chéo, bất cập không phù hợp của các văn bản hướng dẫn, kịp
thời điều chỉnh bổ sung đáp ứng nhu cầu thực tiễn hành nghề hiện nay. Ví dụ: Nghị
định số 87/2011/NĐ-CP, Thông tư số 41/2011/TT-BYT-TC; Thông tư số
41/2015/TT-BYT về hướng dẫn cấp CCHN, GPHĐ; Thông tư số 07/2015/TT-BYT
của Bộ trưởng Bộ Y tế về áp dụng phương pháp mới, kỹ thuật mới trong khám
bệnh, chữa bệnh theo hướng các kỹ thuật đã áp dụng tại Việt Nam nhưng cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh chưa thực hiện được thì không cần tổ chức thí điểm; các kỹ
thuật mới các nước đã thực hiện mà lần đầu mới được áp dụng tại Việt Nam thì phải
tổ chức thí điểm.
Thứ tư, xây dựng và ban hành thông tư quy định về chế độ đào tạo tiền hành
nghề, hướng tới việc thi cấp CCHN cho người hành nghề. Nội dung này chưa có
hướng dẫn cụ thể để thực hiện trong thời gian vừa qua, ảnh hưởng đến tính khả thi
của Luật khám bệnh, chữa bệnh;
Thứ năm, xây dựng và ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với bệnh
viện: Rà soát đánh giá tính phù hợp của quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với cơ sở
KCB do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành theo các quyết định: Quyết định số
32/2005/QĐ-BYT ngày 31/10/2005 về tiêu chuẩn thiết kế Khoa Chẩn đoán hình
ảnh; Quyết định số 33/2005/QĐ-BYT ngày 31/10/2005 về tiêu chuẩn thiết kế Khoa
Cấp cứu; Quyết định số 34/2005/QĐ-BYT ngày 31/10/2005 về tiêu chuẩn thiết kế
Khoa Ngoại bệnh viện Đa khoa và Quyết định số 35/2005/QĐ-BYT ngày
15/11/2005 về tiêu chuẩn thiết kế Khoa Xét nghiệm thuộc bệnh viện Đa khoa. Các
quy định này đã thực hiện hơn 20 năm, điều kiện KTXH hiện nay thay đổi, nhu cầu,
yêu cầu về chất lượng KCB ngày càng cao và Luật khám bệnh, chữa bệnh được ban
138
hành năm 2009, theo đó yêu cầu Bộ Y tế ban hành Thông tư hướng dẫn. Vì thế,
những quy chuẩn kỹ thuật quốc gia đối với bệnh viện cần được điều chỉnh là yêu
cầu cấp thiết.
Thứ sáu, xây dựng và ban hành Bộ tiêu chuẩn chất lượng bệnh viện bao gồm
tiêu chuẩn các khoa lâm sàng, cận lâm sàng, tiêu chuẩn năng lực của người hành
nghề cho từng khoa phòng, ưu tiên xây dựng và hoàn thiện thí điểm 5 Bộ chuẩn
năng lực người hành nghề cho các nhóm chuyên khoa trước năm 2020. Sau đó tổ
chức triển khai xây dựng Bộ chuẩn năng lực người hành nghề cho các chuyên khoa
khác.
Song song với việc xây dựng Bộ tiêu chuẩn chất lượng bệnh viện, tiến hành
xây dựng và ban hành các hướng dẫn chẩn đoán và điều trị, quy trình kỹ thuật, quy
trình chăm sóc người bệnh vv. Hiện nay, đã ban hành hơn 700 bài hướng dẫn chẩn
đoán và điều trị và gần 1000 quy trình kỹ thuật thuộc 28 chuyên ngành trong khi
nhu cầu cần ban hành khoảng 1000 bài hướng dẫn chẩn đoán và điều trị và hơn
1000 quy trình kỹ thuật. Đây là bộ tài liệu chuyên môn, là cẩm nang cho người hành
nghề và cán bộ y tế áp dụng thực hành chuyên môn, đảm bảo chất lượng KCB và
chăm sóc an toàn người bệnh.
4.2.3. Kiện toàn, nâng cao năng lực tổ chức bộ máy và đội ngũ quản
lý nhà nước về quản lý chất lượng khám, chữa bệnh
Trước hết, kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan QLNN về quản lý chất lượng
KCB ở Trung ương và địa phương. Cụ thể xây dựng và ban hành Quyết định quy
định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý Khám, chữa bệnh và các
Vụ, Cục liên quan. Theo đó làm rõ nội dung nhiệm vụ QLNN về quản lý chất lượng
KCB của bệnh viện giao cho Cục Quản lý Khám, chữa bệnh, làm cơ sở kiện toàn
củng cố Phòng QLCL của Cục cả về tổ chức lẫn biên chế nhân lực để thực hiện
nhiệm vụ này; xây dựng và ban hành quyết định quy định chức năng nhiệm vụ của
Sở Y tế tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương, theo đó làm rõ nội dung quản lý chất
lượng KCB giao cho Sở Y tế trên cơ sở đó phân công trách nhiệm thực hiện nhiệm
vụ cho Phòng Nghiệp vụ Y thuộc Sở Y tế và xác định biên chế nhân lực thực hiện
139
nhiệm vụ này tại địa phương.
Thứ hai, xây dựng và phê duyệt Bộ giáo trình, tài liệu đào tạo liên tục về
QLCL và an toàn người bệnh; tổ chức tập huấn, đào tạo nâng cao năng lực đội ngũ
công chức làm nhiệm vụ QLNN về chất lượng KCB ở Trung ương và địa phương
bao gồm công chức thuộc các Vụ, Cục thuộc Bộ Y tế và công chức thuộc Phòng
Nghiệp vụ Y thuộc Sở Y tế tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương và y tế Bộ Ngành.
Đội ngũ này đang thiếu về số lượng và chủ yếu làm kiêm nhiệm nhiều việc, chưa
được đào tạo bài bản về QLCL cần phải được bổ sung và có kế hoạch cử đi đào tạo
ngắn hạn, dài hạn về QLCL.
