VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
DƯƠNG THỊ LAN ANH
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIÊN CHỨC NGÀNH Y TẾ
- TỪ THỰC TIỄN TỈNH THANH HÓA
Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số : 8 38 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪ N KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN VĂN QUÂN
HÀ NỘI, năm 2021
1
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo Học viện Khoa học Xã hội (Viện
Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam), Lãnh đạo Bệnh viện Nhi tỉnh Thanh
Hóa đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi được tham dự và hoàn thành khóa học
Thạc sĩ về Luật Hiến pháp và luật hành chính.
Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Văn Quân cùng các thầy cô
trong Học viện Khoa học Xã hội đã hướng dẫn và trang bị cho tôi kiến thức
chuyên sâu về luật học để làm cơ sở cho tôi thực hiện thành công Luận văn
này.
Xin chân thành cảm ơn Sở Y tế tỉnh Thanh Hóa đã giúp đỡ tôi trong
quá trình khảo sát, thu thập số liệu phục vụ cho quá trình nghiên cứu, viết
Luận văn.
Trân trọng!
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Dương Thị Lan Anh
2
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu
độc lập của riêng tôi. Các kết quả nghiên cứu trong
luận văn là trung thực và chưa được công bố trong
các công trình khoa học khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Dương Thị Lan Anh
3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Chính quyền địa phương: CQĐP
Cơ quan nhà nước: CQNN
Khám, chữa bệnh: KCB
Quản lý nhà nước: QLNN
Thủ tục hành chính: TTHC
Ủy ban nhân dân: UBND
Xã hội chủ nghĩa: XHCN
Xử phạt vi phạm hành chính: XPVPHC
4
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 1. Các cơ sở khám, chữa bệnh ngoài công lập trên địa bàn tỉnh Thanh
Hóa ................................................................................................................ 39
Bảng 2. Cơ cấu chức danh viên chức của các bệnh viện .............................. 66
Biểu đồ 1. So sánh phân bố số lượng bác sĩ trên 1.000 dân giữa các nước
trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương của Tổ chức Y tế Thế giới ......... 20
Biểu đồ 2. So sánh phân bố số lượng điều dưỡng trên 1.000 dân giữa các nước
trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương của Tổ chức Y tế Thế giới ......... 21
5
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 7
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VIÊN CHỨC ................................................. 14
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước ................................. 14
1.2. Chủ thể, nội dung quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế ......... 24
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế.... 29
Tiểu kết Chương 1 ........................................................................................... 35
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIÊN
CHỨC NGÀNH Y TẾ TẠI TỈNH THANH HÓA ..................................... 36
2.1. Khái quát chung hệ thống y tế của tỉnh Thanh Hóa ................................. 36
2.2. Thực tiễn Quản lý Nhà nước đối với viên chức ngành y tế ở Thanh Hóa41
2.3. Đánh giá chung về Quản lý Nhà nước đối với viên chức ngành y tế tại
Thanh Hóa ....................................................................................................... 44
Tiểu kết Chương 2 ........................................................................................... 53
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIÊN CHỨC NGÀNH Y TẾ TỈNH
THANH HÓA ................................................................................................ 54
3.1. Quan điểm về quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế ................ 54
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế . 61
Tiểu kết Chương 3 ........................................................................................... 73
KẾT LUẬN .................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 80
6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 1891, Bác sĩ Alexandre Yersin đến Nha Trang (Việt Nam), ông
viết thư cho mẹ của mình: “Mẹ hỏi con có thích ngành y không. Có và không.
Con rất vui được chữa trị cho những người đến nhờ con khám, nhưng con
không muốn biến y học thành một cái nghề, nghĩa là con sẽ không bao giờ có
thể đòi một người bệnh trả tiền vì đã chữa bệnh cho người đó. Con coi y học
là thiên chức, là mục vụ. Đòi tiền để chữa trị cho bệnh nhân thì chẳng khác
nào nói với người đó rằng: tiền hay mạng sống.” [16, tr.85] Ngày nay, dù y tế
là một lĩnh vực dịch vụ có tính chất thị trường, song sứ mệnh chăm sóc sức
khỏe cho mọi người vẫn là một sứ điệp cao cả. Trong đó, viên chức ngành y
tế - trung tâm của hoạt động KCB - luôn gánh vác bổn phận nghề nghiệp và y
đức như một lựa chọn duyên định.
Từ góc độ chính sách quản lý, Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày
23/10/2005 của Bộ chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức
khỏe nhân dân trong tình hình mới đã chủ trương: “Nghề y là một nghề đặc
biệt, cần được tuyển chọn, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ đặc biệt...”. [36]
Điều này cho thấy sự nhất quán trong nhận thức và chính sách của Việt Nam
đối với nghề y và viên chức y tế. Trước đó, trong một thời gian dài, quản lý
nhà nước đối với viên chức ngành y tế tương tự như đối với cán bộ, công
chức; chưa tính đến những đặc thù nghề nghiệp và y đức, gián tiếp làm hạn
chế chất lượng của đội ngũ viên chức y tế. Việc nghiên cứu, ban hành chính
sách phù hợp, bảo đảm tuyển dụng được viên chức y tế tài năng và tận tâm
cần tiếp tục được đặt ra trong bối cảnh kinh tế - xã hội của Việt Nam có nhiều
sự thay đổi, các nhu cầu KCB của người dân trở nên đa dạng và đòi hỏi chất
lượng cao hơn.
7
Thanh Hóa cũng không nằm ngoài xu hướng trên, là một tỉnh đông dân,
địa bàn dân cư rộng lớn đã tạo ra nhiều trở lực trong quá trình chăm sóc sức
khỏe cho người dân trong tỉnh. Thách thức thường gặp (dường như ở tất cả
các tỉnh, thành địa phương) là đội ngũ y, bác sĩ, nhân viên y tế tuyến dưới vừa
thiếu, vừa chưa đáp ứng được nhu cầu KCB. Hiện tượng bệnh viện tuyến
dưới trống trải trong khi bệnh viện tuyến tỉnh, trung ương quá tải phản ánh
những bất cập, hạn chế trong QLNN về viên chức ngành y tế. Bằng thực tiễn
đang triển khai, ngành y tế Thanh Hóa cho thấy hướng đi đúng trong quản lý
viên chức ngành như: quản lý hiệu quả và yêu cầu cao đối với viên chức y tế;
tổ chức và phân phối hiệu quả nguồn lực của hệ thống cơ sở khám chữa bệnh
hiện nay; thực hiện tự chủ tại các cơ sở KCB khu vực công, phát triển cơ sở
KCB tư nhân ... Tuy nhiên, cách làm của Thanh Hóa chưa được đánh giá
bằng các nghiên cứu quản lý chuyên sâu, đó chính là khoảng trống mà đề tài
này hướng đến giải quyết.
Từ các lý do trên, học viên lựa chọn đề tài “Quản lý nhà nước đối với
viên chức ngành y tế - từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa” nhằm khai thác các
kinh nghiệm Thanh Hóa đạt được, cùng với các thách thức trong quá trình
quản lý, có thể cung cấp thông tin và phương pháp hữu ích cho các địa
phương khác; đồng thời, cung cấp các khía cạnh quản trị y tế giữa trung ương
- địa phương nhằm tiến tới một hệ thống quản lý tối ưu và bền vững.
2. Tình hình nghiên cứu
Quản lý viên chức trong lĩnh vực y tế đã được giới nghiên cứu Việt
Nam quan tâm từ góc độ quản lý chung và từ đặc thù ngành y nói riêng. Từ
mục tiêu nghiên cứu của đề tài, học viên đã chọn khảo cứu hai (02) nhóm
công trình, gồm (i) các công trình nghiên cứu về quản lý viên chức chung
nhằm xây dựng khung lý thuyết về QLNN đối với viên chức ở Việt Nam; (ii)
các công trình quản lý viên chức y tế nhằm tìm ra các thách thức trong quản
8
lý chuyên ngành, kết hợp với thực tiễn tại địa phương để đề xuất các giải pháp
quản lý mang lại hiệu quả cao. Cụ thể:
(i) Các công trình nghiên cứu về quản lý viên chức (chung)
Phạm Hồng Thái: Sự điều chỉnh của pháp luật về viên chức (2009)
[21]; Bùi Đức Kháng: Đổi mới phương thức và nâng cao chất lượng đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ - công chức nhà nước đáp ứng yêu cầu hội nhập
(2010) [12]; Hồ Đức Việt: Đổi mới công tác tổ chức, cán bộ đáp ứng yêu cầu
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (2010) [25]; Phạm Hồng
Thái, Nguyễn Đăng Dung, Nguyễn Ngọc Chí: Phân cấp quản lý nhà nước
(2011) [22]; Trần Anh Tuấn: Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý viên chức trong
các đơn vị sự nghiệp công lập (2011) [20]; Lê Minh Hương: Một số vấn đề về
tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức theo Nghị định số 29/NĐ-CP của
Chính phủ (2012).[11]; Trần Văn Long: Quản lý nhà nước về viên chức giáo
dục từ thực tiễn quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng (2018); Nguyễn Xuân
Thu: Đổi mới tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức: nhìn từ các trường
đại học công lập (2020).
(ii) Các công trình nghiên cứu về quản lý viên chức y tế
Vũ Tiến Dũng: Quản lý nhà nước về đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ
viên chức tại các bệnh viện công - Từ thực tiễn bệnh viện Bạch Mai Hà Nội
(2011) [4]; Nguyễn Thu Hằng: Quản lý nhà nước đối với viên chức y tế ngành
Xây dựng ở Việt Nam hiện nay (2013) [7]; Nguyễn Thị Thu Hằng: Quản lý
nhà nước đối với viên chức y tế ở Việt Nam hiện nay (2013) [8]; Phạm Văn
Tác: Quản lý nhà nước đội ngũ cán bộ chuyên khoa sau đại học trong lĩnh
vực Y tế (2014) [19]; Kiều Linh: Quản lý nhà nước đối với phát triển nguồn
nhân lực ngành y tế trên địa bàn thành phố Đà Nẵng (2014). [14]; Phạm
Ngọc Bích: Đánh Giá Viên Chức Ở Các Bệnh Viện Công Lập Thuộc Sở Y Tế
Hà Nội (2017).
9
Đánh giá tình hình nghiên cứu:
Các công trình nghiên cứu về quản lý viên chức chung đã khái quát
những vấn đề cơ bản về QLNN, phân biệt QLNN với các loại hình quản lý
khác. Tuy nhiên, các công trình này mới chỉ dừng ở việc nghiên cứu những
vấn đề cơ bản có tính lý luận về quản lý, QLNN và QLNN đối với ngành, lĩnh
vực mà chưa có những nghiên cứu chuyên sâu giải quyết những vấn đề cụ thể
trong quản lý.
Các công trình nghiên cứu về quản lý viên chức y tế nhìn chung đã khái
quát được một số thách thức trong quản lý viên chức y tế thời gian qua. Các
công trình này đã chỉ ra được những bất lợi cố hữu khi Việt Nam duy trì cách
quản lý người làm trong ngành y như các công chức hành chính nhà nước, từ
đó làm giảm hiệu quả quản lý, tạo ra các vấn nạn trong ngành y. Một trong số
các giải pháp mà tác giả hướng đến, đồng thời là hướng đi của tỉnh Thanh
Hóa thời gian qua là thực hiện cơ chế tự chủ đối với các bệnh viện công lập,
xã hội hóa dịch vụ y tế, thúc đẩy sự phát triển của các bệnh viện tư nhằm tăng
sự cạnh tranh lành mạnh trong cung cấp dịch vụ KCB cho người dân. Nhìn
chung, các công trình đã phần nào cung cấp các giải pháp để giải quyết thực
tiễn quản lý của ngành, địa phương. Đối với Thanh Hóa, đề tài này sẽ cung
cấp, đánh giá và củng cố các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý viên
chức trong hệ thống y tế của tỉnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, pháp
lý về quản lý viên chức ngành y tế gắn với thực tiễn tự chủ hóa ngành y tế tại
tỉnh Thanh Hóa; từ đó đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý
viên chức ngành y tế tại các cơ sở KCB tuyến tỉnh trở xuống.
10
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ cụ
thể sau đây:
- Làm rõ những vấn đề lý luận, pháp lý về QLNN đối với viên chức
ngành y tế như: làm rõ các khái niệm công cụ; khái quát đặc điểm, vai trò và
các yếu tố tác động đến việc QLNN đối với viên chức ngành y tế.
- Phân tích, đánh giá thực trạng (Chương 2) dựa trên khung lý thuyết
của Chương 1 nhằm chỉ ra các kết quả đạt được, các hạn chế trong QLNN đối
với viên chức ngành y tế. Theo đó, tác giả đã kiểm chứng chủ trương tự chủ
đối với các cơ sở y tế công lập trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa để rút ra các kinh
nghiệm quản lý cho các địa phương khác ở Việt Nam.
- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN đối với viên chức ngành
y tế, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ KCB tại các cơ sở KCB tuyến tỉnh
trở xuống.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các lý
thuyết, quan điểm về QLNN đối với viên chức y tế; hệ thống văn bản chính
sách, pháp luật về QLNN đối với viên chức y tế.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu về QLNN đối với viên
chức ngành y tế tại tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn từ năm 2010 đến 2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Trên cơ sở nhận thức về chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vậy
biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tác giả luận giải các vấn về chính sách,
pháp luật về quản lý viên chức phù hợp với bối cảnh chính trị - xã hội của địa
phương và quốc gia. Tác giả cũng nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh và các
quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về quản lý viên chức, kết
11
hợp với thực tiễn của QLNN đối với viên chức tại cơ sở y tế tuyến tỉnh để
định hướng cho nghiên cứu của mình.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích quy phạm: Đây là phương pháp trọng tâm của
các nghiên cứu ngành luật. Phương pháp này dùng để phân tích các quy phạm
thể hiện trong hiến pháp, các đạo luật, văn bản dưới luật và trong các văn kiện
của Đảng.
Phương pháp phân tích tư liệu: được dùng trong toàn bộ luận văn. Các
tư liệu có thể xếp loại thành các nhóm: văn bản (pháp lý, chính trị, hành
chính); công trình khoa học (tạp chí chuyên ngành, sách chuyên khảo); bài
viết đăng báo (viết, trả lời phỏng vấn, phản biện).
Phương pháp lịch sử: Quá trình nghiên cứu cũng cần đặt trong bối cảnh
lịch sử cụ thể tránh đi vào sự quy chiếu võ đoán. Các lý giải và giải pháp (nếu
có) cũng sẽ cần được cân nhắc dựa vào các bối cảnh kinh tế - chính trị - xã
hội cụ thể.
Ngoài những phương pháp nghiên cứu chuyên ngành nêu trên, phương
pháp nghiên cứu định tính cũng được triển khai trong trường hợp cần tìm hiểu
sâu, chi tiết về một vấn đề mà các số liệu thống kê không mô tả được bản chất
hoặc thiếu sự tin cậy, khó xác thực.
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
Một là, luận văn phân tích, luận giải và khái quát các nghiên cứu trước
đó để xây dựng khung lý thuyết nhằm luận giải mô hình QLNN đối với viên
chức trong ngành y tế của Việt Nam hiện nay;
Hai là, luận văn kiểm chứng từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa để chỉ ra giải
pháp trao quyền tự chủ cho các cơ sở KCB công lập, trong đó quyền tự chủ
trong đào tạo, tuyển dụng, sử dụng viên chức y tế đã giúp Thanh Hóa nhanh
chóng tạo lập được hệ thống y tế tuyến tỉnh trở xuống đáp ứng được nhu cầu
KCB của địa phương. Đây là những kinh nghiệm có thể giúp các địa phương
12
khác triển khai trong thời gian tới nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của
ngành y tế bằng các biện pháp quản lý phù hợp đối với viên chức trong
ngành.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các chữ viết tắt và danh mục
tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu gồm ba (03) Chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật của quản lý nhà nước về
viên chức;
Chương 2. Thực trạng quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế
tại tỉnh Thanh Hóa;
Chương 3. Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước
đối với viên chức ngành y tế tỉnh Thanh Hóa.
13
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
CỦA QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ VIÊN CHỨC
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của quản lý nhà nước
1.1.1. Khái niệm
Quản lý
Quản lý là một hiện tượng sinh ra khi con người cần giải quyết các vấn
đề của cuộc sống nhằm duy trì trật tự xã hội chung. Quản lý là một hiện tượng
đa diện. Tính đa diện và phức tạp của quản lý là bởi trong quản lý cả chủ thể
và khách thể của tác động quản lý là con người - một chủ thể phức tạp bậc
nhất trong số các sinh vật sống tổ chức được đời sống dạng xã hội.
Từ phương diện triết học, trong các ấn phẩm triết học (B. Rassel, K.
Popper, K. Jaspers), quản lý được phân tích từ quan điểm về tính chất tự quản
của xã hội. Các luận điểm và kết luận của tư duy triết học tạo nên cơ sở
phương pháp luận và thế giới quan nhận thức khoa học và hoàn thiện thực tế
của quản lý, tạo khả năng định hướng cho những tìm tòi sáng tạo. [6, tr.50]
Từ phương diện xã hội học những khía cạnh quan trọng của quản lý đã
được (K. Marx, M. Veber, T. Beblen, D. Bernkhem), phát hiện và chứng
minh sự lệ thuộc, mối tương quan giữa mức độ trật tự của các quá trình xã hội
và tình trạng quản lý. Đồng thời chỉ ra tính hai mặt của quản lý (tính xã hội và
tính giai cấp), về chế độ quan liêu/thư lại trong quản lý, hay đồng nhất quản lý
với sự điều khiển tự động hóa trong các hệ thống cơ giới - công nghệ.[6,
tr.51]
Từ phương diện kinh tế, các nhà kinh tế học là những người đã đặt nền
tảng cho việc quản trị - lý thuyết quản lý công việc, kinh doanh, sản xuất, dịch
vụ. Sự tổng hợp những tri thức kinh tế và công nghệ do G. Ford, F. Taylor, G.
Emerson, A. Fiol và những chuyên gia nổi tiếng khác thực hiện. Lý thuyết
14
của các tác giả này đã đặt nền tảng cho sự hình thành hệ thống tri thức mà
ngày nay gọi là “lý luận quản lý”. [6, tr.53]
Quản lý từ phương diện chính trị, quản lý là hiện tượng gắn với quyền
lực, xuất phát từ quyền lực và dựa vào quyền lực, thu hút quyền lực vào các
tác động quản lý. Nói cách khác bản chất của quản lý là quyền lực, được ghi
nhận bởi thể chế, được thực hiện bởi các thiết chế nhà nước, xã hội, được bảo
đảm bởi cơ sở vật chất - tài chính, bằng những hình thức, phương pháp khác
nhau. Trong quản lý thể hiện các khía cạnh chính trị đặc trưng cho khả năng
của quản lý trong việc phân bổ các giá trị và chấn chỉnh, trật tự hóa các quan
hệ, quá trình xã hội.
Quản lý là hiện tượng có quan hệ gắn kết với pháp luật, trong nhiều
trường hợp quản lý tiếp thụ hình thức pháp luật, sử dụng sức mạnh pháp luật,
được thực hiện theo các thủ tục do pháp luật quy định. Các khía cạnh pháp
luật của quản lý có tính chất nguyên tắc đối với thực tiễn quản lý. Trong quản
lý tồn tại các hình thức lao động khác nhau của con người, sử dụng các công
cụ và phương tiện lao động tương ứng, được pháp luật điều chỉnh. Vì vậy,
trong các giáo trình luật hành chính, thường quan niệm, bản chất của quản lý
nhà nước là hoạt động chấp hành và điều hành [26, tr.32], pháp luật là cơ sở
của QLNN, điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quản lý.
Như vậy, quản lý được nhìn nhận, tiếp cận từ nhiều góc nhìn khác
nhau: triết học, chính trị, lịch sử, tư tưởng, pháp luật, kinh tế, tâm lý-xã hội,
phương tiện-điều kiện, thông tin, sư phạm … đều có ý nghĩa nhận thức, làm
sáng tỏ một mặt riêng biệt nào đó của hiện tượng xã hội phức tạp này. Mỗi
khía cạnh nghiên cứu đều thực hiện chức năng nhận thức của con người, do
đó không nên đặt chúng đối lập nhau, không nên tuyệt đối hóa phương diện
nào. Để quản lý tốt trong thực tiễn phải biết tiếp thu, kết hợp tất cả các kết
quả nghiên cứu từ những phương diện khác nhau một cách logic. Vì vậy,
15
quản lý không chỉ là một khoa học, mà còn là sự kết hợp các tri thức để quản
lý, để giải quyết những vấn đề xã hội đặt ra với quản lý.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu: “Quản lý” là sự tác động có tổ
chức, mang tính quyền lực, có chức năng điều chỉnh làm thay đổi đời sống
của con người theo hướng tích cực hoặc tiêu cực.
