BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM

HỒ THỊ THU HỒNG

QUẢN LÝ NỢ VÀ DỰ BÁO KHỦNG HOẢNG NỢ

TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2011

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM

HỒ THỊ THU HỒNG

QUẢN LÝ NỢ VÀ DỰ BÁO KHỦNG HOẢNG NỢ

TẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành

: Kinh tế Tài chính – Ngân hàng

Mã số

: 60.31.12

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS. TS. NGUYỄN THỊ LIÊN HOA

Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2011

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của tôi.

Các số liệu, kết quả nghiên cứu được nêu trong luận văn là trung thực,

được trích dẫn và có tính kế thừa, phát triển từ các tài liệu, tạp chí, các công trình

nghiên cứu đã được công bố, các website,..

Các giải pháp nêu trong luận văn được rút ra từ những cơ sở lý luận và

quá trình nghiên cứu thực tiễn.

TÁC GIẢ

HỒ THỊ THU HỒNG

LỜI CẢM ƠN

Trước tiên, tôi xin chân thành cảm ơn PGS. TS. Nguyễn Thị Liên Hoa đã

nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn tốt

nghiệp này.

Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Quý Thầy Cô Trường Đại học

Kinh tế TP.HCM, những người đã tận tâm giảng dạy, truyền đạt những kiến thức

quý báu cho tôi trong suốt thời gian tôi học tập tại trường.

TÁC GIẢ

HỒ THỊ THU HỒNG

MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG

DANH MỤC CÁC HÌNH

PHẦN MỞ ĐẦU

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỢ VÀ KHỦNG HOẢNG NỢ .................... 1

1.1 Tổng quan về nợ ............................................................................................... 1

1.1.1 Một số khái niệm ................................................................................... 1

1.1.2 Các chỉ tiêu đánh giá nợ.......................................................................... 3

1.1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến nợ .............................................................. 6

1.2 Khủng hoảng nợ ............................................................................................... 8

1.2.1 Khái niệm ............................................................................................... 8

1.2.2 Mô hình lý thuyết cảnh báo khủng hoảng nợ ......................................... 8

1.2.2.1 Cơ sở lý luận về khả năng chịu đựng thâm hụt trong cán cân tài

khoản vãng lai .......................................................................................... 8

1.2.2.2 Mô hình động về nợ của Jaime de Pines ................................... 11

1.2.3 Các kết quả nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới về nợ và khủng hoảng

nợ ................................................................................................................... 12

1.3 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu . 16

Kết luận chương 1 .................................................................................................. 19

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM ............................... 20

2.1 Tổng quan tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay ................................ 20

2.2 Thực trạng nợ công ở Việt Nam ..................................................................... 26

2.2.1 Các nhân tố ảnh hưởng đến qui mô nợ công ........................................ 26

2.2.2 Nợ công của Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010..................................... 27

2.2.3 Tình hình sử dụng nợ công .................................................................. 30

2.2.4 Khả năng trả nợ của Việt Nam ............................................................. 35

2.3 Đánh giá hiệu quả quản lý nợ công của Việt Nam .......................................... 38

2.4 Dự báo khả năng xảy ra khủng hoảng nợ ở Việt Nam ..................................... 42

Kết luận chương 2 ................................................................................................. 47

CHƢƠNG 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ

NỢ CÔNG VÀ PHÒNG NGỪA KHẢ NĂNG RƠI VÀO KHỦNG HOẢNG NỢ

CHO VIỆT NAM ................................................................................................ 48

3.1 Phát triển và tận dụng tiềm lực trong nước ..................................................... 48

3.2 Kiểm soát chặt chẽ chi tiêu công ..................................................................... 49

3.3 Gia tăng nguồn thu trong nước trên cơ sở hợp lý, tránh thất thu ..................... 50

3.4 Cân đối cán cân tài khoản vãng lai .................................................................. 52

3.5 Sử dụng nguồn vốn nước ngoài an toàn và hiệu quả ....................................... 53

3.6 Tăng cường quản lý và giám sát hệ thống ngân hàng ..................................... 54

3.7 Nâng cao hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp nhà nước, hạn chế thực hiện bảo

lãnh hay vay hộ cho các doanh nghiệp nhà nước ................................................... 55

3.8 Công khai, minh bạch thông tin về nợ công .................................................... 56

3.9 Đề xuất mô hình bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ .......... 58

Kết luận chương 3 .................................................................................................. 63

KẾT LUẬN .......................................................................................................... 64

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 66

PHỤ LỤC ............................................................................................................. 73

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ADB Ngân hàng phát triển Châu Á (Asean Development Bank)

DM Thị trường phát triển (Developed Market)

DNNN Doanh nghiệp nhà nước

DNTN Doanh nghiệp tư nhân

EM Thị trường mới nổi (Emerging Market)

EU Liên minh Châu Âu (European Union)

FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment)

GDP Tổng sản phẩm quốc nội (Gross Domestic Product)

HIPCs Các nước nghèo gánh nặng nợ cao

HĐ Hợp đồng

ICOR Hệ số đầu tư tăng trưởng (Incremental Capital Output Ratio)

IMF Quỹ tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund)

NAO Cơ quan Kiểm toán Quốc gia Trung Quốc

NHTM Ngân hàng Thương mại

NSNN Ngân sách Nhà nước

ODA Hỗ trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance)

OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế

SME Doanh nghiệp vừa và nhỏ (Small and Medium-sized Enterprises)

TKVL Tài khoản vãng lai

VDB Ngân hàng Phát triển Việt Nam (Vietnam Development Bank)

WB Ngân hàng Thế giới (World Bank)

DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ SƠ ĐỒ

Bảng 2.1: Tăng trưởng GDP và ICOR của Việt Nam giai đoạn 1996 – 2010 .......... 32

Bảng 2.2: Tăng trưởng GDP và ICOR của một số quốc gia Đông Á ....................... 33

Bảng 2.3: Một số chỉ tiêu đánh giá mức độ nợ và khả năng trả nợ của Việt Nam ... 36

Bảng 2.4: Cán cân tài khoản vãng lai Việt Nam 2005 – 2010 .................................. 37

Bảng 2.5: Ngưỡng nợ nước ngoài theo tiêu chuẩn HIPCs ........................................ 39

Bảng 2.6: Ngưỡng nợ trong nước theo tiêu chuẩn HIPCs ........................................ 40

Bảng 2.7: Mức ngưỡng phụ thuộc vào chính sách và thể chế .................................. 41

Bảng 2.8: Chỉ số nợ trên xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020 ............... 44

Bảng 2.9: Chỉ số nợ trên xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2011 – 2025 ............... 45

Sơ đồ 3.1: Mô hình bảo lãnh tín dụng hiện nay ........................................................ 60

Sơ đồ 3.2: Đề xuất mô hình bảo lãnh tín dụng .......................................................... 61

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 2.1: Tăng trưởng GDP của Việt Nam so với 4 nước ASEAN ......................... 20

Hình 2.2: Tăng trưởng GDP và cơ cấu kinh tế 1990 – 2011 .................................... 21

Hình 2.3: Kim ngạch xuất nhập khẩu giai đoạn 2000 – 2011 ................................... 22

Hình 2.4: Mức độ và cơ cấu đầu tư ........................................................................... 23

Hình 2.5: Thâm hụt ngân sách nhà nước của Việt Nam 2001 – 2011 ...................... 24

Hình 2.6: GDP và tỷ lệ lạm phát của Việt Nam (2000 – 2011) ................................ 24

Hình 2.7: Tình hình nợ công Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 ............................... 28

Hình 2.8: Cơ cấu nợ công Việt Nam năm 2002 – 2010 ............................................ 29

Hình 2.9: Nợ nước ngoài được chính phủ bảo lãnh 2002 – 2010 ............................. 30

Hình 2.10: Tình hình cam kết, ký kết và giải ngân ODA từ năm 1993- 2010 .......... 31

Hình 2.11: Tỷ lệ gia tăng vốn trên sản lượng theo khu vực ...................................... 33

Hình 2.12: Chỉ số tham nhũng của Việt Nam và một số nước trong khu vực .......... 35

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Mọi sự phát triển bền vững đều phải được đặt trên nền tảng của sự ổn định

đây là nguyên lý cơ bản của mọi hoạt động trong lịch sử loài người và cũng là

nguyên lý cơ bản của mọi sự phát triển nói chung. Không phải ngẫu nhiên mà các

quốc gia đặt ra những quy định và những chính sách để điều tiết nền kinh tế. Mục

đích chính của các chính sách này chính là ổn định kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện cho

tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững.

Thời gian qua, thế giới đã phải đương đầu với nhiều biến động lớn trong

lịch sử phát triển kinh tế xã hội. Nhiều cuộc khủng hoảng với quy mô quốc tế liên

tục diễn ra gây ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế thế giới. Thật vậy, những tác động

của cuộc khủng hoảng tài chính còn chưa qua đi thì thế giới lại phải đương đầu với

nguy cơ của một cuộc khủng hoảng mới. Lần này tâm điểm là Châu Âu với khủng

hoảng nợ công của một số nước như Hy Lạp, Ireland, Bồ Đào Nha,… đang đe dọa

sự tồn tại của đồng Euro và nguy cơ sụp đổ của nhiều nền kinh tế.

Là một quốc gia đang phát triển, nền kinh tế còn non trẻ và yếu ớt so với

các cường quốc khác, Việt Nam rất quan tâm đến diễn biến của cuộc khủng hoảng

đang diễn ra tại Châu Âu. Vì rằng sau khủng hoảng tài chính 2008, dù nền kinh tế

Việt Nam đã có nhiều khởi sắc song vẫn chưa sẵn sàng để đối phó với một cuộc

khủng hoảng mới. Hơn thế nữa, chúng ta cũng là một nước có tỷ lệ nợ công khá

cao, vì thế rất nhiều câu hỏi được đặt ra cho chúng ta: Nguyên nhân nào dẫn tới

khủng hoảng nợ công? Mức độ ảnh hưởng của khủng hoảng nợ công như thế nào?

Liệu Việt Nam có khả năng lâm vào một cuộc khủng hoảng nợ trong tương lai gần

hay không? Làm thế nào để Việt Nam tránh được một cuộc khủng hoảng nợ trong

tương lai? Đó cũng là lý do tác giả chọn và nghiên cứu đề tài “Quản lý nợ và dự

báo khủng hoảng nợ tại Việt Nam”

2. Mục tiêu nghiên cứu

- Nghiên cứu nguyên nhân khủng hoảng nợ và rút ra bài học kinh nghiệm từ

cuộc khủng hoảng nợ công của các quốc gia Châu Âu

- Phân tích, đánh giá thực trạng nợ công của Việt Nam trong thời gian qua và

lượng hóa khả năng xảy ra khủng hoảng nợ ở Việt Nam

- Trên cơ sở phân tích, đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả quản

lý nợ công và phòng ngừa khả năng rơi vào khủng hoảng nợ cho Việt Nam

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung vào việc phân tích thực trạng nợ và

quản lý nợ ở Việt Nam nhưng chủ yếu đi vào phân tích nợ của khu vực công.

- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng nợ công, quản lý nợ công ở

Việt Nam trong giai đoạn 2001 – 2010 và dự báo khả năng xảy ra khủng nợ ở Việt

Nam trong giai đoạn 2011 - 2020.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Thu thập thông tin: Dựa trên nguồn số liệu công khai hàng năm của các báo cáo

của các định chế tài chính, các số liệu thống kê của các Ngân hàng Trung Ương,

Cục Thống kê của các nước trên thế giới và thông tin công bố của cơ quan hữu quan

Việt Nam. Ngoài ra, thông tin còn được tổng hợp từ những nghiên cứu của các nhà

nghiên cứu trên Thế giới và Việt Nam.

- Phương pháp xử lý thông tin:

+ Tổng hợp nghiên cứu của các nhà kinh tế trên Thế giới

+ Hệ thống, phân tích, đối chiếu, thống kê, tổng hợp các dữ liệu thu thập

được để đưa ra những đánh giá định tính về nguyên nhân khủng hoảng nợ Châu Âu

và thực trạng nợ công của Việt Nam trong thời gian qua. Đồng thời, sử dụng

phương pháp phân tích định lượng để phân tích tính ổn định nợ và dự báo nguy cơ

khủng khoảng nợ của Việt Nam.

5. Cấu trúc của luận văn

Nội dung nghiên cứu chủ yếu của đề tài: ngoài phần mở đầu và kết luận,

nội dung chính của đề tài gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về nợ và khủng hoảng nợ

Chương 2: Thực trạng nợ công ở Việt Nam

Chương 3: Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nợ công và phòng ngừa

khả năng rơi vào khủng hoảng nợ cho Việt Nam

1

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NỢ VÀ KHỦNG HOẢNG NỢ

1.1 Tổng quan về nợ

1.1.1 Một số khái niệm

1.1.1.1 Nợ công

Nợ công theo định nghĩa của Ngân hàng thế giới (WB) là nghĩa vụ nợ của

khu vực công, bao gồm các nghĩa vụ nợ của: Chính phủ Trung Ương và các bộ; các

cấp chính quyền địa phương; ngân hàng Trung Ương; các thể chế độc lập nhưng

nguồn vốn hoạt động của nó do ngân sách Nhà nước quyết định (trên 50% vốn

thuộc sở hữu Nhà nước) và trong trường hợp vỡ nợ thì Nhà nước phải trả nợ thay.

