VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DƯƠNG THỊ LAN ANH

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIÊN CHỨC NGÀNH Y TẾ

- TỪ THỰC TIỄN TỈNH THANH HÓA

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số : 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪ N KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN VĂN QUÂN

HÀ NỘI, năm 2021

1

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo Học viện Khoa học Xã hội (Viện

Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam), Lãnh đạo Bệnh viện Nhi tỉnh Thanh

Hóa đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi được tham dự và hoàn thành khóa học

Thạc sĩ về Luật Hiến pháp và luật hành chính.

Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Văn Quân cùng các thầy cô

trong Học viện Khoa học Xã hội đã hướng dẫn và trang bị cho tôi kiến thức

chuyên sâu về luật học để làm cơ sở cho tôi thực hiện thành công Luận văn

này.

Xin chân thành cảm ơn Sở Y tế tỉnh Thanh Hóa đã giúp đỡ tôi trong

quá trình khảo sát, thu thập số liệu phục vụ cho quá trình nghiên cứu, viết

Luận văn.

Trân trọng!

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Dương Thị Lan Anh

2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu

độc lập của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu trong

luận văn là trung thực và chưa được công bố trong

các công trình khoa học khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Dương Thị Lan Anh

3

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Chính quyền địa phương: CQĐP

Cơ quan nhà nước: CQNN

Khám, chữa bệnh: KCB

Quản lý nhà nước: QLNN

Thủ tục hành chính: TTHC

Ủy ban nhân dân: UBND

Xã hội chủ nghĩa: XHCN

Xử phạt vi phạm hành chính: XPVPHC

4

DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Bảng 1. Các cơ sở khám, chữa bệnh ngoài công lập trên địa bàn tỉnh Thanh

Hóa ................................................................................................................ 39

Bảng 2. Cơ cấu chức danh viên chức của các bệnh viện .............................. 66

Biểu đồ 1. So sánh phân bố số lượng bác sĩ trên 1.000 dân giữa các nước

trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương của Tổ chức Y tế Thế giới ......... 20

Biểu đồ 2. So sánh phân bố số lượng điều dưỡng trên 1.000 dân giữa các nước

trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương của Tổ chức Y tế Thế giới ......... 21

5

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 7

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VIÊN CHỨC ................................................. 14

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước ................................. 14

1.2. Chủ thể, nội dung quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế ......... 24

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế.... 29

Tiểu kết Chương 1 ........................................................................................... 35

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIÊN

CHỨC NGÀNH Y TẾ TẠI TỈNH THANH HÓA ..................................... 36

2.1. Khái quát chung hệ thống y tế của tỉnh Thanh Hóa ................................. 36

2.2. Thực tiễn Quản lý Nhà nước đối với viên chức ngành y tế ở Thanh Hóa41

2.3. Đánh giá chung về Quản lý Nhà nước đối với viên chức ngành y tế tại

Thanh Hóa ....................................................................................................... 44

Tiểu kết Chương 2 ........................................................................................... 53

CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIÊN CHỨC NGÀNH Y TẾ TỈNH

THANH HÓA ................................................................................................ 54

3.1. Quan điểm về quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế ................ 54

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế . 61

Tiểu kết Chương 3 ........................................................................................... 73

KẾT LUẬN .................................................................................................... 74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 80

6

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Năm 1891, Bác sĩ Alexandre Yersin đến Nha Trang (Việt Nam), ông

viết thư cho mẹ của mình: “Mẹ hỏi con có thích ngành y không. Có và không.

Con rất vui được chữa trị cho những người đến nhờ con khám, nhưng con

không muốn biến y học thành một cái nghề, nghĩa là con sẽ không bao giờ có

thể đòi một người bệnh trả tiền vì đã chữa bệnh cho người đó. Con coi y học

là thiên chức, là mục vụ. Đòi tiền để chữa trị cho bệnh nhân thì chẳng khác

nào nói với người đó rằng: tiền hay mạng sống.” [16, tr.85] Ngày nay, dù y tế

là một lĩnh vực dịch vụ có tính chất thị trường, song sứ mệnh chăm sóc sức

khỏe cho mọi người vẫn là một sứ điệp cao cả. Trong đó, viên chức ngành y

tế - trung tâm của hoạt động KCB - luôn gánh vác bổn phận nghề nghiệp và y

đức như một lựa chọn duyên định.

Từ góc độ chính sách quản lý, Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày

23/10/2005 của Bộ chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức

khỏe nhân dân trong tình hình mới đã chủ trương: “Nghề y là một nghề đặc

biệt, cần được tuyển chọn, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ đặc biệt...”. [36]

Điều này cho thấy sự nhất quán trong nhận thức và chính sách của Việt Nam

đối với nghề y và viên chức y tế. Trước đó, trong một thời gian dài, quản lý

nhà nước đối với viên chức ngành y tế tương tự như đối với cán bộ, công

chức; chưa tính đến những đặc thù nghề nghiệp và y đức, gián tiếp làm hạn

chế chất lượng của đội ngũ viên chức y tế. Việc nghiên cứu, ban hành chính

sách phù hợp, bảo đảm tuyển dụng được viên chức y tế tài năng và tận tâm

cần tiếp tục được đặt ra trong bối cảnh kinh tế - xã hội của Việt Nam có nhiều

sự thay đổi, các nhu cầu KCB của người dân trở nên đa dạng và đòi hỏi chất

lượng cao hơn.

7

Thanh Hóa cũng không nằm ngoài xu hướng trên, là một tỉnh đông dân,

địa bàn dân cư rộng lớn đã tạo ra nhiều trở lực trong quá trình chăm sóc sức

khỏe cho người dân trong tỉnh. Thách thức thường gặp (dường như ở tất cả

các tỉnh, thành địa phương) là đội ngũ y, bác sĩ, nhân viên y tế tuyến dưới vừa

thiếu, vừa chưa đáp ứng được nhu cầu KCB. Hiện tượng bệnh viện tuyến

dưới trống trải trong khi bệnh viện tuyến tỉnh, trung ương quá tải phản ánh

những bất cập, hạn chế trong QLNN về viên chức ngành y tế. Bằng thực tiễn

đang triển khai, ngành y tế Thanh Hóa cho thấy hướng đi đúng trong quản lý

viên chức ngành như: quản lý hiệu quả và yêu cầu cao đối với viên chức y tế;

tổ chức và phân phối hiệu quả nguồn lực của hệ thống cơ sở khám chữa bệnh

hiện nay; thực hiện tự chủ tại các cơ sở KCB khu vực công, phát triển cơ sở

KCB tư nhân ... Tuy nhiên, cách làm của Thanh Hóa chưa được đánh giá

bằng các nghiên cứu quản lý chuyên sâu, đó chính là khoảng trống mà đề tài

này hướng đến giải quyết.

Từ các lý do trên, học viên lựa chọn đề tài “Quản lý nhà nước đối với

viên chức ngành y tế - từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa” nhằm khai thác các

kinh nghiệm Thanh Hóa đạt được, cùng với các thách thức trong quá trình

quản lý, có thể cung cấp thông tin và phương pháp hữu ích cho các địa

phương khác; đồng thời, cung cấp các khía cạnh quản trị y tế giữa trung ương

- địa phương nhằm tiến tới một hệ thống quản lý tối ưu và bền vững.

2. Tình hình nghiên cứu

Quản lý viên chức trong lĩnh vực y tế đã được giới nghiên cứu Việt

Nam quan tâm từ góc độ quản lý chung và từ đặc thù ngành y nói riêng. Từ

mục tiêu nghiên cứu của đề tài, học viên đã chọn khảo cứu hai (02) nhóm

công trình, gồm (i) các công trình nghiên cứu về quản lý viên chức chung

nhằm xây dựng khung lý thuyết về QLNN đối với viên chức ở Việt Nam; (ii)

các công trình quản lý viên chức y tế nhằm tìm ra các thách thức trong quản

8

lý chuyên ngành, kết hợp với thực tiễn tại địa phương để đề xuất các giải pháp

quản lý mang lại hiệu quả cao. Cụ thể:

(i) Các công trình nghiên cứu về quản lý viên chức (chung)

Phạm Hồng Thái: Sự điều chỉnh của pháp luật về viên chức (2009)

[21]; Bùi Đức Kháng: Đổi mới phương thức và nâng cao chất lượng đào tạo,

bồi dưỡng đội ngũ cán bộ - công chức nhà nước đáp ứng yêu cầu hội nhập

(2010) [12]; Hồ Đức Việt: Đổi mới công tác tổ chức, cán bộ đáp ứng yêu cầu

đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (2010) [25]; Phạm Hồng

Thái, Nguyễn Đăng Dung, Nguyễn Ngọc Chí: Phân cấp quản lý nhà nước

(2011) [22]; Trần Anh Tuấn: Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý viên chức trong

các đơn vị sự nghiệp công lập (2011) [20]; Lê Minh Hương: Một số vấn đề về

tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức theo Nghị định số 29/NĐ-CP của

Chính phủ (2012).[11]; Trần Văn Long: Quản lý nhà nước về viên chức giáo

dục từ thực tiễn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng (2018); Nguyễn Xuân

Thu: Đổi mới tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức: nhìn từ các trường

đại học công lập (2020).

(ii) Các công trình nghiên cứu về quản lý viên chức y tế

Vũ Tiến Dũng: Quản lý nhà nước về đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ

viên chức tại các bệnh viện công - Từ thực tiễn bệnh viện Bạch Mai Hà Nội

(2011) [4]; Nguyễn Thu Hằng: Quản lý nhà nước đối với viên chức y tế ngành

Xây dựng ở Việt Nam hiện nay (2013) [7]; Nguyễn Thị Thu Hằng: Quản lý

nhà nước đối với viên chức y tế ở Việt Nam hiện nay (2013) [8]; Phạm Văn

Tác: Quản lý nhà nước đội ngũ cán bộ chuyên khoa sau đại học trong lĩnh

vực Y tế (2014) [19]; Kiều Linh: Quản lý nhà nước đối với phát triển nguồn

nhân lực ngành y tế trên địa bàn thành phố Đà Nẵng (2014). [14]; Phạm

Ngọc Bích: Đánh Giá Viên Chức Ở Các Bệnh Viện Công Lập Thuộc Sở Y Tế

Hà Nội (2017).

9

Đánh giá tình hình nghiên cứu:

Các công trình nghiên cứu về quản lý viên chức chung đã khái quát

những vấn đề cơ bản về QLNN, phân biệt QLNN với các loại hình quản lý

khác. Tuy nhiên, các công trình này mới chỉ dừng ở việc nghiên cứu những

vấn đề cơ bản có tính lý luận về quản lý, QLNN và QLNN đối với ngành, lĩnh

vực mà chưa có những nghiên cứu chuyên sâu giải quyết những vấn đề cụ thể

trong quản lý.

Các công trình nghiên cứu về quản lý viên chức y tế nhìn chung đã khái

quát được một số thách thức trong quản lý viên chức y tế thời gian qua. Các

công trình này đã chỉ ra được những bất lợi cố hữu khi Việt Nam duy trì cách

quản lý người làm trong ngành y như các công chức hành chính nhà nước, từ

đó làm giảm hiệu quả quản lý, tạo ra các vấn nạn trong ngành y. Một trong số

các giải pháp mà tác giả hướng đến, đồng thời là hướng đi của tỉnh Thanh

Hóa thời gian qua là thực hiện cơ chế tự chủ đối với các bệnh viện công lập,

xã hội hóa dịch vụ y tế, thúc đẩy sự phát triển của các bệnh viện tư nhằm tăng

sự cạnh tranh lành mạnh trong cung cấp dịch vụ KCB cho người dân. Nhìn

chung, các công trình đã phần nào cung cấp các giải pháp để giải quyết thực

tiễn quản lý của ngành, địa phương. Đối với Thanh Hóa, đề tài này sẽ cung

cấp, đánh giá và củng cố các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý viên

chức trong hệ thống y tế của tỉnh.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của luận văn là nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, pháp

lý về quản lý viên chức ngành y tế gắn với thực tiễn tự chủ hóa ngành y tế tại

tỉnh Thanh Hóa; từ đó đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý

viên chức ngành y tế tại các cơ sở KCB tuyến tỉnh trở xuống.

10

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ cụ

thể sau đây:

- Làm rõ những vấn đề lý luận, pháp lý về QLNN đối với viên chức

ngành y tế như: làm rõ các khái niệm công cụ; khái quát đặc điểm, vai trò và

các yếu tố tác động đến việc QLNN đối với viên chức ngành y tế.

- Phân tích, đánh giá thực trạng (Chương 2) dựa trên khung lý thuyết

của Chương 1 nhằm chỉ ra các kết quả đạt được, các hạn chế trong QLNN đối

với viên chức ngành y tế. Theo đó, tác giả đã kiểm chứng chủ trương tự chủ

đối với các cơ sở y tế công lập trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa để rút ra các kinh

nghiệm quản lý cho các địa phương khác ở Việt Nam.

- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN đối với viên chức ngành

y tế, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ KCB tại các cơ sở KCB tuyến tỉnh

trở xuống.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các lý

thuyết, quan điểm về QLNN đối với viên chức y tế; hệ thống văn bản chính

sách, pháp luật về QLNN đối với viên chức y tế.

Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về QLNN đối với viên

chức ngành y tế tại tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn từ năm 2010 đến 2020.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp luận

Trên cơ sở nhận thức về chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vậy

biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tác giả luận giải các vấn về chính sách,

pháp luật về quản lý viên chức phù hợp với bối cảnh chính trị - xã hội của địa

phương và quốc gia. Tác giả cũng nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh và các

quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về quản lý viên chức, kết

11

hợp với thực tiễn của QLNN đối với viên chức tại cơ sở y tế tuyến tỉnh để

định hướng cho nghiên cứu của mình.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp phân tích quy phạm: Đây là phương pháp trọng tâm của

các nghiên cứu ngành luật. Phương pháp này dùng để phân tích các quy phạm

thể hiện trong hiến pháp, các đạo luật, văn bản dưới luật và trong các văn kiện

của Đảng.

Phương pháp phân tích tư liệu: được dùng trong toàn bộ luận văn. Các

tư liệu có thể xếp loại thành các nhóm: văn bản (pháp lý, chính trị, hành

chính); công trình khoa học (tạp chí chuyên ngành, sách chuyên khảo); bài

viết đăng báo (viết, trả lời phỏng vấn, phản biện).

Phương pháp lịch sử: Quá trình nghiên cứu cũng cần đặt trong bối cảnh

lịch sử cụ thể tránh đi vào sự quy chiếu võ đoán. Các lý giải và giải pháp (nếu

có) cũng sẽ cần được cân nhắc dựa vào các bối cảnh kinh tế - chính trị - xã

hội cụ thể.

Ngoài những phương pháp nghiên cứu chuyên ngành nêu trên, phương

pháp nghiên cứu định tính cũng được triển khai trong trường hợp cần tìm hiểu

sâu, chi tiết về một vấn đề mà các số liệu thống kê không mô tả được bản chất

hoặc thiếu sự tin cậy, khó xác thực.

6. Đóng góp về khoa học của luận văn

Một là, luận văn phân tích, luận giải và khái quát các nghiên cứu trước

đó để xây dựng khung lý thuyết nhằm luận giải mô hình QLNN đối với viên

chức trong ngành y tế của Việt Nam hiện nay;

Hai là, luận văn kiểm chứng từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa để chỉ ra giải

pháp trao quyền tự chủ cho các cơ sở KCB công lập, trong đó quyền tự chủ

trong đào tạo, tuyển dụng, sử dụng viên chức y tế đã giúp Thanh Hóa nhanh

chóng tạo lập được hệ thống y tế tuyến tỉnh trở xuống đáp ứng được nhu cầu

KCB của địa phương. Đây là những kinh nghiệm có thể giúp các địa phương

12

khác triển khai trong thời gian tới nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của

ngành y tế bằng các biện pháp quản lý phù hợp đối với viên chức trong

ngành.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các chữ viết tắt và danh mục

tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu gồm ba (03) Chương:

Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật của quản lý nhà nước về

viên chức;

Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế

tại tỉnh Thanh Hóa;

Chương 3. Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước

đối với viên chức ngành y tế tỉnh Thanh Hóa.

13

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT

CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VIÊN CHỨC

1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước

1.1.1. Khái niệm

Quản lý

Quản lý là một hiện tượng sinh ra khi con người cần giải quyết các vấn

đề của cuộc sống nhằm duy trì trật tự xã hội chung. Quản lý là một hiện tượng

đa diện. Tính đa diện và phức tạp của quản lý là bởi trong quản lý cả chủ thể

và khách thể của tác động quản lý là con người - một chủ thể phức tạp bậc

nhất trong số các sinh vật sống tổ chức được đời sống dạng xã hội.

Từ phương diện triết học, trong các ấn phẩm triết học (B. Rassel, K.

Popper, K. Jaspers), quản lý được phân tích từ quan điểm về tính chất tự quản

của xã hội. Các luận điểm và kết luận của tư duy triết học tạo nên cơ sở

phương pháp luận và thế giới quan nhận thức khoa học và hoàn thiện thực tế

của quản lý, tạo khả năng định hướng cho những tìm tòi sáng tạo. [6, tr.50]

Từ phương diện xã hội học những khía cạnh quan trọng của quản lý đã

được (K. Marx, M. Veber, T. Beblen, D. Bernkhem), phát hiện và chứng

minh sự lệ thuộc, mối tương quan giữa mức độ trật tự của các quá trình xã hội

và tình trạng quản lý. Đồng thời chỉ ra tính hai mặt của quản lý (tính xã hội và

tính giai cấp), về chế độ quan liêu/thư lại trong quản lý, hay đồng nhất quản lý

với sự điều khiển tự động hóa trong các hệ thống cơ giới - công nghệ.[6,

tr.51]

Từ phương diện kinh tế, các nhà kinh tế học là những người đã đặt nền

tảng cho việc quản trị - lý thuyết quản lý công việc, kinh doanh, sản xuất, dịch

vụ. Sự tổng hợp những tri thức kinh tế và công nghệ do G. Ford, F. Taylor, G.

Emerson, A. Fiol và những chuyên gia nổi tiếng khác thực hiện. Lý thuyết

14

của các tác giả này đã đặt nền tảng cho sự hình thành hệ thống tri thức mà

ngày nay gọi là “lý luận quản lý”. [6, tr.53]

Quản lý từ phương diện chính trị, quản lý là hiện tượng gắn với quyền

lực, xuất phát từ quyền lực và dựa vào quyền lực, thu hút quyền lực vào các

tác động quản lý. Nói cách khác bản chất của quản lý là quyền lực, được ghi

nhận bởi thể chế, được thực hiện bởi các thiết chế nhà nước, xã hội, được bảo

đảm bởi cơ sở vật chất - tài chính, bằng những hình thức, phương pháp khác

nhau. Trong quản lý thể hiện các khía cạnh chính trị đặc trưng cho khả năng

của quản lý trong việc phân bổ các giá trị và chấn chỉnh, trật tự hóa các quan

hệ, quá trình xã hội.

Quản lý là hiện tượng có quan hệ gắn kết với pháp luật, trong nhiều

trường hợp quản lý tiếp thụ hình thức pháp luật, sử dụng sức mạnh pháp luật,

được thực hiện theo các thủ tục do pháp luật quy định. Các khía cạnh pháp

luật của quản lý có tính chất nguyên tắc đối với thực tiễn quản lý. Trong quản

lý tồn tại các hình thức lao động khác nhau của con người, sử dụng các công

cụ và phương tiện lao động tương ứng, được pháp luật điều chỉnh. Vì vậy,

trong các giáo trình luật hành chính, thường quan niệm, bản chất của quản lý

nhà nước là hoạt động chấp hành và điều hành [26, tr.32], pháp luật là cơ sở

của QLNN, điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quản lý.

Như vậy, quản lý được nhìn nhận, tiếp cận từ nhiều góc nhìn khác

nhau: triết học, chính trị, lịch sử, tư tưởng, pháp luật, kinh tế, tâm lý-xã hội,

phương tiện-điều kiện, thông tin, sư phạm … đều có ý nghĩa nhận thức, làm

sáng tỏ một mặt riêng biệt nào đó của hiện tượng xã hội phức tạp này. Mỗi

khía cạnh nghiên cứu đều thực hiện chức năng nhận thức của con người, do

đó không nên đặt chúng đối lập nhau, không nên tuyệt đối hóa phương diện

nào. Để quản lý tốt trong thực tiễn phải biết tiếp thu, kết hợp tất cả các kết

quả nghiên cứu từ những phương diện khác nhau một cách logic. Vì vậy,

15

quản lý không chỉ là một khoa học, mà còn là sự kết hợp các tri thức để quản

lý, để giải quyết những vấn đề xã hội đặt ra với quản lý.

Từ những phân tích trên, có thể hiểu: “Quản lý” là sự tác động có tổ

chức, mang tính quyền lực, có chức năng điều chỉnh làm thay đổi đời sống

của con người theo hướng tích cực hoặc tiêu cực.