Thứ ba, tổ chức rà soát đánh giá việc triển khai thực hiện để sửa đổi bổ sung
Thông tư số 19/2013/TT-BYT ngày 12/7/2013 của Bộ trưởng Bộ Y tế hướng dẫn
thực hiện QLCL dịch vụ KCB tại bệnh viện phù hợp với tình hình thực tế, các quan
điểm chỉ đạo định hướng của Đảng và “Chương trình hành động Quốc gia về nâng
cao năng lực QLCL khám bệnh, chữa bệnh giai đoạn từ nay đến năm 2025” ban
hành theo Quyết định số 4276/QĐ-BYT năm 2015 của Bộ Y tế, để thực hiện được
mục tiêu xây dựng và hoàn thiện hệ thống QLCL khám bệnh, chữa bệnh quốc gia
nhằm bảo đảm và cải tiến chất lượng dịch vụ y tế trong các cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh: Xây dựng và hoàn thiện cơ bản khung pháp lý, chính sách, hệ thống tổ chức
nhằm tăng cường quản lý chất lượng khám bệnh, chữa bệnh; Xây dựng và ban hành
các chuẩn chất lượng, các công cụ đánh giá, đo lường chất lượng dịch vụ của cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh; Thúc đẩy việc áp dụng các phương pháp QLCL và triển
khai các chương trình can thiệp nâng cao năng lực quản lý chất lượng khám bệnh,
chữa bệnh; Nâng cao nhận thức về tăng cường quản lý chất Iượng khám bệnh, chữa
bệnh, từng bước xây dựng văn hóa chất lượng trong các cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh.
Theo đó, tập trung vào củng cố hệ thống QLCL trong bệnh viện như củng cố
kiện toàn Hội đồng QLCL bệnh viện do giám đốc bệnh viện làm chủ tịch và phó
giám đốc phụ trách chuyên môn làm phó chủ tịch và các hội đồng khác có liên quan
đến QLCL; tăng cường năng lực phòng/tổ QLCL; bổ sung nhân viên chuyên trách
về QLCL; thiết lập mạng lưới QLCL phù hợp với quy mô của bệnh viện. Bệnh viện
140
hạng đặc biệt và bệnh viện đa khoa hạng I thành lập phòng QLCL; các bệnh viện
khác tùy theo quy mô, điều kiện và nhu cầu của từng bệnh viện để quyết định thành
lập phòng hoặc tổ QLCL. Phòng/tổ QLCL phối hợp chặt chẽ với các khoa, phòng
chức năng để thực hiện nhiệm vụ QLCL bệnh viện. Mạng lưới QLCL bệnh viện
được thiết lập từ cấp bệnh viện đến các khoa, phòng, đơn vị trong bệnh viện, do
phòng/tổ QLCL làm đầu mối điều phối các hoạt động.
Thứ tư, sớm thành lập tổ chức chứng nhận/kiểm định chất lượng độc lập của
Việt Nam có chức năng, nhiệm vụ đánh giá và công nhận chất lượng bệnh viện.
Hiện nay cơ quan QLNN ở Trung ương là Cục Quản lý Khám, chữa bệnh và ở địa
phương là Sở Y tế tổ chức đánh giá chất lượng bệnh viện là không phù hợp, cần
chuyển đổi công việc này cho tổ chức đánh giá độc lập để đảm bảo tính khách quan
trong đánh giá chất lượng. Tổ chức này có thể là đơn vị do Nhà nước thành lập hoặc
hiệp hội hoặc cá nhân.
4.2.4. Hoàn thiện Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng khám, chữa bệnh
của bệnh viện Việt Nam
Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện được hoàn thiện là công cụ để các bệnh
viện xác định chất lượng KCB của bệnh viện đang ở đâu, thông qua đó thấy được điểm
mạnh, điểm yếu của bệnh viện và xác định, lựa chọn các vấn đề ưu tiên và đề xuất các
biện pháp góp phần nâng cao chất lượng KCB, hướng tới mục tiêu cao nhất là đáp ứng
sự hài lòng của người bệnh. Đồng thời, Bộ tiêu chí hoàn thiện không chỉ phù hợp với
thực tiễn Việt Nam mà còn tiến tới hội nhập khu vực và thế giới:
Trước hết, tổ chức rà soát đánh giá các nội dung, các chỉ số của Bộ tiêu chí đánh
giá chất lượng bệnh viện gồm 83 tiêu chí đang áp dụng hiện nay; phát hiện những hạn
chế bất cập của các tiêu chí, chỉ số đánh giá của Bộ tiêu chí; so sánh, tiếp thu kinh
nghiệm từ các bộ công cụ của các nước trong khu vực và thế giới có điều kiện KTXH
tương đồng; đồng thời đánh giá việc tổ chức triển khai đánh giá chất lượng KCB của
bệnh viện của các Sở Y tế tỉnh, thành phố.
Từ các kết quả khảo sát đánh giá, đề nghị sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Bộ tiêu chí
đánh giá theo hướng: Bỏ những tiêu chí không hợp lý, những tiêu chí khó đánh giá phân
loại, sửa đổi những tiêu chí chưa phù hợp, bổ sung những tiêu chí thực tế đòi hỏi. Cụ thể:
141
Bãi bỏ các tiêu chí không phù hợp như: Tiêu chí A2.5 mức 5, câu 15 “có nhân viên
phiên dịch cho người bệnh khiếm thính đến khám”; Tiêu chí C4.6 mức 5, câu 14 “chất
thải lỏng…tái sử dụng cho một số hoạt động phù hợp”; B1.2 tiểu mục 5, có nhân viên y
tế phải trực 24/24h với tần suất cao, dưới 4 ngày 1 lần; C8.1 “Có ít nhất một phòng/đơn
vị xét nghiệm trong các lĩnh vực hóa sinh, huyết học, vi sinh đạt tiêu chuẩn ISO 15189
hoặc tương đương”; C9.2 “Có hệ thống vận chuyển thuốc tự động trong bệnh viện”; và
các tiêu chí khó lượng hóa và cải tiến như: Tiêu chí A2.5: “Người khuyết tật được tiếp
cận với các khoa, phòng, phương tiện và dịch vụ KCB trong bệnh viện” ; Trong phần C,
Tiêu chí C7.1: “Bệnh viện thiết lập hệ thống tổ chức để thực hiện công tác dinh dưỡng
và tiết chế trong bệnh viện”; C7.5: “Người bệnh được cung cấp chế độ dinh dưỡng, phù
hợp với bệnh lý trong thời gian nằm viện”; C10.1: “Tích cực triển khai hoạt động nghiên
cứu khoa học” vv. Sửa đổi các tiêu chí chưa phù hợp như: Tiêu chí về tủ đầu giường phải
có khóa, tiêu chí báo động đỏ trong bệnh viện; bổ sung các tiêu chí còn thiếu như tiêu chí
về chỉ đạo tuyến, đào tạo chuyển giao kỹ thuật cho tuyến dưới, tiêm chủng vắc xin vv.
Hoàn thiện Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện và trình Bộ trưởng Bộ Y tế
ban hành để triển khai thực hiện trên cả nước.
