BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
HỒ THỊ THU HỒNG
QUẢN LÝ NỢ VÀ DỰ BÁO KHỦNG HOẢNG NỢ
TẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM
HỒ THỊ THU HỒNG
QUẢN LÝ NỢ VÀ DỰ BÁO KHỦNG HOẢNG NỢ
TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành
: Kinh tế Tài chính – Ngân hàng
Mã số
: 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. NGUYỄN THỊ LIÊN HOA
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2011
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của tôi.
Các số liệu, kết quả nghiên cứu được nêu trong luận văn là trung thực,
được trích dẫn và có tính kế thừa, phát triển từ các tài liệu, tạp chí, các công trình
nghiên cứu đã được công bố, các website,..
Các giải pháp nêu trong luận văn được rút ra từ những cơ sở lý luận và
quá trình nghiên cứu thực tiễn.
TÁC GIẢ
HỒ THỊ THU HỒNG
LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Nguyễn Thị Liên Hoa đã
nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn tốt
nghiệp này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Quý Thầy Cô Trường Đại học
Kinh tế TP.HCM, những người đã tận tâm giảng dạy, truyền đạt những kiến thức
quý báu cho tôi trong suốt thời gian tôi học tập tại trường.
TÁC GIẢ
HỒ THỊ THU HỒNG
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỢ VÀ KHỦNG HOẢNG NỢ .................... 1
1.1 Tổng quan về nợ ............................................................................................... 1
1.1.1 Một số khái niệm ................................................................................... 1
1.1.2 Các chỉ tiêu đánh giá nợ.......................................................................... 3
1.1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ .............................................................. 6
1.2 Khủng hoảng nợ ............................................................................................... 8
1.2.1 Khái niệm ............................................................................................... 8
1.2.2 Mô hình lý thuyết cảnh báo khủng hoảng nợ ......................................... 8
1.2.2.1 Cơ sở lý luận về khả năng chịu đựng thâm hụt trong cán cân tài
khoản vãng lai .......................................................................................... 8
1.2.2.2 Mô hình động về nợ của Jaime de Pines ................................... 11
1.2.3 Các kết quả nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới về nợ và khủng hoảng
nợ ................................................................................................................... 12
1.3 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu . 16
Kết luận chương 1 .................................................................................................. 19
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM ............................... 20
2.1 Tổng quan tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay ................................ 20
2.2 Thực trạng nợ công ở Việt Nam ..................................................................... 26
2.2.1 Các nhân tố ảnh hưởng đến qui mô nợ công ........................................ 26
2.2.2 Nợ công của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010..................................... 27
2.2.3 Tình hình sử dụng nợ công .................................................................. 30
2.2.4 Khả năng trả nợ của Việt Nam ............................................................. 35
2.3 Đánh giá hiệu quả quản lý nợ công của Việt Nam .......................................... 38
2.4 Dự báo khả năng xảy ra khủng hoảng nợ ở Việt Nam ..................................... 42
Kết luận chương 2 ................................................................................................. 47
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ
NỢ CÔNG VÀ PHÒNG NGỪA KHẢ NĂNG RƠI VÀO KHỦNG HOẢNG NỢ
CHO VIỆT NAM ................................................................................................ 48
3.1 Phát triển và tận dụng tiềm lực trong nước ..................................................... 48
3.2 Kiểm soát chặt chẽ chi tiêu công ..................................................................... 49
3.3 Gia tăng nguồn thu trong nước trên cơ sở hợp lý, tránh thất thu ..................... 50
3.4 Cân đối cán cân tài khoản vãng lai .................................................................. 52
3.5 Sử dụng nguồn vốn nước ngoài an toàn và hiệu quả ....................................... 53
3.6 Tăng cường quản lý và giám sát hệ thống ngân hàng ..................................... 54
3.7 Nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp nhà nước, hạn chế thực hiện bảo
lãnh hay vay hộ cho các doanh nghiệp nhà nước ................................................... 55
3.8 Công khai, minh bạch thông tin về nợ công .................................................... 56
3.9 Đề xuất mô hình bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ .......... 58
Kết luận chương 3 .................................................................................................. 63
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 66
PHỤ LỤC ............................................................................................................. 73
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADB Ngân hàng phát triển Châu Á (Asean Development Bank)
DM Thị trường phát triển (Developed Market)
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
DNTN Doanh nghiệp tư nhân
EM Thị trường mới nổi (Emerging Market)
EU Liên minh Châu Âu (European Union)
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment)
GDP Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product)
HIPCs Các nước nghèo gánh nặng nợ cao
HĐ Hợp đồng
ICOR Hệ số đầu tư tăng trưởng (Incremental Capital Output Ratio)
IMF Quỹ tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund)
NAO Cơ quan Kiểm toán Quốc gia Trung Quốc
NHTM Ngân hàng Thương mại
NSNN Ngân sách Nhà nước
ODA Hỗ trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance)
OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
SME Doanh nghiệp vừa và nhỏ (Small and Medium-sized Enterprises)
TKVL Tài khoản vãng lai
VDB Ngân hàng Phát triển Việt Nam (Vietnam Development Bank)
WB Ngân hàng Thế giới (World Bank)
DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ SƠ ĐỒ
Bảng 2.1: Tăng trưởng GDP và ICOR của Việt Nam giai đoạn 1996 – 2010 .......... 32
Bảng 2.2: Tăng trưởng GDP và ICOR của một số quốc gia Đông Á ....................... 33
Bảng 2.3: Một số chỉ tiêu đánh giá mức độ nợ và khả năng trả nợ của Việt Nam ... 36
Bảng 2.4: Cán cân tài khoản vãng lai Việt Nam 2005 – 2010 .................................. 37
Bảng 2.5: Ngưỡng nợ nước ngoài theo tiêu chuẩn HIPCs ........................................ 39
Bảng 2.6: Ngưỡng nợ trong nước theo tiêu chuẩn HIPCs ........................................ 40
Bảng 2.7: Mức ngưỡng phụ thuộc vào chính sách và thể chế .................................. 41
Bảng 2.8: Chỉ số nợ trên xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 ............... 44
Bảng 2.9: Chỉ số nợ trên xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2011 – 2025 ............... 45
Sơ đồ 3.1: Mô hình bảo lãnh tín dụng hiện nay ........................................................ 60
Sơ đồ 3.2: Đề xuất mô hình bảo lãnh tín dụng .......................................................... 61
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.1: Tăng trưởng GDP của Việt Nam so với 4 nước ASEAN ......................... 20
Hình 2.2: Tăng trưởng GDP và cơ cấu kinh tế 1990 – 2011 .................................... 21
Hình 2.3: Kim ngạch xuất nhập khẩu giai đoạn 2000 – 2011 ................................... 22
Hình 2.4: Mức độ và cơ cấu đầu tư ........................................................................... 23
Hình 2.5: Thâm hụt ngân sách nhà nước của Việt Nam 2001 – 2011 ...................... 24
Hình 2.6: GDP và tỷ lệ lạm phát của Việt Nam (2000 – 2011) ................................ 24
Hình 2.7: Tình hình nợ công Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 ............................... 28
Hình 2.8: Cơ cấu nợ công Việt Nam năm 2002 – 2010 ............................................ 29
Hình 2.9: Nợ nước ngoài được chính phủ bảo lãnh 2002 – 2010 ............................. 30
Hình 2.10: Tình hình cam kết, ký kết và giải ngân ODA từ năm 1993- 2010 .......... 31
Hình 2.11: Tỷ lệ gia tăng vốn trên sản lượng theo khu vực ...................................... 33
Hình 2.12: Chỉ số tham nhũng của Việt Nam và một số nước trong khu vực .......... 35
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Mọi sự phát triển bền vững đều phải được đặt trên nền tảng của sự ổn định
đây là nguyên lý cơ bản của mọi hoạt động trong lịch sử loài người và cũng là
nguyên lý cơ bản của mọi sự phát triển nói chung. Không phải ngẫu nhiên mà các
quốc gia đặt ra những quy định và những chính sách để điều tiết nền kinh tế. Mục
đích chính của các chính sách này chính là ổn định kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện cho
tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững.
Thời gian qua, thế giới đã phải đương đầu với nhiều biến động lớn trong
lịch sử phát triển kinh tế xã hội. Nhiều cuộc khủng hoảng với quy mô quốc tế liên
tục diễn ra gây ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế thế giới. Thật vậy, những tác động
của cuộc khủng hoảng tài chính còn chưa qua đi thì thế giới lại phải đương đầu với
nguy cơ của một cuộc khủng hoảng mới. Lần này tâm điểm là Châu Âu với khủng
hoảng nợ công của một số nước như Hy Lạp, Ireland, Bồ Đào Nha,… đang đe dọa
sự tồn tại của đồng Euro và nguy cơ sụp đổ của nhiều nền kinh tế.
Là một quốc gia đang phát triển, nền kinh tế còn non trẻ và yếu ớt so với
các cường quốc khác, Việt Nam rất quan tâm đến diễn biến của cuộc khủng hoảng
đang diễn ra tại Châu Âu. Vì rằng sau khủng hoảng tài chính 2008, dù nền kinh tế
Việt Nam đã có nhiều khởi sắc song vẫn chưa sẵn sàng để đối phó với một cuộc
khủng hoảng mới. Hơn thế nữa, chúng ta cũng là một nước có tỷ lệ nợ công khá
cao, vì thế rất nhiều câu hỏi được đặt ra cho chúng ta: Nguyên nhân nào dẫn tới
khủng hoảng nợ công? Mức độ ảnh hưởng của khủng hoảng nợ công như thế nào?
Liệu Việt Nam có khả năng lâm vào một cuộc khủng hoảng nợ trong tương lai gần
hay không? Làm thế nào để Việt Nam tránh được một cuộc khủng hoảng nợ trong
tương lai? Đó cũng là lý do tác giả chọn và nghiên cứu đề tài “Quản lý nợ và dự
báo khủng hoảng nợ tại Việt Nam”
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu nguyên nhân khủng hoảng nợ và rút ra bài học kinh nghiệm từ
cuộc khủng hoảng nợ công của các quốc gia Châu Âu
- Phân tích, đánh giá thực trạng nợ công của Việt Nam trong thời gian qua và
lượng hóa khả năng xảy ra khủng hoảng nợ ở Việt Nam
- Trên cơ sở phân tích, đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả quản
lý nợ công và phòng ngừa khả năng rơi vào khủng hoảng nợ cho Việt Nam
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung vào việc phân tích thực trạng nợ và
quản lý nợ ở Việt Nam nhưng chủ yếu đi vào phân tích nợ của khu vực công.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng nợ công, quản lý nợ công ở
Việt Nam trong giai đoạn 2001 – 2010 và dự báo khả năng xảy ra khủng nợ ở Việt
Nam trong giai đoạn 2011 - 2020.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Thu thập thông tin: Dựa trên nguồn số liệu công khai hàng năm của các báo cáo
của các định chế tài chính, các số liệu thống kê của các Ngân hàng Trung Ương,
Cục Thống kê của các nước trên thế giới và thông tin công bố của cơ quan hữu quan
Việt Nam. Ngoài ra, thông tin còn được tổng hợp từ những nghiên cứu của các nhà
nghiên cứu trên Thế giới và Việt Nam.
- Phương pháp xử lý thông tin:
+ Tổng hợp nghiên cứu của các nhà kinh tế trên Thế giới
+ Hệ thống, phân tích, đối chiếu, thống kê, tổng hợp các dữ liệu thu thập
được để đưa ra những đánh giá định tính về nguyên nhân khủng hoảng nợ Châu Âu
và thực trạng nợ công của Việt Nam trong thời gian qua. Đồng thời, sử dụng
phương pháp phân tích định lượng để phân tích tính ổn định nợ và dự báo nguy cơ
khủng khoảng nợ của Việt Nam.
5. Cấu trúc của luận văn
Nội dung nghiên cứu chủ yếu của đề tài: ngoài phần mở đầu và kết luận,
nội dung chính của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về nợ và khủng hoảng nợ
Chương 2: Thực trạng nợ công ở Việt Nam
Chương 3: Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nợ công và phòng ngừa
khả năng rơi vào khủng hoảng nợ cho Việt Nam
1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỢ VÀ KHỦNG HOẢNG NỢ
1.1 Tổng quan về nợ
1.1.1 Một số khái niệm
1.1.1.1 Nợ công
Nợ công theo định nghĩa của Ngân hàng thế giới (WB) là nghĩa vụ nợ của
khu vực công, bao gồm các nghĩa vụ nợ của: Chính phủ Trung Ương và các bộ; các
cấp chính quyền địa phương; ngân hàng Trung Ương; các thể chế độc lập nhưng
nguồn vốn hoạt động của nó do ngân sách Nhà nước quyết định (trên 50% vốn
thuộc sở hữu Nhà nước) và trong trường hợp vỡ nợ thì Nhà nước phải trả nợ thay.
Theo Luật Quản lý Nợ công của Việt Nam có hiệu lực từ 01/01/2010, nợ
công bao gồm các khoản: Nợ Chính phủ; Nợ được Chính phủ bảo lãnh và Nợ chính
quyền địa phương.
Theo đó, nợ Chính phủ là khoản nợ mà Chính phủ vay trong nước và vay
nước ngoài (không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành
nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ). Nợ được Chính phủ bảo lãnh
là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay trong nước, nước
ngoài được Chính phủ bảo lãnh. Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền
phát hành.
Chính phủ có thể thực hiện việc vay nợ thông qua phát hành trái phiếu Chính
phủ để vay từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Ngoài ra, Chính phủ cũng
có thể vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể chế tài chính quốc tế,
như IMF, WB,… Hình thức này thường được chính phủ của các nước có độ tin cậy
tín dụng thấp áp dụng vì khi đó khả năng vay nợ bằng hình thức phát hành trái
phiếu chính phủ của họ không cao.
2
1.1.1.2 Nợ nƣớc ngoài
Định nghĩa nợ nước ngoài theo Quy chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài
tương đồng với định nghĩa chuẩn quốc tế về nợ nước ngoài, hiểu theo nghĩa rộng,
được đưa ra trong cuốn “Thống kê nợ nước ngoài: Hướng dẫn tập hợp và sử dụng”
do nhóm công tác liên ngành của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) soạn thảo năm 2003.
Định nghĩa này phát biểu như sau: “Tổng nợ nước ngoài, tại bất kỳ thời điểm nào,
là số dư nợ của các công nợ thường xuyên thực tế, không phải công nợ bất thường,
đòi hỏi bên nợ phải thanh toán gốc và/hoặc lãi tại một (số) thời điểm trong tương
lai, do đối tượng cư trú tại một nền kinh tế nợ đối tượng không cư trú”. [17]
Theo khoản 8 điều 2 quy chế vay và trả nợ nước ngoài (Ban hành kèm theo
Nghị định số 134/2005/NĐ-CP ngày 1 tháng 11 năm 2005 của Chính phủ):“Nợ
nước ngoài của quốc gia là số dư của mọi nghĩa vụ hiện hành (không bao gồm
nghĩa vụ nợ dự phòng) về trả nợ gốc và lãi tại một thời điểm của các khoản vay
nước ngoài tại Việt Nam. Nợ nước ngoài của quốc gia bao gồm nợ nước ngoài
của k hu vự c công và nợ nước ngoài của khu vực tư nhân”. Như vậy, theo cách
hiểu này nợ nước ngoài là tất cả các khoản vay mượn của tất cả các pháp nhân Việt
Nam đối với nước ngoài và không bao gồm nợ của các thể nhân (nợ của cá nhân và
hộ gia đình).
1.1.1.3 Nợ tƣ nhân
Nợ của khu vực tư nhân (hay còn gọi là nợ tư nhân) là các khoản nợ mà chủ
thể đi vay là khu vực tư nhân. Loại nợ này bao gồm nợ nước ngoài của khu vực tư
nhân không được khu vực công của cùng nền kinh tế đó bảo lãnh theo hợp đồng
[17]. Về bản chất đây là các khoản nợ do khu vực tư nhân tự vay, tự trả.
Trong thực tế, có những khoản nợ nước ngoài của khu vực tư nhân được một
thể chế thuộc khu vực công cư trú trong cùng nền kinh tế bảo lãnh một phần theo
hợp đồng (ví dụ như bảo lãnh phần nợ gốc, hoặc bảo lãnh một phần của nợ gốc).
Đối với những khoản nợ như vậy thì giá trị hiện tại của các khoản thanh toán được
bảo lãnh được xếp vào loại nợ nước ngoài của khu vực tư nhân được công quyền
3
bảo lãnh, trong khi những khoản thanh toán không được bảo lãnh được xếp vào loại
nợ nước ngoài của khu vực tư nhân không được bảo lãnh. Chẳng hạn, một khoản
nợ nước ngoài của doanh nghiệp tư nhân chỉ được Ngân hàng Nhà nước bảo lãnh
các khoản trả gốc, thì giá trị hiện tại của các khoản trả gốc sẽ được cộng vào nợ
nước ngoài của khu vực tư nhân được công quyền bảo lãnh, trong khi các khoản trả
lãi thuộc loại nợ nước ngoài của khu vực tư nhân không được bảo lãnh. [17]
1.1.2 Các chỉ tiêu đánh giá nợ
1.1.2.1 Các chỉ tiêu đánh giá mức độ nợ
Việc đánh giá tình trạng nợ công và nợ nước ngoài của một quốc gia là hết
sức quan trọng để đề ra những chính sách, chiến lược vay nợ cho đầu tư hợp lý.
Quy mô nợ và trả nợ, trả lãi so với nguồn thu trực tiếp và gián tiếp để trả nợ thường
được dùng để đánh giá mức độ nợ. Mức độ nợ cũng ngầm cho biết khả năng trả nợ
của các quốc gia trong trung và dài hạn. Một số chỉ tiêu thường dùng như:
Tổng nợ công/GDP và Nợ nước ngoài/GDP: Chỉ tiêu này phản ánh mức độ
nợ công và nợ nước ngoài so với quy mô sản xuất của nền kinh tế quốc dân. Qua
đó, có thể đánh giá mức độ chèn lấn đầu tư đối với khu vực tư của nợ công và khả
năng hấp thụ vốn vay nước ngoài của nền kinh tế. Về lâu dài, chỉ số này cũng
phản ánh được khả năng trả nợ của khu vực công và nền kinh tế, phản ánh rủi ro
về thanh toán dài hạn.
Nợ công/Thu ngân sách và Nợ nước ngoài/Kim ngạch xuất khẩu: Đây là chỉ
tiêu phản ánh mức độ vay nợ so với nguồn thu trực tiếp từ nền kinh tế để hoàn trả
nợ - nguồn thu ngân sách và kim ngạch xuất khẩu.
Nghĩa vụ hoàn trả nợ công hàng năm so với GDP và thu ngân sách: Chỉ tiêu
này giúp theo dõi được nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi hàng năm của Chính phủ và chính
quyền địa phương so với qui mô của nền kinh tế và thu ngân sách, phản ánh mức độ
rủi ro thanh khoản trong ngắn hạn cũng như nguồn lực khả dụng của Chính phủ và
chính quyền địa phương. Nếu các tỷ lệ này tăng qua các năm nghĩa là trách nhiệm
nợ của Chính phủ đang trở nên lớn hơn năng lực sản xuất của nền kinh tế và khả
4
năng thu ngân sách Nhà nước. Điều này cũng hàm ý rằng trong tương lai có thể
gánh nặng thuế sẽ gia tăng.
Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia so với kim ngạch xuất khẩu: Đây là
chỉ tiêu phản ánh khả năng hoàn trả nợ nước ngoài từ nguồn thu xuất khẩu hàng hóa
dịch vụ, qua đó phản ánh tính thanh khoản của nợ nước ngoài.
Dự trữ ngoại hối so với nợ nước ngoài ngắn hạn : Chỉ tiêu này phản ánh khả
năng sử dụng dự trữ ngoại hối nhà nước để trả các khoản nợ nước ngoài ngắn hạn.
Nghĩa vụ nợ dự phòng/Thu ngân sách: Chỉ tiêu này phản ánh rủi ro không có
khả năng hoàn trả của các chủ thể khác nhưng được Chính phủ, cơ quan được ủy
quyền của Nhà nước hoặc chính quyền địa phương bảo lãnh thanh toán một cách
công khai hoặc ngầm định.
1.1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá cơ cấu nợ
Cơ cấu nợ hàm chứa những thông tin quan trọng về mức độ rủi ro của nợ.
Thông thường rủi ro sẽ cao khi tỷ trọng nợ ngắn hạn, tỷ lệ nợ nước ngoài và tỷ lệ nợ
được chính phủ bảo lãnh cao. Một số chỉ số đánh giá cơ cấu nợ công như:
Nợ ngắn hạn/Tổng nợ: Phản ánh tỷ trọng các khoản nợ cần thanh toán
trong thời gian nhỏ hơn một năm trong tổng nợ. Nếu thời hạn vay ngắn hạn chiếm
tỷ lệ lớn trong tổng nợ nghĩa là các nghĩa vụ trả nợ phải thực hiện trong tương lai
gần. Do vậy, cần phải so sánh nợ ngắn hạn với qui mô của quỹ dự trữ quốc gia.
Thông thường, nợ ngắn hạn có độ rủi ro cao hơn nợ trung và dài hạn, đặc biệt là đối
với những quốc gia mà khả năng tiếp cận thị trường vốn trong hoạt động vay nợ có
nhiều hạn chế.
Nợ nước ngoài/Tổng nợ: Tỷ lệ này càng cao thì gánh nặng nợ nước ngoài
càng lớn và rủi ro càng cao. Nợ trong nước thường ít rủi ro hơn vì Chính phủ có thể
tăng thuế thậm chí in thêm tiền để thanh toán khi đến hạn.
Nợ được Chính phủ bảo lãnh/Tổng nợ: Đối với các khoản nợ được Chính
phủ bảo lãnh, Chính phủ của nước đi vay sẽ chịu trách nhiệm trả vốn và lãi cho
5
nước cho vay trong trường hợp tổ chức đi vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo
cam kết trong hợp đồng. Do đó, một khi các tổ chức đi vay không thực hiện nghĩa
vụ trả nợ đầy đủ hay vỡ nợ thì nghĩa vụ trả nợ bất thường sẽ đè lên vai Chính phủ.
Trong số các chỉ tiêu đánh giá tình hình nợ công, chỉ tiêu nợ công/GDP
được quan tâm và sử dụng nhiều nhất. Đa số các quốc gia, các tổ chức kinh tế đều
sử dụng chỉ số này để xác định, đánh giá và dự báo tình hình nợ công của một quốc
gia và cũng lấy chỉ số này làm chỉ tiêu đánh giá mức độ an toàn hay rủi ro.
Các nhà phân tích thường cho rằng mức ngưỡng nợ công an toàn đối với một
quốc gia chỉ nên ở dưới mức 60% GDP (đây cũng là mức ngưỡng được ký kết trong
hiệp ước Maastricht bởi các thành viên Liên minh Châu Âu). Tỷ lệ nợ nước ngoài
so với GDP ở mức 30% là mức độ an toàn (theo chỉ tiêu đánh giá mức độ nợ
nước ngoài của WB). Theo kinh nghiệm quốc tế, nếu tỷ lệ nợ nước ngoài so với
GDP 50% thì nền kinh tế rơi vào tình trạng báo động về nợ. Khi đó cần phải
kiềm chế tổng mức vay nợ và bố trí cơ cấu nợ vay hợp lý theo hướng đẩy mạnh tốc
độ xuất khẩu để giữ tỷ lệ tổng mức nợ nước ngoài so với tổng kim ngạch xuất khẩu
< 165%, tức đảm bảo khả năng trả nợ.
Tuy nhiên, việc xác định ngưỡng nợ công an toàn chỉ là tương đối, không
nên quá dựa vào mức ngưỡng nợ. Nhiều quốc gia có tỷ lệ nợ/GDP thấp hơn rất
nhiều nhưng đã rơi vào tình trạng khủng hoảng nợ: cụ thể như Argnetina (2001;
45% GDP; nợ tính bằng ngoại hối); Ukraine (2007; 13% GDP; nợ doanh nghiệp
nhà nước); Thailand (1996; 15% GDP; hệ thống công ty/ngân hàng); Romania
(2007; 20% GDP; thâm hụt ngân sách), Venezuela (1981; 15% GDP; nợ ngắn
hạn),... (Benedict Bingham, 2010) [34]. Do đó, nợ công của quốc gia thực sự an
toàn hay không phải xem xét một cách toàn diện trong mối liên hệ với hệ thống các
chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, nhất là tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế, năng suất
lao động tổng hợp, hiệu quả sử dụng vốn (qua tiêu chí ICOR), tỉ lệ thâm hụt ngân
sách, khả năng chống đỡ rủi ro, khủng hoảng, biến động bất ngờ, ... Ngoài ra, những
tiêu chí như: cơ cấu nợ công, tỷ trọng các loại nợ, cơ cấu lãi suất, thời gian trả nợ,..
cũng cần được phân tích kỹ lưỡng khi đánh giá tính ổn định của nợ công.
6
1.1.3 Các nhân tố ảnh hƣởng đến nợ
1.1.3.1 Tỷ giá hối đoái
Trong cơ cấu danh mục nợ công, có những khoản nợ được vay bằng đồng
ngoại tệ. Vì vậy, sự biến động của tỷ giá hối đoái sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nợ
công. Tỷ giá hối đoái có thể có tác động làm tăng hoặc giảm giá trị các khoản nợ.
Các hợp đồng vay nợ được ký kết dựa trên một đồng tiền nhất định, thường là đồng
tiền của nước cho vay. Việc đồng tiền vay bị tăng hoặc giảm giá vào thời điểm trả
nợ, giá trị nợ tăng hoặc giảm tương ứng. Nếu đồng tiền vay có xu hướng tăng giá
liên tục, gánh nặng nợ cũng sẽ có xu hướng tăng liên tục. Tương tự như vậy, nếu
đồng nội tệ mất giá so với đồng tiền vay thì gánh nặng nợ cũng bị trầm trọng thêm.
1.1.3.2 Tình trạng của ngân sách nhà nƣớc
Nợ công vừa là kết quả của tình trạng thâm hụt ngân sách Nhà nước
(NSNN), vừa có thể là nguyên nhân làm gia tăng thâm hụt NSNN trong tương lai.
Nếu NSNN thâm hụt, nhu cầu vay nợ của Nhà nước sẽ gia tăng. Ngược lại, nếu
NSNN thặng dư, nhu cầu vay nợ giảm và Nhà nước có nguồn tài chính dồi dào để
có thể mua lại trái phiếu của mình trước hạn làm cho mức nợ công giảm xuống.
Theo Anwar Shah (2006), mối quan hệ giữa bội chi NSNN và nợ công có thể
biểu thị qua phương trình số học sau [21, tr. 273-275]:
Trong đó, là nợ nước ngoài tính bằng ngoại tệ, là tổng nợ trong nước
tính bằng đồng nội tệ, là thu phát hành tiền tính bằng đồng nội tệ, là tỷ giá
hối đoái, là thâm hụt ngân sách và là các khoản chi ngoài phạm vi NSNN.
1.1.3.3 Lạm phát
Lạm phát là vấn đề khó khăn luôn gặp phải tại các quốc gia đang phát triển.
Mức lạm phát tại các nước này thường cao hơn lạm phát của các nước chủ nợ là các
quốc gia đã phát triển. Theo thuyết ngang giá sức mua, lạm phát trong nước cao hơn
7
so với lạm phát nước ngoài thì tỷ giá hối đoái sẽ tăng lên để bù lại khoản chênh lệch
đó và điều này lại làm tăng thêm mức nợ vay thực tế. Do đó, mức lạm phát cao sẽ
gia tăng gánh nặng nợ cho Chính phủ.
1.1.3.4 Lãi suất
Sự biến động của lãi suất trên thị trường sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến những
khoản nợ công có lãi suất thả nổi và những khoản vay mới. Tỷ lệ các khoản nợ có lãi
suất thả nổi trong tổng nợ càng cao thì sự ảnh hưởng của lãi suất đến nợ công càng
lớn. Tương tự như thế, sự biến động của lãi suất thị trường cũng sẽ ảnh hưởng tới chi
phí dịch vụ nợ của những khoản vay mới. Mặc khác, ngay cả những khoản vay có lãi
suất cố định thì sự biến động của lãi suất thị trường cũng sẽ ảnh hưởng đến giá cả của
các công cụ nợ này, nghĩa là, gián tiếp ảnh hưởng tới quy mô nợ công.
1.1.3.5 Khả năng quản lý nợ
Chính sách quản lý nợ công kém có thể làm cho nợ công gia tăng. Thật vậy,
nợ không được cơ cấu tốt về thời hạn, lãi suất, đồng tiền vay nợ, ... có thể làm gia
tăng qui mô nợ và cả rủi ro, chi phí nợ. Vay nợ nhiều tạo áp lực buộc Nhà nước
phải tăng thuế trong tương lai để trả nợ vay, gây tổn thất về tính hiệu quả của việc
đánh thuế. Kết quả là, trong dài hạn làm cho nguồn thu ngân sách bị giảm sút, nguy
cơ gia tăng thâm hụt ngân sách. Thâm hụt ngân sách ở mức độ cao lại làm cho nợ
công gia tăng. Chính sách quản lý nợ công tốt có thể tối thiểu hóa chi phí dịch vụ
nợ, kiểm soát được rủi ro và qui mô nợ; đồng thời, tạo điều kiện thiết lập và duy trì
thị trường chứng khoán Nhà nước hiệu quả. Điều này một mặt làm giảm thiểu được
rủi ro và chi phí trong quản lý nợ công trung và dài hạn; mặt khác giúp Chính phủ
có sự chủ động trong tài trợ chi tiêu của mình.
1.1.3.6 Rủi ro quốc gia
Rủi ro quốc gia là những biến cố có thể xảy ra đối với quốc gia đó như chính
trị, kinh tế, tài chính, tình hình an ninh xã hội, ... Điều này được lượng hóa thông qua
8
hệ số tín nhiệm của các quốc gia này. Quốc gia nào có hệ số tín nhiệm càng cao thì
mức lãi suất đòi hỏi của chủ nợ đối với quốc gia đó càng thấp và ngược lại.
1.2 Khủng hoảng nợ
1.2.1 Khái niệm
Khủng hoảng nợ có thể được hiểu là tình trạng một quốc gia mất khả năng
hoàn trả nợ vay (gốc và lãi), phải đề nghị thương thảo lại về các thoả thuận vay nợ,
hoàn trả lãi và vốn gốc.
Trong một nghiên cứu gần đây của IMF [30] cho rằng một quốc gia được
xem là lâm vào khủng hoảng nợ khi nó bị các Công ty xếp hạng tín nhiệm xếp vào
hạng “không thể chi trả” hoặc nhận được một khoản cho vay lớn, vượt quá 100%
hạn mức ấn định trước từ IMF. Định nghĩa này bao gồm những trường hợp “gần
khủng hoảng” tức là không có khả năng chi trả nhưng nhờ IMF vẫn trả được nợ.
1.2.2 Mô hình lý thuyết cảnh báo khủng hoảng nợ
1.2.2.1 Cơ sở lý luận về khả năng chịu đựng thâm hụt trong cán cân tài
khoản vãng lai
(a) Cơ sở lý luận về cán cân thanh toán
Cán cân thanh toán có thể được định nghĩa là một bản báo cáo thống kê tóm
tắt có hệ thống các giao dịch kinh tế của một nền kinh tế với phần còn lại của thế
giới trong khoản thời gian xác định. Việc ghi nhận các giao dịch được thực hiện
thông qua ghi chép bằng bút toán kép. Điều này có nghĩa là, mỗi giao dịch phát sinh
đều được ghi sổ hai lần - đồng thời một khoản có và một khoản nợ. Cán cân thanh
toán có hai tài khoản chính là tài khoản vãng lai và tài khoản vốn.
Thâm hụt cán cân thanh toán có nghĩa là một hay nhiều tiểu tài khoản của
cán cân thanh toán như là tài khoản vãng lai, tài khoản vốn hay cán cân tổng thể (trừ
những thay đổi trong nguồn dự trữ ngoại tệ chính thức) trong tình trạng thâm hụt.
9
Tài khoản vãng lai (TKVL) là thành phần quan trọng trong cán cân thanh
toán quốc tế, là thước đo rộng nhất của mậu dịch quốc tế về hàng hóa, dịch vụ và
các khoản chuyển giao của một quốc gia. Thành phần của tài khoản vãng lai gồm:
cán cân thương mại hàng hóa, cán cân dịch vụ, cán cân thu nhập và cán cân chuyển
giao vãng lai một chiều.
Cán cân thương mại: ghi chép các giao dịch về xuất khẩu và nhập khẩu các
loại hàng hóa của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định cũng như mức
chênh lệch giữa chúng.
Cán cân dịch vụ: bao gồm các khoản thu - chi về các hoạt động dịch vụ: vận
tải, tài chính, viễn thông, y tế, giáo dục và các dịch vụ khác.
Cán cân thu nhập: ghi chép những khoản thu nhập của người lao động (tiền
lương, thưởng), thu nhập từ đầu tư và tiền lãi của những người cư trú và không cư trú.
Cán cân chuyển giao vãng lai: bao gồm những khoản viện trợ không hoàn
lại, giá trị của những khoản quà tặng và các chuyển giao khác bằng tiền và hiện vật
cho mục đích tiêu dùng giữa người cư trú và không cư trú.