Quản lý nhà nước
Nhà nước với tư cách là một thiết chế xã hội, có cơ cấu, đội ngũ công
chức và nguồn lực lớn nhất trong xã hội. Mặt khác, nhà nước quản lý, tác
động đến các quá trình xã hội, tác động đến các khách thể của quản lý nhằm
đạt được những mục tiêu đã định, nhằm làm thay đổi hiện thực đời sống xã
hội, đời sống các cá nhân, tổ chức theo hướng tích cực, phát triển. Nhà nước,
hay QLNN cũng xoay quanh những nội dung này. Quản trị nhà nước, hành
chính, QLNN chỉ là thuật ngữ được sử dụng để gán, hay thể hiện cho hiện
tượng mà nhà nước phải thực hiện.
Xuất phát từ quan niệm, quản trị là một loại hình của quản lý, thì quản
trị nhà nước chỉ là một bộ phận của QLNN. QLNN bao gồm hai bộ phận:
quản lý/quản trị các công việc nội bộ nhà nước, quản lý những gì mà nhà
nước đang nắm giữ và quản lý tác động ra bên ngoài nhà nước - tác động đến
các quá trình chính trị, kinh tế - xã hội, tác động đến cá nhân, tổ chức - tác
động đến các khách thể của QLNN.
Theo đó, QLNN được hiểu là hoạt động chấp hành, điều hành có tổ
chức bởi hệ thống cơ quan hành chính nhà nước.
Quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế
Quản lý viên chức y tế được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. [18]
Theo nghĩa hẹp, QLNN đối với viên chức ngành y tế là việc cơ quan có
thẩm quyền QLNN ban hành văn bản quy phạm pháp luật; tổ chức thực hiện
văn bản quy phạm pháp luật; thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo,
16
khen thưởng, kỷ luật; báo cáo tổng kết, đánh giá công tác QLNN đối với viên
chức ngành y tế.
Theo nghĩa rộng, QLNN đối với viên chức ngành y tế là việc cơ quan
có thẩm quyền QLNN ban hành văn bản quy phạm pháp luật; tổ chức thực
hiện văn bản quy phạm pháp luật; thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố
cáo, khen thưởng, kỷ luật; báo cáo tổng kết, đánh giá công tác QLNN về lĩnh
vực y học; quản lý đối với nguồn nhân lực, tổ chức bộ máy, nguồn tài chính,
cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ trong lĩnh vực y tế.
QLNN đối với viên chức ngành y tế là một bộ phận cấu thành hoạt
động QLNN đối với viên chức nói chung bảo đảm cho hoạt động thực thi
quyền hành pháp của nhà nước có hiệu lực và hiệu quả. Do vậy, hoạt động
quản lý viên chức y tế có những đặc điểm sau:
(i) QLNN đối với viên chức ngành y tế mang tính quyền lực đặc biệt,
tính tổ chức rất cao và tính mệnh lệnh đơn phương của cơ quan có thẩm
quyền QLNN đối với lĩnh vực y tế. Tính quyền lực ấy là đặc điểm để phân
biệt hoạt động QLNN với hoạt động quản lý khác và phân biệt hoạt động
QLNN đối với viên chức y tế với hoạt động QLNN đối với viên chức khác;
(ii) QLNN đối với viên chức ngành y tế có mục tiêu, chiến lược,
chương trình kế hoạch để thực hiện mục tiêu; do vậy hoạt động QLNN đối
với viên chức ngành y tế cũng có mục tiêu riêng, để thực hiện được mục tiêu
này cần phải thiết lập một hệ thống các chương trình, kế hoạch dài hạn, trung
hạn, ngắn hạn;
(iii) QLNN đối với viên chức ngành y tế mang tính chủ động, sáng tạo,
liên tục và chuyên môn hóa nghề nghiệp cao, linh hoạt trong việc điều hành,
phối hợp, huy động mọi lực lượng để đạt được mục tiêu;
(iv) QLNN đối với viên chức ngành y tế mang tính thứ bậc chặt chẽ,
không có sự cách biệt giữa người quản lý và người bị quản lý, không vì lợi
17
nhuận và nhân đạo; tính thứ bậc được thể hiện trong QLNN đối với viên chức
ngành y tế ngay từ khi xây dựng hệ thống viên chức y tế.
Hoạt động QLNN đối với viên chức ngành y tế để nhằm phục vụ cộng
đồng do vậy xét tổng thể cùng mục tiêu chung của các cơ quan nhà nhà nước
khác là phục vụ nhân dân. Do vậy, việc QLNN đối với viên chức ngành y tế
được thực hiện trên cơ sở các nguyên tắc sau:
Một là, phải bảm đảm sự lãnh đạo của Đảng và sự thống nhất quản lý
của Nhà nước đối với đội ngũ viên chức ngành y tế;
Hai là, bảo đảm quyền chủ động và đề cao trách nhiệm của người đứng
đầu;
Ba là, việc tuyển dụng, sử dụng, quản lý, đánh giá viên chức ngành y tế
được thực hiện trên cơ sở tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp, vị trí việc làm
và căn cứ vào hợp đồng làm việc;
Bốn là, thực hiện bình đẳng giới, các chính sách ưu đãi của Nhà nước
đối với viên chức ngành y tế là người có tài năng, người dân tộc thiểu số, viên
chức làm việc ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc
thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và các chính
sách ưu đãi khác của Nhà nước đối với viên chức ngành y tế.
Từ những phân tích trên, QLNN đối với viên chức ngành y tế được hiểu
là hoạt động chấp hành, điều hành có tổ chức bởi hệ thống cơ quan hành
chính nhà nước trong lĩnh vực y tế.
1.1.2. Đặc điểm của quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế
QLNN đối với viên chức ngành y tế là phương thức quản lý về một lĩnh
vực cụ thể của quốc gia cho nên nó có tính chất chung của QLNN và quản lý
hành chính nhà nước, cụ thể như sau [9]:
Tính lệ thuộc vào chính trị: theo quan điểm Mác-xít, QLNN đối với viên
chức ngành y tế có tính phục tùng và phục vụ nhiệm vụ chính trị của từng hệ
18
thống chính trị. Đặc điểm này nổi bật ở những quốc gia mà bộ máy QLNN can
thiệp rộng đến xã hội.
Tính xã hội: Y tế được xem như là nhiệm vụ trọng yếu của mỗi nhà
nước và của toàn xã hội. Trong QLNN đối với viên chức ngành y tế nói
chung cần phải coi trọng tính xã hội.
Tính pháp quyền: QLNN là quản lý bằng pháp luật, vì vậy QLNN đối
với viên chức ngành y tế cũng phải tuân thủ những quy định chung của pháp
luật.
Tính chuyên môn, nghiệp vụ: viên chức y tế phải đáp ứng yêu cầu về
trình độ tương ứng với yêu cầu về tiêu chuẩn các ngạch chức danh đã được
quy định.
Tính hiệu lực, hiệu quả: lấy hiệu quả của hoạt động chuyên môn nghiệp
vụ để đánh giá viên chức ngành y tế và trong công tác quản lý y tế.
Như vậy, quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế mang những
đặc điểm sau:
Thứ nhất, đặc điểm hành chính - chuyên môn y tế: là sự kết hợp quản lý
hành chính và quản lý chuyên môn trong các hoạt động triển khai y tế nhằm
đảm bảo hiệu quả vận hành của hệ thống y tế. Nói cách khác, thực chất là
triển khai các hoạt động hành chính nhà nước trong quá trình chỉ đạo các hoạt
động chăm sóc sức khỏe. Đối với QLNN đối với viên chức ngành y tế, đây
được xem là đặc điểm quan trọng nhất.
Thứ hai, đặc điểm về tính quyền lực nhà nước trong hoạt động quản lý:
Nhà nước, xét theo nghĩa rộng, và các cơ quan hành chính nhà nước, xét theo
nghĩa hẹp, đóng vai trò là chủ thể trong hoạt động quản lý. Tính quyền lực thể
hiện ở tư cách pháp nhân trong hoạt động quản lý; cách thức quản lý, chỉ đạo;
quan hệ thứ bậc trong hệ thống vận hành, quản lý.
Thứ ba, đặc điểm kết hợp nhà nước - xã hội trong quá trình triển khai
QLNN đối với viên chức ngành y tế. Xu thế về xã hội hóa trong lĩnh vực y tế
19
phát triển mạnh mẽ; đây cũng là một trong những đặc điểm xuyên suốt trong
tư tưởng quản lý, xây dựng chính sách, chiến lược trong QLNN đối với viên
chức ngành y tế.
1.1.3. Vai trò của quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế
Y tế là một lĩnh vực khoa học chuyên nghiên cứu về bệnh lý từ đó
chuẩn đoán, xây dựng phác đồ phòng và điều trị bệnh lý, bảo vệ sức khỏe cho
cộng đồng, trên cơ sở các kết quả nghiên cứu về dạng bệnh phẩm, một bộ
phận khác có nhiệm vụ nghiên cứu, chế tạo ra các dược phẩm chữa trị, phục
hồi hoặc nâng cao sức đề kháng cũng như sức khỏe, lĩnh vực này trong y học
được gọi chung là dược học. Người công tác trong lĩnh vực y tế được gọi là
“thầy thuốc” hay “bác sĩ”, là người có nhiệm vụ bảo vệ, duy trì, phục hồi sức
khỏe cho con người.
Công việc của những người làm việc trong lĩnh vực y học thường đòi
hỏi sự tỉ mỉ, chính xác cao độ, thường xuyên phải làm việc trong các hoàn
cảnh bất thường như dịch bệnh, thiên tai, cấp cứu, nghỉ lễ. Ngày nay, những
thành tựu khoa học công nghệ góp phần phát triển mạnh mẽ ngành y học, số
lượng bác sĩ của Việt Nam hiện đang còn thiếu nhiều (với 0,8 bác sĩ và 1,1
điều dưỡng trên 1.000 dân (năm 2016), biểu đồ so sánh phân bố số lượng bác
sĩ và điều dưỡng trên 1.000 dân giữa các nước trong khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương của Tổ chức Y tế Thế giới cho thấy Việt Nam thuộc nhóm các
nước có số lượng bác sĩ và điều dưỡng thấp hơn chỉ số trung bình của các
nước có thu nhập thấp và trung bình thấp [40]) Ngoài các bệnh viện Trung
ương, Bộ, ngành và các cấp địa phương, hiện nay ngày càng nhiều bệnh viện,
phòng khám tư nhân được xây dựng, đòi hỏi bổ sung đội ngũ nhân lực.
20
Biểu đồ 1. So sánh phân bố số lượng bác sĩ trên 1.000 dân
giữa các nước trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
của Tổ chức Y tế Thế giới [40]
21
Biểu đồ 2. So sánh phân bố số lượng điều dưỡng trên 1.000 dân
giữa các nước trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
của Tổ chức Y tế Thế giới [40]
Quản lý của nhà nước là sức ép lên các bệnh viện sử dụng viên chức,
buộc các bệnh viện phải luôn tuân thủ những quy định chung vì lợi ích của
bệnh viện và vì lợi ích của đội ngũ viên chức y tế trong bệnh viện đó. Từ
những phân tích trên cho thấy QLNN đối với viên chức y tế có vai trò:
Một là, xuất phát từ chức năng QLNN. Với chức năng của mình, nhà
nước điều tiết mọi việc trong quản lý đội ngũ viên chức y tế; điều chỉnh mọi
hoạt động của công tác này cho phù hợp với tình hình thực tế, phù hợp với sự
phát triển chung của toàn xã hội và đáp ứng yêu cầu. Đội ngũ viên chức y tế
chịu sự quản lý của các CQNN có thẩm quyền và mỗi cơ quan có thẩm quyền
quản lý đều có mục tiêu, chương trình, kế hoạch công tác cụ thể. Đó còn là sự
22
phối hợp chặt chẽ giữa quản lý lĩnh vực và quản lý ngành từ đó có những
phương pháp phù hợp với hoạt động chuyên môn lĩnh vực y học. QLNN đối
với viên chức y tế cũng xuất phát từ thực tiễn luôn vận động và thay đổi để
phù hợp với quy luật xã hội đòi hỏi QLNN đối với viên chức y tế luôn phải
hoàn thiện để đáp ứng yếu cầu phát triển các dịch vụ sức khỏe theo hướng
công nghiệp hóa và thị trường hóa.
Hai là, xuất phát từ vai trò QLNN đối với viên chức ngành y tế. QLNN
đối với viên chức y tế có ý nghĩa quyết định đến chất lượng hoạt động, đến sự
vận hành của cơ sở y tế, cung cấp môi trường làm việc lành mạnh, minh bạch
và hiệu quả cho đội ngũ viên chức y tế. QLNN đối với viên chức y tế nhằm
lựa chọn được những người có năng lực, trình độ, đáp ứng được yêu cầu và
sắp xếp đúng với nguyện vọng cũng như khả năng của mỗi người. QLNN đối
với viên chức y tế nhằm hướng hoạt động của viên chức y tế thực hiện nhiệm
vụ của mình theo chính sách, pháp luật của nhà nước và sự chỉ đạo của các cơ
quan nhà nước cấp trên. QLNN đối với viên chức y tế dựa trên cơ sở các tiêu
chuẩn, các chuẩn mực chung và sự cưỡng chế của luật pháp sẽ sàng lọc cho
bệnh viện những viên chức tài năng, loại bỏ những người không đáp ứng yêu
cầu làm cơ quan hoạt động không có hiệu quả; bởi đây là một nghề liên quan
đến tính mạng con người, không giống bất cứ một nghề nào khác.
Ba là, xuất phát từ chính lợi ích của đội ngũ viên chức ngành y tế. Thực
hiện QLNN đối với viên chức y tế là để công tác này thực hiện tốt hơn, hiệu
quả hơn, hạn chế được những tiêu cực trong công tác tuyển dụng, sử dụng,
đào tạo, bồi dưỡng... Quản lý dựa trên cơ sở phát luật sẽ tạo môi trường làm
việc khoa học, hiệu quả, lành mạnh, công bằng cho tất cả mọi viên chức y tế.
Nhà nước sẽ tuyển dụng được nguồn nhân lực tốt đáp ứng yêu cầu, có năng
lực về chuyên môn và trình độ; người dự tuyển được tuyển dụng một cách
công bằng, minh bạch và công tác tuyển dụng đảm bảo đúng người, đúng
23
việc, đúng chuyên môn và trình độ. Viên chức y tế làm việc được hưởng chế
độ đãi ngộ hợp lý, khích lệ tinh thần làm việc của mọi người.
1.2. Chủ thể, nội dung quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế
1.2.1. Chủ thể quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế
Với chức năng của mình, nhà nước điều tiết tất cả các khâu trong quản
lý đội ngũ viên chức y tế, điều chỉnh mọi hoạt động của công tác này cho phù
hợp với tình hình thực tế, phù hợp với sự phát triển chung của toàn xã hội và
đáp ứng yêu cầu. Các viên chức y tế chịu sự quản lý của các CQNN có thẩm
quyền và mỗi cơ quan có thẩm quyền quản lý đều có mục tiêu, chương trình,
kế hoặc công tác cụ thể. Do vậy, hoạt động thực hiện nhiệm vụ chính trị,
nhiệm vụ chuyên môn của các viên chức y tế phải dựa trên cơ sở mục tiêu,
chương trình, kế hoạch của cơ quan có thẩm quyền quản lý y tế.
Nhà nước tiến hành quản lý mọi mặt viên chức trong đó có viên chức y
tế. Thông qua các cơ quan của mình, nhà nước thực hiện quản lý đối với đội
ngũ viên chức. Trong đó, Quốc hội ban hành các Luật, Pháp lệnh liên quan
đến quản lý viên chức; Chính phủ ban hành các Nghị định, các Bộ ban hành
các Thông tư… quy định, hướng dẫn và điều chỉnh những gì liên quan đến
quản lý viên chức. Chính phủ thống nhất QLNN về viên chức. Bộ Nội vụ là
CQNN trực thuộc Chính phủ được giao nhiệm vụ trực tiếp QLNN chung về
đội ngũ viên chức. Bộ Y tế là cơ quan ban hành những văn bản quy định riêng
về quản lý đội ngũ viên chức y tế; cũng là cơ quan giám sát trực tiếp việc thực
hiện các văn bản ban hành trong quản lý đội ngũ viên chức y tế ở trung ương
và địa phương.
Ở Việt Nam, chức năng QLNN đối với viên chức y tế của Bộ Y tế được
Chính phủ quy định gồm những nội dung sau [Xem các Điều 14, 15 của Nghị
định số 63/2012/NĐ-CP]:
- Xây dựng trình cơ quan có thẩm quyền ban hành tiêu chuẩn chức
danh nghề nghiệp của viên chức chuyên ngành y, dược, dân số;
24
- Hướng dẫn việc xác định vị trí việc làm, số lượng người làm việc và
cơ cấu viên chức theo chức danh nghề nghiệp trong các đơn vị sự nghiệp y tế
công lập;
- Chủ trì, phối hợp với cơ quan có liên quan quy định cụ thể về tiêu
chuẩn, điều kiện, nội dung, hình thức thi hoặc xét thăng hạng chức danh nghề
nghỉệp của viên chức chuyên ngành y, dược, dân số; tổ chức thi, xét thăng
hạng chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành y, dược, dân số theo
quy định của pháp luật;
- Chủ trì, phối hợp với cơ quan có liên quan xây dựng chế độ, chính
sách đối với viên chức chuyên ngành y, dược, dân số;
- Quy định chi tiết về nội dung, chương trình, hình thức, thời gian bồi
dưỡng viên chức chuyên ngành y, dược, dân số theo tiêu chuẩn chức danh
nghề nghiệp của viên chức chuyên ngành;
- Trình cấp có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch, kế hoạch đào tạo nhân
lực ngành y tế và cơ chế, chính sách đặc thù trong đào tạo nhân lực ngành y
tế;
- Ban hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về điều kiện bảo đảm chất
lượng đào tạo nhân lực ngành y tế và hƣớng dẫn, tổ chức thực hiện;
- Ban hành chuẩn năng lực chuyên môn đối với các ngành và chuyên
ngành đào tạo thuộc lĩnh vực y tế và hướng dẫn, tổ chức thực hiện.
1.2.2. Nội dung quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế
Nội dung của QLNN đối với viên chức y tế là việc nhà nước sử dụng
các phương pháp, biện pháp; những phương tiện, công cụ quản lý, thông qua
hoạt động của bộ máy quản lý để thực hiện chức năng QLNN đối với viên
chức y tế, nhằm đạt được những mục tiêu đã đặt ra.
Xây dựng và ban hành Văn bản quy phạm pháp luật
Chính sách là một trong số các loại công cụ quản lý vĩ mô của nhà
nước, là tổng thể các chủ trương chính thức của nhà nước về quản lý kinh tế -
25
xã hội cũng như hoạt động tổ chức thực thi các chủ trương, chính sách đó.
Chính sách giữ vai trò là công cụ quản lý của nhà nước, là chủ trương, quyết
sách và hành động của lực lượng nắm quyền lực chính trị xã hội, đó là nhà
nước. Toàn bộ các vấn đề về lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội... đều được thực
hiện trong chính sách của nhà nước. Nội dung cơ bản của chính sách là xác
định mục tiêu, phương hướng phát triển cũng như các biện pháp tổ chức thực
hiện các nhiệm vụ do yêu cầu của đời sống xã hội và QLNN đặt ra. Chính
sách nhà nước là thể thống nhất giữa chủ trương và hành động của nhà nước.
Chính sách nhà nước giữ vai trò vừa hàm chứa vừa định hướng, làm nền tảng
cho các thể chế công cụ quản lý kinh tế - xã hội của nhà nước. Chính sách có
nhiều loại: chính sách chính trị, chính sách kinh tế, chính sách xã hội, chính
sách an ninh, quốc phòng, chính sách đối ngoại, chính sách về khoa học công
nghệ..., trong đó có chính sách đối với viên chức y tế.
Bằng công cụ pháp luật, nhà nước tạo lập cơ sở pháp lý cho tổ chức và
hoạt động quản lý nhà đối với viên chức y tế; tạo lập hành lang pháp lý cho
các tổ chức, cá nhân tham gia vào các các quan hệ pháp luật trong lĩnh vực y
tế; là cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức; là
căn cứ pháp lý để thống nhất và chuẩn hoá các tiêu chuẩn về viên chức y tế.
Trên thực tế, các công cụ kế hoạch, chính sách phần lớn đều phải thể hiện
dƣới các hình thức pháp lý nhất định (như các Luật, Pháp lệnh... và các văn
bản cá biệt) thì mới đi vào thực tế cuộc sống và được đảm bảo bằng sức mạnh
cưỡng chế của nhà nước. Vì vậy, công cụ pháp luật có một ý nghĩa đặc biệt
trong quản lý nhà nước đối với viên chức y tế.