Thứ hai, xây dựng tài liệu hướng dẫn đánh giá chất lượng bệnh viện bao gồm cả
quy trình đánh giá trong đó lưu ý đến Quy trình hướng dẫn đánh giá sự hài lòng của
người bệnh và nhân viên y tế đối với chất lượng KCB của bệnh viện; tổ chức tập
huấn kỹ năng đánh giá cấp chứng chỉ cho người tham gia đánh giá. Đây là yêu cầu cần
thiết để việc tổ chức đánh giá được thống nhất và nâng cao tính chuyên nghiệp của đánh
giá viên và tổ chức đánh giá đảm bảo kết quả đánh giá chính xác, thống nhất giữa các
tỉnh thành phố và các tuyến KCB trên cả nước.
Thứ ba, Bộ Y tế, các Sở Y tế, các bệnh viện tăng cường tuyên truyền, phổ
biến Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện tới tất cả các bệnh viện, các khoa
phòng của bệnh viện thuộc địa bàn quản lý để các bệnh viện hiểu rõ mục đích, tầm
quan trọng của việc kiểm tra, đánh giá chất lượng bệnh viện hàng năm, để không
ngừng cải tiến chất lượng bệnh viện thông qua hình thức giao ban hàng tuần, tháng,
quý, hoặc sinh hoạt chuyên môn vv.
Thứ tư, bảo đảm các điều kiện cho việc thi hành Bộ tiêu chí đánh giá chất
142
lượng bệnh viện: kiện toàn, thành lập Hội đồng/ Phòng/Tổ/mạng lưới làm công tác cải
tiến chất lượng của bệnh viện; bố trí đủ nhân lực, ít nhất 01 cán bộ chuyên trách có đủ
năng lực thực hiện nhiệm vụ; quan tâm, đầu tư kinh phí để cải tiến một số nội dung
liên quan đến chất lượng bệnh viện, ưu tiên nội dung cần ít kinh phí và có thể cải
tiến được ngay. Đối với những nội dung chưa, khó cải tiến được ngay và cần nhiều
kinh phí thì cần có kế hoạch chuẩn bị, bố trí kinh phí và lộ trình thực hiện để đảm
bảo cải tiến chất lượng bệnh viện; ứng dụng công nghệ thông tin trong triển khai
QLCL bệnh viện.
4.2.5. Tăng cường công tác phổ biến, hướng dẫn, kiểm tra giám sát
quản lý chất lượng khám chữa bệnh của bệnh viện
Thứ nhất, tăng cường phổ biến, quán triệt nâng cao nhận thức cho đội ngũ
công chức QLNN, lãnh đạo các bệnh viện và cán bộ y tế về sự cần thiết quản lý chất
lượng KCB và các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, các quy định chuyên môn của Ngành y tế đã được ban hành, từng bước xây
dựng văn hóa chất lượng trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
Thứ hai, phổ biến, hướng dẫn, giới thiệu các mô hình QLCL mới, tiên tiến
mà các nước phát triển trên thế giới đang áp dụng như mô hình PDCA, TQM, ISO,
6 Sigma, Lean; phân tích ưu điểm của từng mô hình và lựa chọn các mô hình thích
hợp với từng loại hình bệnh viện và từng khu vực của bệnh viện. Ví dụ các phòng
chức năng, khoa khám bệnh, khoa lâm sàng hoặc toàn bệnh viện thích hợp với mô
hình PDCA hoặc ISO; các khoa xét nghiệm có thể áp dụng mô hình 6 Sigma hoặc
Lean; tổ chức triển khai các chương trình can thiệp nâng cao năng lực quản lý chất
lượng khám bệnh, chữa bệnh của các bệnh viện.
Thứ ba, xây dựng và thực hiện kế hoạch thanh kiểm tra quản lý chất lượng
KCB hàng năm, bao gồm cả thanh tra việc thực thi pháp luật của các Sở Y tế, Y tế
ngành về quản lý chất lượng KCB và công tác tự đánh giá chất lượng của các bệnh
viện và thẩm định/phúc tra kết quả tự đánh giá của các bệnh viện. Công bố công
khai kết quả kiểm tra và sử dụng kết quả kiểm tra để phân loại bệnh viện (kết quả
nghiên cứu của nghiên cứu sinh cho thấy có 43,2% bệnh viện đề nghị), xếp hạng
143
bệnh viện (35% bệnh viện đề nghị), xét thi đua khen thưởng (37,5% bệnh viện đề
nghị), tính giá dịch vụ y tế (18,2% bệnh viện đề nghị), phân bố thẻ BHYT (13%
bệnh viện đề nghị), thanh toán BHYT (12,7% bệnh viện đề nghị).
4.2.6. Thu hút, khuyến khích, huy động các nguồn lực cho quản lý
chất lượng khám, chữa bệnh
Trước hết, trên cơ sở nhu cầu của các bệnh viện, Bộ Y tế đối với các đơn vị
Trung ương, Sở Y tế đối với các địa phương tổng hợp xây dựng kế hoạch chung cho
toàn ngành, xây dựng dự toán kinh phí ưu tiên các hoạt động quan trọng cấp thiết
được lấy kinh phí từ nguồn NSNN và các nguồn thu khác có nguồn gốc NSNN.
Thứ hai, chủ động, tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật hỗ trợ kinh phí từ các tổ chức
quốc tế theo hướng xây dựng các dự án đề nghị các tổ chức quốc tế hỗ trợ.
Thứ ba, Đẩy mạnh hoạt động xã hội hóa trong quản lý chất lượng KCB của
bệnh viện. Kêu gọi sự tham gia ủng hộ của các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp
trong hoạt động quản lý chất lượng KCB.
Thứ tư, xây dựng cơ chế tham gia quản lý chất lượng KCB của người bệnh,
người dân và cộng đồng: nghiên cứu ban hành các quy chế phối hợp hoạt động giữa
bệnh viện với người bệnh và gia đình người bệnh.
Thứ năm, tổ chức các giải thưởng chất lượng khuyến khích thi đua, khen
thưởng đối với bệnh viện và cá nhân tiêu biểu trong hoạt động QLCL: Tổ chức các
hội thảo, diễn đàn về QLCL bệnh viện định kỳ hàng năm nhằm chia sẻ thông tin,
giới thiệu mô hình, sáng kiến cải tiến chất lượng của một số bệnh viện. Bình chọn
và trao giải thưởng chất lượng bệnh viện hằng năm; Xây dựng quy chế thi đua, khen
thưởng của ngành, lấy kết quả đánh giá chất lượng bệnh viện là một tiêu chí quan
trọng để xem xét đánh giá thi đua hàng năm của các bệnh viện.