Theo Luật Quản lý Nợ công của Việt Nam có hiệu lực từ 01/01/2010, nợ

công bao gồm các khoản: Nợ Chính phủ; Nợ được Chính phủ bảo lãnh và Nợ chính

quyền địa phương.

Theo đó, nợ Chính phủ là khoản nợ mà Chính phủ vay trong nước và vay

nước ngoài (không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành

nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ). Nợ được Chính phủ bảo lãnh

là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay trong nước, nước

ngoài được Chính phủ bảo lãnh. Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban

nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền

phát hành.

Chính phủ có thể thực hiện việc vay nợ thông qua phát hành trái phiếu Chính

phủ để vay từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Ngoài ra, Chính phủ cũng

có thể vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể chế tài chính quốc tế,

như IMF, WB,… Hình thức này thường được chính phủ của các nước có độ tin cậy

tín dụng thấp áp dụng vì khi đó khả năng vay nợ bằng hình thức phát hành trái

phiếu chính phủ của họ không cao.

2

1.1.1.2 Nợ nƣớc ngoài

Định nghĩa nợ nước ngoài theo Quy chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài

tương đồng với định nghĩa chuẩn quốc tế về nợ nước ngoài, hiểu theo nghĩa rộng,

được đưa ra trong cuốn “Thống kê nợ nước ngoài: Hướng dẫn tập hợp và sử dụng”

do nhóm công tác liên ngành của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) soạn thảo năm 2003.

Định nghĩa này phát biểu như sau: “Tổng nợ nước ngoài, tại bất kỳ thời điểm nào,

là số dư nợ của các công nợ thường xuyên thực tế, không phải công nợ bất thường,

đòi hỏi bên nợ phải thanh toán gốc và/hoặc lãi tại một (số) thời điểm trong tương

lai, do đối tượng cư trú tại một nền kinh tế nợ đối tượng không cư trú”. [17]

Theo khoản 8 điều 2 quy chế vay và trả nợ nước ngoài (Ban hành kèm theo

Nghị định số 134/2005/NĐ-CP ngày 1 tháng 11 năm 2005 của Chính phủ):“Nợ

nước ngoài của quốc gia là số dư của mọi nghĩa vụ hiện hành (không bao gồm

nghĩa vụ nợ dự phòng) về trả nợ gốc và lãi tại một thời điểm của các khoản vay

nước ngoài tại Việt Nam. Nợ nước ngoài của quốc gia bao gồm nợ nước ngoài

của k hu vự c công và nợ nước ngoài của khu vực tư nhân”. Như vậy, theo cách

hiểu này nợ nước ngoài là tất cả các khoản vay mượn của tất cả các pháp nhân Việt

Nam đối với nước ngoài và không bao gồm nợ của các thể nhân (nợ của cá nhân và

hộ gia đình).

1.1.1.3 Nợ tƣ nhân

Nợ của khu vực tư nhân (hay còn gọi là nợ tư nhân) là các khoản nợ mà chủ

thể đi vay là khu vực tư nhân. Loại nợ này bao gồm nợ nước ngoài của khu vực tư

nhân không được khu vực công của cùng nền kinh tế đó bảo lãnh theo hợp đồng

[17]. Về bản chất đây là các khoản nợ do khu vực tư nhân tự vay, tự trả.

Trong thực tế, có những khoản nợ nước ngoài của khu vực tư nhân được một

thể chế thuộc khu vực công cư trú trong cùng nền kinh tế bảo lãnh một phần theo

hợp đồng (ví dụ như bảo lãnh phần nợ gốc, hoặc bảo lãnh một phần của nợ gốc).

Đối với những khoản nợ như vậy thì giá trị hiện tại của các khoản thanh toán được

bảo lãnh được xếp vào loại nợ nước ngoài của khu vực tư nhân được công quyền

3

bảo lãnh, trong khi những khoản thanh toán không được bảo lãnh được xếp vào loại

nợ nước ngoài của khu vực tư nhân không được bảo lãnh. Chẳng hạn, một khoản

nợ nước ngoài của doanh nghiệp tư nhân chỉ được Ngân hàng Nhà nước bảo lãnh

các khoản trả gốc, thì giá trị hiện tại của các khoản trả gốc sẽ được cộng vào nợ

nước ngoài của khu vực tư nhân được công quyền bảo lãnh, trong khi các khoản trả

lãi thuộc loại nợ nước ngoài của khu vực tư nhân không được bảo lãnh. [17]

1.1.2 Các chỉ tiêu đánh giá nợ

1.1.2.1 Các chỉ tiêu đánh giá mức độ nợ

Việc đánh giá tình trạng nợ công và nợ nước ngoài của một quốc gia là hết

sức quan trọng để đề ra những chính sách, chiến lược vay nợ cho đầu tư hợp lý.

Quy mô nợ và trả nợ, trả lãi so với nguồn thu trực tiếp và gián tiếp để trả nợ thường

được dùng để đánh giá mức độ nợ. Mức độ nợ cũng ngầm cho biết khả năng trả nợ

của các quốc gia trong trung và dài hạn. Một số chỉ tiêu thường dùng như:

Tổng nợ công/GDP và Nợ nước ngoài/GDP: Chỉ tiêu này phản ánh mức độ

nợ công và nợ nước ngoài so với quy mô sản xuất của nền kinh tế quốc dân. Qua

đó, có thể đánh giá mức độ chèn lấn đầu tư đối với khu vực tư của nợ công và khả

năng hấp thụ vốn vay nước ngoài của nền kinh tế. Về lâu dài, chỉ số này cũng

phản ánh được khả năng trả nợ của khu vực công và nền kinh tế, phản ánh rủi ro

về thanh toán dài hạn.

Nợ công/Thu ngân sách và Nợ nước ngoài/Kim ngạch xuất khẩu: Đây là chỉ

tiêu phản ánh mức độ vay nợ so với nguồn thu trực tiếp từ nền kinh tế để hoàn trả

nợ - nguồn thu ngân sách và kim ngạch xuất khẩu.

Nghĩa vụ hoàn trả nợ công hàng năm so với GDP và thu ngân sách: Chỉ tiêu

này giúp theo dõi được nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi hàng năm của Chính phủ và chính

quyền địa phương so với qui mô của nền kinh tế và thu ngân sách, phản ánh mức độ

rủi ro thanh khoản trong ngắn hạn cũng như nguồn lực khả dụng của Chính phủ và

chính quyền địa phương. Nếu các tỷ lệ này tăng qua các năm nghĩa là trách nhiệm

nợ của Chính phủ đang trở nên lớn hơn năng lực sản xuất của nền kinh tế và khả

4

năng thu ngân sách Nhà nước. Điều này cũng hàm ý rằng trong tương lai có thể

gánh nặng thuế sẽ gia tăng.

Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia so với kim ngạch xuất khẩu: Đây là

chỉ tiêu phản ánh khả năng hoàn trả nợ nước ngoài từ nguồn thu xuất khẩu hàng hóa

dịch vụ, qua đó phản ánh tính thanh khoản của nợ nước ngoài.

Dự trữ ngoại hối so với nợ nước ngoài ngắn hạn : Chỉ tiêu này phản ánh khả

năng sử dụng dự trữ ngoại hối nhà nước để trả các khoản nợ nước ngoài ngắn hạn.

Nghĩa vụ nợ dự phòng/Thu ngân sách: Chỉ tiêu này phản ánh rủi ro không có

khả năng hoàn trả của các chủ thể khác nhưng được Chính phủ, cơ quan được ủy

quyền của Nhà nước hoặc chính quyền địa phương bảo lãnh thanh toán một cách

công khai hoặc ngầm định.

1.1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá cơ cấu nợ

Cơ cấu nợ hàm chứa những thông tin quan trọng về mức độ rủi ro của nợ.

Thông thường rủi ro sẽ cao khi tỷ trọng nợ ngắn hạn, tỷ lệ nợ nước ngoài và tỷ lệ nợ

được chính phủ bảo lãnh cao. Một số chỉ số đánh giá cơ cấu nợ công như:

Nợ ngắn hạn/Tổng nợ: Phản ánh tỷ trọng các khoản nợ cần thanh toán

trong thời gian nhỏ hơn một năm trong tổng nợ. Nếu thời hạn vay ngắn hạn chiếm

tỷ lệ lớn trong tổng nợ nghĩa là các nghĩa vụ trả nợ phải thực hiện trong tương lai

gần. Do vậy, cần phải so sánh nợ ngắn hạn với qui mô của quỹ dự trữ quốc gia.

Thông thường, nợ ngắn hạn có độ rủi ro cao hơn nợ trung và dài hạn, đặc biệt là đối

với những quốc gia mà khả năng tiếp cận thị trường vốn trong hoạt động vay nợ có

nhiều hạn chế.

Nợ nước ngoài/Tổng nợ: Tỷ lệ này càng cao thì gánh nặng nợ nước ngoài

càng lớn và rủi ro càng cao. Nợ trong nước thường ít rủi ro hơn vì Chính phủ có thể

tăng thuế thậm chí in thêm tiền để thanh toán khi đến hạn.

Nợ được Chính phủ bảo lãnh/Tổng nợ: Đối với các khoản nợ được Chính

phủ bảo lãnh, Chính phủ của nước đi vay sẽ chịu trách nhiệm trả vốn và lãi cho

5

nước cho vay trong trường hợp tổ chức đi vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo

cam kết trong hợp đồng. Do đó, một khi các tổ chức đi vay không thực hiện nghĩa

vụ trả nợ đầy đủ hay vỡ nợ thì nghĩa vụ trả nợ bất thường sẽ đè lên vai Chính phủ.

Trong số các chỉ tiêu đánh giá tình hình nợ công, chỉ tiêu nợ công/GDP

được quan tâm và sử dụng nhiều nhất. Đa số các quốc gia, các tổ chức kinh tế đều

sử dụng chỉ số này để xác định, đánh giá và dự báo tình hình nợ công của một quốc

gia và cũng lấy chỉ số này làm chỉ tiêu đánh giá mức độ an toàn hay rủi ro.

Các nhà phân tích thường cho rằng mức ngưỡng nợ công an toàn đối với một

quốc gia chỉ nên ở dưới mức 60% GDP (đây cũng là mức ngưỡng được ký kết trong

hiệp ước Maastricht bởi các thành viên Liên minh Châu Âu). Tỷ lệ nợ nước ngoài

so với GDP ở mức 30% là mức độ an toàn (theo chỉ tiêu đánh giá mức độ nợ

nước ngoài của WB). Theo kinh nghiệm quốc tế, nếu tỷ lệ nợ nước ngoài so với

GDP 50% thì nền kinh tế rơi vào tình trạng báo động về nợ. Khi đó cần phải

kiềm chế tổng mức vay nợ và bố trí cơ cấu nợ vay hợp lý theo hướng đẩy mạnh tốc

độ xuất khẩu để giữ tỷ lệ tổng mức nợ nước ngoài so với tổng kim ngạch xuất khẩu

< 165%, tức đảm bảo khả năng trả nợ.

Tuy nhiên, việc xác định ngưỡng nợ công an toàn chỉ là tương đối, không

nên quá dựa vào mức ngưỡng nợ. Nhiều quốc gia có tỷ lệ nợ/GDP thấp hơn rất

nhiều nhưng đã rơi vào tình trạng khủng hoảng nợ: cụ thể như Argnetina (2001;

45% GDP; nợ tính bằng ngoại hối); Ukraine (2007; 13% GDP; nợ doanh nghiệp

nhà nước); Thailand (1996; 15% GDP; hệ thống công ty/ngân hàng); Romania

(2007; 20% GDP; thâm hụt ngân sách), Venezuela (1981; 15% GDP; nợ ngắn

hạn),... (Benedict Bingham, 2010) [34]. Do đó, nợ công của quốc gia thực sự an

toàn hay không phải xem xét một cách toàn diện trong mối liên hệ với hệ thống các

chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, nhất là tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế, năng suất

lao động tổng hợp, hiệu quả sử dụng vốn (qua tiêu chí ICOR), tỉ lệ thâm hụt ngân

sách, khả năng chống đỡ rủi ro, khủng hoảng, biến động bất ngờ, ... Ngoài ra, những

tiêu chí như: cơ cấu nợ công, tỷ trọng các loại nợ, cơ cấu lãi suất, thời gian trả nợ,..

cũng cần được phân tích kỹ lưỡng khi đánh giá tính ổn định của nợ công.

6

1.1.3 Các nhân tố ảnh hƣởng đến nợ

1.1.3.1 Tỷ giá hối đoái

Trong cơ cấu danh mục nợ công, có những khoản nợ được vay bằng đồng

ngoại tệ. Vì vậy, sự biến động của tỷ giá hối đoái sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nợ

công. Tỷ giá hối đoái có thể có tác động làm tăng hoặc giảm giá trị các khoản nợ.

Các hợp đồng vay nợ được ký kết dựa trên một đồng tiền nhất định, thường là đồng

tiền của nước cho vay. Việc đồng tiền vay bị tăng hoặc giảm giá vào thời điểm trả

nợ, giá trị nợ tăng hoặc giảm tương ứng. Nếu đồng tiền vay có xu hướng tăng giá

liên tục, gánh nặng nợ cũng sẽ có xu hướng tăng liên tục. Tương tự như vậy, nếu

đồng nội tệ mất giá so với đồng tiền vay thì gánh nặng nợ cũng bị trầm trọng thêm.