Tổ chức thực hiện
Công cụ quản lý nhà nước đối với viên chức y tế có đặc tính chung là
nó vừa phản ánh được bản chất, nhu cầu của đối tượng quản lý, vừa phản ánh
được sự tương thích của chủ thể quản lý, vừa thể hiện tính đặc thù của nó
trong mối quan hệ với các công cụ quản lý xã hội nói chung.
26
Công cụ QLNN đối với viên chức y tế là những phương tiện cần thiết,
qua đó nhà nước (thông qua các cơ quan chức năng) sử dụng để điều tiết,
hướng dẫn, kiểm soát đối với toàn bộ hoạt động của đội ngũ viên chức y tế.
Việc sử dụng loại công cụ nào để quản lý đối với viên chức y tế là tùy thuộc
vào trình độ, hoàn cảnh, quy mô... của đối tượng được quản lý, cũng như khả
năng của chủ thể quản lý trong việc nhận thức và lựa chọn các công cụ.
Quy hoạch, kế hoạch là một trong những công cụ quản lý vĩ mô quan
trọng của nhà nước, là các chương trình mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và
các biện pháp cụ thể để đạt mục tiêu trong từng thời kỳ nhất định do nhà nước
đặt ra. Điều đó có nghĩa, quy hoạch, kế hoạch là một công cụ định hướng, tổ
chức và điều chỉnh các hoạt động kinh tế - xã hội trong đó có QLNN đối với
viên chức y tế. Vai trò của công cụ quy hoạch, kế hoạch trong QLNN đối với
viên chức y tế được thể hiện ở các khía cạnh sau đây:
(i) Nhờ quy hoạch, kế hoạch mà chủ thể quản lý và đối tượng quản lý
biết được hướng đi và lựa chọn con đường thích hợp để nhanh chóng đạt tới
mục tiêu vạch ra;
(ii) Công cụ quy hoạch, kế hoạch góp phần hình thành tư duy “vượt
trước”, giúp cho các nhà quản lý tiên đoán được sự thay đổi tình hình, từ đó
chuẩn bị các phương án cần thiết để thích ứng với sự thay đổi đó. Nói cách
khác, quy hoạch, kế hoạch tạo ra tầm nhìn chiến lược cho nhà quản lý, giúp
họ phát hiện vấn đề trong quản lý, sử dụng đối với viên chức y tế một cách
hiệu quả. Từ sự phát hiện đó, nhà quản lý biết tập trung vào việc giải quyết
những nhiệm vụ quan trọng nhất trong quản lý đối với viên chức y tế mà
không bị che lấp hoặc sa vào việc xử lý những thông tin vụn vặt, sự vụ hàng
ngày. Mặt khác, nó còn làm giảm thiểu những rủi ro và hạn chế các hoạt động
trùng lặp, lãng phí thời gian, công sức và tiền của do không có sự tính toán,
sắp đặt từ trước;
27
(iii) Quy hoạch, kế hoạch cho phép các nhà quản lý hình dung khái quát
được sự hình thành, xu hướng vận động, phát triển của đội ngũ viên chức y tế,
từ đó hình thành các phương án quản lý đối với viên chức y tế.
Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm
Thanh tra, kiểm tra và giám sát là những hoạt động thiết yếu, thường
xuyên của QLNN. Công tác thanh tra, giám sát giúp thủ trường đơn vị nhìn rõ
ưu điểm, khuyết điểm, nắm chắc tình hình trong lãnh đạo, quản lý. Theo Hồ
Chí Minh, chín phần mười (9/10) khuyết điểm trong công việc của chúng ta là
vì thiếu sự giám sát. [Dẫn lại: 18, tr.76] Pháp luật hiện hành của Việt Nam về
thanh tra đã chỉ rõ mục đích của thanh tra là: “Nhằm phát hiện sơ hở trong cơ
chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm
pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng quy định của pháp
luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. [Điều 2, Luật Thanh tra năm 2010]
Hoạt động thanh tra, giám sát trong lĩnh vực y tế cố nhiên là rất quan
trọng vì liên quan trực tiếp đến toàn bộ đời sống xã hội. Theo đó, hoạt động
thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm cần được tiến hành trong các
trường hợp sau:
Thứ nhất, tổ chức các đoàn thanh tra ngay tại cơ sở khám, chữa bệnh
trong việc thực hiện các văn bản của pháp luật của công chức, viên chức y tế,
y, bác sỹ; trong việc khám và chữa bệnh, trong việc điều hành hoạt động của
cơ sở;
Thứ hai, phân cấp giám sát trong nội bộ cơ sở khám, chữa bệnh, giữa
bệnh viện tuyến trên với bệnh viện trực thuộc nhằm tạo được sự minh bạch,
công khai và đồng thời tăng tính trách nhiệm đối với viên chức trong ngành;
28
Thứ ba, tăng cường hiệu lực của hoạt động kiểm tra, giám sát thực hiện
chế độ chính sách đối với viên chức y tế tại cơ sở khám, chữa bệnh thông qua
việc xây dựng cơ chế tiếp nhận và xử lý thông tin phản hồi trong đó quy định
rõ trách nhiệm của các đối tác có liên quan, đa dạng hóa các hình thức tiếp
nhận thông tin phản hồi để kịp thời điều chỉnh, sửa đổi những bất cập trong
quy định hiện hành.
Thứ tư, bên cạnh những biện pháp mang tính động viên đối với đội ngũ
viện chức y tế thì cũng có những hình thức kỷ luật nghiêm khắc với hành vi vi
phạm pháp luật, vi phạm đạo đức ngành y. Bởi hiện tượng tiêu cực trong đội
ngũ viên chức, y, bác sỹ đang trở nên nghiêm trọng đối với môi trường y tế
lành mạnh.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với viên chức ngành
y tế
1.3.1. Yếu tố pháp luật
Hoạt động quản lý của các CQNN là sự tác động của quyền lực nhà
nước đến các chủ thể trong xã hội; công dân và tổ chức; thể nhân hay pháp
nhân, công pháp hay tư pháp (công quyền), mang đặc trưng cưỡng bức kết
hợp với thuyết phục, giáo dục. Thể chế hành chính nhà nước với một hệ thống
pháp luật (bao gồm luật, các văn bản pháp quy dưới luật) do CQNN có thẩm
quyền ban hành là cơ sở pháp lý cho các cơ quan hành chính nhà nước các
cấp thực hiện quản lý, bảo đảm thống nhất QLNN trên phạm vi quốc gia.
Pháp luật được hiểu là “hệ thống quy tắc sử xự có tính bắt buộc chung,
do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí, lợi ích của nhân dân,
được nhà nước bảo đảm thực hiện, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội vì
mục đích bảo vệ, bảo đảm các quyền, tự do của con người và sự phát triển
bền vững của xã hội”. [17, tr.295] Và vì “bản chất con người là tổng hòa
những quan hệ xã hội” [3, tr.11] nên nội dung và phạm vi điều chỉnh của pháp
luật cũng hết sức rộng rãi và phức tạp, được phân chia thành các bộ phận
29
pháp luật khác nhau, tương xứng với các lĩnh vực hoạt động khác nhau của
con người. Pháp luật về viên chức y tế là một trong những bộ phận pháp luật
đó.
Hệ thống pháp luật được đồng bộ, hoàn thiện sẽ là tiền đề, điều kiện để
các các bệnh viện công và đội ngũ viên chức y tế thi hành. Vì vậy, pháp luật
càng rõ ràng, thống nhất là cở sở để cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện đúng.
Trong thực tế hiện nay, các văn bản quy phạm pháp luật về viên chức y tế
chưa được pháp điển hóa mà vẫn được quy định phân tán ở nhiều văn bản
khác nhau. Vì vậy, các cơ quan phải sử dụng các cơ sở pháp lý nằm ở nhiều
văn bản khác nhau. Từ đó, cần gấp rút xây dựng hệ thống quy định quy chuẩn
liên quan đến viên chức y tế gắn liền với yêu cầu QLNN.
1.3.2. Yếu tố nguồn lực
Đây là yếu tố quyết định bảo đảm QLNN về viên chức y tế với những
lý do sau:
Một là, pháp luật là cơ sở của quản lý, nhưng nếu không được thực
hiện, thực hiện không đúng, không kịp thời thì pháp luật trở nên vô dụng. Do
đó, thực hiện pháp luật đầy đủ, chính xác, kịp thời là yếu tố quyết định hiệu
lực, hiệu quả quản lý, cho dù quản lý lĩnh vực nào, do CQNN nào tiến hành.
Nhưng cuối cùng là phụ thuộc vào năng lực thực hiện pháp luật của bộ máy
quản lý.
Hai là, yếu tố có tính quyết định tạo thành năng lực thực hiện pháp luật
của bộ máy quản lý chính là tính hợp lý của bộ máy chính chính quyền các
cấp. Một bộ máy mạnh là bộ máy luôn thích ứng với mọi biến đổi xã hội, phải
luôn tìm tòi sáng kiến sao cho bộ máy quản lý thường xuyên được đổi mới,
cải cách, đáp ứng được tối đa nhu cầu của quản lý viên chức y tế, nhất là
trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Ba là, năng lực quản lý của bộ máy quản lý ảnh hưởng rất lớn đến công
tác quản lý viên chức y tế. Năng lực quản lý thể hiện ở việc hoạch định, đưa
30
ra các chính sách, quyết đoán phù hợp với thực tiễn ngành cũng như từng
bệnh viện. Mặt khác, có biện pháp và chủ động trong xây dựng kế hoạch
thanh tra, kiểm tra, chấn chỉnh và xử lý kịp thời những sai phạm xảy ra, từ đó
sẽ tạo được uy tín, niềm tin trong nhân dân đối với viên chức y tế.
Theo quy định hiện hành, sự khác biệt cơ bản của viên chức so với cán
bộ, công chức chính là chế độ tuyển dụng gắn với vị trí việc làm thông qua
chế độ hợp đồng lao động và lương được hưởng từ quỹ lương của đơn vị sự
nghiệp công lập nơi viên chức làm việc. Nếu như cán bộ, công chức là cá
nhân làm việc trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội,
tức là các cơ quan mang tính chất “công”, nhân danh quyền lực nhà nước thực
hiện công việc của mình thì viên chức y tế lại hoạt động thuần túy mang tính
chất chuyên môn, nghiệp vụ. Ở Việt Nam, pháp luật về viên chức quy định:
“Hoạt động nghề nghiệp của viên chức là việc thực hiện công việc hoặc
nhiệm vụ có yêu cầu về trình độ, năng lực, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ
trong đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của luật này và các quy định
khác của pháp luật có liên quan”. [Điều 4 Luật Viên chức 2011]
Gắn với các đặc điểm, tính chất của hoạt động nghề nghiệp, các quyền
và nghĩa vụ của viên chức nói chung, viên chức y tế nói riêng nên các quy
định về quyền và nghĩa vụ của viên chức theo hướng mở hơn so với các quy
định đối với cán bộ, công chức. Qua đó, tạo điều kiện để viên chức có thể
phát huy tài năng, sức sáng tạo, khả năng công hiến trong điều kiện kinh tế thị
trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Do vậy, các quy định của pháp luật về
quản lý viên chức phải phù hợp với tính chất, đặc điểm hoạt động nghề
nghiệp của viên chức. Hoạt động nghề nghiệp của viên chức có những tính
chất, đặc điểm sau:
(i) Là hoạt động nhằm đáp ứng những nhu cầu cơ bản, thiết yếu để duy
trì, phát triển cá nhân con người. Nhà nước phải có trách nhiệm cung cấp tốt
nhất các nhu cầu này trong điều kiện có thể để phục vụ người dân. Các hoạt
31
động này liên quan đến một số dịch vụ như phổ cập giáo dục, đào tạo nghề
nghiệp; chăm sóc sức khỏe, phòng chống dịch bệnh; nghiên cứu khoa học
phục vụ phát triển và đời sống nhân dân, giữ gìn phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc và sáng tạo các giá trị văn hóa mới...;
(ii) Được thực hiện trong các lĩnh vực chuyên ngành, theo các tiêu
chuẩn chuyên môn thống nhất. Mỗi lĩnh vực mà viên chức làm việc chỉ cung
cấp và đáp ứng một loại nhu cầu cơ bản, cụ thể. Các nhu cầu này được thực
hiện thông qua hoạt động nghề nghiệp của viên chức nên các đơn vị sự nghiệp
bao giờ cũng tổ chức theo tính chất chuyên môn sâu gắn với đặc thù từng lĩnh
vực. Do đó, cơ chế quản lý viên chức của các đơn vị này phụ thuộc vào tính
chất, đặc điểm của hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ.
(iii) Chủ yếu cung cấp cho người dân và cộng đồng dân cư các sản
phẩm phi hiện vật. Nếu hoạt động công vụ của cán bộ, công chức thực hiện
quyền lực của nhà nước, gắn với quyền lực chính trị, quyền lực công thì hoạt
động nghề nghiệp của viên chức được thực hiện nhân danh nhà nước, thể hiện
trách nhiệm của nhà nước trong quá trình cung cấp các nhu cầu cơ bản, thiết
yếu cho đa số người dân.
(iv) Đều dựa trên kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ, mang tính nghề
nghiệp cao, phải được đào tạo, bồi dưỡng qua các trường, lớp và được cơ
quan có thẩm quyền cấp văn bằng, chứng chỉ.
(v) Hoạt động nghề nghiệp của viên chức tác động ngay đến thể lực, trí
lực và đời sống tinh thần của người dân, nên phải đề cao đạo đức nghề
nghiệp, có trách nhiệm, tận tụy để đáp ứng các nhu cầu của người dân mà nhà
nước có trách nhiệm phải cung cấp. Thực tế cho thấy, dù công lập hay ngoài
công lập thì nội dung, chương trình, mục tiêu hoạt động nghề nghiệp của viên
chức đều có yêu cầu giống nhau, sự khác nhau là hoạt động nghề nghiệp của
viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập đặt mục tiêu phục vụ nhân dân lên
hàng đầu, không đặt mục tiêu lợi nhuận lên trên hết. Trong khi đó, tổ chức sự
32
nghiệp ngoài công lập thì động lực phục vụ tuân theo quy luật của thị trường,
gắn với mục tiêu lợi nhuận tối đa. Điểm thù này phản ánh yêu cầu, để phát
triển đội ngũ viên chức tận tụy, tài năng, phục vụ nhân dân được tốt, cần phải
có cơ chế quản lý và chế độ, chính sách phù hợp, linh hoạt, mềm dẻo, gắn với
tài năng, năng lực, kết quả làm việc để tạo nên sức hút nguồn nhân lực vào
các tổ chức sự nghiệp công lập.
1.3.3. Yếu tố đặc thù nghề nghiệp
Thứ nhất, hoạt động của viên chức y tế là loại lao động đặc thù
Việc cung ứng các dịch vụ y tế hỏi một lực lượng nhân lực đủ lớn. Bởi
trong cung ứng mỗi dịch vụ y tế, ít nhất cần có sự tiếp xúc riêng trực tiếp giữa
nhân viên y tế và người bệnh. Trong những ca phức tạp có thể cần tới cả một
tập thể nhân viên y tế với các thành phần khác nhau dành riêng cho việc chăm
sóc cho một người bệnh.
Lao động của viên chức y tế là loại lao động đặc thù, gắn với trách
nhiệm cao trước sức khoẻ và tính mạng của người bệnh. Là lao động liên tục
cả ngày đêm, diễn ra trong điều điện không phù hợp của quy luật sinh lý con
người làm ảnh hưởng rất nhiều đến sức khoẻ nhân viên y tế. Lao động trong
môi trường không thuận lợi, không phù hợp với tâm lý con người như: khi
tiếp xúc với người bệnh đau đớn, bệnh tật, lây nhiễm; hoá chất, chất thải môi
trường bệnh viện...
Quá trình lao động của viên chức y tế luôn chịu sức ép của dư luận xã
hội, thái độ hành vi không đúng của người bệnh và người nhà bệnh nhân khi
không thoả mãn nhu cầu của bản thân. Người bệnh là người có tổn thương về
thể chất và tinh thần, luôn lo lắng bức xúc với tình trạng bệnh tật của mình;
do vậy thường buồn phiền, cáu gắt dễ có phản ứng phức tạp và hành vi không
đúng mực với thầy thuốc. Khi trong gia đình có người bị bệnh thì dễ nảy sinh
mong muốn thầy thuốc và bệnh viện quá mức trong khi khả năng đáp ứng của
33
bệnh viện không được như kỳ vọng; từ đó dễ gây thắc mắc, căng thẳng giữa
thầy thuốc và người nhà bệnh nhân.
Thứ hai, đào tạo viên chức y tế cần sự đầu tư lớn và liên tục
Lực lượng viên chức y tế luôn phải được duy trì đáp ứng nhu cầu gia
tăng theo dân số. Ngoài ra, việc đào tạo cán bộ y tế, và đặc biệt là đội ngũ bác
sỹ, cần một khoảng thời gian rất dài với sự kiểm tra giám sát chặt chẽ và tốn
kém. Do yêu cầu cao trong công việc nên thời gian đào tạo của ngành y tế
thường dài hơn các ngành khác. Thời gian đào tạo của bác sĩ nội trú là 9 năm,
bác sĩ là 6 năm, dược sĩ là 5 năm; nhiều ngành học khác thời gian đào tạo đại
học thường chỉ kéo dài từ 4 đến 5 năm.
Các phương pháp phòng và chữa bệnh cũng có tiến bộ nhanh chóng.
Ngoài ra, các loại máy móc, thiết bị ngày càng hiện đại đòi hỏi nhân viên y tế
phải biết cách sử dụng, thao tác. Do đó, các kỹ năng về sử dụng các loại máy
móc, thiết bị cũng phải được cập nhật, hoàn thiện. [18, tr.17]
Thứ ba, viên chức y tế có đặc thù riêng về đạo đức nghề nghiệp
Nghề y được xã hội tôn trọng trước hết bởi trách nhiệm chữa bệnh cứu
người, bảo vệ sự sống và nâng cao sức khỏe của người dân. Tuy nhiên, nghề y
cũng như đội ngũ viên chức y tế chịu sự phán xét cao của dư luận xã hội khi
xảy ra những sai sót trong chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp.
Thứ tư, viên chức y tế chịu ảnh hưởng bởi đặc thù ngành y tế
Tình hình sức khỏe và các can thiệp y tế luôn luôn chứa đựng nhiều rủi
ro và sự không chắc chắn. Bản chất không chắc chắn nói trên đòi hỏi tăng các
cơ hội chia sẻ kinh nghiệm lâm sàng, nhưng cũng đòi hỏi giám sát và điều tra
khi nào có tai biến xảy ra nhằm rút kinh nghiệm và giúp cải tiến quá trình ra
quyết định của các thầy thuốc đang đối mặt với nhiều sự không chắc chắn.
Thứ năm, viên chức y tế đòi hỏi sự kiểm soát của nhà nước ở mức độ
cao
34
Bản chất đặc thù của ngành y tế cần phải sử dụng nhiều lao động và
nhu cầu đầu tư lớn cho viên chức y tế, do đó đòi hỏi sự kiểm soát, quan tâm
của nhà nước trong việc lập kế hoạch và điều phối các nguồn lực hỗ trợ.
Tiểu kết Chương 1
Trên cơ sở khảo cứu các công trình nghiên cứu, các quan điểm học
thuật, tác giả xây dựng một số khái niệm công cụ như quản lý, quản lý nhà
nước và quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế. Đồng thời, tác giả đã xây dựng
khung lý thuyết (nội dung của quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế)
để làm cơ sở kiểm chứng thực tiễn ở Chương 2. Mặt khác, tác giả đã phân tích
và luận chứng các yếu tố tác động đến quả trình quản lý viên chức y tế, gồm
các yếu tố như: yếu tố pháp luật, yếu tố nguồn lực và yếu tố đặc thù nghề
nghiệp; do vậy, trong quá trình quản lý hay đề xuất giải pháp quản lý cần phải
cân nhắc đến các yếu tố này, giúp việc quản lý dễ đạt được sự tối ưu.