4.2.7. Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý chất lượng khám,
chữa bệnh của bệnh viện
Thứ nhất, từng bước hoàn thiện cơ sở pháp lý cho phát triển y tế điện tử bao
gồm các hoạt động cụ thể: (1) Tiếp tục triển khai thực hiện Thông tư số
54/2017/TT-BYT về bộ tiêu chí ứng dụng công nghệ thông tin tại cơ sở khám, chữa
bệnh. Theo đó bộ tiêu chí gồm 08 nhóm tiêu chí về hạ tầng phần mềm quản lý điều
144
hành, phần mềm quản lý thông tin bệnh viện, phần mềm chẩn đoán hình ảnh, phần
mềm thông tin xét nghiệm, tiêu chí chức năng, tiêu chí bảo mật và an toàn thông tin,
phần mềm bệnh án điện tử và được chia làm 7 mức trong đó các cơ sở khám, chữa
bệnh đạt được từ mức 6 trở lên được gọi là bệnh viện thông minh; và bệnh viện đạt
được mức 7 là bệnh viện có thể không sử dụng bệnh án giấy. (2) Tiếp tục đẩy mạnh
triển khai thực hiện 3 chương trình y tế điện tử gồm: Chương trình 1- Xây dựng cơ
sở hạ tầng, triển khai thống kê y tế điện tử, từng bước hình thành trung tâm dữ liệu
y tế quốc gia; Chương trình 2 – Chỉ đạo triển khai thực hiện hồ sơ sức khỏe điện tử,
bệnh án điện tử và phần mềm quản lý trạm y tế xã, phường, thị trấn; Chương trình 3
– Xây dựng và vận hành hệ thống dịch vụ công trực tuyến một cửa Bộ Y tế, thực
hiện cơ chế một cửa quốc gia và cơ chế một cửa ASEAN phục vụ người dân và
doanh nghiệp, góp phần minh bạch hóa hoạt động của cơ quan nhà nước. (3) Khẩn
trương ban hành chính sách giá dịch vụ công nghệ thông tin trong giá dịch vụ y tế
theo đúng giá thị trường theo hướng giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho
bệnh viện.
Thứ hai, đẩy mạnh cải cách hành chính tại khoa khám bệnh của các bệnh
viện công lập, triển khai KCB trực tuyến, người dân, người bệnh có thể đăng ký
KCB trực tuyến góp phần giảm thiểu quá tải bệnh viện và tạo điều kiện thuận lợi
nhất cho người dân, người bệnh không phải chờ đợi.
Thứ ba, Các bệnh viện xây dựng và triển khai kế hoạch ứng dụng công nghệ
thông tin của bệnh viện phù hợp với các quy định của Bộ Y tế và tình hình thực tiễn
của đơn vị; tổ chức các hoạt động hướng dẫn, tư vấn, nghiên cứu khoa học và tăng
cường hợp tác quốc tế về công nghệ thông tin….
Thứ tư, củng cố các tổ chức, đơn vị tham mưu và triển khai ứng dụng công
nghệ thông tin ở Bộ Y tế và các bệnh viện, kiện toàn phòng công nghệ thông tin các
bệnh viện; tổ chức các hoạt động đào tạo, tập huấn cho đội ngũ cán bộ chuyên môn
công nghệ thông tin và cán bộ công chức, viên chức ở các Vụ, Cục thuộc Bộ Y tế
và các bệnh viện công lập.
4.2.8. Nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý chất lượng khám chữa
bệnh tại bệnh viện
145
Trước hết, Giám đốc các bệnh viện tổ chức quán triệt tới cán bộ, viên chức
của bệnh viện về các quan điểm chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước, các quy định của Ngành y tế về quản lý chất lượng KCB; chính sách, mục
tiêu, giải pháp chất lượng của bệnh viện để họ nắm vững, hiểu rõ và cùng nhau
thống nhất triển khai thực hiện.
Thứ hai, các bệnh viện căn cứ vào nhu cầu, xây dựng Chương trình kế hoạch
chất lượng hàng năm của bệnh viện; xây dựng mục tiêu chất lượng, chính sách chất
lượng và thực hiện các giải pháp QLCL, các hoạt động phòng ngừa đảm bảo an toàn
người bệnh, giảm thiểu sự cố y khoa trong khám bệnh, chữa bệnh.
Thứ ba, giám đốc các bệnh viện ban hành các văn bản chỉ đạo triển khai thực hiện
Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện; xây dựng quy chế phối hợp làm việc giữa các
Phòng/Hội đồng/Tổ/mạng lưới; kế hoạch cải tiến chất lượng hàng năm căn cứ vào kết
quả kiểm tra, đánh giá chất lượng bệnh viện của năm trước; kế hoạch tập huấn, phổ biến
về kiểm tra, đánh giá theo Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện.
Thứ tư, các bệnh viện thực hiện việc kiện toàn các Hội đồng của bệnh viện
như Hội đồng chất lượng, Hội đồng thuốc và điều trị Hội đồng Kiểm soát nhiễm
khuẩn, Hội đồng Điều dưỡng vv; kiện toàn và thành lập Phòng QLCL, bố trí đủ
nhân lực trong các phòng để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ; thiết lập hệ thống QLCL
tại đơn vị.
Thứ năm, nghiên cứu, đẩy mạnh triển khai áp dụng các mô hình phương
pháp quản lý mới trong QLCL bệnh viện; lựa chọn các mô hình như ISO, 6 Sigma,
PDCA, Lean để áp dụng cho bệnh viện hoặc từng khu vực hành chính, cận lâm
sàng, lâm sàng, phòng, khoa của bệnh viện. Xây dựng, duy trì và phát triển phong
trào QLCL tại bệnh viện trên cơ sở đó xây dựng văn hóa chất lượng bệnh viện.
Thứ sáu, tổ chức đào tạo, tập huấn cho cán bộ nhân viên bệnh viện nâng cao
kiến thức, kỹ năng về QLCL bệnh viện, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin,
xây dựng các phần mềm quản lý thuốc, thanh toán BHYT, kê đơn vv trong bệnh
viện. Có chính sách khuyến khích khen thưởng kịp thời và xử lý nghiêm các vi
146
phạm trong quản lý chất lượng KCB của bệnh viện.
Thứ bảy, đảm bảo các nguồn lực để thực hiện chương trình kế hoạch của
bệnh viện.