1.1.3.2 Tình trạng của ngân sách nhà nƣớc

Nợ công vừa là kết quả của tình trạng thâm hụt ngân sách Nhà nước

(NSNN), vừa có thể là nguyên nhân làm gia tăng thâm hụt NSNN trong tương lai.

Nếu NSNN thâm hụt, nhu cầu vay nợ của Nhà nước sẽ gia tăng. Ngược lại, nếu

NSNN thặng dư, nhu cầu vay nợ giảm và Nhà nước có nguồn tài chính dồi dào để

có thể mua lại trái phiếu của mình trước hạn làm cho mức nợ công giảm xuống.

Theo Anwar Shah (2006), mối quan hệ giữa bội chi NSNN và nợ công có thể

biểu thị qua phương trình số học sau [21, tr. 273-275]:

Trong đó, là nợ nước ngoài tính bằng ngoại tệ, là tổng nợ trong nước

tính bằng đồng nội tệ, là thu phát hành tiền tính bằng đồng nội tệ, là tỷ giá

hối đoái, là thâm hụt ngân sách và là các khoản chi ngoài phạm vi NSNN.

1.1.3.3 Lạm phát

Lạm phát là vấn đề khó khăn luôn gặp phải tại các quốc gia đang phát triển.

Mức lạm phát tại các nước này thường cao hơn lạm phát của các nước chủ nợ là các

quốc gia đã phát triển. Theo thuyết ngang giá sức mua, lạm phát trong nước cao hơn

7

so với lạm phát nước ngoài thì tỷ giá hối đoái sẽ tăng lên để bù lại khoản chênh lệch

đó và điều này lại làm tăng thêm mức nợ vay thực tế. Do đó, mức lạm phát cao sẽ

gia tăng gánh nặng nợ cho Chính phủ.

1.1.3.4 Lãi suất

Sự biến động của lãi suất trên thị trường sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến những

khoản nợ công có lãi suất thả nổi và những khoản vay mới. Tỷ lệ các khoản nợ có lãi

suất thả nổi trong tổng nợ càng cao thì sự ảnh hưởng của lãi suất đến nợ công càng

lớn. Tương tự như thế, sự biến động của lãi suất thị trường cũng sẽ ảnh hưởng tới chi

phí dịch vụ nợ của những khoản vay mới. Mặc khác, ngay cả những khoản vay có lãi

suất cố định thì sự biến động của lãi suất thị trường cũng sẽ ảnh hưởng đến giá cả của

các công cụ nợ này, nghĩa là, gián tiếp ảnh hưởng tới quy mô nợ công.

1.1.3.5 Khả năng quản lý nợ

Chính sách quản lý nợ công kém có thể làm cho nợ công gia tăng. Thật vậy,

nợ không được cơ cấu tốt về thời hạn, lãi suất, đồng tiền vay nợ, ... có thể làm gia

tăng qui mô nợ và cả rủi ro, chi phí nợ. Vay nợ nhiều tạo áp lực buộc Nhà nước

phải tăng thuế trong tương lai để trả nợ vay, gây tổn thất về tính hiệu quả của việc

đánh thuế. Kết quả là, trong dài hạn làm cho nguồn thu ngân sách bị giảm sút, nguy

cơ gia tăng thâm hụt ngân sách. Thâm hụt ngân sách ở mức độ cao lại làm cho nợ

công gia tăng. Chính sách quản lý nợ công tốt có thể tối thiểu hóa chi phí dịch vụ

nợ, kiểm soát được rủi ro và qui mô nợ; đồng thời, tạo điều kiện thiết lập và duy trì

thị trường chứng khoán Nhà nước hiệu quả. Điều này một mặt làm giảm thiểu được

rủi ro và chi phí trong quản lý nợ công trung và dài hạn; mặt khác giúp Chính phủ

có sự chủ động trong tài trợ chi tiêu của mình.

1.1.3.6 Rủi ro quốc gia

Rủi ro quốc gia là những biến cố có thể xảy ra đối với quốc gia đó như chính

trị, kinh tế, tài chính, tình hình an ninh xã hội, ... Điều này được lượng hóa thông qua

8

hệ số tín nhiệm của các quốc gia này. Quốc gia nào có hệ số tín nhiệm càng cao thì

mức lãi suất đòi hỏi của chủ nợ đối với quốc gia đó càng thấp và ngược lại.

1.2 Khủng hoảng nợ

1.2.1 Khái niệm

Khủng hoảng nợ có thể được hiểu là tình trạng một quốc gia mất khả năng

hoàn trả nợ vay (gốc và lãi), phải đề nghị thương thảo lại về các thoả thuận vay nợ,

hoàn trả lãi và vốn gốc.

Trong một nghiên cứu gần đây của IMF [30] cho rằng một quốc gia được

xem là lâm vào khủng hoảng nợ khi nó bị các Công ty xếp hạng tín nhiệm xếp vào

hạng “không thể chi trả” hoặc nhận được một khoản cho vay lớn, vượt quá 100%

hạn mức ấn định trước từ IMF. Định nghĩa này bao gồm những trường hợp “gần

khủng hoảng” tức là không có khả năng chi trả nhưng nhờ IMF vẫn trả được nợ.

1.2.2 Mô hình lý thuyết cảnh báo khủng hoảng nợ

1.2.2.1 Cơ sở lý luận về khả năng chịu đựng thâm hụt trong cán cân tài

khoản vãng lai

(a) Cơ sở lý luận về cán cân thanh toán

Cán cân thanh toán có thể được định nghĩa là một bản báo cáo thống kê tóm

tắt có hệ thống các giao dịch kinh tế của một nền kinh tế với phần còn lại của thế

giới trong khoản thời gian xác định. Việc ghi nhận các giao dịch được thực hiện

thông qua ghi chép bằng bút toán kép. Điều này có nghĩa là, mỗi giao dịch phát sinh

đều được ghi sổ hai lần - đồng thời một khoản có và một khoản nợ. Cán cân thanh

toán có hai tài khoản chính là tài khoản vãng lai và tài khoản vốn.

Thâm hụt cán cân thanh toán có nghĩa là một hay nhiều tiểu tài khoản của

cán cân thanh toán như là tài khoản vãng lai, tài khoản vốn hay cán cân tổng thể (trừ

những thay đổi trong nguồn dự trữ ngoại tệ chính thức) trong tình trạng thâm hụt.

9

Tài khoản vãng lai (TKVL) là thành phần quan trọng trong cán cân thanh

toán quốc tế, là thước đo rộng nhất của mậu dịch quốc tế về hàng hóa, dịch vụ và

các khoản chuyển giao của một quốc gia. Thành phần của tài khoản vãng lai gồm:

cán cân thương mại hàng hóa, cán cân dịch vụ, cán cân thu nhập và cán cân chuyển

giao vãng lai một chiều.

Cán cân thương mại: ghi chép các giao dịch về xuất khẩu và nhập khẩu các

loại hàng hóa của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định cũng như mức

chênh lệch giữa chúng.

Cán cân dịch vụ: bao gồm các khoản thu - chi về các hoạt động dịch vụ: vận

tải, tài chính, viễn thông, y tế, giáo dục và các dịch vụ khác.

Cán cân thu nhập: ghi chép những khoản thu nhập của người lao động (tiền

lương, thưởng), thu nhập từ đầu tư và tiền lãi của những người cư trú và không cư trú.

Cán cân chuyển giao vãng lai: bao gồm những khoản viện trợ không hoàn

lại, giá trị của những khoản quà tặng và các chuyển giao khác bằng tiền và hiện vật

cho mục đích tiêu dùng giữa người cư trú và không cư trú.

(b) Các cách tiếp cận để đánh giá khả năng chịu đựng thâm hụt trong cán

cân tài khoản vãng lai.

Có hai cách tiếp cận khác nhau để đánh giá khả năng chịu đựng thâm hụt của

cán cân vãng lai [28]:

Cách tiếp cận thứ nhất dựa trên các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, tài chính và đối

ngoại chứa đựng rủi ro của khủng hoảng từ bên ngoài. Những chỉ số thường được

đề nghị sử dụng để phân tích là: Tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ đầu tư, kết quả hoạt động

xuất khẩu và mức độ mở cửa thương mại. Đây là những chỉ số phản ánh sát sao khả

năng trả nợ nước ngoài của một nước. Ngoài ra, những chỉ số về tốc độ tăng trưởng

tín dụng tư nhân, sự lành mạnh của hệ thống ngân hàng (như nợ khê đọng, chất

lượng giám sát), sự biến động của hoạt động thương mại, tỷ lệ tiền M2/dự trữ, tỷ

giá, … cũng được tính đến.

10

Khó khăn của cách tiếp cận này là việc sắp xếp và ưu tiên thứ tự của các chỉ

số và gộp chúng lại thành một thước đo tổng hợp về khả năng chịu đựng thâm hụt

TKVL. Hơn nữa, trong điều kiện thực tế của Việt Nam, các số liệu thống kê kinh tế,

đặc biệt là các số liệu về tài chính tiền tệ và hệ thống ngân hàng có độ tin cậy không

cao do chưa thống nhất được quan điểm trong vấn đề minh bạch hóa thông tin và

điều này đã gây rất nhiều khó khăn cho việc đánh giá và phân tích.

Cách tiếp cận thứ hai dựa trên điều kiện về khả năng thanh toán nợ nước

ngoài. Khả năng chịu đựng thâm hụt TKVL được đảm bảo nếu xu hướng cân bằng

thương mại phù hợp với khả năng thanh toán nợ giữa các giai đoạn. Khi một nước

mắc nợ (ròng) và có thâm hụt cán cân thương mại triền miên thì TKVL phải chuyển

từ tình trạng thâm hụt cao và kéo dài sang thặng dư hoặc mức độ thâm hụt chấp

nhận được để duy trì khả năng trả nợ. Nếu sự chuyển đổi trong thâm hụt TKVL

diễn ra trôi chảy mà không có sự thay đổi lớn nào trong quan điểm chính sách hiện

hành thì thâm hụt TKVL được cho là có thể chịu được. Trái lại nếu thâm hụt TKVL

giảm do thay đổi chính sách một cách mạnh mẽ, dẫn đến tình trạng khó khăn

nghiêm trọng của nền kinh tế thì lúc đó thâm hụt TKVL được coi là không thể chịu

đựng được.

Để một nước có khả năng trả nợ, chỉ số nợ trên GDP hoặc trên xuất khẩu

không thể tăng mãi được. Điều này gợi ý rằng một nước vay nợ cần phải giữ tỷ lệ

nợ trên GDP không tăng để đảm bảo khả năng thanh toán. Trong bối cảnh đó, khả

năng chịu đựng TKVL được đảm bảo nếu nợ nước ngoài ròng có khả năng duy trì

ổn định được.

Tuy nhiên, việc xác định khả năng duy trì thâm hụt TKVL bằng cách đánh

giá tỷ lệ nợ trên xuất khẩu hoặc trên GDP thường có một số hạn chế: (1) không xác

định được liệu tỷ lệ đó có thích hợp hay tối ưu hay không, (2) nếu một nước có mức

độ nợ thấp muốn thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế thì không nên theo đuổi mục

tiêu giữa tỷ lệ nợ trên GDP hay xuất khẩu không đổi. Hơn nữa, một số nhà kinh tế

tranh luận rằng khủng hoảng vẫn có thể xảy ra do mất cân đối về số dư nợ nước

ngoài và các yếu tố của thị trường vốn như lãi suất. Do đó, khả năng chịu đựng

11

thâm hụt TKVL được đánh giá không chỉ dựa vào khả năng thanh toán nợ nước

ngoài mà còn dựa vào những rủi ro khủng hoảng tiềm ẩn trong cán cân vốn.

1.2.2.2 Mô hình động về nợ của Jaime de Pine

Dựa trên đồng nhất thức của cán cân thanh toán, Jaime de Pine đã sử dụng

mô hình động về nợ để dự đoán chỉ số nợ trên xuất khẩu. Lần đầu tiên, mô hình

được sử dụng trong các phân tích nợ của các nước khu vực Châu Phi và Châu Mỹ

Latinh trong giai đoạn 1986-1990. Nguyên tắc cơ bản của biến động nợ đã được nêu

ra và được xác định bởi bốn chỉ số sau: chỉ số lãi suất trên tăng trưởng xuất khẩu;

chỉ số tăng trưởng nhập khẩu trên tăng trưởng xuất khẩu; chỉ số nợ gốc trên xuất

khẩu và chỉ số nhập khẩu trên xuất khẩu.

Mô hình nhấn mạnh đến hạn chế nhập khẩu quá mức, nghĩa là có sự chênh

lệch giữa nhập khẩu thực tế và nhập khẩu cho phép. Nhập khẩu cho phép là khối

lượng nhập khẩu tối đa mà vẫn cho phép chỉ số nợ trên xuất khẩu giảm. Mô hình

cuối cùng được chứng minh và đưa ra công thức như sau (xem Phụ lục 1):

(*)

Trong đó:

: Chỉ số nợ trên xuất khẩu và chuyển giao ròng

: Chỉ số giữa lãi suất trên tăng trưởng xuất khẩu và chuyển

giao ròng

: Chỉ số giữa tăng trưởng nhập khẩu trên tăng trưởng xuất

khẩu và chuyển giao ròng

: Chỉ số nhập khẩu trên xuất khẩu và chuyển giao ròng

12

Đây chính là phương trình hoàn chỉnh của Jaime de Pine với giả định tất cả

các biến trong mô hình đều là biến ngoại suy và các chủ thể kinh tế sẽ không thay

đổi hành vi của họ một khi hành vi này đã được xác định.