35
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI VIÊN CHỨC NGÀNH Y TẾ TẠI TỈNH THANH HÓA
2.1. Khái quát chung hệ thống y tế của tỉnh Thanh Hóa
2.1.1. Thực trạng về chăm sóc sức khỏe nhân dân
Trong những năm qua, công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân
tỉnh Thanh Hóa đã đạt được những thành tựu quan trọng. Nhân dân ở các
vùng, miền trong tỉnh được tiếp cận và chăm sóc sức khỏe tốt hơn. Nhiều chỉ
tiêu về sức khỏe của nhân dân đã không ngừng được nâng lên nhất là những
năm gần đây. Một số chỉ tiêu cơ bản năm 2015 và năm 2019 đã có sự thay đổi
đáng kể như: Tỷ suất tử vong trẻ dưới 01 tuổi giảm từ 14,0‰ xuống còn
11,6‰; Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 05 tuổi thể cân nặng theo tuổi giảm
từ 18,2% xuống còn 15%; Tỷ lệ tiêm chủng đầy đủ duy trì trên 95%; tỷ lệ
trạm y tế có Bác sĩ tăng từ 80,1% lên 89%... [45]
Hệ thống y tế đã có bước phát triển mạnh từ tỉnh đến huyện, xã; mạng
lưới y tế cơ sở từng bước được củng cố; nhiều dịch bệnh nguy hiểm được phát
hiện, khống chế và ngăn chặn kịp thời; các dịch vụ y tế cao được ứng dụng
thành công ở nhiều cơ sở y tế kể cả tuyến huyện và tuyến tỉnh; cơ sở vật chất,
điều kiện làm việc, trang thiết bị y tế đã từng bước được cải thiện; trình độ đội
ngũ cán bộ y tế ở các tuyến ngày càng được nâng cao, đáp ứng nhu cầu nâng
cao chất lượng cung cấp dịch vụ y tế cho nhân dân.
Tuy nhiên công tác Bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân trong tỉnh
vẫn còn những khó khăn hạn chế như: Chất lượng dịch vụ y tế ở nhiều cơ sở y
tế chưa đáp ứng được nhu cầu; cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế vẫn còn thiếu
và chưa đồng bộ; đội ngũ cán bộ y tế có trình độ cao còn thiếu, cơ cấu nhân
lực chưa hợp lý; công tác xã hội hóa y tế phát triển mạnh nhưng chưa đồng
đều; hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe chưa đem lại được hiệu quả
như mong muốn... Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, hệ thống y tế Thanh Hóa
36
cũng như toàn ngành Y tế trong cả nước đang phải đối mặt với nhiều thay đổi
về định hướng các chính sách như: hạn chế đầu tư công tiến tới cắt giảm toàn
bộ nguồn lực của các Chương trình mục tiêu Y tế quốc gia vào sau năm 2015,
chuyển đổi và kiện toàn mô hình tổ chức của các đơn vị y tế dự phòng tuyến
tỉnh cùng các đơn vị y tế tuyến huyện. Việc tuyển dụng và sử dụng nhân lực
trong các đơn vị sự nghiệp y tế cũng đang có nhiều thay đổi. Đáng chú ý là sự
đổi mới về phương thức quản lý các đơn vị sự nghiệp y tế theo phương châm
quản lý dịch vụ công, đẩy mạnh tự chủ, cổ phần hóa và hạch toán đầy đủ giá
dịch vụ ...
Giai đoạn 2015 - 2020, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên của tỉnh bình quân
hàng năm dưới 0,65%. Năm 2016, dân số của tỉnh là khoảng 3.528.000 người.
Tuy nhiên qua điều tra dân số năm 2019 tại Thanh Hóa có 3.664.000 người;
tuổi thọ trung bình của tỉnh năm 2015 là 73,5 đến năm 2020 dự kiến đạt 74.
Trên địa bàn tỉnh có 8 dân tộc chính, bao gồm: Kinh (83,46%), Mường, Thái,
Mông, Thổ, Dao, Khơ mú, Tày. Thanh Hóa có nguồn nhân lực trong độ tuổi
lao động dồi dào do quy mô dân số lớn. Phần lớn nhân lực ở độ tuổi từ 18 đến
dưới 40 (chiếm 54,7%) đã qua giáo dục THCS, THPT có điều kiện tổ chức
đào tạo, dạy nghề và thu hút vào thị trường lao động. Nguồn lao động dồi dào
là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội của địa phương trong thời
gian tới song cũng là sức ép lớn đối với Thanh Hóa trong vấn đề đảm bảo
chăm sóc và nâng cao sức khỏe cho người lao động.[45]
Trong những năm qua, các chỉ số cơ bản của hệ thống y tế và tình trạng
sức khoẻ của nhân dân trong tỉnh đã có nhiều cải thiện đáng kể. Mặc dù chưa
loại trừ được bệnh sởi, bệnh dại nhưng đã kiểm soát tốt các đợt cao điểm
bùng phát bệnh sởi diễn ra trong phạm vi toàn tỉnh, không để xảy ra các
trường hợp tử vong do bệnh sởi và bệnh dại. Đã loại trù được bệnh uốn ván sơ
sinh, bệnh tả; số người bị sốt rét, tỷ lệ mắc lao hàng năm liên tục giảm, không
để xảy ra tử vong do sốt rét, tỷ lệ bệnh nhân lao được điều trị khỏi đạt 99%, tỷ
37
lệ phụ nữ có thai được khám đủ ba (03) lần vào đúng chu kỳ đạt trên 90%
vượt chỉ tiêu đề ra.[45] Tuy nhiên vẫn còn một vài chỉ số đang thấp hơn so
với mức trung bình của toàn quốc và khu vực, thấp hơn so với chỉ tiêu đã
được quy hoạch và chưa tương xứng với mức độ phát triển kinh tế xã hội của
địa phương trong hiện tại cũng như trong tương lai.
2.1.2. Thực trạng cơ sở khám, chữa bệnh của tỉnh Thanh Hóa
2.1.2.1. Tuyến tỉnh
Sở Y tế: Sở Y tế là cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh có chức
năng tham mưu, giúp UBND tỉnh QLNN về y tế, bao gồm: y tế dự phòng;
khám bệnh, chữa bệnh; phục hồi chức năng; giám định y khoa, pháp y, pháp y
tâm thần; y dược cổ truyền; trang thiết bị y tế; dược; mỹ phẩm; an toàn thực
phẩm; bảo hiểm y tế; dân số - kế hoạch hóa gia đình; sức khỏe sinh sản và
công tác y tế khác trên địa bàn tỉnh. Sở Y tế chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ
chức, biên chế và hoạt động của UBND tỉnh, đồng thời chịu sự chỉ đạo,
hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Bộ Y tế. Cơ cấu
tổ chức của Sở Y tế bao gồm: Lãnh đạo Sở: Giám đốc và các Phó Giám đốc;
07 Phòng chức năng của Sở.
Chi cục trực thuộc Sở Y tế: gồm Chi cục Dân số Kế hoạch hóa gia đình
và Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm.
Các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở, gồm:
(i) Trung tâm y tế tuyến tỉnh: 04 Trung tâm: Kiểm soát bệnh tật; Kiểm
nghiệm; Giám định Y khoa và Pháp Y.
(ii) Mạng lưới khám chữa bệnh, phục hồi chức năng và cấp cứu:
Mạng lưới khám chữa bệnh, phục hồi chức năng: 13 bệnh viện tuyến
tỉnh: Đa khoa tỉnh; Nhi; Phụ sản; Ung bướu; Mắt; Nội tiết; Da Liễu; Tâm
thần; Phổi; Y học cổ truyền; Phục hồi chức năng; Đa khoa Khu vực Tĩnh Gia;
Đa khoa khu vực Ngọc Lặc.
Mạng lưới cấp cứu: Tại các Bệnh viện có cấp cứu trong viện và cấp
38
cứu 115 tuyến tỉnh.
2.1.2.2. Tuyến huyện, thị xã, thành phố
Phòng Y tế: Có 27/27 Phòng Y tế thuộc UBND huyện, thị xã, thành
phố.
Đơn vị sự nghiệp Y tế trên địa bàn huyện, thị xã, thành phố, gồm:
Khối Khám chữa bệnh: 25 Bệnh viện đa khoa đa khoa tuyến huyện:
TP. Thanh Hóa; TP. Sầm Sơn; Thị xã Bỉm Sơn; Hoằng Hóa; Quảng Xương;
Nông Cống; Hậu Lộc; Nga Sơn; Hà Trung; Thiệu Hóa; Đông Sơn; Yên Định;
Vĩnh Lộc; Thọ Xuân; Triệu Sơn; Như Thanh; Như Xuân; Thường Xuân;
Lang Chánh; Bá Thước; Thạch Thành; Cẩm Thủy; Quan Sơn; Quan Hóa;
Mường Lát.
Khối Trung tâm y tế huyện: 27 Trung tâm Y tế 02 chức năng: TP.
Thanh Hóa; TP. Sầm Sơn; Thị xã Bỉm Sơn; Hoằng Hóa; Quảng Xương; Nông
Cống; Hậu Lộc; Nga Sơn; Hà Trung; Thiệu Hóa; Đông Sơn; Yên Định; Vĩnh
Lộc; Thọ Xuân; Triệu Sơn; Như Thanh; Như Xuân; Thường Xuân; Lang
Chánh; Bá Thước; Thạch Thành; Cẩm Thủy; Quan Sơn; Quan Hóa; Mường
Lát; Ngọc Lặc; Tĩnh Gia.
2.1.2.3. Tuyến xã, phường, thị trấn
Đối với tuyến khám, chữa bệnh cấp cơ sở của tỉnh Thanh Hóa, hiện
gồm có 559 trạm y tế thuộc 27 trung tâm y tế huyện, thị xã, thành phố quản lý
(496 trạm y tế xã, 34 trạm y tế phường, 29 trạm y tế thị trấn). [45]
2.1.2.4. Các đơn vị y tế bộ ngành, trung ương trên địa bàn tỉnh
Trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa hiện có hai (02) bệnh viện Trung ương,
là: Bệnh viện 71 Trung ương quy mô 410 giường bệnh và Bệnh viện Điều
dưỡng Phục hồi chức năng Trung ương 310 giường bệnh cùng tham gia vào
hoạt động khám chữa bệnh cho người dân trong tỉnh.
Ngoài ra, còn có một số cơ sở y tế ngành khác như: quân y tỉnh đội,
Bệnh viên Công an tỉnh Thanh Hóa quy mô 60 giường bệnh, trạm y tế thuộc
39
các công ty, xí nghiệp, công nông trường… thực hiện nhiệm vụ chăm sóc sức
khoẻ ban đầu cho cán bộ, công nhân viên chức của các đơn vị.
2.1.2.5. Các Bệnh viện ngoài công lập
Tính đến thời điểm hiện nay trên địa bàn toàn tỉnh có 1.375 cơ sở hành
ngề y, 2.961 cơ sở hành nghề dược tư nhân; 59 phòng khám đa khoa, 774
phòng khám chuyên khoa, 443 phòng chẩn trị y học cổ truyền và bài thuốc
gia truyền, 83 cơ sở dịch vụ y tế, 98 cơ sở bán buôn thuốc, 396 nhà thuốc,
2.321 quầy thuốc, 84 cơ sở kinh doanh thuốc y học cổ truyền và có 16 bệnh
viện tư nhân với 2.815 giường bệnh (10 bệnh viện đa khoa và 06 bệnh viện
chuyên khoa). [45]
Bảng 1. Các cơ sở khám, chữa bệnh ngoài công lập
trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa [45]
Địa điểm Quy Năm (Huyện, thị mô TT Đơn vị hoạt xã, thành phố) giường động bệnh
1 Bệnh viện ĐK Hợp Lực TP. Thanh Hóa 2004 800
2 Bệnh viện Mắt Bắc Trung Nam TP. Thanh Hóa 2008 40
3 Bệnh viện Mắt Bình Tâm TP. Thanh Hóa 2008 40
4 Bệnh viện Trĩ Tâm An TP. Thanh Hóa 2008 60
5 Bệnh viện ĐK Hàm Rồng Hoằng Hóa 2012 150
6 Bệnh viện ĐK Thanh Hà TP. Thanh Hóa 2012 290
7 Bệnh viện ĐK Tâm Đức Nông Cống 2013 150
8 Bệnh viện ĐK Trí Đức Thành Yên Định 2013 250
9 Bệnh viện ĐK ACA Bỉm Sơn TX. Bỉm Sơn 2014 200
10 Bệnh viện ĐK Phúc Thịnh TP. Thanh Hóa 2014 300
11 Bệnh viện Mắt Thanh An TP. Thanh Hóa 2017 40
40
Địa điểm Quy Năm (Huyện, thị mô TT Đơn vị hoạt xã, thành phố) giường động bệnh
2018 100 12 Bệnh viện Đa khoa Đại An Thiệu Hóa
2019 250 13 Bệnh viện ĐKQT Hợp Lực Tĩnh Gia
2019 99 14 Bệnh viện đa khoa Hải Tiến Hoằng Hóa
25 15 Bệnh viện Mắt Thanh Tâm TP. Thanh Hóa 2019
21 16 Bệnh viện Mắt Lam Kinh TP. Thanh Hóa 2019
2.2. Thực tiễn Quản lý Nhà nước đối với viên chức ngành y tế ở Thanh
Hóa
2.2.1. Thực tiễn về tổ chức, quản lý và ban hành văn bản pháp luật
Đổi mới và hoàn thiện hệ thống y tế theo hướng công bằng, hiệu quả và
phát triển, tạo cơ hội thuận lợi cho mọi người dân được bảo vệ, chăm sóc và
nâng cao sức khoẻ với chất lượng ngày càng cao. Quan tâm phát triển các
dịch vụ y học với công nghệ, kỹ thuật cao; phát triển hài hòa giữa y tế phổ cập
với y tế chuyên sâu, kết hợp phát triển y học hiện đại với y học cổ truyền.
Thúc đẩy các cơ sở y tế công lập và ngoài công lập được phát triển về quy mô
và chất lượng, nâng cấp các cơ sở y tế đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
Hoàn thiện tổ chức hệ thống y tế theo các quy hoạch chung và quy
hoạch chuyên ngành đã được phê duyệt và các văn bản quy định về tổ chức
bộ máy trong hệ thống y tế của Chính phủ, của Bộ Y tế, của các Bộ, Ngành
chức năng song cần phải đảm bảo phù hợp với điều kiện thực tế của địa
phương. Tiếp tục đầu tư nâng cấp các cơ sở y tế, đặc biệt là mạng lưới y tế cơ
sở và y tế dự phòng. Đồng thời, chú trọng phát triển hệ thống thông tin y tế tại
các đơn vị, thuộc các tuyến với việc ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại
41
nhằm đáp ứng đầy đủ, chính xác và kịp thời nhu cầu thông tin phục vụ quản
lý, điều hành và giám sát thực hiện các hoạt động y tế trên địa bàn.
Mặt khác, Thanh Hóa đẩy mạnh công tác cải cách hành chính nhằm cải
thiện, tăng cường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý ngành đáp ứng nhu cầu
chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân.
Ban hành và thực hiện các chính sách ưu đãi trong đào tạo, tuyển dụng
và sử dụng đối với viên chức y tế công tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng ven
biển, hải đảo. Tranh thủ tối đa sự hỗ trợ quốc tế cũng như của các tỉnh lân cận
đối với việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực y tế.
2.2.2. Thực tiễn về công tác tổ chức thực hiện
Kiện toàn đội ngũ cán bộ y tế, cân đối nhu cầu nhân lực y tế sao cho
phù hợp về số lượng, cơ cấu, chất lượng theo quy định đối với từng tuyến,
lĩnh vực và điều kiện cụ thể của từng đơn vị. Nâng cao trình độ cán bộ theo
hướng hoàn thiện các tiêu chuẩn về xếp hạng đơn vị, có tính tới sự kế thừa
phát triển về nhân lực giữa các giai đoạn.
Một số giải pháp cụ thể, bao gồm: Rà soát nhân lực về số lượng, cơ
cấu, trình độ phát hiện những bất cập trong bố trí, sử dụng nhân lực của các
cơ sở y tế. Xác định nhu cầu về nhân lực của từng cơ sở y tế, từng lĩnh vực,
từng tuyến. Xây dựng kế hoạch đào tạo và tuyển dụng để điều chỉnh đội ngũ
cán bộ phù hợp cho từng đơn vị, từng lĩnh vực, từng tuyến và trong toàn hệ
thống với tầm nhìn cả ngắn hạn và dài hạn. Huy động cán bộ y tế đã nghỉ hưu
tham gia công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân trên địa bàn.
2.2.3. Thực tiễn về chế độ, chính sách đãi ngộ đối với viên chức y tế
Xây dựng các chính sách thu hút, đãi ngộ vượt trội để tích cực phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho hệ thống y tế toàn tỉnh. Tinh giản bộ
máy biên chế, phát huy hiệu lực hiệu quả của tổ chức, bộ máy. Triển khai
rộng rãi các hợp đồng gói dịch vụ đối với các dịch vụ sử dụng lao động phổ
thông, lao động kỹ thuật đơn giản.
42
Hàng năm xây dựng kế hoạch về đào tạo liên tục, bồi dưỡng chuyên
môn, trình độ quản lý nhà nước cho cán bộ y tế. Chú trọng công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng, nâng cao đạo đức nghề nghiệp của cán bộ y tế. Phát triển
mô hình liên kết đào tạo nguồn nhân lực với các trường đại học y, dược trong
nước, trong khu vực để mở các khóa đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn
cho cán bộ y tế ngay tại địa phương. Phối hợp với Phân hiệu Đại học Y Hà
Nội trong việc đào tạo nguồn nhân lực của một số mã ngành chuyên môn cho
ngành.
2.2.4. Thực tiễn đào tạo nguồn nhân lực y tế
Đào tạo đại học, sau đại học và đào tạo nâng cao
Đào tạo bác sĩ, dược sĩ đại học hệ chính quy: Cần thực hiện các giải
pháp nhằm định hướng và hỗ trợ cho học sinh phổ thông có lực học giỏi, khá
trong tỉnh thi tuyển vào các trường đại học Y, Dược để tạo nguồn nhân lực có
trình độ chuyên môn cao cho ngành. Tỉnh cần ban hành một số chính sách hỗ
trợ phù hợp đối với nhóm đối tượng này trong quá trình đào tạo cũng như thu
hút tuyển dụng, sử dụng sau khi tốt nghiệp.
Đào tạo sau đại học và đào tạo nâng cao cần phải được thực hiện với
nhiều hình thức: Tập trung, đào tạo tại chỗ, đào tạo chuyển giao kỹ thuật. Các
bệnh viện tuyến tỉnh thực hiện Hợp đồng liên kết đào tạo với các bệnh viện
Trung ương để nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề cho viên chức y tế
theo hình thức “cầm tay chỉ việc”, cử đi đào tạo hoặc mời cán bộ tuyến trên
về chuyển giao kỹ thuật tại chỗ hoặc thực hiện theo Đề án 1816, Đề án Bệnh
viện vệ tinh của Bộ Y tế. Ưu tiên các hoạt động về đào tạo cả ê kíp làm việc
trong chuyển giao kỹ thuật.
Đào tạo liên thông lên đại học: Chọn lọc và đào tạo có trọng tâm, định
hướng đối với một số chức danh chuyên môn như: Cử nhân điều dưỡng, kỹ
thuật viên y với các hình thức đào tạo tập trung hoặc đào tạo tại chỗ...
43
Đào tạo cán bộ y tế
Phân hiệu trường Đại học Y Hà Nội cần nâng cao chất lượng đào tạo
các chuyên ngành để đảm bảo cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cho các
cơ sở y tế trên địa bàn và một số tỉnh lân cận.
Đào tạo nhân viên y tế thôn bản
Hàng năm có kế hoạch đào tạo, tập huấn chuyên môn cho nhân viên y
tế thôn, bản, cộng tác viên dân số để từng bước nâng cao năng lực của lực
lượng này tại các thôn bản, đặc biệt là kỹ năng truyền thông.
Đào tạo cán bộ quản lý
Tiếp tục cử cán bộ đi học nâng cao trình độ về quản lý nhà nước, lý
luận chính trị, tin học, ngoại ngữ bằng các hình thức đào tạo phù hợp.
2.3. Đánh giá chung về Quản lý Nhà nước đối với viên chức ngành y tế tại
Thanh Hóa
2.3.1. Kết quả và nguyên nhân
2.3.1.1. Kết quả
Mạng lưới y tế được củng cố và từng bước hoàn thiện. Thực hiện đổi
mới cơ chế quản lý, giám sát việc thực hiện các quy chế, chế độ chuyên môn,
giáo dục y đức trong lĩnh vực khám chữa bệnh (đặc biệt là tinh thần phục vụ
người bệnh), tăng cường kỹ thuật tại các tuyến. Các hoạt động về quản lý tài
chính, thu hút các nguồn đầu tư phát triển ngành được tăng cường và đã đạt
những kết quả tốt hơn. Năm 2011 trên địa bàn tỉnh có 37 Bệnh viện công lập
thuộc tỉnh quản lý (25 Bệnh viện tuyến huyện và 12 Bệnh viện tuyến tỉnh),
đến năm 2019, có 38 Bệnh viện (thành lập 01 bệnh viện ung bướu tỉnh) [45]
góp phần vào hoạt động chăm sóc sức khỏe nhân dân trên địa bàn tỉnh.