Quản lý nhà nước

Nhà nước với tư cách là một thiết chế xã hội, có cơ cấu, đội ngũ công

chức và nguồn lực lớn nhất trong xã hội. Mặt khác, nhà nước quản lý, tác

động đến các quá trình xã hội, tác động đến các khách thể của quản lý nhằm

đạt được những mục tiêu đã định, nhằm làm thay đổi hiện thực đời sống xã

hội, đời sống các cá nhân, tổ chức theo hướng tích cực, phát triển. Nhà nước,

hay QLNN cũng xoay quanh những nội dung này. Quản trị nhà nước, hành

chính, QLNN chỉ là thuật ngữ được sử dụng để gán, hay thể hiện cho hiện

tượng mà nhà nước phải thực hiện.

Xuất phát từ quan niệm, quản trị là một loại hình của quản lý, thì quản

trị nhà nước chỉ là một bộ phận của QLNN. QLNN bao gồm hai bộ phận:

quản lý/quản trị các công việc nội bộ nhà nước, quản lý những gì mà nhà

nước đang nắm giữ và quản lý tác động ra bên ngoài nhà nước - tác động đến

các quá trình chính trị, kinh tế - xã hội, tác động đến cá nhân, tổ chức - tác

động đến các khách thể của QLNN.

Theo đó, QLNN được hiểu là hoạt động chấp hành, điều hành có tổ

chức bởi hệ thống cơ quan hành chính nhà nước.

Quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế

Quản lý viên chức y tế được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. [18]

Theo nghĩa hẹp, QLNN đối với viên chức ngành y tế là việc cơ quan có

thẩm quyền QLNN ban hành văn bản quy phạm pháp luật; tổ chức thực hiện

văn bản quy phạm pháp luật; thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo,

16

khen thưởng, kỷ luật; báo cáo tổng kết, đánh giá công tác QLNN đối với viên

chức ngành y tế.

Theo nghĩa rộng, QLNN đối với viên chức ngành y tế là việc cơ quan

có thẩm quyền QLNN ban hành văn bản quy phạm pháp luật; tổ chức thực

hiện văn bản quy phạm pháp luật; thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố

cáo, khen thưởng, kỷ luật; báo cáo tổng kết, đánh giá công tác QLNN về lĩnh

vực y học; quản lý đối với nguồn nhân lực, tổ chức bộ máy, nguồn tài chính,

cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ trong lĩnh vực y tế.

QLNN đối với viên chức ngành y tế là một bộ phận cấu thành hoạt

động QLNN đối với viên chức nói chung bảo đảm cho hoạt động thực thi

quyền hành pháp của nhà nước có hiệu lực và hiệu quả. Do vậy, hoạt động

quản lý viên chức y tế có những đặc điểm sau:

(i) QLNN đối với viên chức ngành y tế mang tính quyền lực đặc biệt,

tính tổ chức rất cao và tính mệnh lệnh đơn phương của cơ quan có thẩm

quyền QLNN đối với lĩnh vực y tế. Tính quyền lực ấy là đặc điểm để phân

biệt hoạt động QLNN với hoạt động quản lý khác và phân biệt hoạt động

QLNN đối với viên chức y tế với hoạt động QLNN đối với viên chức khác;

(ii) QLNN đối với viên chức ngành y tế có mục tiêu, chiến lược,

chương trình kế hoạch để thực hiện mục tiêu; do vậy hoạt động QLNN đối

với viên chức ngành y tế cũng có mục tiêu riêng, để thực hiện được mục tiêu

này cần phải thiết lập một hệ thống các chương trình, kế hoạch dài hạn, trung

hạn, ngắn hạn;

(iii) QLNN đối với viên chức ngành y tế mang tính chủ động, sáng tạo,

liên tục và chuyên môn hóa nghề nghiệp cao, linh hoạt trong việc điều hành,

phối hợp, huy động mọi lực lượng để đạt được mục tiêu;

(iv) QLNN đối với viên chức ngành y tế mang tính thứ bậc chặt chẽ,

không có sự cách biệt giữa người quản lý và người bị quản lý, không vì lợi

17

nhuận và nhân đạo; tính thứ bậc được thể hiện trong QLNN đối với viên chức

ngành y tế ngay từ khi xây dựng hệ thống viên chức y tế.

Hoạt động QLNN đối với viên chức ngành y tế để nhằm phục vụ cộng

đồng do vậy xét tổng thể cùng mục tiêu chung của các cơ quan nhà nhà nước

khác là phục vụ nhân dân. Do vậy, việc QLNN đối với viên chức ngành y tế

được thực hiện trên cơ sở các nguyên tắc sau:

Một là, phải bảm đảm sự lãnh đạo của Đảng và sự thống nhất quản lý

của Nhà nước đối với đội ngũ viên chức ngành y tế;

Hai là, bảo đảm quyền chủ động và đề cao trách nhiệm của người đứng

đầu;

Ba là, việc tuyển dụng, sử dụng, quản lý, đánh giá viên chức ngành y tế

được thực hiện trên cơ sở tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, vị trí việc làm

và căn cứ vào hợp đồng làm việc;

Bốn là, thực hiện bình đẳng giới, các chính sách ưu đãi của Nhà nước

đối với viên chức ngành y tế là người có tài năng, người dân tộc thiểu số, viên

chức làm việc ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc

thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và các chính

sách ưu đãi khác của Nhà nước đối với viên chức ngành y tế.

Từ những phân tích trên, QLNN đối với viên chức ngành y tế được hiểu

là hoạt động chấp hành, điều hành có tổ chức bởi hệ thống cơ quan hành

chính nhà nước trong lĩnh vực y tế.

1.1.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế

QLNN đối với viên chức ngành y tế là phương thức quản lý về một lĩnh

vực cụ thể của quốc gia cho nên nó có tính chất chung của QLNN và quản lý

hành chính nhà nước, cụ thể như sau [9]:

Tính lệ thuộc vào chính trị: theo quan điểm Mác-xít, QLNN đối với viên

chức ngành y tế có tính phục tùng và phục vụ nhiệm vụ chính trị của từng hệ

18

thống chính trị. Đặc điểm này nổi bật ở những quốc gia mà bộ máy QLNN can

thiệp rộng đến xã hội.

Tính xã hội: Y tế được xem như là nhiệm vụ trọng yếu của mỗi nhà

nước và của toàn xã hội. Trong QLNN đối với viên chức ngành y tế nói

chung cần phải coi trọng tính xã hội.

Tính pháp quyền: QLNN là quản lý bằng pháp luật, vì vậy QLNN đối

với viên chức ngành y tế cũng phải tuân thủ những quy định chung của pháp

luật.

Tính chuyên môn, nghiệp vụ: viên chức y tế phải đáp ứng yêu cầu về

trình độ tương ứng với yêu cầu về tiêu chuẩn các ngạch chức danh đã được

quy định.

Tính hiệu lực, hiệu quả: lấy hiệu quả của hoạt động chuyên môn nghiệp

vụ để đánh giá viên chức ngành y tế và trong công tác quản lý y tế.

Như vậy, quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế mang những

đặc điểm sau:

Thứ nhất, đặc điểm hành chính - chuyên môn y tế: là sự kết hợp quản lý

hành chính và quản lý chuyên môn trong các hoạt động triển khai y tế nhằm

đảm bảo hiệu quả vận hành của hệ thống y tế. Nói cách khác, thực chất là

triển khai các hoạt động hành chính nhà nước trong quá trình chỉ đạo các hoạt

động chăm sóc sức khỏe. Đối với QLNN đối với viên chức ngành y tế, đây

được xem là đặc điểm quan trọng nhất.

Thứ hai, đặc điểm về tính quyền lực nhà nước trong hoạt động quản lý:

Nhà nước, xét theo nghĩa rộng, và các cơ quan hành chính nhà nước, xét theo

nghĩa hẹp, đóng vai trò là chủ thể trong hoạt động quản lý. Tính quyền lực thể

hiện ở tư cách pháp nhân trong hoạt động quản lý; cách thức quản lý, chỉ đạo;

quan hệ thứ bậc trong hệ thống vận hành, quản lý.

Thứ ba, đặc điểm kết hợp nhà nước - xã hội trong quá trình triển khai

QLNN đối với viên chức ngành y tế. Xu thế về xã hội hóa trong lĩnh vực y tế

19

phát triển mạnh mẽ; đây cũng là một trong những đặc điểm xuyên suốt trong

tư tưởng quản lý, xây dựng chính sách, chiến lược trong QLNN đối với viên

chức ngành y tế.

1.1.3. Vai trò của quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế

Y tế là một lĩnh vực khoa học chuyên nghiên cứu về bệnh lý từ đó

chuẩn đoán, xây dựng phác đồ phòng và điều trị bệnh lý, bảo vệ sức khỏe cho

cộng đồng, trên cơ sở các kết quả nghiên cứu về dạng bệnh phẩm, một bộ

phận khác có nhiệm vụ nghiên cứu, chế tạo ra các dược phẩm chữa trị, phục

hồi hoặc nâng cao sức đề kháng cũng như sức khỏe, lĩnh vực này trong y học

được gọi chung là dược học. Người công tác trong lĩnh vực y tế được gọi là

“thầy thuốc” hay “bác sĩ”, là người có nhiệm vụ bảo vệ, duy trì, phục hồi sức

khỏe cho con người.

Công việc của những người làm việc trong lĩnh vực y học thường đòi

hỏi sự tỉ mỉ, chính xác cao độ, thường xuyên phải làm việc trong các hoàn

cảnh bất thường như dịch bệnh, thiên tai, cấp cứu, nghỉ lễ. Ngày nay, những

thành tựu khoa học công nghệ góp phần phát triển mạnh mẽ ngành y học, số

lượng bác sĩ của Việt Nam hiện đang còn thiếu nhiều (với 0,8 bác sĩ và 1,1

điều dưỡng trên 1.000 dân (năm 2016), biểu đồ so sánh phân bố số lượng bác

sĩ và điều dưỡng trên 1.000 dân giữa các nước trong khu vực Châu Á – Thái

Bình Dương của Tổ chức Y tế Thế giới cho thấy Việt Nam thuộc nhóm các

nước có số lượng bác sĩ và điều dưỡng thấp hơn chỉ số trung bình của các

nước có thu nhập thấp và trung bình thấp [40]) Ngoài các bệnh viện Trung

ương, Bộ, ngành và các cấp địa phương, hiện nay ngày càng nhiều bệnh viện,

phòng khám tư nhân được xây dựng, đòi hỏi bổ sung đội ngũ nhân lực.

20

Biểu đồ 1. So sánh phân bố số lượng bác sĩ trên 1.000 dân

giữa các nước trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương

của Tổ chức Y tế Thế giới [40]

21

Biểu đồ 2. So sánh phân bố số lượng điều dưỡng trên 1.000 dân

giữa các nước trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương

của Tổ chức Y tế Thế giới [40]

Quản lý của nhà nước là sức ép lên các bệnh viện sử dụng viên chức,

buộc các bệnh viện phải luôn tuân thủ những quy định chung vì lợi ích của

bệnh viện và vì lợi ích của đội ngũ viên chức y tế trong bệnh viện đó. Từ

những phân tích trên cho thấy QLNN đối với viên chức y tế có vai trò:

Một là, xuất phát từ chức năng QLNN. Với chức năng của mình, nhà

nước điều tiết mọi việc trong quản lý đội ngũ viên chức y tế; điều chỉnh mọi

hoạt động của công tác này cho phù hợp với tình hình thực tế, phù hợp với sự

phát triển chung của toàn xã hội và đáp ứng yêu cầu. Đội ngũ viên chức y tế

chịu sự quản lý của các CQNN có thẩm quyền và mỗi cơ quan có thẩm quyền

quản lý đều có mục tiêu, chương trình, kế hoạch công tác cụ thể. Đó còn là sự

22

phối hợp chặt chẽ giữa quản lý lĩnh vực và quản lý ngành từ đó có những

phương pháp phù hợp với hoạt động chuyên môn lĩnh vực y học. QLNN đối

với viên chức y tế cũng xuất phát từ thực tiễn luôn vận động và thay đổi để

phù hợp với quy luật xã hội đòi hỏi QLNN đối với viên chức y tế luôn phải

hoàn thiện để đáp ứng yếu cầu phát triển các dịch vụ sức khỏe theo hướng

công nghiệp hóa và thị trường hóa.

Hai là, xuất phát từ vai trò QLNN đối với viên chức ngành y tế. QLNN

đối với viên chức y tế có ý nghĩa quyết định đến chất lượng hoạt động, đến sự

vận hành của cơ sở y tế, cung cấp môi trường làm việc lành mạnh, minh bạch

và hiệu quả cho đội ngũ viên chức y tế. QLNN đối với viên chức y tế nhằm

lựa chọn được những người có năng lực, trình độ, đáp ứng được yêu cầu và

sắp xếp đúng với nguyện vọng cũng như khả năng của mỗi người. QLNN đối

với viên chức y tế nhằm hướng hoạt động của viên chức y tế thực hiện nhiệm

vụ của mình theo chính sách, pháp luật của nhà nước và sự chỉ đạo của các cơ

quan nhà nước cấp trên. QLNN đối với viên chức y tế dựa trên cơ sở các tiêu

chuẩn, các chuẩn mực chung và sự cưỡng chế của luật pháp sẽ sàng lọc cho

bệnh viện những viên chức tài năng, loại bỏ những người không đáp ứng yêu

cầu làm cơ quan hoạt động không có hiệu quả; bởi đây là một nghề liên quan

đến tính mạng con người, không giống bất cứ một nghề nào khác.

Ba là, xuất phát từ chính lợi ích của đội ngũ viên chức ngành y tế. Thực

hiện QLNN đối với viên chức y tế là để công tác này thực hiện tốt hơn, hiệu

quả hơn, hạn chế được những tiêu cực trong công tác tuyển dụng, sử dụng,

đào tạo, bồi dưỡng... Quản lý dựa trên cơ sở phát luật sẽ tạo môi trường làm

việc khoa học, hiệu quả, lành mạnh, công bằng cho tất cả mọi viên chức y tế.

Nhà nước sẽ tuyển dụng được nguồn nhân lực tốt đáp ứng yêu cầu, có năng

lực về chuyên môn và trình độ; người dự tuyển được tuyển dụng một cách

công bằng, minh bạch và công tác tuyển dụng đảm bảo đúng người, đúng

23

việc, đúng chuyên môn và trình độ. Viên chức y tế làm việc được hưởng chế

độ đãi ngộ hợp lý, khích lệ tinh thần làm việc của mọi người.

1.2. Chủ thể, nội dung quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế

1.2.1. Chủ thể quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế

Với chức năng của mình, nhà nước điều tiết tất cả các khâu trong quản

lý đội ngũ viên chức y tế, điều chỉnh mọi hoạt động của công tác này cho phù

hợp với tình hình thực tế, phù hợp với sự phát triển chung của toàn xã hội và

đáp ứng yêu cầu. Các viên chức y tế chịu sự quản lý của các CQNN có thẩm

quyền và mỗi cơ quan có thẩm quyền quản lý đều có mục tiêu, chương trình,

kế hoặc công tác cụ thể. Do vậy, hoạt động thực hiện nhiệm vụ chính trị,

nhiệm vụ chuyên môn của các viên chức y tế phải dựa trên cơ sở mục tiêu,

chương trình, kế hoạch của cơ quan có thẩm quyền quản lý y tế.

Nhà nước tiến hành quản lý mọi mặt viên chức trong đó có viên chức y

tế. Thông qua các cơ quan của mình, nhà nước thực hiện quản lý đối với đội

ngũ viên chức. Trong đó, Quốc hội ban hành các Luật, Pháp lệnh liên quan

đến quản lý viên chức; Chính phủ ban hành các Nghị định, các Bộ ban hành

các Thông tư… quy định, hướng dẫn và điều chỉnh những gì liên quan đến

quản lý viên chức. Chính phủ thống nhất QLNN về viên chức. Bộ Nội vụ là

CQNN trực thuộc Chính phủ được giao nhiệm vụ trực tiếp QLNN chung về

đội ngũ viên chức. Bộ Y tế là cơ quan ban hành những văn bản quy định riêng

về quản lý đội ngũ viên chức y tế; cũng là cơ quan giám sát trực tiếp việc thực

hiện các văn bản ban hành trong quản lý đội ngũ viên chức y tế ở trung ương

và địa phương.

Ở Việt Nam, chức năng QLNN đối với viên chức y tế của Bộ Y tế được

Chính phủ quy định gồm những nội dung sau [Xem các Điều 14, 15 của Nghị

định số 63/2012/NĐ-CP]:

- Xây dựng trình cơ quan có thẩm quyền ban hành tiêu chuẩn chức

danh nghề nghiệp của viên chức chuyên ngành y, dược, dân số;

24

- Hướng dẫn việc xác định vị trí việc làm, số lượng người làm việc và

cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp trong các đơn vị sự nghiệp y tế

công lập;

- Chủ trì, phối hợp với cơ quan có liên quan quy định cụ thể về tiêu

chuẩn, điều kiện, nội dung, hình thức thi hoặc xét thăng hạng chức danh nghề

nghỉệp của viên chức chuyên ngành y, dược, dân số; tổ chức thi, xét thăng

hạng chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành y, dược, dân số theo

quy định của pháp luật;

- Chủ trì, phối hợp với cơ quan có liên quan xây dựng chế độ, chính

sách đối với viên chức chuyên ngành y, dược, dân số;

- Quy định chi tiết về nội dung, chương trình, hình thức, thời gian bồi

dưỡng viên chức chuyên ngành y, dược, dân số theo tiêu chuẩn chức danh

nghề nghiệp của viên chức chuyên ngành;

- Trình cấp có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch, kế hoạch đào tạo nhân

lực ngành y tế và cơ chế, chính sách đặc thù trong đào tạo nhân lực ngành y

tế;

- Ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về điều kiện bảo đảm chất

lượng đào tạo nhân lực ngành y tế và hƣớng dẫn, tổ chức thực hiện;

- Ban hành chuẩn năng lực chuyên môn đối với các ngành và chuyên

ngành đào tạo thuộc lĩnh vực y tế và hướng dẫn, tổ chức thực hiện.

1.2.2. Nội dung quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế

Nội dung của QLNN đối với viên chức y tế là việc nhà nước sử dụng

các phương pháp, biện pháp; những phương tiện, công cụ quản lý, thông qua

hoạt động của bộ máy quản lý để thực hiện chức năng QLNN đối với viên

chức y tế, nhằm đạt được những mục tiêu đã đặt ra.

Xây dựng và ban hành Văn bản quy phạm pháp luật

Chính sách là một trong số các loại công cụ quản lý vĩ mô của nhà

nước, là tổng thể các chủ trương chính thức của nhà nước về quản lý kinh tế -

25

xã hội cũng như hoạt động tổ chức thực thi các chủ trương, chính sách đó.

Chính sách giữ vai trò là công cụ quản lý của nhà nước, là chủ trương, quyết

sách và hành động của lực lượng nắm quyền lực chính trị xã hội, đó là nhà

nước. Toàn bộ các vấn đề về lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội... đều được thực

hiện trong chính sách của nhà nước. Nội dung cơ bản của chính sách là xác

định mục tiêu, phương hướng phát triển cũng như các biện pháp tổ chức thực

hiện các nhiệm vụ do yêu cầu của đời sống xã hội và QLNN đặt ra. Chính

sách nhà nước là thể thống nhất giữa chủ trương và hành động của nhà nước.

Chính sách nhà nước giữ vai trò vừa hàm chứa vừa định hướng, làm nền tảng

cho các thể chế công cụ quản lý kinh tế - xã hội của nhà nước. Chính sách có

nhiều loại: chính sách chính trị, chính sách kinh tế, chính sách xã hội, chính

sách an ninh, quốc phòng, chính sách đối ngoại, chính sách về khoa học công

nghệ..., trong đó có chính sách đối với viên chức y tế.

Bằng công cụ pháp luật, nhà nước tạo lập cơ sở pháp lý cho tổ chức và

hoạt động quản lý nhà đối với viên chức y tế; tạo lập hành lang pháp lý cho

các tổ chức, cá nhân tham gia vào các các quan hệ pháp luật trong lĩnh vực y

tế; là cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; là

căn cứ pháp lý để thống nhất và chuẩn hoá các tiêu chuẩn về viên chức y tế.

Trên thực tế, các công cụ kế hoạch, chính sách phần lớn đều phải thể hiện

dƣới các hình thức pháp lý nhất định (như các Luật, Pháp lệnh... và các văn

bản cá biệt) thì mới đi vào thực tế cuộc sống và được đảm bảo bằng sức mạnh

cưỡng chế của nhà nước. Vì vậy, công cụ pháp luật có một ý nghĩa đặc biệt

trong quản lý nhà nước đối với viên chức y tế.