(b) Các cách tiếp cận để đánh giá khả năng chịu đựng thâm hụt trong cán
cân tài khoản vãng lai.
Có hai cách tiếp cận khác nhau để đánh giá khả năng chịu đựng thâm hụt của
cán cân vãng lai [28]:
Cách tiếp cận thứ nhất dựa trên các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, tài chính và đối
ngoại chứa đựng rủi ro của khủng hoảng từ bên ngoài. Những chỉ số thường được
đề nghị sử dụng để phân tích là: Tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ đầu tư, kết quả hoạt động
xuất khẩu và mức độ mở cửa thương mại. Đây là những chỉ số phản ánh sát sao khả
năng trả nợ nước ngoài của một nước. Ngoài ra, những chỉ số về tốc độ tăng trưởng
tín dụng tư nhân, sự lành mạnh của hệ thống ngân hàng (như nợ khê đọng, chất
lượng giám sát), sự biến động của hoạt động thương mại, tỷ lệ tiền M2/dự trữ, tỷ
giá, … cũng được tính đến.
10
Khó khăn của cách tiếp cận này là việc sắp xếp và ưu tiên thứ tự của các chỉ
số và gộp chúng lại thành một thước đo tổng hợp về khả năng chịu đựng thâm hụt
TKVL. Hơn nữa, trong điều kiện thực tế của Việt Nam, các số liệu thống kê kinh tế,
đặc biệt là các số liệu về tài chính tiền tệ và hệ thống ngân hàng có độ tin cậy không
cao do chưa thống nhất được quan điểm trong vấn đề minh bạch hóa thông tin và
điều này đã gây rất nhiều khó khăn cho việc đánh giá và phân tích.
Cách tiếp cận thứ hai dựa trên điều kiện về khả năng thanh toán nợ nước
ngoài. Khả năng chịu đựng thâm hụt TKVL được đảm bảo nếu xu hướng cân bằng
thương mại phù hợp với khả năng thanh toán nợ giữa các giai đoạn. Khi một nước
mắc nợ (ròng) và có thâm hụt cán cân thương mại triền miên thì TKVL phải chuyển
từ tình trạng thâm hụt cao và kéo dài sang thặng dư hoặc mức độ thâm hụt chấp
nhận được để duy trì khả năng trả nợ. Nếu sự chuyển đổi trong thâm hụt TKVL
diễn ra trôi chảy mà không có sự thay đổi lớn nào trong quan điểm chính sách hiện
hành thì thâm hụt TKVL được cho là có thể chịu được. Trái lại nếu thâm hụt TKVL
giảm do thay đổi chính sách một cách mạnh mẽ, dẫn đến tình trạng khó khăn
nghiêm trọng của nền kinh tế thì lúc đó thâm hụt TKVL được coi là không thể chịu
đựng được.
Để một nước có khả năng trả nợ, chỉ số nợ trên GDP hoặc trên xuất khẩu
không thể tăng mãi được. Điều này gợi ý rằng một nước vay nợ cần phải giữ tỷ lệ
nợ trên GDP không tăng để đảm bảo khả năng thanh toán. Trong bối cảnh đó, khả
năng chịu đựng TKVL được đảm bảo nếu nợ nước ngoài ròng có khả năng duy trì
ổn định được.
Tuy nhiên, việc xác định khả năng duy trì thâm hụt TKVL bằng cách đánh
giá tỷ lệ nợ trên xuất khẩu hoặc trên GDP thường có một số hạn chế: (1) không xác
định được liệu tỷ lệ đó có thích hợp hay tối ưu hay không, (2) nếu một nước có mức
độ nợ thấp muốn thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế thì không nên theo đuổi mục
tiêu giữa tỷ lệ nợ trên GDP hay xuất khẩu không đổi. Hơn nữa, một số nhà kinh tế
tranh luận rằng khủng hoảng vẫn có thể xảy ra do mất cân đối về số dư nợ nước
ngoài và các yếu tố của thị trường vốn như lãi suất. Do đó, khả năng chịu đựng
11
thâm hụt TKVL được đánh giá không chỉ dựa vào khả năng thanh toán nợ nước
ngoài mà còn dựa vào những rủi ro khủng hoảng tiềm ẩn trong cán cân vốn.
1.2.2.2 Mô hình động về nợ của Jaime de Pine
Dựa trên đồng nhất thức của cán cân thanh toán, Jaime de Pine đã sử dụng
mô hình động về nợ để dự đoán chỉ số nợ trên xuất khẩu. Lần đầu tiên, mô hình
được sử dụng trong các phân tích nợ của các nước khu vực Châu Phi và Châu Mỹ
Latinh trong giai đoạn 1986-1990. Nguyên tắc cơ bản của biến động nợ đã được nêu
ra và được xác định bởi bốn chỉ số sau: chỉ số lãi suất trên tăng trưởng xuất khẩu;
chỉ số tăng trưởng nhập khẩu trên tăng trưởng xuất khẩu; chỉ số nợ gốc trên xuất
khẩu và chỉ số nhập khẩu trên xuất khẩu.
Mô hình nhấn mạnh đến hạn chế nhập khẩu quá mức, nghĩa là có sự chênh
lệch giữa nhập khẩu thực tế và nhập khẩu cho phép. Nhập khẩu cho phép là khối
lượng nhập khẩu tối đa mà vẫn cho phép chỉ số nợ trên xuất khẩu giảm. Mô hình
cuối cùng được chứng minh và đưa ra công thức như sau (xem Phụ lục 1):
(*)
Trong đó:
: Chỉ số nợ trên xuất khẩu và chuyển giao ròng
: Chỉ số giữa lãi suất trên tăng trưởng xuất khẩu và chuyển
giao ròng
: Chỉ số giữa tăng trưởng nhập khẩu trên tăng trưởng xuất
khẩu và chuyển giao ròng
: Chỉ số nhập khẩu trên xuất khẩu và chuyển giao ròng
12
Đây chính là phương trình hoàn chỉnh của Jaime de Pine với giả định tất cả
các biến trong mô hình đều là biến ngoại suy và các chủ thể kinh tế sẽ không thay
đổi hành vi của họ một khi hành vi này đã được xác định.
Theo phương trình (*), chỉ số nợ trên xuất khẩu và chuyển giao ròng ( )
được xác định bởi hai chỉ số: lãi suất trên tăng trưởng xuất khẩu và chuyển giao
ròng (a), và tăng trưởng nhập khẩu trên tăng trưởng xuất khẩu và chuyển giao ròng
(b). Hai biến số biết trước là chỉ số nợ trên xuất khẩu và chuyển giao ròng ( ) và
chỉ số nhập khẩu trên xuất khẩu ( ). Tham số a và b xác định sự biến động của chỉ
số nợ trong tương lai. Đường biểu diễn chỉ số nợ trên xuất khẩu và chuyển giao
ròng có thể chỉ ra khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ, theo như Jaime de Pine
(1989): “Nếu chỉ số nợ trên xuất khẩu và chuyển giao ròng tăng lên vô hạn, thì điều
này cho thấy cả nợ và thâm hụt cán cân thanh toán sẽ không có khả năng chịu đựng
được. Trái lại, nếu chỉ số nợ có xu hướng giảm xuống, thì nợ sẽ có khả năng chịu
đựng được và nước vay nợ có khả năng thanh toán nợ, nghĩa là nước vay nợ có khả
năng trả nợ của mình”[57].
1.2.3 Các kết quả nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới về nợ và khủng
hoảng nợ
Nợ công có ảnh hưởng quan trọng đến nền kinh tế cả trong ngắn và dài hạn.
Trong ngắn hạn, nợ có thể kích thích tổng cầu và sản lượng nhưng lại gây chèn lấn
vốn và giảm tăng trưởng trong dài hạn (Elmendorf and Mankiw, 1999). Nợ công
cao có thể làm cản trở quá trình tích lũy vốn và làm giảm tăng trưởng kinh tế thông
qua lãi suất dài hạn cao hơn (Gale và Orzag, 2003; Baldacci và Kumar, 2010), bóp
méo hệ thống thuế tương lai cao hơn (Barro, 1979; Dotsey, 1994), lạm phát (Sagent
và Wallace 1981; Barro 1995; Cochrane 2010), và sự không chắc chắn cao hơn về
các triển vọng và chính sách. Khủng hoảng nợ có thể gây ra một cuộc khủng hoảng
ngân hàng hay tiền tệ (Burnside et al., 2001; Hemming et al., 2003). Nợ công cao
cũng có khả năng hạn chế phạm vi của những chính sách tài khóa phản chu kỳ, có
13
thể dẫn đến tính không ổn định cao hơn và tăng trưởng kinh tế chậm hơn nữa
(Aghion và Kharroubi (2007) và Woo (2009)).
Nguyên nhân của khủng hoảng nợ cũng là một đề tài được quan tâm và
nghiên cứu nhiều. Trong nghiên cứu của mình, Gary A. Dymski (2002) đã nêu ra
năm nguyên nhân của khủng hoảng nợ quốc tế: (1) duy trì chính sách vĩ mô sai lầm;
(2) những bất ổn trong hợp đồng vay nợ; (3) những bất ổn trong mối quan hệ giữa
quốc gia chủ nợ và con nợ; (4) quan hệ bất ổn giữa các quốc gia chủ nợ; và (5)
những bất ổn trong việc di chuyển dòng vốn giữa các quốc gia trên thế giới. Theo
đó, giải pháp được đưa ra tương ứng là: sửa đổi các chính sách vĩ mô; chuẩn hóa các
hợp đồng vay nợ quốc tế; tăng cường mối quan hệ giữa các quốc gia chủ nợ và con
nợ; thực hiện minh bạch thông tin và chuẩn hóa việc di chuyển dòng vốn quốc tế.
Daniel Cohen và Richard Portes (2005) đã đề xuất một kiểu phân loại giản
đơn cho phép chia nguyên nhân của các cuộc khủng hoảng thành ba loại: khủng
hoảng lòng tin (chênh lệch lãi suất và khủng hoảng ngoại hối); khủng hoảng các chỉ
số cơ bản (tốc độ tăng trưởng kinh tế thực) và khủng hoảng chính sách kinh tế
(thâm hụt sơ cấp). Đối với những nước mắc nợ nhiều nhất thì tỷ trọng của thành
phần “lãi và khủng hoảng ngoại hối” có thể chiếm tới 40% giá trị nợ tăng thêm.
Trong một nghiên cứu gần đây, Cristina Arellano (2008) đưa ra một lời giải
thích hoàn toàn mới về nguyên nhân khủng hoảng nợ ở các nền kinh tế mới nổi.
Những bằng chứng thực nghiệm ở các nước phát triển cho thấy tài sản của các công
ty phá sản không được thanh lý cho các chủ nợ một cách thỏa đáng do cơ chế phá
sản yếu kém. Các doanh nghiệp vay để đầu tư vào các dự án với mức sinh lợi không
dự đoán trước được. Với một hợp đồng vay hoàn hảo, doanh nghiệp hoạt động tốt
trả được nợ, doanh nghiệp không hoạt động tốt phá sản và thanh lý tài sản để trả nợ.
Vấn đề ở đây là không thể thanh lý hoàn toàn được tài sản khi chúng xuất hiện với
khối lượng quá lớn. Điều này xảy ra khi các doanh nghiệp cùng lúc thực hiện hành
động từ chối trả nợ (có thể do phá sản). Nhưng nó cũng có thể xảy ra đối với cả các
doanh nghiệp hoạt động tốt vì họ nhận thấy rằng hậu quả cho hành động này không
lớn khi các doanh nghiệp khác đều làm như vậy. Khi điều này xảy ra, nguồn thu
14
thuế của Chính phủ sụt giảm dẫn đến Chính phủ không thể hoàn trả nợ nước ngoài
một cách đầy đủ. Qua phân tích, tác giả đã chỉ ra rằng việc từ chối trả nợ hàng loạt
của các doanh nghiệp trong nước khi gặp khó khăn (mà sau đó có thể dẫn đến
khủng hoảng nợ) sẽ tất yếu xảy ra khi cơ chế thanh lý tài sản quá yếu kém.
Tuy nhiên, khủng hoảng nợ thường không diễn ra một mình mà thường đi
kèm với một loại khủng hoảng khác tạo nên hiện tượng khủng hoảng kép. Nghiên
cứu thực nghiệm của C. Bauer, B. Herz và V. Karb (2003) đã chỉ ra rằng khủng
hoảng tiền tệ thường đi chung với khủng hoảng nợ hơn là khủng hoảng ngân hàng.
Bài nghiên cứu của nhóm tác giả đã phân tích bốn chính sách mà Chính phủ phải
lựa chọn, giữa phá giá nội tệ hay từ chối trả nợ, hay sử dụng cả hai, hay không sử
dụng gì cả. Nhìn chung, phá giá hay không sẽ phụ thuộc vào nền tảng kinh tế của
quốc gia và trả nợ hay không sẽ liên quan đến độ lớn của khoản nợ. Khi nền tảng
kinh tế là tồi tệ, khủng hoảng tiền tệ cũng có thể tránh được nếu biết duy trì một
mức nợ đủ thấp; và ngược lại khi mức nợ là khá cao, khủng hoảng nợ cũng có thể
tránh được nếu biết duy trì một nền tảng kinh tế đủ vững chắc. Ví dụ, khi mọi người
lo sợ khả năng quốc gia mất khả năng trả nợ, nó sẽ không chỉ châm ngòi cho cuộc
khủng hoảng nợ mà còn châm ngòi cho một cuộc phá giá tiền tệ.
Trong nghiên cứu của mình, Haji H H Semboja (1998) đã xây dựng mô hình
khủng hoảng nợ và từ đó đưa ra những cách giải quyết có lợi cho cả phía chủ nợ và
con nợ. Các mục tiêu đưa ra là: (i) Gia tăng phát triển kinh tế bằng cách thực hiện tái
cấu trúc, bao gồm những thay đổi trong chế độ chính trị, trong hệ thống tài chính, tiền
tệ và thương mại; (ii) Giảm mức nợ hiện tại cho các nước khủng hoảng tới mức tối
ưu, và nếu có thể, miễn nợ hoàn toàn cho các nước này. Và các chiến lược được đưa
ra để thực hiện các mục tiêu này là: (i) Tăng khoản vay cho các nước khủng hoảng để
giúp đỡ cho quá trình tái cấu trúc; (ii) Tăng khoản cho vay của các ngân hàng thương
mại và giảm lãi suất thực đến mức cần thiết để kích thích nhu cầu vốn ở các nước
này; (iii) Xây dựng chính sách (ở các nước phát triển) kích thích tăng trưởng kinh tế
và mở cửa thị trường cho các nước nghèo và đang phát triển xuất khẩu.
15
Cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra vào giữa năm 2008 đã dẫn đến mở rộng
chính sách tài khóa và thực hiện trong thời gian dài làm bùng nổ nợ công ở nhiều
nền kinh tế phát triển. Theo OECD, tổng nợ của khu vực Nhà nước ở các quốc gia
công nghiệp hóa hiện nay chắc chắn sẽ vượt quá 100% GDP vào năm 2011 (việc
chưa từng xảy ra trước đây). Sebastian Becker, Gunter Deuber và Sandra
Stankiewicz (2010) đã có bài nghiên cứu về vấn đề ổn định nợ công đến năm 2020
ở 17 thị trường phát triển (DMs) và 21 thị trường mới nổi (EMs). Nghiên cứu đo
lường các mức nợ công có thể xảy ra (từ năm 2010 đến năm 2020) trong kịch bản
gốc (baseline scenario) và kịch bản cú sốc (shock scenarios).
Theo kết quả dự báo của kịch bản gốc, tỷ lệ nợ công/GDP của các nước
DMs tiếp tục tăng đáng kể lên đến 133% vào năm 2020 (từ mức 102% năm 2010).
Ngược lại, tại các nước EM tỷ lệ nợ/GDP sẽ giảm xuống 35% từ khoảng 46% năm
2010. Cụ thể, các nước như Nhật Bản, Hy Lạp, Mỹ, Bồ Đào Nha, Ý, Anh, Ireland
và Pháp đều có thể có tỷ lệ nợ trên 100% vào năm 2020; tại Úc, Đan Mạch, Thụy
Sỹ và Bỉ tỷ lệ nợ/GDP dự báo sẽ sụt giảm. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng vấn đề
bất ổn nợ công trước đây thường được xem là vấn đề thường xảy ra đối với các
nước EM nhưng giờ đây lại đang trở thành vấn đề đối với các nước DM. Và không
chỉ các quốc gia nhỏ (Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Ireland) mà còn là vấn đề cho các nền
kinh tế lớn như Nhật Bản, Mỹ và Anh.
Kết quả của kịch bản cú sốc tăng trưởng của GDP thực là nợ công/GDP ở
các nước EM đạt mức 40% GDP năm 2020 (so với 35% trong kịch bản gốc và 46%
năm 2010), các nước DM tăng lên 150% GDP (so với mức 133% của kịch bản gốc
và 102% năm 2010). Trong kịch bản cú sốc tỷ lệ lãi suất, nợ của các nước EM vẫn
giữ ở mức thấp hơn mức 2010 (xấp xỉ 38%), tỷ lệ nợ của các nước DM đạt xấp xỉ
139% (so với mức 133% trong dự báo gốc). Trong kịch bản cú sốc cán cân cơ bản,
nợ công của EM có thể chiếm 44% GDP năm 2020 (năm 2010 là 46%); đối với các
nước DM, nợ công có thể tăng tương đương mức dự báo trong kịch bản cú sốc tăng
trưởng GDP (148% so với 102% năm 2010). Dưới cú sốc kết hợp, nợ của EM ở
16
mức 42% GDP năm 2020, vẫn thấp hơn năm 2010; ở các nước DM, số nợ công có
thể tăng tới 151% GDP vào năm 2020.
Viễn cảnh năm 2020 và những phân tích về nợ mục tiêu của bài nghiên cứu
cho thấy rằng tình hình bất ổn nợ ở các nước DM diễn biến xấu hơn ở các nước EM;
nợ công có thể trở nên hay ít nhất có rủi ro trở nên không thể kiểm soát được tại
nhiều quốc gia phát triển và một vài quốc gia mới nổi. Bởi hầu hết các quốc gia mới
nổi có đủ khả năng để điều hành các chính sách tài khóa mở rộng, thậm chí với mức
nợ ban đầu vừa phải có thể đặt các quốc gia ở vị thế dễ dàng ổn định hoặc họ còn có
thể tăng tỷ lệ nợ trên GDP.
1.3 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu
Kinh tế Việt Nam đã hội nhập khá sâu vào kinh tế thế giới, thể hiện qua tỷ
lệ xuất nhập khẩu và dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chiếm tỷ lệ khá
cao. Cuộc khủng hoảng nợ công của Hy Lạp và một số nước khác ở Châu Âu cũng
ít nhiều ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam và cũng là một bài học cho Việt Nam
khi nhìn lại vấn đề nợ công và mô hình tăng trưởng của nền kinh tế.
1.3.1 Không phụ thuộc quá nhiều vào nguồn tài trợ nƣớc ngoài
Mô hình tăng trưởng dựa quá nhiều vào nguồn vốn đầu tư bên ngoài sẽ dễ
bị tổn thương trước những thay đổi trong niềm tin của giới đầu tư và một khi nền
kinh tế thế giới ngưng trệ . Khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp và các nước Châu Âu là
một bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Tỷ lệ đầu tư/GDP của Việt Nam trong những năm gần đây đều ở mức trên
40%. Trong con số 40%, có hơn 10% là từ dòng vốn từ bên ngoài. Trong ngắn hạn,
Việt Nam chưa phải chịu áp lực quá nhiều từ việc suy giảm các dòng vốn đến từ
bên ngoài. Tuy nhiên xét về dài hạn, tình trạng phụ thuộc quá nhiều vào các dòng
vốn đầu tư nước ngoài kéo dài sẽ khiến Việt Nam gặp phải nhiều rủi ro tương tự
như Hy Lạp.
Kinh tế Việt Nam vẫn đang tiềm ẩn những rủi ro, khi tăng trưởng dựa quá
nhiều vào dòng vốn đầu tư từ bên ngoài. Do đó, chỉ có tái cấu trúc nền kinh tế và cải
17
thiện chất lượng tăng trưởng mới giúp Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng
cao trong những năm sắp tới.
1.3.2 Chi tiêu công hiệu quả, hạn chế thâm hụt ngân sách
Cơ hội được tiếp cận dễ dàng nguồn tín dụng lãi suất thấp từ khi gia nhập
Liên minh Châu Âu (EU) đã khiến cho chính phủ Hy Lạp chi tiêu quá tay mà quên
mất những nghĩa vụ nợ phải trả trong tương lai. Đây là bài học rõ ràng cho những
quốc gia đang phát triển theo đuổi những mục tiêu tăng trưởng nhanh, nếu cứ tiếp
tục đi vay và sử dụng tiền vay như Hy Lạp đã làm trong thập kỷ vừa qua, chắc chắn
sẽ lâm vào tình trạng tương tự Hy Lạp hiện nay.
Mức thâm hụt ngân sách của Việt Nam tăng tương đối cao vào năm 2009
(theo Việt Nam công bố là 6,9% GDP nhưng theo cách tính của IMF, con số này lên
tới 9% GDP) do việc thực hiện chính sách kích cầu, do đó cần có biện pháp thắt
chặt tài khóa, quản lý chi tiêu tiết kiệm và hợp lý hơn nữa trong thời gian tới để
kiềm chế thâm hụt ngân sách. Chính sách quản lý nợ công và kế hoạch vay để bù
đắp thâm hụt ngân sách cần phải được tính toán một cách cẩn trọng và phù hợp.
1.3.3 Giám sát chặt chẽ hệ thống tài chính và các doanh nghiệp nhà nước
Khủng hoảng nợ công của Ireland bắt nguồn từ việc chính phủ đã không
kiểm soát chặt chẽ hệ thống ngân hàng dẫn đến việc cho vay quá mức khi nền kinh
tế tăng trưởng nóng và tạo thành bong bóng bất động sản. Do đó, chính phủ phải bỏ
tiền ra cứu hệ thống ngân hàng khi họ thua lỗ.
Khi Ireland và Hy Lạp lâm vào khủng hoảng nợ, hạng mức tín nhiệm của
trái phiếu các nước này bị hạ, chi phí lãi vay tăng lên cho các khoản vay mới và chi
phí bảo hiểm các khoản tiền vay của nước này tăng mạnh. Điều này tác động xấu
đến tâm lý các nhà đầu tư, khiến cho kỳ vọng về sự hồi phục kinh tế sẽ tiếp tục thấp.
Niềm tin của của nhà đầu tư đối với triển vọng của nền kinh tế và độ tín nhiệm của
Chính phủ một khi đã bị tổn thương thì khó có thể xây dựng lại.
Vì vậy, đối với Việt Nam, rất cần sự giám sát chặt chẽ đối với hệ thống tài
chính và các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN), giảm thiểu các khoản cho vay kém
18
chất lượng và cổ phần hóa những DNNN hoạt động kém hiệu quả. Đặc biệt là
Chính phủ nên hạn chế tối đa việc nhận bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay nợ nước
ngoài để tránh nguy cơ nhà nước phải đứng ra cứu trợ hoặc trả nợ thay một khi các
doanh nghiệp lâm vào tình trạng vỡ nợ hay phá sản như trường hợp của Ireland.
1.3.4 Minh bạch trong công bố thông tin
Công khai minh bạch là một nguyên tắc cơ bản và phổ biến trên thế giới
trong quản trị công nói chung, quản trị tài khóa, đặc biệt là trong quản trị nợ công.
Tuy nhiên, công bố thông tin không nhất quán cũng có thể thành con dao hai lưỡi,
gây ra tâm lý nghi ngờ và bất ổn cho các nhà đầu tư cũng như thị trường. Trường
hợp của Hy Lạp là điển hình cho việc công bố thông tin không nhất quán, sai lệch
số liệu thống kê và cố tình che giấu mức độ nợ thật sự đã khiến các nhà đầu tư giảm
sút lòng tin nặng nề làm cho khủng hoảng nước này càng trở nên trầm trọng. Trước
khủng hoảng, lãi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm của Hy Lạp cao hơn từ 10 đến 40
điểm so với trái phiếu cùng kỳ hạn của Đức nhưng khi khủng hoảng nợ nổ ra,
khoảng cách này tăng lên tới 400 điểm (1/2010) - mức kỷ lục tại thời điểm đó.
Cuộc khủng hoảng nợ ở châu Âu đã và đang đặt ra nhiều vấn đề, mà tăng
cường quản trị công, quản lý nguồn vốn vay mới chỉ là một góc nhìn. Ông Benedict
Bingham, Trưởng đại diện Văn phòng IMF tại Việt Nam cho rằng có 3 bài học mà
các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam cần rút ra từ cuộc khủng hoảng của
Hy Lạp và Ireland: Thứ nhất là cần sử dụng các khoản đầu tư công hiệu quả. Thứ
hai là mức thâm hụt ngân sách so với nợ công phải ở mức chấp nhận được. Thứ ba
là Chính phủ nên tăng cường sức cạnh tranh của nền kinh tế. Bởi chỉ có tăng trưởng
mới có thể chống được rủi ro và khủng hoảng”.
19
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Trong chương 1, tác giả đã trình bày một cách tổng quát về lý thuyết và các
kết quả nghiên cứu thực nghiệm về vấn đề nợ và khủng hoảng nợ. Qua đó, có thể
kết luận:
Nợ công có ảnh hưởng quan trọng đến nền kinh tế cả trong ngắn và dài hạn.
Trong ngắn hạn, nợ có thể kích thích tổng cầu và sản lượng nhưng lại gây chèn lấn
vốn và giảm sản lượng trong dài hạn. Nợ công cao có thể làm cản trở quá trình tích
lũy vốn và làm giảm tăng trưởng kinh tế.
Khủng hoảng nợ có thể gây ra một cuộc khủng hoảng ngân hàng hay tiền tệ,
không những để lại nhiều hậu quả nặng nề cho chính quốc mà còn gây ảnh hưởng
lớn đến tình hình kinh tế của các nước khác trên thế giới.
Từ vấn đề nợ công ở Châu Âu và một số nước trên thế giới, ta thấy rằng nợ
công không chỉ là vấn đề của những nước chậm hoặc đang phát triển. Cuộc khủng
hoảng nợ công Châu Âu đã để lại kinh nghiệm đáng quý cho Việt Nam như không
phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn vay từ nước ngoài, chi tiêu công hiệu quả, giám
sát chặt chẽ hệ thống tài chính ngân hàng và minh bạch trong công bố thông tin.
20
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM
2.1 Tổng quan tình hình kinh tế-xã hội Việt Nam hiện nay
2.1.1 Tăng trƣởng kinh tế
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, trong điều kiện kinh tế
thế giới phục hồi chậm, kinh tế Việt Nam đã sớm thoát khỏi tình trạng suy giảm,
từng bước phục hồi và tăng trưởng nhanh. Tốc độ tăng trưởng GDP thực năm 2010
là 6,8% (tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong 3 năm gần đây). Tuy nhiên, do chính
sách thắt chặt tiền tệ vào đầu năm 2011, tăng trưởng GDP quý 1/2011 giảm xuống
còn 5,4% và trong sáu tháng đầu 2011 ước tính vào khoảng 5,6%.
Nguồn: Tổng cục Thống kê, IMF và Cập nhật tình hình kinh tế Đông Á Thái Bình Dương (2011)
Hình 2.1 Tăng trƣởng GDP của Việt Nam so với 4 nƣớc ASEAN
Năm 2010, hầu hết các nước có thu nhập trung bình ở Đông Nam Á đều
phục hồi lại được tốc độ tăng trưởng kinh tế của giai đoạn trước khủng hoảng, nhưng
tốc độ tăng trưởng của Việt Nam vẫn thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng trung
bình thời kỳ trước khủng hoảng (Hình 2.1).
Cơ cấu kinh tế trong nước cũng đã có sự thay đổi đáng kể. Trong giai đoạn
1990 - 2010, tỷ trọng của khu vực nông-lâm nghiệp thủy sản đã giảm từ 38,7%
xuống 20,6%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng từ 22,7% lên 41,1%, khu vực
dịch vụ gần như không đổi: 38,6% năm 1990 và 38,3% năm 2010. Trong từng
21
nhóm ngành, cơ cấu cũng có sự thay đổi tích cực. Trong cơ cấu công nghiệp, tỷ
trọng của ngành công nghiệp chế biến tăng, chất lượng sản phẩm ngày càng được
nâng cao. Cơ cấu của khu vực dịch vụ thay đổi theo hướng tăng nhanh tỷ trọng của
các ngành dịch vụ có chất lượng cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch…
Nguồn: Tổng cục thống kê
Hình 2.2: Tăng trƣởng GDP và cơ cấu kinh tế 1990 - 2011
2.1.2 Tăng trƣởng xuất nhập khẩu
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã tăng trưởng khá tốt, trung bình mỗi
năm tăng hơn 20%. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008, tình hình xuất khẩu
của Việt Nam trở nên khó khăn. Kim ngạch xuất khẩu năm 2009 đã giảm 9,2% so
với năm 2008. Tuy nhiên, tình hình xuất khẩu của Việt Nam đã phục hồi mạnh mẽ
trong năm 2010 với tốc độ tăng trưởng chung là 27,2%, trong đó tăng trưởng các
sản phẩm ngoài dầu thô là 32%. Xu hướng tăng giá của nhiều mặt hàng xuất khẩu
cũng góp phần vào sự tăng trưởng xuất của Việt Nam. Kết quả trong 6 tháng đầu
năm 2011, tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 42,33 tỷ USD, tăng 30,3% so với
cùng kỳ năm trước (trong đó: do yếu tố tăng giá ước đạt 15,6% và do yếu tố tăng
lượng ước đạt 14,7%) và gấp 3 lần chỉ tiêu kế hoạch đề ra.
Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu cũng có sự chuyển dịch theo hướng tích cực
và ngày càng đa dạng. Trong giai đoạn 1991 - 1995, hàng xuất khẩu chủ lực của
Việt Nam ngoài dầu thô, gồm thủy sản, gạo, dệt may, cà phê, lâm sản, cao su,... Đến
22
năm 2010, lĩnh vực xuất khẩu chủ lực được mở rộng ra nhiều ngành nghề đặc biệt
các ngành có hàm lượng chất xám cao như máy tính, linh kiện điện tử, …
Hình 2.3: Kim ngạch xuất nhập khẩu giai đoạn 2000 – 2011
Nguồn:Tổng cục Thống kê
Về nhập khẩu: Do Việt Nam vẫn chủ yếu là nước gia công hàng hóa, nên
song song với sự gia tăng xuất khẩu là tình trạng nhập siêu ngày càng tăng. Kim
ngạch nhập khẩu năm 2010 đạt hơn 84,8 tỷ USD, tăng 21,2% so với năm trước.
Tổng kim ngạch nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2011 ước khoảng 48,99 tỷ USD, tăng
25,8% so với cùng kỳ năm trước (trong đó: do yếu tố tăng giá ước đạt 10,7% và do
yếu tố tăng lượng ước đạt 15,1%). Các ngành nhập khẩu tăng nhanh nhất bao gồm
sản phẩm xăng dầu, máy móc và thiết bị, các nguyên vật liệu trung gian khác cho
ngành xuất khẩu như nhựa, vải sợ và hóa chất. Xu hướng hoạt động thương mại vẫn
không thay đổi, trong đó Trung Quốc vẫn là nguồn nhập khẩu chính, sau đó là các
nước ASEAN và các quốc gia Đông Á khác.
2.1.3 Đầu tƣ phát triển
Giai đoạn 2000 – 2008, tỷ trọng đầu tư ở nước ta diễn ra theo xu hướng
giảm tỷ lệ đầu tư của Nhà nước, kêu gọi và gia tăng các nguồn vốn đầu tư nước
ngoài và doanh nghiệp trong nước tham gia. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu
năm 2008, xu hướng này lại đảo chiều vì đầu tư tư nhân sụt giảm và đầu tư công
23
tăng lên. Điều này cũng dễ lý giải do trong thời kỳ suy thoái, các doanh nghiệp
thường thu hẹp sản xuất, còn Chính phủ phải thực hiện chính sách tài khóa mở rộng
để gia tăng tổng cầu. Đến năm 2010, đầu tư Nhà nước đã giảm nhẹ trở lại. Trong 9
tháng năm 2011, tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước tính đạt 679,9 nghìn tỷ đồng, tăng
12,8% so với cùng kỳ và bằng 39,8% GDP, trong đó khu vực nhà nước chiếm 36%,
khu vực ngoài nhà nước chiếm 39% và đầu tư nước ngoài chiếm 25%. Trong tổng
vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước trong 9 tháng ước
tính đạt 131,4 nghìn tỷ đồng, bằng 67,3% kế hoạch năm và tăng 8,8% so với cùng
kỳ năm 2010.