Hệ thống Bệnh viện công lập ngày một được nâng cao, đến hết năm
2019 trên địa bàn tỉnh đã có 05 Bệnh viện hạng I và 30 hạng II và 03 hạng III,
từ 5.720 giường bệnh năm 2011 đến nay đã có 11.210 giường bệnh (6.750
giường kế hoạch và 4.460 giường bệnh điều chỉnh theo cơ chế tự chủ). [45]
44
Hiện nay có sáu (06) bệnh viện trở thành bệnh viện vệ tinh của các Bệnh viện
Trung ương là: Bệnh viện đa khoa Tỉnh, Bệnh viện đa khoa khu vực Tĩnh
Gia, Bệnh viện đa khoa khu vực Ngọc Lặc, Bệnh viện đa khoa huyện Quảng
Xương, Bệnh viện đa khoa Hợp Lực, Bệnh viện Ung bướu. Tại tuyến tỉnh,
các bệnh viện được đầu tư tương đối hoàn chỉnh, nhiều bệnh viện có cơ sở vật
chất khang trang, hiện đại như Bệnh viện Nhi, Bệnh viện Mắt, Bệnh viện Nội
tiết, Bệnh viện ung bướu các bệnh viện khác đều đang được tiến hành cải tạo
nâng cấp mở rộng. Thời gian qua các bệnh viện đã chủ động liên kết, phối
hợp với các bệnh tuyến trung ương trong triển khai các kỹ thuật mới, kỹ thuật
chuyên sâu thông qua các hoạt động của Đề án 1816, Đề án bệnh viện vệ tinh.
Nhiều tiến bộ khoa học mới được nghiên cứu phục vụ công tác khám chữa
bệnh, hàng loạt các kỹ thuật chuyên sâu đã được triển khai ứng dụng tại các
bệnh viện tuyến tỉnh như: các bệnh viện trong tỉnh đã thực hiện nhiều kỹ thuật
mới trong công tác khám chữa bệnh tại bệnh viện tuyến tỉnh: Bệnh viện Đa
khoa tỉnh (phẫu thuật nội soi cắt dạ dày, đốt sóng cao tần RFA điều trị u phổi,
Phẫu thuật nội soi vá lỗ thông liên nhĩ, Chụp và can thiệp mạch não, Sinh
thiết mù màng phổi, Nghiệm pháp hồi phục phế quản với thuốc giãn phế
quản, kỹ thuật bơm xi măng sinh học trong điều trị các bệnh xương khớp,
Ghép thận từ người cho sống), Bệnh viện phổi (Sốc điện ngoài lồng ngực cấp
cứu), Bệnh viện Y dược cổ truyền (tán sỏi ngoài cơ thể), Bệnh viện Mắt (ghép
giác mạc)... Số kỹ thuật mới được thực hiện lần đầu tại cơ sở khám chữa bệnh
từ tuyến tỉnh đến tuyến huyện trong tỉnh.
Tại tuyến huyện hiện nay 100% các kỹ thuật theo phân tuyến của Bộ Y
tế đối với bệnh viện tuyến 3 đã được triển khai thực hiện. Trong đó có nhiều
bệnh viện đã thực hiện được từ 70% - 100% kỹ thuật của bệnh viện tuyến 2
như: Kỹ thuật đặt nội khí quản, sốc nâng mạch, cắt amidan bằng sóng điện
tần, mổ đục thủy tinh thể bằng phương pháp phaco; Phẫu thuật nội soi ổ bụng;
Nội soi tiêu hóa, nội soi tai mũi họng; Siêu âm tim, siêu âm mầu 4D; Chụp X-
45
quang kỹ thuật số (CR); Chụp cắt lớp vi tính (CT-Scaner); Chạy thận nhân
tạo...[45] Chất lượng khám chữa bệnh tại tuyến huyện ngày càng được nâng
cao nhưng vẫn chưa đáp ứng hoàn toàn được yêu cầu ngày một cao của người
bệnh. Các bệnh viện đã được cải tạo và mở rộng khang trang hơn trước, tuy
nhiên cơ sở hạ tầng ở một số nơi đã xuống cấp, chưa mang tính đồng bộ, thiếu
quy hoạch phù hợp với phát triển quy mô giường bệnh như hiện nay; nhiều
trang thiết bị cũ, lạc hậu; đội ngũ y, bác sỹ có chuyên môn giỏi, chuyên môn
sâu còn thiếu.
Các phòng khám đa khoa khu vực thời gian qua được đầu tư cơ sở vật
chất và trang thiết bị đáp ứng tốt nhiệm vụ chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho
nhân dân tại các khu vực xa trung tâm, với các hoạt động như: tư vấn, kiểm
tra sức khỏe định kỳ, chăm sóc thai sản, điều trị các bệnh thông thường, góp
phần giảm tải cho các bệnh viện tuyến huyện. Bên cạnh đó, phối hợp với các
trạm y tế xã trong khu vực thực hiện hiệu quả các chương trình mục tiêu Quốc
gia về y tế như: Tiêm chủng mở rộng, phòng, chống bệnh tâm thần, bệnh sốt
rét, HIV/AIDS, cao huyết áp, đái tháo đường.
2.3.1.2. Nguyên nhân
(i) Quản lý hiệu quả và yêu cầu cao đối với viên chức y tế
Thanh Hóa từng bước xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ y tế có y
đức, có tinh thần thái độ phục vụ tận tụy người bệnh, phục vụ cộng đồng; bảo
đảm số lượng và chất lượng đào tạo theo mục tiêu đề ra; bồi dưỡng nâng cao
trình độ chuyên môn; thực hiện điều chỉnh cơ cấu nguồn nhân lực để khắc
phục sự mất cân đối giữa các lĩnh vực. Đồng thời, thường xuyên điều chỉnh,
bổ sung quy hoạch phát triển nguồn nhân lực y tế về số lượng và chất lượng;
nâng cao trình độ người có trình độ sơ cấp, trung cấp lên cao đẳng vào năm
2021 hướng tới mục tiêu ngành y tế không có nhân lực có trình độ trung cấp.
Tăng cường nhân lực y tế cho y tế cơ sở. Chú trọng phát triển nhân lực y tế có
trình độ cao trong và ngoài nước; mở rộng đào tạo điều dưỡng trình độ đại
46
học, cao đẳng, tiến tới đạt cơ cấu hợp lý giữa bác sỹ và điều dưỡng, kỹ thuật
viên…, bảo đảm cân đối giữa đào tạo và sử dụng nhân lực y tế, bảo đảm cơ
cấu điều dưỡng/bác sỹ phù hợp để thực hiện chăm sóc sức khỏe toàn diện cho
người bệnh.
Về chính sách, Thanh Hóa ban hành các chính sách ưu đãi nhằm thu
hút nhân lực y tế có trình độ chuyên môn cao, chuyên sâu yên tâm công tác
lâu dài tại địa phương, người có trình độ chuyên môn làm việc tại y tế cơ sở,
vùng khó khăn. Có chế độ đặc thù đối với người làm việc trong các cơ sở y tế
chuyên khoa tâm thần, lao, phong và các bệnh mới (trầm cảm, tự kỷ, bệnh
tuổi già,...).
(ii) Tổ chức và phân phối hiệu quả nguồn lực của hệ thống cơ sở
khám chữa bệnh hiện nay
Thời gian qua cơ sở vật chất các bệnh viện được quan tâm đầu tư từ các
nguồn vốn khác nhau đáp ứng tối thiểu nhu cầu khám chữa bệnh của nhân
dân. Tuy nhiên, do tỉ lệ giường bệnh/vạn dân thấp nên trình trạng quá tải vẫn
diễn ra ở hầu hết các bệnh viện. Tính đến hết năm 2016 tỉ lệ giường bệnh/vạn
dân toàn tỉnh đạt 25,6 giường, tỉ lệ bác sĩ/vạn dân đạt 7,8 bác sĩ thấp hơn mức
bình quân trung của cả nước (Bao gồm cả y tế ngoài công lập và y tế bộ
ngành khác trên địa bàn).
Tại các bệnh viện công lập, trong giai đoạn 2014-2016, mặc dù số
giường bệnh thực kê cao hơn từ 1,5 đến 2,0 lần so với giường bệnh kế hoạch,
theo thống kê của ngành y tế tổng số giường bệnh thực kê của các bệnh viện
công lập tỉnh tại thời điểm 31/12/2016 là 14.601 giường, trong đó có 11.236
giường đạt tiêu chuẩn về điều kiện cơ sở vật chất tối thiểu. [45] Số người làm
việc được giao hiện nay thấp hơn so với quy định tại Thông tư liên tịch số
08/2007/TTLT-BYT-BNV ngày 05/6/2007 của Bộ Y tế, Bộ Nội vụ về hướng
dẫn định mức biên chế trong các đơn vị sự nghiệp y tế công lập, đây là một
trong những bất cập gây khó khăn cho việc nâng cao chất lượng dịch vụ.
47
Đội ngũ cán bộ có trình độ bác sĩ ở các bệnh viện đều thiếu, đặc biệt là
bác sĩ có trình độ chuyên môn sâu, tay nghề giỏi. Lực lượng lao động chưa
tương xứng với số lượt bệnh nhân điều trị tại Bệnh viện, chưa đủ so với định
mức quy định tại Thông tư liên tịch số 08/TTLT-BYT-BNV ngày 05/6/2007
của Bộ Y tế, Bộ Nội vụ về hướng dẫn định mức biên chế sự nghiệp trong các
cơ sở y tế nhà nước; Cơ cấu chủng loại cán bộ chưa hợp lý và còn nhiều bất
cập.
Đến hết năm 2016 toàn tỉnh có 8.569 người đang làm việc tại các bệnh
viện công lập, trong đó: Biên chế thực hiện: 5.759 người (được UBND tỉnh
giao là 6.011 người); Hợp đồng chuyên môn nghiệp vụ ngoài biên chế được
giao: 2.370 người; Hợp đồng theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP: 440 người.
Cơ cấu cụ thể như sau: Tỷ lệ Bác sỹ, điều dưỡng viên, hộ sinh viên, kỹ thuật
viên: Tính đến thời điểm hiện tại Thanh Hóa đạt tỷ lệ 10 bác sĩ/vạn dân (tính
chung cả trong và ngoài công lập). Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
ngành Y tế tính đến nay có 10.393 người; Trong đó: 2.887 người có trình độ
đại học (chiếm 27.78%), 808 thạc sĩ và chuyên khoa I (chiếm 7.77%), 117
tiến sĩ và chuyên khoa II (chiếm 1.13%). [45]
(iii) Thực hiện tự chủ tại các cơ sở khám, chữa bệnh khu vực công
Việc thực hiện cơ chế tự chủ tại các bệnh viện công lập trong tỉnh hiện
nay đang thực hiện theo Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của
Chính phủ và Quyết định số 2414/2011/QĐ-UBND ngày 25/7/2011, về việc
quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ
máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập cấp tỉnh quản lý
thời kỳ 2011-2015. Tuy nhiên, việc giao các đơn vị sự nghiệp công lập nói
chung và các bệnh viện công lập nói riêng tự chủ từ năm 2016 trở về trước
thực tế chỉ là thực hiện tự chủ về tài chính, chưa thực hiện tự chủ về giường
bệnh và biên chế.
48
Trong giai đoạn 2014-2016 các bệnh viện công lập thuộc tỉnh đã tự
đảm bảo được từ 23-85% nguồn kinh phí chi hoạt động thường xuyên, tỉ lệ tự
đảm bảo chi hoạt động thường xuyên bình quân tại tất cả các bệnh viện công
trong ngành năm 2014 là 71%, năm 2015 là 75% và năm 2016 là 76%. [45]
Về thực hiện nhiệm vụ, các đơn vị chủ động đề xuất việc đào tạo, phát
triển các dịch vụ kỹ thuật mới trên cơ sở nhiệm vụ chính trị được giao, nhu
cầu thực tế của người dân, các điều kiện thực tế của đơn vị cũng như nguồn
kinh phí triển khai thực hiện. Tuy nhiên, hiện nay các bệnh viện công lập
trong ngành chưa thực hiện tự chủ về tổ chức bộ máy.
Do tình trạng quá tải diễn ra tại hầu hết các bệnh viện công lập, để đáp
ứng thực tế nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng cao của nhân dân, đồng thời
khắc phục tình trạng thiếu hụt nhân lực ngoài số lượng người làm việc được
UBND tỉnh giao, ngành y tế đã cho phép các đơn vị kê thêm giường bệnh
(Năm 2016 là 8.051 giường bệnh), ký hợp đồng lao động làm việc chuyên môn
nghiệp vụ khám chữa bệnh với 2.370 người. Đối với số giường bệnh và nhân
lực tăng thêm này các bệnh viện tự đảm bảo nguồn thu để triển khai thực hiện,
chưa được Chủ tịch UBND tỉnh phê duyệt, nên chưa bảo đảm các quy định của
pháp luật về tự chủ giường bệnh và biên chế. Như vậy thực tế giai đoạn vừa
qua các bệnh viện đã thực hiện việc tự chủ toàn bộ đối với số giường bệnh tăng
thêm ngoài kế hoạch và số lượng người làm việc tăng thêm so với số lượng
được UBND tỉnh giao.
Ngoài ra các bệnh viện được chủ động thực hiện việc liên doanh liên
kết với các doanh nghiệp để thực hiện việc đầu tư trang thiết bị máy móc góp
phần nâng cao chất lượng dịch vụ.
Số lượng người làm việc được giao năm 2015, 2016, 2017 là 6.011; số
lượng người thực hiện đến 31/12/2016 là 5.759 người. Số lao động hợp đồng
làm chuyên môn nghiệp vụ ngoài biên chế được giao: 2.370 người; số lao
49
động hợp đồng theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP của Chính phủ được giao
và thực hiện là 440 người. [45]
Tất cả các bệnh viện công lập trong tỉnh hiện nay đang thực hiện cơ chế
tự chủ đối với đơn vị sự nghiệp công lập tự đảm bảo một phần chi hoạt động
thường xuyên. Theo quy định tại Nghị định số 43/2006/NĐ-CP, ngày
25/4/2006 của Chính phủ và Quyết định số 2414/2011/QĐ-UBND ngày
25/7/2011 của UBND tỉnh. Chủ động xây dựng Quy chế chi tiêu nội bộ hàng
năm, có sự thống nhất của tổ chức Đảng, tổ chức công đoàn và các đoàn thể.
Việc quản lý sử dụng các nguồn lực chi thường xuyên tại đơn vị được thực
hiện theo quy định trong Quy chế chi tiêu nội bộ. Sở Y tế, Sở Tài chính và
các ngành có liên quan thực hiên chức năng kiểm tra giám sát, hướng dẫn các
đơn vị thực hiện cơ chế tự chủ nhằm phát huy hiệu quả hoạt động tài chính
phục vụ chi thường xuyên. Các nguồn lực đầu tư từ ngân sách nhà nước, các
nguồn viện trợ tài trợ vẫn thực hiện theo đúng các quy định hiện hành. Ngoài
ra các bệnh viện đã tự đảm bảo nguồn kinh phí trong việc triển khai hoạt động
cho số giường bệnh kê thêm để phục vụ người dân.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1. Hạn chế
Về nguồn lực: đội ngũ cán bộ có trình độ Bác sĩ ở các bệnh viện đều
thiếu, đặc biệt là bác sĩ có trình độ chuyên môn sâu, tay nghề giỏi. Lực lượng
lao động chưa tương xứng với số lượt bệnh nhân điều trị tại Bệnh viện, chưa
đủ so với định mức quy định tại Thông tư liên tịch số 08/TTLT-BYT-BNV
ngày 05/6/2007 của Bộ Y tế, Bộ Nội vụ về hướng dẫn định mức biên chế sự
nghiệp trong các cơ sở y tế nhà nước; cơ cấu chủng loại cán bộ không hợp lý,
còn nhiều bất cập.
Về vấn đề tuyển dụng: chưa có cơ chế đối với việc tuyển dụng nguồn
nhân lực chất lượng cao, được đào tạo bài bản tại các cơ sở đào tạo uy tín
trong và ngoài nước, hay thu hút lực lượng bác sĩ tốt nghiệp chính quy về
50
công tác tại các cơ sở y tế. Các bệnh viện chưa được phê duyệt Đề án vị trí
việc làm, chỉ tiêu giường bệnh, biên chế tăng thêm thực hiện theo cơ chế tự
chủ làm cơ sở cho các bệnh viện thực hiện tự chủ, chủ động trong việc bố trí,
sắp xếp lực lượng lao động để nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và chống
quá tải bệnh viện. Thu nhập của người lao động chưa tương xứng với hiệu
quả, hiệu suất lao động nên chưa động viên được cán bộ viên chức phát huy
vai trò làm chủ.
Về chất lượng đội ngũ viên chức: hiện tại thiếu cả về số lượng và chất
lượng; phân bổ không đồng đều giữa các bộ phận, các tuyến; cơ cấu cán bộ
còn chưa hợp lý. Dẫn đến chất lượng hoạt động chưa được cao, chưa đáp ứng
được yêu cầu trong thực tế, cũng như hạn chế trong việc áp dụng khoa học kỹ
thuật. Năng lực của một số viên chức so với nhu cầu xã hội còn chưa cao,
nhất là trong việc chẩn đoán, điều trị và khai thác sử dụng các thiết bị hiện
đại; các biện pháp tự đào tạo còn ít được thực hiện hoặc hiệu quả thấp, dẫn
đến chất lượng khám chữa bệnh chậm chuyển biến so với yêu cầu; việc thực
hiện các quy chế chuyên môn một số mặt chưa chặt chẽ, chưa thường xuyên.
Về cơ chế lương bổng, phụ cấp: định mức phụ cấp nhìn chung còn
thấp, chưa thỏa đáng, chưa tương xứng với lao động đặc thù trong việc khám
chữa những bệnh có nguy cơ lây nhiễm cao. Định mức phụ cấp đã lạc hậu so
với mức lương tối thiểu và giá cả thị trường nhất là với một số phụ cấp có
cách tính chi trả chưa hợp lý (tính bằng tiền theo giá trị tuyệt đối). Các chế độ
phụ cấp hiện nay chưa bảo đảm được tính công bằng giữa lao động ngành Y
tế so với các ngành khác và chưa đủ sức hấp dẫn để thu hút đội ngũ viên chức
y tế. Chế độ chính sách đối với cán bộ làm công tác y tế vẫn chưa được hoàn
thiện đã phần nào khiến một số bộ phận cán bộ thiếu an tâm công tác. Mặc dù
Chính phủ đã có những biện pháp quyết liệt nhằm kiềm chế lạm phát, bình ổn
giá tuy nhiên điều kiện kinh tế khó khăn đã ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống
viên chức y tế.
51
Về cơ sở hạ tầng: Trang thiết bị, cơ sở hạ tầng đã được đầu tư, nâng
cấp song vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh của người dân cho
nên ảnh hưởng đến chất lượng chữa trị và nâng cao thay nghề của đội ngũ
viên chức y tế.
2.3.2.2. Nguyên nhân
Những hạn chế kể trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau,
trong đó có thể kể đến các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, nhận thức về hoạt động nghề nghiệp của đội ngũ viên chức
và cơ chế quản lý viên chức chưa đổi mới kịp với những thay đổi về nhiệm vụ
của nhà nước cung ứng các nhu cầu cơ bản, thiết yếu cho người dân trong
tỉnh. Tư duy về các hoạt động nghề nghiệp của viên chức vẫn mang dấu ấn
của thời kỳ bao cấp. Vị trí pháp lý của viên chức chưa được xác định rõ ràng;
chưa phân định giữa hoạt động quản lý nhà nước của công chức với hoạt động
nghề nghiệp của viên chức. Trong nhiều lĩnh vực, hoạt động nghề nghiệp của
viên chức còn có vi phạm về đạo đức, kỷ luật nghề nghiệp.
Thứ hai, tính chất, đặc điểm hoạt động nghề nghiệp của viên chức trong
các đơn vị sự nghiệp công lập chưa được tính đến trong cơ chế quản lý viên
chức. Việc quy định quyền, nghĩa vụ, những việc không được làm của viên
chức giống như đối với cán bộ, công chức đã hạn chế việc xây dựng đội ngũ
viên chức; hạn chế phát huy tài năng, sáng tạo của viên chức và chưa thu hút
nguồn nhân lực có chất lượng cao, tay nghề giỏi vào đơn vị sự nghiệp công
lập. Tuy nhiên, thực trạng này dễ nhận được sự hưởng ứng của các viên chức
yếu nghiệp vụ, hoặc ở cơ sở KCB tuyến huyện trở xuống, do sức cạnh tranh
kém, ít nhu cầu KCB. Quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức
chậm được đổi mới, chưa tương thích với cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm
của đơn vị sự nghiệp công lập. Từ ngày 01/7/2020, nhà nước đã bước đầu đổi
mới tuyển dụng viên chức từ lâu dài sang hợp đồng làm việc xác định thời
52
hạn nhưng việc tuyển dụng theo hợp đồng gắn với chỉ tiêu biên chế chưa thể
hiện triệt để tinh thần đổi mới về quản lý.