Theo phương trình (*), chỉ số nợ trên xuất khẩu và chuyển giao ròng ( )

được xác định bởi hai chỉ số: lãi suất trên tăng trưởng xuất khẩu và chuyển giao

ròng (a), và tăng trưởng nhập khẩu trên tăng trưởng xuất khẩu và chuyển giao ròng

(b). Hai biến số biết trước là chỉ số nợ trên xuất khẩu và chuyển giao ròng ( ) và

chỉ số nhập khẩu trên xuất khẩu ( ). Tham số a và b xác định sự biến động của chỉ

số nợ trong tương lai. Đường biểu diễn chỉ số nợ trên xuất khẩu và chuyển giao

ròng có thể chỉ ra khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ, theo như Jaime de Pine

(1989): “Nếu chỉ số nợ trên xuất khẩu và chuyển giao ròng tăng lên vô hạn, thì điều

này cho thấy cả nợ và thâm hụt cán cân thanh toán sẽ không có khả năng chịu đựng

được. Trái lại, nếu chỉ số nợ có xu hướng giảm xuống, thì nợ sẽ có khả năng chịu

đựng được và nước vay nợ có khả năng thanh toán nợ, nghĩa là nước vay nợ có khả

năng trả nợ của mình”[57].

1.2.3 Các kết quả nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới về nợ và khủng

hoảng nợ

Nợ công có ảnh hưởng quan trọng đến nền kinh tế cả trong ngắn và dài hạn.

Trong ngắn hạn, nợ có thể kích thích tổng cầu và sản lượng nhưng lại gây chèn lấn

vốn và giảm tăng trưởng trong dài hạn (Elmendorf and Mankiw, 1999). Nợ công

cao có thể làm cản trở quá trình tích lũy vốn và làm giảm tăng trưởng kinh tế thông

qua lãi suất dài hạn cao hơn (Gale và Orzag, 2003; Baldacci và Kumar, 2010), bóp

méo hệ thống thuế tương lai cao hơn (Barro, 1979; Dotsey, 1994), lạm phát (Sagent

và Wallace 1981; Barro 1995; Cochrane 2010), và sự không chắc chắn cao hơn về

các triển vọng và chính sách. Khủng hoảng nợ có thể gây ra một cuộc khủng hoảng

ngân hàng hay tiền tệ (Burnside et al., 2001; Hemming et al., 2003). Nợ công cao

cũng có khả năng hạn chế phạm vi của những chính sách tài khóa phản chu kỳ, có

13

thể dẫn đến tính không ổn định cao hơn và tăng trưởng kinh tế chậm hơn nữa

(Aghion và Kharroubi (2007) và Woo (2009)).

Nguyên nhân của khủng hoảng nợ cũng là một đề tài được quan tâm và

nghiên cứu nhiều. Trong nghiên cứu của mình, Gary A. Dymski (2002) đã nêu ra

năm nguyên nhân của khủng hoảng nợ quốc tế: (1) duy trì chính sách vĩ mô sai lầm;

(2) những bất ổn trong hợp đồng vay nợ; (3) những bất ổn trong mối quan hệ giữa

quốc gia chủ nợ và con nợ; (4) quan hệ bất ổn giữa các quốc gia chủ nợ; và (5)

những bất ổn trong việc di chuyển dòng vốn giữa các quốc gia trên thế giới. Theo

đó, giải pháp được đưa ra tương ứng là: sửa đổi các chính sách vĩ mô; chuẩn hóa các

hợp đồng vay nợ quốc tế; tăng cường mối quan hệ giữa các quốc gia chủ nợ và con

nợ; thực hiện minh bạch thông tin và chuẩn hóa việc di chuyển dòng vốn quốc tế.

Daniel Cohen và Richard Portes (2005) đã đề xuất một kiểu phân loại giản

đơn cho phép chia nguyên nhân của các cuộc khủng hoảng thành ba loại: khủng

hoảng lòng tin (chênh lệch lãi suất và khủng hoảng ngoại hối); khủng hoảng các chỉ

số cơ bản (tốc độ tăng trưởng kinh tế thực) và khủng hoảng chính sách kinh tế

(thâm hụt sơ cấp). Đối với những nước mắc nợ nhiều nhất thì tỷ trọng của thành

phần “lãi và khủng hoảng ngoại hối” có thể chiếm tới 40% giá trị nợ tăng thêm.

Trong một nghiên cứu gần đây, Cristina Arellano (2008) đưa ra một lời giải

thích hoàn toàn mới về nguyên nhân khủng hoảng nợ ở các nền kinh tế mới nổi.

Những bằng chứng thực nghiệm ở các nước phát triển cho thấy tài sản của các công

ty phá sản không được thanh lý cho các chủ nợ một cách thỏa đáng do cơ chế phá

sản yếu kém. Các doanh nghiệp vay để đầu tư vào các dự án với mức sinh lợi không

dự đoán trước được. Với một hợp đồng vay hoàn hảo, doanh nghiệp hoạt động tốt

trả được nợ, doanh nghiệp không hoạt động tốt phá sản và thanh lý tài sản để trả nợ.

Vấn đề ở đây là không thể thanh lý hoàn toàn được tài sản khi chúng xuất hiện với

khối lượng quá lớn. Điều này xảy ra khi các doanh nghiệp cùng lúc thực hiện hành

động từ chối trả nợ (có thể do phá sản). Nhưng nó cũng có thể xảy ra đối với cả các

doanh nghiệp hoạt động tốt vì họ nhận thấy rằng hậu quả cho hành động này không

lớn khi các doanh nghiệp khác đều làm như vậy. Khi điều này xảy ra, nguồn thu

14

thuế của Chính phủ sụt giảm dẫn đến Chính phủ không thể hoàn trả nợ nước ngoài

một cách đầy đủ. Qua phân tích, tác giả đã chỉ ra rằng việc từ chối trả nợ hàng loạt

của các doanh nghiệp trong nước khi gặp khó khăn (mà sau đó có thể dẫn đến

khủng hoảng nợ) sẽ tất yếu xảy ra khi cơ chế thanh lý tài sản quá yếu kém.

Tuy nhiên, khủng hoảng nợ thường không diễn ra một mình mà thường đi

kèm với một loại khủng hoảng khác tạo nên hiện tượng khủng hoảng kép. Nghiên

cứu thực nghiệm của C. Bauer, B. Herz và V. Karb (2003) đã chỉ ra rằng khủng

hoảng tiền tệ thường đi chung với khủng hoảng nợ hơn là khủng hoảng ngân hàng.

Bài nghiên cứu của nhóm tác giả đã phân tích bốn chính sách mà Chính phủ phải

lựa chọn, giữa phá giá nội tệ hay từ chối trả nợ, hay sử dụng cả hai, hay không sử

dụng gì cả. Nhìn chung, phá giá hay không sẽ phụ thuộc vào nền tảng kinh tế của

quốc gia và trả nợ hay không sẽ liên quan đến độ lớn của khoản nợ. Khi nền tảng

kinh tế là tồi tệ, khủng hoảng tiền tệ cũng có thể tránh được nếu biết duy trì một

mức nợ đủ thấp; và ngược lại khi mức nợ là khá cao, khủng hoảng nợ cũng có thể

tránh được nếu biết duy trì một nền tảng kinh tế đủ vững chắc. Ví dụ, khi mọi người

lo sợ khả năng quốc gia mất khả năng trả nợ, nó sẽ không chỉ châm ngòi cho cuộc

khủng hoảng nợ mà còn châm ngòi cho một cuộc phá giá tiền tệ.

Trong nghiên cứu của mình, Haji H H Semboja (1998) đã xây dựng mô hình

khủng hoảng nợ và từ đó đưa ra những cách giải quyết có lợi cho cả phía chủ nợ và

con nợ. Các mục tiêu đưa ra là: (i) Gia tăng phát triển kinh tế bằng cách thực hiện tái

cấu trúc, bao gồm những thay đổi trong chế độ chính trị, trong hệ thống tài chính, tiền

tệ và thương mại; (ii) Giảm mức nợ hiện tại cho các nước khủng hoảng tới mức tối

ưu, và nếu có thể, miễn nợ hoàn toàn cho các nước này. Và các chiến lược được đưa

ra để thực hiện các mục tiêu này là: (i) Tăng khoản vay cho các nước khủng hoảng để

giúp đỡ cho quá trình tái cấu trúc; (ii) Tăng khoản cho vay của các ngân hàng thương

mại và giảm lãi suất thực đến mức cần thiết để kích thích nhu cầu vốn ở các nước

này; (iii) Xây dựng chính sách (ở các nước phát triển) kích thích tăng trưởng kinh tế

và mở cửa thị trường cho các nước nghèo và đang phát triển xuất khẩu.

15

Cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra vào giữa năm 2008 đã dẫn đến mở rộng

chính sách tài khóa và thực hiện trong thời gian dài làm bùng nổ nợ công ở nhiều

nền kinh tế phát triển. Theo OECD, tổng nợ của khu vực Nhà nước ở các quốc gia

công nghiệp hóa hiện nay chắc chắn sẽ vượt quá 100% GDP vào năm 2011 (việc

chưa từng xảy ra trước đây). Sebastian Becker, Gunter Deuber và Sandra

Stankiewicz (2010) đã có bài nghiên cứu về vấn đề ổn định nợ công đến năm 2020

ở 17 thị trường phát triển (DMs) và 21 thị trường mới nổi (EMs). Nghiên cứu đo

lường các mức nợ công có thể xảy ra (từ năm 2010 đến năm 2020) trong kịch bản

gốc (baseline scenario) và kịch bản cú sốc (shock scenarios).

Theo kết quả dự báo của kịch bản gốc, tỷ lệ nợ công/GDP của các nước

DMs tiếp tục tăng đáng kể lên đến 133% vào năm 2020 (từ mức 102% năm 2010).

Ngược lại, tại các nước EM tỷ lệ nợ/GDP sẽ giảm xuống 35% từ khoảng 46% năm

2010. Cụ thể, các nước như Nhật Bản, Hy Lạp, Mỹ, Bồ Đào Nha, Ý, Anh, Ireland

và Pháp đều có thể có tỷ lệ nợ trên 100% vào năm 2020; tại Úc, Đan Mạch, Thụy

Sỹ và Bỉ tỷ lệ nợ/GDP dự báo sẽ sụt giảm. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng vấn đề

bất ổn nợ công trước đây thường được xem là vấn đề thường xảy ra đối với các

nước EM nhưng giờ đây lại đang trở thành vấn đề đối với các nước DM. Và không

chỉ các quốc gia nhỏ (Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Ireland) mà còn là vấn đề cho các nền

kinh tế lớn như Nhật Bản, Mỹ và Anh.

Kết quả của kịch bản cú sốc tăng trưởng của GDP thực là nợ công/GDP ở

các nước EM đạt mức 40% GDP năm 2020 (so với 35% trong kịch bản gốc và 46%

năm 2010), các nước DM tăng lên 150% GDP (so với mức 133% của kịch bản gốc

và 102% năm 2010). Trong kịch bản cú sốc tỷ lệ lãi suất, nợ của các nước EM vẫn

giữ ở mức thấp hơn mức 2010 (xấp xỉ 38%), tỷ lệ nợ của các nước DM đạt xấp xỉ

139% (so với mức 133% trong dự báo gốc). Trong kịch bản cú sốc cán cân cơ bản,

nợ công của EM có thể chiếm 44% GDP năm 2020 (năm 2010 là 46%); đối với các

nước DM, nợ công có thể tăng tương đương mức dự báo trong kịch bản cú sốc tăng

trưởng GDP (148% so với 102% năm 2010). Dưới cú sốc kết hợp, nợ của EM ở

16

mức 42% GDP năm 2020, vẫn thấp hơn năm 2010; ở các nước DM, số nợ công có

thể tăng tới 151% GDP vào năm 2020.

Viễn cảnh năm 2020 và những phân tích về nợ mục tiêu của bài nghiên cứu

cho thấy rằng tình hình bất ổn nợ ở các nước DM diễn biến xấu hơn ở các nước EM;

nợ công có thể trở nên hay ít nhất có rủi ro trở nên không thể kiểm soát được tại

nhiều quốc gia phát triển và một vài quốc gia mới nổi. Bởi hầu hết các quốc gia mới

nổi có đủ khả năng để điều hành các chính sách tài khóa mở rộng, thậm chí với mức

nợ ban đầu vừa phải có thể đặt các quốc gia ở vị thế dễ dàng ổn định hoặc họ còn có

thể tăng tỷ lệ nợ trên GDP.

1.3 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu

Kinh tế Việt Nam đã hội nhập khá sâu vào kinh tế thế giới, thể hiện qua tỷ

lệ xuất nhập khẩu và dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam chiếm tỷ lệ khá

cao. Cuộc khủng hoảng nợ công của Hy Lạp và một số nước khác ở Châu Âu cũng

ít nhiều ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam và cũng là một bài học cho Việt Nam

khi nhìn lại vấn đề nợ công và mô hình tăng trưởng của nền kinh tế.