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Hình 2.4: Mức độ và cơ cấu đầu tƣ
2.1.4 Thâm hụt ngân sách nhà nƣớc
Thâm hụt ngân sách nhà nước đang trên đà giảm nhưng tốc độ giảm chậm
hơn nhiều so với mức cần thiết để đạt được ổn định kinh tế vĩ mô. Theo Bộ Tài
chính, thâm hụt ngân sách năm 2010 ước tính giảm 1,3 điểm phần trăm, xuống còn
5,6% GDP (dự toán là 6,2% GDP) và dự toán năm 2011 thâm hụt ngân sách khoảng
5,3% GDP. Tuy nhiên, theo ước tính mới nhất của IMF, tổng thu ngân sách và viện
trợ tăng từ 26,7% GDP năm 2009 lên 28,2% trong năm 2010. Đồng thời, tổng chi
ngân sách (bao gồm chi ngoài ngân sách) ước tính đã giảm 1 điểm phần trăm, từ
35,7% GDP năm 2009 xuống 34,6% GDP năm 2010. Thâm hụt ngân sách do vậy
24
ước tính đã giảm từ 9% GDP trong năm 2009 xuống 6,4% GDP năm 2010. Con số
này cao hơn đáng kể so với mức 3% GDP, là mức cần thiết để đảm bảo bền vững
nợ lâu dài cho khu vực công.
Hình 2.5: Thâm hụt ngân sách nhà nƣớc của Việt Nam 2001 - 2011
Nguồn: Bộ Tài chính (e: ước thực hiện; f: dự toán)
2.1.5 Lạm phát
Hình 2.6: GDP và tỷ lệ lạm phát của Việt Nam (2000 – 2011)
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Lạm phát của Việt Nam trong những năm gần đây luôn ở mức cao và có xu
hướng gia tăng. Năm 2003 lạm phát chỉ ở mức 3,2% (so với năm trước) đã tăng lên
mức 8,3% vào năm 2005. Đến đầu năm 2008, giá cả tiêu dùng đã tăng gần gấp đôi
25
và tỷ lệ lạm phát bình quân của cả năm lên tới mức 23%. Do Chính phủ đã triển khai
quyết liệt và đồng bộ các giải pháp chủ động phòng ngừa tái lạm phát cao từ đầu
năm, nên tỷ lệ lạm phát năm 2009 đã được đưa về mức 6,9%. Tuy nhiên, sau đó tỷ lệ
lạm phát lại tiếp tục có xu hướng tăng mạnh trở lại, bình quân năm 2010 tăng 9,2%
so với năm 2009. Tính trong tháng 9 đầu năm 2011, giá tiêu dùng đã tăng hơn 22,4%
so với cùng kỳ và bình quân 9 tháng năm 2011 đã tăng 18,16% so với cùng kỳ năm
2010 – mức cao nhất kể từ tháng 12/2008.
Có thể nói lạm phát hiện nay của Việt Nam có nguyên nhân từ các yếu tố
bên ngoài – giá lương thực và nhiên liệu thế giới tăng, các hiện tượng thời tiết bất
thường – và các yếu tố bên trong như việc chậm thu về các biện pháp kích cầu, cung
tiền và tín dụng tăng trưởng nhanh trong sáu tháng cuối năm 2010, giá nhiên liệu và
giá điện tăng, cộng với lương tối thiểu tăng cũng góp phần vào gia tăng lạm phát.
Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới, tình hình kinh tế Việt Nam sẽ dần
được cải thiện trong sáu tháng cuối năm 2011. Tốc độ lạm phát dự kiến sẽ giảm
xuống khoảng 15% vào cuối năm, khi chính sách thắt chặt phát huy đầy đủ tác
dụng. Mức thâm hụt tài khoản vãng lai ước tính vào khoảng 5% GDP và thị trường
ngoại hối sẽ ổn định trong tương lai gần. Một khi sự ổn định kinh tế vĩ mô dần được
khôi phục, tình trạng “biến vốn” (capital flight) dự kiến sẽ giảm đi trong năm 2011,
giúp cho Ngân hàng Nhà nước dần dần củng cố được dự trữ ngoại hối. Dự báo tăng
trưởng kinh tế năm 2011 sẽ giảm xuống khoảng 6%, với tiềm năng tăng trở lại đáng
kể vào năm 2012. Các rủi ro chính đối với triển vọng này bao gồm việc chấm dứt
quá sớm các biện pháp bình ổn của Chính phủ, giá cả hàng hóa thế giới tiếp tục tăng
hay ảnh hưởng lây lan của cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu đến các khu vực
khác trên thế giới, …
26
2.2 Thực trạng nợ công của Việt Nam
2.2.1 Các nhân tố ảnh hƣởng đến qui mô nợ công
2.2.1.1 Tình trạng thâm hụt NSNN
Từ năm 2001 đến nay, nhìn chung thâm hụt NSNN Việt Nam luôn ở mức
từ 4% - 5% GDP (theo cách tính của Việt Nam), riêng năm 2009 thâm hụt NSNN
tăng cao lên đến 6,9% GDP và năm 2010 có giảm nhưng vẫn ở mức khá cao 5,6%
GDP. Theo Luật NSNN, thâm hụt NSNN được bù đắp bằng vay nợ trong và ngoài
nước, do vậy tổng dư nợ công năm 2009 của Việt Nam tăng hơn 23% so với năm
trước và vượt mức 50% GDP, năm 2010 tương đương 53% GDP. Như vậy, thâm
hụt ngân sách là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đến qui mô nợ công của Việt Nam.
2.2.1.2 Tỷ giá hối đoái
Mặc dù tỷ lệ nợ nước ngoài trong cơ cấu nợ công có xu hướng giảm dần (từ
82% năm 2002 xuống còn 59% năm 2010) nhưng bình quân cả giai đoạn 2002 –
2010 nợ nước ngoài vẫn chiếm tỷ lệ hơn 60% trong tổng nợ công. Đồng thời, nợ
nước ngoài của Việt Nam chủ yếu là nợ trung và dài hạn nên chịu ảnh hưởng của
rủi ro tỷ giá là rất lớn, lãi vay thực tế ngày càng tăng khi tỷ giá gia tăng. Trong khi
đó, từ năm 2001 đến nay nhìn chung các đồng ngoại tệ có chiều hướng tăng giá so
với đồng tiền Việt Nam. Chính thực tế này cho thấy tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng rất
lớn đến qui mô nợ công của Việt Nam.
2.2.1.3 Lãi suất
Nợ vay nước ngoài chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu nợ công của Việt Nam
và phần lớn các khoản vay này là theo điều kiện ưu đãi. Còn các khoản nợ vay trong
nước là vay theo lãi suất cố định, và chiếm tỷ lệ còn thấp trong tổng nợ. Do đó, mức
độ ảnh hưởng của lãi suất đến qui mô nợ công thời gian qua nhìn chung là không
đáng kể.
27
2.2.1.4 Lạm phát
Lạm phát cao là nguyên nhân mất giá đồng nội tệ, vì vậy sẽ làm gia tăng
gánh nặng nợ cho Chính phủ. Sau cuộc khủng hoảng Châu Á, lạm phát của các
nước trong khu vực tăng cao nhưng nhanh chóng giảm xuống và chuyển sang giảm
phát vào năm 2000, mức giảm phát của Việt Nam là -1.6%. Bằng nhiều biện pháp
kích cầu, Việt Nam đã thoát khỏi giảm phát và mức lạm phát năm 2003 là 3,2%
nhưng sau đó lạm phát lại liên tục tăng cao, đến năm 2008 đạt mức kỷ lục với 23%
và 9 tháng đầu năm 2011 tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam vẫn ở mức khá cao 18,2%. So
với các quốc gia Đông Á, Việt Nam là nước có tỷ lệ lạm phát cao nhất. Vì vậy, lạm
phát là nguyên nhân gây mất giá đồng tiền Việt Nam, vì vậy làm gia tăng nợ thực tế
của Việt Nam.
2.2.1.5 Hệ số tín nhiệm
Hệ số tín nhiệm của quốc gia cũng ảnh hưởng đến mức lãi suất và khả năng
vay nợ của quốc gia, bằng chứng là trong đợt phát hành trái phiếu quốc tế lần đầu ra
thị trường quốc tế của Việt Nam, nhà đầu tư chỉ mua trái phiếu với giá bằng 98,2%
mệnh giá. Nếu Việt Nam cải thiện được hệ số tín nhiệm ở mức cao hơn thì sẽ huy
động vốn trên thị trường quốc tế với lãi suất thấp hơn.
Mặt khác, trong thời kỳ đầu hội nhập, hệ số tín nhiệm của các doanh nghiệp
Việt Nam trong mắt thế giới còn thấp nên Nhà nước vẫn phải đứng ra bảo lãnh vay
vốn cho các doanh nghiệp trước các chủ thể nước ngoài. Chính điều này sẽ làm gia
tăng nghĩa vụ nợ dự phòng (công khai và ngầm định) của Chính phủ.
2.2.2 Nợ công của Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010
Theo IMF, nợ công của Việt Nam năm 2001 mới hơn 10 tỷ USD, tương
đương 31,6% GDP. Nhưng đến năm 2009 khoản nợ này đã vượt qua ngưỡng an
toàn (50% GDP), tăng lên đến 51,2% GDP và tiếp tục tăng đến 52,8% GDP vào
năm 2010. Như vậy, trong vòng 10 năm từ năm 2001 đến nay, quy mô nợ công đã
tăng lên gấp hơn 5 lần với tốc độ tăng trưởng trung bình hơn 15% mỗi năm. Và với
thực trạng tỷ lệ tiết kiệm nội địa trung bình chỉ hơn 27% GDP trong khi mức đầu tư
28
xã hội mỗi năm khoảng 42% GDP, Chính phủ sẽ phải vay thêm nợ để bù đắp thâm
hụt ngân sách thì tốc độ gia tăng nợ công trong những năm tới sẽ khó có thể chậm
lại. Nếu tiếp tục tăng với tốc độ này trong khi GDP vẫn tăng trưởng thấp thì không
bao lâu nữa, nợ công Việt Nam có thể sẽ vượt quá 100% GDP, một con số đáng báo
động đối với nền kinh tế đang phát triển và phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu sản
phẩm nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ như Việt Nam.
Hình 2.7: Tình hình nợ công Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010
Nguồn: IMF, World Economic Outlook Database, April 2011
Theo World Factbook của cơ quan tình báo trung ương Mỹ (CIA), nợ công
của Việt Nam năm 2010 lên tới 57,1% GDP (cao hơn mức 52,8% của IMF), đứng
hàng thứ 41/133 quốc gia về nợ nần (mức nợ công thấp nhất là 3,3% và mức cao
nhất là 234,1% GDP, có 52 quốc gia có mức nợ công trên 50% GDP). Trong các
nước ASEAN, Việt Nam là nước có tỷ lệ nợ công/GDP cao nhất (xem Phụ lục 5).
Xét về cơ cấu nợ, nợ công Việt Nam đang tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro khi
phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn nước ngoài. Nợ nước ngoài chiếm tỷ trọng khá lớn
trong cơ cấu nợ công (gần 60% vào năm 2010) và ngày càng tăng về quy mô qua
các năm mặc dù về tỷ trọng trong cơ cấu nợ có xu hướng giảm dần. Cụ thể năm
2002, mức nợ nước ngoài khu vực công ở mức hơn 9,4 triệu USD nhưng đến năm
2010 đã tăng lên mức hơn 32,5 triệu USD, chiếm gần 31,4% GDP (theo số liệu từ
29
IMF, tổng nợ nước ngoài của Việt Nam năm 2010 khoảng hơn 43,8 triệu USD,
chiếm đến 42,3% GDP). Theo tiêu chuẩn của WB thì với mức độ nợ nước ngoài
như hiện nay, Việt Nam đang ở trong tình trạng khó khăn về nợ (30% - 50% GDP).
Trong khi đó, nợ nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh đang tăng mạnh trong thời
gian gần đây (năm 2002 chỉ chiếm 3% trong tổng nợ nhưng đến năm 2010 con số
này lên đến 8,5%), điều này sẽ tạo ra gánh nặng nợ cao cho Chính phủ khi mà các
doanh nghiệp vay nợ hoạt động không hiệu quả, không có khả năng trả nợ và Chính
phủ phải đứng ra trả nợ thay khi các khoản nợ này đến hạn.
Hình 2.8: Cơ cấu nợ công Việt Nam năm 2002 - 2010
Nguồn:Bộ tài chính và IMF
Tuy nhiên, nợ nước ngoài của Việt Nam chủ yếu là vốn hỗ trợ phát triển
chính thức (ODA) với lãi suất thấp và thời gian cho vay dài, tỷ lệ vay thương mại là
không nhiều nên áp lực chi trả thấp và dòng vốn vay nợ nước ngoài tương đối ổn
định. Cơ cấu nợ mà tỷ lệ vay ngắn hạn càng cao thì dòng vốn càng dễ đổi chiều và
gây bất ổn cho nền kinh tế. Trên thực tế, trong cuộc khủng hoảng Châu Á 1997
khiến nhiều nước rơi vào khủng hoảng do các dòng vốn chảy ra nhất là những nước
vay nợ ngắn hạn cao như Thái Lan, nhưng Việt Nam lại không bị ảnh hưởng trực
tiếp một phần là nhờ tỷ lệ nợ ngắn hạn thấp.
30
Hình 2.9: Nợ nƣớc ngoài đƣợc Chính phủ bảo lãnh 2002-2010
Nguồn: Bộ tài chính
Điều đáng lo ngại là nợ nước ngoài đang tăng nhanh trong khi hiệu quả đầu
tư của các dự án sử dụng vốn từ các khoản nợ vay lại thấp, nạn tham nhũng và lãng
phí vẫn không hề giảm đi. Hơn nữa, Việt Nam sẽ dần dần bị giảm đi các khoản vay
ưu đãi do trở thành nước có thu nhập trung bình, thay vào đó là các khoản vay
thương mại với lãi suất cao hơn và thời gian ngắn hơn. Điều này đòi hỏi việc sử
dụng vốn phải được kiểm soát chặt chẽ, mang lại hiệu quả kinh tế nhiều hơn nữa,
nếu không, gánh nặng nợ quốc gia sẽ ngày càng trầm trọng, đặt quốc gia trước áp
lực của sự vỡ nợ.
2.2.3 Tình hình sử dụng nợ công
Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế, nợ công đã đóng
góp nhất định đến công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Dòng nợ nước ngoài
dưới hình thức ODA ngày một tăng, góp phần lấp vào lỗ hổng thiếu hụt giữa tiết
kiệm và đầu tư; thiếu hụt của cán cân thanh toán quốc tế. Nợ công trong nước tạo ra
nguồn vốn đầu tư ổn định để Chính phủ thực hiện thành công các chương trình đầu
tư công, chương trình phát triển kinh tế xã hội theo các mục tiêu hoạch định, tạo nền
tảng cho sự phát triển kinh tế bền vững. Tuy nhiên, tình hình sử dụng nợ công ở
31
Việt Nam lại không đạt hiệu quả cao, thể hiện qua tình trạng chậm trễ trong giải
ngân vốn đầu tư và hiệu quả đầu tư thấp (hệ số ICOR cao).
Nguồn vốn ODA đã bổ sung một nguồn kinh phí quan trọng cho đầu tư
phát triển, chiếm khoảng 11% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và khoảng 17% trong
tổng vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước (trong thời kỳ 1993 – 2007). Mức cam kết
ODA hàng năm đều tăng, năm sau cao hơn năm trước, cho thấy sự ủng hộ của cộng
đồng thế giới đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam sau đổi mới.
Tuy vậy, tỷ lệ vốn ký kết luôn thấp hơn vốn cam kết cho thấy Việt Nam cần phải nỗ
lực hơn nữa để nhận được sự tin tưởng của các nhà tài trợ vào các dự án phát triển
của Việt Nam.
Hơn nữa, việc quản lý và sử dụng vốn ODA còn nhiều bất cập, tình hình
thực hiện dự án thường bị chậm ở nhiều khâu: chậm thủ tục, chậm triển khai, tiến
độ giải ngân chậm (chỉ đáp ứng được 70 – 80% yêu cầu giải ngân bình quân một
năm), tỷ lệ giải ngân thấp (trung bình chỉ bằng 60% vốn cam kết và bằng khoản
80% vốn ký kết). Do vậy, thời gian hoàn thành dự án kéo dài làm phát sinh các khó
khăn, đặc biệt là vốn đầu tư thực tế thường tăng hơn so với dự kiến và cam kết;
đồng thời cũng làm giảm tính hiệu quả của dự án khi đi vào vận hành khai thác.
Hình 2.10: Tình hình cam kết, ký kết và giải ngân ODA từ năm 1993 – 2010
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
32
Ngoài ra, tình trạng chậm trễ trong giải ngân vốn đầu tư từ NSNN và nguồn
vốn trái phiếu Chính phủ cũng diễn ra khá thường xuyên. Theo báo cáo của Kho
bạc Nhà nước, tính đến hết tháng 10/2009 mới giải ngân được 26.586 tỷ đồng trong
số 64.000 tỷ đồng vốn trái phiếu Chính phủ, bằng 47,5% kế hoạch năm. Tình trạng
dự án, công trình thi công dở dang, kéo dài, chậm tiến độ vẫn chậm được khắc
phục. Điều này cùng với sự thiếu kỷ luật tài chính trong đầu tư công dẫn đến đầu tư
dàn trải, lãng phí, thất thoát vốn đầu tư ở tất cả các khâu của quá trình quản lý dự án
đầu tư.
Bảng 2.1: Tăng trƣởng GDP và ICOR của Việt Nam giai đoạn 1996 - 2010
Nguồn: Tổng cục thống kê và tính toán của tác giả
(*) Hệ số ICOR có thể tính theo nhiều cách. ICOR ở đây được tính bằng
cách lấy tỷ lệ tích lũy tài sản (tỷ lệ giữa vốn đầu tư phát triển so với GDP)
chia cho tốc độ tăng GDP.
Hiệu quả trong phân bổ nguồn lực sẽ quyết định kết quả của nền kinh tế, và
rộng hơn, quyết định sự phát triển của xã hội. Tỷ lệ đầu tư trên GDP của Việt Nam
luôn ở mức cao so với các nước trong khu vực (bảng 2.2). Tính trung bình từ năm
2006 đến 2010 tỷ lệ đầu tư/GDP của Việt Nam lên tới 42,85% trong khi tốc độ tăng
trưởng GDP chỉ đạt trung bình hơn 7% và dự kiến năm 2011, mức tăng trưởng GDP
cũng chỉ dừng ở 6,26%, do đó hệ số ICOR luôn ở mức cao hơn so với các nước
trong khu vực.
33
Hình 2.11: Tỷ lệ gia tăng vốn trên sản lƣợng theo khu vực
Nguồn: Ngân hàng Thế giới (Báo cáo phát triển Việt Nam 2009)
Hệ số ICOR càng cao đồng nghĩa với hiệu quả đầu tư trong nền kinh tế
càng thấp. Chất lượng tăng trưởng thấp kéo dài là tiền đề gây nên lạm phát, khủng
hoảng và suy thoái kinh tế. Chỉ số ICOR trung bình trong giai đoạn 2001-2008 của
Việt Nam là 5,3 (nghĩa là cần 5,3 đồng vốn đầu tư để tăng được một đồng GDP),
cao gấp rưỡi đến gấp hai so với các nước trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá (trung
bình chỉ ở mức trên dưới 3,0). Mặc dù đã có sự cảnh báo về sự lãng phí trong đầu tư
và hiệu quả thấp trong sử dụng nguồn lực của Việt Nam nhưng đến năm 2008 chỉ số
ICOR lại vượt ngưỡng, lên mức 6,63 và đến năm 2009 đã lên tới 8,04, mức cao nhất
từ trước đến nay trong khi tăng trưởng lại chỉ đạt 5,2%.
Bảng 2.2: Tăng trưởng GDP và ICOR của một số quốc gia Đông Á
Nguồn: Viện chiến lược phát triển – Bộ Kế hoạch và Đầu tư
34
Nguyên nhân ICOR cao:
- Đầu tư công kém hiệu quả, nhiều dự án không được hoạch định cẩn thận
nên tỷ suất sinh lợi của dự án không cao, đồng thời hiệu quả hoạt động của các
doanh nghiệp quốc doanh lại thấp. Theo báo cáo của Trung tâm Thông tin và Dự
báo kinh tế - xã hội Quốc gia, doanh thu sản xuất thuần được tạo ra bởi 1 đồng vốn
tại DNNN thấp. Trong năm 2006 cứ 1 đồng vốn tại DNNN tạo ra được 0,61 đồng
doanh thu, chưa bằng một nửa của doanh nghiệp tư nhân (DNTN) trong nước và chỉ
bằng 2/3 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Lực lượng lao động do DNNN sử
dụng chỉ bằng khoảng 28,4% tổng số lao động của các doanh nghiệp trong khi đó
DNTN thu hút 50%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thu hút 21,4%.
- Tham nhũng và lãng phí trong nhiều dự án đầu tư của Nhà nước và của
các DNNN làm dòng vốn thay vì phải chạy vào các dự án đầu tư thì lại chạy vào
tiêu dùng hay vào túi cá nhân. Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) đã công bố bảng
xếp hạng năm 2010 về “chỉ số nhận thức tham nhũng” (CPI) – chỉ số đánh giá mức
độ tham nhũng trong khu vực công, được tổng hợp dựa trên cơ sở hàng trăm cuộc
khảo sát ý kiến của các chuyên gia và doanh nghiệp. Mức độ nhận thức tham nhũng
được chấm từ điểm 0 (tham nhũng cao nhất) đến điểm 10 (“sạch” nhất).
Theo đánh giá của Tổ chức Minh bạch Quốc tế, chỉ số tham nhũng của Việt
Nam ở mức là 2,5 điểm (năm 2000), 2,4 điểm (năm 2003), 2,6 điểm (năm 2007) và
2,7 điểm năm 2008 (xếp hạng 121/180). Đến năm 2010, Việt Nam đã tăng hạng lên
116/178 mặc dù vẫn ở mức 2,7 điểm. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực thì
chỉ số tham nhũng của Việt Nam vẫn ở mức cao (Hình 2.12).
35
Hình 2.12: Chỉ số tham nhũng của Việt Nam và một số nƣớc trong khu vực
Nguồn: www.transparency.org
2.2.4 Khả năng trả nợ của Việt Nam
Nợ trong nước phần lớn được chi trả từ thuế nên khả năng thanh toán dựa
vào tỷ lệ thuế và tốc độ phát triển kinh tế. Tỷ lệ thuế cao quá có thể làm đình đốn
kinh tế vì không tạo ra động lực phát triển và người dân tìm cách để trốn thuế. Kinh
tế lụn bại cũng đưa đến mất khả năng trả nợ vì thuế thu được sẽ giảm trong khi khó
cắt giảm chi tiêu, từ đó có thể dẫn đến khả năng xảy khủng hoảng nợ. Như vậy,
Chính phủ mất khả năng trả nợ khi việc trả nợ đòi hỏi tỷ lệ thu thuế vượt ngoài khả
năng chịu đựng của dân chúng và doanh nghiệp, và do đó nhà nước thường dùng
các biện pháp thu thuế ngầm (không qua biểu thuế của Quốc Hội) là phát hành tiền
để tiêu, tạo ra lạm phát và làm mất ổn định nền kinh tế về mọi phương diện.
Đối với nợ nước ngoài, một nước có đồng tiền được chấp nhận rộng rãi và
được dùng làm tiền dự trữ như đồng đôla Mỹ, Euro, Yên Nhật thì có thể có tỷ lệ nợ
cao mà không ảnh hưởng đến khả năng trả nợ vì họ có thể phát hành trái phiếu dễ
dàng trên thị trường thế giới. Chẳng hạn như Mỹ, để thoát khỏi nguy cơ xảy ra
khủng hoảng nợ, Mỹ đã tiến hành nâng mức trần nợ công. Tuy nhiên, đối với những
36
nước như Việt Nam hay Hy Lạp, Ireland thì không thể làm thế do đó nếu mất khả
năng trả nợ thì kinh tế chắc chắn sẽ rơi vào khủng hoảng. Ngoài ra, một nước có nợ
chủ yếu là nợ chính thức từ các tổ chức quốc tế hay chính quyền các nước phát triển
cao sẽ không gặp khó khăn như các nước phải vay mượn chủ yếu trên thị trường
thương mại vì lãi suất đối với nợ chính thức thấp hơn nhiều so với vay thương mại.
Như đã phân tích, nợ công trong nước ít bị ảnh hưởng bởi điều kiện quốc
gia hơn nợ nước ngoài. Đối với nợ trong nước, Chính phủ có thể tăng thuế thậm chí
in thêm tiền để thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo hạn. Còn nợ nước ngoài có rủi ro
tín dụng cao hơn vì chính phủ có thể không có đủ ngoại tệ để thanh toán và ngoài ra
còn có rủi ro về tỷ giá hối đoái. Do đó, bài viết sẽ phân tích khả năng chi trả dựa
vào khả năng trả nợ nước ngoài của Chính phủ.
Bảng 2.3: Một số chỉ tiêu đánh giá mức độ nợ và khả năng trả nợ của Việt Nam
Nguồn: Tổng hợp từ Bộ Tài chính (Bản tin nợ nước ngoài) và IMF
Theo số liệu từ bảng 2.3, cho thấy tổng dư nợ nước ngoài trên GDP của
quốc gia ngày càng tăng qua các năm và đã vượt qua ngưỡng an toàn 30% (theo tiêu
chuẩn của WB). Nhưng nếu xét về tỷ lệ nợ nước ngoài/xuất khẩu và nghĩa vụ trả
nợ/xuất khẩu thì Việt Nam vẫn còn thấp hơn nhiều so với mức ngưỡng an toàn cho
phép (tương ứng < 165% và < 18%), cho thấy xuất khẩu vẫn có thể đảm bảo các
khoản vay nước ngoài. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, nguồn thu xuất khẩu
chủ yếu dùng bù đắp cho nhập khẩu. Ngoài ra, đặc thù hàng hóa xuất khẩu Việt
37
Nam chủ yếu là nguyên liệu thô, giá trị thấp, chưa qua chế biến và khai thác trực
tiếp từ tự nhiên nên nền tảng xuất khẩu không vững chắc.
Cán cân tài khoản vãng lai của Việt Nam liên tục bị thâm hụt trong vòng 10
năm nay, năm 2005 mức thâm hụt là 1,1% GDP nhưng đến năm 2007 tăng lên mức
9,8% GDP và tiếp tục tăng lên 11,9% GDP vào năm 2008, mặc dù trong thời gian
này chuyển giao đơn phương ở mức khá cao (9% năm 2007 và 8,1% năm 2008).
Các năm tiếp theo tài khoản vãng lai đã dần được cải thiện nhưng vẫn tiếp tục thâm
hụt, năm 2010 thâm hụt ở mức 4,0% và dự báo năm 2011 mức thâm hụt vẫn tương
đương năm 2010. Nguyên nhân chủ yếu của thâm hụt tài khoản vãng lai là do cán
cân thương mại liên tục thâm hụt qua các năm (cao nhất là năm 2007, thâm hụt đến
14,6% GDP). Do đó, nhu cầu ngoại tệ để bù đắp thâm hụt tài khoản vãng lai càng
cao, tạo áp lực vay thêm nợ mới hoặc làm giảm dự trữ ngoại hối của quốc gia, điều
này làm tăng thêm gánh nặng nợ và ảnh hưởng đến khả năng chi trả nợ trong tương
lai của quốc gia.
Bảng 2.4: Cán cân tài khoản vãng lai Việt Nam 2005 - 2010
Nguồn: Ngân hàng phát triển Châu Á và IMF
Dự trữ ngoại hối trên tổng dư nợ ngắn hạn của Việt Nam sụt giảm mạnh
qua các năm, từ mức 6380% năm 2006 sụt giảm chỉ còn 187% năm 2010. Nguyên
nhân là do dự trữ ngoại hối giảm trong khi nợ ngắn hạn lại tăng. Điều này cho thấy
khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của Việt Nam đang suy giảm mạnh. Theo bản tin
nợ nước ngoài số 7 của Bộ Tài chính, dự kiến nợ phải trả nước ngoài của Chính phủ
có xu hướng gia tăng. Năm 2011, dự kiến tổng nợ phải trả là 1.331,5 triệu USD, đến
năm 2020 con số này lên đến 2.380,3 triệu USD, cao gấp gần 2 lần so với năm
38
2011, chưa tính đến các rủi ro về tỷ giá, lạm phát và các nhân tố khác làm gia tăng
các khoản phải trả. Đồng thời, tỷ lệ nghĩa vụ nợ dự phòng/thu ngân sách liên tục
tăng qua các năm. Do đó, áp lực trả nợ của Chính phủ trong tương lai là rất lớn nên
cần phải quan tâm nhiều hơn nữa trong việc cân đối vay và trả nợ vay nước ngoài.
2.3 Đánh giá hiệu quả quản lý nợ công của Việt Nam
Hiệu quả quản lý nợ công thường được đánh giá qua khả năng đáp ứng
các mục tiêu quản lý nợ công. Ở khía cạnh khác, hiệu quả quản lý nợ công còn
được đánh giá thông qua tính ổn định nợ công và tính công bằng về gánh nặng nợ
giữa thế hệ hiện tại và thế hệ tương lai. Sự quyết định gia tăng hay giảm nợ công
của quốc gia đều có liên quan đến các khía cạnh này. Do đó, để đánh giá hiệu quả
quản lý nợ công của Việt Nam, bài viết sẽ đánh giá dựa trên các tiêu chuẩn mà
Ngân hàng Thế giới và IMF áp dụng để đánh giá tình trạng nợ cũng như hiệu quả
quản lý nợ công của các nước nghèo gánh nặng nợ cao (HIPCs) và các nước có
thu nhập thấp.
2.3.1 Đánh giá tính ổn định nợ nước ngoài theo mức ngưỡng của HIPCs
Việc đánh giá tính ổn định nợ công được thực hiện qua việc đánh giá các
chỉ tiêu sau:
- Tỷ lệ NPV của nợ/xuất khẩu (NPV/X): đo lường hiện giá thuần của nợ
nước ngoài liên quan đến khả năng trả nợ của quốc gia lấy từ nguồn thu xuất khẩu.
- Tỷ lệ NPV của nợ/thu ngân sách nhà nước (NPV/DBR): đo lường hiện giá
thuần của nợ nước ngoài liên quan đến khả năng trả nợ của quốc gia lấy từ nguồn
thu ngân sách nhà nước.
Theo mức ngưỡng của HIPCs, một quốc gia được xem là an toàn nếu như
tỷ lệ NPV/X nhỏ hơn 150%; tỷ lệ NPV/DBR nhỏ hơn 250%. Tuy nhiên, chỉ tiêu thứ
hai chỉ được sử dụng nếu như đáp ứng hai điều kiện: Tỷ lệ xuất khẩu/GDP phải lớn
hơn hoặc bằng 30% và tỷ lệ thu ngân sách nhà nước/GDP phải lớn hơn 15%.
39
Bảng 2.5: Ngƣỡng nợ nƣớc ngoài theo tiêu chuẩn HIPCs
Nguồn: Tổng hợp từ Bộ Tài Chính, ADB, IMF, WB và Phụ lục 6
Trong giai đoạn 2005 – 2010, tỷ lệ xuất khẩu/GDP của Việt Nam luôn ở
mức cao, trung bình là 65,9%, trong khi tỷ lệ thu ngân sách/GDP trung bình ở mức
28,4% (thấp nhất là 26,5% vào năm 2009). Do đó, Việt Nam đã đáp ứng được hai
điều kiện: tỷ lệ xuất khẩu/GDP > 30% và tỷ lệ thu ngân sách/GDP > 15%. Trong
khi đó, cả hai chỉ tiêu NPV/X và NPV/DBR của Việt Nam đều thấp hơn mức
ngưỡng của HIPCs, cho thấy Việt Nam đã đáp ứng được yêu cầu nợ bền vững.
Dịch vụ nợ/xuất khẩu (TDS/X) và dịch vụ nợ/nguồn thu ngân sách
(TDS/DBR): là những chỉ tiêu đo lường tính lỏng được WB và IMF đưa vào để
đánh giá mức độ bền vững nợ công. TDS/X đo lường khả năng thanh toán dịch vụ
nợ từ thu xuất khẩu. TDS/DBR đo lường khả năng thanh toán dịch vụ nợ từ thu
ngân sách nhà nước. Một quốc gia đảm bảo tính lỏng khi TDS/X thấp hơn 15% và
TDS/DBR thấp hơn 10%.
Tỷ lệ TDS/X trung bình của Việt Nam từ năm 2005 đến 2010 là 2% và
TDS/DBR là 5%. Xét theo mức ngưỡng thì các tỷ lệ tính lỏng nợ nước ngoài của
Việt Nam khá ổn định.
2.3.2 Đánh giá tính ổn định nợ trong nước
Nợ trong nước được đánh giá qua hai chỉ số là Nợ trong nước/GDP và Nợ
trong nước/thu ngân sách. Theo mức ngưỡng mà WB đưa ra ở bảng 2.6, nợ trong
nước của Việt Nam vẫn nằm trong giới hạn an toàn. Các chỉ tiêu nợ/GDP và nợ/thu
ngân sách của Việt Nam giai đoạn 2005 – 2010 luôn ở mức thấp hơn mức ngưỡng
40
an toàn của WB đưa ra nhưng khoảng cách so với ngưỡng không nhiều. Do đó,
trong trường hợp này, Việt Nam vẫn có khả năng gia tăng nợ công trong nước mà
không ảnh hưởng đến tính ổn định nợ nhưng với mức độ không lớn.