Tổ chức thực hiện

Công cụ quản lý nhà nước đối với viên chức y tế có đặc tính chung là

nó vừa phản ánh được bản chất, nhu cầu của đối tượng quản lý, vừa phản ánh

được sự tương thích của chủ thể quản lý, vừa thể hiện tính đặc thù của nó

trong mối quan hệ với các công cụ quản lý xã hội nói chung.

26

Công cụ QLNN đối với viên chức y tế là những phương tiện cần thiết,

qua đó nhà nước (thông qua các cơ quan chức năng) sử dụng để điều tiết,

hướng dẫn, kiểm soát đối với toàn bộ hoạt động của đội ngũ viên chức y tế.

Việc sử dụng loại công cụ nào để quản lý đối với viên chức y tế là tùy thuộc

vào trình độ, hoàn cảnh, quy mô... của đối tượng được quản lý, cũng như khả

năng của chủ thể quản lý trong việc nhận thức và lựa chọn các công cụ.

Quy hoạch, kế hoạch là một trong những công cụ quản lý vĩ mô quan

trọng của nhà nước, là các chương trình mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và

các biện pháp cụ thể để đạt mục tiêu trong từng thời kỳ nhất định do nhà nước

đặt ra. Điều đó có nghĩa, quy hoạch, kế hoạch là một công cụ định hướng, tổ

chức và điều chỉnh các hoạt động kinh tế - xã hội trong đó có QLNN đối với

viên chức y tế. Vai trò của công cụ quy hoạch, kế hoạch trong QLNN đối với

viên chức y tế được thể hiện ở các khía cạnh sau đây:

(i) Nhờ quy hoạch, kế hoạch mà chủ thể quản lý và đối tượng quản lý

biết được hướng đi và lựa chọn con đường thích hợp để nhanh chóng đạt tới

mục tiêu vạch ra;

(ii) Công cụ quy hoạch, kế hoạch góp phần hình thành tư duy “vượt

trước”, giúp cho các nhà quản lý tiên đoán được sự thay đổi tình hình, từ đó

chuẩn bị các phương án cần thiết để thích ứng với sự thay đổi đó. Nói cách

khác, quy hoạch, kế hoạch tạo ra tầm nhìn chiến lược cho nhà quản lý, giúp

họ phát hiện vấn đề trong quản lý, sử dụng đối với viên chức y tế một cách

hiệu quả. Từ sự phát hiện đó, nhà quản lý biết tập trung vào việc giải quyết

những nhiệm vụ quan trọng nhất trong quản lý đối với viên chức y tế mà

không bị che lấp hoặc sa vào việc xử lý những thông tin vụn vặt, sự vụ hàng

ngày. Mặt khác, nó còn làm giảm thiểu những rủi ro và hạn chế các hoạt động

trùng lặp, lãng phí thời gian, công sức và tiền của do không có sự tính toán,

sắp đặt từ trước;

27

(iii) Quy hoạch, kế hoạch cho phép các nhà quản lý hình dung khái quát

được sự hình thành, xu hướng vận động, phát triển của đội ngũ viên chức y tế,

từ đó hình thành các phương án quản lý đối với viên chức y tế.

Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm

Thanh tra, kiểm tra và giám sát là những hoạt động thiết yếu, thường

xuyên của QLNN. Công tác thanh tra, giám sát giúp thủ trường đơn vị nhìn rõ

ưu điểm, khuyết điểm, nắm chắc tình hình trong lãnh đạo, quản lý. Theo Hồ

Chí Minh, chín phần mười (9/10) khuyết điểm trong công việc của chúng ta là

vì thiếu sự giám sát. [Dẫn lại: 18, tr.76] Pháp luật hiện hành của Việt Nam về

thanh tra đã chỉ rõ mục đích của thanh tra là: “Nhằm phát hiện sơ hở trong cơ

chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm

quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm

pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp

luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt

động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp

pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. [Điều 2, Luật Thanh tra năm 2010]

Hoạt động thanh tra, giám sát trong lĩnh vực y tế cố nhiên là rất quan

trọng vì liên quan trực tiếp đến toàn bộ đời sống xã hội. Theo đó, hoạt động

thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm cần được tiến hành trong các

trường hợp sau:

Thứ nhất, tổ chức các đoàn thanh tra ngay tại cơ sở khám, chữa bệnh

trong việc thực hiện các văn bản của pháp luật của công chức, viên chức y tế,

y, bác sỹ; trong việc khám và chữa bệnh, trong việc điều hành hoạt động của

cơ sở;

Thứ hai, phân cấp giám sát trong nội bộ cơ sở khám, chữa bệnh, giữa

bệnh viện tuyến trên với bệnh viện trực thuộc nhằm tạo được sự minh bạch,

công khai và đồng thời tăng tính trách nhiệm đối với viên chức trong ngành;

28

Thứ ba, tăng cường hiệu lực của hoạt động kiểm tra, giám sát thực hiện

chế độ chính sách đối với viên chức y tế tại cơ sở khám, chữa bệnh thông qua

việc xây dựng cơ chế tiếp nhận và xử lý thông tin phản hồi trong đó quy định

rõ trách nhiệm của các đối tác có liên quan, đa dạng hóa các hình thức tiếp

nhận thông tin phản hồi để kịp thời điều chỉnh, sửa đổi những bất cập trong

quy định hiện hành.

Thứ tư, bên cạnh những biện pháp mang tính động viên đối với đội ngũ

viện chức y tế thì cũng có những hình thức kỷ luật nghiêm khắc với hành vi vi

phạm pháp luật, vi phạm đạo đức ngành y. Bởi hiện tượng tiêu cực trong đội

ngũ viên chức, y, bác sỹ đang trở nên nghiêm trọng đối với môi trường y tế

lành mạnh.

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với viên chức ngành

y tế

1.3.1. Yếu tố pháp luật

Hoạt động quản lý của các CQNN là sự tác động của quyền lực nhà

nước đến các chủ thể trong xã hội; công dân và tổ chức; thể nhân hay pháp

nhân, công pháp hay tư pháp (công quyền), mang đặc trưng cưỡng bức kết

hợp với thuyết phục, giáo dục. Thể chế hành chính nhà nước với một hệ thống

pháp luật (bao gồm luật, các văn bản pháp quy dưới luật) do CQNN có thẩm

quyền ban hành là cơ sở pháp lý cho các cơ quan hành chính nhà nước các

cấp thực hiện quản lý, bảo đảm thống nhất QLNN trên phạm vi quốc gia.

Pháp luật được hiểu là “hệ thống quy tắc sử xự có tính bắt buộc chung,

do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí, lợi ích của nhân dân,

được nhà nước bảo đảm thực hiện, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội vì

mục đích bảo vệ, bảo đảm các quyền, tự do của con người và sự phát triển

bền vững của xã hội”. [17, tr.295] Và vì “bản chất con người là tổng hòa

những quan hệ xã hội” [3, tr.11] nên nội dung và phạm vi điều chỉnh của pháp

luật cũng hết sức rộng rãi và phức tạp, được phân chia thành các bộ phận

29

pháp luật khác nhau, tương xứng với các lĩnh vực hoạt động khác nhau của

con người. Pháp luật về viên chức y tế là một trong những bộ phận pháp luật

đó.

Hệ thống pháp luật được đồng bộ, hoàn thiện sẽ là tiền đề, điều kiện để

các các bệnh viện công và đội ngũ viên chức y tế thi hành. Vì vậy, pháp luật

càng rõ ràng, thống nhất là cở sở để cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng.

Trong thực tế hiện nay, các văn bản quy phạm pháp luật về viên chức y tế

chưa được pháp điển hóa mà vẫn được quy định phân tán ở nhiều văn bản

khác nhau. Vì vậy, các cơ quan phải sử dụng các cơ sở pháp lý nằm ở nhiều

văn bản khác nhau. Từ đó, cần gấp rút xây dựng hệ thống quy định quy chuẩn

liên quan đến viên chức y tế gắn liền với yêu cầu QLNN.

1.3.2. Yếu tố nguồn lực

Đây là yếu tố quyết định bảo đảm QLNN về viên chức y tế với những

lý do sau:

Một là, pháp luật là cơ sở của quản lý, nhưng nếu không được thực

hiện, thực hiện không đúng, không kịp thời thì pháp luật trở nên vô dụng. Do

đó, thực hiện pháp luật đầy đủ, chính xác, kịp thời là yếu tố quyết định hiệu

lực, hiệu quả quản lý, cho dù quản lý lĩnh vực nào, do CQNN nào tiến hành.

Nhưng cuối cùng là phụ thuộc vào năng lực thực hiện pháp luật của bộ máy

quản lý.

Hai là, yếu tố có tính quyết định tạo thành năng lực thực hiện pháp luật

của bộ máy quản lý chính là tính hợp lý của bộ máy chính chính quyền các

cấp. Một bộ máy mạnh là bộ máy luôn thích ứng với mọi biến đổi xã hội, phải

luôn tìm tòi sáng kiến sao cho bộ máy quản lý thường xuyên được đổi mới,

cải cách, đáp ứng được tối đa nhu cầu của quản lý viên chức y tế, nhất là

trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.

Ba là, năng lực quản lý của bộ máy quản lý ảnh hưởng rất lớn đến công

tác quản lý viên chức y tế. Năng lực quản lý thể hiện ở việc hoạch định, đưa

30

ra các chính sách, quyết đoán phù hợp với thực tiễn ngành cũng như từng

bệnh viện. Mặt khác, có biện pháp và chủ động trong xây dựng kế hoạch

thanh tra, kiểm tra, chấn chỉnh và xử lý kịp thời những sai phạm xảy ra, từ đó

sẽ tạo được uy tín, niềm tin trong nhân dân đối với viên chức y tế.

Theo quy định hiện hành, sự khác biệt cơ bản của viên chức so với cán

bộ, công chức chính là chế độ tuyển dụng gắn với vị trí việc làm thông qua

chế độ hợp đồng lao động và lương được hưởng từ quỹ lương của đơn vị sự

nghiệp công lập nơi viên chức làm việc. Nếu như cán bộ, công chức là cá

nhân làm việc trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội,

tức là các cơ quan mang tính chất “công”, nhân danh quyền lực nhà nước thực

hiện công việc của mình thì viên chức y tế lại hoạt động thuần túy mang tính

chất chuyên môn, nghiệp vụ. Ở Việt Nam, pháp luật về viên chức quy định:

“Hoạt động nghề nghiệp của viên chức là việc thực hiện công việc hoặc

nhiệm vụ có yêu cầu về trình độ, năng lực, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ

trong đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của luật này và các quy định

khác của pháp luật có liên quan”. [Điều 4 Luật Viên chức 2011]

Gắn với các đặc điểm, tính chất của hoạt động nghề nghiệp, các quyền

và nghĩa vụ của viên chức nói chung, viên chức y tế nói riêng nên các quy

định về quyền và nghĩa vụ của viên chức theo hướng mở hơn so với các quy

định đối với cán bộ, công chức. Qua đó, tạo điều kiện để viên chức có thể

phát huy tài năng, sức sáng tạo, khả năng công hiến trong điều kiện kinh tế thị

trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Do vậy, các quy định của pháp luật về

quản lý viên chức phải phù hợp với tính chất, đặc điểm hoạt động nghề

nghiệp của viên chức. Hoạt động nghề nghiệp của viên chức có những tính

chất, đặc điểm sau:

(i) Là hoạt động nhằm đáp ứng những nhu cầu cơ bản, thiết yếu để duy

trì, phát triển cá nhân con người. Nhà nước phải có trách nhiệm cung cấp tốt

nhất các nhu cầu này trong điều kiện có thể để phục vụ người dân. Các hoạt

31

động này liên quan đến một số dịch vụ như phổ cập giáo dục, đào tạo nghề

nghiệp; chăm sóc sức khỏe, phòng chống dịch bệnh; nghiên cứu khoa học

phục vụ phát triển và đời sống nhân dân, giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa

dân tộc và sáng tạo các giá trị văn hóa mới...;

(ii) Được thực hiện trong các lĩnh vực chuyên ngành, theo các tiêu

chuẩn chuyên môn thống nhất. Mỗi lĩnh vực mà viên chức làm việc chỉ cung

cấp và đáp ứng một loại nhu cầu cơ bản, cụ thể. Các nhu cầu này được thực

hiện thông qua hoạt động nghề nghiệp của viên chức nên các đơn vị sự nghiệp

bao giờ cũng tổ chức theo tính chất chuyên môn sâu gắn với đặc thù từng lĩnh

vực. Do đó, cơ chế quản lý viên chức của các đơn vị này phụ thuộc vào tính

chất, đặc điểm của hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ.

(iii) Chủ yếu cung cấp cho người dân và cộng đồng dân cư các sản

phẩm phi hiện vật. Nếu hoạt động công vụ của cán bộ, công chức thực hiện

quyền lực của nhà nước, gắn với quyền lực chính trị, quyền lực công thì hoạt

động nghề nghiệp của viên chức được thực hiện nhân danh nhà nước, thể hiện

trách nhiệm của nhà nước trong quá trình cung cấp các nhu cầu cơ bản, thiết

yếu cho đa số người dân.

(iv) Đều dựa trên kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ, mang tính nghề

nghiệp cao, phải được đào tạo, bồi dưỡng qua các trường, lớp và được cơ

quan có thẩm quyền cấp văn bằng, chứng chỉ.

(v) Hoạt động nghề nghiệp của viên chức tác động ngay đến thể lực, trí

lực và đời sống tinh thần của người dân, nên phải đề cao đạo đức nghề

nghiệp, có trách nhiệm, tận tụy để đáp ứng các nhu cầu của người dân mà nhà

nước có trách nhiệm phải cung cấp. Thực tế cho thấy, dù công lập hay ngoài

công lập thì nội dung, chương trình, mục tiêu hoạt động nghề nghiệp của viên

chức đều có yêu cầu giống nhau, sự khác nhau là hoạt động nghề nghiệp của

viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập đặt mục tiêu phục vụ nhân dân lên

hàng đầu, không đặt mục tiêu lợi nhuận lên trên hết. Trong khi đó, tổ chức sự

32

nghiệp ngoài công lập thì động lực phục vụ tuân theo quy luật của thị trường,

gắn với mục tiêu lợi nhuận tối đa. Điểm thù này phản ánh yêu cầu, để phát

triển đội ngũ viên chức tận tụy, tài năng, phục vụ nhân dân được tốt, cần phải

có cơ chế quản lý và chế độ, chính sách phù hợp, linh hoạt, mềm dẻo, gắn với

tài năng, năng lực, kết quả làm việc để tạo nên sức hút nguồn nhân lực vào

các tổ chức sự nghiệp công lập.

1.3.3. Yếu tố đặc thù nghề nghiệp

Thứ nhất, hoạt động của viên chức y tế là loại lao động đặc thù

Việc cung ứng các dịch vụ y tế hỏi một lực lượng nhân lực đủ lớn. Bởi

trong cung ứng mỗi dịch vụ y tế, ít nhất cần có sự tiếp xúc riêng trực tiếp giữa

nhân viên y tế và người bệnh. Trong những ca phức tạp có thể cần tới cả một

tập thể nhân viên y tế với các thành phần khác nhau dành riêng cho việc chăm

sóc cho một người bệnh.

Lao động của viên chức y tế là loại lao động đặc thù, gắn với trách

nhiệm cao trước sức khoẻ và tính mạng của người bệnh. Là lao động liên tục

cả ngày đêm, diễn ra trong điều điện không phù hợp của quy luật sinh lý con

người làm ảnh hưởng rất nhiều đến sức khoẻ nhân viên y tế. Lao động trong

môi trường không thuận lợi, không phù hợp với tâm lý con người như: khi

tiếp xúc với người bệnh đau đớn, bệnh tật, lây nhiễm; hoá chất, chất thải môi

trường bệnh viện...

Quá trình lao động của viên chức y tế luôn chịu sức ép của dư luận xã

hội, thái độ hành vi không đúng của người bệnh và người nhà bệnh nhân khi

không thoả mãn nhu cầu của bản thân. Người bệnh là người có tổn thương về

thể chất và tinh thần, luôn lo lắng bức xúc với tình trạng bệnh tật của mình;

do vậy thường buồn phiền, cáu gắt dễ có phản ứng phức tạp và hành vi không

đúng mực với thầy thuốc. Khi trong gia đình có người bị bệnh thì dễ nảy sinh

mong muốn thầy thuốc và bệnh viện quá mức trong khi khả năng đáp ứng của

33

bệnh viện không được như kỳ vọng; từ đó dễ gây thắc mắc, căng thẳng giữa

thầy thuốc và người nhà bệnh nhân.

Thứ hai, đào tạo viên chức y tế cần sự đầu tư lớn và liên tục

Lực lượng viên chức y tế luôn phải được duy trì đáp ứng nhu cầu gia

tăng theo dân số. Ngoài ra, việc đào tạo cán bộ y tế, và đặc biệt là đội ngũ bác

sỹ, cần một khoảng thời gian rất dài với sự kiểm tra giám sát chặt chẽ và tốn

kém. Do yêu cầu cao trong công việc nên thời gian đào tạo của ngành y tế

thường dài hơn các ngành khác. Thời gian đào tạo của bác sĩ nội trú là 9 năm,

bác sĩ là 6 năm, dược sĩ là 5 năm; nhiều ngành học khác thời gian đào tạo đại

học thường chỉ kéo dài từ 4 đến 5 năm.

Các phương pháp phòng và chữa bệnh cũng có tiến bộ nhanh chóng.

Ngoài ra, các loại máy móc, thiết bị ngày càng hiện đại đòi hỏi nhân viên y tế

phải biết cách sử dụng, thao tác. Do đó, các kỹ năng về sử dụng các loại máy

móc, thiết bị cũng phải được cập nhật, hoàn thiện. [18, tr.17]

Thứ ba, viên chức y tế có đặc thù riêng về đạo đức nghề nghiệp

Nghề y được xã hội tôn trọng trước hết bởi trách nhiệm chữa bệnh cứu

người, bảo vệ sự sống và nâng cao sức khỏe của người dân. Tuy nhiên, nghề y

cũng như đội ngũ viên chức y tế chịu sự phán xét cao của dư luận xã hội khi

xảy ra những sai sót trong chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp.

Thứ tư, viên chức y tế chịu ảnh hưởng bởi đặc thù ngành y tế

Tình hình sức khỏe và các can thiệp y tế luôn luôn chứa đựng nhiều rủi

ro và sự không chắc chắn. Bản chất không chắc chắn nói trên đòi hỏi tăng các

cơ hội chia sẻ kinh nghiệm lâm sàng, nhưng cũng đòi hỏi giám sát và điều tra

khi nào có tai biến xảy ra nhằm rút kinh nghiệm và giúp cải tiến quá trình ra

quyết định của các thầy thuốc đang đối mặt với nhiều sự không chắc chắn.

Thứ năm, viên chức y tế đòi hỏi sự kiểm soát của nhà nước ở mức độ

cao

34

Bản chất đặc thù của ngành y tế cần phải sử dụng nhiều lao động và

nhu cầu đầu tư lớn cho viên chức y tế, do đó đòi hỏi sự kiểm soát, quan tâm

của nhà nước trong việc lập kế hoạch và điều phối các nguồn lực hỗ trợ.

Tiểu kết Chương 1

Trên cơ sở khảo cứu các công trình nghiên cứu, các quan điểm học

thuật, tác giả xây dựng một số khái niệm công cụ như quản lý, quản lý nhà

nước và quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế. Đồng thời, tác giả đã xây dựng

khung lý thuyết (nội dung của quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế)

để làm cơ sở kiểm chứng thực tiễn ở Chương 2. Mặt khác, tác giả đã phân tích

và luận chứng các yếu tố tác động đến quả trình quản lý viên chức y tế, gồm

các yếu tố như: yếu tố pháp luật, yếu tố nguồn lực và yếu tố đặc thù nghề

nghiệp; do vậy, trong quá trình quản lý hay đề xuất giải pháp quản lý cần phải

cân nhắc đến các yếu tố này, giúp việc quản lý dễ đạt được sự tối ưu.

35

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

ĐỐI VỚI VIÊN CHỨC NGÀNH Y TẾ TẠI TỈNH THANH HÓA

2.1. Khái quát chung hệ thống y tế của tỉnh Thanh Hóa

2.1.1. Thực trạng về chăm sóc sức khỏe nhân dân

Trong những năm qua, công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân

tỉnh Thanh Hóa đã đạt được những thành tựu quan trọng. Nhân dân ở các

vùng, miền trong tỉnh được tiếp cận và chăm sóc sức khỏe tốt hơn. Nhiều chỉ

tiêu về sức khỏe của nhân dân đã không ngừng được nâng lên nhất là những

năm gần đây. Một số chỉ tiêu cơ bản năm 2015 và năm 2019 đã có sự thay đổi

đáng kể như: Tỷ suất tử vong trẻ dưới 01 tuổi giảm từ 14,0‰ xuống còn

11,6‰; Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 05 tuổi thể cân nặng theo tuổi giảm

từ 18,2% xuống còn 15%; Tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ duy trì trên 95%; tỷ lệ

trạm y tế có Bác sĩ tăng từ 80,1% lên 89%... [45]

Hệ thống y tế đã có bước phát triển mạnh từ tỉnh đến huyện, xã; mạng

lưới y tế cơ sở từng bước được củng cố; nhiều dịch bệnh nguy hiểm được phát

hiện, khống chế và ngăn chặn kịp thời; các dịch vụ y tế cao được ứng dụng

thành công ở nhiều cơ sở y tế kể cả tuyến huyện và tuyến tỉnh; cơ sở vật chất,

điều kiện làm việc, trang thiết bị y tế đã từng bước được cải thiện; trình độ đội

ngũ cán bộ y tế ở các tuyến ngày càng được nâng cao, đáp ứng nhu cầu nâng

cao chất lượng cung cấp dịch vụ y tế cho nhân dân.