Thứ ba, hoạt động nghề nghiệp của đội ngũ viên chức hiện nay chƣa
được quản lý và kiểm soát chặt chẽ, thống nhất; những tiêu cực về tác phong,
lề lối làm việc của viên chức đã và đang làm giảm chất lượng phục vụ người
dân của một số đơn vị sự nghiệp công lập. Các biểu hiện thiếu tinh thần trách
nhiệm, yếu về năng lực và kém về trình độ nghề nghiệp, phiền hà, sách nhiễu
người dân vẫn tồn tại, làm ảnh hưởng đến lòng tin của người bệnh đối với y,
bác sĩ và nhân viên y tế.
Tiểu kết Chương 2
Kết quả nghiên cứu ở Chương 2 cho thấy, bên cạnh các thách thức
nghề nghiệp chung của ngành y tế thì Thanh Hóa cũng cho thấy thách thức
đến từ yếu tố địa phương như: là một tỉnh đông dân, phân bố dân cư rộng,
nhiều sắc tộc, việc đi lại ở phía Tây tỉnh rất khó khăn; những yếu tố này gián
tiếp ảnh hưởng đến việc đào tạo, tuyển dụng, thu hút và sử dụng viên chức
cho các cơ sở KCB tuyến dưới. Các điểm triển vọng mà Thanh Hóa đạt được
trong quản lý viên chức y tế được cải thiện theo hướng hiệu quả, thu hút được
nguồn nhân lực theo các phân khúc dịch vụ phù hợp với nhu cầu địa phương.
53
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIÊN CHỨC NGÀNH Y TẾ
TỈNH THANH HÓA
3.1. Quan điểm về quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế
3.1.1. Quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y tế phải phù hợp với yêu
cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Hiện nay, hệ thống pháp luật về y tế gồm 1137 văn bản quy phạm pháp
luật trực tiếp và gián tiếp điều chỉnh các hoạt động y tế. [2] Như vậy, ngành y
tế đã có được một hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh để điều chỉnh các
quan hệ xã hội nảy sinh liên quan đến lĩnh vực y tế như: Luật bảo vệ sức khỏe
nhân dân năm 1989, Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy
giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) năm 2006 (sửa đổi năm 2020),
Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006,
Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007, Luật Bảo hiểm y tế năm
2008 (sửa đổi năm 2014), Luật An toàn thực phẩm năm 2010, Luật Phòng,
chống tác hại của thuốc lá năm 2012, Luật Dược năm 2016, Luật Khám bệnh,
chữa bệnh năm 2017 (văn bản hợp nhất). Cùng đó, là hệ thống các văn bản
quản lý nhà nước về cán bộ, nhân viên y tế như Luật cán bộ, công chức năm
2008, Luật viên chức năm 2010.
Về phương diện quản lý theo kế hoạch, trong lĩnh vực y tế, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành khá nhiều chiến lược như: Chiến lược quốc gia về bảo
vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011-2020, tầm nhìn
đến năm 2030, Chiến lược Dân số Việt Nam giai đoạn 2001-2010 .. Đây là
các chiến lược mang tính tổng thể về ngành y tế. Tuy nhiên, trong từng lĩnh
vực, Thủ tướng Chính phủ lại ban hành các chiến lược riêng như Chiến lược
quốc gia về phát triển ngành dược giai đoạn đến năm 2020 và tầm nhìn đến
năm 2030, Chiến lược về Chăm sóc sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn
54
2011-2020 và một số chiến lược khác. Như vậy, việc ban hành các chiến lược
trên dẫn đến chồng chéo về mục tiêu, giải pháp và làm cho việc triển khai
thực hiện bị phân tán.
Bên cạnh đó, về quy hoạch, Thủ tướng Chính phủ cũng ban hành Quy
hoạch tổng thể phát triển hệ thống y tế Việt Nam giai đoạn đến năm 2010 và
tầm nhìn đến năm 2020 nhưng sau đó lại chuẩn bị có thêm quy hoạch khác
như Quy hoạch phát triển năm (05) bệnh viện tuyến Trung ương… dẫn đến
tính thống nhất của hệ thống quy hoạch bị thay đổi. Mặt khác, một số địa
phương cũng không tuân thủ đúng quy hoạch này làm cho quy hoạch bị ảnh
hưởng.
Nhà nước trong bất kỳ thể chế chính trị nào, hình thái tổ chức nào cũng
đều là người tổ chức và chịu trách nhiệm cao nhất về chăm sóc sức khỏe cho
người dân và Việt Nam cũng vậy. Tuy nhiên, tuy theo mô hình tổ chức nhà
nước, vấn đề trách nhiệm thực hiện được phân công khác nhau. Mô hình nhà
nước Việt Nam là đơn nhất nên việc phân công trách nhiệm cũng khác nhau.
Bộ trưởng Bộ Y tế là tư lệnh ngành nhưng không phải là người chịu trách
nhiệm duy nhất về vấn đề chất lượng, hiệu quả của công tác y tế. Do đó, phải
thực hiện nguyên tắc “Kết hợp quản lý nhà nước theo ngành với quản lý nhà
nước theo lãnh thổ”. [35] Xuất phát từ việc phân định chức năng khác nhau
giữa chính quyền trung ương và CQĐP.
Trên cơ sở xác định nội dung QLNN theo ngành, QLNN theo lãnh thổ
và phân tích chức năng QLNN về y tế cho thấy nhất thiết phải kết hợp quản lý
theo ngành với quản lý theo lãnh thổ. Trên cơ sở phân định rõ ràng chức năng
quản lý, các quy định về phân công, phân cấp và xây dựng nội dung, mức độ
quản lý theo lãnh thổ; nội dung, mức độ kết hợp quản lý theo ngành với quản
lý theo lãnh thổ nhằm phát huy cao độ nhất hiệu quả sử dụng nguồn lực của
cả nước, của từng vùng kinh tế, từng địa phương trong sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội, bảo đảm thống nhất lợi ích quốc gia và lợi ích từng địa
55
phương trong sự phát triển một cách có lợi nhất những lợi thế của địa phương.
Sự kết hợp và thống nhất hai mặt quản lý chủ yếu được thể hiện:
- Tổ chức sự điều hòa, phối hợp các hoạt động y tế trên phạm vi cả
nước cũng như trên từng đơn vị hành chính lãnh thổ, nhằm xây dựng và phát
triển hệ thống y tế một cách đồng bộ;
- Quản lý công việc chung, lợi ích chung của nhà nước về sự nghiệp y
tế, kết hợp hài hòa lợi ích chung cả nước và lợi ích của từng địa phương;
- Quản lý và phục vụ tốt những tổ chức và hoạt động của các cơ quan y
tế trực thuộc Bộ Y tế và các bộ, ngành khác đóng trên trên lãnh thổ để cũng
chăm lo cho sức khỏe của nhân dân địa phương;
- Song trùng trách nhiệm QLNN giữa Bộ Y tế với UBND tỉnh. Sự kết
hợp giữa quản lý theo ngành của các cơ quan QLNN ở trung ương và quản lý
trên đơn vị hành chính lãnh thổ của CQĐP về y tế được pháp luật quy định;
các CQNN trung ương và địa phương chấp hành không được tùy tiện, thay
đổi hay làm trái. Tuy nhiên, vấn đề ai, tổ chức chịu trách nhiệm cao nhất nếu
xảy ra những vấn đề về y tế như:
(i) Chế độ tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, kỷ luật công
chức, viên chức y tế. Trên cơ sở Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức,
Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân và theo phân cấp quản
lý, việc tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, kỷ luật công chức, viên
chức y tế đều thuộc về thẩm quyền của CQĐP, Bộ Y tế không có thẩm quyền
can thiệp và khi các tiêu chuẩn, chức danh công chức, viên chức y tế do Bộ Y
tế, Bộ Nội vụ ban hành mà địa phương thực hiện chưa đúng, Bộ Y tế cũng chỉ
kiến nghị mà không có thẩm quyền giải quyết cụ thể;
(ii) Chế độ tài chính dành cho công tác y tế. Theo phân cấp ngân sách
nhà nước hiện nay, các tỉnh đều được quyền phân chia ngân sách được cấp
cho các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, y tế… trên địa bàn tỉnh. Trong lĩnh
vực y tế, để tuân thủ quy chuẩn bệnh viện, cơ sở y tế, các quy định chuyên
56
môn, kỹ thuật y tế, ngân sách của tỉnh phải đáp ứng đầy đủ để thực hiện đúng
các quy định đó. Ngoài ra, nhà nước còn có cơ chế chương trình mục tiêu
quốc gia, các dự án quốc tế (viện trợ, vốn vay ODA), trái phiếu Chính phủ để
chi cho hệ thống y tế ngoài nguồn ngân sách nhà nước. Như vậy, CQĐP phải
chịu trách nhiệm về các điều kiện kinh phí cho hoạt động y tế trên địa bàn
lãnh thổ phụ trách;
(iii) Tổ chức thi hành pháp luật về y tế. Với phương thức quản lý hiện
nay, CQĐP được toàn quyền tổ chức thi hành pháp luật trên địa bàn và chịu
trách nhiệm về toàn bộ các vấn đề y tế xảy ra. Công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật, công tác thanh tra, kiểm tra, mối quan hệ phối hợp giữa Sở Y tế với
UBND huyện, xã cần phải được tiến hành đồng bộ dưới gậy chỉ huy của
UBND tỉnh. Vấn đề cơ bản là các cơ sở y tế, các cơ quan chuyên môn, cơ
quan quản lý nhà nước phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật
về y tế;
(iv) Trách nhiệm công vụ trong QLNN về y tế. Mô hình hệ thống tổ
chức nhà nước hiện nay là phân chia quyền lực giữa trung ương và địa
phương theo nguyên tắc song trùng trực thuộc: Các cơ sở y tế vừa trực thuộc
Bộ về quản lý chuyên môn y tế, vừa trực thuộc lãnh đạo địa phương về tổ
chức, nhân lực, tài chính…. Mô hình này còn được gọi là mô hình Xô viết
(Bộ thì quản lý ngành dọc, địa phương quản lý ngành ngang). Song trùng trực
thuộc thì chế độ trách nhiệm phải được xác lập song trùng. Tuy nhiên, trên
thực tế, việc xác định trách nhiệm công vụ chưa rõ ràng, cụ thể, minh bạch
nên khi có vấn đề xảy ra, việc quy trách nhiệm công vụ không dễ dàng. Như
vậy, vấn đề đặt ra là cần thiết phải luật hóa trách nhiệm công vụ để quy trách
nhiệm tập thể, cá nhân (Bộ trưởng, Giám đốc Sở, UBND…) một cách cụ thể,
rõ ràng, minh bạch trên cơ sở giám sát của nhân dân và các cơ quan chức
năng theo mô hình tổ chức nhà nước đã được hiến định hiện nay.
57
3.1.2. Quản lý nhà nước đối với viên chức y tế phải nhằm đạt hiệu quả hoạt
động của đội ngũ viên chức y tế
Để xây dựng nền y tế Việt Nam công bằng, hiệu quả và phát triển, đáp
ứng yêu cầu chăm sóc sức khoẻ ngày càng đa dạng với chất lượng ngày càng
cao của nhân dân đòi hỏi phải tăng cường hiệu lực, hiệu quả của việc QLNN
bằng pháp luật, góp phần đưa các hoạt động y tế vào trật tự, kỷ cương, kỷ luật
và phát triển ổn định. Bên cạnh việc đưa pháp luật về y tế vào cuộc sống, phải
gắn thuyết phục, động viên, khuyến khích các chủ thể tham gia giải quyết các
vấn đề của lĩnh vực y tế.
Phương pháp giáo dục, thuyết phục được áp dụng chủ yếu trên cơ sở
đặc thù của ngành y tế là nhân đạo, liên quan trực tiếp đến sức khỏe, tính
mạng con người nên phải đặc biệt coi trọng giáo dục tư tưởng về hành nghề y
trên cơ sở y đức, y đạo. Đây là phương pháp luôn được đặt lên hàng đầu, phải
làm thường xuyên, liên tục và nghiêm túc. Như đã phân tích về đặc trưng của
các hoạt động y tế trên đây, dịch vụ y tế cũng có sự khác biệt so với các dịch
vụ, hàng hóa thông thường khác. Người bệnh thường phó mặc sức khỏe, bệnh
tật của mình, tin tưởng vào thầy thuốc và nhân viên y tế, kể cả mua thuốc
chữa bệnh. Do đó, cần biểu dương kịp thời các cá nhân, tổ chức có nhiều
thành tích xuất sắc, đóng góp cho sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc sức khỏe bằng
các hình thức khen thưởng thích hợp, tạo thành phong trào thi đua trong toàn
ngành y tế. Bên cạnh đó, mặt trái của phát triển kinh tế thị trường có nguy cơ
làm phai mờ giá trị đạo đức cao quí của người thầy thuốc như tinh thần, thái
độ phục vụ người bệnh, nhận tiền hoặc các lợi ích vật chất khác của người
bệnh, các hành vi cản trở hoặc gây khó khăn cho người hành nghề y, dược tư
nhân... Các hành vi trên đã và đang gây tác hại xấu đến uy tín của ngành y tế
hoặc làm tổn hại đến sức khoẻ, tính mạng của người dân. Bởi vậy, để hạn chế
những bất cập này, một mặt, các hoạt động y tế cần phải được pháp luật quy
định hết sức cụ thể để kiểm soát và ngăn chặn, đưa toàn bộ hoạt động này vào
58
trật tự, kỷ cương, kỷ luật. Mặt khác cần phải không ngừng giáo dục, nâng cao
y đức vì nghề y là một nghề đặc biệt, cần được tuyển chọn, đào tạo, sử dụng
và đãi ngộ đặc biệt. Mỗi công chức, viên chức ngành y tế phải không ngừng
nâng cao đạo đức nghề nghiệp và năng lực chuyên môn, xứng đáng với sự tin
cậy và tôn vinh của xã hội: “…Chẳng những có nhiệm vụ cứu chữa người
bệnh mà còn phải nâng đỡ tinh thần của những người ốm yếu”, phải tôn
trọng nhân cách và quyền được hưởng chăm sóc y tế của người bệnh, không
coi chữa bệnh như là sự ban ơn, thương hại hoặc chữa bệnh để vụ lợi, không
được coi người bệnh là một thứ hàng hóa của kinh tế thị trường. Phải quan
tâm săn sóc người bệnh, phải đối xử bình đẳng với người bệnh trên cơ sở
bệnh tật nặng, nhẹ chứ không phải là vì giàu, nghèo, quyền thế…” (Hồ Chí
Minh). [1]
3.1.3. Quản lý nhà nước đối với viên chức y tế phải tương thích với nhu cầu
cải cách hành chính trong lĩnh vực y tế ở nước ta hiện nay
Những năm gần đây, Bộ Y tế đã triển khai hàng loạt các biện pháp cải
cách TTHC, giảm phiền hà cho người bệnh, nâng cao chất lượng KCB, đổi
mới về quản lý, cách làm và phương pháp kiểm tra, đánh giá chất lượng bệnh
viện hàng năm. Đồng thời, Bộ Y tế cũng đã phê duyệt Đề án xác định Chỉ số
cải cách hành chính năm 2018 đối với các đơn vị thuộc bộ. Đến nay đã hoàn
thành việc xác định chỉ số cải cách hành chính các đơn vị thuộc bộ năm 2019
và đang thực hiện phân tích số liệu, viết báo cáo và công bố Bộ Chỉ số cải
cách hành chính cấp bộ năm 2019.
Hiện nay cả nước có 603 TTHC trong lĩnh vực y tế, trong đó có 209
TTHC thực hiện tại Bộ Y tế. Trong năm qua, Bộ Y tế đã duy trì ổn định hoạt
động của 51 dịch vụ công trực tuyến (trong đó có 7 dịch vụ mức độ 3 và 44
dịch vụ mức độ 4). 100% các dịch vụ hành chính công của Bộ Y tế đã được
cung cấp ở mức độ 2 trở lên. Bộ Y tế đang tiến hành xây dựng hệ thống Cổng
dịch vụ công trực tuyến Bộ Y tế. [13]
59
Năm 2018, Bộ Y tế đã tổ chức hội thi “Cán bộ ngành Y tế đổi mới
phong cách, thái độ phục vụ hướng tới sự hài lòng của người bệnh”, được
đông đảo cán bộ y tế trong toàn ngành tích cực hưởng ứng tham gia. Kết quả
triển khai đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế trong toàn
ngành đã giúp bộ mặt các cơ sở y tế thay đổi, từ tinh thần thái độ phục vụ,
chất lượng dịch vụ, trang phục của cán bộ y tế, điều kiện cơ sở vệ sinh, môi
trường bệnh viện; quy trình KCB, giảm thời gian chờ đợi của người bệnh...
Tình trạng cán bộ y tế gây phiền hà với người bệnh đã giảm rõ rệt. Số lượng
cuộc gọi đường dây điện thoại nóng phản ánh tiêu cực giảm nhiều và tỷ lệ thư
khen ngợi tăng lên. Chẳng hạn năm 2018, Tổ chức sáng kiến Việt Nam khảo
sát qua điện thoại tại 60 bệnh viện tại 23 tỉnh, thành phố trong cả nước cho
thấy, sự hài lòng chung của người bệnh đối với dịch vụ KCB đạt 80,8% (tăng
so với năm 2017 đạt 79,6%). Theo chỉ số Hiệu quả quản trị và hành chính
công cấp tỉnh ở Việt Nam (PAPI) năm 2018, chỉ số tham nhũng vặt ở bệnh
viện huyện giảm còn 0,4% (năm 2016 là 17% và năm 2017 là 9%). [13]
Mục tiêu đến năm 2025 (theo Nghị quyết số 20-NQ/TW) phấn đấu tỷ lệ
hài lòng của người dân với dịch vụ y tế đạt trên 80%.[37] Tuy nhiên, theo kết
quả đánh giá, đo lường sự hài lòng người bệnh về phong cách, thái độ phục
vụ của cán bộ y tế của Vụ Tổ chức cán bộ phối hợp với Viện Chiến lược và
Chính sách y tế (Bộ Y tế) thực hiện năm 2016 tại 22 bệnh viện (11 bệnh viện
trung ương, 8 bệnh viện đa khoa tỉnh, 3 bệnh viện huyện), tỷ lệ hài lòng người
bệnh đạt 81,3% (trong đó bệnh viện tuyến trung ương là 77,9%, bệnh viện
tuyến tỉnh là 87,3% và bệnh viện tuyến huyện là 77,5%). Năm 2018, thực
hiện đánh giá tại 53 bệnh viện tuyến trung ương, bệnh viện thuộc trường đại
học và bệnh viện tuyến tỉnh, tỷ lệ hài lòng người bệnh đạt 83,7% (trong đó
tuyến trung ương đạt 84,5%, tuyến tỉnh đạt 83,3%, nhóm bệnh viện thuộc
trường đại học là 81,5%). [13]
60
Bộ Y tế đã đổi mới về quản lý, cách làm và phương pháp kiểm tra,
đánh giá chất lượng bệnh viện hàng năm. Trong đó, bộ xây dựng và ban hành
quy trình khám bệnh tại khoa khám bệnh của các bệnh viện, giảm TTHC; hay
Bộ Tiêu chí đánh giá chất lượng bệnh viện năm 2016 làm căn cứ cho các
bệnh viện triển khai. Đồng thời, ngành Y tế đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin trong quản lý bệnh viện, quản lý bảo hiểm y tế để giảm thủ tục,
giảm thời gian chờ đợi của người bệnh, thực hiện công khai, minh bạch các
khoản chi phí mà người bệnh phải chi trả.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với viên chức
ngành y tế
3.2.1. Giải pháp chung
3.2.1.1. Kiểm tra việc thực hiện pháp luật về y tế
Kiểm tra việc thực hiện pháp luật về y tế là một biện pháp quan trọng
để bảo đảm việc tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật, khắc phục,
phòng ngừa những vi phạm pháp luật. Kiểm tra nhằm mục đích nhắc nhở,
giáo dục cho viên chức y tế tôn trọng, chấp hành nghiêm chỉnh theo pháp luật;
phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong các văn bản quy phạm pháp luật để đề
nghị bổ sung, sửa đổi, phát hiện những hành vi sai lệch trong việc thực hiện
pháp luật; có biện pháp uốn nắn, khắc phục và phát hiện những việc làm vi
phạm pháp luật; có biện pháp xử lý nghiêm minh, kịp thời; đồng thời phát
hiện những điển hình thực hiện pháp luật tốt để động viên, khen thưởng. Tuy
nhiên, hoạt động này vẫn còn những hạn chế sau đây:
- Hiện tại, Bộ Y tế, các Sở Y tế, các đơn vị trực thuộc Bộ Y tế đều tổ
chức kiểm tra trong phạm vi quản lý hoặc khi có sự chỉ đạo của cấp trên hoặc
khi có vụ việc xảy ra do các cơ quan thông tin đại chúng cung cấp nhưng đều
chưa có kế hoạch, chưa chủ động trong công tác kiểm tra nên thường bị động
và mang tính đối phó.