Bảng 2.6: Ngƣỡng nợ trong nƣớc theo tiêu chuẩn HIPCs
Nguồn: Tổng hợp từ Bộ Tài Chính, ADB, IMF, WB và Phụ lục 6
2.3.3 Đánh giá sức mạnh thể chế và chất lượng chính sách quản lý nợ
nước ngoài
Vào năm 2005, WB và IMF đã đưa ra một cách tiếp cận mới để đánh giá
chất lượng quản lý nợ công cho các nước có thu nhập thấp, đó là dựa vào chất
lượng chính sách và thể chế [51]. Cách tiếp cận trước đây dựa vào mức ngưỡng các
chỉ số nợ công chủ yếu được tính toán dựa vào kinh nghiệm lịch sử của các nước
HIPCs trong chương trình giảm nợ nhằm ngăn chặn cú sốc từ bên ngoài của các
nước này. Cách tiếp cận mới dựa vào khuôn khổ chi tiết của từng quốc gia trên nền
tảng thể chế và chính sách nhằm hướng đến phân tích nợ năng động. Điểm mới cơ
bản của cách tiếp cận này là định lượng các ngưỡng ổn định nợ dựa vào cơ sở chất
lượng của chính sách và thể chế. Nghĩa là, các quốc gia có chính sách và thể chế tốt
thì có thể chống đỡ được mức nợ cao hơn so với mức ổn định nợ cơ bản. Ngược lại,
quốc gia nào mà thể chế và chính sách yếu kém thì mức độ và quy mô nợ công cần
được khống chế trong giới hạn ngưỡng của các nước HIPCs.
Cách tiếp cận này đưa ra giá trị mức ngưỡng dựa vào tỷ lệ nợ truyền thống
để làm cơ sở đánh giá thể chế và chính sách của quốc gia (Country Policy and
Institutional Assessment: CPIA). Dựa vào giá trị ngưỡng, WB đã phân thành 3 mức
thực hiện chính sách: kém, vừa và mạnh.
41
% NPV của nợ trên
% Dịch vụ nợ trên
Xuất khẩu
GDP
Thu ngân sách Xuất khẩu Thu ngân sách
Kém (CPIA<3)
100
30
200
15
25
Vừa (3 150 40 250 20 30 Mạnh (CPIA>3,9) 200 50 300 25 35 Bảng 2.7: Mức ngƣỡng phụ thuộc vào chính sách và thể chế Nguồn:Ngân hàng Thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế Theo cách tiếp cận này và với số liệu của Việt Nam trong giai đoạn 2005 – 2010 cho thấy thể chế và chính sách quản lý nợ của Việt Nam được xếp vào mức thực hiện kém. 2.3.4 Đánh giá tính công bằng liên thế hệ Theo lý thuyết tân cổ điển, vay nợ gây chèn lấn đầu tư khu vực tư. Khi Chính phủ thực hiện dự án, cho dù được tài trợ bằng thuế hay vay nợ, thì những nguồn lực đều lấy từ khu vực tư. Như vậy, nợ có ảnh hưởng đến vốn đầu tư của khu vực tư và tạo ra gánh nặng cho thế hệ tương lai. Để khắc phục chèn lấn, yêu cầu các dự án đầu tư của Chính phủ phải có hiệu quả để thu hút lại sự đầu tư của khu vực tư Khi một quốc gia có vay nợ nước ngoài để tài trợ thiếu hụt ngân sách, giả sử tiền vay nợ dùng để tiêu dùng hiện tại, chắc chắn thế hệ tương lai phải gánh chịu gánh nặng nợ. Bởi vì mức tiêu dùng giảm xuống ở mức bằng số vay nợ cộng cho tiền lãi dồn tích mà phải trả cho các nhà tài trợ nước ngoài. Tiền vay nợ dùng để đầu tư, kết quả còn tùy thuộc vào năng suất của dự án. Nếu như tỷ suất sinh lợi của dự án đầu tư lớn hơn chi phí biên vay nợ nước ngoài thì sự liên kết giữa vay nợ và chi đầu tư thực tế làm cho thế hệ tương lai tốt hơn. Ngược lại, tỷ suất sinh lợi của dự án nhỏ hơn chi phí biên vay nợ thì thế hệ tương lai trở nên bị thiệt hơn. Thông qua các chương trình đầu tư công, nợ công Việt Nam được chuyển tải vào các dự án đầu tư, cải thiện cơ sở hạ tầng tạo nền tảng cho sự phát triển kinh tế bền vững. Điều này thể hiện qua chi tiêu công cho bốn khu vực như giáo dục, y tế, giao thông và nông nghiệp đã tăng đáng kể trong 10 năm qua. Tuy nhiên, như 42 phân tích ở trên, thông qua chỉ số ICOR, ta thấy rằng hiệu quả sử dụng nợ công và hiệu quả của các dự án đầu tư còn rất thấp. Việt Nam vay nợ chủ yếu để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, song hiệu quả đầu tư thấp nên nguồn thu hồi để trả nợ trong tương lai từ các dự án này sẽ bị hạn chế. Các khoản vay và chi tiêu hiện tại của Chính phủ không tạo nên nguồn thu hiệu quả trong tương lai sẽ làm tăng sức ép lên bội chi mới. Hậu quả là thế hệ tương lai sẽ phải gánh chịu gánh nặng nợ cao hơn thế hệ hiện tại. Tóm lại, thông qua phương pháp đánh giá hiệu quả quản lý nợ công của WB, ta thấy rằng nợ công Việt Nam vẫn nằm trong giới hạn an toàn theo tiêu chuẩn của HIPCs. Tuy vậy, các tỷ lệ nợ hiện tại còn an toàn cũng không loại trừ việc cần phải thận trọng trong quản lý nợ công, phải tăng cường hiệu quả sử dụng số tiền vay nợ được. Các dự án đầu tư từ nguồn vốn khu vực công mặc dù có sự đóng góp đáng kể đến tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua nhưng vẫn còn kém hiệu quả làm ảnh hưởng đến tính công bằng liên thế hệ về gánh nặng nợ, do đó cần cải thiện hơn nữa trong công tác quản lý nợ công của Việt Nam. Trong thời gian tới, nợ công của Việt Nam có tiếp tục nằm trong tầm kiểm soát hay không còn tùy thuộc vào việc hoàn thiện chính sách và thể chế, xây dựng và thực thi chiến lược quản lý nợ, kiểm soát tỷ lệ bội chi ngân sách và tốc độ tăng trưởng kinh tế. 2.4 Dự báo khả năng xảy ra khủng hoảng nợ ở Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 Theo tiêu chí đánh giá của WB, một nước được xem là rơi vào tình trạng nợ trầm trọng nếu như tỷ lệ Nợ nước ngoài/GDP > 50% hoặc Nợ nước ngoài/Xuất khẩu > 275%. Năm 2010, Nợ nước ngoài/GDP của Việt Nam ở mức 42,3% và Nợ nước ngoài/xuất khẩu khoảng 54,2%. Theo tiêu chí tỷ lệ nợ/xuất khẩu của WB thì tình trạng nợ của Việt Nam đang ở mức bình thường (< 165%). Tuy nhiên xét theo tiêu chí nợ/GDP thì Việt Nam đang ở mức độ khó khăn về nợ (30% - 50%). Đồng thời, tình hình cán cân tài khoản vãng lai của Việt Nam liên tục bị thâm hụt là một dấu hiệu đáng lo, có nguy cơ tiềm ẩn về khả năng chịu đựng thâm hụt TKVL và khả năng trả nợ nước ngoài trong tương lai. Trong khi đó, một phần khá lớn các khoản vay được dùng để tài trợ cho việc nhập khẩu hàng hóa, tức bù đắp thâm hụt TKVL. 43 Do đó, để đánh giá khả năng thanh toán nợ của Việt Nam trong tương lai ta sẽ xem xét tỷ lệ nợ/xuất khẩu trong giai đoạn 2011-2020 thông qua xây dựng mô hình cảnh báo khủng hoảng nợ của Jaim de Pine (1989) (xem chi tiết mô hình ở mục 1.2.2.2) (*) 2.4.1 Xác định các chỉ số tăng trƣởng xuất khẩu và chuyển giao ròng (gx), tăng trƣởng nhập khẩu (gm) và lãi suất (i) Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu (bao gồm chuyển giao ròng) và nhập khẩu trong giai đoạn 2011 - 2020 được ước lượng thông qua mô hình Kinh tế lượng (sử dụng phần mềm Eview 5.1) dựa trên dữ liệu từ năm 1990 - 2010 (xem Phụ lục 7A). Kết quả thu được như sau (xem phần kiểm định và ước lượng ở Phụ lục 7B): Ln(X_CGR) = 7,612121 + 0,179164t + [AR(1)=0,748438, AR(2)= -0,262867] + Ln(M) = 7,762969 + 0,174509t + [AR(1)=0,921863, AR(2)= - 0,500122] + Từ đó ước lượng tương ứng với tốc độ tăng trưởng nhập khẩu (hoặc xuất khẩu và chuyển giao ròng) bình quân hàng năm trong điều kiện các yếu tố khác không đổi và với mức ý nghĩa : Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu và chuyển giao ròng: 0,160343 < gx < 0,197985 Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu: 0,155207 < gm < 0,193811 Về lãi suất, theo thông tin từ Bộ kế hoạch và đầu tư, mức lãi suất trên toàn thế giới trong giai đoạn 2010 - 2015 ở trong khoảng từ 4,8% đến 6% và giảm xuống còn trong khoảng từ 4% - 5,5% trong giai đoạn 2015 - 2020 [1, tr. 145-146]. Qua đó, ta tính được lãi suất bình quân trong giai đoạn 2011-2020 là 5,075%. 2.4.2 Xác định các chỉ số a, b và dt Từ bảng số liệu ở Phụ lục 7A, có thể xác định được các giá trị năm gốc (năm 2010) để phân tích chỉ số nợ/xuất khẩu trong giai đoạn 2011 - 2020 như sau: Xuất khẩu và chuyển giao ròng: X_CGR0 = 80.855 triệu USD 44 Nhập khẩu: M0 = 84.801 triệu USD Nợ nước ngoài D0 = 43.812 triệu USD d0 = D0 /X_CGR0 = 0,5419 v0 = M0/ X0 = 1,0488 Khoảng tin cậy của các chỉ số a, b trong mô hình (*) được xác định thông qua các chỉ số gx, gm trong giai đoạn 1990 - 2010: 0,8771 a 0,9056 0,9643 b 1,0288 Từ tất cả các chỉ số đã được ước lượng cùng với giả thiết rằng các điều kiện trong nền kinh tế tương lai sẽ không có nhiều biến động, dựa vào mô hình (*) của Jaim de Pine để dự báo các chỉ số nợ trên xuất khẩu và chuyển giao ròng cho giai đoạn 2011 - 2020. Bảng 2.8: Chỉ số nợ trên xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 (Năm gốc 2010: =0,5419, =1,0488) Nguồn: Tính toán dựa vào mô hình của Jaime de Pine Kết quả bảng 2.8 cho thấy rằng: trong giai đoạn 2011 - 2020, bất kể chỉ số a nhận giá trị bao nhiêu trong khoảng tin cậy của mình thì chỉ số nợ trên xuất khẩu và 45 chuyển giao ròng không vượt qua mức 55% khi b nhận giá trị từ 0,9643 đến 0,9966 (tức b < 1). Khi b > 1 (b = 1.0288) thì chỉ số nợ trên xuất khẩu đã vượt ngưỡng 165% (mức độ khó khăn) nhưng điều này chỉ xảy ra vào năm 2019 trở đi và chưa vượt quá mức nợ trầm trọng 275%. Để thấy rõ hơn, ta cho b nhận giá trị từ 1 đến 1,0288 và dự báo thêm cho 5 năm tiếp theo. Ta có kết quả như sau: Bảng 2.9 Chỉ số nợ trên xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2025 (Năm gốc 2010: =0,5419, =1,0488, b chạy từ 1 đến 1,0288 ) Nguồn: Tính toán dựa vào mô hình của Jaime de Pine Dựa vào bảng trên ta thấy rằng, trong giai đoạn 2011 - 2020 chỉ số nợ trên xuất khẩu và chuyển giao ròng chỉ vượt ngưỡng 165% khi b > 1,02 (tức tốc độ tăng trưởng nhập khẩu lớn hơn 1,02 lần tốc độ tăng trưởng xuất khẩu và chuyển giao ròng). Tuy nhiên, nếu xét đến năm 2025 và với b > 1,02 thì chỉ số này sẽ vượt qua mức ngưỡng 275% vào năm 2024. Như vậy, xét theo tiêu chí của WB, trong điều kiện kinh tế vĩ mô ổn định, Việt Nam chỉ có nguy cơ khủng hoảng nợ khi tốc độ gia tăng nhập khẩu lớn hơn 1,02 lần tốc độ gia tăng xuất khẩu và chuyển giao ròng, và điều này chỉ có thể xảy ra sớm nhất từ năm 2024. Do đó, nếu xét trong giai đoạn 2011-2020 Việt Nam không có nguy cơ xảy ra khủng hoảng nợ nhưng vào những năm cuối giai đoạn này Việt 46 Nam có thể sẽ rơi vào tình trạng khó khăn về nợ nước ngoài. Nếu tốc độ tăng trưởng nhập khẩu vẫn tiếp tục lớn hơn tốc độ tăng trưởng xuất khẩu thì Việt Nam có thể sẽ rơi vào tình trạng nợ trầm trọng và có nguy cơ xảy ra khủng hoảng vào năm 2024. Nhận định chung Những phân tích trên mô hình Jaime De Pines cho thấy rằng tính ổn định của nợ ở Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào mối tương quan giữa tăng trưởng nhập khẩu và tăng trưởng xuất khẩu. Việt Nam sẽ luôn đảm bảo được khả năng thanh toán trong điều kiện hiện nay nếu như duy trì được tỷ lệ tăng nhập khẩu thấp hơn tỷ lệ tăng xuất khẩu. Khi đó, tỷ lệ nợ trên xuất khẩu sẽ có xu hướng giảm hoặc được kiềm chế trong trung hạn. Trong trường hợp nhập khẩu tăng ngang bằng xuất khẩu (b = 1), Việt Nam sẽ trở nên nhạy cảm trước những thay đổi của lãi suất. Nếu lãi suất tăng đến mức xấp xỉ tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu (a = 0,99) thì có thể dẫn đến tỷ lệ nợ trên xuất khẩu tăng theo tỷ lệ tuyến tính và đạt mức gần gấp 2 lần giá trị hiện nay vào năm 2020. Nhược điểm của mô hình nghiên cứu: Do nguồn dữ liệu hạn chế nên mô hình trên chỉ sử dụng số liệu theo năm và chỉ có 21 quan sát nhưng do dùng sai phân bậc 2 nên mô hình chỉ còn 19 quan sát, do đó hiệu quả của việc cảnh báo là chưa cao. Đồng thời, số liệu được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau nên việc xuất hiện độ lệch với các nghiên cứu khác là điều khó tránh khỏi. Do đó để đảm bảo cho mô hình hoạt động có hiệu quả thì cần thiết phải có một trung tâm xử lý dữ liệu đáp ứng đủ yêu cầu của mô hình dự báo. Mô hình được nghiên cứu là một mô hình định lượng, chỉ có tác dụng cảnh báo, hy vọng sẽ giúp ích cho các nhà hoạch định chính sách vĩ mô, không nên xem mô hình như là một công cụ tất yếu để dự báo khủng hoảng. 47 Trong toàn bộ chương 2, tác giả đã khái quát chung về tình hình phát triển kinh tế - xã hội và thực trạng nợ công Việt Nam hiện nay. Đồng thời, đánh giá hiệu quả quản lý nợ công và dự báo khả năng xảy ra khủng hoảng ở Việt Nam trong thời gian tới. Theo tiêu chuẩn của HIPCs và kết quả dự báo dựa vào mô hình của Jaime de Pines, nợ công Việt Nam hiện nay vẫn tương đối ổn định và nằm trong giới hạn an toàn. Tuy nhiên, quy mô nợ công đang có xu hướng tăng nhanh, nợ nước ngoài vẫn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu nợ công, trong khi đó cán cân tài khoản vãng lai thường xuyên bị thâm hụt, hiệu quả đầu tư của các dự án sử dụng vốn vay lại thấp và tình trạng tham nhũng, lãng phí trong đầu tư công vẫn chưa được khắc phục. Đồng thời, thông tin về nợ công chưa được công khai minh bạch. Do vậy, nếu Việt Nam không có chính sách hợp lý để nâng cao hiệu quả đầu tư và trong việc quản lý nợ công thì chắc chắn nguy cơ khủng hoảng nợ công ở Việt Nam sẽ diễn ra trong một tương lai không xa. Từ những lý luận về thực trạng nợ công tại Việt Nam và kết quả dự báo khủng hoảng nợ dựa vào mô hình Jaime de Pines, tác giả sẽ đưa ra một số đề xuất được trình bày trong chương sau. 48 3.1 Phát triển và tận dụng tiềm lực trong nƣớc Một trong những nguyên nhân gây ra các cuộc khủng hoảng nợ là do các nước phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn từ bên ngoài. Do vậy, để giữ được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và tránh rơi vào cuộc khủng hoảng nợ trong tương lai, Việt Nam nên quan tâm đến việc phát triển và tận dụng nguồn lực trong nước để cân bằng với nguồn lực từ bên ngoài vào. Nguồn lực trong nước bao gồm: số lượng lớn đô la, vàng và đồng nội tệ nằm trong tay các hộ gia đình; lực lượng lao động;.. Việc phát huy nội lực trong phát triển kinh tế đóng vai trò quan trọng, bởi vì việc huy động nguồn vốn từ nước ngoài trong việc phát triển kinh tế không hề đơn giản, thường gắn với nhiều điều kiện cho vay đôi khi có cả những yếu tố chính trị. Do vậy, huy động nội lực kinh tế, đồng thời thay đổi cơ cấu nợ công theo hướng tăng tỷ lệ nợ trong nước cũng là biện pháp giảm thiểu rủi ro nợ công của Chính phủ. Thực tế ở nước ta, nguồn vốn trong dân cư rất lớn, chúng được dự trữ chủ yếu dưới dạng vàng và đồng đô la Mỹ. Điều quan trọng là Nhà nước cần có các chính sách phù hợp để huy động nguồn vốn này từ dân cư. Chính phủ có thể phát hành trái phiếu, đưa ra mức lãi suất phù hợp để nhà đầu tư có thể chấp nhận được. Bên cạnh đó, Nhà nước phải đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, chống lạm phát, nâng cao giá trị đồng nội tệ cũng như niềm tin của nhân dân vào đồng nội tệ. Thực tiễn cho thấy, lạm phát tăng cao, nền kinh tế yếu kém và việc phá giá đồng tiền trong nước đã ảnh hưởng đến lòng tin của người dân vào đồng nội tệ. Sự đô la hóa và vàng hóa trong nền kinh tế đến nay vẫn diễn ra phổ biến và các giao dịch thông qua đồng đô la Mỹ diễn ra cũng hết sức rộng rãi. Vì vậy, phát triển nội lực song song với nâng cao giá trị đồng nội tệ cũng là cách để thu hút nguồn vốn trong nước cũng như trong việc phát triển kinh tế. 49 Việc phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn lao động cũng là nhiệm vụ quan trọng để đạt được sự tăng trưởng ổn định trong dài hạn mà không phụ thuộc vào nguồn lực bên ngoài. Vì vậy, chúng ta nên đặc biệt quan tâm đến chất lượng giáo dục hiện tại, hiệu quả sử dụng lao động trong các doanh nghiệp nhà nước và trong các tổ chức hành chính. 3.2 Kiểm soát chặt chẽ chi tiêu công Kiểm soát chặt chẽ chi tiêu công, nâng cao năng lực và hiệu quả của chi tiêu công cũng là biện pháp giảm thiểu gánh nặng nợ công của Nhà nước. Thực tế chi tiêu công ở Việt Nam ngày càng khó kiểm soát hơn. Sự thiếu chặt chẽ trong kiểm soát chi tiêu công làm thất thoát NSNN và làm ảnh hưởng nặng nề đến nợ công ở Việt Nam. Những biểu hiện của tình trạng khó kiểm soát chi tiêu công thể hiện ở những lĩnh vực như: chi tiêu không đúng chế độ, sử dụng tài chính không đúng mục đích, lãng phí, thất thoát, tham nhũng…Các nhóm biểu hiện chính như: Sử dụng tài chính không đúng mục đích: Tuy Luật Ngân sách đã được ban hành, và có Nghị định, Thông tư hướng dẫn thực hiện, tuy vậy tình trạng sử dụng tài chính không đúng mục đích diễn ra rất phổ biến trong các cơ quan Nhà nước. Biểu hiện rõ nhất là lĩnh vực mua sắm tài sản công. Hàng năm theo số liệu của Kiểm toán Nhà nước thì chi tiêu không đúng mục đích vào khoảng 100 tỷ đồng. Như vậy nguồn vốn này không những không được đầu tư tạo hiệu quả mà còn là gánh nặng phải trả của Nhà nước. Hiệu quả đầu tư thấp: Các dự án đầu tư của Nhà nước thường kéo dài mà một phần nguyên nhân là các Bên muốn nâng giá công trình và điều chỉnh khối lượng đầu tư. Ngoài ra nghiệm thu, thanh toán khối lượng công trình không đúng với thực tế, chất lượng thấp vẫn tiến hành nghiệm thu, mỗi năm Nhà nước thất thoát khoảng gần 1.000 tỷ đồng. Đây là con số lớn đối với nền kinh tế nhỏ và đang phát triển như Việt Nam. Tham nhũng: Sự cấu kết giữa chủ đầu tư, đơn vị thi công, thiết kế giám sát để nâng khống khối lượng thanh toán, công trình chất lượng thấp, nâng giá vật tư… 50 cũng làm Ngân sách Nhà nước “chảy” ra ngoài mà không mang lại bất cứ điều gì cho xã hội. Việc thực hiện thanh toán chi tiêu công chủ yếu do các cơ quan Nhà nước các cấp thực hiện, một phần (chủ yếu từ nguồn vốn ODA) được thanh toán qua Kho bạc Nhà nước và Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB). Như vậy, chi tiêu công của Chính phủ một phần nhỏ được thanh toán Kho bạc Nhà nước và VDB là được kiểm soát chi trước khi thanh toán. Phần còn lại được kiểm soát sau do Kiểm toán Nhà nước và Thanh tra Chính phủ tiến hành. Do kiểm soát sau nên thất thoát vốn NSNN là điều khó tránh khỏi, đơn giản là vì sự việc đã xảy ra rồi nên việc khắc phục sẽ không được như ban đầu nữa. Biện pháp khắc phục tình trạng này chủ yếu là Nhà nước nên ban hành rõ ràng danh mục mua sắm, đầu tư mà các cơ quan Nhà nước được phép chi tiêu hàng năm. Bên cạnh đó, tăng cường hoạt động thanh tra giám sát, đặc biệt việc thanh toán phải được thông qua các Bên thứ 3 là cơ quan của Nhà nước có chuyên môn để tiến hành kiểm soát chi trước khi thanh toán như: Kho bạc Nhà nước, Ngân hàng Phát triển, Ngân hàng chính sách xã hội…Thực hiện được việc đó sẽ giảm thiểu chi tiêu công, và giảm thiểu rủi ro khủng hoảng nợ công. 3.3 Gia tăng nguồn thu trong nƣớc trên cơ sở hợp lý, tránh thất thu Gia tăng các nguồn thu trong nước: Nền kinh tế phát triển sẽ gia tăng thu cho Ngân sách Nhà nước thông qua các khoản thuế. Vì vậy, Nhà nước cần khuyến khích và tạo điều kiện hơn nữa để thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển, tạo sân chơi bình đẳng cho các thành phần kinh tế. Đặc biệt khuyến khích phát triển đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tăng sức cạnh tranh của của nền kinh tế. Bên cạnh đó Nhà nước có thể gia tăng nguồn thu bằng cách áp dụng các khoản thuế hợp lý trong xã hội như thuế thu nhập cá nhân, thuế giao dịch bất động sản… Biện pháp đánh thuế này không những gia tăng nguồn thu cho NSNN mà còn giảm thiểu chênh lệch giàu nghèo trong xã hội. Tuy nhiên mức thuế và loại thuế đưa ra cần phải hợp lý để gia tăng nguồn thu cho Nhà nước nhưng không làm triệt tiêu động lực phát triển của lĩnh vực chịu tác động của thuế. 51 Chống thất thu cũng là biện pháp quan trọng trong để gia tăng nguồn thu NSNN. Hiện tượng nổi bật gây thất thu NSNN hiện nay là gian lận thương mại, buôn lậu, trốn thuế và hiện tượng chuyển giá trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Vì vậy Nhà nước nên có các chính sách phù hợp đối với từng loại hình để tăng nguồn thu cho NSNN: + Trường hợp gian lận thương mại: Nhà nước cần chi tiết mức thuế và công khai hóa các mặt hàng được phép nhập khẩu, không để doanh nghiệp lợi dụng kẽ hở pháp luật để thực hiện hành vi gian lận thương mại. + Hành vi buôn lậu và trốn thuế: Nhà nước nên tăng cường kiểm tra, kiểm soát tại các khu vực biên giới, cửa khẩu. Tăng cường năng lực và trách nhiệm của Quản lý thị trường để chống hành vi buôn lậu. Buôn lậu có tác động tiêu cực tới nhiều mặt của nền kinh tế. Thất thu NSNN chỉ là một phần tác động của nó, ngoài ra nó có thể bóp chết nền sản xuất trong nước. Đối với hành vi trốn thuế của các doanh nghiệp, Nhà nước cần tăng cường hơn nữa trách nhiệm, năng lực, phẩm chất đạo đức của cán bộ ngành thuế. Có như vậy việc phát hiện sớm và kịp thời dẫn đến việc truy thu thuế có hiệu quả hơn cho NSNN. + Hành vi chuyển giá của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: có thể nói đây là hiện tượng phổ biến trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Để thực hiện hành vi trốn thuế thu nhập doanh nghiệp, các công ty thường nhập khẩu đầu vào quá trình sản xuất từ công ty mẹ ở nước ngoài với giá “bất thường” để triệt tiêu lợi nhuận. Doanh nghiệp luôn luôn lỗ để tránh nộp thuế, thậm chí để được hưởng một số ưu đãi khác của Nhà nước. Tuy lỗ nhưng các doanh nghiệp vẫn hoạt động bình thường, một số doanh nghiệp còn mở rộng quy mô sản xuất. Đối với loại hình gian lận này, Nhà nước cần áp dụng một mức giá cụ thể trên thị trường để tính chi phí cho doanh nghiệp, vì không có lý do gì khi giá thị trường thấp, doanh nghiệp lại phải mua giá cao hơn để tiến hành sản xuất. 52 3.4 Cân đối cán cân tài khoản vãng lai Cán cân tài khoản vãng lai có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, giúp nền kinh tế có khả năng chống đỡ được với những cú sốc từ bên trong và bên ngoài. Trong một số nước hiện nay, cuộc khủng hoảng nợ công không bắt nguồn từ nợ công của Chính phủ cao mà bắt nguồn từ khả năng thanh khoản của các khoản nợ nước ngoài của Chính phủ. Việc vay nợ nước ngoài bằng ngoại tệ nên việc trả nợ cũng phải bằng đồng tiền vay nợ đó. Vì vậy, việc vay nợ trong nước giảm thiểu rủi ro hơn so với vay nợ nước ngoài. Tuy nhiên, với một nền kinh tế kém phát triển, nội lực còn yếu thì việc vay nợ nước ngoài để phát triển kinh tế là một điều tất yếu. Đối với một số khoản vay để phục vụ xuất khẩu thì nguồn thu ngoại tệ cũng là một trong những yếu tố để thẩm định xem xét cho vay, như vậy nguồn ngoại tệ từ xuất khẩu của dự án đảm bảo trả khoản nợ nước ngoài mà nó vay. Trường hợp đối với các dự án an sinh xã hội như chiếu sáng, điện, nước sạch,… phục vụ dân sinh thì nguồn thu ngoại tệ không có để tiến hành trả nợ. Do vậy, nguồn thu từ xuất khẩu sẽ giúp các dự án này trả nợ, hay đối phó với khủng hoảng nợ công tốt hơn. Tuy nhiên, cán cân tài khoản vãng lai của Việt Nam luôn trong tình trạng thâm hụt và có chiều hướng gia tăng trong thời gian gần đây. Nguyên nhân chủ yếu là do hiện tượng nhập siêu tăng, giá nhập khẩu cao dẫn đến cán cân thương mại liên tục thâm hụt qua các năm (xem bảng 2.4). Do đó, Chính phủ cần đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu (gia tăng cả về số lượng và chất lượng xuất khẩu), đồng thời hạn chế nhập khẩu: (i) Tăng hàm lượng công nghệ cao trong sản xuất để xuất khẩu được nhiều sản phẩm tinh và ít sản phẩm thô hơn giúp gia tăng hàm lượng giá trị gia tăng trong xuất khẩu; (ii) Đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xúc tiến thương mại, nâng cao nhận biết và thực hành về vấn đề thương hiệu cho các sản phẩm của Việt Nam trên thị trường thế giới; 53 (iii) Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và nhiều nhân công sản xuất những sản phẩm thay thế nhập khẩu và sản xuất những mặt hàng xuất khẩu; (iv) Giảm nhập khẩu nguyên phụ liệu cho sản xuất hàng xuất khẩu thông qua việc đầu tư phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ; (v) Nhà nước cần quản lý danh mục mặt hàng nhập khẩu chặt chẽ, quy định rõ ràng những mặt hàng không được nhập khẩu hoặc hạn chế nhập khẩu, đặc biệt là những mặt hàng xa xỉ như rượu, ôtô,… Song song với việc tuyên truyền người Việt dùng hàng Việt là nâng cao sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước. 3.5 Sử dụng nguồn vốn nƣớc ngoài an toàn và hiệu quả Không có ai có thể phủ nhận vai trò của nguồn vốn vay nước ngoài đến phát triển của nền kinh tế, đặc biệt đối với một nền kinh tế kém phát triển như Việt Nam, nơi mà nguồn nội lực còn yếu và khó có thể huy động bởi vì nhiều lý do khác nhau. Chúng ta thấy rằng việc sử dụng không hiệu quả nợ nước ngoài là một trong những yếu tố quyết định của khủng hoảng nợ, vì thế khi xây dựng một chiến lược sử dụng nợ nước ngoài, cần quan tâm một số vấn đề sau: + Những dự án đầu tư sử dụng nợ nước ngoài phải được thẩm định hiệu quả dự án một cách kỹ lưỡng, rõ ràng, đảm bảo hiệu quả đạt được là tối ưu, đặc biệt đối với một số dự án phải cân nhắc nguồn thu ngoại tệ từ dự án để trả nợ. + Nợ nước ngoài ngắn hạn không được phép tài trợ cho những dự án dài hạn mà có tốc độ hoàn vốn thấp. Nền kinh tế sẽ dễ đối mặt với khủng hoảng tính thanh khoản khi các cú sốc trong và ngoài nước xuất hiện nếu nợ ngắn hạn sử dụng cho những dự án đầu tư dài hạn mặc dù những dự án này có tốc độ hoàn vốn cao. Việc vay nợ nước ngoài phải theo kế hoạch tổng hạn mức. Vay và trả nợ nước ngoài hàng năm phải được Quốc hội phê duyệt trên cơ sở vay nợ phải căn cứ vào nhu cầu đầu tư, khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế và khả năng hoàn trả nợ. Ngoài việc thực hiện vay theo kế hoạch và cam kết, trong quá trình điều hành, Chính phủ cần chú trọng hơn nữa công tác giải ngân, nâng cao chất lượng, hiệu quả 54 sử dụng vốn vay ODA. Kiên quyết chống tình trạng tham nhũng, khắc phục lãng phí, thất thoát trong đầu tư xây dựng. Để đảm bảo hiệu quả trong việc sử dụng vốn vay, cần phải thường xuyên kiểm tra, giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng các khoản nợ vay, các khoản nợ được Chính phủ bảo lãnh, nhất là tại các đơn vị trực tiếp sử dụng vốn vay như: tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, ngân hàng thương mại, các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng,… Đồng thời, nâng cao chất lượng công tác quản lý rủi ro đối với danh mục nợ, bao gồm rủi ro về đồng tiền vay, lãi suất, tỷ giá, khả năng thanh toán, tín dụng và rủi ro hoạt động để hạn chế tới mức thấp nhất chi phí vay và đảm bảo an ninh tài chính quốc gia. 3.6 Tăng cƣờng quản lý và giám sát hệ thống ngân hàng Từ khi cải cách hệ thống ngân hàng theo mô hình hai cấp (gồm Ngân hàng Trung Ương và các Ngân hàng thương mại (NHTM)), các ngân hàng Việt Nam đã cải thiện rõ rệt cả về quy mô, phương thức hoạt động cũng như về tình hình “sức khỏe”. Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng Việt Nam còn nhiều bất cập. Xét về tỷ lệ nợ xấu, các nghĩa vụ nợ và khả năng thanh khoản, không phải tất cả các ngân hàng đều đảm bảo tiêu chuẩn an toàn. Tại Hội nghị giữa kỳ Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam đầu tháng 6/2011, Phó Thống đốc Nguyễn Văn Bình (hiện là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước) cho biết tỉ lệ nợ xấu các ngân hàng từ 2% lên 3%, trong trường hợp xấu nhất thì cũng chỉ dưới 5% cả năm nay và vẫn là mức an toàn và kiểm soát được. Tuy nhiên, theo công bố của tổ chức tín nhiệm Fitch Ratings, tỉ lệ nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam lên tới 13% tổng dư nợ, theo chuẩn mực quốc tế (nếu phần nợ đến hạn không trả được thì toàn bộ khoản nợ phải được xếp vào nợ xấu). Các ngân hàng Việt Nam hiện có xếp hạng thấp nhất khu vực. Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các NHTM phải hạn chế tăng trưởng tín dụng không quá cao, nhưng trên thực tế trong 10 năm trở lại đây tốc độ tăng trưởng tín dụng luôn ở mức hơn 20%/năm (chỉ có năm 2006 đạt 19,2%). Đáng chú ý là năm 55 2007, tăng trưởng tín dụng lên đến 51,39%, 2009 là 37,7% và 2010 tuy có giảm song vẫn cao, ở mức 29,8%. Chính sách cho vay lỏng lẻo những năm trước đã để lại nhiều hệ lụy, trong đó là vấn đề nợ xấu. Trước những vấn đề của hệ thống ngân hàng quốc tế, hệ thống ngân hàng Việt Nam cần chủ động rà soát lại theo hướng lành mạnh hóa tài chính, tái cấu trúc lại hệ thống ngân hàng để hình thành những tập đoàn ngân hàng lớn mạnh hơn, được quản lý và giám sát chặt chẽ hơn thay vì hàng trăm ngân hàng nhỏ lẻ như hiện nay. Ngân hàng Nhà nước cần kiểm soát chặt chẽ hơn sự lành mạnh của các tổ chức tín dụng, khống chế chặt mức tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống xuống dưới mức 20%. Kiềm chế sự phát triển thái quá của các ngân hàng thương mại cổ phần, bao gồm việc huy động tiền gởi, tăng lượng cho vay, cơ cấu cho vay, chất lượng tín dụng,... Thắt chặt tiêu chuẩn thành lập ngân hàng, hạn chế tình trạng nở rộ ngân hàng mà hoạt động không hiệu quả, chạy đua lãi suất làm tác động xấu đến tài chính tổng thể. Xử lý mạnh tay các hoạt động đầu tư chéo, đầu tư mở rộng, hạ thấp các chuẩn mực an toàn tín dụng,.. nhằm nhận diện và kiểm soát sớm, tránh gây ra những đổ vỡ hàng loạt cho toàn hệ thống. Kiên quyết thực hiện nghiêm lộ trình tăng vốn điều lệ các ngân hàng thương mại, loại bỏ những ngân hàng yếu kém, tạo động lực cho các định chế tài chính đầu tư phát triển, nâng cao dịch vụ và khả năng cung cấp các sản phẩm tài chính. 3.7 Nâng cao hiệu quả hoạt động các DNNN, hạn chế thực hiện bảo lãnh hay vay hộ cho các DNNN Ở đây cần phải nhấn mạnh rằng, DNNN có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân. Với vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, DNNN có đóng góp quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tuy có đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế đất nước nhưng hiệu quả hoạt động vốn của các DNNN, các Tập đoàn kinh tế Nhà nước vẫn còn thấp, thậm chí là yếu kém trong một số ngành lĩnh vực. Điển hình rõ nhất gần đây là sự sụp đổ gần như phá sản của Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam-Vinashin. Sự yếu kém của 56 các DNNN thể hiện trong nhiều lĩnh vực như: đầu tư dàn trải, hiệu quả đầu tư thấp, thời gian đầu tư kéo dài,… Do đó, cần tăng cường hiệu quả họat động của các DNNN, các Tập đoàn Nhà nước, các Tổng Công ty lớn. Cuộc khủng hoảng nợ công tại Ireland cho thấy một vấn đề khác. Để tránh sự sụp đổ của hệ thống tài chính do sự sụp đổ của thị trường nhà đất gây nên, Chính phủ Ireland đã phải ra tay can thiệp, dẫn đến mất khả năng thanh toán và phải cầu viện tới các định chế tài chính thế giới. Do vậy việc tăng cường giám sát và nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN là vấn đề then chốt trong chiến lược phát triển kinh tế nói chung và phòng tránh nguy cơ khủng hoảng nợ công nói riêng. Để làm tốt được điều này cần phải tập trung vào các vấn đề sau: - Thực hiện cổ phần hóa DNNN: muốn DNNN phát triển và hoạt động có hiệu quả thì không có cách nào khác là phải tiến hành cổ phần hóa. Nhà nước sẽ giữ cổ phần chi phối đối với những doanh nghiệp thuộc các ngành quan trọng, ngành xương sống của nền kinh tế. - Chính phủ nên hạn chế việc bảo lãnh tín dụng, cho vay lại từ nguồn vay của ngân sách đối với các dự án đầu tư kinh doanh, đồng thời buộc doanh nghiệp tự huy động vốn bằng chính năng lực của mình. Các ngân hàng sẽ phải thẩm định kỹ hơn và các doanh nghiệp chịu trách nhiệm lớn hơn đối với hiệu quả dự án. Tổng thể nền kinh tế sẽ đạt hiệu quả cao hơn. - Tăng cường giám sát, kiểm tra để các DNNN thực hiện đầu tư có hiệu quả, tránh đầu tư dàn trải, đầu tư vào những dự án kém hiệu quả. Việc huy động vốn nước ngoài của các DNNN, các Tổng Công ty lớn phải được xem xét, thẩm định, giám sát một cách kỹ lưỡng. Thực tế việc buông lỏng quản lý tại Vinashine là một ví dụ điển hình. 3.8 Công khai minh bạch thông tin về nợ công Công khai, minh bạch là một nguyên tắc căn bản hàng đầu và phổ biến trên thế giới trong quản trị công, đặc biệt là trong quản lý nợ công. Theo hướng dẫn 57 quản lý nợ công của IMF (2003) và Cẩm nang minh bạch tài khóa (2007), tất cả các khoản vay phải được ghi có tại một tài khoản dưới sự kiểm tra của Bộ Tài chính, và nghĩa vụ nợ và các điều khoản vay nợ phải được công bố đầy đủ cho công chúng. Minh bạch tài khóa đòi hỏi cơ quan lập pháp phải xác định rõ các yêu cầu trong báo cáo hàng năm về dư nợ và dòng chu chuyển nợ, kể cả số liệu về bảo lãnh nợ của Chính phủ trình cơ quan lập pháp và công khai cho công chúng. Theo Luật quản lý nợ công và Nghị định số 79/2010/NĐ-CP, Bộ Tài chính có trách nhiệm công khai, cung cấp thông tin về tình hình vay, trả nợ trong nước và nước ngoài của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh; vay, trả nợ nước ngoài của quốc gia, nợ của chính quyền địa phương theo quy định thông qua hình thức phát hành Bản tin về nợ công. Tuy nhiên, hiện nay Bộ Tài chính chỉ mới công khai thông tin về nợ nước ngoài trên website dưới hình thức Bản tin nợ nước ngoài, mà chưa công bố thông tin đầy đủ về toàn bộ nợ công. Việc số liệu không được công bố công khai dễ khiến mọi người có đánh giá và nhận định sai lầm, làm sụt giảm niềm tin của nhà đầu tư, vì thế làm tăng chi phí và hạn chế khả năng tiếp cận thị trường, tiếp cận đầu tư. Do đó, Chính phủ cần công khai về tổng dư nợ, cơ cấu nợ vay trong nước, ngoài nước; nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương; số liệu vốn vay thực nhận, các chỉ tiêu giám sát nợ,… Việc công khai, minh bạch nhằm tăng cường trách nhiệm trong quản lý, sử dụng các khoản nợ công và trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý nợ công. Ngoài ra, cần đảm bảo rằng thông tin về nợ công phải bao quát cả quá khứ, hiện tại và dự tính cho tương lai. Điều này là hết sức cần thiết vì thông tin công khai về nợ còn nhằm tăng cường khả năng can thiệp và phòng ngừa các tình huống xấu có thể xảy ra. Để đảm bảo thông tin về nợ được chính xác, các hoạt động quản lý nợ cần phải được bộ phận kiểm toán bên ngoài kiểm toán hàng năm. Trên cơ sở đó, tính trách nhiệm trong quản lý nợ có thể được củng cố bằng việc tuyên bố công khai kết quả kiểm toán của hoạt động quản lý nợ. Đồng thời, phải có cơ quan kiểm toán quốc gia để cung cấp báo cáo định kỳ về tình hình quản lý vay, trả nợ của quốc gia 58 nói chung và Chính phủ nói riêng. Ngoài ra, nên kiểm toán thường xuyên hoạt động, hệ thống và thủ tục kiểm soát quản lý nợ. 3.9 Đề xuất mô hình bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) có vai trò ngày càng quan trọng trong việc tạo công ăn việc làm và phát triển kinh tế đất nước. Tuy vậy, các doanh nghiệp này thường khó tiếp cận được với các nguồn vốn tín dụng từ NHTM. Vì thế, một số Quỹ bảo lãnh tại các địa phương đã ra đời. Hiện tại, ở Việt Nam đã có 06 Quỹ bảo lãnh được thành lập ở Trà Vinh, Yên Bái, Đồng Tháp, Hà Nội, TP.HCM và Vĩnh Phúc. Năm 2008, khủng hoảng kinh tế toàn cầu nổ ra, các doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu chịu tác động trực tiếp từ cuộc khủng hoảng này. Thị trường thu hẹp, doanh số xuất khẩu giảm, các doanh nghiệp đứng trước rất nhiều khó khăn. Để giúp doanh nghiệp tiếp cận với nguồn vốn dễ dàng hơn để phục vụ sản xuất, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 14/2009/QĐ-TTg ngày 21/01/2009 về quy chế bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn tại NHTM (sau này được thay thế bằng Quyết định số 03/2011/QĐ-TTg), và giao cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) thực hiện. Đây là chương trình bảo lãnh tín dụng lớn và quy mô nhất ở Việt Nam từ trước đến nay. Chương trình bảo lãnh này được triển khai khắp Việt Nam, tại toàn bộ các chi nhánh của hệ thống VDB. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ (trừ các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nhà hàng, bất động sản, tư vấn, dịch vụ, chứng khoán, vay để thanh toán nợ,…) đều có cơ hội tiếp cận nguồn vốn NHTM. Quyết định ban hành quy chế bảo lãnh tín dụng của Chính phủ ra đời đã tháo gỡ phần nào khó khăn của các doanh nghiệp trong việc tiếp cận các nguồn vốn của NHTM, giúp doanh nghiệp đứng vững và phát triển trong thời kỳ suy giảm kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, những hạn chế, yếu kém đã bộc lộ ra trong quá trình thực hiện quyết định trên nói riêng và trong hệ thống bảo lãnh tín dụng ở Việt Nam nói chung: - Tài sản thế chấp là điều kiện bắt buộc. Theo quy chế bảo lãnh hiện hành, điều kiện để SME được bảo lãnh là cần phải có tài sản thế chấp. Ở đây, các doanh 59 nghiệp khó khăn không có tài sản thế chấp mới nhờ đến bảo lãnh tín dụng. Trường hợp ngược lại họ có thể vay trực tiếp từ NHTM. Theo kinh nghiệm các nước trên thế giới, các Quỹ bảo lãnh sẽ đánh giá xếp hạng doanh nghiệp, từ đó đưa ra tỷ lệ bảo lãnh cũng như mức phí bảo lãnh. Việc đánh giá bảo lãnh dựa vào tài sản thế chấp không những đã không giúp được doanh nghiệp khó khăn mà vô tình đã cào bằng giữa các doanh nghiệp với nhau. - Về nguồn vốn thực hiện: hiện tại chỉ có nguồn vốn của Chính phủ và chính quyền địa phương cung cấp. Kinh nghiệm một số nước như Hàn Quốc cho thấy, họ quy định một tỷ lệ bắt buộc đối với các tổ chức tài chính phải đóng vào Quỹ bảo lãnh nhằm nâng cao hoạt động lĩnh vực bảo lãnh, và cũng là hình thức chia sẻ rủi ro. - Về cơ chế: hiện tại cơ chế hoạt động chưa rõ ràng và thay đổi liên tục, ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động bảo lãnh. Kinh nghiệm từ một số nước như Nhật Bản và Hàn Quốc, họ có đạo luật riêng trong hoạt động bảo lãnh, quy định cụ thể chức năng nhiệm vụ của các bên trong quá trình thực hiện bảo lãnh. - Bảo hiểm bảo lãnh: bảo hiểm bảo lãnh là một công cụ nhằm chia sẻ rủi ro, đặc biệt trong lĩnh vực phải đối mặt với rủi ro như bảo lãnh. Hiện tại Việt Nam chưa thực hiện trong lĩnh vực này. - Thủ tục bảo lãnh rườm rà và phức tạp: thời gian xem xét thẩm định lâu, ở đây tổ chức bảo lãnh có thể phát hành chứng thư thay vì ra thông báo bảo lãnh rồi phải ký một loạt hợp đồng nữa rồi mới phát hành chứng thư. Thời gian bảo lãnh kéo dài làm doanh nghiệp tăng chi phí và mất đi cơ hội đầu tư. - Tại các Quỹ bảo lãnh do địa phương thành lập, hầu hết các cán bộ là kiêm nhiệm. Vì vậy, ngoài hạn chế về thời gian làm việc, các Quỹ bảo lãnh còn gặp phải hạn chế về trình độ chuyên môn trong lĩnh vực tài chính tín dụng. 60 (1) Chính phủ (12) (1) Bộ Tài chính (11) (2) Sơ đồ 3.1: Mô hình bảo lãnh tín dụng hiện nay VDB (8) (10) (3) (4) (9) (6) NHTM (5) SME (7) (Quỹ bảo lãnh) Nguồn: Dựa theo Quyết định 03/2011/QĐ-TTg Quy trình thực hiện bảo lãnh (1) Chính phủ ra quyết định ban hành qui chế bảo lãnh và cung cấp vốn hoạt động bảo lãnh (2) Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện (3) SME gởi hồ sơ xin bảo lãnh (Đơn xin bảo lãnh, Hồ sơ doanh nghiệp, Hồ sơ tài chính và Phương án sản xuất kinh doanh/Dự án đầu tư) (4) Quỹ bảo lãnh đánh giá và ra thông báo bảo lãnh (5) SME gởi thông báo bảo lãnh cho NHTM, và 2 bên ký Hợp đồng (HĐ) tín dụng (6) SME gởi HĐ tín dụng đã ký với NHTM đến Quỹ bảo lãnh, đồng thời 2 bên ký HĐ bảo lãnh và HĐ thế chấp tài sản. Sau đó, Quỹ bảo lãnh phát hành chứng thư bảo lãnh (7) SME mang chứng thư bảo lãnh đến NHTM đã ký HĐ tín dụng để NHTM thực hiện giải ngân 61 Quy trình thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (8) NHTM gởi thông báo về việc SME không trả được nợ và yêu cầu Quỹ bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (9) SME gởi Quỹ bảo lãnh đơn đề nghị thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, đồng thời Quỹ bảo lãnh tiến hành thẩm định theo qui định. Sau đó, hai bên ký HĐ nhận nợ bắt buộc (10) Quỹ bảo lãnh thực hiện trả nợ cho NHTM (11) Trường hợp SME thuộc đối tượng xử lý rủi ro, Quỹ bảo lãnh gởi Hồ sơ cho Bộ Tài chính xem xét (12) Sau khi xem xét, Bộ Tài chính trình Chính phủ quyết định xóa nợ Để nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bài viết xin đề xuất mô hình bảo lãnh tín dụng ở Việt Nam như sau: Chính phủ Bộ Tài chính Giám sát Cấp vốn Sơ đồ 3.2: Đề xuất mô hình bảo lãnh tín dụng Ký HĐ Bảo hiểm Công ty Bảo hiểm Quỹ bảo lãnh Góp vốn HĐ và chứng thư
bảo lãnh Thông báo và
thực hiện nghĩa
vụ bảo lãnh Cho vay Giám sát và
xử lý nợ SME Trả nợ NHTM 62 Theo đó, Quốc hội cần ban hành một đạo luật về bảo lãnh tín dụng. Vai trò của Chính phủ chỉ là bên cung cấp vốn hoạt động cho Quỹ bảo lãnh tín dụng. Bộ Tài chính sẽ là cơ quan Nhà nước giám sát hoạt động bảo lãnh tín dụng, xử lý rủi ro của các Quỹ bảo lãnh cũng như giám sát hoạt động Bảo hiểm cho bảo lãnh tín dụng. Quỹ bảo lãnh tín dụng sẽ là bên thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vay vốn. Nhiệm vụ của Quỹ là giúp đỡ các SME có phương án sản xuất kinh doanh/dự án đầu tư tốt tiếp cận với nguồn vốn tín dụng của các NHTM. Nhà nước cần đầu tư, hoặc chọn các tổ chức tài chính đủ mạnh về trình độ chuyên môn để thực hiện việc đánh giá và xếp hạng tín dụng doanh nghiệp. Và sử dụng công cụ này để quyết định về tỷ lệ cũng như mức phí bảo lãnh. Hiện nay, tại các nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, các Quỹ bảo lãnh đều sử dụng quy trình đánh giá xếp hạng tín dụng để ra quyết định bảo lãnh. Có như vậy mới có thể đánh giá tốt tình hình doanh nghiệp trước khi ra quyết định bảo lãnh. Các Quỹ bảo lãnh tín dụng khi thực hiện bảo lãnh cần phải mua bảo hiểm để giảm thiểu rủi ro trong trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Thực hiện mua bảo hiểm bảo lãnh tín dụng cũng là hình thức chia sẻ rủi ro và hạn chế tủi ro. Về thủ tục bảo lãnh nên đơn giản hóa. Thay vì ra thông báo bảo lãnh rồi căn cứ thực vào hợp đồng tín dụng để phát hành chứng thư bảo lãnh thì sau khi xét duyệt về tỷ lệ, phí và các điều kiện bảo lãnh, Quỹ bảo lãnh phát hành chứng thư để doanh nghiệp có thể mang trực tiếp đến NHTM để vay vốn. NHTM cần đóng góp một tỷ lệ nhất định vào nguồn vốn hoạt động của Quỹ bảo lãnh. Đây cũng là hình thức chia sẻ rủi ro với Quỹ. Điển hình, theo Luật bảo lãnh tín dụng hiện hành của Hàn Quốc, các NHTM phải đóng góp vào quỹ hoạt động khoảng 0,225% các khoản vay được chỉ định. Bên cạnh đó, Quỹ sẽ kêu gọi sự đóng góp nguồn vốn từ các tổ chức, nhà tài trợ khác. Việc huy động nguồn vốn từ các tổ chức sẽ thuận lợi hơn khi Quỹ hoạt động có hiệu quả tốt. Nhưng nguồn vốn hoạt động cơ bản của Quỹ vẫn từ NSNN, NHTM và lợi nhuận mang lại từ hoạt động của Quỹ. 63 Từ những bài học kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu và thực trạng nợ công ở Việt Nam, trong chương 3 tác giả đã đưa ra một số đề xuất nhằm góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nợ công, phòng ngừa khả năng rơi vào khủng hoảng nợ công cho Việt Nam: Kiểm soát chặt chẽ chi tiêu ngân sách; hạn chế thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai; sử dụng hiệu quả nguồn vốn vay nước ngoài; đồng thời phát triển và tận dụng tiềm lực trong nước để giảm dần tỷ lệ nợ nước ngoài trong cơ cấu nợ. Quản lý nợ của Việt Nam cũng cần hướng đến thiết lập hệ thống thu thập và cung cấp thông tin minh bạch và đáng tin cậy. Và cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, đó là tăng cường quản lý và giám sát hệ thống ngân hàng; nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN, hạn chế thực hiện bảo lãnh cho các DNNN. Đồng thời, tác giả cũng đề xuất mô hình bảo lãnh tín dụng cho Việt Nam dựa trên kinh nghiệm của các nước trên thế giới, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam. . 64 Nợ công đang trở thành một vấn đề không chỉ đối với các nước Châu Âu mà còn đe dọa sự ổn định kinh tế đối với nhiều nước trên thế giới. Khi khủng hoảng nợ công xảy ra không những sẽ ảnh hưởng đến sự ổn định kinh tế mà còn đẩy các quốc gia đến những biến động chính trị - xã hội hết sức phức tạp. Qua bài nghiên cứu có thể thấy rằng nợ công của Việt Nam có xu hướng tăng nhanh và đang trong giai đoạn báo động. Nguyên nhân chủ yếu trong vấn đề nợ công ở Việt Nam là do Nhà nước đầu tư tràn lan, hiệu quả đầu tư công thấp, thâm hụt ngân sách trong thời gian dài, thiếu một cơ chế quản lý hiệu quả cũng như chưa minh bạch trong công bố thông tin. Chính sự không minh bạch về thông tin nên số liệu nợ công được công bố giữa các tổ chức quốc tế và Việt Nam có sự khác biệt lớn. Theo số liệu của các tổ chức quốc tế, nợ công Việt Nam đã ở mức đáng báo động chứ không lạc quan như các cơ quan chức năng của Việt Nam đã nhận định. Các nước Châu Âu đã rơi vào vòng xoáy của khủng hoảng nợ công thì Việt Nam cũng sẽ khó tránh khỏi khả năng rơi vào khủng hoảng nợ công nếu không có sự nhìn nhận và đánh giá đúng quy mô, bản chất của nợ công và có hướng xử lý kịp thời. Qua nghiên cứu thực trạng nợ công ở Việt Nam, đề tài đã đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nợ công và phòng tránh một cuộc khủng hoảng nợ công có thể xảy ra ở Việt Nam. Vấn đề quan trọng nhất là xây dựng một hệ thống tài chính vững mạnh, đi kèm phát triển kinh tế bền vững, sẽ là tiền đề để Việt Nam không rơi vào vòng xoáy của cuộc khủng hoảng nợ công. Tuy vậy, đề tài nghiên cứu còn nhiều hạn chế, chỉ dừng lại ở việc đánh giá tổng thể về thực trạng nợ công Việt Nam và dự báo khả năng xảy ra khủng hoảng nợ dựa vào mô hình của Jaime de Pines. Đề tài chưa đi sâu vào phân tích cụ thể bản chất nợ công và các vấn đề như: Tại sao đầu tư công lại diễn ra tràn lan?; hiệu quả đầu tư công thấp?; rủi ro và chi phí trong cấu trúc nợ công ra sao?; kiểm soát chặt chẽ nợ công như thế nào?; … Các giải pháp đề xuất cũng chỉ mang tính chất định 65 hướng, mô hình dự báo khủng hoảng nợ được sử dụng chưa phải là mô hình tối ưu, đồng thời do hạn chế về nguồn dữ liệu nên kết quả dự báo của mô hình chưa cao. Trong tương lai, nếu có điều kiện, tác giả sẽ nghiên cứu sâu hơn các nội dung gắn liền với nợ công như: Hiệu quả đầu tư công ở Việt Nam; Đo lường rủi ro nợ công của Việt Nam; Thiết lập mô hình kiểm soát nợ công và quản lý rủi ro nợ công; Xây dựng mô hình dự báo khủng hoảng nợ công; … 66 TIẾNG VIỆT 1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2008), “Bối cảnh trong nước, quốc tế và việc nghiên cứu xây dựng chiến lược 2011 – 2020”, NXB Hà Nội. 2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2011), “Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011–2020” 3. Bộ Tài chính - Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội, Báo cáo quyết toán Ngân sách nhà nước các năm. 4. Bộ Tài chính, Bản tin nợ nước ngoài (từ số 1 -> 7) 5. Daniel Cohen và Richard Portes, “Khủng hoảng nợ: phòng ngừa và giải pháp”, Hội đồng phân tích kinh tế, 2005. 6. GS. TS Dương Thị Bình Minh (2007), “Quản lý nợ công của Việt Nam’, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM. 7. GS. TS. Dương Thị Bình Minh và PGS. TS. Sử Đình Thành (2009), “Phương pháp tiếp cận đánh giá hiệu quả quản lý nợ công”, Tạp chí phát triển kinh tế số tháng 9/2009. 8. GS.TS Trần Ngọc Thơ, PGS.TS Nguyễn Ngọc Định (2008), “Tài chính quốc tế ”, NXB Thống kê, tr. 448-451. 9. Hạ Thị Thiều Dao (2006), “Nâng cao hiệu quả quản lý nợ nước ngoài trong quá trình phát triển kinh tế tại Việt Nam”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường ĐH Quốc gia TP.HCM. 10. Luật Ngân sách Nhà nước số 01/2002/QH11 ngày 16/12/2002. 11. Luật quản lý nợ công số 29/2009/QH12 ngày 17/06/2009. 12. Ngân hàng Thế giới, “Báo cáo phát triển Việt Nam 2009 – Huy động và sử dụng vốn”, tháng 12/2008. 13. Ngân hàng Thế giới, “Cập nhật tình hình phát triển kinh tế Việt Nam”, 6/2011. 67 14. Ngân hàng Thế giới, “Cập nhật triển vọng Kinh tế Đông Á - Thái Bình Dương”, tháng 3/2011. 15. Ngân hàng Thế giới, “Dự thảo Triển vọng kinh tế toàn cầu”, tháng 6/2011. 16. Nghị định số 79/2010/NĐ-CP, “Hệ thống các chỉ tiêu giám sát nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia”. 17. Quỹ tiền tệ Quốc tế (2003), Thống kê nợ nước ngoài – Hướng dẫn tập hợp và sử dụng 18. Nguyễn Thị Thanh Hương (2007), “Tăng cường quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân. 19. PGS. TS Nguyễn Phú Tụ, Ths. Huỳnh Công Minh, “Mối quan hệ giữa Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam”, Tạp chí Phát triển kinh tế số 239, tháng 9/2010. 20. PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hùng (2006), “Quản lý ngân sách nhà nước”, NXB Thống Kê 21. PGS. TS. Sử Đình Thành, TS. Bùi Thị Mai Hoài (2009), “Tài chính công và phân tích chính sách thuế”, NXB Lao động Xã hội. 22. PGS.TS Sử Đình Thành (2006), “Lý thuyết tài chính công”, NXB ĐH Quốc gia 23. Th.s Phạm Trí Cao, Th.s Vũ Minh Châu (2009), “Kinh tế lượng ứng dụng”, NXB Thống kê. 24. Thông tư số 21/2007/TT-BTC, “Hướng dẫn phương pháp tính toán các chỉ tiêu nợ nước ngoài”. 25. TS. Mai Thu Hiền, Nguyễn Thị Như Nguyệt (2011), “Tình hình nợ công và quản lý nợ công ở Việt Nam”, Trường Đại học Ngoại thương. sbv.gov.vn/wps/wcm/connect/.../mai+thu+hien.pdf?MOD... 26. TS. Nguyễn Bá Ân (2011), “Định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam trong giai đoạn đến năm 2020”, Viện chiến lược phát triển – Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 68 27. Văn Anh Tuấn (2011), “Kiểm soát nợ công của Việt Nam trong kỷ nguyên bất ổn định kinh tế toàn cầu”, Chuyên đề thực tập tốt nghiệp, ĐH Kinh tế TP.HCM. 28. Võ Trí Thành, Đinh Hiền Minh, Đỗ Thị Thu Hương, Nguyễn Thị Hồng (2002), “Khả năng chịu đựng thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai của Việt Nam”, NXB Lao động xã hội. TIẾNG ANH 29. Aghion, P. and E. Kharroubi, 2007, “Cyclical Macro Policy and Industry Growth: The Effect of Countercyclical Fiscal Policy,” Working Paper, Harvard University. 30. Andrea Pescatori và Amadou N. R. Sy, “Debt Crises and the Development of International Capital Market”, IMF, 3/2004 31. Baldacci, E., and M. Kumar, 2010, “Fiscal Deficits, Public Debt and Sovereign Bond Yields,” IMF Working Paper, forthcoming (Washington: International Monetary Fund). 32. Barro, R., 1979, “On the Determinants of the Public Debt,” Journal of Political Economy, Vol. 85 (5), pp. 940–71. 33. Barro, R., 1995, “Inflation and Economic Growth,” NBER Working Paper No. 5326 (Cambridge, Massachusetts: National Bureau of Economic Research). 34. Benedict Bingham, “Vietnam: Fiscal Strategy and Public Debt”, Presentation for National Assembly Hanoi - September 15, 2010 35. Burnside, C., M. Eichenbaum, and S. Rebelo, 2001, “Prospective Deficits and the Asian Currency Crisis,” Journal of Political Economy, Vol. 109 (6), pp. 1155–97. 36. C. Bauer, B. Herrz và V.Karb (2003), “Another Twin Crisis: Currency and Debt”, Diskussionspapier 04-03. 69 37. Clements, B., R. Bhattacharya and T. Q. Nguyen (2003), “External debt, public investment, and growth in low-income countries”, IMF Working paper 03/249 38. Cochrane, J., 2010, “Understanding Policy in the Great Recession: Some Unpleasant Fiscal Arithmetic,” Working Paper (Chicago: University of Chicago Press). 39. Cohen, D. (1997), “Growth and external debt: A new perspective on the African and Latin American tragedies”, Centre for Economic Policy Research Discussion Paper No. 1753 40. Cristina Arellano (2008), “Internal Debt Crises and Sovereign Defaults” 41. Cristina Checherita and Philipp Rother (2010), “The impact of high and growing government debt on economic growth: An empirical investigation for the euro area”, Working paper series No 1237, August 2010. 42. Dotsey, M., 1994, “Some Unpleasant Supply Side Arithmetic,” Journal of Monetary Economics, pp. 507–24. 43. Dr Shane Oliver (2011), “The euro-zone public debt crisis (again)”, AMP Capital Investors. 44. Elmendorf, D. and N. G. Mankiw, 1999, “Government Debt,” in J. B. Taylor and M. Woodford (eds.), Handbook of Macroeconomics, Vol. 1C, Amsterdam, North – Holland. 45. Eurostat - European Commission, “Government finance statistics”, Summary table – 1/2011. 46. Gale, W. and P. Orszag, 2003, “The Economic Effects of Long-term Fiscal Discipline”, Urban-Brookings Tax Policy Center Discussion Paper No. 8 (Washington: Brookings Institution). 47. Gary A. Dymski (2002), “The International Debt Crisis”, The Handbook of Globalisation 70 48. Haji H H Semboja (1998), “The debt crisis in least developing countries (LDCs) – A theoretical note”, ESRF Discussion Paper No.24 49. Hemming, R., M. Kell, and A. Schimmelpfennig, 2003, “Fiscal Vulnerability and Financial Crises in Emerging Market Economies”, IMF Occasional Paper No. 218 (Washington: International Monetary Fund). 50. International Monetary Fund and World Bank, “Guideline for Public Debt Management”, December 9, 2003. 