Kết luận Chương 4
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu tổng quan, cơ sở lý luận (luận cứ) và thực tiễn
(luận chứng) về quản lý chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện, Chương 4 của
Luận án đã tổng hợp, phân tích các quan điểm, chủ trương của Đảng ta về công tác
y tế, đặc biệt là công tác khám, chữa bệnh, trên cơ sở đó đưa ra 6 định hướng công
tác quản lý chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện và đề xuất một số nhóm giải
pháp mới về quản lý chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện công lập Việt Nam,
bao gồm:.
Một là, hoàn thiện và tổ chức thực hiện chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch về quản lý chất lượng khám, chữa bệnh;
Hai là, hoàn thiện và tổ chức thực hiện hệ thống pháp luật và quy chế chuyên
môn trong quản lý chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện;
Ba là, kiện toàn, nâng cao năng lực tổ chức bộ máy và đội ngũ quản lý nhà
nước về quản lý chất lượng khám, chữa bệnh;
Bốn là, hoàn thiện Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng khám, chữa bệnh của
bệnh viện Việt Nam;
Năm là, tăng cường công tác phổ biến, hướng dẫn, kiểm tra giám sát quản lý
chất lượng KCB của bệnh viện;
Sáu là, thu hút, khuyến khích, huy động các nguồn lực cho quản lý chất
lượng khám chữa bệnh;
Bảy là, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý chất lượng khám, chữa
bệnh của bệnh viện;
Tám là nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý chất lượng khám, chữa bệnh tại
bệnh viện.
Những giải pháp trên được thực hiện sẽ góp phần nâng cao chất lượng khám,
147
chữa bệnh của bệnh viện công lập Việt Nam, đáp ứng sự hài lòng của người bệnh.
KẾT LUẬN
Luận án là công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu thuộc chuyên ngành
quản lý hành chính công. Kết quả của Luận án được thể hiện qua các nội dung và
vấn đề chính sau đây:
Thứ nhất, luận án tổng quan được các công trình nghiên cứu trong nước và
nước ngoài liên quan đến đề tài luận án. Theo đó, có một số nội dung, vấn đề các
công trình nghiêu cứu đã làm rõ mà đề tài luận án cần thiết phải kế thừa, tuy nhiên
còn những vấn đề liên quan đến đề tài luận án mà các công trình nghiên cứu trong
nước và nước ngoài chưa đề cập hoặc đề cập nhưng chưa đầy đủ, chưa cụ thể,
chuyên sâu, toàn diện như tính cấp thiết quản lý chất lượng khám, chữa bệnh, các
khái niệm về bệnh viện, về khám, chữa bệnh về quản lý chất lượng khám, chữa
bệnh; những yếu tố liên quan đến quản lý chất lượng khám, chữa bệnh; nội dung
quản lý chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện, những bài học, kinh nghiệm
quốc tế có thể lựa chọn áp dụng tại Việt Nam. Thực trạng quản lý chất lượng khám,
chữa bệnh của bệnh viện hiện nay như thế nào, quan điểm, định hướng, về khám,
chữa bệnh và các giải pháp cụ thể để tăng cường quản lý chất lượng khám, chữa
bệnh của các bệnh viện công lập hiện nay. Những vấn đề trên cần được tìm hiểu,
nghiên cứu làm rõ trong đề tài luận án: Quản lý chất lượng khám chữa bệnh của
bệnh viện công lập Việt Nam.
Thứ hai, luận án đã làm rõ, sáng tỏ các khái niệm và những vấn đề liên quan
đến đề tài luận án bao gồm: khái niệm bệnh viện, phân loại bệnh viện, vai trò của
bệnh viện và bệnh viện công lập Việt Nam; khái niệm khám, chữa bệnh, chất lượng
khám, chữa bệnh, quản lý chất lượng và quản lý chất lượng khám, chữa bệnh của
bệnh viện; phân tích làm rõ nội dung quản lý chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh
viện. Theo đó, quản lý chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện bao gồm 2 cấp
độ: Cấp độ vĩ mô - quản lý nhà nước về chất lượng khám, chữa bệnh và cấp độ vi
mô - quản lý chất lượng khám, chữa bệnh tại bệnh viện; tìm hiểu, phân tích, chỉ ra
một số yếu tố liên quan tác động đến quản lý chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh
viện; tìm hiểu nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về quản lý chất lượng khám, chữa
148
bệnh, từ đó so sánh rút ra bài học kinh nghiệm về quản lý chất lượng khám, chữa
bệnh của bệnh viện có thể áp dụng tại Việt Nam. Đây là những luận cứ quan trọng
để hoàn thiện chính sách và đề xuất giải pháp quản lý chất lượng khám, chữa bệnh
của bệnh viện công lập Việt Nam.
Thứ ba, luận án mô tả và khái quát hóa hệ thống y tế, hệ thống mạng lưới
khám, chữa bệnh của Việt Nam; phân tích, đánh giá tổng quát chất lượng khám,
chữa bệnh của bệnh viện cả về số lượng lẫn chất lượng thông qua một số chỉ số cơ
bản từ các báo cáo và kết quả đánh giá chất lượng bệnh viện của Bộ Y tế và các Sở
Y tế. Đồng thời luận án khắc họa bức tranh thực trạng chất lượng khám, chữa bệnh
và quản lý chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện công lập thông qua đánh giá
cả về quản lý nhà nước về chất lượng khám, chữa bệnh lẫn quản lý chất lượng tại
các bệnh viện. Phân tích các kết quả đạt được, những hạn chế bất cập của công tác
quản lý nhà nước thể hiện ở các nội dung về chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch; hệ thống văn bản Luật và văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành
Luật; tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ; công tác thanh, kiểm tra; phân tích đánh
giá thực trạng Bộ công cụ đánh giá chất lượng bệnh viện được Bộ Y tế triển khai thí
điểm; phân tích đánh giá thực trạng quản lý chất lượng tại bệnh viện theo các nội
dung như việc xây dựng chương trình, kế hoạch quản lý chất lượng, lựa chọn hệ
thống quản lý chất lượng, tổ chức đảm bảo các điều kiện về bộ máy, đội ngũ quản
lý chất lượng và các đề xuất kiến nghị về quản lý chất lượng của các đơn vị. Luận
án phân tích đánh giá những mặt tích cực, ưu điểm trong hoạt động quản lý chất
lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện, những hạn chế, tồn tại cần khắc phục và
nguyên nhân của hạn chế, tồn tại. Đây là những luận chứng quan trọng để đề xuất
các giải pháp quản lý chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện công lập Việt
Nam.