Tuy nhiên công tác Bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân trong tỉnh

vẫn còn những khó khăn hạn chế như: Chất lượng dịch vụ y tế ở nhiều cơ sở y

tế chưa đáp ứng được nhu cầu; cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế vẫn còn thiếu

và chưa đồng bộ; đội ngũ cán bộ y tế có trình độ cao còn thiếu, cơ cấu nhân

lực chưa hợp lý; công tác xã hội hóa y tế phát triển mạnh nhưng chưa đồng

đều; hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe chưa đem lại được hiệu quả

như mong muốn... Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, hệ thống y tế Thanh Hóa

36

cũng như toàn ngành Y tế trong cả nước đang phải đối mặt với nhiều thay đổi

về định hướng các chính sách như: hạn chế đầu tư công tiến tới cắt giảm toàn

bộ nguồn lực của các Chương trình mục tiêu Y tế quốc gia vào sau năm 2015,

chuyển đổi và kiện toàn mô hình tổ chức của các đơn vị y tế dự phòng tuyến

tỉnh cùng các đơn vị y tế tuyến huyện. Việc tuyển dụng và sử dụng nhân lực

trong các đơn vị sự nghiệp y tế cũng đang có nhiều thay đổi. Đáng chú ý là sự

đổi mới về phương thức quản lý các đơn vị sự nghiệp y tế theo phương châm

quản lý dịch vụ công, đẩy mạnh tự chủ, cổ phần hóa và hạch toán đầy đủ giá

dịch vụ ...

Giai đoạn 2015 - 2020, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của tỉnh bình quân

hàng năm dưới 0,65%. Năm 2016, dân số của tỉnh là khoảng 3.528.000 người.

Tuy nhiên qua điều tra dân số năm 2019 tại Thanh Hóa có 3.664.000 người;

tuổi thọ trung bình của tỉnh năm 2015 là 73,5 đến năm 2020 dự kiến đạt 74.

Trên địa bàn tỉnh có 8 dân tộc chính, bao gồm: Kinh (83,46%), Mường, Thái,

Mông, Thổ, Dao, Khơ mú, Tày. Thanh Hóa có nguồn nhân lực trong độ tuổi

lao động dồi dào do quy mô dân số lớn. Phần lớn nhân lực ở độ tuổi từ 18 đến

dưới 40 (chiếm 54,7%) đã qua giáo dục THCS, THPT có điều kiện tổ chức

đào tạo, dạy nghề và thu hút vào thị trường lao động. Nguồn lao động dồi dào

là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội của địa phương trong thời

gian tới song cũng là sức ép lớn đối với Thanh Hóa trong vấn đề đảm bảo

chăm sóc và nâng cao sức khỏe cho người lao động.[45]

Trong những năm qua, các chỉ số cơ bản của hệ thống y tế và tình trạng

sức khoẻ của nhân dân trong tỉnh đã có nhiều cải thiện đáng kể. Mặc dù chưa

loại trừ được bệnh sởi, bệnh dại nhưng đã kiểm soát tốt các đợt cao điểm

bùng phát bệnh sởi diễn ra trong phạm vi toàn tỉnh, không để xảy ra các

trường hợp tử vong do bệnh sởi và bệnh dại. Đã loại trù được bệnh uốn ván sơ

sinh, bệnh tả; số người bị sốt rét, tỷ lệ mắc lao hàng năm liên tục giảm, không

để xảy ra tử vong do sốt rét, tỷ lệ bệnh nhân lao được điều trị khỏi đạt 99%, tỷ

37

lệ phụ nữ có thai được khám đủ ba (03) lần vào đúng chu kỳ đạt trên 90%

vượt chỉ tiêu đề ra.[45] Tuy nhiên vẫn còn một vài chỉ số đang thấp hơn so

với mức trung bình của toàn quốc và khu vực, thấp hơn so với chỉ tiêu đã

được quy hoạch và chưa tương xứng với mức độ phát triển kinh tế xã hội của

địa phương trong hiện tại cũng như trong tương lai.

2.1.2. Thực trạng cơ sở khám, chữa bệnh của tỉnh Thanh Hóa

2.1.2.1. Tuyến tỉnh

Sở Y tế: Sở Y tế là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh có chức

năng tham mưu, giúp UBND tỉnh QLNN về y tế, bao gồm: y tế dự phòng;

khám bệnh, chữa bệnh; phục hồi chức năng; giám định y khoa, pháp y, pháp y

tâm thần; y dược cổ truyền; trang thiết bị y tế; dược; mỹ phẩm; an toàn thực

phẩm; bảo hiểm y tế; dân số - kế hoạch hóa gia đình; sức khỏe sinh sản và

công tác y tế khác trên địa bàn tỉnh. Sở Y tế chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ

chức, biên chế và hoạt động của UBND tỉnh, đồng thời chịu sự chỉ đạo,

hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ Y tế. Cơ cấu

tổ chức của Sở Y tế bao gồm: Lãnh đạo Sở: Giám đốc và các Phó Giám đốc;

07 Phòng chức năng của Sở.

Chi cục trực thuộc Sở Y tế: gồm Chi cục Dân số Kế hoạch hóa gia đình

và Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm.

Các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở, gồm:

(i) Trung tâm y tế tuyến tỉnh: 04 Trung tâm: Kiểm soát bệnh tật; Kiểm

nghiệm; Giám định Y khoa và Pháp Y.

(ii) Mạng lưới khám chữa bệnh, phục hồi chức năng và cấp cứu:

Mạng lưới khám chữa bệnh, phục hồi chức năng: 13 bệnh viện tuyến

tỉnh: Đa khoa tỉnh; Nhi; Phụ sản; Ung bướu; Mắt; Nội tiết; Da Liễu; Tâm

thần; Phổi; Y học cổ truyền; Phục hồi chức năng; Đa khoa Khu vực Tĩnh Gia;

Đa khoa khu vực Ngọc Lặc.

Mạng lưới cấp cứu: Tại các Bệnh viện có cấp cứu trong viện và cấp

38

cứu 115 tuyến tỉnh.

2.1.2.2. Tuyến huyện, thị xã, thành phố

Phòng Y tế: Có 27/27 Phòng Y tế thuộc UBND huyện, thị xã, thành

phố.

Đơn vị sự nghiệp Y tế trên địa bàn huyện, thị xã, thành phố, gồm:

Khối Khám chữa bệnh: 25 Bệnh viện đa khoa đa khoa tuyến huyện:

TP. Thanh Hóa; TP. Sầm Sơn; Thị xã Bỉm Sơn; Hoằng Hóa; Quảng Xương;

Nông Cống; Hậu Lộc; Nga Sơn; Hà Trung; Thiệu Hóa; Đông Sơn; Yên Định;

Vĩnh Lộc; Thọ Xuân; Triệu Sơn; Như Thanh; Như Xuân; Thường Xuân;

Lang Chánh; Bá Thước; Thạch Thành; Cẩm Thủy; Quan Sơn; Quan Hóa;

Mường Lát.

Khối Trung tâm y tế huyện: 27 Trung tâm Y tế 02 chức năng: TP.

Thanh Hóa; TP. Sầm Sơn; Thị xã Bỉm Sơn; Hoằng Hóa; Quảng Xương; Nông

Cống; Hậu Lộc; Nga Sơn; Hà Trung; Thiệu Hóa; Đông Sơn; Yên Định; Vĩnh

Lộc; Thọ Xuân; Triệu Sơn; Như Thanh; Như Xuân; Thường Xuân; Lang

Chánh; Bá Thước; Thạch Thành; Cẩm Thủy; Quan Sơn; Quan Hóa; Mường

Lát; Ngọc Lặc; Tĩnh Gia.

2.1.2.3. Tuyến xã, phường, thị trấn

Đối với tuyến khám, chữa bệnh cấp cơ sở của tỉnh Thanh Hóa, hiện

gồm có 559 trạm y tế thuộc 27 trung tâm y tế huyện, thị xã, thành phố quản lý

(496 trạm y tế xã, 34 trạm y tế phường, 29 trạm y tế thị trấn). [45]

2.1.2.4. Các đơn vị y tế bộ ngành, trung ương trên địa bàn tỉnh

Trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa hiện có hai (02) bệnh viện Trung ương,

là: Bệnh viện 71 Trung ương quy mô 410 giường bệnh và Bệnh viện Điều

dưỡng Phục hồi chức năng Trung ương 310 giường bệnh cùng tham gia vào

hoạt động khám chữa bệnh cho người dân trong tỉnh.

Ngoài ra, còn có một số cơ sở y tế ngành khác như: quân y tỉnh đội,

Bệnh viên Công an tỉnh Thanh Hóa quy mô 60 giường bệnh, trạm y tế thuộc

39

các công ty, xí nghiệp, công nông trường… thực hiện nhiệm vụ chăm sóc sức

khoẻ ban đầu cho cán bộ, công nhân viên chức của các đơn vị.

2.1.2.5. Các Bệnh viện ngoài công lập

Tính đến thời điểm hiện nay trên địa bàn toàn tỉnh có 1.375 cơ sở hành

ngề y, 2.961 cơ sở hành nghề dược tư nhân; 59 phòng khám đa khoa, 774

phòng khám chuyên khoa, 443 phòng chẩn trị y học cổ truyền và bài thuốc

gia truyền, 83 cơ sở dịch vụ y tế, 98 cơ sở bán buôn thuốc, 396 nhà thuốc,

2.321 quầy thuốc, 84 cơ sở kinh doanh thuốc y học cổ truyền và có 16 bệnh

viện tư nhân với 2.815 giường bệnh (10 bệnh viện đa khoa và 06 bệnh viện

chuyên khoa). [45]

Bảng 1. Các cơ sở khám, chữa bệnh ngoài công lập

trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa [45]

Địa điểm Quy Năm (Huyện, thị mô TT Đơn vị hoạt xã, thành phố) giường động bệnh

1 Bệnh viện ĐK Hợp Lực TP. Thanh Hóa 2004 800

2 Bệnh viện Mắt Bắc Trung Nam TP. Thanh Hóa 2008 40

3 Bệnh viện Mắt Bình Tâm TP. Thanh Hóa 2008 40

4 Bệnh viện Trĩ Tâm An TP. Thanh Hóa 2008 60

5 Bệnh viện ĐK Hàm Rồng Hoằng Hóa 2012 150

6 Bệnh viện ĐK Thanh Hà TP. Thanh Hóa 2012 290

7 Bệnh viện ĐK Tâm Đức Nông Cống 2013 150

8 Bệnh viện ĐK Trí Đức Thành Yên Định 2013 250

9 Bệnh viện ĐK ACA Bỉm Sơn TX. Bỉm Sơn 2014 200

10 Bệnh viện ĐK Phúc Thịnh TP. Thanh Hóa 2014 300

11 Bệnh viện Mắt Thanh An TP. Thanh Hóa 2017 40

40

Địa điểm Quy Năm (Huyện, thị mô TT Đơn vị hoạt xã, thành phố) giường động bệnh

2018 100 12 Bệnh viện Đa khoa Đại An Thiệu Hóa

2019 250 13 Bệnh viện ĐKQT Hợp Lực Tĩnh Gia

2019 99 14 Bệnh viện đa khoa Hải Tiến Hoằng Hóa

25 15 Bệnh viện Mắt Thanh Tâm TP. Thanh Hóa 2019

21 16 Bệnh viện Mắt Lam Kinh TP. Thanh Hóa 2019

2.2. Thực tiễn Quản lý Nhà nước đối với viên chức ngành y tế ở Thanh

Hóa

2.2.1. Thực tiễn về tổ chức, quản lý và ban hành văn bản pháp luật

Đổi mới và hoàn thiện hệ thống y tế theo hướng công bằng, hiệu quả và

phát triển, tạo cơ hội thuận lợi cho mọi người dân được bảo vệ, chăm sóc và

nâng cao sức khoẻ với chất lượng ngày càng cao. Quan tâm phát triển các

dịch vụ y học với công nghệ, kỹ thuật cao; phát triển hài hòa giữa y tế phổ cập

với y tế chuyên sâu, kết hợp phát triển y học hiện đại với y học cổ truyền.

Thúc đẩy các cơ sở y tế công lập và ngoài công lập được phát triển về quy mô

và chất lượng, nâng cấp các cơ sở y tế đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.

Hoàn thiện tổ chức hệ thống y tế theo các quy hoạch chung và quy

hoạch chuyên ngành đã được phê duyệt và các văn bản quy định về tổ chức

bộ máy trong hệ thống y tế của Chính phủ, của Bộ Y tế, của các Bộ, Ngành

chức năng song cần phải đảm bảo phù hợp với điều kiện thực tế của địa

phương. Tiếp tục đầu tư nâng cấp các cơ sở y tế, đặc biệt là mạng lưới y tế cơ

sở và y tế dự phòng. Đồng thời, chú trọng phát triển hệ thống thông tin y tế tại

các đơn vị, thuộc các tuyến với việc ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại

41

nhằm đáp ứng đầy đủ, chính xác và kịp thời nhu cầu thông tin phục vụ quản

lý, điều hành và giám sát thực hiện các hoạt động y tế trên địa bàn.

Mặt khác, Thanh Hóa đẩy mạnh công tác cải cách hành chính nhằm cải

thiện, tăng cường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý ngành đáp ứng nhu cầu

chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân.

Ban hành và thực hiện các chính sách ưu đãi trong đào tạo, tuyển dụng

và sử dụng đối với viên chức y tế công tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng ven

biển, hải đảo. Tranh thủ tối đa sự hỗ trợ quốc tế cũng như của các tỉnh lân cận

đối với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực y tế.

2.2.2. Thực tiễn về công tác tổ chức thực hiện

Kiện toàn đội ngũ cán bộ y tế, cân đối nhu cầu nhân lực y tế sao cho

phù hợp về số lượng, cơ cấu, chất lượng theo quy định đối với từng tuyến,

lĩnh vực và điều kiện cụ thể của từng đơn vị. Nâng cao trình độ cán bộ theo

hướng hoàn thiện các tiêu chuẩn về xếp hạng đơn vị, có tính tới sự kế thừa

phát triển về nhân lực giữa các giai đoạn.

Một số giải pháp cụ thể, bao gồm: Rà soát nhân lực về số lượng, cơ

cấu, trình độ phát hiện những bất cập trong bố trí, sử dụng nhân lực của các

cơ sở y tế. Xác định nhu cầu về nhân lực của từng cơ sở y tế, từng lĩnh vực,

từng tuyến. Xây dựng kế hoạch đào tạo và tuyển dụng để điều chỉnh đội ngũ

cán bộ phù hợp cho từng đơn vị, từng lĩnh vực, từng tuyến và trong toàn hệ

thống với tầm nhìn cả ngắn hạn và dài hạn. Huy động cán bộ y tế đã nghỉ hưu

tham gia công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân trên địa bàn.

2.2.3. Thực tiễn về chế độ, chính sách đãi ngộ đối với viên chức y tế

Xây dựng các chính sách thu hút, đãi ngộ vượt trội để tích cực phát

triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho hệ thống y tế toàn tỉnh. Tinh giản bộ

máy biên chế, phát huy hiệu lực hiệu quả của tổ chức, bộ máy. Triển khai

rộng rãi các hợp đồng gói dịch vụ đối với các dịch vụ sử dụng lao động phổ

thông, lao động kỹ thuật đơn giản.

42

Hàng năm xây dựng kế hoạch về đào tạo liên tục, bồi dưỡng chuyên

môn, trình độ quản lý nhà nước cho cán bộ y tế. Chú trọng công tác giáo dục

chính trị, tư tưởng, nâng cao đạo đức nghề nghiệp của cán bộ y tế. Phát triển

mô hình liên kết đào tạo nguồn nhân lực với các trường đại học y, dược trong

nước, trong khu vực để mở các khóa đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn

cho cán bộ y tế ngay tại địa phương. Phối hợp với Phân hiệu Đại học Y Hà

Nội trong việc đào tạo nguồn nhân lực của một số mã ngành chuyên môn cho

ngành.

2.2.4. Thực tiễn đào tạo nguồn nhân lực y tế

Đào tạo đại học, sau đại học và đào tạo nâng cao

Đào tạo bác sĩ, dược sĩ đại học hệ chính quy: Cần thực hiện các giải

pháp nhằm định hướng và hỗ trợ cho học sinh phổ thông có lực học giỏi, khá

trong tỉnh thi tuyển vào các trường đại học Y, Dược để tạo nguồn nhân lực có

trình độ chuyên môn cao cho ngành. Tỉnh cần ban hành một số chính sách hỗ

trợ phù hợp đối với nhóm đối tượng này trong quá trình đào tạo cũng như thu

hút tuyển dụng, sử dụng sau khi tốt nghiệp.

Đào tạo sau đại học và đào tạo nâng cao cần phải được thực hiện với

nhiều hình thức: Tập trung, đào tạo tại chỗ, đào tạo chuyển giao kỹ thuật. Các

bệnh viện tuyến tỉnh thực hiện Hợp đồng liên kết đào tạo với các bệnh viện

Trung ương để nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề cho viên chức y tế

theo hình thức “cầm tay chỉ việc”, cử đi đào tạo hoặc mời cán bộ tuyến trên

về chuyển giao kỹ thuật tại chỗ hoặc thực hiện theo Đề án 1816, Đề án Bệnh

viện vệ tinh của Bộ Y tế. Ưu tiên các hoạt động về đào tạo cả ê kíp làm việc

trong chuyển giao kỹ thuật.

Đào tạo liên thông lên đại học: Chọn lọc và đào tạo có trọng tâm, định

hướng đối với một số chức danh chuyên môn như: Cử nhân điều dưỡng, kỹ

thuật viên y với các hình thức đào tạo tập trung hoặc đào tạo tại chỗ...

43

Đào tạo cán bộ y tế

Phân hiệu trường Đại học Y Hà Nội cần nâng cao chất lượng đào tạo

các chuyên ngành để đảm bảo cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cho các

cơ sở y tế trên địa bàn và một số tỉnh lân cận.

Đào tạo nhân viên y tế thôn bản

Hàng năm có kế hoạch đào tạo, tập huấn chuyên môn cho nhân viên y

tế thôn, bản, cộng tác viên dân số để từng bước nâng cao năng lực của lực

lượng này tại các thôn bản, đặc biệt là kỹ năng truyền thông.

Đào tạo cán bộ quản lý

Tiếp tục cử cán bộ đi học nâng cao trình độ về quản lý nhà nước, lý

luận chính trị, tin học, ngoại ngữ bằng các hình thức đào tạo phù hợp.

2.3. Đánh giá chung về Quản lý Nhà nước đối với viên chức ngành y tế tại

Thanh Hóa

2.3.1. Kết quả và nguyên nhân

2.3.1.1. Kết quả

Mạng lưới y tế được củng cố và từng bước hoàn thiện. Thực hiện đổi

mới cơ chế quản lý, giám sát việc thực hiện các quy chế, chế độ chuyên môn,

giáo dục y đức trong lĩnh vực khám chữa bệnh (đặc biệt là tinh thần phục vụ

người bệnh), tăng cường kỹ thuật tại các tuyến. Các hoạt động về quản lý tài

chính, thu hút các nguồn đầu tư phát triển ngành được tăng cường và đã đạt

những kết quả tốt hơn. Năm 2011 trên địa bàn tỉnh có 37 Bệnh viện công lập

thuộc tỉnh quản lý (25 Bệnh viện tuyến huyện và 12 Bệnh viện tuyến tỉnh),

đến năm 2019, có 38 Bệnh viện (thành lập 01 bệnh viện ung bướu tỉnh) [45]

góp phần vào hoạt động chăm sóc sức khỏe nhân dân trên địa bàn tỉnh.