51. International Monetary Fund, “The Joint World Bank–IMF Debt Sustainability Framework for Low-Income Countries”, Factsheet URL: http://www.imf.org/external/np/exr/facts/jdsf.htm 52. International Monetary Fund, “Joint World Bank–IMF Debt Sustainability Analysis 2007”, www.imf.org/external/pubs/ft/DSA/.../dsacr07387.pdf 53. International Monetary Fund, “Joint World Bank–IMF Debt Sustainability Analysis 2008”, www.imf.org/external/pubs/ft/dsa/.../dsacr09110.pdf 54. International Monetary Fund, “Joint World Bank–IMF Debt Sustainability Analysis 2010”, www.imf.org/external/pubs/ft/dsa/.../dsacr10281.pdf 55. International Monetary Fund, World Economic Outlook Database, April 2011 56. International Monetary Fund, Public Information Notice (PIN) No. 11/81, June 23, 2011 57. Jaime De Pines (1989), “Debt Sustainability and Overadjustment”, World Development Vol 17, No 1 58. Kumar, M. and J. Woo (2010), “Public Debt and Growth”, IMF Working Paper 10/174 59. Nguyen Duy Vu, “The cause of debt crisis: Lessons for Vietnam”, HCMC National University, Nov. 1998. 60. Pattillo, C., H. Poirson, and L. Ricci (2002), “External Debt and Growth”, IMF Working Paper 02/69 71 61. Reinhart, Carmen M. and Kenneth S. Rogoff (2009), “Growth In A Time Of Debt”, Draft Version as of January 7, 2010. Working Paper. 62. Sargent, T., and N. Wallace, 1981, “Some Unpleasant Monetarist Arithmetic,” Quarterly Review, (Fall) Federal Reserve Bank of Minneapolis. 63. Schclarek, A. (2004), “Debt and Economic Growth in Developing Industrial Countries”, Mimeo 64. Sebastian Becker, Gunter Deuber and Sandra Stankiewicz (2010), “Public debt 2020: A sustainability analysis for DM and EM economies”, Deutsche Bank Research, March 24, 2010. 65. Smyth, D. and Hsing, Y. (1995), “In search of an optimal debt ratio for economic growth”, Contemporary Economic Policy, 13:51–59 66. Stephen G Cecchetti, M S Mohanty and Fabrizio Zampolli, “The future of public debt: prospects and implications”, Bis Working Papers No 300, March 2010. 67. William R. Easterly (2001), “Growth Implosion and Debt Explosion: Do Growth Slowdowns Cause Public Debt Crises?”, Volume 1, Issue 1, Article 1. 68. Woo, J., 2009, “Why Do More Polarized Countries Run More Procyclical Fiscal Policy?” Review of Economics and Statistics, Vol. 91(4), pp. 850–70, November. WEBSITE THAM KHẢO 1. www.gso.gov.vn Tổng cục thống kê Việt Nam 2. www.imf.org Quỹ tiền tệ quốc tế - IMF 3. www.mof.gov.vn Bộ Tài chính Việt Nam 4. www.mpi.gov.vn Bộ Kế hoạch và Đầu tư 5. www.worldbank.org Ngân hàng Thế giới – WB 6. www.adb.org Ngân hàng Phát triển Châu Á – ADB 72 7. www.economist.com Tạp chí The Economist 8. epp.eurostat.ec.europa.eu Cục thống kê Châu Âu 9. www.ecb.eu Ngân hàng Trung ương Châu Âu – ECB 10. www.cia.gov Cơ quan tình báo trung ương Hoa Kỳ - CIA Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 11. www.sbv.gov.vn 12. www.na.gov.vn Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam 13. www.vneconomy.vn Thời báo kinh tế Việt Nam 14. www.cafef.vn Cổng thông tin, dữ liệu tài chính – chứng khoán Việt Nam Bách khoa toàn thư mở 15. www.enwikipedia.org 16. Và một số website khác 73 Chứng minh mô hình động về nợ của Jaime De Pine [28] Xuất phát từ đồng nhất thức của cán cân thanh toán Trong đó: Dư nợ nước ngoài tính bằng USD : D : CA Cán cân vãng lai : t Thời gian Cộng và trừ trả lãi của các khoản nợ nước ngoài vào phương trình (1) ta có: (2) trong đó i là lãi suất vay nợ nước ngoài. Cán cân vãng lai bao gồm hai yếu tố cấu thành. Đó là chênh lệch giữa xuất khẩu (X) và nhập khẩu (M) và chênh lệch giữa thu và lãi suất trả nợ. Phương trình (2) trở thành: (3) Chia cả hai vế của phương trình (3) cho , trong đó gxt là tốc độ tăng trưởng xuất khẩu. Ta được: (4) Với gmt là mức tăng trưởng nhập khẩu Đặt (chỉ số nợ trên xuất khẩu) (chỉ số giữa lãi suất trên tăng trưởng xuất khẩu) (chỉ số giữa tăng trưởng nhập khẩu trên tăng trưởng xuất khẩu) (chỉ số giữa nhập khẩu trên xuất khẩu) 74 Phương trình (4) có thể viết lại dưới dạng sau: (5) Theo định nghĩa, (6) Giả sử a và b là dương và không đổi. Phương trình (5) và (6) có thể giải tương tự: nếu s = t => (a) và Khi s = t (b) và Đặt ta có và Thay thế S1 và S2 vào phương trình (b), ta có: 75 a=1 gxt (1): a<1, b<1 (2): a>1, b<1 (4): a<1, b>1 (3): a>1, b>1 i Sơ đồ mô hình động về nợ của Jaime De Pine Sơ đồ trên có thể giúp giải thích rõ hơn về mô hình động về nợ của Jaime de Pine. Trục tung biểu thị tốc độ tăng trưởng xuất khẩu và trục hoành thể hiện mức lãi suất. Đường a = 1 tập hợp tất cả các điểm mà tại đó tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bằng mức lãi suất. Đường b = 1 là quỹ tích các điểm có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bằng tốc độ tăng trưởng nhập khẩu. Đường a = 1 và b = 1 chia cung phần tư thứ nhất trong hình thành 4 miền. Miền 1 (a<1, b<1), tốc độ tăng trưởng cao hơn mức lãi suất và tốc độ tăng trưởng nhập khẩu. Trong miền này, chỉ số nợ trên xuất khẩu có xu hướng giảm xuống. Ngược lại, ở miền 3 (a>1, b>1), chỉ số nợ trên xuất khẩu sẽ bùng phát. Nếu như mọi nỗ lực điều chỉnh trước đây, v0 < 1, thì chỉ số nợ trên xuất khẩu có thể giảm trong một giai đoạn nhất định. Tuy nhiên, nếu tốc độ tăng trưởng nhập khẩu và mức lãi suất cao hơn tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, thì chỉ số nợ trên xuất khẩu sẽ có xu hướng tăng, do đó, mọi nỗ lực điều chỉnh trước đây (v0) sẽ bị xóa bỏ. Mọi nỗ lực điều chỉnh trước đây chỉ có thể duy trì ảnh hưởng trong tương lai khi tốc độ tăng trưởng nhập khẩu tương xứng với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu (b=1). Để cho điều này xảy ra, chỉ số nhập khẩu trên xuất khẩu cần thỏa mãn bất đẳng thức: . Miền 2 (a>1, b<1), trong khi thu xuất khẩu có xu hướng làm cho chỉ số nợ trên xuất khẩu giảm, trả lãi vay nợ lại làm cho chỉ só này tăng lên. Nếu tốc độ tăng 76 nhập khẩu hạn chế đủ lớn so với tốc độ tăng xuất khẩu, chỉ số nợ trên xuất khẩu sẽ giảm thậm chí ngay cả khi mức lãi suất vượt quá nhịp tăng xuất khẩu và chỉ số nhập khẩu trên xuất khẩu ban đầu lớn hơn 1. Điều này sẽ xảy ra nếu thỏa mãn bất đẳng thức sau: trong đó . Trong miền 4 (a<1, b>1), chỉ số nợ trên xuất khẩu có xu hướng tăng lên, và bất kỳ một nền kinh tế nào rơi vào trong miền này đều không có khả năng chịu đựng được nợ và thâm hụt cán cân vãng lai. Nguyên nhân là do với tốc độ tăng nhập khẩu cao hơn tốc độ tăng xuất khẩu, cán cân vãng lai không tính lãi suất sẽ thâm hụt nhiều hơn. 77 PHỤ LỤC 2 Nghiên cứu thực nghiệm của các nhà kinh tế trên thế giới về mối quan hệ nợ công với tăng trƣởng kinh tế Một bài nghiên cứu gần đây của Carmen M. Reinhart và Kenneth S. Rogoff (2010) về tăng trưởng kinh tế và lạm phát tại những mức độ nợ Chính phủ và nợ nước ngoài khác nhau tại 20 nước tiên tiến (advanced countries) và 24 nước mới nổi dựa trên chuỗi dữ liệu kéo dài hai thế kỷ (1790 - 2009), đã phát hiện rằng: Thứ nhất, nợ Chính phủ và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ yếu đối với tỷ lệ nợ/GDP dưới ngưỡng 90% GDP. Trên 90%, tốc độ tăng trưởng trung vị (median growth rate) sụt giảm 1% và tốc độ tăng trưởng trung bình giảm nhiều hơn đáng kể. Tác giả cũng tìm thấy rằng ngưỡng nợ công thì giống nhau cho cả các nền kinh tế tiên tiến và mới nổi. Thứ hai, thị trường mới nổi phải đối mặt với ngưỡng thấp hơn cho nợ nước ngoài (nhà nước và tư nhân). Khi nợ nước ngoài đạt đến 60% của GDP, tốc độ tăng trưởng hàng năm sụt giảm khoảng 2%; ở mức nợ cao hơn, tốc độ tăng trưởng bị cắt giảm xấp xỉ một nửa. Thứ ba, không có mối liên hệ rõ ràng xảy ra cùng thời gian giữa lạm phát và mức nợ công cho nhóm các nước tiên tiến (một vài nước, như Mỹ, đã từng trải qua mức lạm phát cao hơn thì nợ/GDP sẽ cao) nhưng điều này hoàn toàn khác đối với các thị trường mới nổi nơi mà lạm phát tăng mạnh khi nợ tăng. Manmohan S. Kumar and Jaejoon Woo (2010) đã tiến hành nghiên cứu tác động của nợ công cao đến tăng trưởng kinh tế dài hạn của các nền kinh tế thị trường mới nổi và tiên tiến trong giai đoạn 1970 - 2007 (phân tích dựa trên bảng dữ liệu của 38 nền kinh tế tiên tiến và mới nổi với dân số trên 5 triệu). Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy mối quan hệ nghịch đảo giữa nợ và tăng trưởng: bình quân, một sự gia tăng 10 điểm % trong tỷ lệ nợ trên GDP đầu kỳ đi kèm với một sự sụt giảm trong tăng trưởng GDP thực/người hàng năm vào khoảng 0,2 điểm % mỗi năm, đối với nhóm nước tiên tiến mức tác động này sẽ nhỏ hơn (khoảng 0,15 điểm %). Tính trung bình, một sự gia tăng 10 điểm % trong nợ đầu kỳ đi kèm với sự sụt giảm đầu tư khoảng 0,4 điểm % GDP, mức tác động này lớn hơn tại nhóm các nước mới nổi. 78 Nghiên cứu của Cristina Checherita và Philipp Rother (2010) tìm thấy bằng chứng cho tác động phi tuyến tính của nợ công lên tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người qua 12 nước khu vực Châu Âu trong một giai đoạn dài bắt đầu từ năm 1970. Nợ công và tốc độ tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ hình chữ U ngược với điểm ngoặc của nợ là khoảng 90 - 100% GDP (nghĩa là, bình quân, một tỷ lệ nợ/GDP cao hơn đi kèm với tốc độ tăng trưởng dài hạn thấp hơn tại mức nợ trên phạm vi 90 - 100% GDP). Theo Cristina Checherita và Philipp Rother, những kênh truyền dẫn mà nợ công có khả năng tác động đến tăng trưởng kinh tế như: tiết kiệm tư nhân, đầu tư, tổng năng suất các yếu tố sản xuất và lãi suất. Kết quả hồi quy cho thấy: thông qua kênh lãi suất nợ công có tác động tuyến tính với tăng trưởng; nợ công không tác động trực tiếp đến tăng trưởng thông qua kênh đầu tư tư nhân; kênh tỷ lệ tiết kiệm tư nhân có điểm ngoặc của nợ là 82 - 91% GDP; và điểm ngoặc của nợ là 45 - 68% GDP đối với kênh đầu tư của Chính phủ. Schclarek (2004) cũng có bài nghiên cứu về mối quan hệ giữa tổng nợ Chính phủ và tăng trưởng GDP bình quân đầu người tại các quốc gia phát triển. Tuy nhiên, kết quả là không có bằng chứng rõ ràng về mối quan hệ có ý nghĩa thống kê được tìm thấy đối với bộ mẫu gồm 24 nước công nghiệp với dữ liệu được tính trung bình qua 7 giai đoạn từ năm 1970 đến 2002. Một số nghiên cứu khác cũng xem xét tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế. Pattillo et al. (2002) sử dụng một bộ dữ liệu của 93 nước đang phát triển trong giai đoạn 1969 - 1998 và tìm thấy rằng tác động của nợ nước ngoài đến tăng trưởng GDP bình quân đầu người thì ngược hướng đối với mức giá trị hiện tại thuần của nợ trên 35 - 40% GDP. Clement et al. (2003) nghiên cứu mối quan hệ này cho nhóm 55 nước có thu nhập thấp trong giai đoạn 1970 - 1999 và phát hiện rằng điểm ngoặc của giá trị hiện tại thuần của nợ nước ngoài là 20 - 25% GDP. Imbs và Ranciere (2009) và Pattillo, Poirson, và Ricci (2002, 2004) tìm thấy có một ảnh hưởng phi tuyến tính của nợ nước ngoài đến tăng trưởng: đó là, một tác động ngược hướng và có ý nghĩa đến tăng trưởng tại mức nợ cao (tiêu biểu 79 là 60% GDP), nhưng một tác động không có ý nghĩa tại mức nợ thấp. Những nghiên cứu thực nghiệm khác trước đó cũng tìm thấy một ảnh hưởng phi tuyến tính của nợ nước ngoài đến tăng trưởng (Hsing (1995) và Cohen (1997)). Ngược lại, Cordella, Ricci và Arranz (2005) tìm thấy bằng chứng của “nợ quá mức” (debt overhang) đối với mức độ nợ trung gian (intermediate debt), nhưng mối quan hệ nợ-tăng trưởng không có ý nghĩa tại mức độ nợ quá thấp và quá cao. Schclarek (2004) tìm thấy một tác động ngược hướng tuyến tính của nợ nước ngoài đến tăng trưởng bình quân đầu người (không có bằng chứng của mối quan hệ hình chữ U ngược) khi nghiên cứu trên một nhóm 59 quốc gia đang phát triển qua giai đoạn 1970 - 2002. Như vậy, tăng trưởng kinh tế có vai trò như thế nào đối với các cuộc khủng hoảng nợ công? Có phải tăng trưởng chậm là nguyên nhân của cuộc khủng hoảng nợ công? Câu hỏi này đã được tác giả William R. Easterly xem xét trong bài nghiên cứu của mình vào năm 2001. Bài nghiên cứu cung cấp một góc nhìn mới về cuộc khủng hoảng nợ từ trên quan điểm về ảnh hưởng của tăng trưởng chậm lên năng lực tài chính. Sự sụt giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu sau năm 1975 đóng một vai trò quan trọng trong cuộc khủng hoảng nợ của các nước thu nhập trung bình trong thập niên 1980, cuộc khủng hoảng của các quốc gia nghèo gánh nặng nợ cao (HIPCs), và sự gia tăng gánh nặng nợ công của các nước công nghiệp trong thập niên 1980 và 1990. Những kiểm định và sự tính toán khả năng thanh toán từ ngân sách đã xác nhận vai trò quan trọng của tăng trưởng trong các cuộc khủng hoảng nợ. Tuy nhiên, tác giả cho rằng điều này không có nghĩa là tăng trưởng chậm là nguyên nhân duy nhất của cuộc khủng hoảng nợ, hoặc là nâng cao tốc độ tăng trưởng là một liều thuốc dễ dàng để thoát khỏi khủng hoảng. Những nghi ngờ thông thường của tỷ giá hối đoái và quản lý vĩ mô kém vẫn còn phù hợp, nhưng cần được xem trong một khuôn khổ toàn diện hơn thông qua tính toán khả năng thanh toán từ ngân sách. 80 PHỤ LỤC 3 3.1 Tình hình nợ công của một số nƣớc trên thế giới Theo đồng hồ đo nợ công trên The Economist, tổng số nợ công toàn cầu tính đến ngày 06/08/2011 đã vượt qua mốc 42.832 tỷ USD (dự báo năm 2012 con số này vượt mốc 46 nghìn tỷ USD). Trước đó, theo thống kê của cơ quan xếp hạng tín dụng Moodys, từ năm 2007-2010, nợ công toàn cầu sẽ tăng lên khoảng 15.300 tỷ USD. Theo IMF, nguyên nhân chính dẫn đến số nợ công khổng lồ này là thu nhập thuế của các Chính phủ đã giảm mạnh, buộc họ phải đi vay sau suy thoái kinh tế để trả cho những khoản cứu trợ, các chương trình kích thích và hỗ trợ những người thất nghiệp. IMF cho rằng, tỷ lệ nợ công/GDP của các nước phát triển vào năm 2015 có thể tăng lên 110%, so với mức khoảng 75% của năm 2007. Nợ công và thâm hụt ngân sách của một số quốc gia trên thế giới Nói đến khủng hoảng nợ công, các nhà đầu tư nghĩ ngay đến Hy Lạp, Ireland và Bồ Đào Nha. Thế nhưng, những vấn đề của các nền kinh tế ở Châu Âu này chỉ mới là khúc dạo đầu của cuộc khủng hoảng nợ công đang lan tràn trên thế giới. Các nhà phân tích dự báo ngòi nổ của vụ nổ lớn tài chính tiền tệ này chính là Nhật Bản. Các hãng xếp hạn tín dụng đã đưa ra những lời cảnh báo. Về lâu dài, triển vọng của nền kinh tế lớn thứ ba này bị đánh giá là không mấy sáng sủa. Ngày 81 11/05/2011, công ty xếp hạng Moodys cho biết tỷ lệ vỡ nợ các khoản vay thế chấp của Nhật Bản đã đạt đỉnh. Theo số liệu thống kê mới nhất của Bộ tài chính Nhật Bản, tính đến thời điểm kết thúc tài khóa 2010 (ngày 31/03 vừa qua), nợ công của Nhật Bản đã đạt mức cao kỷ lục 924.000 tỷ Yên (hơn 11.000 tỷ USD). Như vậy dư nợ bình quân đầu người của Nhật Bản lên đến gần 90.000 USD. Nợ công Nhật Bản hiện đã lên đến mức gấp hơn 2 lần GDP, với tỷ lệ cao hơn Hy Lạp tới hơn 50%. Tuy nhiên, do nợ công của Nhật chủ yếu là nợ trong nước nên Nhật chưa phải trải qua những gì mà Hy Lạp đã gánh chịu trong năm 2010. Các nhà phân tích cho rằng Nhật Bản sẽ là “một Hy Lạp tiếp theo” nhưng với hậu quả tiêu cực gấp bội. Theo số liệu được Cơ quan Kiểm toán Quốc gia Trung Quốc (NAO) công bố vào cuối tháng 6/2011, chính quyền các địa phương đã mắc tổng số nợ 10.700 tỷ Nhân dân tệ (khoảng 1.650 tỷ USD), chiếm khoảng 27% GDP năm 2010. Tuy nhiên, các nhà kinh tế cho rằng con số thực tế cao hơn nhiều. Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc gần đây ước tính nợ của các địa phương đã lên tới 14.000 tỷ NDT (hầu hết là nợ Ngân hàng), cao hơn 30% so với số liệu của NAO. Trên giấy tờ, nợ của Trung Quốc chỉ dưới 20% GDP tuy nhiên nếu tính các khoản nợ của địa phương, chi phí tái cấp vốn cho các ngân hàng Nhà nước, trái phiếu do ngân hàng Nhà nước phát hành và trái phiếu đường sắt,… tổng nợ của Trung Quốc có thể lên tới 70-80% GDP, gần bằng mức nợ công của Mỹ và Anh. Do hầu hết các khoản nợ này được vay trong thập niên vừa qua nên Trung Quốc đang trên quỹ đạo không bền vững với tốc độ tích tụ nợ hiện nay, đặc biệt khi tăng trưởng kinh tế được dự báo sẽ tăng trưởng chậm lại trong thập niên kế tiếp. Tại Châu Âu, Italia và Tây Ban Nha hiện cũng đang phải đối mặt với nguy cơ rơi vào vòng xoáy khủng hoảng nợ công ở Châu Âu. Xem xét mạng lưới nợ công 5 nước: Hy Lạp, Ireland, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Italia, tờ The New York Times đánh giá “nguy cơ thực sự nằm ở Tây Ban Nha và Italia”. 82 Tình hình nợ công của một số quốc gia Châu Âu Nguồn: Cục thống kê Châu Âu (Eurostat)[45] và IMF, World Economic Outlook
Database, April 2011 Italia là nước có nền kinh tế lớn thứ ba ở Châu Âu, sau Đức và Pháp nhưng trong giai đoạn 2001 - 2010 Italia lại là nước có mức độ tăng trưởng kinh tế thấp nhất trong số các thành viên EU (GDP trung bình mỗi năm chỉ đạt 0,2% so với mức trung bình 1,1% của EU). Số nợ công của Italia hiện đang ở mức hơn 2.237 tỷ euro, chiếm gần 120% GDP (theo The Economist ngày 06/08/2011). Dự báo năm 2011 và 2012, GDP của nước này chỉ đạt tương ứng là 1,1 % và 1,4% trong khi mức thâm hụt ngân sách chiếm 4,5% GDP (theo “Dự báo kinh tế năm 2011 và 2012” của Hội đồng EU). Đối với Tây Ban Nha, mức nợ công đã lên đến hơn 877 tỉ euro, chiếm khoảng 68,8% GDP (theo The Economist ngày 06/08/2011). Chỉ tính trong 2 tháng đầu năm 2011, tỷ lệ vay nợ của quốc gia này đã tăng thêm 6,2% tăng tổng số tiền vay lên 112 tỷ euro. GDP của Tây Ban Nha dự báo năm 2011 và 2012 chỉ đạt tăng trưởng ở mức 0,7% và 1,7% trong khi thâm hụt ngân sách cao tới 9,2% và tỷ lệ thất nghiệp ở mức 20% (theo “Dự báo kinh tế năm 2011 và 2012” của Hội đồng EU). 83 Theo các nhà kinh tế, những bất ổn kinh tế ở Italia và Tây Ban Nha có thể dẫn đến những hậu quả vô cùng trầm trọng, kể cả nguy cơ “phá sản của hệ thống đồng euro”. Bên cạnh đó, tình hình nợ công ở các nước khác trong khu vực Châu Âu cũng đang ngày càng nghiêm trọng và đe dọa tới hệ thống tiền tệ của khối, cụ thể như Đức đang ở mức 2.290 tỷ euro, chiếm 76,7% GDP; Pháp là 2.063 tỷ euro, chiếm 86,6% GDP; Bỉ là 426,8 tỷ euro, chiếm 101,6% GDP; Hà Lan là 480,9 tỷ euro, chiếm 67,3% GDP; …(theo Economist ngày 06/08/2011). So với qui định 60% của Hiệp ước Maastricht, nợ công của các nước này đều đang ở mức báo động. Trong khi đó, tình hình kinh tế nhiều nước không mấy sáng sủa: tăng trưởng thấp, thâm hụt ngân sách lớn và tỷ lệ thất nghiệp cao. Theo báo cáo triển vọng kinh tế thế giới vào tháng 6/2011 của IMF, triển vọng tăng trưởng kinh tế khu vực euro năm 2011 và 2012 lần lượt là 2,0% và 1,7% (năm 2010 đạt 1,8%) trong khi đó mức thâm hụt ngân sách vẫn ở mức 4,75% vào năm 2011 và 3,75% vào năm 2012; tỷ lệ thất nghiệp cao tới 9% trong năm 2011 và nợ công trong năm 2012 dự báo vẫn chiếm tới 83% GDP (theo dự báo của Hội đồng EU) Còn ở Châu Mỹ, Bộ Tài chính Mỹ ngày 03/08/2011 cho biết nợ công của nước này đã vượt 100% GDP ngay khi lưỡng viện Quốc hội Mỹ thông qua dự luật về nâng trần nợ công và cắt giảm ngân sách. Theo bản tin về tình hình tài chính công do Bộ Tài chính Mỹ công bố, nợ liên bang của Mỹ tính đến tháng 08/2011 đã đạt mức 14.580,7 tỷ USD vượt GDP của năm 2010 (14.526,5 tỷ USD). Lần cuối cùng nợ công của Mỹ vượt GDP diễn ra vào năm 1947, ngay sau kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ hai. Tỷ lệ này giảm mạnh xuống còn 32,5% vào năm 1981 và tăng lên 64,4% trong năm 2007. Theo số liệu từ IMF, Mỹ hiện đang là một trong nhóm các quốc gia có nợ công cao hơn GDP (gồm Nhật Bản (229%), Hy Lạp (152%), Jamaica (137%), Liban (134%), Italy (120%), Ireland (114%) và Iceland (103%)). Văn phòng Ngân sách Quốc hội Mỹ cho rằng nếu Mỹ tiếp tục kéo dài chương trình cắt giảm thuế được phê chuẩn năm 2011, nợ công của nước này có thể tăng gần gấp đôi GDP vào năm 2035. Theo tạp chí “Thị trường và Tiền tệ” (Mỹ), ba nhà kinh tế nổi tiếng Mỹ 84 là Martin Weiss, Richard Mogey và Monty Agarwal đã dự báo thâm hụt ngân sách của Mỹ sẽ vượt quá 2.000 tỷ USD vào năm 2012. Mặc dù chính quyền Mỹ tiếp tục dự báo lạc quan về tăng trưởng kinh tế và dự báo thâm hụt ngân sách năm 2012 của nền kinh tế lớn nhất thế giới này sẽ chỉ là 828 tỷ USD, nhưng thực tế, nền kinh tế Mỹ vẫn suy thoái, khiến thâm hụt ngân sách có thể đạt kỷ lục 2.000 tỷ USD. Tình hình nợ công của các nƣớc nhóm G7 Nguồn: IMF, World Economic Outlook Database, April 2011 Theo tổ chức xếp hạng tín dụng Moody’s, chính phủ Mỹ cần hạ tỷ lệ nợ công/GDP xuống 73% vào năm 2015 để đảm bảo nền kinh tế quốc gia và duy trì bậc tín dụng AAA một cách bền vững. Các hãng xếp hạng tín dụng quốc tế gồm Moody’s và Fitch vẫn giữ mức xếp hạng tín nhiệm uy tín AAA của Mỹ sau khi Quốc hội nước này thông qua dự luật nâng trần nhưng các cơ quan này cũng cảnh báo Mỹ có thể vẫn phải đối mặt với nguy cơ bị đánh tụt hạng nếu kỷ luật ngân sách không được siết chặt và tăng trưởng kinh tế tiếp tục xấu đi. Riêng Standard & Poor's vẫn cảnh báo sẽ hạ mức AAA của Mỹ trong tháng 8/2011 nếu phát hiện có trục trặc. Đến ngày 5/8/2011, Standard & Poor’s đã hạ bậc tín nhiệm của Mỹ từ AAA xuống còn AA+ với lý do “rủi ro chính chính trị” gắn liền với món nợ công khổng lồ của 85 nước Mỹ. S&P's cũng tuyên bố trong vòng hai năm tới nếu Mỹ không thực hiện được các biện pháp giảm thâm hụt thì hãng sẽ hạ tiếp điểm xuống còn AA. Nợ công ở các nước Châu Âu đang ngày càng nghiêm trọng và ngày càng lan rộng ra nhiều nước trên thế giới làm cho tình hình kinh tế thế giới, vốn mới bắt đầu hồi phục, lại có nguy cơ rơi vào một cuộc suy thoái mới. Sau cơn khủng hoảng tài chính toàn cầu, thu ngân sách Chính phủ thấp trong khi chi ngân sách lại gia tăng. Điều này khiến mục tiêu cân bằng ngân sách trở thành một nhiệm vụ khó khăn hơn, trừ khi các Chính phủ đưa ra các biện pháp ứng phó kịp thời để sữa chữa và bình ổn tình hình tài chính. Dự báo nợ công năm 2011 của một số nƣớc giàu nhất thế giới Theo số liệu của World Economic Outlook Database (IMF), dự báo đến năm 2016 tình hình nợ công của các nước trên thế giới có xu hướng tăng so với năm 2010 đối với nhóm các quốc gia phát triển, trong đó tăng mạnh là các nước thuộc nhóm các nước công nghiệp phát triển - G7. Riêng đối với nhóm các quốc gia mới nổi và đang phát triển thì tình hình nợ công đến 2016 có vẻ khả quan hơn (hình 2.5). 