1.3.1 Không phụ thuộc quá nhiều vào nguồn tài trợ nƣớc ngoài

Mô hình tăng trưởng dựa quá nhiều vào nguồn vốn đầu tư bên ngoài sẽ dễ

bị tổn thương trước những thay đổi trong niềm tin của giới đầu tư và một khi nền

kinh tế thế giới ngưng trệ . Khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp và các nước Châu Âu là

một bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

Tỷ lệ đầu tư/GDP của Việt Nam trong những năm gần đây đều ở mức trên

40%. Trong con số 40%, có hơn 10% là từ dòng vốn từ bên ngoài. Trong ngắn hạn,

Việt Nam chưa phải chịu áp lực quá nhiều từ việc suy giảm các dòng vốn đến từ

bên ngoài. Tuy nhiên xét về dài hạn, tình trạng phụ thuộc quá nhiều vào các dòng

vốn đầu tư nước ngoài kéo dài sẽ khiến Việt Nam gặp phải nhiều rủi ro tương tự

như Hy Lạp.

Kinh tế Việt Nam vẫn đang tiềm ẩn những rủi ro, khi tăng trưởng dựa quá

nhiều vào dòng vốn đầu tư từ bên ngoài. Do đó, chỉ có tái cấu trúc nền kinh tế và cải

17

thiện chất lượng tăng trưởng mới giúp Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng

cao trong những năm sắp tới.

1.3.2 Chi tiêu công hiệu quả, hạn chế thâm hụt ngân sách

Cơ hội được tiếp cận dễ dàng nguồn tín dụng lãi suất thấp từ khi gia nhập

Liên minh Châu Âu (EU) đã khiến cho chính phủ Hy Lạp chi tiêu quá tay mà quên

mất những nghĩa vụ nợ phải trả trong tương lai. Đây là bài học rõ ràng cho những

quốc gia đang phát triển theo đuổi những mục tiêu tăng trưởng nhanh, nếu cứ tiếp

tục đi vay và sử dụng tiền vay như Hy Lạp đã làm trong thập kỷ vừa qua, chắc chắn

sẽ lâm vào tình trạng tương tự Hy Lạp hiện nay.

Mức thâm hụt ngân sách của Việt Nam tăng tương đối cao vào năm 2009

(theo Việt Nam công bố là 6,9% GDP nhưng theo cách tính của IMF, con số này lên

tới 9% GDP) do việc thực hiện chính sách kích cầu, do đó cần có biện pháp thắt

chặt tài khóa, quản lý chi tiêu tiết kiệm và hợp lý hơn nữa trong thời gian tới để

kiềm chế thâm hụt ngân sách. Chính sách quản lý nợ công và kế hoạch vay để bù

đắp thâm hụt ngân sách cần phải được tính toán một cách cẩn trọng và phù hợp.

1.3.3 Giám sát chặt chẽ hệ thống tài chính và các doanh nghiệp nhà nước

Khủng hoảng nợ công của Ireland bắt nguồn từ việc chính phủ đã không

kiểm soát chặt chẽ hệ thống ngân hàng dẫn đến việc cho vay quá mức khi nền kinh

tế tăng trưởng nóng và tạo thành bong bóng bất động sản. Do đó, chính phủ phải bỏ

tiền ra cứu hệ thống ngân hàng khi họ thua lỗ.

Khi Ireland và Hy Lạp lâm vào khủng hoảng nợ, hạng mức tín nhiệm của

trái phiếu các nước này bị hạ, chi phí lãi vay tăng lên cho các khoản vay mới và chi

phí bảo hiểm các khoản tiền vay của nước này tăng mạnh. Điều này tác động xấu

đến tâm lý các nhà đầu tư, khiến cho kỳ vọng về sự hồi phục kinh tế sẽ tiếp tục thấp.

Niềm tin của của nhà đầu tư đối với triển vọng của nền kinh tế và độ tín nhiệm của

Chính phủ một khi đã bị tổn thương thì khó có thể xây dựng lại.

Vì vậy, đối với Việt Nam, rất cần sự giám sát chặt chẽ đối với hệ thống tài

chính và các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN), giảm thiểu các khoản cho vay kém

18

chất lượng và cổ phần hóa những DNNN hoạt động kém hiệu quả. Đặc biệt là

Chính phủ nên hạn chế tối đa việc nhận bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay nợ nước

ngoài để tránh nguy cơ nhà nước phải đứng ra cứu trợ hoặc trả nợ thay một khi các

doanh nghiệp lâm vào tình trạng vỡ nợ hay phá sản như trường hợp của Ireland.

1.3.4 Minh bạch trong công bố thông tin

Công khai minh bạch là một nguyên tắc cơ bản và phổ biến trên thế giới

trong quản trị công nói chung, quản trị tài khóa, đặc biệt là trong quản trị nợ công.

Tuy nhiên, công bố thông tin không nhất quán cũng có thể thành con dao hai lưỡi,

gây ra tâm lý nghi ngờ và bất ổn cho các nhà đầu tư cũng như thị trường. Trường

hợp của Hy Lạp là điển hình cho việc công bố thông tin không nhất quán, sai lệch

số liệu thống kê và cố tình che giấu mức độ nợ thật sự đã khiến các nhà đầu tư giảm

sút lòng tin nặng nề làm cho khủng hoảng nước này càng trở nên trầm trọng. Trước

khủng hoảng, lãi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm của Hy Lạp cao hơn từ 10 đến 40

điểm so với trái phiếu cùng kỳ hạn của Đức nhưng khi khủng hoảng nợ nổ ra,

khoảng cách này tăng lên tới 400 điểm (1/2010) - mức kỷ lục tại thời điểm đó.

Cuộc khủng hoảng nợ ở châu Âu đã và đang đặt ra nhiều vấn đề, mà tăng

cường quản trị công, quản lý nguồn vốn vay mới chỉ là một góc nhìn. Ông Benedict

Bingham, Trưởng đại diện Văn phòng IMF tại Việt Nam cho rằng có 3 bài học mà

các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam cần rút ra từ cuộc khủng hoảng của

Hy Lạp và Ireland: Thứ nhất là cần sử dụng các khoản đầu tư công hiệu quả. Thứ

hai là mức thâm hụt ngân sách so với nợ công phải ở mức chấp nhận được. Thứ ba

là Chính phủ nên tăng cường sức cạnh tranh của nền kinh tế. Bởi chỉ có tăng trưởng

mới có thể chống được rủi ro và khủng hoảng”.

19

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

Trong chương 1, tác giả đã trình bày một cách tổng quát về lý thuyết và các

kết quả nghiên cứu thực nghiệm về vấn đề nợ và khủng hoảng nợ. Qua đó, có thể

kết luận:

Nợ công có ảnh hưởng quan trọng đến nền kinh tế cả trong ngắn và dài hạn.

Trong ngắn hạn, nợ có thể kích thích tổng cầu và sản lượng nhưng lại gây chèn lấn

vốn và giảm sản lượng trong dài hạn. Nợ công cao có thể làm cản trở quá trình tích

lũy vốn và làm giảm tăng trưởng kinh tế.

Khủng hoảng nợ có thể gây ra một cuộc khủng hoảng ngân hàng hay tiền tệ,

không những để lại nhiều hậu quả nặng nề cho chính quốc mà còn gây ảnh hưởng

lớn đến tình hình kinh tế của các nước khác trên thế giới.

Từ vấn đề nợ công ở Châu Âu và một số nước trên thế giới, ta thấy rằng nợ

công không chỉ là vấn đề của những nước chậm hoặc đang phát triển. Cuộc khủng

hoảng nợ công Châu Âu đã để lại kinh nghiệm đáng quý cho Việt Nam như không

phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn vay từ nước ngoài, chi tiêu công hiệu quả, giám

sát chặt chẽ hệ thống tài chính ngân hàng và minh bạch trong công bố thông tin.

20

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM

2.1 Tổng quan tình hình kinh tế-xã hội Việt Nam hiện nay

2.1.1 Tăng trƣởng kinh tế

Sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, trong điều kiện kinh tế

thế giới phục hồi chậm, kinh tế Việt Nam đã sớm thoát khỏi tình trạng suy giảm,

từng bước phục hồi và tăng trưởng nhanh. Tốc độ tăng trưởng GDP thực năm 2010

là 6,8% (tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong 3 năm gần đây). Tuy nhiên, do chính

sách thắt chặt tiền tệ vào đầu năm 2011, tăng trưởng GDP quý 1/2011 giảm xuống

còn 5,4% và trong sáu tháng đầu 2011 ước tính vào khoảng 5,6%.

Nguồn: Tổng cục Thống kê, IMF và Cập nhật tình hình kinh tế Đông Á Thái Bình Dương (2011)

Hình 2.1 Tăng trƣởng GDP của Việt Nam so với 4 nƣớc ASEAN

Năm 2010, hầu hết các nước có thu nhập trung bình ở Đông Nam Á đều

phục hồi lại được tốc độ tăng trưởng kinh tế của giai đoạn trước khủng hoảng, nhưng

tốc độ tăng trưởng của Việt Nam vẫn thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng trung

bình thời kỳ trước khủng hoảng (Hình 2.1).

Cơ cấu kinh tế trong nước cũng đã có sự thay đổi đáng kể. Trong giai đoạn

1990 - 2010, tỷ trọng của khu vực nông-lâm nghiệp thủy sản đã giảm từ 38,7%

xuống 20,6%, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng từ 22,7% lên 41,1%, khu vực

dịch vụ gần như không đổi: 38,6% năm 1990 và 38,3% năm 2010. Trong từng

21

nhóm ngành, cơ cấu cũng có sự thay đổi tích cực. Trong cơ cấu công nghiệp, tỷ

trọng của ngành công nghiệp chế biến tăng, chất lượng sản phẩm ngày càng được

nâng cao. Cơ cấu của khu vực dịch vụ thay đổi theo hướng tăng nhanh tỷ trọng của

các ngành dịch vụ có chất lượng cao như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch…

Nguồn: Tổng cục thống kê

Hình 2.2: Tăng trƣởng GDP và cơ cấu kinh tế 1990 - 2011

2.1.2 Tăng trƣởng xuất nhập khẩu

Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã tăng trưởng khá tốt, trung bình mỗi

năm tăng hơn 20%. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2008, tình hình xuất khẩu

của Việt Nam trở nên khó khăn. Kim ngạch xuất khẩu năm 2009 đã giảm 9,2% so

với năm 2008. Tuy nhiên, tình hình xuất khẩu của Việt Nam đã phục hồi mạnh mẽ

trong năm 2010 với tốc độ tăng trưởng chung là 27,2%, trong đó tăng trưởng các

sản phẩm ngoài dầu thô là 32%. Xu hướng tăng giá của nhiều mặt hàng xuất khẩu

cũng góp phần vào sự tăng trưởng xuất của Việt Nam. Kết quả trong 6 tháng đầu

năm 2011, tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 42,33 tỷ USD, tăng 30,3% so với

cùng kỳ năm trước (trong đó: do yếu tố tăng giá ước đạt 15,6% và do yếu tố tăng

lượng ước đạt 14,7%) và gấp 3 lần chỉ tiêu kế hoạch đề ra.

Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu cũng có sự chuyển dịch theo hướng tích cực

và ngày càng đa dạng. Trong giai đoạn 1991 - 1995, hàng xuất khẩu chủ lực của

Việt Nam ngoài dầu thô, gồm thủy sản, gạo, dệt may, cà phê, lâm sản, cao su,... Đến

22

năm 2010, lĩnh vực xuất khẩu chủ lực được mở rộng ra nhiều ngành nghề đặc biệt

các ngành có hàm lượng chất xám cao như máy tính, linh kiện điện tử, …

Hình 2.3: Kim ngạch xuất nhập khẩu giai đoạn 2000 – 2011

Nguồn:Tổng cục Thống kê

Về nhập khẩu: Do Việt Nam vẫn chủ yếu là nước gia công hàng hóa, nên

song song với sự gia tăng xuất khẩu là tình trạng nhập siêu ngày càng tăng. Kim

ngạch nhập khẩu năm 2010 đạt hơn 84,8 tỷ USD, tăng 21,2% so với năm trước.

Tổng kim ngạch nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2011 ước khoảng 48,99 tỷ USD, tăng

25,8% so với cùng kỳ năm trước (trong đó: do yếu tố tăng giá ước đạt 10,7% và do

yếu tố tăng lượng ước đạt 15,1%). Các ngành nhập khẩu tăng nhanh nhất bao gồm

sản phẩm xăng dầu, máy móc và thiết bị, các nguyên vật liệu trung gian khác cho

ngành xuất khẩu như nhựa, vải sợ và hóa chất. Xu hướng hoạt động thương mại vẫn

không thay đổi, trong đó Trung Quốc vẫn là nguồn nhập khẩu chính, sau đó là các

nước ASEAN và các quốc gia Đông Á khác.

2.1.3 Đầu tƣ phát triển

Giai đoạn 2000 – 2008, tỷ trọng đầu tư ở nước ta diễn ra theo xu hướng

giảm tỷ lệ đầu tư của Nhà nước, kêu gọi và gia tăng các nguồn vốn đầu tư nước

ngoài và doanh nghiệp trong nước tham gia. Sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu

năm 2008, xu hướng này lại đảo chiều vì đầu tư tư nhân sụt giảm và đầu tư công

23

tăng lên. Điều này cũng dễ lý giải do trong thời kỳ suy thoái, các doanh nghiệp

thường thu hẹp sản xuất, còn Chính phủ phải thực hiện chính sách tài khóa mở rộng

để gia tăng tổng cầu. Đến năm 2010, đầu tư Nhà nước đã giảm nhẹ trở lại. Trong 9

tháng năm 2011, tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước tính đạt 679,9 nghìn tỷ đồng, tăng

12,8% so với cùng kỳ và bằng 39,8% GDP, trong đó khu vực nhà nước chiếm 36%,

khu vực ngoài nhà nước chiếm 39% và đầu tư nước ngoài chiếm 25%. Trong tổng

vốn đầu tư của khu vực Nhà nước, vốn từ ngân sách Nhà nước trong 9 tháng ước

tính đạt 131,4 nghìn tỷ đồng, bằng 67,3% kế hoạch năm và tăng 8,8% so với cùng

kỳ năm 2010.