Hệ thống Bệnh viện công lập ngày một được nâng cao, đến hết năm

2019 trên địa bàn tỉnh đã có 05 Bệnh viện hạng I và 30 hạng II và 03 hạng III,

từ 5.720 giường bệnh năm 2011 đến nay đã có 11.210 giường bệnh (6.750

giường kế hoạch và 4.460 giường bệnh điều chỉnh theo cơ chế tự chủ). [45]

44

Hiện nay có sáu (06) bệnh viện trở thành bệnh viện vệ tinh của các Bệnh viện

Trung ương là: Bệnh viện đa khoa Tỉnh, Bệnh viện đa khoa khu vực Tĩnh

Gia, Bệnh viện đa khoa khu vực Ngọc Lặc, Bệnh viện đa khoa huyện Quảng

Xương, Bệnh viện đa khoa Hợp Lực, Bệnh viện Ung bướu. Tại tuyến tỉnh,

các bệnh viện được đầu tư tương đối hoàn chỉnh, nhiều bệnh viện có cơ sở vật

chất khang trang, hiện đại như Bệnh viện Nhi, Bệnh viện Mắt, Bệnh viện Nội

tiết, Bệnh viện ung bướu các bệnh viện khác đều đang được tiến hành cải tạo

nâng cấp mở rộng. Thời gian qua các bệnh viện đã chủ động liên kết, phối

hợp với các bệnh tuyến trung ương trong triển khai các kỹ thuật mới, kỹ thuật

chuyên sâu thông qua các hoạt động của Đề án 1816, Đề án bệnh viện vệ tinh.

Nhiều tiến bộ khoa học mới được nghiên cứu phục vụ công tác khám chữa

bệnh, hàng loạt các kỹ thuật chuyên sâu đã được triển khai ứng dụng tại các

bệnh viện tuyến tỉnh như: các bệnh viện trong tỉnh đã thực hiện nhiều kỹ thuật

mới trong công tác khám chữa bệnh tại bệnh viện tuyến tỉnh: Bệnh viện Đa

khoa tỉnh (phẫu thuật nội soi cắt dạ dày, đốt sóng cao tần RFA điều trị u phổi,

Phẫu thuật nội soi vá lỗ thông liên nhĩ, Chụp và can thiệp mạch não, Sinh

thiết mù màng phổi, Nghiệm pháp hồi phục phế quản với thuốc giãn phế

quản, kỹ thuật bơm xi măng sinh học trong điều trị các bệnh xương khớp,

Ghép thận từ người cho sống), Bệnh viện phổi (Sốc điện ngoài lồng ngực cấp

cứu), Bệnh viện Y dược cổ truyền (tán sỏi ngoài cơ thể), Bệnh viện Mắt (ghép

giác mạc)... Số kỹ thuật mới được thực hiện lần đầu tại cơ sở khám chữa bệnh

từ tuyến tỉnh đến tuyến huyện trong tỉnh.

Tại tuyến huyện hiện nay 100% các kỹ thuật theo phân tuyến của Bộ Y

tế đối với bệnh viện tuyến 3 đã được triển khai thực hiện. Trong đó có nhiều

bệnh viện đã thực hiện được từ 70% - 100% kỹ thuật của bệnh viện tuyến 2

như: Kỹ thuật đặt nội khí quản, sốc nâng mạch, cắt amidan bằng sóng điện

tần, mổ đục thủy tinh thể bằng phương pháp phaco; Phẫu thuật nội soi ổ bụng;

Nội soi tiêu hóa, nội soi tai mũi họng; Siêu âm tim, siêu âm mầu 4D; Chụp X-

45

quang kỹ thuật số (CR); Chụp cắt lớp vi tính (CT-Scaner); Chạy thận nhân

tạo...[45] Chất lượng khám chữa bệnh tại tuyến huyện ngày càng được nâng

cao nhưng vẫn chưa đáp ứng hoàn toàn được yêu cầu ngày một cao của người

bệnh. Các bệnh viện đã được cải tạo và mở rộng khang trang hơn trước, tuy

nhiên cơ sở hạ tầng ở một số nơi đã xuống cấp, chưa mang tính đồng bộ, thiếu

quy hoạch phù hợp với phát triển quy mô giường bệnh như hiện nay; nhiều

trang thiết bị cũ, lạc hậu; đội ngũ y, bác sỹ có chuyên môn giỏi, chuyên môn

sâu còn thiếu.

Các phòng khám đa khoa khu vực thời gian qua được đầu tư cơ sở vật

chất và trang thiết bị đáp ứng tốt nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho

nhân dân tại các khu vực xa trung tâm, với các hoạt động như: tư vấn, kiểm

tra sức khỏe định kỳ, chăm sóc thai sản, điều trị các bệnh thông thường, góp

phần giảm tải cho các bệnh viện tuyến huyện. Bên cạnh đó, phối hợp với các

trạm y tế xã trong khu vực thực hiện hiệu quả các chương trình mục tiêu Quốc

gia về y tế như: Tiêm chủng mở rộng, phòng, chống bệnh tâm thần, bệnh sốt

rét, HIV/AIDS, cao huyết áp, đái tháo đường.

2.3.1.2. Nguyên nhân

(i) Quản lý hiệu quả và yêu cầu cao đối với viên chức y tế

Thanh Hóa từng bước xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ y tế có y

đức, có tinh thần thái độ phục vụ tận tụy người bệnh, phục vụ cộng đồng; bảo

đảm số lượng và chất lượng đào tạo theo mục tiêu đề ra; bồi dưỡng nâng cao

trình độ chuyên môn; thực hiện điều chỉnh cơ cấu nguồn nhân lực để khắc

phục sự mất cân đối giữa các lĩnh vực. Đồng thời, thường xuyên điều chỉnh,

bổ sung quy hoạch phát triển nguồn nhân lực y tế về số lượng và chất lượng;

nâng cao trình độ người có trình độ sơ cấp, trung cấp lên cao đẳng vào năm

2021 hướng tới mục tiêu ngành y tế không có nhân lực có trình độ trung cấp.

Tăng cường nhân lực y tế cho y tế cơ sở. Chú trọng phát triển nhân lực y tế có

trình độ cao trong và ngoài nước; mở rộng đào tạo điều dưỡng trình độ đại

46

học, cao đẳng, tiến tới đạt cơ cấu hợp lý giữa bác sỹ và điều dưỡng, kỹ thuật

viên…, bảo đảm cân đối giữa đào tạo và sử dụng nhân lực y tế, bảo đảm cơ

cấu điều dưỡng/bác sỹ phù hợp để thực hiện chăm sóc sức khỏe toàn diện cho

người bệnh.

Về chính sách, Thanh Hóa ban hành các chính sách ưu đãi nhằm thu

hút nhân lực y tế có trình độ chuyên môn cao, chuyên sâu yên tâm công tác

lâu dài tại địa phương, người có trình độ chuyên môn làm việc tại y tế cơ sở,

vùng khó khăn. Có chế độ đặc thù đối với người làm việc trong các cơ sở y tế

chuyên khoa tâm thần, lao, phong và các bệnh mới (trầm cảm, tự kỷ, bệnh

tuổi già,...).

(ii) Tổ chức và phân phối hiệu quả nguồn lực của hệ thống cơ sở

khám chữa bệnh hiện nay

Thời gian qua cơ sở vật chất các bệnh viện được quan tâm đầu tư từ các

nguồn vốn khác nhau đáp ứng tối thiểu nhu cầu khám chữa bệnh của nhân

dân. Tuy nhiên, do tỉ lệ giường bệnh/vạn dân thấp nên trình trạng quá tải vẫn

diễn ra ở hầu hết các bệnh viện. Tính đến hết năm 2016 tỉ lệ giường bệnh/vạn

dân toàn tỉnh đạt 25,6 giường, tỉ lệ bác sĩ/vạn dân đạt 7,8 bác sĩ thấp hơn mức

bình quân trung của cả nước (Bao gồm cả y tế ngoài công lập và y tế bộ

ngành khác trên địa bàn).

Tại các bệnh viện công lập, trong giai đoạn 2014-2016, mặc dù số

giường bệnh thực kê cao hơn từ 1,5 đến 2,0 lần so với giường bệnh kế hoạch,

theo thống kê của ngành y tế tổng số giường bệnh thực kê của các bệnh viện

công lập tỉnh tại thời điểm 31/12/2016 là 14.601 giường, trong đó có 11.236

giường đạt tiêu chuẩn về điều kiện cơ sở vật chất tối thiểu. [45] Số người làm

việc được giao hiện nay thấp hơn so với quy định tại Thông tư liên tịch số

08/2007/TTLT-BYT-BNV ngày 05/6/2007 của Bộ Y tế, Bộ Nội vụ về hướng

dẫn định mức biên chế trong các đơn vị sự nghiệp y tế công lập, đây là một

trong những bất cập gây khó khăn cho việc nâng cao chất lượng dịch vụ.

47

Đội ngũ cán bộ có trình độ bác sĩ ở các bệnh viện đều thiếu, đặc biệt là

bác sĩ có trình độ chuyên môn sâu, tay nghề giỏi. Lực lượng lao động chưa

tương xứng với số lượt bệnh nhân điều trị tại Bệnh viện, chưa đủ so với định

mức quy định tại Thông tư liên tịch số 08/TTLT-BYT-BNV ngày 05/6/2007

của Bộ Y tế, Bộ Nội vụ về hướng dẫn định mức biên chế sự nghiệp trong các

cơ sở y tế nhà nước; Cơ cấu chủng loại cán bộ chưa hợp lý và còn nhiều bất

cập.

Đến hết năm 2016 toàn tỉnh có 8.569 người đang làm việc tại các bệnh

viện công lập, trong đó: Biên chế thực hiện: 5.759 người (được UBND tỉnh

giao là 6.011 người); Hợp đồng chuyên môn nghiệp vụ ngoài biên chế được

giao: 2.370 người; Hợp đồng theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP: 440 người.

Cơ cấu cụ thể như sau: Tỷ lệ Bác sỹ, điều dưỡng viên, hộ sinh viên, kỹ thuật

viên: Tính đến thời điểm hiện tại Thanh Hóa đạt tỷ lệ 10 bác sĩ/vạn dân (tính

chung cả trong và ngoài công lập). Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức

ngành Y tế tính đến nay có 10.393 người; Trong đó: 2.887 người có trình độ

đại học (chiếm 27.78%), 808 thạc sĩ và chuyên khoa I (chiếm 7.77%), 117

tiến sĩ và chuyên khoa II (chiếm 1.13%). [45]

(iii) Thực hiện tự chủ tại các cơ sở khám, chữa bệnh khu vực công

Việc thực hiện cơ chế tự chủ tại các bệnh viện công lập trong tỉnh hiện

nay đang thực hiện theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của

Chính phủ và Quyết định số 2414/2011/QĐ-UBND ngày 25/7/2011, về việc

quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ

máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập cấp tỉnh quản lý

thời kỳ 2011-2015. Tuy nhiên, việc giao các đơn vị sự nghiệp công lập nói

chung và các bệnh viện công lập nói riêng tự chủ từ năm 2016 trở về trước

thực tế chỉ là thực hiện tự chủ về tài chính, chưa thực hiện tự chủ về giường

bệnh và biên chế.

48

Trong giai đoạn 2014-2016 các bệnh viện công lập thuộc tỉnh đã tự

đảm bảo được từ 23-85% nguồn kinh phí chi hoạt động thường xuyên, tỉ lệ tự

đảm bảo chi hoạt động thường xuyên bình quân tại tất cả các bệnh viện công

trong ngành năm 2014 là 71%, năm 2015 là 75% và năm 2016 là 76%. [45]

Về thực hiện nhiệm vụ, các đơn vị chủ động đề xuất việc đào tạo, phát

triển các dịch vụ kỹ thuật mới trên cơ sở nhiệm vụ chính trị được giao, nhu

cầu thực tế của người dân, các điều kiện thực tế của đơn vị cũng như nguồn

kinh phí triển khai thực hiện. Tuy nhiên, hiện nay các bệnh viện công lập

trong ngành chưa thực hiện tự chủ về tổ chức bộ máy.

Do tình trạng quá tải diễn ra tại hầu hết các bệnh viện công lập, để đáp

ứng thực tế nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng cao của nhân dân, đồng thời

khắc phục tình trạng thiếu hụt nhân lực ngoài số lượng người làm việc được

UBND tỉnh giao, ngành y tế đã cho phép các đơn vị kê thêm giường bệnh

(Năm 2016 là 8.051 giường bệnh), ký hợp đồng lao động làm việc chuyên môn

nghiệp vụ khám chữa bệnh với 2.370 người. Đối với số giường bệnh và nhân

lực tăng thêm này các bệnh viện tự đảm bảo nguồn thu để triển khai thực hiện,

chưa được Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt, nên chưa bảo đảm các quy định của

pháp luật về tự chủ giường bệnh và biên chế. Như vậy thực tế giai đoạn vừa

qua các bệnh viện đã thực hiện việc tự chủ toàn bộ đối với số giường bệnh tăng

thêm ngoài kế hoạch và số lượng người làm việc tăng thêm so với số lượng

được UBND tỉnh giao.

Ngoài ra các bệnh viện được chủ động thực hiện việc liên doanh liên

kết với các doanh nghiệp để thực hiện việc đầu tư trang thiết bị máy móc góp

phần nâng cao chất lượng dịch vụ.

Số lượng người làm việc được giao năm 2015, 2016, 2017 là 6.011; số

lượng người thực hiện đến 31/12/2016 là 5.759 người. Số lao động hợp đồng

làm chuyên môn nghiệp vụ ngoài biên chế được giao: 2.370 người; số lao

49

động hợp đồng theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP của Chính phủ được giao

và thực hiện là 440 người. [45]

Tất cả các bệnh viện công lập trong tỉnh hiện nay đang thực hiện cơ chế

tự chủ đối với đơn vị sự nghiệp công lập tự đảm bảo một phần chi hoạt động

thường xuyên. Theo quy định tại Nghị định số 43/2006/NĐ-CP, ngày

25/4/2006 của Chính phủ và Quyết định số 2414/2011/QĐ-UBND ngày

25/7/2011 của UBND tỉnh. Chủ động xây dựng Quy chế chi tiêu nội bộ hàng

năm, có sự thống nhất của tổ chức Đảng, tổ chức công đoàn và các đoàn thể.

Việc quản lý sử dụng các nguồn lực chi thường xuyên tại đơn vị được thực

hiện theo quy định trong Quy chế chi tiêu nội bộ. Sở Y tế, Sở Tài chính và

các ngành có liên quan thực hiên chức năng kiểm tra giám sát, hướng dẫn các

đơn vị thực hiện cơ chế tự chủ nhằm phát huy hiệu quả hoạt động tài chính

phục vụ chi thường xuyên. Các nguồn lực đầu tư từ ngân sách nhà nước, các

nguồn viện trợ tài trợ vẫn thực hiện theo đúng các quy định hiện hành. Ngoài

ra các bệnh viện đã tự đảm bảo nguồn kinh phí trong việc triển khai hoạt động

cho số giường bệnh kê thêm để phục vụ người dân.

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân

2.3.2.1. Hạn chế

Về nguồn lực: đội ngũ cán bộ có trình độ Bác sĩ ở các bệnh viện đều

thiếu, đặc biệt là bác sĩ có trình độ chuyên môn sâu, tay nghề giỏi. Lực lượng

lao động chưa tương xứng với số lượt bệnh nhân điều trị tại Bệnh viện, chưa

đủ so với định mức quy định tại Thông tư liên tịch số 08/TTLT-BYT-BNV

ngày 05/6/2007 của Bộ Y tế, Bộ Nội vụ về hướng dẫn định mức biên chế sự

nghiệp trong các cơ sở y tế nhà nước; cơ cấu chủng loại cán bộ không hợp lý,

còn nhiều bất cập.

Về vấn đề tuyển dụng: chưa có cơ chế đối với việc tuyển dụng nguồn

nhân lực chất lượng cao, được đào tạo bài bản tại các cơ sở đào tạo uy tín

trong và ngoài nước, hay thu hút lực lượng bác sĩ tốt nghiệp chính quy về

50

công tác tại các cơ sở y tế. Các bệnh viện chưa được phê duyệt Đề án vị trí

việc làm, chỉ tiêu giường bệnh, biên chế tăng thêm thực hiện theo cơ chế tự

chủ làm cơ sở cho các bệnh viện thực hiện tự chủ, chủ động trong việc bố trí,

sắp xếp lực lượng lao động để nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và chống

quá tải bệnh viện. Thu nhập của người lao động chưa tương xứng với hiệu

quả, hiệu suất lao động nên chưa động viên được cán bộ viên chức phát huy

vai trò làm chủ.

Về chất lượng đội ngũ viên chức: hiện tại thiếu cả về số lượng và chất

lượng; phân bổ không đồng đều giữa các bộ phận, các tuyến; cơ cấu cán bộ

còn chưa hợp lý. Dẫn đến chất lượng hoạt động chưa được cao, chưa đáp ứng

được yêu cầu trong thực tế, cũng như hạn chế trong việc áp dụng khoa học kỹ

thuật. Năng lực của một số viên chức so với nhu cầu xã hội còn chưa cao,

nhất là trong việc chẩn đoán, điều trị và khai thác sử dụng các thiết bị hiện

đại; các biện pháp tự đào tạo còn ít được thực hiện hoặc hiệu quả thấp, dẫn

đến chất lượng khám chữa bệnh chậm chuyển biến so với yêu cầu; việc thực

hiện các quy chế chuyên môn một số mặt chưa chặt chẽ, chưa thường xuyên.

Về cơ chế lương bổng, phụ cấp: định mức phụ cấp nhìn chung còn

thấp, chưa thỏa đáng, chưa tương xứng với lao động đặc thù trong việc khám

chữa những bệnh có nguy cơ lây nhiễm cao. Định mức phụ cấp đã lạc hậu so

với mức lương tối thiểu và giá cả thị trường nhất là với một số phụ cấp có

cách tính chi trả chưa hợp lý (tính bằng tiền theo giá trị tuyệt đối). Các chế độ

phụ cấp hiện nay chưa bảo đảm được tính công bằng giữa lao động ngành Y

tế so với các ngành khác và chưa đủ sức hấp dẫn để thu hút đội ngũ viên chức

y tế. Chế độ chính sách đối với cán bộ làm công tác y tế vẫn chưa được hoàn

thiện đã phần nào khiến một số bộ phận cán bộ thiếu an tâm công tác. Mặc dù

Chính phủ đã có những biện pháp quyết liệt nhằm kiềm chế lạm phát, bình ổn

giá tuy nhiên điều kiện kinh tế khó khăn đã ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống

viên chức y tế.

51

Về cơ sở hạ tầng: Trang thiết bị, cơ sở hạ tầng đã được đầu tư, nâng

cấp song vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh của người dân cho

nên ảnh hưởng đến chất lượng chữa trị và nâng cao thay nghề của đội ngũ

viên chức y tế.

2.3.2.2. Nguyên nhân

Những hạn chế kể trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau,

trong đó có thể kể đến các nguyên nhân sau:

Thứ nhất, nhận thức về hoạt động nghề nghiệp của đội ngũ viên chức

và cơ chế quản lý viên chức chưa đổi mới kịp với những thay đổi về nhiệm vụ

của nhà nước cung ứng các nhu cầu cơ bản, thiết yếu cho người dân trong

tỉnh. Tư duy về các hoạt động nghề nghiệp của viên chức vẫn mang dấu ấn

của thời kỳ bao cấp. Vị trí pháp lý của viên chức chưa được xác định rõ ràng;

chưa phân định giữa hoạt động quản lý nhà nước của công chức với hoạt động

nghề nghiệp của viên chức. Trong nhiều lĩnh vực, hoạt động nghề nghiệp của

viên chức còn có vi phạm về đạo đức, kỷ luật nghề nghiệp.

Thứ hai, tính chất, đặc điểm hoạt động nghề nghiệp của viên chức trong

các đơn vị sự nghiệp công lập chưa được tính đến trong cơ chế quản lý viên

chức. Việc quy định quyền, nghĩa vụ, những việc không được làm của viên

chức giống như đối với cán bộ, công chức đã hạn chế việc xây dựng đội ngũ

viên chức; hạn chế phát huy tài năng, sáng tạo của viên chức và chưa thu hút

nguồn nhân lực có chất lượng cao, tay nghề giỏi vào đơn vị sự nghiệp công

lập. Tuy nhiên, thực trạng này dễ nhận được sự hưởng ứng của các viên chức

yếu nghiệp vụ, hoặc ở cơ sở KCB tuyến huyện trở xuống, do sức cạnh tranh

kém, ít nhu cầu KCB. Quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức

chậm được đổi mới, chưa tương thích với cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm

của đơn vị sự nghiệp công lập. Từ ngày 01/7/2020, nhà nước đã bước đầu đổi

mới tuyển dụng viên chức từ lâu dài sang hợp đồng làm việc xác định thời

52

hạn nhưng việc tuyển dụng theo hợp đồng gắn với chỉ tiêu biên chế chưa thể

hiện triệt để tinh thần đổi mới về quản lý.

Thứ ba, hoạt động nghề nghiệp của đội ngũ viên chức hiện nay chƣa

được quản lý và kiểm soát chặt chẽ, thống nhất; những tiêu cực về tác phong,

lề lối làm việc của viên chức đã và đang làm giảm chất lượng phục vụ người

dân của một số đơn vị sự nghiệp công lập. Các biểu hiện thiếu tinh thần trách

nhiệm, yếu về năng lực và kém về trình độ nghề nghiệp, phiền hà, sách nhiễu

người dân vẫn tồn tại, làm ảnh hưởng đến lòng tin của người bệnh đối với y,

bác sĩ và nhân viên y tế.