86 Dự báo nợ công đến năm 2016 của các nƣớc theo nhóm Nguồn: IMF, World Economic Outlook Database, April 2011 Vấn đề trần nợ công ở Mỹ Nền kinh tế Mỹ tiếp tục èo uột trong nửa đầu năm 2011, có nguy cơ rơi vào suy thoái nếu Quốc hội tiếp tục bế tắc trong việc đàm phán nâng mức trần nợ công trước ngày 2/8/2011. Theo Reuters, Bộ Thương mại Mỹ thông báo trong Quý II nền kinh tế Mỹ chỉ tăng trưởng 1,3%, thấp hơn nhiều so với dự kiến (1,8%). Trong khi đó, các tính toán mới cho thấy GDP của quý I chỉ đạt 0,4%, trong khi mức ước tính là 1,9%. Đây là sáu tháng tồi tệ nhất đối với nền kinh tế Mỹ kể từ khi cuộc đại suy thoái kết thúc hồi tháng 6/2009. Nguyên nhân chủ yếu do tiêu dùng hầu như không tăng, giá nhiên liệu và thực phẩm tăng cao... Trong khi đó, Chính phủ Mỹ sẽ không còn khả năng vay nợ nếu Quốc hội không nâng mức trần nợ công lên trên ngưỡng 14.300 tỉ USD trước ngày 2/8/2011. Các chuyên gia kinh tế dự báo khi đó Mỹ sẽ buộc phải cắt giảm 40% chi tiêu (cứ 87 mỗi 1 USD chính quyền Mỹ chi tiêu thì có 40 cent tiền đi vay), đẩy nền kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái. Ngày 3/8/2011, Quốc hội Mỹ đã thông qua dự luật nâng mức trần nợ công và cắt giảm chi tiêu công nhằm ngăn chặn thảm họa vỡ nợ. Tổng thống Obama đã ký thành luật dự dự luật nâng mức trần nợ công đến hết năm 2012. Luật mới trên đã nâng mức trần nợ công của Mỹ lên thêm 2.400 tỷ USD từ mức 14.300 tỷ USD hiện nay; đồng thời yêu cầu cắt giảm 2.100 tỷ USD chi tiêu của chính phủ trong vòng 10 năm tới nhưng không tăng thuế. Việc cắt giảm thâm hụt ngân sách chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn đầu cắt giảm 1.000 tỷ USD và có hiệu lực ngay; giai đoạn hai giảm 1.500 tỷ USD và sẽ do một Ủy ban lưỡng Đảng công bố ngày 23/11/2011 để Quốc Hội thông qua vào ngày 23/12/2011. Đây không phải là lần đầu tiên mà từ rất nhiều năm trước, Mỹ đã bắt đầu tăng mức trần nợ công với số lần và số tiền ngày càng tăng. Từ năm 1980 đến nay, mức trần nợ công của nước này đã được tăng gần 40 lần, riêng thập niên vừa qua đã chứng kiến sự bùng nổ với 10 lần tăng mức trần. Nước Mỹ đã thoát khỏi được nguy cơ vỡ nợ kỹ thuật sau khi dự luật nâng trần nợ công đã được thông qua. Tuy nhiên, theo các nhà phân tích, thỏa thuận nâng trần nợ công trước mắt đã giúp Mỹ tránh được nguy cơ vỡ nợ kèm theo suy thoái kinh tế nhưng thực tế cho thấy, nước này vẫn đang đứng trước nguy cơ lớn bị nhấn chìm bởi những cơn sóng nợ, bất kể có hay không các gói tiết kiệm cắt giảm chi tiêu. Theo tính toán của Nhà Trắng, khoản chi ngân sách của nước Mỹ trong giai đoạn 2012 – 2016 sẽ lên tới 20.100 tỷ USD, trong khi thu ngân sách chỉ đạt 16.700 tỷ USD. Điều này có nghĩa là ngay cả khi tăng gấp đôi tốc độ tiết kiệm, đến giữa thập niên này, nước Mỹ vẫn mắc nợ thêm khoảng 1.000 tỷ USD. Việc nâng trần nợ công của Mỹ cũng tạo ra những thách thức không nhỏ cho nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt là các thị trường mới nổi. Ngoài lạm phát cao, các thị trường mới nổi còn lo ngại rủi ro lạm phát nhập khẩu khi Mỹ tiếp tục phát hành thêm trái phiếu mới để chi trả cho các khoản nợ cũ. 88 Trong vài tháng gần đây, những lo sợ về việc Mỹ bị vỡ nợ đã ảnh hưởng đến nền kinh tế toàn cầu và một lượng lớn các nhà đầu tư đã bán đô la Mỹ, làm đồng đô la Mỹ mất giá và khiến cho hạn mức tín nhiệm của Mỹ cũng giảm xuống. Những dự đoán về sự mất giá của đô la Mỹ sẽ làm cho giá trị của các mặt hàng như dầu, vàng cao hơn, gây ra nhiều thách thức hơn cho các nền kinh tế mới nổi, hiện đang đối mặt với lạm phát tăng cao. Các nhà phân tích đã cảnh báo các thị trường mới nổi về các nguồn vốn đầu cơ đến từ thị trường Mỹ. 3.2 Cuộc khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp 3.2.1 Vài nét về tình hình kinh tế Hy Lạp trƣớc khi khủng hoảng Hy Lạp có nền kinh tế công - nông nghiệp khá phát triển, là sự pha trộn giữa nền kinh tế tư bản và kinh tế nhà nước; và có nhiều khoáng sản như: Bốc-xít, quặng sắt, Ni-ken,… Thế mạnh kinh tế Hy Lạp là vận tải đường biển và du lịch: có đội thương thuyền đứng thứ 3 thế giới, kiểm soát 25% kim ngạch vận tải biển thế giới; có hệ thống đường xá, khách sạn, hải cảng, sân bay hiện đại. Hàng năm Hy Lạp thu hút khoảng 17 triệu lượt khách du lịch, ngành này đóng góp 15% GDP của Hy Lạp. Công nghiệp du lịch đóng 15% GDP quốc dân. Hy Lạp là nước nhận viện trợ lớn nhất của EU, chiếm khoảng 3,3% tổng GDP. Bên cạnh đó, các ngành kinh tế khác như ngân hàng, tài chính, viễn thông, sản xuất các thiết bị công nghệ cao cũng phát triển mạnh tại Hy Lạp. Nước này cũng có lợi thế về kinh tế biển với rất nhiều cảng nước sâu và một ngành công nghiệp đóng tàu hùng mạnh. Các ngành công nghiệp quan trọng khác ở Hy Lạp là dệt, hóa chất, khai thác khoáng sản, chế biến thực phẩm. Nông nghiệp tuy chiếm tỉ trọng nhỏ song vẫn đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Các loại cây trồng chủ yếu ở Hy Lạp là lúa mì, lúa mạch, ôliu, hoa hướng dương, cà chua, cam, chanh... Cơ cấu kinh tế của Hy Lạp như sau: dịch vụ chiếm 74,4%, công nghiệp 20,6% và nông nghiệp 5,1%. Từ 19/6/2000, nhờ áp dụng các biện pháp kinh tế tài chính có hiệu quả, Hy Lạp đã đạt các tiêu chí và được gia nhập khu vực đồng euro. Trong giai đoạn 2001 - 89 2007 Hy Lạp là một trong những nước có tốc độ phát triển cao nhất ở Liên minh Châu Âu (EU) với mức tăng trưởng trung bình 4%/năm. Năm 2008 tăng trưởng của Hy Lạp chỉ đạt 2,8%, đây là con số thấp hơn các năm trước nhưng vẫn cao hơn tăng trưởng trung bình của các nước thuộc khối EU. Tuy nhiên, Hy Lạp vẫn gặp nhiều thách thức như: việc giảm nợ nhà nước, lạm phát, thất nghiệp, cơ cấu lại nền kinh tế bao gồm cả việc tư nhân hóa một số công ty nhà nước, tăng lương và giảm thiểu tính quan liêu. Năm 2009, Hy Lạp lún sâu vào khủng hoảng với thâm hụt ngân sách trầm trọng (15,6% GDP - theo mức điều chỉnh của Cơ quan thống kê Châu Âu), nợ công lên đến 127,1% GDP và tỷ lệ thất nghiệp vào loại cao nhất EU (15% - 20% dân số sống dưới ngưỡng nghèo khổ) trong khi tăng trưởng kinh tế vẫn tiếp tục âm. Nợ công và thâm hụt ngân sách của Hy Lạp so với các nước trong EU Nguồn: Cục thống kê Châu Âu (Eurostat) [45] 3.2.2 Nguyên nhân khủng hoảng nợ Hy Lạp Vấn đề kinh tế hiện nay của Hy Lạp đã được gây ra từ một hỗn hợp các yếu tố nội địa và quốc tế. Trong nước, việc chi tiêu quá mức của chính phủ, sự bất linh hoạt của cơ cấu, việc trốn thuế, tham nhũng, … tất cả góp phần tích tụ nợ Hy Lạp trong thập kỷ qua. Việc thông qua đồng tiền chung Châu Âu cộng với thực thi luật lệ lỏng lẻo của Liên minh Châu Âu cũng bị cho rằng đã góp phần vào cuộc khủng hoảng nợ công hiện tại của Hy Lạp. 90 3.2.2.1 Nguyên nhân chủ quan Hy Lạp đã không tuân thủ chặt chẽ các quy định trong liên minh tiền tệ Theo Hiệp ước Maastricht, để tham gia vào khu vực đồng tiền chung, các quốc gia thành viên phải đáp ứng nhiều chuẩn mực, trong đó có quy định mức bội chi của ngân sách phải nhỏ hơn hoặc bằng 3% GDP, có xem xét trường hợp mức thâm hụt đang trong xu hướng được cải thiện hoặc mức thâm hụt lớn hơn 3% nhưng mang tính tạm thời, không đáng kể, không là mức bội chi cơ cấu; nợ Chính phủ nhỏ hơn hoặc bằng 60% GDP, có xem xét các trường hợp đang điều chỉnh. Theo quy định này, Hy Lạp chưa đủ điều kiện tham gia khu vực đồng tiền chung châu Âu vào tháng 5-1998. Nhưng hai năm sau, ngày 1/1/2001, mặc dù vẫn chưa đủ chuẩn, Hy Lạp cũng được chấp thuận gia nhập vào khu vực đồng tiền chung với điều kiện phải nỗ lực cải thiện mức thâm hụt ngân sách và nợ Chính phủ. Tuy nhiên, đến nay các ràng buộc trên vẫn chỉ là lời hứa của Hy Lạp, bội chi ngân sách và nợ nước ngoài không những không được cải thiện mà có xu hướng ngày càng tăng, đồng thời để che dấu việc này Hy Lạp đã đưa ra các báo cáo kinh tế sai lệch. Quản lý chi tiêu công kém hiệu quả. Trong giai đoạn 2001 - 2007, GDP của Hy Lạp tăng trưởng với tốc độ trung bình 4,3%/năm so với mức trung bình 3,1% của Châu Âu. Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao đã bị đẩy lên do việc tăng lên trong tiêu dùng tư nhân và công chúng đầu tư được hỗ trợ bởi Liên minh Châu Âu và chính quyền Trung Ương. Tuy nhiên, trong sáu năm qua trong khi chi ngân sách tăng 87%, thu chỉ tăng tăng 31% dẫn đến thâm hụt ngân sách vượt ngưỡng cho phép 3% của Liên minh Châu Âu. Tổ chức hành chính công, chi phí lương hưu và hệ thống thuế kém hiệu quả là một trong những yếu tố chính đằng sau thâm hụt của Hy Lạp. 91 Tình hình thu, chi và thâm hụt ngân sách của Hy Lạp Nguồn: Cục Thống kê Châu Âu (eurostat) [45] Theo OECD, năm 2004 chi tiêu hành chính tính theo tỷ lệ phần trăm tổng chi tiêu công ở Hy Lạp đã cao hơn so với bất kỳ thành viên OECD nào và không có bằng chứng cho thấy số lượng hay chất lượng của các dịch vụ công tại quốc gia này tốt hơn. Xu hướng này vẫn tiếp tục: chi tiêu chính phủ Hy Lạp trong năm 2009 chiếm 52,9% GDP với 75% chi tiêu cho tiền lương công và lợi ích xã hội. Các nhà phân tích kinh tế đều cho rằng, khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp là do chi tiêu của Chính phủ quá lớn, thậm chí còn cho rằng Chính phủ không có trách nhiệm khi quyết định chi tiêu quá lớn so với nền kinh tế và tăng trưởng kinh tế của chính nước mình. Việc chi tiêu quá lớn đã tạo ra thâm hụt ngân sách và khủng hoảng nợ công (lương cao cho các nhà chính trị, công chức, hệ thống an sinh xã hội và lao động, chế độ nghỉ hưu sớm, …). Ngoài ra, năm 2008 khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra đã ảnh hưởng khá mạnh đến các ngành công nghiệp chủ chốt của nước này. Ngành du lịch và vận tải biển, doanh thu đều sụt giảm trên 15% trong năm 2009. Kinh tế Hy Lạp cũng lâm vào tình trạng khó khăn, nguồn thu để tài trợ cho NSNN bị co hẹp mạnh, trong khi đó Hy Lạp lại phải tăng cường chi tiêu công để kích thích kinh tế trong giai đoạn hậu khủng hoảng. 92 Sự lão hóa dân số - tỷ lệ dân số trên 64 tuổi dự kiến sẽ tăng từ 19% trong năm 2007 lên 32% vào năm 2060 - có thể sẽ gia tăng gánh nặng về chi tiêu công tại Hy Lạp (một trong những hệ thống trợ cấp hào phóng nhất của Châu Âu) trong những năm tới. Nợ vay nước ngoài chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu nợ công Nhu cầu chi tiêu của Chính phủ cao trong khi nguồn thu hạn chế, đồng thời lợi tức trái phiếu Hy Lạp liên tục giảm nhờ vào việc gia nhập EU, tạo điều kiện cho Chính phủ tăng cường vay nợ tài trợ để cho chi tiêu công. Thêm vào đó, tỷ lệ tiết kiệm trong nước thấp và liên tục sụt giảm từ năm 2003 (từ 17,9% năm 2003 giảm còn chỉ 5% năm 2009 – hình 2.8) nên nhu cầu chi tiêu của Chính phủ và các khoản thâm hụt được tài trợ chủ yếu bởi các khoản nợ nước ngoài. Tỷ lệ tiết kiệm quốc gia của Hy Lạp so với EU Nguồn: IMF, World Economic Outlook Database, April 2011 Ước tính tỷ lệ trái phiếu do nước ngoài nắm giữ có thể lên tới 80% lượng trái phiếu chính phủ Hy Lạp phát hành. Chủ nợ phần lớn là các ngân hàng Châu Âu. Điều này làm cho rủi ro nợ công của Hy Lạp tăng cao. Các nước Ý, Ireland cũng trong tình cảnh thâm hụt ngân sách và nợ công cao, nhưng không bị đánh giá nghiêm trọng bằng Hy Lạp. Sở dĩ như vậy vì các nước này có nền kinh tế tương đối lớn, ngân sách lớn và khả năng kiểm soát nợ trong nước cao hơn. 93 Vào tháng 04/2010, các tổ chức định mức tín nhiệm như S&P, Moody’s và Fitch Rating đã hạ bậc trái phiếu Chính phủ Hy Lạp xuống mức rủi ro cao, trước nguy cơ mất khả năng thanh khoản. S&P ước tính trong trường hợp Hy Lạp mất khả năng thanh toán, nhà đầu tư có thể mất 30-50% giá trị khoản đầu tư. Ngay lập tức sau đó lợi tức trái phiếu Chính phủ Hy Lạp đã tăng mạnh. Điều này đã khiến cho Chính phủ Hy Lạp gặp nhiều khó khăn hơn trong việc huy động vốn trên thị trường tài chính quốc tế để tái cấu trúc các khoản vay. 3.2.2.2 Nguyên nhân khách quan Tác động tiêu cực của tiến trình hội nhập kinh tế khu vực Quá trình hình thành đồng tiền chung được chia thành ba giai đoạn nhằm giúp các quốc gia điều chỉnh nền kinh tế theo hướng hội nhập toàn diện và sâu rộng - hàng hóa, vốn và sức lao động được tự do hóa hoàn toàn. Tuy nhiên, hội nhập cũng có mặt trái của nó. Đối với các quốc gia nhỏ, năng lực cạnh tranh yếu thì đây thực sự là thách thức. Với một quốc gia có nguồn tài nguyên hạn hẹp, lợi thế thương mại thấp, năng lực cạnh tranh thấp thì họ không thể xây dựng rào cản để bảo hộ nền sản xuất trong nước. Hàng hóa thiếu cạnh tranh, sản xuất đình trệ, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, thu ngân sách giảm, chi an sinh xã hội cao. Ngoài ra, theo quy định của EU, các quốc gia được phép giữ lại 25% thuế xuất nhập khẩu hàng hóa vào EU để trang trải chi phí hoạt động và 75% còn lại được chuyển vào ngân sách chung của EU. Điều này có nghĩa là các quốc gia có vị trí thuận lợi về giao thông quốc tế: sân bay, bến cảng... sẽ nhận được một nguồn thu đặc biệt từ thuế nhập khẩu vào EU mà các quốc gia nhỏ hơn, ở vị trí bất lợi hơn như Hy Lạp không nhận được; thậm chí đó là khoản thuế đánh trên hàng hóa nhập khẩu đang tiêu thụ tại nước mình. Do đó, nguồn thu ngân sách của họ bị suy giảm. Hơn nữa, tại các nước kém phát triển hơn như Hy Lạp, để tránh làn sóng di dân khi thực hiện tự do hóa lao động, chính phủ buộc phải gia tăng các khoản chi 94 phúc lợi, chi an sinh xã hội cho công dân của mình. Điều này góp phần làm gia tăng thâm hụt ngân sách. Thiếu cơ chế giám sát và xử phạt của khối Liên minh Châu Âu Việc thiếu thực thi của Hiệp ước ổn định và tăng trưởng cũng được xem như là một yếu tố góp phần vào vấn đề nợ ở Hy Lạp. Năm 1997, các thành viên EU đã thông qua Hiệp ước ổn định và tăng trưởng, một thỏa thuận nhằm tăng cường giám sát và thực thi các qui tắc tài chính công nêu trong “tiêu chuẩn hội tụ” của Hiệp ước Maastricht năm 1992. Các qui tắc cho thâm hụt ngân sách Chính phủ không quá 3% GDP, nợ công không vượt quá 60% GDP. Năm 1997, Hiệp ước tăng trưởng và ổn định đã không được giữ vững, các quốc gia thành viên đã vượt qua giới hạn thâm hụt. Họ đã không tuân thủ đầy đủ các biện pháp khắc phục khuyến cáo của Ủy ban Châu Âu và Hội đồng Liên minh Châu Âu quy định về thâm hụt ngân sách. Sau sự ra mắt của đồng Euro trong năm 1999, số lượng các nước thành viên ngày càng tăng cho thấy khó thực hiện theo mức quy định của Hiệp ước. Từ năm 2003, hơn 30 trường hợp thâm hụt quá mức diễn ra, tuy nhiên Liên minh Châu Âu chưa bao giờ áp đặt một hình thức xử phạt tài chính nào đối với bất kỳ quốc gia thành viên vì vi phạm giới hạn thâm hụt. 3.2.3 Diễn biến cuộc khủng hoảng nợ Hy Lạp Gia nhập khu vực đồng tiền chung euro năm 2001 là cơ hội lớn để Hy Lạp có thể tiếp cận với thị trường vốn quốc tế. Nhưng đây lại là nguyên nhân khiến quốc gia này lâm vào cảnh nợ nần. Do dễ dàng thu hút vốn đầu tư nước ngoài nên trong gần một thập kỷ qua, Chính phủ Hy Lạp liên tục bán trái phiếu để thu về hàng trăm tỷ đôla. Số tiền này lẽ ra có thể giúp kinh tế Hy Lạp tiến rất xa nếu chính phủ có kế hoạch chi tiêu hợp lý. Chính phủ Hy Lạp chỉ biết chi tiêu (phần lớn cho cơ sở hạ tầng) chứ hầu như không quan tâm đến các kế hoạch trả nợ. 95 Một ví dụ dễ thấy nhất là công tác tổ chức Olympic 2004 - kỳ thế vận hội được hoành tráng nhất và cũng tốn kém nhất trong lịch sử. Chi 12 tỷ euro (cao hơn tới 10 tỷ so với dự kiến) nhưng không cho phép bất cứ một biển hiệu quảng cáo nào được xuất hiện trên đường phố, Chính phủ Hy Lạp đã khiến ngân sách quốc gia năm 2004 thâm hụt tới 6,1% so với GDP trong khi giới hạn mà khối EU cho phép là 3%. Không chỉ chi phí cho cơ sở hạ tầng, quỹ lương của khối dịch vụ công tại Hy Lạp đã tăng gấp đôi trong vòng 10 năm qua. Trong khi đó, nguồn thu không được cải thiện sau hàng loạt biện pháp cắt giảm thuế để kích thích đầu tư. Những bất ổn nội tại của kinh tế Hy Lạp thực sự biến thành cơn bạo bệnh khi cơn bão khủng hoảng kinh tế thế giới 2008-2009 tràn qua quốc gia Nam Âu này. Cuối tháng 9/2009, chỉ vài tuần trước khi bị đánh bại trong cuộc tổng tuyển cử ngày 4/10/2009, chính quyền của Thủ tướng Costas Karamanlis cho biết thâm hụt ngân sách năm 2009 của nước này ở mức 6-8% so với GDP. Con số này nhanh chóng bị bác bỏ khi Đảng Xã hội Hy Lạp lên nắm quyền. Ngày 20/10/2009, tân thủ tướng George Papandreou khẳng định thâm hụt ngân sách trong tài khóa 2009 phải ở mức 12,5%, gấp hơn 4 lần giới hạn cho phép của một quốc gia sử dụng đồng euro. Mức thâm hụt này cùng với khoản nợ trị giá 300 tỷ euro đã thực sự cho thấy tính nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng tại Hy Lạp. Nguy hiểm hơn, nền kinh tế lớn thứ 27 thế giới này rất có thể chỉ là kíp nổ của toàn bộ hệ thống tài chính, tiền tệ châu Âu. Ngày 3/11/2009, Ủy ban Châu Âu (EC) dự báo mức thâm hụt ngân sách của Hy Lạp là 12,7% trong năm 2009 và 12,2% trong 2010. Hai ngày sau, chính phủ nước này công bố dự thảo ngân sách tài khóa 2010, trong đó nhấn mạnh tới việc thắt chặt chi tiêu và dừng các chương trình miễn thuế nhằm giảm thâm hụt ngân sách xuống mức 9,4%. Cùng thời điểm này, nhiều dự báo được được đưa ra cho thấy nợ công của Hy Lạp có thể tăng từ mức 113,4% GDP năm 2009 lên 121-125% GDP trong năm 2010. Hàng loạt tổ chức quốc tế tuyên bố hạ định mức tín nhiệm của Hy Lạp trên thị trương tài chính. Ngày 7/12/2009, S&P cho Hy Lạp điểm tín nhiệm A- với triển vọng kém lạc quan. Một ngày sau đó, Fitch đánh tụt điểm số của nền kinh tế này từ A- xuống còn BBB+. Trước những diễn biến xấu, ngày 96 14/12/2009, Thủ tướng Papandreou tuyên bố sẽ thẳng tay với nạn tham nhũng, thắt chặt chi tiêu hơn nữa, trong đó đánh thuế 90% lên các khoản thưởng của giới “cá mập” ngân hàng cũng như ra lệnh cấm toàn bộ việc thưởng tiền cho các quan chức điều hành trong khu vực công. Mười ngày sau, Quốc hội Hy Lạp thông qua dự thảo ngân sách và dự báo mức thâm hụt ngân sách của năm 2010 là 9,1%. Tuy nhiên, cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các quốc gia trong khối sử dụng đồng tiền chung euro vẫn tỏ ra chưa thật hài lòng với kế hoạch nói trên vì cho rằng tình trạng ngân sách thâm thủng và bất ổn của Hy Lạp có thể ảnh hưởng tới toàn khối. Định mức tín nhiệm của nước này tiếp tục đi xuống trong mắt các tổ chức quốc tế. S&P tiếp tục hạ điểm của Hy Lạp xuống còn BBB- vào ngày 16/12. Trái phiếu Chính phủ Hy Lạp liên tục phải nâng lãi suất trên thị trường tài chính quốc tế. Bước sang năm 2010, Chính quyền của Thủ tướng Papandreou một lần nữa phải thay đổi kế hoạch vào ngày 14/1/2010 nhằm hạ mức thâm hụt xuống dưới 3% vào năm 2012 như yêu cầu của EU. Theo kế hoạch này, bội chi ngân sách trong năm 2010 của quốc gia Nam Âu này sẽ phải ở mức 8,7%. Song song với cắt giảm ngân sách dành cho y tế, quốc phòng, tăng thuế. Ngày 2/2/2010, lãnh đạo Hy Lạp tuyên bố một chính sách lương thưởng hà khắc đối với khối dịch vụ công. Mục tiêu của chính sách này là nhằm cắt giảm quỹ lương khoảng 4%. Đến ngày 25/2/2010, sau cuộc gặp với đại diện EU và IMF, Chính phủ Hy Lạp cho biết sẽ xem xét một kế hoạch “thắt lưng buộc bụng” mới. Kế hoạch này, cuối cùng đã được công bố vào ngày 3/3/2010 với quy mô tương đương 4,8 tỷ euro, bao gồm cắt giảm quỹ hưu trí, lương thưởng tại khu vực công, ban hành một số sắc thuế mới đối với các các sản phẩm nhập khẩu như thuốc lá, rượu, xăng dầu và các mặt hàng xa xỉ. Sau nhiều tháng tranh cãi, vào cuối tháng 3/2010 các nước sử dụng chung đồng euro đã đồng ý về một giải pháp an toàn cho Hy Lạp. Theo đó Hy Lạp sẽ nhận được các khoản vay từ các quốc gia châu Âu và IMF. Tuy nhiên những cam kết thiếu cụ thể này chưa đủ sức thuyết phục để làm giảm sức ép lãi suất trên thị trường trái phiếu đối với chính phủ Hy Lạp. Lãi suất trái phiếu chính phủ Hy Lạp tiếp tục tăng mạnh do lo ngại của giới đầu tư về khả năng mất khả năng thanh toán của 97 chính phủ nước này. Vào ngày 11/4/2010 các nhà lãnh đạo châu Âu thông báo hứa sẽ cho chính phủ Hy Lạp vay 30 tỉ USD, cùng với khoản vay 15 tỉ USD từ IMF, với mức lãi suất 5% - thấp hơn so với mức lãi suất 7,5% mà Hy Lạp đang phải trả, tuy nhiên nó cũng đủ lớn để các quan chức của Đức cho rằng đó không phải là một sự trợ cấp hay giải cứu đối với Hy lạp. Cũng trong tháng 4/2010, ông Papandreou đã chính thức thỉnh cầu gói cứu trợ trị giá 60 tỉ USD nhằm cứu con tàu kinh tế đang chìm dần. Giới đầu tư quốc tế tiếp tục hạ thấp mức tín nhiệm của trái phiếu chính phủ Hy Lạp, điều này khiến IMF và các đối tác của Hy Lạp ở châu Âu buộc phải đứng ra cam kết một gói cứu trợ lớn hơn. Theo kế hoạch này, công bố ngày 2/5/2010 và được thông qua bởi quốc hội Hy Lạp ngày 6/5/2010, Hy Lạp sẽ nhận được khoản vay trị giá 110 tỉ euro hay tương đương 140 tỉ USD trong vòng 3 năm tới nhằm tránh mất khả năng thanh toán. Đổi lại, chính phủ Hy Lạp phải đáp ứng những cam kết cắt giảm nợ trong vòng 3 năm tới. Chính phủ Hy Lạp đã đồng ý thực hiện các biện pháp thắt lưng buộc bụng và nhiều khả năng thâm hụt ngân sách sẽ giảm nhưng đồng thời cũng nhiều khả năng gây ra một chu kì khủng hoảng kinh tế mới cho nước này. Tuy nhiên, thị trường tiếp tục hoài nghi với các khoản vay được cam kết này, các nhà đầu từ tiếp tục đẩy lãi suất đối với trái phiếu chỉnh phủ Hy Lạp lên cao hơn cả trái phiếu chính phủ của các nước đang phát triển như Ấn Độ và Philippines. Điều đó khiến Hy Lạp lầm vào tình thế khó khăn hơn trên thị trường tài chính và buộc ông Papandreou phải kêu gọi giải ngân ngay các khoản vay này nhằm tránh sự lo ngại leo thang. Ngày 18/5/2010 Hy Lạp đã nhận được khoản vay đầu tiên trong gói cứu trợ kéo dài 3 năm của 10 nước châu Âu (trị giá 110 tỷ euro, tương đương 136 tỷ USD), trong đó có Đức và IMF nhằm tránh khả năng phá sản. Gói cứu trợ kéo dài 3 năm này được đưa ra nhằm giúp Hy Lạp không cần dựa vào thị trường tài chính cho tới cuối năm 2011 và quý đầu của năm 2012. Tuy nhiên, Bộ trưởng tài chính Hy Lạp - ông George Papaconstantinou cho rằng nước này có thể không cần phải đợi đến thời gian đó nếu kinh tế Hy Lạp hồi phục và niềm tin của các nhà đầu tư trên thị trường 98 tài chính đối với trái phiếu chính phủ Hy Lạp quay trở lại. Khoản giải ngân ngày 18/5/2010 đã giúp Hy Lạp trả món nợ trị giá 8,5 tỉ euro đáo hạn vào ngày hôm sau. Khoản nợ tiếp theo mà chính phủ Hy Lạp cần phải chi trả trị giá 8,6 tỉ euro sẽ đáo hạn vào tháng 3/2011. Như vậy, sau khi những lời hứa thất bại trong việc lấy lại niềm tin của thị trường tài chính vào Hy Lạp thì phần đầu tiên của gói cứu trợ đã thực sự được giải ngân. Những lo ngại về khả năng tuyên bố phá sản và quỵt nợ của Hy Lạp hầu như không còn nữa. Giá trị đồng euro, thể hiện niềm tin của giới đầu tư vào khu vực châu Âu, đã tăng nhẹ trở lại. Cái mà thế giới đang quan tâm lúc này chính là khả năng phục hồi của kinh tế Hy Lạp cũng như tác động của nó đến kinh tế thế giới mà đầu tàu là kinh tế Mỹ. Ngày 21/07/2011 các nhà lãnh đạo 17 nước khu vực đồng tiền chung Châu Âu (Eurozone) và IMF đã đồng ý một thỏa thuận toàn diện cứu Hy Lạp khỏi khủng hoảng nợ, trong đó có việc dành cho Hy Lạp gói cứu trợ thứ hai (và được hy vọng là cuối cùng) trị giá 109 tỉ euro (155 tỉ USD). So với gói cứu trợ đầu tiên, kế hoạch giải cứu lần này có sự tham gia của cả khu vực tư nhân vào quỹ hỗ trợ, với số tiền đóng góp lên tới hơn 53 tỷ USD, chiếm hơn một phần ba số tiền mà Hy Lạp nhận được. Theo bản tin Anh BBC, cùng với gói cứu trợ tức thời, các ngân hàng cũng cam kết cho Hy Lạp vay hơn 194 tỷ USD trong vòng 30 năm tới. Sau khi quyết định giải cứu được công bố, Thủ tướng Hy Lạp cho rằng với gói tài chính nêu trên, nước này có thể tính tới một chương trình trả nợ hợp lý và bền vững. Các cột mốc quan trọng đánh dấu mức độ tăng tốc khủng hoảng nợ Hy Lạp từ cuối tháng 3/2010: Ngày 25/3: Hy Lạp tham gia vào gói vay cứu trợ của EU và IMF phối hợp Ngày 29/3: Hy Lạp tiến hành phát hành mới trái phiếu chính phủ kỳ hạn 7 năm, tổng trị giá 5 tỷ euro, với mức lãi suất vào khoảng 6%. 99 Ngày 30/3: Hy Lạp tái phát hành trái phiếu chính phủ kỳ hạn 20 năm (loại đã phát hành sẽ đáo hạn vào 2020) Ngày 7/4: Bốn ngân hàng lớn nhất của Hy Lạp yêu cầu Chính phủ hỗ trợ thanh khoản, đề nghị được tiếp cận khoảng 17 tỷ euro còn lại trong tổng 28 tỷ euro nằm trong gói hỗ trợ nhà nước thành lập từ năm 2008. Ngày 9/4: Tổ chức xếp hạng tín dụng Fitch hạ mức xếp hạng phát hành trái phiếu dài hạn bằng cả nội tệ và ngoại tệ của Hy Lạp từ mức BBB+ xuống BBB- Ngày 11/4: EU/IMF tuyên bố gói cứu trợ trị giá 45 tỷ euro cho Hy Lạp trong thời gian 3 năm, trong đó các nước EU cam kết góp 30 tỷ euro, còn IMF hy vọng sẽ hỗ trợ từ 10 – 15 tỷ euro. Ngày 22/4: Thâm hụt ngân sách Hy Lạp năm 2009 được điều chỉnh tăng từ mức 12,9% lên 13,6% GDP. Trong cùng ngày, tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody’s hạ mức xếp hạng tín nhiệm của trái phiếu chính phủ Hy Lạp xuống A3. Ngày 23/4: Hy Lạp chính thức xin gói vay cứu trợ của EU/IMF Ngày 27/4: Tổ chức xếp hạng tín nhiệm S&P hạ mức xếp hạng tín nhiệm của trái phiếu chính phủ từ mức BBB+ xuống mức BB+ Ngày 18/5: Hy Lạp đã nhận được khoản vay đầu tiên trong gói cứu trợ kéo dài 3 năm của 10 nước Châu Âu và IMF trị giá 110 tỷ euro, tương đương 136 tỷ USD để ngăn chặn khả năng vỡ nợ của nước này. 3.2.4 Hƣớng giải quyết khủng hoảng nợ của Hy Lạp Nằm trong kế hoặc thắt lưng buộc bụng nhằm nhận được gói cứu trợ, vào đầu tháng 3/2010 Chính phủ Hy Lạp đã phê chuẩn một kế hoạch cắt giảm chi tiêu bao gồm: cắt giảm lương của khu vực công, tăng thuế, và cắt giảm lương hưu. Những biện pháp thắt lưng buộc bụng khó khăn này đã gặp phải sự phản ứng giận dữ từ công chúng khi mà có tới 1/3 lực lượng lao động thuộc khu vực Nhà nước. Các nhà phân tích cho rằng, các cuộc biểu tình có thể là tín hiệu khởi đầu của một xã hội bất ổn. Nó có thể làm tê liệt và đẩy nền kinh tế lún sâu vào suy thoái. 100 Về nguồn thu Chính phủ, Bộ trưởng Tài chính Hy Lạp, ông George Papaconstantinou, thông báo rằng Chính phủ Hy Lạp đã đồng ý tăng thuế Giá trị gia tăng (VAT) từ 21% lên 23%, giữ nguyên tiền lương và bỏ tiền thưởng của khu vực công. Đồng thời, các thành viên Quốc hội sẽ không nhận tiền thưởng. Những quy định đặc biệt cho phép về hưu sớm sẽ được thắt chặt và Chính phủ dự định tăng thuế đối với nhiên liệu, thuốc lá, và rượu khoảng 10%. Hy Lạp hy vọng những cải cách kinh tế sẽ tăng nguồn thu lên chiếm 1,8% GDP, giúp thâm hụt ngân sách của Hy Lạp giảm xuống còn 8,1% GDP trong năm 2010, so với mức 13,6% của năm 2009 (theo mức điều chỉnh của Eurostat vào tháng 4/2010). Theo quy định của EU, các nước nên giới hạn thâm hụt ngân sách không quá 3% GDP. Hy Lạp dự kiến sẽ cắt giảm thâm hụt ngân sách xuống còn 4,9% vào năm 2013 và xuống dưới mức giới hạn 3% của EU vào năm 2014. Ngay cả khi nhận được gói cứu trợ, Hy Lạp vẫn đang phải đối mặt với nhiều vấn đề liên quan đến việc tìm kiếm các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới. Ngoài hiện trạng thâm hụt ngân sách cao khiến lãi suất tăng vọt trên thị trường tài chính, Hy Lạp còn đang phải đối mặt với một nền kinh tế yếu với khả năng cạnh tranh thấp. Khác với ở Đức, sự gia tăng tiền lương ở Hy Lạp trong thời gian qua không tương ứng với sự gia tăng năng suất. Khả năng cạnh tranh kém đã làm giảm cầu về hàng hóa Hy Lạp và dẫn đến thâm hụt cán cân thương mại cao (khoảng 14% GDP). Hơn nữa, do sử dụng đồng tiền chung châu Âu nên Hy Lạp không có khả năng phá giá tiền tệ nhằm khôi phục khả năng cạnh tranh. Tăng trưởng kinh tế năm 2009 của Hy Lạp giảm 1,2% và các cuộc biểu tình bãi công khiến cho khả năng hồi phục càng chậm lại. Các giải pháp thắt lưng buộc bụng hiện tại có thể chỉ làm trầm trọng thêm vấn đề. Các nước đang kêu gọi Hy Lạp cần phải cắt giảm chi tiêu Chính phủ. Tuy nhiên, khi nền kinh tế đang lâm vào suy thoái và thất nghiệp cao, biện pháp vừa tăng thuế vừa cắt giảm chi tiêu Chính phủ có thể dẫn đến thất nghiệp nghiêm trọng hơn và đưa Hy Lạp đến tình trạng suy thoái nặng hơn. 101 Dự báo nợ công Hy lạp đến năm 2016 Nguồn: IMF, World Economic Outlook Database, April 2011 3.3 Nguyên nhân và hƣớng giải quyết khủng hoảng nợ công tại một số nƣớc khác ở Châu Âu 3.3.1 Ireland Nguyên nhân khủng hoảng nợ công của Ireland Khác với nguyên nhân khủng hoảng nợ của Hy Lạp, trình trạng khủng hoảng nợ công của Ireland bắt nguồn từ việc Chính phủ đã không kịp thời khống chế hành vi cho vay thiếu trách nhiệm của một số ngân hàng. Mức thâm hụt ngân sách của Ireland vào cuối năm 2010 tăng mạnh không kém Hy Lạp là do Chính phủ nước này phải bỏ tiền ra cứu trợ ngành ngân hàng, bao gồm quốc hữu hóa ngân hàng và chi tiền để tái cấp vốn cho một số ngân hàng trong nước. Nguyên nhân chính là do các ngân hàng của Ireland ngày càng phải gánh nhiều nợ xấu sau khi đã tăng cho vay quá mạnh trong thời kỳ kinh tế nước này tăng tưởng mạnh và bong bóng bất động sản phình to. Khi thị trường bất động sản nước này sụp đổ, nhiều phần trong các khoản cho vay bất động sản này trở thành nợ xấu và các ngân hàng đứng trước nguy cơ sụp đổ. Chính phủ Ireland buộc phải cứu hệ thống ngân hàng bằng cách tạo ra một định chế tài chính mới gọi là NAMA (National Asset Management Agency) vào năm 2009 để nhận hầu hết các khoản nợ xấu của các ngân hàng lớn của Ireland. Chính phủ Ireland đã biến nợ xấu của các 102 ngân hàng này thành “tài sản tệ hại” (toxic assets) mà Chính phủ phải quản lý, nghĩa là trở thành tài sản công (nhưng đang liên tục mất giá) và lấy tiền của ngân sách để bù đắp cho các tổn thất của nó. Vì vậy, khủng hoảng nợ của Ireland thực tế là do Chính phủ phải đi cứu trợ cho hệ thống ngân hàng, khiến nợ xấu từ khu vực tư nhân tạo thành gánh nặng nợ nần của Chính phủ. Và cuối cùng Chính phủ không đủ tiền trả nợ phải đi cầu viện EU và IMF để có tiền cứu giúp hệ thống ngân