Thứ tư, luận án phân tích các quan điểm, chủ trương của Đảng ta về công tác
y tế, đặc biệt là công tác khám, chữa bệnh, trên cơ sở đó nghiên cứu sinh đưa ra 6
định hướng công tác quản lý chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện và 8 nhóm
giải pháp quản lý chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện công lập Việt Nam:
Một là, hoàn thiện và tổ chức thực hiện chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch
149
về quản lý chất lượng khám, chữa bệnh; Hai là, hoàn thiện và tổ chức thực hiện hệ
thống pháp luật và quy chế chuyên môn trong quản lý chất lượng khám, chữa bệnh
của bệnh viện; Ba là, kiện toàn, nâng cao năng lực tổ chức bộ máy và đội ngũ quản
lý nhà nước về quản lý chất lượng khám, chữa bệnh; Bốn là, hoàn thiện Bộ tiêu chí
đánh giá chất lượng khám chữa bệnh của bệnh viện Việt Nam; Năm là, tăng cường
công tác phổ biến, hướng dẫn, kiểm tra giám sát quản lý chất lượng khám, chữa
bệnh của bệnh viện; Sáu là, thu hút, khuyến khích, huy động các nguồn lực cho
quản lý chất lượng khám, chữa bệnh; Bảy là, Ứng dụng công nghệ thông tin trong
quản lý chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện; Tám là, nâng cao hiệu quả hoạt
động quản lý chất lượng khám, chữa bệnh tại bệnh viện.
Luận án hoàn thành không chỉ góp phần bổ sung và làm phong phú thêm lý
luận về quản lý chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện; làm sáng tỏ một số vấn
đề lý luận của quản lý nhà nước về khám, chữa bệnh mà còn chỉ rõ thực trạng, cung
cấp những bằng chứng trên cơ sở đó đưa ra những định hướng và đề xuất một số
giải pháp hoàn thiện quản lý chất lượng khám, chữa bệnh của bệnh viện công lập
Việt Nam.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo hữu ích cho các nghiên cứu viên,
giảng viên và sinh viên trong công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập tại các cơ sở
đào tạo khoa học hành chính và y tế. Đồng thời, cũng có thể làm tài liệu tham khảo
đối với các cán bộ, công chức, viên chức, các nhà quản lý y tế trong công tác nghiên
cứu, thực hiện nhiệm vụ chuyên môn và hoạch định chính sách khám, chữa bệnh.
Tuy nhiên, trong phạm vi của một đề tài tiến sỹ, Luận án không tránh khỏi
những thiếu sót và hạn chế nhất định, Nghiên cứu sinh hy vọng đề tài luận án tiếp
tục được nghiên cứu sâu hơn, rộng hơn để góp phần hoàn thiện lý luận về quản lý
chất lượng khám, chữa bệnh, đồng thời cung cấp bằng chứng khoa học trong việc
xây dựng hoạch định chính sách y tế ở Việt Nam.
150
******
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Cao Hưng Thái (2002) "Nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý của đội ngũ
lãnh đạo, quản lý các đơn vị trực thuộc Bộ Y tế" Luân văn thạc sĩ.
2. Cao Hưng Thái “Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ - Giải pháp quan trọng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Bộ Y tế". Tạp chí Thông tin Y Dược số 3/2003;
3. Cao Hưng Thái “Đổi mới công tác bổ nhiệm cán bộ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý ở Bộ Y tế". Tạp chí Y học số 3(446)/2003;
4. Cao Hưng Thái, “Một số giải pháp nâng cao chất lượng đánh giá cán bộ ở Bộ
Y tế". Tạp chí Thông tin Y Dược số 4/2003;
5. Cao Hưng Thái, “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của
cơ quan quản lý nhà nước về dược". Tạp chí Dược học số 2A/2004;
6. Cao Hưng Thái, “Một số vấn đề về công tác quy hoạch cán bộ ở Bộ Y tế".
Tạp chí Thông tin Y Dược số 5/2004;
7. Cao Hưng Thái, "Nghiên cứu hoạt động của Hội đồng thuốc và điều trị tại một số bệnh viện đa khoa tuyến Trung ương và địa phương". Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ 2013.
8. Cao Hưng Thái “Quản lý chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh và vai trò trách nhiệm của các bên liên quan”. Tạp chí Y học thực hành (1015) số 7/2016
9. Cao Hưng Thái “Nghiên cứu mô hình, phương pháp quản lý chất lượng bệnh viện của một số bệnh viện tuyến trung ương trực thuộc Bộ Y tế”. Tạp chí Y học thực hành (1030) số 12/2016
10. Cao Hưng Thái “Kết quả bước đầu về triển khai thử nghiệm bộ câu hỏi đánh giá hài lòng người bệnh nội trú tại một số bệnh viện trên cả nước năm 2015”. Tạp chí Y học thực hành (1073) số 7/2018
151
11. Cao Hưng Thái “Kinh nghiệm quốc tế về quản lý chất lượng khám chữa bệnh và bài học kinh nghiệm áp dụng cho Việt Nam”. Tạp chí Y học thực hành (1076) số 8/2018
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương (2017), Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới, chủ biên.
2. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết 46 - NQ/TW ngày 23/02/2005 về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới, chủ biên.
3. Bộ Giáo dục và đào tạo (2005), Từ điển bách khoa toàn thư. 4. Bộ Y tế Báo cáo chung tổng quan ngành y tế JAHR các năm 2012,
2013, 2014, 2015.
5. Bộ Y tế Báo cáo công tác y tế các năm 2013, 2014, 2015, 2016. 6. Bộ Y tế (1997), Quyết định số 1895/1997/QĐ-BYT ngày 19/9/1997
về việc ban hành quy chế bệnh viện, chủ biên.
7. Bộ Y tế (2001), Chăm sóc sức khỏe nhân dân theo định hướng công
bằng và hiệu quả, chủ biên.
8. Bộ Y tế (2005), Thông tư số 23/2005/TT-BYT ngày 25/8/2005
Hướng dẫn xếp hạng các đơn vị sự nghiệp y tế, chủ biên.
9. Bộ Y tế (2013), Thông tư số 19/TT-BYT ngày 12/7/2013 về việc Hướng dẫn quản lý chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh tại bệnh viện, chủ biên.
10. Bộ Y tế (2014), Bộ tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện Việt
Nam, phiên bản 1.0, ed, NXB Y học.
11. Bộ Y tế (2015), Quản lý bệnh viện, Tài liệu đào tạo liên tục NXB Y
học Hà Nội.