Tiểu kết Chương 2

Kết quả nghiên cứu ở Chương 2 cho thấy, bên cạnh các thách thức

nghề nghiệp chung của ngành y tế thì Thanh Hóa cũng cho thấy thách thức

đến từ yếu tố địa phương như: là một tỉnh đông dân, phân bố dân cư rộng,

nhiều sắc tộc, việc đi lại ở phía Tây tỉnh rất khó khăn; những yếu tố này gián

tiếp ảnh hưởng đến việc đào tạo, tuyển dụng, thu hút và sử dụng viên chức

cho các cơ sở KCB tuyến dưới. Các điểm triển vọng mà Thanh Hóa đạt được

trong quản lý viên chức y tế được cải thiện theo hướng hiệu quả, thu hút được

nguồn nhân lực theo các phân khúc dịch vụ phù hợp với nhu cầu địa phương.

53

CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ

QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIÊN CHỨC NGÀNH Y TẾ

TỈNH THANH HÓA

3.1. Quan điểm về quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế

3.1.1. Quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế phải phù hợp với yêu

cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Hiện nay, hệ thống pháp luật về y tế gồm 1137 văn bản quy phạm pháp

luật trực tiếp và gián tiếp điều chỉnh các hoạt động y tế. [2] Như vậy, ngành y

tế đã có được một hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh để điều chỉnh các

quan hệ xã hội nảy sinh liên quan đến lĩnh vực y tế như: Luật bảo vệ sức khỏe

nhân dân năm 1989, Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy

giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) năm 2006 (sửa đổi năm 2020),

Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006,

Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007, Luật Bảo hiểm y tế năm

2008 (sửa đổi năm 2014), Luật An toàn thực phẩm năm 2010, Luật Phòng,

chống tác hại của thuốc lá năm 2012, Luật Dược năm 2016, Luật Khám bệnh,

chữa bệnh năm 2017 (văn bản hợp nhất). Cùng đó, là hệ thống các văn bản

quản lý nhà nước về cán bộ, nhân viên y tế như Luật cán bộ, công chức năm

2008, Luật viên chức năm 2010.

Về phương diện quản lý theo kế hoạch, trong lĩnh vực y tế, Thủ tướng

Chính phủ đã ban hành khá nhiều chiến lược như: Chiến lược quốc gia về bảo

vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011-2020, tầm nhìn

đến năm 2030, Chiến lược Dân số Việt Nam giai đoạn 2001-2010 .. Đây là

các chiến lược mang tính tổng thể về ngành y tế. Tuy nhiên, trong từng lĩnh

vực, Thủ tướng Chính phủ lại ban hành các chiến lược riêng như Chiến lược

quốc gia về phát triển ngành dược giai đoạn đến năm 2020 và tầm nhìn đến

năm 2030, Chiến lược về Chăm sóc sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn

54

2011-2020 và một số chiến lược khác. Như vậy, việc ban hành các chiến lược

trên dẫn đến chồng chéo về mục tiêu, giải pháp và làm cho việc triển khai

thực hiện bị phân tán.

Bên cạnh đó, về quy hoạch, Thủ tướng Chính phủ cũng ban hành Quy

hoạch tổng thể phát triển hệ thống y tế Việt Nam giai đoạn đến năm 2010 và

tầm nhìn đến năm 2020 nhưng sau đó lại chuẩn bị có thêm quy hoạch khác

như Quy hoạch phát triển năm (05) bệnh viện tuyến Trung ương… dẫn đến

tính thống nhất của hệ thống quy hoạch bị thay đổi. Mặt khác, một số địa

phương cũng không tuân thủ đúng quy hoạch này làm cho quy hoạch bị ảnh

hưởng.

Nhà nước trong bất kỳ thể chế chính trị nào, hình thái tổ chức nào cũng

đều là người tổ chức và chịu trách nhiệm cao nhất về chăm sóc sức khỏe cho

người dân và Việt Nam cũng vậy. Tuy nhiên, tuy theo mô hình tổ chức nhà

nước, vấn đề trách nhiệm thực hiện được phân công khác nhau. Mô hình nhà

nước Việt Nam là đơn nhất nên việc phân công trách nhiệm cũng khác nhau.

Bộ trưởng Bộ Y tế là tư lệnh ngành nhưng không phải là người chịu trách

nhiệm duy nhất về vấn đề chất lượng, hiệu quả của công tác y tế. Do đó, phải

thực hiện nguyên tắc “Kết hợp quản lý nhà nước theo ngành với quản lý nhà

nước theo lãnh thổ”. [35] Xuất phát từ việc phân định chức năng khác nhau

giữa chính quyền trung ương và CQĐP.

Trên cơ sở xác định nội dung QLNN theo ngành, QLNN theo lãnh thổ

và phân tích chức năng QLNN về y tế cho thấy nhất thiết phải kết hợp quản lý

theo ngành với quản lý theo lãnh thổ. Trên cơ sở phân định rõ ràng chức năng

quản lý, các quy định về phân công, phân cấp và xây dựng nội dung, mức độ

quản lý theo lãnh thổ; nội dung, mức độ kết hợp quản lý theo ngành với quản

lý theo lãnh thổ nhằm phát huy cao độ nhất hiệu quả sử dụng nguồn lực của

cả nước, của từng vùng kinh tế, từng địa phương trong sự nghiệp phát triển

kinh tế - xã hội, bảo đảm thống nhất lợi ích quốc gia và lợi ích từng địa

55

phương trong sự phát triển một cách có lợi nhất những lợi thế của địa phương.

Sự kết hợp và thống nhất hai mặt quản lý chủ yếu được thể hiện:

- Tổ chức sự điều hòa, phối hợp các hoạt động y tế trên phạm vi cả

nước cũng như trên từng đơn vị hành chính lãnh thổ, nhằm xây dựng và phát

triển hệ thống y tế một cách đồng bộ;

- Quản lý công việc chung, lợi ích chung của nhà nước về sự nghiệp y

tế, kết hợp hài hòa lợi ích chung cả nước và lợi ích của từng địa phương;

- Quản lý và phục vụ tốt những tổ chức và hoạt động của các cơ quan y

tế trực thuộc Bộ Y tế và các bộ, ngành khác đóng trên trên lãnh thổ để cũng

chăm lo cho sức khỏe của nhân dân địa phương;

- Song trùng trách nhiệm QLNN giữa Bộ Y tế với UBND tỉnh. Sự kết

hợp giữa quản lý theo ngành của các cơ quan QLNN ở trung ương và quản lý

trên đơn vị hành chính lãnh thổ của CQĐP về y tế được pháp luật quy định;

các CQNN trung ương và địa phương chấp hành không được tùy tiện, thay

đổi hay làm trái. Tuy nhiên, vấn đề ai, tổ chức chịu trách nhiệm cao nhất nếu

xảy ra những vấn đề về y tế như:

(i) Chế độ tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, kỷ luật công

chức, viên chức y tế. Trên cơ sở Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức,

Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân và theo phân cấp quản

lý, việc tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, kỷ luật công chức, viên

chức y tế đều thuộc về thẩm quyền của CQĐP, Bộ Y tế không có thẩm quyền

can thiệp và khi các tiêu chuẩn, chức danh công chức, viên chức y tế do Bộ Y

tế, Bộ Nội vụ ban hành mà địa phương thực hiện chưa đúng, Bộ Y tế cũng chỉ

kiến nghị mà không có thẩm quyền giải quyết cụ thể;

(ii) Chế độ tài chính dành cho công tác y tế. Theo phân cấp ngân sách

nhà nước hiện nay, các tỉnh đều được quyền phân chia ngân sách được cấp

cho các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, y tế… trên địa bàn tỉnh. Trong lĩnh

vực y tế, để tuân thủ quy chuẩn bệnh viện, cơ sở y tế, các quy định chuyên

56

môn, kỹ thuật y tế, ngân sách của tỉnh phải đáp ứng đầy đủ để thực hiện đúng

các quy định đó. Ngoài ra, nhà nước còn có cơ chế chương trình mục tiêu

quốc gia, các dự án quốc tế (viện trợ, vốn vay ODA), trái phiếu Chính phủ để

chi cho hệ thống y tế ngoài nguồn ngân sách nhà nước. Như vậy, CQĐP phải

chịu trách nhiệm về các điều kiện kinh phí cho hoạt động y tế trên địa bàn

lãnh thổ phụ trách;

(iii) Tổ chức thi hành pháp luật về y tế. Với phương thức quản lý hiện

nay, CQĐP được toàn quyền tổ chức thi hành pháp luật trên địa bàn và chịu

trách nhiệm về toàn bộ các vấn đề y tế xảy ra. Công tác phổ biến, giáo dục

pháp luật, công tác thanh tra, kiểm tra, mối quan hệ phối hợp giữa Sở Y tế với

UBND huyện, xã cần phải được tiến hành đồng bộ dưới gậy chỉ huy của

UBND tỉnh. Vấn đề cơ bản là các cơ sở y tế, các cơ quan chuyên môn, cơ

quan quản lý nhà nước phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật

về y tế;

(iv) Trách nhiệm công vụ trong QLNN về y tế. Mô hình hệ thống tổ

chức nhà nước hiện nay là phân chia quyền lực giữa trung ương và địa

phương theo nguyên tắc song trùng trực thuộc: Các cơ sở y tế vừa trực thuộc

Bộ về quản lý chuyên môn y tế, vừa trực thuộc lãnh đạo địa phương về tổ

chức, nhân lực, tài chính…. Mô hình này còn được gọi là mô hình Xô viết

(Bộ thì quản lý ngành dọc, địa phương quản lý ngành ngang). Song trùng trực

thuộc thì chế độ trách nhiệm phải được xác lập song trùng. Tuy nhiên, trên

thực tế, việc xác định trách nhiệm công vụ chưa rõ ràng, cụ thể, minh bạch

nên khi có vấn đề xảy ra, việc quy trách nhiệm công vụ không dễ dàng. Như

vậy, vấn đề đặt ra là cần thiết phải luật hóa trách nhiệm công vụ để quy trách

nhiệm tập thể, cá nhân (Bộ trưởng, Giám đốc Sở, UBND…) một cách cụ thể,

rõ ràng, minh bạch trên cơ sở giám sát của nhân dân và các cơ quan chức

năng theo mô hình tổ chức nhà nước đã được hiến định hiện nay.

57

3.1.2. Quản lý nhà nước đối với viên chức y tế phải nhằm đạt hiệu quả hoạt

động của đội ngũ viên chức y tế

Để xây dựng nền y tế Việt Nam công bằng, hiệu quả và phát triển, đáp

ứng yêu cầu chăm sóc sức khoẻ ngày càng đa dạng với chất lượng ngày càng

cao của nhân dân đòi hỏi phải tăng cường hiệu lực, hiệu quả của việc QLNN

bằng pháp luật, góp phần đưa các hoạt động y tế vào trật tự, kỷ cương, kỷ luật

và phát triển ổn định. Bên cạnh việc đưa pháp luật về y tế vào cuộc sống, phải

gắn thuyết phục, động viên, khuyến khích các chủ thể tham gia giải quyết các

vấn đề của lĩnh vực y tế.

Phương pháp giáo dục, thuyết phục được áp dụng chủ yếu trên cơ sở

đặc thù của ngành y tế là nhân đạo, liên quan trực tiếp đến sức khỏe, tính

mạng con người nên phải đặc biệt coi trọng giáo dục tư tưởng về hành nghề y

trên cơ sở y đức, y đạo. Đây là phương pháp luôn được đặt lên hàng đầu, phải

làm thường xuyên, liên tục và nghiêm túc. Như đã phân tích về đặc trưng của

các hoạt động y tế trên đây, dịch vụ y tế cũng có sự khác biệt so với các dịch

vụ, hàng hóa thông thường khác. Người bệnh thường phó mặc sức khỏe, bệnh

tật của mình, tin tưởng vào thầy thuốc và nhân viên y tế, kể cả mua thuốc

chữa bệnh. Do đó, cần biểu dương kịp thời các cá nhân, tổ chức có nhiều

thành tích xuất sắc, đóng góp cho sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe bằng

các hình thức khen thưởng thích hợp, tạo thành phong trào thi đua trong toàn

ngành y tế. Bên cạnh đó, mặt trái của phát triển kinh tế thị trường có nguy cơ

làm phai mờ giá trị đạo đức cao quí của người thầy thuốc như tinh thần, thái

độ phục vụ người bệnh, nhận tiền hoặc các lợi ích vật chất khác của người

bệnh, các hành vi cản trở hoặc gây khó khăn cho người hành nghề y, dược tư

nhân... Các hành vi trên đã và đang gây tác hại xấu đến uy tín của ngành y tế

hoặc làm tổn hại đến sức khoẻ, tính mạng của người dân. Bởi vậy, để hạn chế

những bất cập này, một mặt, các hoạt động y tế cần phải được pháp luật quy

định hết sức cụ thể để kiểm soát và ngăn chặn, đưa toàn bộ hoạt động này vào

58

trật tự, kỷ cương, kỷ luật. Mặt khác cần phải không ngừng giáo dục, nâng cao

y đức vì nghề y là một nghề đặc biệt, cần được tuyển chọn, đào tạo, sử dụng

và đãi ngộ đặc biệt. Mỗi công chức, viên chức ngành y tế phải không ngừng

nâng cao đạo đức nghề nghiệp và năng lực chuyên môn, xứng đáng với sự tin

cậy và tôn vinh của xã hội: “…Chẳng những có nhiệm vụ cứu chữa người

bệnh mà còn phải nâng đỡ tinh thần của những người ốm yếu”, phải tôn

trọng nhân cách và quyền được hưởng chăm sóc y tế của người bệnh, không

coi chữa bệnh như là sự ban ơn, thương hại hoặc chữa bệnh để vụ lợi, không

được coi người bệnh là một thứ hàng hóa của kinh tế thị trường. Phải quan

tâm săn sóc người bệnh, phải đối xử bình đẳng với người bệnh trên cơ sở

bệnh tật nặng, nhẹ chứ không phải là vì giàu, nghèo, quyền thế…” (Hồ Chí

Minh). [1]

3.1.3. Quản lý nhà nước đối với viên chức y tế phải tương thích với nhu cầu

cải cách hành chính trong lĩnh vực y tế ở nước ta hiện nay

Những năm gần đây, Bộ Y tế đã triển khai hàng loạt các biện pháp cải

cách TTHC, giảm phiền hà cho người bệnh, nâng cao chất lượng KCB, đổi

mới về quản lý, cách làm và phương pháp kiểm tra, đánh giá chất lượng bệnh

viện hàng năm. Đồng thời, Bộ Y tế cũng đã phê duyệt Đề án xác định Chỉ số

cải cách hành chính năm 2018 đối với các đơn vị thuộc bộ. Đến nay đã hoàn

thành việc xác định chỉ số cải cách hành chính các đơn vị thuộc bộ năm 2019

và đang thực hiện phân tích số liệu, viết báo cáo và công bố Bộ Chỉ số cải

cách hành chính cấp bộ năm 2019.

Hiện nay cả nước có 603 TTHC trong lĩnh vực y tế, trong đó có 209

TTHC thực hiện tại Bộ Y tế. Trong năm qua, Bộ Y tế đã duy trì ổn định hoạt

động của 51 dịch vụ công trực tuyến (trong đó có 7 dịch vụ mức độ 3 và 44

dịch vụ mức độ 4). 100% các dịch vụ hành chính công của Bộ Y tế đã được

cung cấp ở mức độ 2 trở lên. Bộ Y tế đang tiến hành xây dựng hệ thống Cổng

dịch vụ công trực tuyến Bộ Y tế. [13]

59

Năm 2018, Bộ Y tế đã tổ chức hội thi “Cán bộ ngành Y tế đổi mới

phong cách, thái độ phục vụ hướng tới sự hài lòng của người bệnh”, được

đông đảo cán bộ y tế trong toàn ngành tích cực hưởng ứng tham gia. Kết quả

triển khai đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế trong toàn

ngành đã giúp bộ mặt các cơ sở y tế thay đổi, từ tinh thần thái độ phục vụ,

chất lượng dịch vụ, trang phục của cán bộ y tế, điều kiện cơ sở vệ sinh, môi

trường bệnh viện; quy trình KCB, giảm thời gian chờ đợi của người bệnh...

Tình trạng cán bộ y tế gây phiền hà với người bệnh đã giảm rõ rệt. Số lượng

cuộc gọi đường dây điện thoại nóng phản ánh tiêu cực giảm nhiều và tỷ lệ thư

khen ngợi tăng lên. Chẳng hạn năm 2018, Tổ chức sáng kiến Việt Nam khảo

sát qua điện thoại tại 60 bệnh viện tại 23 tỉnh, thành phố trong cả nước cho

thấy, sự hài lòng chung của người bệnh đối với dịch vụ KCB đạt 80,8% (tăng

so với năm 2017 đạt 79,6%). Theo chỉ số Hiệu quả quản trị và hành chính

công cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI) năm 2018, chỉ số tham nhũng vặt ở bệnh

viện huyện giảm còn 0,4% (năm 2016 là 17% và năm 2017 là 9%). [13]

Mục tiêu đến năm 2025 (theo Nghị quyết số 20-NQ/TW) phấn đấu tỷ lệ

hài lòng của người dân với dịch vụ y tế đạt trên 80%.[37] Tuy nhiên, theo kết

quả đánh giá, đo lường sự hài lòng người bệnh về phong cách, thái độ phục

vụ của cán bộ y tế của Vụ Tổ chức cán bộ phối hợp với Viện Chiến lược và

Chính sách y tế (Bộ Y tế) thực hiện năm 2016 tại 22 bệnh viện (11 bệnh viện

trung ương, 8 bệnh viện đa khoa tỉnh, 3 bệnh viện huyện), tỷ lệ hài lòng người

bệnh đạt 81,3% (trong đó bệnh viện tuyến trung ương là 77,9%, bệnh viện

tuyến tỉnh là 87,3% và bệnh viện tuyến huyện là 77,5%). Năm 2018, thực

hiện đánh giá tại 53 bệnh viện tuyến trung ương, bệnh viện thuộc trường đại

học và bệnh viện tuyến tỉnh, tỷ lệ hài lòng người bệnh đạt 83,7% (trong đó

tuyến trung ương đạt 84,5%, tuyến tỉnh đạt 83,3%, nhóm bệnh viện thuộc

trường đại học là 81,5%). [13]

60

Bộ Y tế đã đổi mới về quản lý, cách làm và phương pháp kiểm tra,

đánh giá chất lượng bệnh viện hàng năm. Trong đó, bộ xây dựng và ban hành

quy trình khám bệnh tại khoa khám bệnh của các bệnh viện, giảm TTHC; hay

Bộ Tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện năm 2016 làm căn cứ cho các

bệnh viện triển khai. Đồng thời, ngành Y tế đẩy mạnh ứng dụng công nghệ

thông tin trong quản lý bệnh viện, quản lý bảo hiểm y tế để giảm thủ tục,

giảm thời gian chờ đợi của người bệnh, thực hiện công khai, minh bạch các

khoản chi phí mà người bệnh phải chi trả.

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với viên chức

ngành y tế

3.2.1. Giải pháp chung

3.2.1.1. Kiểm tra việc thực hiện pháp luật về y tế

Kiểm tra việc thực hiện pháp luật về y tế là một biện pháp quan trọng

để bảo đảm việc tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật, khắc phục,

phòng ngừa những vi phạm pháp luật. Kiểm tra nhằm mục đích nhắc nhở,

giáo dục cho viên chức y tế tôn trọng, chấp hành nghiêm chỉnh theo pháp luật;

phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong các văn bản quy phạm pháp luật để đề

nghị bổ sung, sửa đổi, phát hiện những hành vi sai lệch trong việc thực hiện

pháp luật; có biện pháp uốn nắn, khắc phục và phát hiện những việc làm vi

phạm pháp luật; có biện pháp xử lý nghiêm minh, kịp thời; đồng thời phát

hiện những điển hình thực hiện pháp luật tốt để động viên, khen thưởng. Tuy

nhiên, hoạt động này vẫn còn những hạn chế sau đây:

- Hiện tại, Bộ Y tế, các Sở Y tế, các đơn vị trực thuộc Bộ Y tế đều tổ

chức kiểm tra trong phạm vi quản lý hoặc khi có sự chỉ đạo của cấp trên hoặc

khi có vụ việc xảy ra do các cơ quan thông tin đại chúng cung cấp nhưng đều

chưa có kế hoạch, chưa chủ động trong công tác kiểm tra nên thường bị động

và mang tính đối phó.