hàng của mình. Tình hình nợ công và thâm hụt ngân sách của Ireland Nguồn: Eurostat [45] Hướng giải quyết của chính phủ Ireland Ban đầu, Chính phủ Ireland kiên quyết không cần tới sự giúp đỡ từ bên ngoài nhưng cuối cùng ngày 21/11/2010 Ireland cũng đã phải cầu cứu sự viện trợ của EU và IMF (với gói cứu trợ trị giá 85 tỷ euro). Sau đó, Chính phủ Ireland công bố chương trình thắt chặt tài chính trong bốn năm với tổng giá trị lên tới 15 tỷ euro, trong đó cắt giảm 10 tỷ euro chi tiêu và tăng 5 tỷ euro thuế. Mục tiêu của chương trình này là nhằm giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách/GDP xuống còn 3% vào năm 2014 để phù hợp với yêu cầu của EU. Chính phủ Ireland cho biết sẽ duy trì mức 12,5% thuế doanh nghiệp, nhưng sẽ cải cách lại thuế thu nhập cá nhân và dự tính sẽ nâng thuế Giá trị gia tăng từ mức 103 hiện nay là 21% lên tới 22% vào năm 2013. Ngoài ra, sẽ cắt giảm 24.750 việc làm của ngành cộng đồng và giảm 10% lương nhân viên mới ngành cộng đồng. Tổng cộng sẽ cắt giảm 1,2 tỷ euro lương ngành cộng đồng và giảm mạnh 2,8 tỷ euro khoản phúc lợi xã hội. 3.3.2 Bồ Đào Nha Nguyên nhân khủng hoảng nợ công của Bồ Đào Nha Tiếp theo cuộc khủng hoảng nợ công xảy ra tại Hy Lạp và Ireland, cuộc khủng hoảng nợ công đã lan đến Bồ Đào Nha như một hiệu ứng domino ở khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone). Tại mỗi nước có những căn nguyên khác nhau và cách giải quyết khác nhau. Tình hình nợ công và thâm hụt ngân sách Bồ Đào Nha Nguồn: Eurostat [45] Khủng hoảng nợ của Hy Lạp xuất phát từ nguyên nhân chính là khả năng quản trị tài chính công yếu kém của nước này với những khoản chi tiêu của Chính phủ quá lớn và vượt kiểm soát. Trong khi đó, cuộc khủng hoảng nợ công tại Ireland lại xảy ra từ một khía cạnh khác. Khủng hoảng nợ của Ireland là do Chính phủ phải đi cứu trợ cho hệ thống ngân hàng, nợ tư trong nước đã biến thành nợ công, trở thành gánh nặng nợ nần cho Chính phủ. 104 Tương tự như Ireland, khủng hoảng nợ công của Bồ Đào Nha cũng đến từ nợ của khu vực tư nhân. Tất nhiên nợ nước ngoài có ảnh hưởng quan trọng đến nợ công của các quốc gia. Tuy nhiên ở Bồ Đào Nha, cú đánh có tính chất quyết định dẫn đến cuộc khủng hoảng nợ công xảy ra tại đây là từ vấn đề nợ nước ngoài của khu vực tư nhân. Tầm quan trọng của nợ nước ngoài có thể được minh họa bằng trường hợp của Bồ Đào Nha. Ở quốc gia này, mặc dù nợ công và tỷ lệ thâm hụt khá cao nhưng cũng chỉ tương tự như của Pháp. Vấn đề quan trọng nhất mà Bồ Đào Nha đang phải đối mặt, không phải là chính sách tài chính, mà là các khoản nợ nước ngoài cao của khu vực tư nhân: các ngân hàng và các doanh nghiệp Bồ Đào Nha. Hướng giải quyết của chính phủ Bồ Đào Nha Để đối phó với cuộc khủng hoảng nợ công, Chính phủ Bồ Đào Nha đã đưa ra kế hoạch “thắt lưng buộc bụng”, trong đó chủ yếu là cắt giảm chi tiêu và tăng thuế để giảm thâm hụt ngân sách. Tuy vậy, kế hoạch trên của Chính phủ Bồ Đào Nha đã không được Quốc hội ủng hộ. Sự không ủng hộ của Quốc hội đối với kế hoạch chi tiêu “thắt lưng buộc bụng” của Chính phủ đã đẩy Chính phủ Bồ Đào Nha phải gõ cửa các tổ chức tài chính hàng đầu thế giới là IMF và EU. Một kế hoạch cứu con thuyền nợ công Bồ Đào Nha đã được thông qua, theo đó IMF và EU sẽ đưa ra gói cứu trợ 78 tỷ Euro (tương đương) 110 tỷ USD, trong đó IMF sẽ cho vay 26 tỷ Euro, số còn lại là từ EU. Đổi lại số tiền trên, Bồ Đào Nha sẽ phải cắt giảm mạnh chi tiêu, nâng thuế khóa, cải tổ hệ thống pháp lý và lao động. 3.4 Ảnh hƣởng của cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu Tác động đến nền kinh tế Trung Quốc Cuộc khủng hoảng nợ công của các nước khu vực đồng Euro đã làm đồng Euro mất giá so với đồng Nhân dân tệ. Điều này sẽ làm tăng áp lực chi phí cho các nhà sản xuất Trung Quốc, tác động tiêu cực đến xuất khẩu Trung Quốc, hàng hoá xuất sang EU sẽ kém cạnh tranh, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của nước này. Bên cạnh đó, trong nhiều năm gần đây, nhằm tránh lệ thuộc quá nhiều vào trái phiếu kho bạc Mỹ. Trung Quốc đã đa dạng hoá nguồn dự trữ ngoại tệ, mở rộng nắm 105 giữ trái phiếu chính phủ của các nước châu Âu. Với cuộc khủng hoảng hiện nay tại Châu Âu, Trung Quốc bị thiệt hại khá nhiều trong tổng số giá trị dự trữ ngoại hối của mình. Cuộc khủng hoảng nợ công buộc các Chính phủ châu Âu thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt. Các chính sách này có thể cũng ảnh hưởng đến hàng hoá xuất khẩu của Trung Quốc. Ngày 31/5/2010, Thủ tướng Trung Quốc - Ôn Gia Bảo cho rằng cuộc đấu trang ngăn chặn gia tăng nợ chủ quyền tạo ra mối đe dọa đến việc khôi phục tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Ông cho biết, vẫn còn quá sớm để rút các gói kích thích kinh tế đã triển khai trong cuộc khủng hoảng 2007-2009. Tác động đến nền kinh tế Mỹ Mỹ cũng chịu tác động của cuộc khủng hoảng từ châu Âu, đặc biệt là tác động đến khả năng khôi phục kinh tế sau khủng hoảng năm 2007. Trước mắt, khủng hoảng nợ châu Âu làm cho thị trường tài chính Mỹ đi xuống bởi Mỹ là chủ nợ lớn của các nước thuộc khu vực đồng Euro và nếu đồng euro mất giá so với đồng đôla Mỹ, các hoạt động xuất nhập khẩu của Mỹ bị ảnh hưởng tiêu cực. Bên cạnh đó, lợi nhuận của các công ty Mỹ có thị phần tại châu Âu giảm do thị trường châu Âu đóng góp 20% tổng doanh thu của các công ty sản xuất hàng tiêu dùng của Mỹ. Việc tiếp tục gia tăng bất ổn ở thị trường tài chính và các điều kiện tín dụng thắt chặt ở châu Âu có thể làm giảm ý chí của các công ty cho vay, cho thuê của Mỹ, vì vậy tác động đến khôi phục kinh tế của Mỹ. Tổng thống Mỹ Obama đã kêu gọi lãnh đạo của các nước EU có các biện pháp mạnh nhằm ngăn chặn khủng hoảng nợ công. Bộ trưởng tài chính Mỹ Grithner cho rằng, các biện pháp của châu Âu chưa đúng tầm, cần phải được tăng cường hơn nữa. Cục Dự trữ liên bang Mỹ cũng quyết định hỗ trợ đối với các nền kinh tế châu Âu bằng việc mở lại chương trình cho Ngân hàng Trung ương Châu Âu và các ngân hàng nước ngoài khác vay bằng tiền đôla Mỹ . 106 Làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao Cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu đã làm cho tốc độ phục hồi kinh tế thế giới chậm lại và ảnh hưởng đến xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế của nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là khu vực châu Âu sẽ phải chứng kiến tình hình thất nghiệp và lạm phát tăng cao, đồng Euro mất giá, tăng trưởng GDP giảm sút, làm cho thu nhập thực tế người dân và cầu tiêu dùng với hàng nhập khẩu giảm mạnh. Đầu tư trực tiếp nước ngoài Khủng hoảng nợ công ở Châu Âu có thể tạo ra hai tác động trái chiều hoàn toàn với luồng vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trên phạm vi toàn cầu. Trong những quốc gia có trình độ phát triển tương đương với các nước thuộc EU sẽ hưởng lợi do nguồn vốn FDI sẽ dịch chuyển từ châu Âu sang các quốc gia này khi nhà đầu tư muốn tránh thuế thu nhập doanh nghiệp đang có xu hướng tăng cao tại các quốc gia châu Âu. Ngược lại, các nước có trình độ phát triển thấp như Việt Nam thì luồng vốn từ các nhà đầu tư Châu Âu vào các quốc gia này có thể bị giảm sút do cuộc khủng hoảng nợ. Biến động tỷ giá và gia tăng rủi ro tỷ giá hối đoái Khủng hoảng nợ công Châu Âu cũng tạo ra những biến động khó lường về tỷ giá. Từ khi cuộc khủng hoảng có dấu hiệu nghiêm trọng, đồng Euro mất giá tương đối so với USD và các ngoại tệ mạnh trên thế giới. Điều này sẽ tạo ra những rủi ro nhất định trong việc vay, trả ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng như cho hoạt động ngoại hối của các ngân hàng thương mại. Hiện nay, để giải quyết vấn đề khủng hoảng nợ công, Chính phủ các nước đang áp dụng biện pháp thắt chặt tài chính như giảm chi tiêu, tăng tuế, giảm lương và tư nhân hoá. Tuy nhiên, các biện pháp thắt chặt tài chính có thể sẽ làm giảm cầu nội địa, cản trở kích thích kinh tế cần thiết và gây khó khăn cho việc khôi phục kinh tế ở các nước khu vực đồng Euro. 107 Do đó, cuộc khủng hoảng nợ công ở châu Âu ít nhiều cũng tác động đến kinh tế Việt Nam. Do chính sách thắt chặt tài chính của EU nên cầu tiêu dùng EU giảm và điều này sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là các mặt hàng dệt may, thuỷ sản và một số mặt hàng khác đang được sản xuất trong các khu chế xuất và khu công nghiệp Việt Nam có bạn hàng từ các nước sử dụng đồng Euro. 108 PHỤ LỤC 4 Giải pháp cho các cuộc khủng hoảng nợ [8] 4.1 Mua nợ Mua bán nợ là hoạt động kinh tế để trao đổi và chuyển giao phần tài sản từ đối tượng này sang đối tượng khác. Thực chất, đó là việc chuyển nhượng lại “quyền thu hồi nợ” từ một “khoản nợ phải thu” của chủ nợ đối với con nợ sang cho bên mua nợ để bên mua nợ trở thành chủ nợ mới của bên con nợ. Như vậy, hoạt động mua bán nợ được thực hiện đối với các khoản nợ phải thu (của bên chủ nợ) mà không phải là nợ phải trả (của bên con nợ). Theo nghĩa hẹp, mua bán nợ (factoring) diễn ra giữa các doanh nghiệp và có sự trung gian của các tổ chức tài chính với vai trò là cấp tín dụng. Suy rộng ra cho cả nền kinh tế và xét dưới góc độ một quốc gia, mua bán nợ (Repurchase debt) là việc mua lại món nợ quốc gia thông thường với một mức giá chiết khấu nhất định trên thị trường thứ cấp. Trong cuộc khủng hoảng nợ quốc tế, nhiều ngân hàng quốc tế cho vay cố gắng giảm thiểu rủi ro tổn thất từ việc cho các nước đang phát triển vay. Một vài ngân hàng cố gắng hoán đổi các khoản vay của các nước đang phát triển để đạt được một danh mục đa dạng hóa hơn. Các khoản vay nước ngoài lúc này được mua bán dưới một mức chiết khấu đáng kể. Trên thực tế, một vài ngân hàng Trung Đông và Châu Âu muốn bán toàn bộ các khoản cho vay của mình. Các ngân hàng muốn bán các khoản vay của mình thường là không sẵn sàng tái cấu trúc các điều khoản cho vay và họ không dành thời gian cho các nước đang phát triển hồi phục. Thay vào đó, họ muốn bán rẻ các khoản vay và chịu tổn thất ngay lập tức. Họ cho rằng, điều này sẽ tránh được những tổn thất có thể có về sau, và đây là một phương pháp đánh đổi. Xác suất thanh toán các khoản vay quan sát được có thể được đánh giá bằng cách xem lại các chiết khấu dành cho các khoản vay của các nước đang phát triển giao dịch ở thị trường thứ cấp. 109 4.2 Thực hiện kế hoạch Brady Trong khoảng thời gian từ 1985 đến 1988, kế hoạch Brady được đưa ra như một phương cách làm giảm bớt cơn khủng hoảng nợ ở các quốc gia đang phát triển. Kế hoạch được căn cứ trên các hành động tự nguyện của các chủ nợ nhằm giảm thiểu rủi ro của họ. Tháng 12/1988, WB đã đề nghị thực hiện dần kế hoạch, cùng với cam kết cung cấp cho các nước đang phát triển các khoản vay thay cho các khoản vay ngân hàng và áp đặt các biện pháp cải tổ ở các nước này. Đến năm 1989 kế hoạch lấy đà đi lên khi IMF cho thấy sẵn sàng thay thế nợ của các nước đang phát triển do các ngân hàng đang nắm giữ. Theo kế hoạch, các cuộc đàm phán giữa ngân hàng thương mại quốc tế cho vay với từng nước đang phát triển được khuyến khích lập ra để cung cấp cho các ngân hàng quyền chọn việc nợ của họ được WB và IMF thay thế bằng cách mua lại ở một mức giá chiết khấu. Một ví dụ về thỏa thuận ở Mêxicô, theo đó các ngân hàng quốc tế đóng vai trò là chủ nợ, được quyền lựa chọn một trong hai phương án sau: (1) đồng ý cắt giảm 35% vốn hoặc lãi từ khoản vay, và (2) cung cấp một khoản vay mới bằng 25% các khoản vay của Mêxicô. Nói chung, việc đánh đổi bao gồm, hoặc công nhận tổn thất từ các khoản vay cũ trong khi cắt giảm rủi ro, hoặc tăng thêm đầu tư vào các nước đang phát triển mà không chịu tổn thất tức thời. Thỏa ước này, về phía Mêxicô là đang cải thiện vị thế quốc gia, nó cắt giảm số nợ của Mêxicô và cũng cho phép quốc gia này nợ thêm từ các ngân hàng. Một vấn đề được đặt ra là nếu như tất cả các ngân hàng đều không muốn cho các nước đang phát triển vay thêm bằng cách xóa tất cả hoặc một phần món nợ hiện hiện hữu, các nước này có thể sẽ không thể nào phục hồi được nền kinh tế của mình. Vì cơ hội duy nhất của họ để thanh toán các khoản nợ hiện hữu là cải tổ kinh tế, việc này đòi hỏi phát sinh thêm nhiều khoản vay mới. Do đó, việc sử dụng ngân 110 quỹ của WB và IMF để mua lại nợ của các ngân hàng thương mại với một mức giá chiết khấu có thể giúp giải quyết cuộc khủng hoảng đang tiếp diễn. 4.3 Hoán đổi nợ thành vốn cổ phần Nhiều ngân hàng và các công ty đa quốc gia đã tham gia vào việc hoán đổi nợ thành vốn cổ phần trong nỗ lực giải quyết vấn đề nợ, qua đó làm giảm số lượng nợ của các nước đang phát triển do các định chế tài chính nắm giữ. Một công ty đa quốc gia có thể mua lại với một mức chiết khấu một vài các khoản nợ vay còn tồn đọng của một nước đang phát triển ở thị trường thứ cấp. Sau đó công ty đổi món nợ này với chính phủ nước này lấy một vài tài sản đang được chính phủ nước này thanh lý. Các tài sản đó có thể gồm máy bay, máy móc, nhà xưởng, … Trên thực tế, các công ty đa quốc gia đặt trụ sở tại Mỹ như Allied-Signal Inc, Chrysler Corporation và General Electric Company đã tham gia hoán đổi nợ và vốn cổ phần này. Nhiều định chế tài chính đang nắm giữ nợ của các nước đang phát triển cũng thực hiện việc hoán đổi. Ngân hàng Citicorp đã hoán đổi nợ thành vốn cổ phần vào mỏ vàng ở Chilê. Thành công của các hoạt động này là ở chỗ mỗi bên đều giải quyết được công việc của mình. Trong việc chuyển nhượng các tín dụng, ngân hàng cho vay thu lại các khoản tín dụng mà tưởng như không còn hy vọng đòi được nữa, mặc dù họ phải chịu mất một khoản chiết khấu nhưng trên thực tế không làm ảnh hưởng lớn đến các hoạt động kinh doanh. Đơn vị mà mua nợ đầu tư vào nước nợ có thể đầu tư với giá rẻ cho dự án của mình khiến nước mắc nợ giảm bớt được gánh nặng nợ nước ngoài và được hưởng những khoản đầu tư mới để tạo việc làm mới. Các công ty đa quốc gia được khuyến khích việc hoán đổi nợ thành vốn cổ phần tại các quốc gia đang phát triển. Do đó, thị trường thứ cấp về nợ của các nước này trở nên sôi nổi hơn. Nếu không có việc hoán đổi nợ thành vốn cổ phần thì sẽ chỉ có những định chế tài chính nào sẵn sàng chấp nhận rủi ro tổn thất lớn hơn từ nợ của các nước đang phát triển mới có thể mua lại những món nợ này trên thị trường thứ cấp. Sự hiện diện của việc hoán đổi nợ thành vốn cổ phần cho phép các công ty 111 và các định chế tài chính khác thực hiện việc mua lại nghĩa vụ nợ của các nước đang phát triển ngay khi họ không có kế hoạch nắm giữ các nghĩa vụ này. Vì các hoán đổi nợ thành vốn cổ phần gia tăng nhu cầu mua nợ của các nước đang phát triển trong thị trường thứ cấp, chúng làm giảm tỷ lệ chiết khấu của các món nợ này, tức là chủ nợ cũ chịu ít thiệt thòi hơn trong việc bán nợ. 4.4 Các biện pháp khác Một số biện pháp khác cũng được sử dụng để giải quyết vấn đề nợ ở các quốc gia như: áp đặt hàng rào mậu dịch và phá giá tiền tệ; gia tăng dự trữ tổn thất cho vay, … Khi mức nợ hiện hữu của một quốc gia ở mức cao thì họ không thể thu hút vốn đầu tư nước ngoài để trang trải nợ nần mà phải dựa chủ yếu vào xuất khẩu để tài trợ nợ. Tuy nhiên, khi cuộc khủng hoảng lan nhanh và hầu hết các quốc gia đều có dự định này nên không phải nước nào cũng thực hiện được nó. Để đạt được mậu dịch thuận lợi hơn, chính phủ các nước đang phát triển có thể xem xét việc áp đặt các hàng rào mậu dịch đối với nhập khẩu hoặc can thiệp sâu vào thị trường tiền tệ để phá giá đồng nội tệ. Cả hai giải pháp này đều không phải là tối ưu khi vấp phải sự trả đũa của các nước khác, cũng như có thể làm cho các khoản thanh toán nợ vay trở nên đắt đỏ hơn bao giờ hết. Ngoài ra, ngân hàng quốc tế cho vay có thể áp dụng việc tăng dự trữ tổn thất cho vay, việc này làm giảm lợi nhuận công bố của các ngân hàng, mặc dù trên thực tế chúng không hề mất đi các khoản dự trữ tổn thất này. Các khoản này được xem như là một quỹ dự phòng, trong trường hợp xấu nhất đến với ngân hàng là không đòi được nợ. Việc này cũng làm giảm số thuế ngân hàng phải nộp. 112 PHỤ LỤC 5 Xếp hạng nợ công của các quốc gia trên thế giới năm 2010 Nguồn: World Factbook - CIA 113 PHỤ LỤC 6 Một số chỉ số đánh giá hiệu quả quản lý nợ công Việt nam Nguồn: Tổng hợp từ Bộ tài chính, ADB, IMF [52,53,54,55], [6] và [25] 114 PHỤ LỤC 7A Cơ sở dữ liệu giai đoạn 1990 – 2010 Nguồn: Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, IMF [56] và ADB 115 PHỤ LỤC 7B Kiểm định các mô hình hồi quy và ƣớc lƣợng các hệ số Dùng mô hình hồi quy tuyến tính (HQTT) dạng log-lin để tìm hiểu mối tương quan giữa giá trị xuất khẩu và chuyển giao ròng (X_CGR), nhập khẩu (M) theo biến xu thế thời gian (t). Mô hình sai phân có thể được sử dụng để xử lý các mô hình có hiện tượng tự tương quan. Từ đó, ước lượng tương ứng với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu và chuyển giao ròng, tốc độ tăng trưởng nhập khẩu trong điều kiện các yếu tố khác không đổi và với mức ý nghĩa (cũng áp dụng cho tất cả các kiểm định). 2.1 Hàm HQTT Ln(X_CGR) theo t Dependent Variable: LOG(X_CGR) Method: Least Squares Date: 09/10/11 Time: 15:28 Sample: 1990 2010 Std. Error t-Statistic Prob. Included observations: 21
Variable
C Coefficient
7.525509 0.060048 125.3251 0.0000 0.004782 38.64061 0.0000 0.184787 T R-squared 0.987435 Mean dependent var 9.558169 Adjusted R-squared 0.986773 S.D. dependent var 1.153847 S.E. of regression 0.132701 Akaike info criterion -1.111047 Sum squared resid 0.334580 Schwarz criterion -1.011569 Log likelihood 13.66600 F-statistic 1493.097 Durbin-Watson stat 0.968756 Prob(F-statistic) 0.000000 Kết quả hồi quy (sử dụng phần mềm Eview 5.1) như sau: Kiểm định Durbin Waston: Từ kết quả hồi quy ta có giá trị thống kê Durbin-Watson d = 0,968756. Dựa vào bảng Durbin-Watson, với n = 21 và k’ = 1 (do có 1 biến độc lập), ta có hai giá trị phân vị và tại mức ý 116 nghĩa 5%. Vì d = 0,968756 < nên kết luận mô hình có tự tương quan dương bậc 1. Breusch-Godfrey Serial Correlation LM Test: F-statistic
Obs*R-squared 0.030852
0.026763 5.487021 Prob. F(1,18)
4.906005 Prob. Chi-Square(1)
Ta có p- value=0,026763 < 0,05 nên kết luận mô hình có hiện tượng tự Kiểm định Breusch-Godfrey (BG): tương quan bậc 1 Để khắc phục hiện tượng tự tương quan, ta sử dụng sai phân bậc 1 cho mô Dependent Variable: LOG(X_CGR)
Method: Least Squares
Date: 09/10/11 Time: 15:51
Sample (adjusted): 1991 2010
Included observations: 20 after adjustments
Convergence achieved after 3 iterations Std. Error t-Statistic Prob. 0.123891
0.008963
0.208516 60.35472
20.88722
2.343102 0.0000
0.0000
0.0315 Variable
C
T
AR(1) Coefficient
7.477411
0.187220
0.488574 R-squared
Adjusted R-squared
S.E. of regression
Sum squared resid
Log likelihood
Durbin-Watson stat 0.989916 Mean dependent var
0.988730 S.D. dependent var
0.118141 Akaike info criterion
0.237276 Schwarz criterion
15.96387 F-statistic
1.220673 Prob(F-statistic) Inverted AR Roots .49 9.644042
1.112846
-1.296387
-1.147028
834.4255
0.000000 Kiểm định BG: Breusch-Godfrey Serial Correlation LM Test: F-statistic
Obs*R-squared 5.033245 Prob. F(1,16)
4.785990 Prob. Chi-Square(1) 0.039371
0.028692 hình hồi qui. Kết quả mô hình sai phân bậc 1: 117 Ta có p- value=0,028692 < 0,05 nên kết luận mô hình vẫn xảy ra hiện tượng tự tương quan bậc 1. Kết quả kiểm định ở các bậc cao hơn (2,3,4 và 5) đều có Breusch-Godfrey Serial Correlation LM Test: F-statistic
Obs*R-squared 0.028307
0.032300 3.744402 Prob. F(5,12)
12.18801 Prob. Chi-Square(5)
Do đó, mô hình sai phân bậc hai được sử dụng để loại bỏ tự tương quan. luận có xảy ra hiện tượng tự tương quan. Dependent Variable: LOG(X_CGR)
Method: Least Squares
Date: 09/10/11 Time: 16:33
Sample (adjusted): 1992 2010
Included observations: 19 after adjustments
Convergence achieved after 3 iterations Std. Error t-Statistic Prob. 0.122965
0.008920
0.199147
0.204992 61.90495
20.08524
3.758216
-1.282330 0.0000
0.0000
0.0019
0.2192 Variable
C
T
AR(1)
AR(2) Coefficient
7.612121
0.179164
0.748438
-0.262867 R-squared
Adjusted R-squared
S.E. of regression
Sum squared resid
Log likelihood
Durbin-Watson stat 0.992803 Mean dependent var
0.991363 S.D. dependent var
0.096759 Akaike info criterion
0.140434 Schwarz criterion
19.66102 F-statistic
2.240198 Prob(F-statistic) Inverted AR Roots .37+.35i .37-.35i 9.746869
1.041159
-1.648528
-1.449699
689.7122
0.000000 Kết quả hồi quy như sau: Ln(X_CGR) = 7,612121 + 0,179164t + [AR(1)=0,748438, AR(2)=-0,262867] + Mô hình có p = 0,00000 << 0,05 -> bác bỏ giả thiết , tức mô hình giải thích được 99,28% sự thay đổi của tăng trưởng xuất khẩu theo t. 118 2.1.1 Kiểm định hiện tượng tự tương quan Kiểm định Durbin Waston: Từ kết quả hồi quy ta có giá trị thống kê Durbin-Watson d = 2,240198 -> nên mô hình không xảy ra hiện tượng tự tương quan. Breusch-Godfrey Serial Correlation LM Test: F-statistic
Obs*R-squared 0.815888 Prob. F(1,14)
1.046300 Prob. Chi-Square(1) 0.381665
0.306361 Kiểm định BG: Ta có p- value = 0,306361 > 0,05 nên mô hình không còn tự tương quan. White Heteroskedasticity Test: F-statistic
Obs*R-squared 1.046615 Prob. F(2,16)
2.198136 Prob. Chi-Square(2) 0.373965
0.333181 2.1.2 Kiểm định phương sai thay đổi (sử dụng kiểm định White) có xác suất p- value tương ứng là 0,333181 > Thống kê nên ta chấp nhận giả thiết , tức mô hình HQTT có phương sai không đổi. Ramsey RESET Test: F-statistic
Log likelihood ratio 0.459841
0.380769 0.577655 Prob. F(1,14)
0.768219 Prob. Chi-Square(1) 2.1.3 Kiểm định bỏ sót biến (sử dụng kiểm định RESET của RAMSEY) F = 0,577655 và p- value = 0,380769 > 0,05 nên chấp nhận giả thiết , tức mô hình hồi quy không bỏ sót biến. 2.1.4 Kiểm định phân phối chuẩn của (sử dụng kiểm định Jarque-Bera) 119 Thống kê JB = 2,811929 có xác suất p- value = 0,245131 > 0,05 nên ta chấp nhận giả thiết , tức có phân phối chuẩn. 2.1.5 Ước lượng Với , tra bảng t-student ta có = 2,110 Dựa vào kết quả hồi quy, ta có se( ) = 0,008920 Vậy tốc độ tăng trưởng xuất khẩu và chuyển giao ròng bình quân hàng năm nằm trong khoảng: 0,179164 2,110*0,008920 hay (0,160343 ; 0,197985) 2.2 Hàm HQTT Ln(M) theo t Dependent Variable: LOG(M) Std. Error t-Statistic Prob. 0.083879
0.006680 91.28199
27.15456 0.0000
0.0000 Kết quả hồi quy (sử dụng phần mềm Eview 5.1) như sau: Coefficient
7.656629
0.181395 R-squared
Adjusted R-squared
S.E. of regression
Sum squared resid
Log likelihood
Durbin-Watson stat 0.974880 Mean dependent var
0.973558 S.D. dependent var
0.185365 Akaike info criterion
0.652844 Schwarz criterion
6.647156 F-statistic
0.821935 Prob(F-statistic) 9.651973
1.139935
-0.442586
-0.343108
737.3700
0.000000 Method: Least Squares
Date: 09/10/11 Time: 18:00
Sample: 1990 2010
Included observations: 21
Variable
C
T Kiểm định Durbin Waston: Từ kết quả hồi quy ta có giá trị thống kê Durbin- Watson d = 0,968756 < 1 nên kết luận mô hình có tự tương quan dương bậc 1. Breusch-Godfrey Serial Correlation LM Test: F-statistic
Obs*R-squared 9.158489 Prob. F(1,18)
7.081700 Prob. Chi-Square(1) 0.007258
0.007788 Kiểm định Breusch-Godfrey (BG): 120 Ta có p- value=0,007788 < 0,05 nên kết luận mô hình có hiện tượng tự tương quan bậc 1. Tương tự mô hình HQTT của Ln(X_CGR), mô hình sai phân bậc hai được Dependent Variable: LOG(M)
Method: Least Squares
Date: 09/10/11 Time: 18:04
Sample (adjusted): 1992 2010
Included observations: 19 after adjustments
Convergence achieved after 3 iterations Std. Error t-Statistic Prob. 0.120943
0.009148
0.181480
0.184112 64.18709
19.07648
5.079682
-2.716402 0.0000
0.0000
0.0001
0.0159 Variable
C
T
AR(1)
AR(2) Coefficient
7.762969
0.174509
0.921863
-0.500122 R-squared
Adjusted R-squared
S.E. of regression
Sum squared resid
Log likelihood
Durbin-Watson stat 0.988802 Mean dependent var
0.986563 S.D. dependent var
0.118174 Akaike info criterion
0.209477 Schwarz criterion
15.86217 F-statistic
2.406149 Prob(F-statistic) Inverted AR Roots .46+.54i .46-.54i 9.842848
1.019458
-1.248649
-1.049820
441.5232
0.000000 sử dụng để loại bỏ tự tương quan. Kết quả hồi quy như sau: Ln(M) = 7,762969 + 0,174509t + [AR(1)=0,921863, AR(2)= - 0,500122] + Mô hình có p = 0,00000 << 0,05 -> bác bỏ giả thiết , tức mô hình giải thích được 98,88% sự thay đổi của tăng trưởng xuất khẩu theo t. 2.2.1 Kiểm định hiện tượng tự tương quan Kiểm định Durbin Waston: Từ kết quả hồi quy ta có giá trị thống kê Durbin-Watson d = 2,406149 -> (1;3) nên mô hình không xảy ra hiện tượng tự tương quan. 121 Breusch-Godfrey Serial Correlation LM Test: F-statistic
Obs*R-squared 3.419604 Prob. F(1,14)
3.729848 Prob. Chi-Square(1) 0.085651
0.053448 Kiểm định BG: Ta có p- value = 0,053448 > 0,05 nên mô hình không còn tự tương quan. White Heteroskedasticity Test: F-statistic
Obs*R-squared 0.979487 Prob. F(2,16)
2.072529 Prob. Chi-Square(2) 0.396924
0.354777 2.2.2 Kiểm định phương sai thay đổi (sử dụng kiểm định White) có xác suất p- value tương ứng là 0,354777 > Thống kê nên ta chấp nhận giả thiết , tức mô hình HQTT có phương sai không đổi. Ramsey RESET Test: F-statistic
Log likelihood ratio 1.135253 Prob. F(1,14)
1.481418 Prob. Chi-Square(1) 0.304689
0.223553 2.2.3 Kiểm định bỏ sót biến (sử dụng kiểm định RESET của RAMSEY) F = 1,135253 và p- value = 0,223553 > 0,05 nên chấp nhận giả thiết , tức mô hình hồi quy không bỏ sót biến. 2.2.4 Kiểm định phân phối chuẩn của (sử dụng kiểm định Jarque-Bera) 122 Thống kê JB = 0.973075 có xác suất p- value = 0,614751 > 0,05 nên ta chấp nhận giả thiết , tức có phân phối chuẩn. 2.2.5 Ước lượng Với , tra bảng t-student ta có = 2,110 Dựa vào kết quả hồi quy, ta có se( ) = 0,009148 Vậy tốc độ tăng trưởng nhập khẩu bình quân hàng năm nằm trong khoảng: 0,174509 2,110*0,009148 hay (0,155207 ; 0,193811) .KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
CHƢƠNG 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUẢN LÝ NỢ CÔNG VÀ PHÒNG NGỪA KHẢ NĂNG RƠI VÀO
KHỦNG HOẢNG NỢ CHO VIỆT NAM
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC 1
Khủng hoảng nợ công Châu Âu