61
- Qua thực tiễn, Bộ Y tế, Sở Y tế thường tiến hành kiểm tra thực hiện
pháp luật về y tế theo định kỳ 6 tháng hoặc một năm một lần và chỉ tiến hành
kiểm tra đột xuất khi có vụ việc xảy ra nên công tác kiểm tra thường không
bài bản, mục đích kiểm tra chưa theo chuyên đề cụ thể, chưa có quy trình
kiểm tra cụ thể...
- Việc kiểm tra hiện nay đều theo cùng một phương thức là đơn vị được
kiểm tra báo cáo, sau đó các thành viên trong Đoàn kiểm tra hỏi, đi thị sát đơn
vị và sau đó đưa ra nhận xét, kết luận, cũng như chưa xây dựng bảng kiểm
theo từng chuyên đề kiểm tra, căn cứ vào các quy định pháp luật để đưa ra
bảng hỏi và chấm điểm cụ thể nên hoạt động này còn mang tính hình thức, kết
quả kiểm tra không được định lượng và không phân loại được mức độ thực thi
pháp luật của các đơn vị, địa phương.
- Việc chỉ đạo các đơn vị dưới quyền thực hiện tự kiểm tra mới chỉ
được phổ biến, nhắc nhở trong các hội nghị hoặc các đợt công tác mà chưa có
chỉ đạo cụ thể bằng văn bản nên việc tự kiểm tra của các đơn vị ít được quan
tâm tiến hành.
- Sau khi kiểm tra, hầu hết các điểm yếu kém chỉ bị nhắc nhở, không
phát hiện được sai phạm lớn, chưa có trường hợp nào bị xử lý kỷ luật hoặc đề
nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính nên
công tác kiểm tra việc thực hiện pháp luật về y tế còn mang tính hình thức,
xuê xoa, chưa thể hiện được tính nghiêm minh trong thực thi pháp luật y tế.
3.2.1.2. Việc thanh tra thực hiện pháp luật về y tế
Thanh tra là chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước nhằm
làm tốt công tác quản lý, giúp cho việc thực thi pháp luật được tiến hành một
cách có hiệu quả. Việc thanh tra các hoạt động y tế tập trung vào những vấn
đề chủ yếu như tiến hành thường xuyên các hoạt động thanh tra chuyên ngành
về y tế theo thẩm quyền, tập trung vào các chế độ, quy tắc chuyên môn, kỹ
thuật y tế, các thủ tục hành chính trong KCB, các hoạt động của các cơ sở y,
62
dược tư nhân và khi phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật về y tế, cơ quan
thanh tra y tế, thanh tra viên y tế và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử
phạt phải xử lý nghiêm, kịp thời và công bằng các hành vi vi phạm pháp luật
trong hoạt động y tế, bảo đảm trật tự, kỷ cương; bảo vệ lợi ích của nhà nước,
các quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan đến
y tế. Tuy nhiên, hoạt động này vẫn còn những hạn chế sau đây:
- Trên cơ sở Luật Thanh tra, hệ thống thanh tra chuyên ngành về y tế đã
được thiết lập ở Bộ Y tế, Sở Y tế nhưng chưa có cơ sở pháp lý cho việc thiết
lập tổ chức thanh tra chuyên ngành ở tuyến huyện, xã nên việc kiểm soát an
toàn thực phẩm, hành nghề y tế tư nhân...không được hiệu quả.
- Hằng năm, Thanh tra Bộ Y tế, Thanh tra Sở Y tế đều có kế hoạch
thanh tra, thực hiện phối hợp liên ngành trong thanh tra nhưng còn bị động,
hiệu quả chưa cao, hoạt động tự thanh tra, kiểm tra trong nội bộ các cơ quan,
tổ chức nhà nước chưa được chú trọng và đủ mạnh trong việc tự phòng ngừa
các vi phạm pháp luật về y tế.
- Hiện cả nước có 229 thanh tra viên và chuyên viên thanh tra y tế nên
số lượng này còn quá thấp so với chức năng, nhiệm vụ được giao. Chất lượng
thanh tra viên và chuyên viên thanh tra y tế cũng còn hạn chế về kỹ năng,
kinh nghiệm thanh tra do 25,2% người chưa được đào tạo về nghiệp vụ thanh
tra, 14,2% người mới được tập huấn nghiệp vụ thanh tra trên 01 tháng... nên
đã ảnh hưởng không ít đến quá trình hoạt động và kết quả thanh tra. [13]
3.2.1.3. Xử lý vi phạm
Việc xử lý này thực chất là bảo vệ các giá trị của pháp luật về y tế
không bị vi phạm trong thực tiễn cuộc sống, giúp cho công tác QLNN bằng
pháp luật trong lĩnh vực y tế đạt hiệu quả cao hơn.
Các hành vi vi phạm pháp luật gắn với từng loại trách nhiệm pháp lý
khác nhau như sau: Tội phạm và trách nhiệm hình sự; vi phạm pháp luật dân
63
sự và trách nhiệm dân sự; vi phạm hành chính và trách nhiệm hành chính; vi
phạm kỷ luật và trách nhiệm kỷ luật.
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế là những hành vi do tổ chức, cá
nhân thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật
về QLNN trong lĩnh vực y tế mà không phải là tội phạm và theo quy định của
pháp luật phải bị XPVPHC. Việc XPVPHC trong lĩnh vực y tế phải dựa trên
cơ sở của pháp luật hiện hành về y tế dự phòng, an toàn thực phẩm, KCB,
thuốc, mỹ phẩm và trang thiết bị y tế. XPVPHC trong lĩnh vực y tế phải theo
đúng các hành vi vi phạm, hình thức và mức phạt.
Xử lý kỷ luật đối với viên chức y tế là một trong những công cụ, biện
pháp quản lý của nhà nước trong quá trình xây dựng, phát triển và sử dụng
đội ngũ viên chức. Việc xử lý kỷ luật đối với viên chức y tế phải bảo đảm
theo đúng các hình thức kỷ luật, bảo đảm khách quan, công bằng, nghiêm
minh, đúng thời hiệu và theo đúng các trình tự, thủ tục quy định của pháp luật
về viên chức.
Tuy nhiên, hoạt động này cần khắc phục những hạn chế sau đây:
(i) Việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế
- Việc XPVPHC trong lĩnh vực y tế đều bảo đảm đúng thẩm quyền,
nguyên tắc, trình tự, thủ tục XPVPHC nhưng ngoài thanh tra viên y tế, quản
lý thị trường thì việc áp dụng thẩm quyền này của chủ tịch UBND các cấp,
công an còn rất hạn chế.
- Việc XPVPHC về y tế đã bảo đảm đúng hình thức và mức phạt theo
quy định của pháp luật nhưng có sự nương nhẹ trong XPVPHC, chưa có sự
công bằng trong XPVPHC.
- Đa số các đối tượng bị XPVPHC trong lĩnh vực y tế đã nghiêm chỉnh
chấp hành quyết định xử phạt của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng
cũng có trường hợp chưa tự giác chấp hành quyết định XPVPHC, việc thực
64
hiện cưỡng chế trên thực tế cũng rất khó khăn do người vi phạm quá nghèo,
nếu cưỡng chế thì chi phí để cưỡng chế lại cao hơn giá trị tài sản đó.
(ii) Việc xử lý kỷ luật đối với viên chức vi phạm pháp luật về y tế
- Việc xử lý kỷ luật đối với viên chức vi phạm pháp luật về y tế chủ
yếu căn cứ theo quy định của pháp luật về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức,
viên chức nhưng vẫn còn một số đơn vị khi xử lý kỷ luật lại căn cứ thêm vào
quy định 12 điều y đức do Bộ Y tế ban hành hoặc theo Nghị quyết Đại hội
cán bộ, viên chức của đơn vị.
- Việc xử lý kỷ luật đối với viên chức vi phạm pháp luật về y tế nhìn
chung đều đúng thẩm quyền nhưng vẫn còn một số đơn vị khi xem xét kỷ luật
đã để kéo dài quá lâu nên có một số vụ việc bị hết thời hiệu kỷ luật hoặc có
một số bộ phận khoa, phòng trong đơn vị khi phát hiện vi phạm chế độ kỷ luật
đã tự giải quyết nội bộ sai với thẩm quyền quy định.
- Việc xử lý kỷ luật đối với viên chức vi phạm pháp luật về y tế đều
bảo đảm nguyên tắc, trình tự thủ tục nhưng có một số đơn vị ghi biên bản kỷ
luật lại sơ sài, đơn giản, không ghi rõ hành vi sai phạm tương xứng với hình
thức kỷ luật nên đã có trường hợp kiện ngược sau khi đã quyết định kỷ luật.
- Các hành vi vi phạm kỷ luật chủ yếu là gây mất đoàn kết nội bộ kéo
dài trong đơn vị, sa sút về phẩm chất đạo đức, y đức, thoái hoá biến chất,
nghiện ma túy; thu tiền người bệnh sai nguyên tắc tài chính; vi phạm quy chế
chuyên môn, vi phạm kỷ luật lao động... nhưng để định rõ các hành vi cụ thể
phải bị xử lý kỷ luật thì chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể.
- Việc áp dụng các hình thức kỷ luật đều bảo đảm công bằng, đúng
người, đúng hành vi vi phạm nhưng có đơn vị còn áp dụng hình thức giảm
mức xếp loại lao động, cắt tiền thi đua (A,B,C) hàng tháng, trừ tiền thu nhập
tăng thêm và tiền thưởng đối với viên chức vi phạm giờ giấc lao động, vi
phạm quy chế trực... hoặc còn vận dụng hình thức phê bình trước tập thể
không ghi lý lịch hoặc kéo dài thời gian nâng lương, không cử đi học...
65
- Khi viên chức y tế làm mất mát, hư hỏng hoặc có hành vi khác gây
thiệt hại tài sản của Nhà nước hoặc gây thiệt hại cho người khác đều được các
cơ quan, đơn vị xử lý bồi thường trách nhiệm vật chất nhưng có một số đơn vị
còn chưa thực hiện được việc này, chủ yếu là không thu hồi lại được chi phí
đào tạo theo quy định đối với trường hợp được hỗ trợ kinh phí đào tạo nhưng
sau khi học xong lại không trở về làm việc.
3.2.1.4. Tôn vinh các tập thể, cá nhân có thành tích trong giải quyết
các vấn đề của lĩnh vực y tế
Việc tôn vinh thành tích trong giải quyết các vấn đề của lĩnh vực y tế
được thể hiện qua các phong trào thi đua yêu nước và khen thưởng kịp thời
các tập thể, cá nhân. Tuy nhiên, phương thức này cần phải xem xét một cách
nghiêm túc vì phần lớn khen thưởng không qua phong trào thi đua và nếu có
phát động thi đua thì lại hình thức nên không linh thiêng hóa việc tôn vinh.
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với viên chức
ngành y tế theo định hướng tự chủ từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
3.2.2.1. Nhóm giải pháp
(i) Tự chủ về tổ chức bộ máy
Các bệnh viện công lập tổ chức kiện toàn lại tổ chức bộ máy theo đúng
Quyết định số 1895/1997/QĐ-BYT ngày 19/9/1997 của Bộ trưởng Bộ Y tế về
việc ban hành Quy chế bệnh viện và Thông tư liên tịch số 51/2015/TTLT-
BYT-BNV ngày 11/12/2015 của Bộ Y tế - Bộ Nội vụ Hướng dẫn chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Y tế thuộc UBND tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương và Phòng Y tế thuộc UBND huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh; Thông tư số 19/2013/TT-BYT ngày 12/7/2013 của Bộ Y
tế về hướng dẫn thực hiện quản lý chất lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh
tại bệnh viện; Thông tư 43/2015/TT-BYT ngày 26/11/2015 của Bộ Y tế quy
định về nhiệm vụ và hình thức tổ chức thực hiện nhiệm vụ công tác xã hội của
66
bệnh viện và các quy định hiện hành của pháp luật có liên quan về cơ cấu tổ
chức, bộ máy biên chế và chế độ tự chủ của các bệnh viện công lập.
(ii) Xác định vị trí việc làm, cơ cấu chức danh viên chức và số
lượng người làm việc (biên chế) của các bệnh viện công lập
Xác định vị trí việc làm
- Vị trí việc làm gắn với công việc lãnh đạo, quản lý, điều hành (Giám
đốc, Phó Giám đốc, Trưởng phòng, Trưởng khoa, Giám đốc Trung tâm, Phó
Trưởng phòng, Phó Trưởng khoa, Phó Giám đốc Trung tâm) là 06 vị trí.
- Vị trí việc làm gắn với chuyên môn, nghiệp vụ, (Bác sỹ, Dược sỹ Đại
học, Dược sỹ Trung học, Điều dưỡng, Kỹ thuật viên Y) là 05 vị trí.
- Vị trí việc làm gắn với công việc hành chính, hỗ trợ phục vụ (Kế toán;
Văn thư, Thủ quỹ; Hộ lý; Nhân viên kỹ thuật, lái xe, bảo vệ, trông giữ xe) là 08 vị
trí.
Xác định cơ cấu, chức danh viên chức
Cơ cấu chức danh viên chức được xác định trên cơ sở hạng bệnh viện
và Thông tư liên tịch số 08/TTLT-BYT-BNV ngày 05/6/2007 của Bộ Y tế,
Bộ Nội vụ về hướng dẫn định mức biên chế sự nghiệp trong các cơ sở y tế
nhà nước, cụ thể như sau:
Bảng 2. Cơ cấu chức danh viên chức của các bệnh viện [44]
TT Cơ cấu Tỷ lệ
A Cơ cấu bộ phận
1 Lâm sàng 60 – 65%
2 Cận lâm sàng và Dược 22 – 15%
3 Quản lý, hành chính 18 – 20%
B Cơ cấu chuyên môn
1 Bác sĩ/chức danh chuyên môn y tế khác 1/3 – 1/3,5
67
TT Cơ cấu Tỷ lệ
(Điều dưỡng, hộ sinh, kỹ thuật viên)
2 Dược sĩ Đại học/Bác sĩ 1/8 – 1/1,5
3 Dược sĩ Đại học/Dược sĩ trung học 1/2 – 1/2,5
Căn cứ tình hình thực tế, định hướng phát triển, nâng cao chất lượng
khám bệnh, chữa bệnh các bệnh viện được đề xuất cơ cấu cụ thể trong đề án
vị trí việc làm hoặc phương án tự chủ của đơn vị mình, trình cấp có thẩm
quyền xem xét, quyết định để triển khai thực hiện.
Xác định số lượng người làm việc
Trên cơ sở số giường bệnh được xác định bao gồm cả số giường bệnh
được giao theo kế hoạch và số giường bệnh thực hiện theo cơ chế tự chủ, số
người làm việc của các bệnh viện công lập, giai đoạn 2018-2020 được xác
định là: 15.625; cụ thể như sau [44]:
- Năm 2018: Tổng số lượng người làm việc là 14.362 người, bao gồm:
số lượng được giao theo kế hoạch là 6.011 người; số lượng người thực hiện
theo cơ chế tự chủ do giám đốc bệnh viện quyết định sau khi được Chủ tịch
UBND tỉnh phê duyệt là 8.351 người.
- Năm 2019: Tổng số lượng người làm việc là 15.122 người, bao gồm:
số lượng được giao theo kế hoạch là 6.011 người; số lượng người thực hiện
theo cơ chế tự chủ do giám đốc bệnh viện quyết định sau khi được Chủ tịch
UBND tỉnh phê duyệt là 9.111 người.
- Năm 2020: Tổng số lượng người làm việc là 15.625 người, bao gồm:
số lượng được giao theo kế hoạch là 6.011 người; số lượng người thực hiện
theo cơ chế tự chủ do giám đốc bệnh viện quyết định sau khi được Chủ tịch
UBND tỉnh phê duyệt là 9.614 người.
Hàng năm trên cơ sở tình hình thực tế UBND tỉnh có thể xem xét điều
chỉnh giảm chỉ tiêu giao số người làm việc tương ứng với tỉ lệ tự chủ về
68
giường bệnh, tài chính và phê duyệt tăng số lượng người làm việc tăng thêm
thực hiện theo cơ chế tự chủ do giám đốc các bệnh viện quyết định để thực
hiện việc tuyển dụng, tiếp nhận, hợp đồng làm việc theo quy định của pháp
luật và thực hiện chế độ chính sách như bổ nhiệm và và quản lý viên chức.
Đối với Bệnh viện Đa khoa tỉnh thực hiện cơ chế tự chủ về quy mô
giường bệnh, vị trí việc làm, cơ cấu viên chức và số lượng người làm việc
theo Quyết định 3040/QĐ-UBND ngày 18/8/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh.
Riêng Bệnh viện Ung bướu do mới thành lập và đi vào hoạt động từ tháng
10/2017 với cơ cấu tổ chức chưa ổn định, số lượng người làm việc chưa được
giao cụ thể, vì vậy Bệnh viện Ung bướu sẽ thực hiện xây dựng Phương án xác
định quy mô giường bệnh, vị trí việc làm, cơ cấu viên chức và số lượng người
làm việc trình cấp thẩm quyền phê duyệt.
Việc tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật
và quản lý viên chức, người lao động đối với số biên chế tự chủ thực hiện
theo quy định của pháp luật như đối với chỉ tiêu biên chế được UBND tỉnh
giao.
3.2.2.2. Phương án thực hiện từ thực tiễn tỉnh Thanh Hóa
Tuyên truyền phổ biến quán triệt mục tiêu nhiệm vụ của đề án về
thực hiện cơ chế tự chủ của các bệnh viện công lập
UBND tỉnh Thanh Hóa tạo điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư, các
doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng đầu tư vào lĩnh vực y tế, tăng cường phối
hợp công tư để mở rộng quy mô hoạt động, nâng cao chất lượng hoạt động
của các bệnh viện công lập. Trên cơ sở đó, Giám đốc Sở Y tế chỉ đạo Giám
đốc các bệnh viện tổ chức triển khai, phổ biến, tuyên truyền và quán triệt tinh
thần, nội dung tổ chức thực hiện Đề án “Thực hiện cơ chế tự chủ tại các bệnh
viện công lập thuộc tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2018-2020” đến cán bộ, viên
chức và người lao động của từng bệnh viện.
69
Tổ chức bộ máy, biên chế
(i) Bệnh viện thực hiện tự chủ 100% kinh phí chi thường xuyên:
- Được quyết định thành lập, tổ chức lại, giải thể các đơn vị không
thuộc cơ cấu tổ chức các đơn vị cấu thành theo quyết định của cơ quan có
thẩm quyền, khi đáp ứng các tiêu chí, điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của
pháp luật;
- Xây dựng phương án sắp xếp lại các đơn vị cấu thành, trình cơ quan
có thẩm quyền quyết định;
(ii) Bệnh viện thực hiện tự chủ một phần kinh phí chi thường xuyên:
- Xây dựng phương án sắp xếp, kiện toàn cơ cấu tổ chức của đơn vị,
trình cơ quan có thẩm quyền quyết định;
- Xây dựng vị trí việc làm và cơ cấu viên chức theo chức danh nghề
nghiệp, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt;
(iii) Đề xuất cơ cấu, số lượng người làm việc của đơn vị, trình cơ quan
có thẩm quyền quyết định.
(iv) Trên cơ sở vị trí việc làm, cơ cấu chức danh nghề nghiệp viên chức
và số lượng người làm việc được phê duyệt của bệnh viện, hàng năm xây
dựng Kế hoạch, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt để thực hiện việc tuyển
dụng, tiếp nhận và hợp đồng làm việc bố trí cho các vị trí việc làm được phê
duyệt, đảm bảo việc thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực
Đào tạo sau đại học và đào tạo nâng cao cần phải được thực hiện với
nhiều hình thức: Tập trung, đào tạo tại chỗ, đào tạo chuyển giao kỹ thuật. Các
bệnh viện tuyến tỉnh thực hiện Hợp đồng liên kết đào tạo với các bệnh viện
Trung ương để nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề cho cán bộ y tế địa
phương.
Tăng cường công tác đào tạo và chuyển giao kỹ thuật, hỗ trợ tuyến
dưới theo Đề án 1816 của Bộ Y tế [Xem thêm: 29]; Thực hiện chế độ luân
70
phiên có thời hạn đối với người hành nghề tại các cơ sở KCB theo Quyết định
số 14/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Triển khai đề án bệnh viện vệ
tinh của Bộ Y tế đối với các bệnh viện đầu ngành.
Huy động nguồn lực, xây dựng cơ sở vật chất
Để đáp ứng nhu cầu về cơ sở vật chất khi các bệnh viện mở rộng quy mô
cần thiết phải lập và triển khai đề án đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị
cho các bệnh viện từ nguồn vốn sự nghiệp y tế, phần ngân sách nhà nước tiết
kiệm được hàng năm do lộ trình các bệnh viện tiến tới bảo đảm chi thường
xuyên.