61

- Qua thực tiễn, Bộ Y tế, Sở Y tế thường tiến hành kiểm tra thực hiện

pháp luật về y tế theo định kỳ 6 tháng hoặc một năm một lần và chỉ tiến hành

kiểm tra đột xuất khi có vụ việc xảy ra nên công tác kiểm tra thường không

bài bản, mục đích kiểm tra chưa theo chuyên đề cụ thể, chưa có quy trình

kiểm tra cụ thể...

- Việc kiểm tra hiện nay đều theo cùng một phương thức là đơn vị được

kiểm tra báo cáo, sau đó các thành viên trong Đoàn kiểm tra hỏi, đi thị sát đơn

vị và sau đó đưa ra nhận xét, kết luận, cũng như chưa xây dựng bảng kiểm

theo từng chuyên đề kiểm tra, căn cứ vào các quy định pháp luật để đưa ra

bảng hỏi và chấm điểm cụ thể nên hoạt động này còn mang tính hình thức, kết

quả kiểm tra không được định lượng và không phân loại được mức độ thực thi

pháp luật của các đơn vị, địa phương.

- Việc chỉ đạo các đơn vị dưới quyền thực hiện tự kiểm tra mới chỉ

được phổ biến, nhắc nhở trong các hội nghị hoặc các đợt công tác mà chưa có

chỉ đạo cụ thể bằng văn bản nên việc tự kiểm tra của các đơn vị ít được quan

tâm tiến hành.

- Sau khi kiểm tra, hầu hết các điểm yếu kém chỉ bị nhắc nhở, không

phát hiện được sai phạm lớn, chưa có trường hợp nào bị xử lý kỷ luật hoặc đề

nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính nên

công tác kiểm tra việc thực hiện pháp luật về y tế còn mang tính hình thức,

xuê xoa, chưa thể hiện được tính nghiêm minh trong thực thi pháp luật y tế.

3.2.1.2. Việc thanh tra thực hiện pháp luật về y tế

Thanh tra là chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước nhằm

làm tốt công tác quản lý, giúp cho việc thực thi pháp luật được tiến hành một

cách có hiệu quả. Việc thanh tra các hoạt động y tế tập trung vào những vấn

đề chủ yếu như tiến hành thường xuyên các hoạt động thanh tra chuyên ngành

về y tế theo thẩm quyền, tập trung vào các chế độ, quy tắc chuyên môn, kỹ

thuật y tế, các thủ tục hành chính trong KCB, các hoạt động của các cơ sở y,

62

dược tư nhân và khi phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật về y tế, cơ quan

thanh tra y tế, thanh tra viên y tế và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử

phạt phải xử lý nghiêm, kịp thời và công bằng các hành vi vi phạm pháp luật

trong hoạt động y tế, bảo đảm trật tự, kỷ cương; bảo vệ lợi ích của nhà nước,

các quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan đến

y tế. Tuy nhiên, hoạt động này vẫn còn những hạn chế sau đây:

- Trên cơ sở Luật Thanh tra, hệ thống thanh tra chuyên ngành về y tế đã

được thiết lập ở Bộ Y tế, Sở Y tế nhưng chưa có cơ sở pháp lý cho việc thiết

lập tổ chức thanh tra chuyên ngành ở tuyến huyện, xã nên việc kiểm soát an

toàn thực phẩm, hành nghề y tế tư nhân...không được hiệu quả.

- Hằng năm, Thanh tra Bộ Y tế, Thanh tra Sở Y tế đều có kế hoạch

thanh tra, thực hiện phối hợp liên ngành trong thanh tra nhưng còn bị động,

hiệu quả chưa cao, hoạt động tự thanh tra, kiểm tra trong nội bộ các cơ quan,

tổ chức nhà nước chưa được chú trọng và đủ mạnh trong việc tự phòng ngừa

các vi phạm pháp luật về y tế.

- Hiện cả nước có 229 thanh tra viên và chuyên viên thanh tra y tế nên

số lượng này còn quá thấp so với chức năng, nhiệm vụ được giao. Chất lượng

thanh tra viên và chuyên viên thanh tra y tế cũng còn hạn chế về kỹ năng,

kinh nghiệm thanh tra do 25,2% người chưa được đào tạo về nghiệp vụ thanh

tra, 14,2% người mới được tập huấn nghiệp vụ thanh tra trên 01 tháng... nên

đã ảnh hưởng không ít đến quá trình hoạt động và kết quả thanh tra. [13]

3.2.1.3. Xử lý vi phạm

Việc xử lý này thực chất là bảo vệ các giá trị của pháp luật về y tế

không bị vi phạm trong thực tiễn cuộc sống, giúp cho công tác QLNN bằng

pháp luật trong lĩnh vực y tế đạt hiệu quả cao hơn.

Các hành vi vi phạm pháp luật gắn với từng loại trách nhiệm pháp lý

khác nhau như sau: Tội phạm và trách nhiệm hình sự; vi phạm pháp luật dân

63

sự và trách nhiệm dân sự; vi phạm hành chính và trách nhiệm hành chính; vi

phạm kỷ luật và trách nhiệm kỷ luật.

Vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế là những hành vi do tổ chức, cá

nhân thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật

về QLNN trong lĩnh vực y tế mà không phải là tội phạm và theo quy định của

pháp luật phải bị XPVPHC. Việc XPVPHC trong lĩnh vực y tế phải dựa trên

cơ sở của pháp luật hiện hành về y tế dự phòng, an toàn thực phẩm, KCB,

thuốc, mỹ phẩm và trang thiết bị y tế. XPVPHC trong lĩnh vực y tế phải theo

đúng các hành vi vi phạm, hình thức và mức phạt.

Xử lý kỷ luật đối với viên chức y tế là một trong những công cụ, biện

pháp quản lý của nhà nước trong quá trình xây dựng, phát triển và sử dụng

đội ngũ viên chức. Việc xử lý kỷ luật đối với viên chức y tế phải bảo đảm

theo đúng các hình thức kỷ luật, bảo đảm khách quan, công bằng, nghiêm

minh, đúng thời hiệu và theo đúng các trình tự, thủ tục quy định của pháp luật

về viên chức.

Tuy nhiên, hoạt động này cần khắc phục những hạn chế sau đây:

(i) Việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế

- Việc XPVPHC trong lĩnh vực y tế đều bảo đảm đúng thẩm quyền,

nguyên tắc, trình tự, thủ tục XPVPHC nhưng ngoài thanh tra viên y tế, quản

lý thị trường thì việc áp dụng thẩm quyền này của chủ tịch UBND các cấp,

công an còn rất hạn chế.

- Việc XPVPHC về y tế đã bảo đảm đúng hình thức và mức phạt theo

quy định của pháp luật nhưng có sự nương nhẹ trong XPVPHC, chưa có sự

công bằng trong XPVPHC.

- Đa số các đối tượng bị XPVPHC trong lĩnh vực y tế đã nghiêm chỉnh

chấp hành quyết định xử phạt của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng

cũng có trường hợp chưa tự giác chấp hành quyết định XPVPHC, việc thực

64

hiện cưỡng chế trên thực tế cũng rất khó khăn do người vi phạm quá nghèo,

nếu cưỡng chế thì chi phí để cưỡng chế lại cao hơn giá trị tài sản đó.

(ii) Việc xử lý kỷ luật đối với viên chức vi phạm pháp luật về y tế

- Việc xử lý kỷ luật đối với viên chức vi phạm pháp luật về y tế chủ

yếu căn cứ theo quy định của pháp luật về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức,

viên chức nhưng vẫn còn một số đơn vị khi xử lý kỷ luật lại căn cứ thêm vào

quy định 12 điều y đức do Bộ Y tế ban hành hoặc theo Nghị quyết Đại hội

cán bộ, viên chức của đơn vị.

- Việc xử lý kỷ luật đối với viên chức vi phạm pháp luật về y tế nhìn

chung đều đúng thẩm quyền nhưng vẫn còn một số đơn vị khi xem xét kỷ luật

đã để kéo dài quá lâu nên có một số vụ việc bị hết thời hiệu kỷ luật hoặc có

một số bộ phận khoa, phòng trong đơn vị khi phát hiện vi phạm chế độ kỷ luật

đã tự giải quyết nội bộ sai với thẩm quyền quy định.

- Việc xử lý kỷ luật đối với viên chức vi phạm pháp luật về y tế đều

bảo đảm nguyên tắc, trình tự thủ tục nhưng có một số đơn vị ghi biên bản kỷ

luật lại sơ sài, đơn giản, không ghi rõ hành vi sai phạm tương xứng với hình

thức kỷ luật nên đã có trường hợp kiện ngược sau khi đã quyết định kỷ luật.

- Các hành vi vi phạm kỷ luật chủ yếu là gây mất đoàn kết nội bộ kéo

dài trong đơn vị, sa sút về phẩm chất đạo đức, y đức, thoái hoá biến chất,

nghiện ma túy; thu tiền người bệnh sai nguyên tắc tài chính; vi phạm quy chế

chuyên môn, vi phạm kỷ luật lao động... nhưng để định rõ các hành vi cụ thể

phải bị xử lý kỷ luật thì chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể.

- Việc áp dụng các hình thức kỷ luật đều bảo đảm công bằng, đúng

người, đúng hành vi vi phạm nhưng có đơn vị còn áp dụng hình thức giảm

mức xếp loại lao động, cắt tiền thi đua (A,B,C) hàng tháng, trừ tiền thu nhập

tăng thêm và tiền thưởng đối với viên chức vi phạm giờ giấc lao động, vi

phạm quy chế trực... hoặc còn vận dụng hình thức phê bình trước tập thể

không ghi lý lịch hoặc kéo dài thời gian nâng lương, không cử đi học...

65

- Khi viên chức y tế làm mất mát, hư hỏng hoặc có hành vi khác gây

thiệt hại tài sản của Nhà nước hoặc gây thiệt hại cho người khác đều được các

cơ quan, đơn vị xử lý bồi thường trách nhiệm vật chất nhưng có một số đơn vị

còn chưa thực hiện được việc này, chủ yếu là không thu hồi lại được chi phí

đào tạo theo quy định đối với trường hợp được hỗ trợ kinh phí đào tạo nhưng

sau khi học xong lại không trở về làm việc.

3.2.1.4. Tôn vinh các tập thể, cá nhân có thành tích trong giải quyết

các vấn đề của lĩnh vực y tế

Việc tôn vinh thành tích trong giải quyết các vấn đề của lĩnh vực y tế

được thể hiện qua các phong trào thi đua yêu nước và khen thưởng kịp thời

các tập thể, cá nhân. Tuy nhiên, phương thức này cần phải xem xét một cách

nghiêm túc vì phần lớn khen thưởng không qua phong trào thi đua và nếu có

phát động thi đua thì lại hình thức nên không linh thiêng hóa việc tôn vinh.

3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với viên chức

ngành y tế theo định hướng tự chủ từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa

3.2.2.1. Nhóm giải pháp

(i) Tự chủ về tổ chức bộ máy

Các bệnh viện công lập tổ chức kiện toàn lại tổ chức bộ máy theo đúng

Quyết định số 1895/1997/QĐ-BYT ngày 19/9/1997 của Bộ trưởng Bộ Y tế về

việc ban hành Quy chế bệnh viện và Thông tư liên tịch số 51/2015/TTLT-

BYT-BNV ngày 11/12/2015 của Bộ Y tế - Bộ Nội vụ Hướng dẫn chức năng,

nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Y tế thuộc UBND tỉnh, thành

phố trực thuộc trung ương và Phòng Y tế thuộc UBND huyện, quận, thị xã,

thành phố thuộc tỉnh; Thông tư số 19/2013/TT-BYT ngày 12/7/2013 của Bộ Y

tế về hướng dẫn thực hiện quản lý chất lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh

tại bệnh viện; Thông tư 43/2015/TT-BYT ngày 26/11/2015 của Bộ Y tế quy

định về nhiệm vụ và hình thức tổ chức thực hiện nhiệm vụ công tác xã hội của

66

bệnh viện và các quy định hiện hành của pháp luật có liên quan về cơ cấu tổ

chức, bộ máy biên chế và chế độ tự chủ của các bệnh viện công lập.

(ii) Xác định vị trí việc làm, cơ cấu chức danh viên chức và số

lượng người làm việc (biên chế) của các bệnh viện công lập

Xác định vị trí việc làm

- Vị trí việc làm gắn với công việc lãnh đạo, quản lý, điều hành (Giám

đốc, Phó Giám đốc, Trưởng phòng, Trưởng khoa, Giám đốc Trung tâm, Phó

Trưởng phòng, Phó Trưởng khoa, Phó Giám đốc Trung tâm) là 06 vị trí.

- Vị trí việc làm gắn với chuyên môn, nghiệp vụ, (Bác sỹ, Dược sỹ Đại

học, Dược sỹ Trung học, Điều dưỡng, Kỹ thuật viên Y) là 05 vị trí.

- Vị trí việc làm gắn với công việc hành chính, hỗ trợ phục vụ (Kế toán;

Văn thư, Thủ quỹ; Hộ lý; Nhân viên kỹ thuật, lái xe, bảo vệ, trông giữ xe) là 08 vị

trí.

Xác định cơ cấu, chức danh viên chức

Cơ cấu chức danh viên chức được xác định trên cơ sở hạng bệnh viện

và Thông tư liên tịch số 08/TTLT-BYT-BNV ngày 05/6/2007 của Bộ Y tế,

Bộ Nội vụ về hướng dẫn định mức biên chế sự nghiệp trong các cơ sở y tế

nhà nước, cụ thể như sau:

Bảng 2. Cơ cấu chức danh viên chức của các bệnh viện [44]

TT Cơ cấu Tỷ lệ

A Cơ cấu bộ phận

1 Lâm sàng 60 – 65%

2 Cận lâm sàng và Dược 22 – 15%

3 Quản lý, hành chính 18 – 20%

B Cơ cấu chuyên môn

1 Bác sĩ/chức danh chuyên môn y tế khác 1/3 – 1/3,5

67

TT Cơ cấu Tỷ lệ

(Điều dưỡng, hộ sinh, kỹ thuật viên)

2 Dược sĩ Đại học/Bác sĩ 1/8 – 1/1,5

3 Dược sĩ Đại học/Dược sĩ trung học 1/2 – 1/2,5

Căn cứ tình hình thực tế, định hướng phát triển, nâng cao chất lượng

khám bệnh, chữa bệnh các bệnh viện được đề xuất cơ cấu cụ thể trong đề án

vị trí việc làm hoặc phương án tự chủ của đơn vị mình, trình cấp có thẩm

quyền xem xét, quyết định để triển khai thực hiện.

Xác định số lượng người làm việc

Trên cơ sở số giường bệnh được xác định bao gồm cả số giường bệnh

được giao theo kế hoạch và số giường bệnh thực hiện theo cơ chế tự chủ, số

người làm việc của các bệnh viện công lập, giai đoạn 2018-2020 được xác

định là: 15.625; cụ thể như sau [44]:

- Năm 2018: Tổng số lượng người làm việc là 14.362 người, bao gồm:

số lượng được giao theo kế hoạch là 6.011 người; số lượng người thực hiện

theo cơ chế tự chủ do giám đốc bệnh viện quyết định sau khi được Chủ tịch

UBND tỉnh phê duyệt là 8.351 người.

- Năm 2019: Tổng số lượng người làm việc là 15.122 người, bao gồm:

số lượng được giao theo kế hoạch là 6.011 người; số lượng người thực hiện

theo cơ chế tự chủ do giám đốc bệnh viện quyết định sau khi được Chủ tịch

UBND tỉnh phê duyệt là 9.111 người.

- Năm 2020: Tổng số lượng người làm việc là 15.625 người, bao gồm:

số lượng được giao theo kế hoạch là 6.011 người; số lượng người thực hiện

theo cơ chế tự chủ do giám đốc bệnh viện quyết định sau khi được Chủ tịch

UBND tỉnh phê duyệt là 9.614 người.

Hàng năm trên cơ sở tình hình thực tế UBND tỉnh có thể xem xét điều

chỉnh giảm chỉ tiêu giao số người làm việc tương ứng với tỉ lệ tự chủ về

68

giường bệnh, tài chính và phê duyệt tăng số lượng người làm việc tăng thêm

thực hiện theo cơ chế tự chủ do giám đốc các bệnh viện quyết định để thực

hiện việc tuyển dụng, tiếp nhận, hợp đồng làm việc theo quy định của pháp

luật và thực hiện chế độ chính sách như bổ nhiệm và và quản lý viên chức.

Đối với Bệnh viện Đa khoa tỉnh thực hiện cơ chế tự chủ về quy mô

giường bệnh, vị trí việc làm, cơ cấu viên chức và số lượng người làm việc

theo Quyết định 3040/QĐ-UBND ngày 18/8/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh.

Riêng Bệnh viện Ung bướu do mới thành lập và đi vào hoạt động từ tháng

10/2017 với cơ cấu tổ chức chưa ổn định, số lượng người làm việc chưa được

giao cụ thể, vì vậy Bệnh viện Ung bướu sẽ thực hiện xây dựng Phương án xác

định quy mô giường bệnh, vị trí việc làm, cơ cấu viên chức và số lượng người

làm việc trình cấp thẩm quyền phê duyệt.

Việc tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật

và quản lý viên chức, người lao động đối với số biên chế tự chủ thực hiện

theo quy định của pháp luật như đối với chỉ tiêu biên chế được UBND tỉnh

giao.

3.2.2.2. Phương án thực hiện từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa

Tuyên truyền phổ biến quán triệt mục tiêu nhiệm vụ của đề án về

thực hiện cơ chế tự chủ của các bệnh viện công lập

UBND tỉnh Thanh Hóa tạo điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư, các

doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng đầu tư vào lĩnh vực y tế, tăng cường phối

hợp công tư để mở rộng quy mô hoạt động, nâng cao chất lượng hoạt động

của các bệnh viện công lập. Trên cơ sở đó, Giám đốc Sở Y tế chỉ đạo Giám

đốc các bệnh viện tổ chức triển khai, phổ biến, tuyên truyền và quán triệt tinh

thần, nội dung tổ chức thực hiện Đề án “Thực hiện cơ chế tự chủ tại các bệnh

viện công lập thuộc tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2018-2020” đến cán bộ, viên

chức và người lao động của từng bệnh viện.

69

Tổ chức bộ máy, biên chế

(i) Bệnh viện thực hiện tự chủ 100% kinh phí chi thường xuyên:

- Được quyết định thành lập, tổ chức lại, giải thể các đơn vị không

thuộc cơ cấu tổ chức các đơn vị cấu thành theo quyết định của cơ quan có

thẩm quyền, khi đáp ứng các tiêu chí, điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của

pháp luật;

- Xây dựng phương án sắp xếp lại các đơn vị cấu thành, trình cơ quan

có thẩm quyền quyết định;

(ii) Bệnh viện thực hiện tự chủ một phần kinh phí chi thường xuyên:

- Xây dựng phương án sắp xếp, kiện toàn cơ cấu tổ chức của đơn vị,

trình cơ quan có thẩm quyền quyết định;

- Xây dựng vị trí việc làm và cơ cấu viên chức theo chức danh nghề

nghiệp, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt;

(iii) Đề xuất cơ cấu, số lượng người làm việc của đơn vị, trình cơ quan

có thẩm quyền quyết định.

(iv) Trên cơ sở vị trí việc làm, cơ cấu chức danh nghề nghiệp viên chức

và số lượng người làm việc được phê duyệt của bệnh viện, hàng năm xây

dựng Kế hoạch, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt để thực hiện việc tuyển

dụng, tiếp nhận và hợp đồng làm việc bố trí cho các vị trí việc làm được phê

duyệt, đảm bảo việc thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực

Đào tạo sau đại học và đào tạo nâng cao cần phải được thực hiện với

nhiều hình thức: Tập trung, đào tạo tại chỗ, đào tạo chuyển giao kỹ thuật. Các

bệnh viện tuyến tỉnh thực hiện Hợp đồng liên kết đào tạo với các bệnh viện

Trung ương để nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề cho cán bộ y tế địa

phương.

Tăng cường công tác đào tạo và chuyển giao kỹ thuật, hỗ trợ tuyến

dưới theo Đề án 1816 của Bộ Y tế [Xem thêm: 29]; Thực hiện chế độ luân

70

phiên có thời hạn đối với người hành nghề tại các cơ sở KCB theo Quyết định

số 14/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Triển khai đề án bệnh viện vệ

tinh của Bộ Y tế đối với các bệnh viện đầu ngành.

Huy động nguồn lực, xây dựng cơ sở vật chất

Để đáp ứng nhu cầu về cơ sở vật chất khi các bệnh viện mở rộng quy mô

cần thiết phải lập và triển khai đề án đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị

cho các bệnh viện từ nguồn vốn sự nghiệp y tế, phần ngân sách nhà nước tiết

kiệm được hàng năm do lộ trình các bệnh viện tiến tới bảo đảm chi thường

xuyên.