12. Bộ Y tế (2015), Quản lý chất lượng bệnh viện, Tài liệu đào tạo liên
tục, NXB Y học Hà Nội.
13. Bộ Y tế (2015), Quyết định số 4276/QĐ-BYT ngày 14/10/2015 Phê duyệt “Chương trình hành động Quốc gia về nâng cao năng lực quản lý chất lượng khám bệnh, chữa bệnh giai đoạn từ nay đến năm 2025, chủ biên.
14. Bộ Y tế (2016), Báo cáo kết quả khảo sát điều tra của Bộ Y tế về
triển khai thực hiện bộ tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện, chủ biên.
15. Bộ Y tế (2016), Kế hoạch số 39/KH-BYT của Bộ Y tế về bảo vệ
chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2016-2020, chủ biên. 16. Bộ Y tế (2016), Niên giám thống kê y tế năm 2016, Bộ Y tế. 17. Chính phủ (2014), Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 Quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, chủ biên.
18. Chính phủ (2016), Nghị định số 109/2016/NĐ-CP ngày 01/7/2016 Quy định cấp chứng chỉ hành nghề đối với người hành nghề và cấp giấy phép hoạt động đối với cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, chủ biên.
152
Tiếng Việt:
19. Chính phủ (2017), "Nghị quyết số 139/NQ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2017 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW.".
20. Cục Quản lý Khám chữa bệnh Báo cáo công tác khám chữa bệnh
các năm 2013, 2014, 2015, 2016.
21. Cục Quản lý Khám chữa bệnh (2012), Báo cáo khảo sát thực trạng
triển khai quản lý chất lượng khám chữa bệnh tại các bệnh viện năm 2012.
22. Cục Quản lý khám chữa bệnh (2016), Báo cáo chất lượng công
chức năm 2016.
23. Lê Quang Cường (2015), "Chăm sóc sức khỏe và thị trường y tế". 24. Ban Bí thư Trung ương Đảng (2016), Kết luận số 118-KL/TW ngày 04/01/2016 về việc tiếp tục thực hiện thắng lợi Nghị quyết 46-NQ/BCT, chủ biên.
25. Đảng cộng sản Việt Nam Dự thảo Nghị quyết số 20/NQ-TW Hội nghị Ban chấp hành trung ương 6, khoa XII về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới, chủ biên.
26. Đảng cộng sản Việt Nam Nghị quyết số 19-NQ/TW Hội nghị lần
thứ 6, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII., chủ biên.
27. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, chủ biên, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XII, chủ biên, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
29. Vũ Tiến Dũng (2016), Quản lý nhà nước về bồi dưỡng viên chức có trình độ chuyên môn sau đại học tại các bệnh viện hạng đặc biệt ở Việt Nam, Học Viện hành chính Quốc gia.
30. Học viện hành chính quốc gia Giáo trình nhà nước và pháp luật, chủ
biên.
31. Học viện Hành chính quốc gia (2009), Quản lý Nhà nước đối với ngành, lĩnh vực, Tài liệu bồi dưỡng về QLNN chương trình chuyên viên cao cấp, NXB khoa học và kỹ thuật Hà Nội.
32. Học viện Hành chính Quốc gia (2013), Quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực tài liệu bồi dưỡng về Quản lý nhà nước, NXB Khoa học và kỹ thuật Hà Nội.
33. Lương Ngọc Khuê (2015), Thực hành lớp Quản lý chất lượng và an
toàn người bệnh, NXB Y học Hà Nội.
34. Nguyễn Minh Lợi (2017), Quản lý nhà nước về đào tạo nguồn lực điều dưỡng ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sỹ Quản lý hành chính công. 35. Trịnh Thị Lý (2012), Mô hình quản lý chất lượng bệnh viện và đề
xuất giải pháp áp dụng ở Hải Phòng.
36. Hamid, Maimunah A. và các cộng sự. (2004), Đo lường và Quản lý
chất lượng y tế, Viện Nghiên cứu hệ thống y tế - Bộ Y tế Malaysia.
153
37. Nguyễn Đình Minh (2015), "Quản trị tinh gọi Việt Nam đường đến
thành công", Nhà xuất bản đại học quốc gia Hà Nội.
38. Mosadeghrad, Ali Mohammad, "Về các yếu tố ảnh hưởng đến chất
lượng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ".
39. Nguyễn Huy Quang (2010), Quản lý nhà nước về pháp luật trong lĩnh vực y tế ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sỹ Quản lý Hành chính công. 40. Quốc hội Khóa VIII (1993), Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân, chủ
biên.
41. Quốc Hội khóa XII (2008), Luật công chức, chủ biên. 42. Quốc Hội Khóa XII (2009), Luật Khám bệnh chữa bệnh, chủ biên. 43. Quốc Hội Khóa XII (2010), "Luật Thanh tra". 44. Quốc Hội Khóa XII (2010), Luật Viên chức, chủ biên. 45. Quốc Hội Khóa XIII (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 2013, chủ biên.
46. Quốc Hội Khóa XIII (2015), Luật tổ chức Chính phủ, chủ biên. 47. Võ Kim Sơn (2004), Hành chính công, NXB Đại học quốc gia, Hà
Nội.
48. Phạm Văn Tác (2014), Quản lý nhà nước đối với cán bộ chuyên khoa sau đại học trong quản lý y tế, luận án Tiến sỹ Quản lý Hành chính công.
49. Trương Bảo Thanh (2016), Chính sách cạnh tranh trong cung ứng
dịch vụ y tế ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ quản lý hành chính công.
50. Hồ Thêm "Cẩm nang áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO
9001-2000", Nhà xuất bản Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
51. Thủ tướng Chính phủ, "Chương trình tổng thể cải cách hành chính
giai đoạn 2011-2020".
52. Thủ tướng Chính phủ Quyết định số 153/2007/QĐ-TTg về quy
hoạch ngành y tế giai đoạn đến 2010 và tầm nhìn 2020, chủ biên.
53. Thủ tướng Chính phủ (2008), Quyết định số 30/2008/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch phát triển mạng lưới KCB đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, chủ biên.
54. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 122/QĐ-TTg ngày 10 tháng 01 năm 2013 của Thủ Tướng chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030, chủ biên.
55. Thủ tướng chính phủ (2016), Quyết định số 2348/QĐ-TTg năm 2016 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt Đề án xây dựng và phát triển mạng lưới y tế cơ sở trong tình hình mới, chủ biên.
56. Lê Thu Thủy (2018), Nâng cao chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh của các bệnh viện trung ương trên địa bàn Hà Nội, luận án tiến sĩ kinh tế chính trị năm 2018.