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Hình 2.4: Mức độ và cơ cấu đầu tƣ

2.1.4 Thâm hụt ngân sách nhà nƣớc

Thâm hụt ngân sách nhà nước đang trên đà giảm nhưng tốc độ giảm chậm

hơn nhiều so với mức cần thiết để đạt được ổn định kinh tế vĩ mô. Theo Bộ Tài

chính, thâm hụt ngân sách năm 2010 ước tính giảm 1,3 điểm phần trăm, xuống còn

5,6% GDP (dự toán là 6,2% GDP) và dự toán năm 2011 thâm hụt ngân sách khoảng

5,3% GDP. Tuy nhiên, theo ước tính mới nhất của IMF, tổng thu ngân sách và viện

trợ tăng từ 26,7% GDP năm 2009 lên 28,2% trong năm 2010. Đồng thời, tổng chi

ngân sách (bao gồm chi ngoài ngân sách) ước tính đã giảm 1 điểm phần trăm, từ

35,7% GDP năm 2009 xuống 34,6% GDP năm 2010. Thâm hụt ngân sách do vậy

24

ước tính đã giảm từ 9% GDP trong năm 2009 xuống 6,4% GDP năm 2010. Con số

này cao hơn đáng kể so với mức 3% GDP, là mức cần thiết để đảm bảo bền vững

nợ lâu dài cho khu vực công.

Hình 2.5: Thâm hụt ngân sách nhà nƣớc của Việt Nam 2001 - 2011

Nguồn: Bộ Tài chính (e: ước thực hiện; f: dự toán)

2.1.5 Lạm phát

Hình 2.6: GDP và tỷ lệ lạm phát của Việt Nam (2000 – 2011)

Nguồn: Tổng cục Thống kê

Lạm phát của Việt Nam trong những năm gần đây luôn ở mức cao và có xu

hướng gia tăng. Năm 2003 lạm phát chỉ ở mức 3,2% (so với năm trước) đã tăng lên

mức 8,3% vào năm 2005. Đến đầu năm 2008, giá cả tiêu dùng đã tăng gần gấp đôi

25

và tỷ lệ lạm phát bình quân của cả năm lên tới mức 23%. Do Chính phủ đã triển khai

quyết liệt và đồng bộ các giải pháp chủ động phòng ngừa tái lạm phát cao từ đầu

năm, nên tỷ lệ lạm phát năm 2009 đã được đưa về mức 6,9%. Tuy nhiên, sau đó tỷ lệ

lạm phát lại tiếp tục có xu hướng tăng mạnh trở lại, bình quân năm 2010 tăng 9,2%

so với năm 2009. Tính trong tháng 9 đầu năm 2011, giá tiêu dùng đã tăng hơn 22,4%

so với cùng kỳ và bình quân 9 tháng năm 2011 đã tăng 18,16% so với cùng kỳ năm

2010 – mức cao nhất kể từ tháng 12/2008.

Có thể nói lạm phát hiện nay của Việt Nam có nguyên nhân từ các yếu tố

bên ngoài – giá lương thực và nhiên liệu thế giới tăng, các hiện tượng thời tiết bất

thường – và các yếu tố bên trong như việc chậm thu về các biện pháp kích cầu, cung

tiền và tín dụng tăng trưởng nhanh trong sáu tháng cuối năm 2010, giá nhiên liệu và

giá điện tăng, cộng với lương tối thiểu tăng cũng góp phần vào gia tăng lạm phát.

Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới, tình hình kinh tế Việt Nam sẽ dần

được cải thiện trong sáu tháng cuối năm 2011. Tốc độ lạm phát dự kiến sẽ giảm

xuống khoảng 15% vào cuối năm, khi chính sách thắt chặt phát huy đầy đủ tác

dụng. Mức thâm hụt tài khoản vãng lai ước tính vào khoảng 5% GDP và thị trường

ngoại hối sẽ ổn định trong tương lai gần. Một khi sự ổn định kinh tế vĩ mô dần được

khôi phục, tình trạng “biến vốn” (capital flight) dự kiến sẽ giảm đi trong năm 2011,

giúp cho Ngân hàng Nhà nước dần dần củng cố được dự trữ ngoại hối. Dự báo tăng

trưởng kinh tế năm 2011 sẽ giảm xuống khoảng 6%, với tiềm năng tăng trở lại đáng

kể vào năm 2012. Các rủi ro chính đối với triển vọng này bao gồm việc chấm dứt

quá sớm các biện pháp bình ổn của Chính phủ, giá cả hàng hóa thế giới tiếp tục tăng

hay ảnh hưởng lây lan của cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu đến các khu vực

khác trên thế giới, …

26

2.2 Thực trạng nợ công của Việt Nam

2.2.1 Các nhân tố ảnh hƣởng đến qui mô nợ công

2.2.1.1 Tình trạng thâm hụt NSNN

Từ năm 2001 đến nay, nhìn chung thâm hụt NSNN Việt Nam luôn ở mức

từ 4% - 5% GDP (theo cách tính của Việt Nam), riêng năm 2009 thâm hụt NSNN

tăng cao lên đến 6,9% GDP và năm 2010 có giảm nhưng vẫn ở mức khá cao 5,6%

GDP. Theo Luật NSNN, thâm hụt NSNN được bù đắp bằng vay nợ trong và ngoài

nước, do vậy tổng dư nợ công năm 2009 của Việt Nam tăng hơn 23% so với năm

trước và vượt mức 50% GDP, năm 2010 tương đương 53% GDP. Như vậy, thâm

hụt ngân sách là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đến qui mô nợ công của Việt Nam.

2.2.1.2 Tỷ giá hối đoái

Mặc dù tỷ lệ nợ nước ngoài trong cơ cấu nợ công có xu hướng giảm dần (từ

82% năm 2002 xuống còn 59% năm 2010) nhưng bình quân cả giai đoạn 2002 –

2010 nợ nước ngoài vẫn chiếm tỷ lệ hơn 60% trong tổng nợ công. Đồng thời, nợ

nước ngoài của Việt Nam chủ yếu là nợ trung và dài hạn nên chịu ảnh hưởng của

rủi ro tỷ giá là rất lớn, lãi vay thực tế ngày càng tăng khi tỷ giá gia tăng. Trong khi

đó, từ năm 2001 đến nay nhìn chung các đồng ngoại tệ có chiều hướng tăng giá so

với đồng tiền Việt Nam. Chính thực tế này cho thấy tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng rất

lớn đến qui mô nợ công của Việt Nam.

2.2.1.3 Lãi suất

Nợ vay nước ngoài chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu nợ công của Việt Nam

và phần lớn các khoản vay này là theo điều kiện ưu đãi. Còn các khoản nợ vay trong

nước là vay theo lãi suất cố định, và chiếm tỷ lệ còn thấp trong tổng nợ. Do đó, mức

độ ảnh hưởng của lãi suất đến qui mô nợ công thời gian qua nhìn chung là không

đáng kể.

27

2.2.1.4 Lạm phát

Lạm phát cao là nguyên nhân mất giá đồng nội tệ, vì vậy sẽ làm gia tăng

gánh nặng nợ cho Chính phủ. Sau cuộc khủng hoảng Châu Á, lạm phát của các

nước trong khu vực tăng cao nhưng nhanh chóng giảm xuống và chuyển sang giảm

phát vào năm 2000, mức giảm phát của Việt Nam là -1.6%. Bằng nhiều biện pháp

kích cầu, Việt Nam đã thoát khỏi giảm phát và mức lạm phát năm 2003 là 3,2%

nhưng sau đó lạm phát lại liên tục tăng cao, đến năm 2008 đạt mức kỷ lục với 23%

và 9 tháng đầu năm 2011 tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam vẫn ở mức khá cao 18,2%. So

với các quốc gia Đông Á, Việt Nam là nước có tỷ lệ lạm phát cao nhất. Vì vậy, lạm

phát là nguyên nhân gây mất giá đồng tiền Việt Nam, vì vậy làm gia tăng nợ thực tế

của Việt Nam.

2.2.1.5 Hệ số tín nhiệm

Hệ số tín nhiệm của quốc gia cũng ảnh hưởng đến mức lãi suất và khả năng

vay nợ của quốc gia, bằng chứng là trong đợt phát hành trái phiếu quốc tế lần đầu ra

thị trường quốc tế của Việt Nam, nhà đầu tư chỉ mua trái phiếu với giá bằng 98,2%

mệnh giá. Nếu Việt Nam cải thiện được hệ số tín nhiệm ở mức cao hơn thì sẽ huy

động vốn trên thị trường quốc tế với lãi suất thấp hơn.

Mặt khác, trong thời kỳ đầu hội nhập, hệ số tín nhiệm của các doanh nghiệp

Việt Nam trong mắt thế giới còn thấp nên Nhà nước vẫn phải đứng ra bảo lãnh vay

vốn cho các doanh nghiệp trước các chủ thể nước ngoài. Chính điều này sẽ làm gia

tăng nghĩa vụ nợ dự phòng (công khai và ngầm định) của Chính phủ.

2.2.2 Nợ công của Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010

Theo IMF, nợ công của Việt Nam năm 2001 mới hơn 10 tỷ USD, tương

đương 31,6% GDP. Nhưng đến năm 2009 khoản nợ này đã vượt qua ngưỡng an

toàn (50% GDP), tăng lên đến 51,2% GDP và tiếp tục tăng đến 52,8% GDP vào

năm 2010. Như vậy, trong vòng 10 năm từ năm 2001 đến nay, quy mô nợ công đã

tăng lên gấp hơn 5 lần với tốc độ tăng trưởng trung bình hơn 15% mỗi năm. Và với

thực trạng tỷ lệ tiết kiệm nội địa trung bình chỉ hơn 27% GDP trong khi mức đầu tư

28

xã hội mỗi năm khoảng 42% GDP, Chính phủ sẽ phải vay thêm nợ để bù đắp thâm

hụt ngân sách thì tốc độ gia tăng nợ công trong những năm tới sẽ khó có thể chậm

lại. Nếu tiếp tục tăng với tốc độ này trong khi GDP vẫn tăng trưởng thấp thì không

bao lâu nữa, nợ công Việt Nam có thể sẽ vượt quá 100% GDP, một con số đáng báo

động đối với nền kinh tế đang phát triển và phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu sản

phẩm nông nghiệp thô và công nghiệp nhẹ như Việt Nam.

Hình 2.7: Tình hình nợ công Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010

Nguồn: IMF, World Economic Outlook Database, April 2011

Theo World Factbook của cơ quan tình báo trung ương Mỹ (CIA), nợ công

của Việt Nam năm 2010 lên tới 57,1% GDP (cao hơn mức 52,8% của IMF), đứng

hàng thứ 41/133 quốc gia về nợ nần (mức nợ công thấp nhất là 3,3% và mức cao

nhất là 234,1% GDP, có 52 quốc gia có mức nợ công trên 50% GDP). Trong các

nước ASEAN, Việt Nam là nước có tỷ lệ nợ công/GDP cao nhất (xem Phụ lục 5).

Xét về cơ cấu nợ, nợ công Việt Nam đang tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro khi

phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn nước ngoài. Nợ nước ngoài chiếm tỷ trọng khá lớn

trong cơ cấu nợ công (gần 60% vào năm 2010) và ngày càng tăng về quy mô qua

các năm mặc dù về tỷ trọng trong cơ cấu nợ có xu hướng giảm dần. Cụ thể năm

2002, mức nợ nước ngoài khu vực công ở mức hơn 9,4 triệu USD nhưng đến năm

2010 đã tăng lên mức hơn 32,5 triệu USD, chiếm gần 31,4% GDP (theo số liệu từ

29

IMF, tổng nợ nước ngoài của Việt Nam năm 2010 khoảng hơn 43,8 triệu USD,

chiếm đến 42,3% GDP). Theo tiêu chuẩn của WB thì với mức độ nợ nước ngoài

như hiện nay, Việt Nam đang ở trong tình trạng khó khăn về nợ (30% - 50% GDP).

Trong khi đó, nợ nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh đang tăng mạnh trong thời

gian gần đây (năm 2002 chỉ chiếm 3% trong tổng nợ nhưng đến năm 2010 con số

này lên đến 8,5%), điều này sẽ tạo ra gánh nặng nợ cao cho Chính phủ khi mà các

doanh nghiệp vay nợ hoạt động không hiệu quả, không có khả năng trả nợ và Chính

phủ phải đứng ra trả nợ thay khi các khoản nợ này đến hạn.