Liên doanh, liên kết

Các bệnh viện liên doanh, liên kết với nhà đầu tư xây dựng, thành lập

mới cơ sở khám chữa bệnh theo mô hình doanh nghiệp trong khuôn viên hiện

có của bệnh viện công và được mang thương hiệu của bệnh viện công. Bệnh

viện góp vốn bằng cơ sở vật chất, chất lượng, năng lực, uy tín của đơn vị. Sau

thời gian hợp tác toàn bộ tài sản liên doanh liên kết được chuyển giao về cho

bệnh viện.

Bệnh viện được vay vốn tín dụng đầu tư của Ngân hàng Phát triển Việt

Nam và các tổ chức tín dung khác để đầu tư xây dựng, thành lập mới cơ sở

khám chữa bệnh trong khuôn viên đất hiện có và quyết định tổ chức bộ máy

và phương thức quản lý phù hợp.

UBND tỉnh Thanh Hóa tạo điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư, các

doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng đầu tư vào lĩnh vực y tế, tăng cường phối

hợp công tư để mở rộng quy mô hoạt động, nâng cao chất lượng hoạt động

của các bệnh viện công lập.

3.2.2.3. Đo lường hiệu quả

Hiệu quả kinh tế

Cơ chế tự chủ đã tạo cho bệnh viện có nhiều cơ hội như được chủ động

trong nguồn kinh phí thực hiện hợp tác, phát triển chuyên môn, các dịch vụ

71

đáp ứng nhu cầu người bệnh. Giảm chi từ ngân sách nhà nước cho hoạt động

khám chữa bệnh trên cơ sở nâng cao chất lượng KCB và tăng nguồn thu dịch

vụ bảo đảm cho nhiệm vụ chi thường xuyên của các bệnh viện.

Bảo đảm việc giao biên chế theo chỉ tiêu kế hoạch, tăng tính tự chủ

trong việc quyết định biên chế tăng thêm để thực hiện theo cơ chế tự chủ,

thực hiện việc tiếp nhận, quản lý, sử dụng viên chức đúng theo quy định của

pháp luật.

Hiệu quả đầu tư từ các nguồn lực được phát huy, giảm thiểu vấn đề thất

thoát lãng phí về kinh phí hoạt động. Các bệnh viện có thể chủ động khai thác

những nguồn thu hợp pháp, hợp lý, chủ động trích lập các quỹ phúc lợi, quỹ

phát triển hoạt động sự nghiệp để tái đầu tư.

Hiệu quả xã hội

Đề án Thực hiện cơ chế tự chủ tại các bệnh viện công lập thuộc tỉnh

Thanh Hóa giai đoạn 2018-2020 là giải pháp quan trọng góp phần nâng cao

hiệu quả, chất lượng KCB, từng bước chống quá tải bệnh viện, góp phần đưa

Thanh Hóa sớm đạt được các chỉ tiêu quan trọng mà Nghị quyết Đại hội Đảng

bộ tỉnh lần thứ XVIII đã đề ra.

Thực hiện cơ chế tự chủ tại các bệnh viện mở ra những cơ hội lớn để

giám đốc các bệnh viện trở thành người quản lý như giám đốc các doanh

nghiệp, không chỉ đơn thuần về quản lý chuyên môn mà là quản lý toàn diện

các mặt hoạt động của một đơn vị.

Nhân dân trong tỉnh có nhiều cơ hội để tiếp cận các dịch vụ y tế tốt

hơn, người có khả năng về kinh tế có thể tự lựa chọn cho mình các gói dịch

vụ y tế kỹ thuật cao, chất lượng tốt. Mô hình hoạt động bệnh viện trở nên

phong phú, đa dạng, tinh thần phục vụ của cán bộ nhân viên y tế sẽ ngày càng

tốt hơn.

72

Thực hiện cơ chế tự chủ tạo nên sự cạnh tranh phát triển, phù hợp với

xu thế phát triển của nền kinh tế - xã hội nói chung và trong lĩnh vực y tế nói

riêng.

Tiểu kết Chương 3

Chương 3 nhằm cung cấp thông tin và kinh nghiệm mang tính thách

thức mà Thanh Hóa gặp phải đặng giúp các địa phương đã, đang triển khai

quản lý viên chức y tế trong tình hình mới, nhanh chóng cải thiện cơ chế quản

lý nhằm tối ưu hóa việc KCB của địa phương. Trong quá trình thực hiện,

Thanh Hóa đã tham khảo kinh nghiệm từ các tỉnh, thành khác và có những

kinh nghiệm quý. Do vậy, tác giả cho rằng, các bài học mà mô hình Thanh

Hóa rút ra cũng sẽ có ý nghĩa cho những địa phương có đặc điểm tương đồng.

73

KẾT LUẬN

Tác giả quan niệm rằng viên chức ngành y tế - trung tâm của hoạt động

KCB - luôn gánh vác bổn phận nghề nghiệp và y đức như một lựa chọn duyên

định. QLNN đối với viên chức sao cho hiệu quả mà không gây ra trở lực y

nghiệp có lẽ là một nghệ thuật trong quản lý. Vì việc quản lý gây bất lợi hoặc

không hiệu quả trước hết ảnh hưởng đến viên chức, sau là người bệnh và rộng

hơn là xã hội. Thanh Hóa hiện có những cải cách được hưởng ứng từ chính

người KCB trong tỉnh, và kinh nghiệm của Thanh Hóa dưới góc nhìn QLNN

đáng được quan tâm nghiên cứu. Qua quá trình nghiên cứu, tác giả đi đến một

số kết luận sau:

1. Một thời gian dài, Việt Nam đã áp dụng cách quản lý cán bộ, công

chức chung cho viên chức (y tế). Do đó, đã gây nên tình trạng nguồn lực viên

chức y tế được sử dụng kém hiệu quả, gián tiếp gây nên tình trạng quá tải tại

các bệnh viện tuyến trung ương và tỉnh, trong khi bệnh viện tuyến huyện trở

xuống không đáp ứng được nhu cầu KCB, bệnh viện tư khó phát triển, xảy ra

hiện tượng nhũng nhiễu người bệnh từ các viên chức y đức kém.

2. Thanh Hóa cũng không nằm ngoài hiện tượng trên thời gian trước.

Nhưng kể từ năm 2011, sau khi Luật Viên chức được ban hành, Thanh Hóa

đã có những thay đổi mạnh mẽ trong đào tạo, tuyển dụng và sử dụng nguồn

viên chức y tế tại địa phương. Các bệnh viện tư phát triển mạnh mẽ (gần 20

bệnh viện tư, có bệnh viện 800 giường [45]), các bệnh viện công đang tiếp tục

quá trình tự chủ hóa, bệnh viện tuyến huyện trước mắt đã đáp ứng được nhu

cầu KCB cho người dân ở nông thôn, miền núi; viên chức y tế có tay nghề

cao nhiều hơn và nhận được tín nhiệm từ người KCB trong tỉnh, cũng như các

địa phương lân cận. Điều này phản ánh hướng tiếp cận đúng của Thanh Hóa

trong quá trình đổi mới quản lý viên chức y tế, những đổi mới này đáng được

nghiên cứu và khái quát thành các kinh nghiệm quản lý ngành, địa phương.

74

3. Các giải pháp quản lý viên chức mà tác giả đề xuất từ thực tiễn của

tỉnh Thanh Hóa thiết nghĩ có thể hữu ích cho các tỉnh, thành có điều kiện

tương đồng với Thanh Hóa về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, địa bàn

rộng, xa các đô thị lớn. Các giải pháp này bao gồm: (i) Về tổ chức bộ máy,

biên chế dần theo hướng tự chủ trong tuyển dụng, sử dụng viên chức của đơn

vị; (ii) Về đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng viên chức y tế, đào tạo sau đại học

và đào tạo nâng cao cần phải được thực hiện với nhiều hình thức: tập trung,

đào tạo tại chỗ, đào tạo chuyển giao kỹ thuật. Các bệnh viện tuyến tỉnh thực

hiện Hợp đồng liên kết đào tạo với các bệnh viện Trung ương để nâng cao

trình độ chuyên môn, tay nghề cho cán bộ y tế địa phương; (iii) Liên doanh,

liên kết với nhà đầu tư xây dựng, thành lập mới cơ sở khám chữa bệnh theo

mô hình doanh nghiệp trong khuôn viên hiện có của bệnh viện công và được

mang thương hiệu của bệnh viện công. Bệnh viện góp vốn bằng cơ sở vật

chất, chất lượng, năng lực, uy tín của đơn vị. Sau thời gian hợp tác toàn bộ tài

sản liên doanh liên kết được chuyển giao về cho bệnh viện.

75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

TÀI LIỆU HỌC THUẬT

1. Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, Thư của Bác Hồ gửi cán bộ, nhân

viên quân y, Link tham khảo:

http://btlsqsvn.org.vn/DesktopModules/News.Display/Print.aspx?bai-

viet=thu-cua-bac-ho-gui-can-bo-nhan-vien-quan-y-4579 (truy cập lần

cuối: 25/11/2020).

2. Bộ Y tế, Phương thức quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế, Link tham

khảo: https://moh.gov.vn/che-do-chinh-sach-linh-vuc-y-te/-

/asset_publisher/5uVUQOCXQDjt/content/phuong-thuc-quan-ly-nha-

nuoc-trong-linh-vuc-y-te (truy cập lần cuối: 25/01/2021).

3. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập (Tập 3), NXB Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

4. Vũ Tiến Dũng (2011), Quản lý nhà nước về đào tạo bồi dưỡng đội ngũ

cán bộ viên chức tại các bệnh viện công - Từ thực tiễn bệnh viện Bạch

Mai Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Hành chính Quốc gia.

5. Nguyễn Hữu Đức (2003), “Từ đặc điểm, tính chất đội ngũ cán bộ, công

chức cơ sở để xây dựng chế độ, chính sách phù hợp”, Tạp chí Tổ chức

nhà nước, Số 8.

6. G.V. Atamantruk (2004), Теория государственного управления,

Omega Publishing Company.

7. Nguyễn Thu Hằng (2013), Quản lý nhà nước đối với viên chức y tế

ngành Xây dựng ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Quản lý công,

Học viện Hành chính Quốc gia.

8. Nguyễn Thị Thu Hằng (2013), Quản lý nhà nước đối với viên chức y tế

ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ quản lý hành chính công, Học

viện Hành chính Quốc gia.

76

9. Học viện Hành chính (2011), Giáo trình Hành chính công, NXB Khoa

học và Kỹ thuật, Hà Nội.

10. Trần Quang Hiển (2017), Giáo trình quản lý hành chính nhà nước,

NXB Tư pháp, Hà Nội.

11. Lê Minh Hương (2012), “Một số vấn đề về tuyển dụng, sử dụng và

quản lý viên chức theo Nghị định số 29/NĐ-CP của Chính phủ”, Tạp

chí Tổ chức nhà nước, Số 5.

12. Bùi Đức Kháng (2010), Đổi mới phương thức và nâng cao chất lượng

đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ - công chức nhà nước đáp ứng yêu

cầu hội nhập, Đề tài khoa học cấp bộ, TP Hồ Chí Minh.

13. Minh Khuê, Cải cách hành chính nâng cao chất lượng khám chữa

bệnh, Link tham khảo: http://danvan.vn/Home/Nganh-y-te-voi-cong-

tac-dan-van/10471/Cai-cach-hanh-chinh-nang-cao-chat-luong-kham-

chua-benh (truy cập lần cuối: 25/01/2021).

14. Kiều Linh (2014), Quản lý nhà nước đối với phát triển nguồn nhân lực

ngành y tế trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sỹ Quản lý

công, Học viện Hành chính Quốc gia.

15. Uông Chu Lưu (2005), “Một số vấn đề lý luận về phân cấp quản lý nhà

nước”, Tạp chí Dân chủ pháp luật, Số chuyên đề 60 năm ngành Tư

pháp.

16. Patrick Deville (2013), Yersin - Peste & Choléra (Yersin - Dịch Hạch

& Thổ Tả), Đặng Thế Linh (Dịch), NXB Trẻ, Hà Nội.

17. Hoàng Thị Kim Quế (2015), Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp

luật, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

18. Vũ Hoàng Quỳnh (2016), Quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y

tế - từ thực tiễn bệnh viện phổi Trung ương, Luận văn thạc sĩ Luật học -

Học viện Hành chính Quốc gia.

77

19. Phạm Văn Tác (2014), Quản lý nhà nước đội ngũ cán bộ chuyên khoa

sau đại học trong lĩnh vực Y tế, Luận án tiến sĩ Quản lý công, Học viện

Hành chính Quốc gia.

20. Trần Anh Tuấn (2011), “Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý viên chức

trong các đơn vị sự nghiệp công lập”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, Số 8.

21. Phạm Hồng Thái (2009), “Sự điều chỉnh của pháp luật về viên chức”,

Tạp chí Tổ chức nhà nước, Số 1.

22. Phạm Hồng Thái, Nguyễn Đăng Dung, Nguyễn Ngọc Chí (2011), Phân

cấp quản lý nhà nước (sách chuyên khảo), NXB Công an Nhân dân, Hà

Nội.

23. Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thị Minh Hà (chủ biên) (2017), Luật Hành

chính Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

24. Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (2001), Luận cứ khoa học cho việc

nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

25. Hồ Đức Việt (2010), “Đổi mới công tác tổ chức, cán bộ đáp ứng yêu

cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Tạp chí Lý luận

chính trị, Số 2.

26. Nguyễn Cửu Việt (2013), Luật Hành chính Việt Nam, NXB Đại học

Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

TÀI LIỆU VĂN BẢN

27. Bộ trưởng Bộ Y tế (1997), Quyết định số 1895/1997/QĐ-BYT ngày

19/9/1997 về ban hành Quy chế bệnh viện, Link tải về:

https://thuvienphapluat.vn/van-ban/The-thao-Y-te/Quyet-dinh-1895-

1997-QD-BYT-Quy-che-benh-vien-66676.aspx (truy cập lần cuối:

15/10/2020).

28. Bộ Y tế, Bộ Nội vụ (2007), Thông tư liên tịch số 08/TTLT-BYT-BNV

ngày 05/6/2007 về hướng dẫn định mức biên chế sự nghiệp trong các

78

cơ sở y tế nhà nước, Link tải về: https://thuvienphapluat.vn/van-

ban/Bo-may-hanh-chinh/Thong-tu-lien-tich-08-2007-TTLT-BYT-

BNV-huong-dan-dinh-muc-bien-che-su-nghiep-trong-cac-co-so-y-te-

nha-nuoc-21511.aspx (truy cập lần cuối: 14/10/2020).

29. Bộ Y tế (2008), Quyết định số 1816/QĐ-BYT ngày 26 tháng 5 năm 2008

về việc phê duyệt Đề án “cử cán bộ chuyên môn luân phiên từ bệnh viện

tuyến trên về hỗ trợ các bệnh viện tuyến dưới nhằm nâng cao chất lượng

khám, chữa bệnh, Link tải về: https://m.thuvienphapluat.vn/van-ban/the-

thao-y-te/Quyet-dinh-1816-QD-BYT-Cu-can-bo-chuyen-mon-luan-

phien-tu-benh-vien-tuyen-tren-ho-tro-benh-vien-tuyen-duoi-nham-nang-

cao-chat-luong-kham-chua-benh-87329.aspx (truy cập lần cuối: (truy

cập lần cuối: 15/10/2020).

30. Bộ Y tế (2013), Thông tư số 19/2013/TT-BYT ngày 12/7/2013 về hướng

dẫn thực hiện quản lý chất lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh tại bệnh

viện, Link tải về: https://kcb.vn/vanban/thong-tu-so-192013tt-byt-ngay-

1272013-cua-bo-y-te-huong-dan-thuc-hien-quan-ly-chat-luong-dich-vu-

kham-benh-chua-benh-tai-benh-vien (truy cập lần cuối: 15/10/2020).

31. Bộ Y tế (2015), Thông tư 43/2015/TT-BYT ngày 26/11/2015 quy định về

nhiệm vụ và hình thức tổ chức thực hiện nhiệm vụ công tác xã hội của

bệnh viện và các quy định hiện hành của pháp luật có liên quan về cơ

cấu tổ chức, bộ máy biên chế và chế độ tự chủ của các bệnh viện công

lập, Link tải về: https://thuvienphapluat.vn/van-ban/The-thao-Y-

te/Thong-tu-43-2015-TT-BYT-hinh-thuc-to-chuc-thuc-hien-nhiem-vu-

cong-tac-xa-hoi-cua-Benh-vien-296470.aspx?tab=3 (truy cập lần cuối:

15/10/2020).

32. Bộ Y tế, Bộ Nội vụ (2015), Thông tư liên tịch số 51/2015/TTLT-BYT-

BNV ngày 11/12/2015 Hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và

cơ cấu tổ chức của Sở Y tế thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung

79

ương và Phòng Y tế thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc

tỉnh, Link tải về: https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-

chinh/Thong-tu-lien-tich-51-2015-TTLT-BYT-BNV-chuc-nang-nhiem-

vu-quyen-han-to-chuc-So-Phong-Y-te-297739.aspx (truy cập lần cuối:

15/10/2020).

33. Chính phủ CHXHCN Việt Nam (2006), Nghị định số 43/2006/NĐ-CP

ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực

hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự

nghiệp công lập, Link tải về: https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-

may-hanh-chinh/Nghi-dinh-43-2006-ND-CP-quyen-tu-chu-tu-chiu-

trach-nhiem-thuc-hien-nhiem-vu-to-chuc-bo-may-bien-che-tai-chinh-

doi-voi-don-vi-su-nghiep-cong-lap-11313.aspx (truy cập lần cuối:

14/10/2020).

34. Chính phủ CHXHCN Việt Nam (2012), Nghị định số 63/2012/NĐ-CP

ngày 31/8/2012 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ

chức của Bộ Y tế, Link tải về: https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-

may-hanh-chinh/Nghi-dinh-63-2012-ND-CP-quy-dinh-chuc-nang-

nhiem-vu-quyen-han-va-co-cau-to-chuc-146851.aspx (truy cập lần

cuối: 14/10/2020).

35. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Báo cáo chính trị của Ban Chấp

hành Trung ương Đảng tại Đại Hội Đại Biểu toàn quốc lần thứ VI,

Link tham khảo: https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-

trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-vi/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-

chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-v-trinh-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-

quoc-lan-thu-vi-cua-1491 (truy cập lần cuối: 22/01/2021).

36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày

23/10/2005 của Bộ chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao

sức khỏe nhân dân trong tình hình mới, Link tải về:

80

https://thuvienphapluat.vn/van-ban/The-thao-Y-te/Nghi-quyet-46-NQ-

TW-cong-tac-bao-ve-cham-soc-va-nang-cao-suc-khoe-nhan-dan-trong-

tinh-hinh-moi-53277.aspx (truy cập lần cuối: 15/9/2020).

37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25

tháng 10 năm 2017 về Tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng

cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới, Link tham khảo:

https://thuvienphapluat.vn/van-ban/The-thao-Y-te/Nghi-quyet-20-NQ-

TW-2017-tang-cuong-cong-tac-bao-ve-cham-soc-nang-cao-suc-khoe-

nhan-dan-365599.aspx (truy cập lần cuối: 25/01/2021).

38. Quốc hội CHXHCN Việt Nam (2010), Luật Thanh tra năm 2010, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

39. Quốc hội CHXHCN Việt Nam (2011), Luật Viên chức năm 2011, NXB

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

40. Sở Y tế TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam vẫn nằm trong các nước có số bác

sĩ và điều dưỡng trên 1.000 dân ở mức thấp, Link tham khảo:

http://www.medinet.hochiminhcity.gov.vn/tin-tuc-su-kien/viet-nam-

van-nam-trong-cac-nuoc-co-so-bac-si-va-dieu-duong-tren-1000-dan-o-

muc-cmobile1780-36945.aspx (truy cập lần cuối: 31/12/2020).

41. Thủ tướng Chính phủ CHXHCN Việt Nam (2013), Quyết định số

14/2013/QĐ-TTg ngày 20 tháng 02 năm 2013 về việc thực hiện chế độ

luân phiên có thời hạn đối với người hành nghề tại cơ sở khám, chữa

bệnh, Link tải về: https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Lao-dong-Tien-

luong/Quyet-dinh-14-2013-QD-TTg-thuc-hien-che-do-luan-phien-co-

thoi-han-nguoi-172812.aspx (truy cập lần cuối: 15/10/2020).

42. UBND tỉnh Thanh Hóa (2011), Quyết định số 2414/2011/QĐ-UBND

ngày 25/7/2011, của UBND tỉnh Thanh Hóa.

43. UBND tỉnh Thanh Hóa (2017), Quyết định 3040/QĐ-UBND ngày

18/8/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa.

81

44. UBND tỉnh Thanh Hóa (2018), Đề án “Tổ chức, hoạt động và thực hiện

tự chủ tại các bệnh viện công lập thuộc tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2018-

2020”.

45. UBND tỉnh Thanh Hóa (2019), Phương án quy hoạch mạng lưới cơ sở

y tế trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, tháng 12 năm 2019.

82