154
57. Trường Đại học kinh tế quốc dân (2009), Giáo trình Quản lý chất
lượng, NXB Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.
58. Trường Đại học Kinh tế quốc dân (2012), Giáo trình Quản trị chất
lượng, Nhà xuất Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.
59. Ủy ban thường vụ quốc hội (2003), Pháp lệnh hành nghề y dược tư
nhân, chủ biên.
60. Viện nghiên cứu và đào tạo về quản lý (2005), Hành chính công và
quản lý hiệu quả của Chính phủ, Vol. tr 243, NXB lao động xã hội.
61. Nguyễn Thị Xuyên và và Lý Ngọc Kính (2010), Nghiên cứu khả năng áp dụng tiêu chuẩn ISO 9001: 2000 trong các cơ sở khám bệnh chữa bệnh.
62. M.S, Alaraki (2014), "The
impact of critical
total quality management practices on hospital performance in the ministry of health hospitals in Saudi Arabia", Qual Manag Health Care. 23(1), tr. 59-63.
63. Beholz S, Koch C & Konertz W (2003), "[Certification and quality management of a complex university cardiac center according to law EN ISO 9001: 2000]", Z Arztl Fortbild Qualitatssich. 97(2), tr. 141-4.
64. W, Behol S & Konertz (2006), "[Customer satisfaction with a quality management system according to DIN EN ISO 9001:2000: Increase in the satisfaction of cooperating clinics]", Z Arztl Fortbild Qualitatssich. 100(3), tr. 197-201.
65. W, Beholz S & Konertz (2005), "Improvement in cost-effectiveness and customer satisfaction by a quality management system according to EN ISO 9001:2000", Interact Cardiovasc Thorac Surg. 4(6), tr. 569-73.
66. Beholz S, Koch C & Konertz W (2003), "Quality management system of a university cardiac surgery department according to DIN EN ISO 9001 : 2000", Thorac Cardiovasc Surg. 51(3), tr. 167-73.
67. Buciuniene I., Malciankina S. Lydeka Z. & Kazlauskaite, "Managerial attitude to the implementation of quality management systems in Lithuanian support treatment and nursing hospitals", BMC Health Serv Res. 6, tr. 120.
68. A., Donabedian (1980), "Explorations in quality assessment and monitoring. The definition of quality and approaches to its assessment, Ann Arbor", MI: Health Administration Press.
69. Duvauferrier R, Badonnel S, Vannoorenberghe Y, Philippe C, Hamon J, Rambeau M, De Korvin B, Milon J, Rolland Y (2002), "Process management in a radiology department. Impact on the quality system", J Radiol. 83(1), tr. 13-25.
70. C., Grönroos (2001), "The Perceived Service Quality Concept-A
Mistake?", Managing Service Quality. 11, tr. 150-3.
155
71. J., Hansson
(2000), "Quality
in health care. Medical or
managerial?", J Manag Med. 14(5-6), tr. 357-61.
72. Heidari Gorji AM và JA., Farooquye (2011), "A comparative study of total quality management of health care system in India and Iran", BMC Res Notes. 28(4), tr. 566.
73. Helbig M., Helbig S., Kahla-Witzsch H. A. & May A. (2009), time and efficiency reduction of waiting "Quality management: enhancement in an ENT-university outpatients' department", BMC Health Serv Res. 9.
74. Jack A. Meyer, Sharon Silow-Carroll, Todd Kutyla, Larry S. Stepnick and Lise S. Rybowski (2004), "Hospital quality: Ingredients for success-overview and lesonns learned".
75. Øvretveit, John (1992), Health Service Quality, Blackwell Scientific
Press, Oxford.
76. Konan page (1994), "Rich color excellence in management action
guide kogan page Ltd".
77. Lebuisson và các cộng sự. (2005), "[ISO 9001-2000 certification for
refractive laser treatment]", J Fr Ophtalmol. 28(5), tr. 562-70.
78. Lorenzen và các cộng sự. (2009), "Certified Quality Management According to DIN ISO 9001 in a Radiology Department at a University Hospital: Measurable Changes in Academic Quality Indicator?". Rofo.
79. Nicolay CR, Purkayastha S, Greenhalgh A, Benn J, Chaturvedi S, Phillips N, Darzi A (2012), "Systematic review of the application of quality improvement methodologies from the manufacturing industry to surgical healthcare.", Br J Surg. 2012 Mar. 99(3), tr. 324-35.
80. Pereira P, Westgard JO, Encarnação P, Seghatchian J, de Sousa G (2015), "Quality management in European screening laboratories in blood establishments: A view of current approaches and trends. Transfus Apher Sci. ". pii:S1473-0502(15), tr. 00025-7.
81. Revere L, Black K. (2003), "Integrating Six Sigma with total quality management: a case example for measuring medication errors", J Healthc Manag. 48(6), tr. 377-91.
82. Rizzi F, Pizzuto M, Lodetti L, Corli O, Da Col D, Damiani ME, Mihali D, Piva L, Saita L, Vinci M, Bonaldi A, "Milan Palliative Care Group Investigators. Et al. Quality for home palliative care: an Italian metropolitan multicentre JCI-certified model.".
83. Seki A, Kugawa S, Miya T. (2014), "Usefulness of the authorized acquysition of ISO 15189 in registered clinical laboratories", Rinsho Byori. 62(6), tr. 629-34.
156
84. Selbmann HK (2004), "Assessment and certification of hospital care Gesundheitsforschung
Bundesgesundheitsblatt
Germany.
in Gesundheitsschutz". 47(2), tr. 103-10.
85. Song P, Li W, Zhou Q1. (2014), "An outpatient antibacterial stewardship intervention during the journey to JCI accreditation", BMC Pharmacol Toxicol. 15:8. , tr. doi: 10.1186/2050-6511-15-8.
86. Sussmane JB, Torbati D, Gitlow HS. (2012), "Measuring the quality of therapeutic apheresis care in the pediatric intensive care unit", J Clin Apher. 27(2), tr. 43-50.
87. Tekkesin N, Kilinc C, Keskin K. (2010), "Types and frequencies of pre-analytical mistakes in the first JCI:2002 accredited hospital in Turkey", Clin Lab. 56(11-12), tr. 553-7.
88. Website: www.health-toursim.com.thailand-hospitals, truy cập ngày,
tại trang.
89. World Health Organization (2000), "The World Health Report
2000: health systems: improving performance. Geneva.".
90. World health organization (2006), "Constitution of the World
Health Organization basic-document, footy-youth edition, supplement".
157