Hình 2.8: Cơ cấu nợ công Việt Nam năm 2002 - 2010

Nguồn:Bộ tài chính và IMF

Tuy nhiên, nợ nước ngoài của Việt Nam chủ yếu là vốn hỗ trợ phát triển

chính thức (ODA) với lãi suất thấp và thời gian cho vay dài, tỷ lệ vay thương mại là

không nhiều nên áp lực chi trả thấp và dòng vốn vay nợ nước ngoài tương đối ổn

định. Cơ cấu nợ mà tỷ lệ vay ngắn hạn càng cao thì dòng vốn càng dễ đổi chiều và

gây bất ổn cho nền kinh tế. Trên thực tế, trong cuộc khủng hoảng Châu Á 1997

khiến nhiều nước rơi vào khủng hoảng do các dòng vốn chảy ra nhất là những nước

vay nợ ngắn hạn cao như Thái Lan, nhưng Việt Nam lại không bị ảnh hưởng trực

tiếp một phần là nhờ tỷ lệ nợ ngắn hạn thấp.

30

Hình 2.9: Nợ nƣớc ngoài đƣợc Chính phủ bảo lãnh 2002-2010

Nguồn: Bộ tài chính

Điều đáng lo ngại là nợ nước ngoài đang tăng nhanh trong khi hiệu quả đầu

tư của các dự án sử dụng vốn từ các khoản nợ vay lại thấp, nạn tham nhũng và lãng

phí vẫn không hề giảm đi. Hơn nữa, Việt Nam sẽ dần dần bị giảm đi các khoản vay

ưu đãi do trở thành nước có thu nhập trung bình, thay vào đó là các khoản vay

thương mại với lãi suất cao hơn và thời gian ngắn hơn. Điều này đòi hỏi việc sử

dụng vốn phải được kiểm soát chặt chẽ, mang lại hiệu quả kinh tế nhiều hơn nữa,

nếu không, gánh nặng nợ quốc gia sẽ ngày càng trầm trọng, đặt quốc gia trước áp

lực của sự vỡ nợ.

2.2.3 Tình hình sử dụng nợ công

Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế, nợ công đã đóng

góp nhất định đến công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Dòng nợ nước ngoài

dưới hình thức ODA ngày một tăng, góp phần lấp vào lỗ hổng thiếu hụt giữa tiết

kiệm và đầu tư; thiếu hụt của cán cân thanh toán quốc tế. Nợ công trong nước tạo ra

nguồn vốn đầu tư ổn định để Chính phủ thực hiện thành công các chương trình đầu

tư công, chương trình phát triển kinh tế xã hội theo các mục tiêu hoạch định, tạo nền

tảng cho sự phát triển kinh tế bền vững. Tuy nhiên, tình hình sử dụng nợ công ở

31

Việt Nam lại không đạt hiệu quả cao, thể hiện qua tình trạng chậm trễ trong giải

ngân vốn đầu tư và hiệu quả đầu tư thấp (hệ số ICOR cao).

Nguồn vốn ODA đã bổ sung một nguồn kinh phí quan trọng cho đầu tư

phát triển, chiếm khoảng 11% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và khoảng 17% trong

tổng vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước (trong thời kỳ 1993 – 2007). Mức cam kết

ODA hàng năm đều tăng, năm sau cao hơn năm trước, cho thấy sự ủng hộ của cộng

đồng thế giới đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam sau đổi mới.

Tuy vậy, tỷ lệ vốn ký kết luôn thấp hơn vốn cam kết cho thấy Việt Nam cần phải nỗ

lực hơn nữa để nhận được sự tin tưởng của các nhà tài trợ vào các dự án phát triển

của Việt Nam.

Hơn nữa, việc quản lý và sử dụng vốn ODA còn nhiều bất cập, tình hình

thực hiện dự án thường bị chậm ở nhiều khâu: chậm thủ tục, chậm triển khai, tiến

độ giải ngân chậm (chỉ đáp ứng được 70 – 80% yêu cầu giải ngân bình quân một

năm), tỷ lệ giải ngân thấp (trung bình chỉ bằng 60% vốn cam kết và bằng khoản

80% vốn ký kết). Do vậy, thời gian hoàn thành dự án kéo dài làm phát sinh các khó

khăn, đặc biệt là vốn đầu tư thực tế thường tăng hơn so với dự kiến và cam kết;

đồng thời cũng làm giảm tính hiệu quả của dự án khi đi vào vận hành khai thác.

Hình 2.10: Tình hình cam kết, ký kết và giải ngân ODA từ năm 1993 – 2010

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư

32

Ngoài ra, tình trạng chậm trễ trong giải ngân vốn đầu tư từ NSNN và nguồn

vốn trái phiếu Chính phủ cũng diễn ra khá thường xuyên. Theo báo cáo của Kho

bạc Nhà nước, tính đến hết tháng 10/2009 mới giải ngân được 26.586 tỷ đồng trong

số 64.000 tỷ đồng vốn trái phiếu Chính phủ, bằng 47,5% kế hoạch năm. Tình trạng

dự án, công trình thi công dở dang, kéo dài, chậm tiến độ vẫn chậm được khắc

phục. Điều này cùng với sự thiếu kỷ luật tài chính trong đầu tư công dẫn đến đầu tư

dàn trải, lãng phí, thất thoát vốn đầu tư ở tất cả các khâu của quá trình quản lý dự án

đầu tư.

Bảng 2.1: Tăng trƣởng GDP và ICOR của Việt Nam giai đoạn 1996 - 2010

Nguồn: Tổng cục thống kê và tính toán của tác giả

(*) Hệ số ICOR có thể tính theo nhiều cách. ICOR ở đây được tính bằng

cách lấy tỷ lệ tích lũy tài sản (tỷ lệ giữa vốn đầu tư phát triển so với GDP)

chia cho tốc độ tăng GDP.

Hiệu quả trong phân bổ nguồn lực sẽ quyết định kết quả của nền kinh tế, và

rộng hơn, quyết định sự phát triển của xã hội. Tỷ lệ đầu tư trên GDP của Việt Nam

luôn ở mức cao so với các nước trong khu vực (bảng 2.2). Tính trung bình từ năm

2006 đến 2010 tỷ lệ đầu tư/GDP của Việt Nam lên tới 42,85% trong khi tốc độ tăng

trưởng GDP chỉ đạt trung bình hơn 7% và dự kiến năm 2011, mức tăng trưởng GDP

cũng chỉ dừng ở 6,26%, do đó hệ số ICOR luôn ở mức cao hơn so với các nước

trong khu vực.

33

Hình 2.11: Tỷ lệ gia tăng vốn trên sản lƣợng theo khu vực

Nguồn: Ngân hàng Thế giới (Báo cáo phát triển Việt Nam 2009)

Hệ số ICOR càng cao đồng nghĩa với hiệu quả đầu tư trong nền kinh tế

càng thấp. Chất lượng tăng trưởng thấp kéo dài là tiền đề gây nên lạm phát, khủng

hoảng và suy thoái kinh tế. Chỉ số ICOR trung bình trong giai đoạn 2001-2008 của

Việt Nam là 5,3 (nghĩa là cần 5,3 đồng vốn đầu tư để tăng được một đồng GDP),

cao gấp rưỡi đến gấp hai so với các nước trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá (trung

bình chỉ ở mức trên dưới 3,0). Mặc dù đã có sự cảnh báo về sự lãng phí trong đầu tư

và hiệu quả thấp trong sử dụng nguồn lực của Việt Nam nhưng đến năm 2008 chỉ số

ICOR lại vượt ngưỡng, lên mức 6,63 và đến năm 2009 đã lên tới 8,04, mức cao nhất

từ trước đến nay trong khi tăng trưởng lại chỉ đạt 5,2%.

Bảng 2.2: Tăng trưởng GDP và ICOR của một số quốc gia Đông Á

Nguồn: Viện chiến lược phát triển – Bộ Kế hoạch và Đầu tư

34

Nguyên nhân ICOR cao:

- Đầu tư công kém hiệu quả, nhiều dự án không được hoạch định cẩn thận

nên tỷ suất sinh lợi của dự án không cao, đồng thời hiệu quả hoạt động của các

doanh nghiệp quốc doanh lại thấp. Theo báo cáo của Trung tâm Thông tin và Dự

báo kinh tế - xã hội Quốc gia, doanh thu sản xuất thuần được tạo ra bởi 1 đồng vốn

tại DNNN thấp. Trong năm 2006 cứ 1 đồng vốn tại DNNN tạo ra được 0,61 đồng

doanh thu, chưa bằng một nửa của doanh nghiệp tư nhân (DNTN) trong nước và chỉ

bằng 2/3 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Lực lượng lao động do DNNN sử

dụng chỉ bằng khoảng 28,4% tổng số lao động của các doanh nghiệp trong khi đó

DNTN thu hút 50%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thu hút 21,4%.

- Tham nhũng và lãng phí trong nhiều dự án đầu tư của Nhà nước và của

các DNNN làm dòng vốn thay vì phải chạy vào các dự án đầu tư thì lại chạy vào

tiêu dùng hay vào túi cá nhân. Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) đã công bố bảng

xếp hạng năm 2010 về “chỉ số nhận thức tham nhũng” (CPI) – chỉ số đánh giá mức

độ tham nhũng trong khu vực công, được tổng hợp dựa trên cơ sở hàng trăm cuộc

khảo sát ý kiến của các chuyên gia và doanh nghiệp. Mức độ nhận thức tham nhũng

được chấm từ điểm 0 (tham nhũng cao nhất) đến điểm 10 (“sạch” nhất).

Theo đánh giá của Tổ chức Minh bạch Quốc tế, chỉ số tham nhũng của Việt

Nam ở mức là 2,5 điểm (năm 2000), 2,4 điểm (năm 2003), 2,6 điểm (năm 2007) và

2,7 điểm năm 2008 (xếp hạng 121/180). Đến năm 2010, Việt Nam đã tăng hạng lên

116/178 mặc dù vẫn ở mức 2,7 điểm. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực thì

chỉ số tham nhũng của Việt Nam vẫn ở mức cao (Hình 2.12).

35

Hình 2.12: Chỉ số tham nhũng của Việt Nam và một số nƣớc trong khu vực

Nguồn: www.transparency.org

2.2.4 Khả năng trả nợ của Việt Nam

Nợ trong nước phần lớn được chi trả từ thuế nên khả năng thanh toán dựa

vào tỷ lệ thuế và tốc độ phát triển kinh tế. Tỷ lệ thuế cao quá có thể làm đình đốn

kinh tế vì không tạo ra động lực phát triển và người dân tìm cách để trốn thuế. Kinh

tế lụn bại cũng đưa đến mất khả năng trả nợ vì thuế thu được sẽ giảm trong khi khó

cắt giảm chi tiêu, từ đó có thể dẫn đến khả năng xảy khủng hoảng nợ. Như vậy,

Chính phủ mất khả năng trả nợ khi việc trả nợ đòi hỏi tỷ lệ thu thuế vượt ngoài khả

năng chịu đựng của dân chúng và doanh nghiệp, và do đó nhà nước thường dùng

các biện pháp thu thuế ngầm (không qua biểu thuế của Quốc Hội) là phát hành tiền

để tiêu, tạo ra lạm phát và làm mất ổn định nền kinh tế về mọi phương diện.

Đối với nợ nước ngoài, một nước có đồng tiền được chấp nhận rộng rãi và

được dùng làm tiền dự trữ như đồng đôla Mỹ, Euro, Yên Nhật thì có thể có tỷ lệ nợ

cao mà không ảnh hưởng đến khả năng trả nợ vì họ có thể phát hành trái phiếu dễ

dàng trên thị trường thế giới. Chẳng hạn như Mỹ, để thoát khỏi nguy cơ xảy ra

khủng hoảng nợ, Mỹ đã tiến hành nâng mức trần nợ công. Tuy nhiên, đối với những

36

nước như Việt Nam hay Hy Lạp, Ireland thì không thể làm thế do đó nếu mất khả

năng trả nợ thì kinh tế chắc chắn sẽ rơi vào khủng hoảng. Ngoài ra, một nước có nợ

chủ yếu là nợ chính thức từ các tổ chức quốc tế hay chính quyền các nước phát triển

cao sẽ không gặp khó khăn như các nước phải vay mượn chủ yếu trên thị trường

thương mại vì lãi suất đối với nợ chính thức thấp hơn nhiều so với vay thương mại.

Như đã phân tích, nợ công trong nước ít bị ảnh hưởng bởi điều kiện quốc

gia hơn nợ nước ngoài. Đối với nợ trong nước, Chính phủ có thể tăng thuế thậm chí

in thêm tiền để thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo hạn. Còn nợ nước ngoài có rủi ro

tín dụng cao hơn vì chính phủ có thể không có đủ ngoại tệ để thanh toán và ngoài ra

còn có rủi ro về tỷ giá hối đoái. Do đó, bài viết sẽ phân tích khả năng chi trả dựa

vào khả năng trả nợ nước ngoài của Chính phủ.

Bảng 2.3: Một số chỉ tiêu đánh giá mức độ nợ và khả năng trả nợ của Việt Nam

Nguồn: Tổng hợp từ Bộ Tài chính (Bản tin nợ nước ngoài) và IMF

Theo số liệu từ bảng 2.3, cho thấy tổng dư nợ nước ngoài trên GDP của

quốc gia ngày càng tăng qua các năm và đã vượt qua ngưỡng an toàn 30% (theo tiêu

chuẩn của WB). Nhưng nếu xét về tỷ lệ nợ nước ngoài/xuất khẩu và nghĩa vụ trả

nợ/xuất khẩu thì Việt Nam vẫn còn thấp hơn nhiều so với mức ngưỡng an toàn cho

phép (tương ứng < 165% và < 18%), cho thấy xuất khẩu vẫn có thể đảm bảo các

khoản vay nước ngoài. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, nguồn thu xuất khẩu

chủ yếu dùng bù đắp cho nhập khẩu. Ngoài ra, đặc thù hàng hóa xuất khẩu Việt

37

Nam chủ yếu là nguyên liệu thô, giá trị thấp, chưa qua chế biến và khai thác trực

tiếp từ tự nhiên nên nền tảng xuất khẩu không vững chắc.