Liên doanh, liên kết
Các bệnh viện liên doanh, liên kết với nhà đầu tư xây dựng, thành lập
mới cơ sở khám chữa bệnh theo mô hình doanh nghiệp trong khuôn viên hiện
có của bệnh viện công và được mang thương hiệu của bệnh viện công. Bệnh
viện góp vốn bằng cơ sở vật chất, chất lượng, năng lực, uy tín của đơn vị. Sau
thời gian hợp tác toàn bộ tài sản liên doanh liên kết được chuyển giao về cho
bệnh viện.
Bệnh viện được vay vốn tín dụng đầu tư của Ngân hàng Phát triển Việt
Nam và các tổ chức tín dung khác để đầu tư xây dựng, thành lập mới cơ sở
khám chữa bệnh trong khuôn viên đất hiện có và quyết định tổ chức bộ máy
và phương thức quản lý phù hợp.
UBND tỉnh Thanh Hóa tạo điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư, các
doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng đầu tư vào lĩnh vực y tế, tăng cường phối
hợp công tư để mở rộng quy mô hoạt động, nâng cao chất lượng hoạt động
của các bệnh viện công lập.
3.2.2.3. Đo lường hiệu quả
Hiệu quả kinh tế
Cơ chế tự chủ đã tạo cho bệnh viện có nhiều cơ hội như được chủ động
trong nguồn kinh phí thực hiện hợp tác, phát triển chuyên môn, các dịch vụ
71
đáp ứng nhu cầu người bệnh. Giảm chi từ ngân sách nhà nước cho hoạt động
khám chữa bệnh trên cơ sở nâng cao chất lượng KCB và tăng nguồn thu dịch
vụ bảo đảm cho nhiệm vụ chi thường xuyên của các bệnh viện.
Bảo đảm việc giao biên chế theo chỉ tiêu kế hoạch, tăng tính tự chủ
trong việc quyết định biên chế tăng thêm để thực hiện theo cơ chế tự chủ,
thực hiện việc tiếp nhận, quản lý, sử dụng viên chức đúng theo quy định của
pháp luật.
Hiệu quả đầu tư từ các nguồn lực được phát huy, giảm thiểu vấn đề thất
thoát lãng phí về kinh phí hoạt động. Các bệnh viện có thể chủ động khai thác
những nguồn thu hợp pháp, hợp lý, chủ động trích lập các quỹ phúc lợi, quỹ
phát triển hoạt động sự nghiệp để tái đầu tư.
Hiệu quả xã hội
Đề án Thực hiện cơ chế tự chủ tại các bệnh viện công lập thuộc tỉnh
Thanh Hóa giai đoạn 2018-2020 là giải pháp quan trọng góp phần nâng cao
hiệu quả, chất lượng KCB, từng bước chống quá tải bệnh viện, góp phần đưa
Thanh Hóa sớm đạt được các chỉ tiêu quan trọng mà Nghị quyết Đại hội Đảng
bộ tỉnh lần thứ XVIII đã đề ra.
Thực hiện cơ chế tự chủ tại các bệnh viện mở ra những cơ hội lớn để
giám đốc các bệnh viện trở thành người quản lý như giám đốc các doanh
nghiệp, không chỉ đơn thuần về quản lý chuyên môn mà là quản lý toàn diện
các mặt hoạt động của một đơn vị.
Nhân dân trong tỉnh có nhiều cơ hội để tiếp cận các dịch vụ y tế tốt
hơn, người có khả năng về kinh tế có thể tự lựa chọn cho mình các gói dịch
vụ y tế kỹ thuật cao, chất lượng tốt. Mô hình hoạt động bệnh viện trở nên
phong phú, đa dạng, tinh thần phục vụ của cán bộ nhân viên y tế sẽ ngày càng
tốt hơn.
72
Thực hiện cơ chế tự chủ tạo nên sự cạnh tranh phát triển, phù hợp với
xu thế phát triển của nền kinh tế - xã hội nói chung và trong lĩnh vực y tế nói
riêng.
Tiểu kết Chương 3
Chương 3 nhằm cung cấp thông tin và kinh nghiệm mang tính thách
thức mà Thanh Hóa gặp phải đặng giúp các địa phương đã, đang triển khai
quản lý viên chức y tế trong tình hình mới, nhanh chóng cải thiện cơ chế quản
lý nhằm tối ưu hóa việc KCB của địa phương. Trong quá trình thực hiện,
Thanh Hóa đã tham khảo kinh nghiệm từ các tỉnh, thành khác và có những
kinh nghiệm quý. Do vậy, tác giả cho rằng, các bài học mà mô hình Thanh
Hóa rút ra cũng sẽ có ý nghĩa cho những địa phương có đặc điểm tương đồng.
73
KẾT LUẬN
Tác giả quan niệm rằng viên chức ngành y tế - trung tâm của hoạt động
KCB - luôn gánh vác bổn phận nghề nghiệp và y đức như một lựa chọn duyên
định. QLNN đối với viên chức sao cho hiệu quả mà không gây ra trở lực y
nghiệp có lẽ là một nghệ thuật trong quản lý. Vì việc quản lý gây bất lợi hoặc
không hiệu quả trước hết ảnh hưởng đến viên chức, sau là người bệnh và rộng
hơn là xã hội. Thanh Hóa hiện có những cải cách được hưởng ứng từ chính
người KCB trong tỉnh, và kinh nghiệm của Thanh Hóa dưới góc nhìn QLNN
đáng được quan tâm nghiên cứu. Qua quá trình nghiên cứu, tác giả đi đến một
số kết luận sau:
1. Một thời gian dài, Việt Nam đã áp dụng cách quản lý cán bộ, công
chức chung cho viên chức (y tế). Do đó, đã gây nên tình trạng nguồn lực viên
chức y tế được sử dụng kém hiệu quả, gián tiếp gây nên tình trạng quá tải tại
các bệnh viện tuyến trung ương và tỉnh, trong khi bệnh viện tuyến huyện trở
xuống không đáp ứng được nhu cầu KCB, bệnh viện tư khó phát triển, xảy ra
hiện tượng nhũng nhiễu người bệnh từ các viên chức y đức kém.
2. Thanh Hóa cũng không nằm ngoài hiện tượng trên thời gian trước.
Nhưng kể từ năm 2011, sau khi Luật Viên chức được ban hành, Thanh Hóa
đã có những thay đổi mạnh mẽ trong đào tạo, tuyển dụng và sử dụng nguồn
viên chức y tế tại địa phương. Các bệnh viện tư phát triển mạnh mẽ (gần 20
bệnh viện tư, có bệnh viện 800 giường [45]), các bệnh viện công đang tiếp tục
quá trình tự chủ hóa, bệnh viện tuyến huyện trước mắt đã đáp ứng được nhu
cầu KCB cho người dân ở nông thôn, miền núi; viên chức y tế có tay nghề
cao nhiều hơn và nhận được tín nhiệm từ người KCB trong tỉnh, cũng như các
địa phương lân cận. Điều này phản ánh hướng tiếp cận đúng của Thanh Hóa
trong quá trình đổi mới quản lý viên chức y tế, những đổi mới này đáng được
nghiên cứu và khái quát thành các kinh nghiệm quản lý ngành, địa phương.
74
3. Các giải pháp quản lý viên chức mà tác giả đề xuất từ thực tiễn của
tỉnh Thanh Hóa thiết nghĩ có thể hữu ích cho các tỉnh, thành có điều kiện
tương đồng với Thanh Hóa về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, địa bàn
rộng, xa các đô thị lớn. Các giải pháp này bao gồm: (i) Về tổ chức bộ máy,
biên chế dần theo hướng tự chủ trong tuyển dụng, sử dụng viên chức của đơn
vị; (ii) Về đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng viên chức y tế, đào tạo sau đại học
và đào tạo nâng cao cần phải được thực hiện với nhiều hình thức: tập trung,
đào tạo tại chỗ, đào tạo chuyển giao kỹ thuật. Các bệnh viện tuyến tỉnh thực
hiện Hợp đồng liên kết đào tạo với các bệnh viện Trung ương để nâng cao
trình độ chuyên môn, tay nghề cho cán bộ y tế địa phương; (iii) Liên doanh,
liên kết với nhà đầu tư xây dựng, thành lập mới cơ sở khám chữa bệnh theo
mô hình doanh nghiệp trong khuôn viên hiện có của bệnh viện công và được
mang thương hiệu của bệnh viện công. Bệnh viện góp vốn bằng cơ sở vật
chất, chất lượng, năng lực, uy tín của đơn vị. Sau thời gian hợp tác toàn bộ tài
sản liên doanh liên kết được chuyển giao về cho bệnh viện.
75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU HỌC THUẬT
1. Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, Thư của Bác Hồ gửi cán bộ, nhân
viên quân y, Link tham khảo:
http://btlsqsvn.org.vn/DesktopModules/News.Display/Print.aspx?bai-
viet=thu-cua-bac-ho-gui-can-bo-nhan-vien-quan-y-4579 (truy cập lần
cuối: 25/11/2020).
2. Bộ Y tế, Phương thức quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế, Link tham
khảo: https://moh.gov.vn/che-do-chinh-sach-linh-vuc-y-te/-
/asset_publisher/5uVUQOCXQDjt/content/phuong-thuc-quan-ly-nha-
nuoc-trong-linh-vuc-y-te (truy cập lần cuối: 25/01/2021).
3. C. Mác và Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập (Tập 3), NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
4. Vũ Tiến Dũng (2011), Quản lý nhà nước về đào tạo bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ viên chức tại các bệnh viện công - Từ thực tiễn bệnh viện Bạch
Mai Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Hành chính Quốc gia.
5. Nguyễn Hữu Đức (2003), “Từ đặc điểm, tính chất đội ngũ cán bộ, công
chức cơ sở để xây dựng chế độ, chính sách phù hợp”, Tạp chí Tổ chức
nhà nước, Số 8.
6. G.V. Atamantruk (2004), Теория государственного управления,
Omega Publishing Company.
7. Nguyễn Thu Hằng (2013), Quản lý nhà nước đối với viên chức y tế
ngành Xây dựng ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Quản lý công,
Học viện Hành chính Quốc gia.
8. Nguyễn Thị Thu Hằng (2013), Quản lý nhà nước đối với viên chức y tế
ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ quản lý hành chính công, Học
viện Hành chính Quốc gia.
76
9. Học viện Hành chính (2011), Giáo trình Hành chính công, NXB Khoa
học và Kỹ thuật, Hà Nội.
10. Trần Quang Hiển (2017), Giáo trình quản lý hành chính nhà nước,
NXB Tư pháp, Hà Nội.
11. Lê Minh Hương (2012), “Một số vấn đề về tuyển dụng, sử dụng và
quản lý viên chức theo Nghị định số 29/NĐ-CP của Chính phủ”, Tạp
chí Tổ chức nhà nước, Số 5.
12. Bùi Đức Kháng (2010), Đổi mới phương thức và nâng cao chất lượng
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ - công chức nhà nước đáp ứng yêu
cầu hội nhập, Đề tài khoa học cấp bộ, TP Hồ Chí Minh.
13. Minh Khuê, Cải cách hành chính nâng cao chất lượng khám chữa
bệnh, Link tham khảo: http://danvan.vn/Home/Nganh-y-te-voi-cong-
tac-dan-van/10471/Cai-cach-hanh-chinh-nang-cao-chat-luong-kham-
chua-benh (truy cập lần cuối: 25/01/2021).
14. Kiều Linh (2014), Quản lý nhà nước đối với phát triển nguồn nhân lực
ngành y tế trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sỹ Quản lý
công, Học viện Hành chính Quốc gia.
15. Uông Chu Lưu (2005), “Một số vấn đề lý luận về phân cấp quản lý nhà
nước”, Tạp chí Dân chủ pháp luật, Số chuyên đề 60 năm ngành Tư
pháp.
16. Patrick Deville (2013), Yersin - Peste & Choléra (Yersin - Dịch Hạch
& Thổ Tả), Đặng Thế Linh (Dịch), NXB Trẻ, Hà Nội.
17. Hoàng Thị Kim Quế (2015), Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp
luật, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
18. Vũ Hoàng Quỳnh (2016), Quản lý nhà nước đối với viên chức ngành y
tế - từ thực tiễn bệnh viện phổi Trung ương, Luận văn thạc sĩ Luật học -
Học viện Hành chính Quốc gia.
77
19. Phạm Văn Tác (2014), Quản lý nhà nước đội ngũ cán bộ chuyên khoa
sau đại học trong lĩnh vực Y tế, Luận án tiến sĩ Quản lý công, Học viện
Hành chính Quốc gia.
20. Trần Anh Tuấn (2011), “Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý viên chức
trong các đơn vị sự nghiệp công lập”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, Số 8.
21. Phạm Hồng Thái (2009), “Sự điều chỉnh của pháp luật về viên chức”,
Tạp chí Tổ chức nhà nước, Số 1.
22. Phạm Hồng Thái, Nguyễn Đăng Dung, Nguyễn Ngọc Chí (2011), Phân
cấp quản lý nhà nước (sách chuyên khảo), NXB Công an Nhân dân, Hà
Nội.
23. Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thị Minh Hà (chủ biên) (2017), Luật Hành
chính Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
24. Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (2001), Luận cứ khoa học cho việc
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
25. Hồ Đức Việt (2010), “Đổi mới công tác tổ chức, cán bộ đáp ứng yêu
cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Tạp chí Lý luận
chính trị, Số 2.
26. Nguyễn Cửu Việt (2013), Luật Hành chính Việt Nam, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
TÀI LIỆU VĂN BẢN
27. Bộ trưởng Bộ Y tế (1997), Quyết định số 1895/1997/QĐ-BYT ngày
19/9/1997 về ban hành Quy chế bệnh viện, Link tải về:
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/The-thao-Y-te/Quyet-dinh-1895-
1997-QD-BYT-Quy-che-benh-vien-66676.aspx (truy cập lần cuối:
15/10/2020).
28. Bộ Y tế, Bộ Nội vụ (2007), Thông tư liên tịch số 08/TTLT-BYT-BNV
ngày 05/6/2007 về hướng dẫn định mức biên chế sự nghiệp trong các
78
cơ sở y tế nhà nước, Link tải về: https://thuvienphapluat.vn/van-
ban/Bo-may-hanh-chinh/Thong-tu-lien-tich-08-2007-TTLT-BYT-
BNV-huong-dan-dinh-muc-bien-che-su-nghiep-trong-cac-co-so-y-te-
nha-nuoc-21511.aspx (truy cập lần cuối: 14/10/2020).
29. Bộ Y tế (2008), Quyết định số 1816/QĐ-BYT ngày 26 tháng 5 năm 2008
về việc phê duyệt Đề án “cử cán bộ chuyên môn luân phiên từ bệnh viện
tuyến trên về hỗ trợ các bệnh viện tuyến dưới nhằm nâng cao chất lượng
khám, chữa bệnh, Link tải về: https://m.thuvienphapluat.vn/van-ban/the-
thao-y-te/Quyet-dinh-1816-QD-BYT-Cu-can-bo-chuyen-mon-luan-
phien-tu-benh-vien-tuyen-tren-ho-tro-benh-vien-tuyen-duoi-nham-nang-
cao-chat-luong-kham-chua-benh-87329.aspx (truy cập lần cuối: (truy
cập lần cuối: 15/10/2020).
30. Bộ Y tế (2013), Thông tư số 19/2013/TT-BYT ngày 12/7/2013 về hướng
dẫn thực hiện quản lý chất lượng dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh tại bệnh
viện, Link tải về: https://kcb.vn/vanban/thong-tu-so-192013tt-byt-ngay-
1272013-cua-bo-y-te-huong-dan-thuc-hien-quan-ly-chat-luong-dich-vu-
kham-benh-chua-benh-tai-benh-vien (truy cập lần cuối: 15/10/2020).
31. Bộ Y tế (2015), Thông tư 43/2015/TT-BYT ngày 26/11/2015 quy định về
nhiệm vụ và hình thức tổ chức thực hiện nhiệm vụ công tác xã hội của
bệnh viện và các quy định hiện hành của pháp luật có liên quan về cơ
cấu tổ chức, bộ máy biên chế và chế độ tự chủ của các bệnh viện công
lập, Link tải về: https://thuvienphapluat.vn/van-ban/The-thao-Y-
te/Thong-tu-43-2015-TT-BYT-hinh-thuc-to-chuc-thuc-hien-nhiem-vu-
cong-tac-xa-hoi-cua-Benh-vien-296470.aspx?tab=3 (truy cập lần cuối:
15/10/2020).
32. Bộ Y tế, Bộ Nội vụ (2015), Thông tư liên tịch số 51/2015/TTLT-BYT-
BNV ngày 11/12/2015 Hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và
cơ cấu tổ chức của Sở Y tế thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung
79
ương và Phòng Y tế thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh, Link tải về: https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-
chinh/Thong-tu-lien-tich-51-2015-TTLT-BYT-BNV-chuc-nang-nhiem-
vu-quyen-han-to-chuc-So-Phong-Y-te-297739.aspx (truy cập lần cuối:
15/10/2020).
33. Chính phủ CHXHCN Việt Nam (2006), Nghị định số 43/2006/NĐ-CP
ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực
hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự
nghiệp công lập, Link tải về: https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-
may-hanh-chinh/Nghi-dinh-43-2006-ND-CP-quyen-tu-chu-tu-chiu-
trach-nhiem-thuc-hien-nhiem-vu-to-chuc-bo-may-bien-che-tai-chinh-
doi-voi-don-vi-su-nghiep-cong-lap-11313.aspx (truy cập lần cuối:
14/10/2020).
34. Chính phủ CHXHCN Việt Nam (2012), Nghị định số 63/2012/NĐ-CP
ngày 31/8/2012 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của Bộ Y tế, Link tải về: https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-
may-hanh-chinh/Nghi-dinh-63-2012-ND-CP-quy-dinh-chuc-nang-
nhiem-vu-quyen-han-va-co-cau-to-chuc-146851.aspx (truy cập lần
cuối: 14/10/2020).
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Báo cáo chính trị của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng tại Đại Hội Đại Biểu toàn quốc lần thứ VI,
Link tham khảo: https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-
trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-vi/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-
chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-v-trinh-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-
quoc-lan-thu-vi-cua-1491 (truy cập lần cuối: 22/01/2021).
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày
23/10/2005 của Bộ chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao
sức khỏe nhân dân trong tình hình mới, Link tải về:
80
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/The-thao-Y-te/Nghi-quyet-46-NQ-
TW-cong-tac-bao-ve-cham-soc-va-nang-cao-suc-khoe-nhan-dan-trong-
tinh-hinh-moi-53277.aspx (truy cập lần cuối: 15/9/2020).
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25
tháng 10 năm 2017 về Tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng
cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới, Link tham khảo:
https://thuvienphapluat.vn/van-ban/The-thao-Y-te/Nghi-quyet-20-NQ-
TW-2017-tang-cuong-cong-tac-bao-ve-cham-soc-nang-cao-suc-khoe-
nhan-dan-365599.aspx (truy cập lần cuối: 25/01/2021).
38. Quốc hội CHXHCN Việt Nam (2010), Luật Thanh tra năm 2010, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
39. Quốc hội CHXHCN Việt Nam (2011), Luật Viên chức năm 2011, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
40. Sở Y tế TP. Hồ Chí Minh, Việt Nam vẫn nằm trong các nước có số bác
sĩ và điều dưỡng trên 1.000 dân ở mức thấp, Link tham khảo:
http://www.medinet.hochiminhcity.gov.vn/tin-tuc-su-kien/viet-nam-
van-nam-trong-cac-nuoc-co-so-bac-si-va-dieu-duong-tren-1000-dan-o-
muc-cmobile1780-36945.aspx (truy cập lần cuối: 31/12/2020).
41. Thủ tướng Chính phủ CHXHCN Việt Nam (2013), Quyết định số
14/2013/QĐ-TTg ngày 20 tháng 02 năm 2013 về việc thực hiện chế độ
luân phiên có thời hạn đối với người hành nghề tại cơ sở khám, chữa
bệnh, Link tải về: https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Lao-dong-Tien-
luong/Quyet-dinh-14-2013-QD-TTg-thuc-hien-che-do-luan-phien-co-
thoi-han-nguoi-172812.aspx (truy cập lần cuối: 15/10/2020).
42. UBND tỉnh Thanh Hóa (2011), Quyết định số 2414/2011/QĐ-UBND
ngày 25/7/2011, của UBND tỉnh Thanh Hóa.
43. UBND tỉnh Thanh Hóa (2017), Quyết định 3040/QĐ-UBND ngày
18/8/2017 của Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa.
81
44. UBND tỉnh Thanh Hóa (2018), Đề án “Tổ chức, hoạt động và thực hiện
tự chủ tại các bệnh viện công lập thuộc tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2018-
2020”.
45. UBND tỉnh Thanh Hóa (2019), Phương án quy hoạch mạng lưới cơ sở
y tế trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, tháng 12 năm 2019.