Cán cân tài khoản vãng lai của Việt Nam liên tục bị thâm hụt trong vòng 10

năm nay, năm 2005 mức thâm hụt là 1,1% GDP nhưng đến năm 2007 tăng lên mức

9,8% GDP và tiếp tục tăng lên 11,9% GDP vào năm 2008, mặc dù trong thời gian

này chuyển giao đơn phương ở mức khá cao (9% năm 2007 và 8,1% năm 2008).

Các năm tiếp theo tài khoản vãng lai đã dần được cải thiện nhưng vẫn tiếp tục thâm

hụt, năm 2010 thâm hụt ở mức 4,0% và dự báo năm 2011 mức thâm hụt vẫn tương

đương năm 2010. Nguyên nhân chủ yếu của thâm hụt tài khoản vãng lai là do cán

cân thương mại liên tục thâm hụt qua các năm (cao nhất là năm 2007, thâm hụt đến

14,6% GDP). Do đó, nhu cầu ngoại tệ để bù đắp thâm hụt tài khoản vãng lai càng

cao, tạo áp lực vay thêm nợ mới hoặc làm giảm dự trữ ngoại hối của quốc gia, điều

này làm tăng thêm gánh nặng nợ và ảnh hưởng đến khả năng chi trả nợ trong tương

lai của quốc gia.

Bảng 2.4: Cán cân tài khoản vãng lai Việt Nam 2005 - 2010

Nguồn: Ngân hàng phát triển Châu Á và IMF

Dự trữ ngoại hối trên tổng dư nợ ngắn hạn của Việt Nam sụt giảm mạnh

qua các năm, từ mức 6380% năm 2006 sụt giảm chỉ còn 187% năm 2010. Nguyên

nhân là do dự trữ ngoại hối giảm trong khi nợ ngắn hạn lại tăng. Điều này cho thấy

khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của Việt Nam đang suy giảm mạnh. Theo bản tin

nợ nước ngoài số 7 của Bộ Tài chính, dự kiến nợ phải trả nước ngoài của Chính phủ

có xu hướng gia tăng. Năm 2011, dự kiến tổng nợ phải trả là 1.331,5 triệu USD, đến

năm 2020 con số này lên đến 2.380,3 triệu USD, cao gấp gần 2 lần so với năm

38

2011, chưa tính đến các rủi ro về tỷ giá, lạm phát và các nhân tố khác làm gia tăng

các khoản phải trả. Đồng thời, tỷ lệ nghĩa vụ nợ dự phòng/thu ngân sách liên tục

tăng qua các năm. Do đó, áp lực trả nợ của Chính phủ trong tương lai là rất lớn nên

cần phải quan tâm nhiều hơn nữa trong việc cân đối vay và trả nợ vay nước ngoài.

2.3 Đánh giá hiệu quả quản lý nợ công của Việt Nam

Hiệu quả quản lý nợ công thường được đánh giá qua khả năng đáp ứng

các mục tiêu quản lý nợ công. Ở khía cạnh khác, hiệu quả quản lý nợ công còn

được đánh giá thông qua tính ổn định nợ công và tính công bằng về gánh nặng nợ

giữa thế hệ hiện tại và thế hệ tương lai. Sự quyết định gia tăng hay giảm nợ công

của quốc gia đều có liên quan đến các khía cạnh này. Do đó, để đánh giá hiệu quả

quản lý nợ công của Việt Nam, bài viết sẽ đánh giá dựa trên các tiêu chuẩn mà

Ngân hàng Thế giới và IMF áp dụng để đánh giá tình trạng nợ cũng như hiệu quả

quản lý nợ công của các nước nghèo gánh nặng nợ cao (HIPCs) và các nước có

thu nhập thấp.

2.3.1 Đánh giá tính ổn định nợ nước ngoài theo mức ngưỡng của HIPCs

Việc đánh giá tính ổn định nợ công được thực hiện qua việc đánh giá các

chỉ tiêu sau:

- Tỷ lệ NPV của nợ/xuất khẩu (NPV/X): đo lường hiện giá thuần của nợ

nước ngoài liên quan đến khả năng trả nợ của quốc gia lấy từ nguồn thu xuất khẩu.

- Tỷ lệ NPV của nợ/thu ngân sách nhà nước (NPV/DBR): đo lường hiện giá

thuần của nợ nước ngoài liên quan đến khả năng trả nợ của quốc gia lấy từ nguồn

thu ngân sách nhà nước.

Theo mức ngưỡng của HIPCs, một quốc gia được xem là an toàn nếu như

tỷ lệ NPV/X nhỏ hơn 150%; tỷ lệ NPV/DBR nhỏ hơn 250%. Tuy nhiên, chỉ tiêu thứ

hai chỉ được sử dụng nếu như đáp ứng hai điều kiện: Tỷ lệ xuất khẩu/GDP phải lớn

hơn hoặc bằng 30% và tỷ lệ thu ngân sách nhà nước/GDP phải lớn hơn 15%.

39

Bảng 2.5: Ngƣỡng nợ nƣớc ngoài theo tiêu chuẩn HIPCs

Nguồn: Tổng hợp từ Bộ Tài Chính, ADB, IMF, WB và Phụ lục 6

Trong giai đoạn 2005 – 2010, tỷ lệ xuất khẩu/GDP của Việt Nam luôn ở

mức cao, trung bình là 65,9%, trong khi tỷ lệ thu ngân sách/GDP trung bình ở mức

28,4% (thấp nhất là 26,5% vào năm 2009). Do đó, Việt Nam đã đáp ứng được hai

điều kiện: tỷ lệ xuất khẩu/GDP > 30% và tỷ lệ thu ngân sách/GDP > 15%. Trong

khi đó, cả hai chỉ tiêu NPV/X và NPV/DBR của Việt Nam đều thấp hơn mức

ngưỡng của HIPCs, cho thấy Việt Nam đã đáp ứng được yêu cầu nợ bền vững.

Dịch vụ nợ/xuất khẩu (TDS/X) và dịch vụ nợ/nguồn thu ngân sách

(TDS/DBR): là những chỉ tiêu đo lường tính lỏng được WB và IMF đưa vào để

đánh giá mức độ bền vững nợ công. TDS/X đo lường khả năng thanh toán dịch vụ

nợ từ thu xuất khẩu. TDS/DBR đo lường khả năng thanh toán dịch vụ nợ từ thu

ngân sách nhà nước. Một quốc gia đảm bảo tính lỏng khi TDS/X thấp hơn 15% và

TDS/DBR thấp hơn 10%.

Tỷ lệ TDS/X trung bình của Việt Nam từ năm 2005 đến 2010 là 2% và

TDS/DBR là 5%. Xét theo mức ngưỡng thì các tỷ lệ tính lỏng nợ nước ngoài của

Việt Nam khá ổn định.

2.3.2 Đánh giá tính ổn định nợ trong nước

Nợ trong nước được đánh giá qua hai chỉ số là Nợ trong nước/GDP và Nợ

trong nước/thu ngân sách. Theo mức ngưỡng mà WB đưa ra ở bảng 2.6, nợ trong

nước của Việt Nam vẫn nằm trong giới hạn an toàn. Các chỉ tiêu nợ/GDP và nợ/thu

ngân sách của Việt Nam giai đoạn 2005 – 2010 luôn ở mức thấp hơn mức ngưỡng

40

an toàn của WB đưa ra nhưng khoảng cách so với ngưỡng không nhiều. Do đó,

trong trường hợp này, Việt Nam vẫn có khả năng gia tăng nợ công trong nước mà

không ảnh hưởng đến tính ổn định nợ nhưng với mức độ không lớn.

Bảng 2.6: Ngƣỡng nợ trong nƣớc theo tiêu chuẩn HIPCs

Nguồn: Tổng hợp từ Bộ Tài Chính, ADB, IMF, WB và Phụ lục 6

2.3.3 Đánh giá sức mạnh thể chế và chất lượng chính sách quản lý nợ

nước ngoài

Vào năm 2005, WB và IMF đã đưa ra một cách tiếp cận mới để đánh giá

chất lượng quản lý nợ công cho các nước có thu nhập thấp, đó là dựa vào chất

lượng chính sách và thể chế [51]. Cách tiếp cận trước đây dựa vào mức ngưỡng các

chỉ số nợ công chủ yếu được tính toán dựa vào kinh nghiệm lịch sử của các nước

HIPCs trong chương trình giảm nợ nhằm ngăn chặn cú sốc từ bên ngoài của các

nước này. Cách tiếp cận mới dựa vào khuôn khổ chi tiết của từng quốc gia trên nền

tảng thể chế và chính sách nhằm hướng đến phân tích nợ năng động. Điểm mới cơ

bản của cách tiếp cận này là định lượng các ngưỡng ổn định nợ dựa vào cơ sở chất

lượng của chính sách và thể chế. Nghĩa là, các quốc gia có chính sách và thể chế tốt

thì có thể chống đỡ được mức nợ cao hơn so với mức ổn định nợ cơ bản. Ngược lại,

quốc gia nào mà thể chế và chính sách yếu kém thì mức độ và quy mô nợ công cần

được khống chế trong giới hạn ngưỡng của các nước HIPCs.

Cách tiếp cận này đưa ra giá trị mức ngưỡng dựa vào tỷ lệ nợ truyền thống

để làm cơ sở đánh giá thể chế và chính sách của quốc gia (Country Policy and

Institutional Assessment: CPIA). Dựa vào giá trị ngưỡng, WB đã phân thành 3 mức

thực hiện chính sách: kém, vừa và mạnh.

41

% NPV của nợ trên

% Dịch vụ nợ trên

Xuất khẩu

GDP

Thu ngân sách Xuất khẩu Thu ngân sách

Kém (CPIA<3)

100

30

200

15

25

Vừa (3

150

40

250

20

30

Mạnh (CPIA>3,9)

200

50

300

25

35

Bảng 2.7: Mức ngƣỡng phụ thuộc vào chính sách và thể chế

Nguồn:Ngân hàng Thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế

Theo cách tiếp cận này và với số liệu của Việt Nam trong giai đoạn 2005 –

2010 cho thấy thể chế và chính sách quản lý nợ của Việt Nam được xếp vào mức

thực hiện kém.

2.3.4 Đánh giá tính công bằng liên thế hệ

Theo lý thuyết tân cổ điển, vay nợ gây chèn lấn đầu tư khu vực tư. Khi

Chính phủ thực hiện dự án, cho dù được tài trợ bằng thuế hay vay nợ, thì những

nguồn lực đều lấy từ khu vực tư. Như vậy, nợ có ảnh hưởng đến vốn đầu tư của khu

vực tư và tạo ra gánh nặng cho thế hệ tương lai. Để khắc phục chèn lấn, yêu cầu các

dự án đầu tư của Chính phủ phải có hiệu quả để thu hút lại sự đầu tư của khu vực tư

Khi một quốc gia có vay nợ nước ngoài để tài trợ thiếu hụt ngân sách, giả

sử tiền vay nợ dùng để tiêu dùng hiện tại, chắc chắn thế hệ tương lai phải gánh chịu

gánh nặng nợ. Bởi vì mức tiêu dùng giảm xuống ở mức bằng số vay nợ cộng cho

tiền lãi dồn tích mà phải trả cho các nhà tài trợ nước ngoài. Tiền vay nợ dùng để đầu

tư, kết quả còn tùy thuộc vào năng suất của dự án. Nếu như tỷ suất sinh lợi của dự

án đầu tư lớn hơn chi phí biên vay nợ nước ngoài thì sự liên kết giữa vay nợ và chi

đầu tư thực tế làm cho thế hệ tương lai tốt hơn. Ngược lại, tỷ suất sinh lợi của dự án

nhỏ hơn chi phí biên vay nợ thì thế hệ tương lai trở nên bị thiệt hơn.

Thông qua các chương trình đầu tư công, nợ công Việt Nam được chuyển

tải vào các dự án đầu tư, cải thiện cơ sở hạ tầng tạo nền tảng cho sự phát triển kinh

tế bền vững. Điều này thể hiện qua chi tiêu công cho bốn khu vực như giáo dục, y

tế, giao thông và nông nghiệp đã tăng đáng kể trong 10 năm qua. Tuy nhiên, như

42

phân tích ở trên, thông qua chỉ số ICOR, ta thấy rằng hiệu quả sử dụng nợ công và

hiệu quả của các dự án đầu tư còn rất thấp. Việt Nam vay nợ chủ yếu để đầu tư phát

triển kinh tế - xã hội, song hiệu quả đầu tư thấp nên nguồn thu hồi để trả nợ trong

tương lai từ các dự án này sẽ bị hạn chế. Các khoản vay và chi tiêu hiện tại của

Chính phủ không tạo nên nguồn thu hiệu quả trong tương lai sẽ làm tăng sức ép lên

bội chi mới. Hậu quả là thế hệ tương lai sẽ phải gánh chịu gánh nặng nợ cao hơn thế

hệ hiện tại.

Tóm lại, thông qua phương pháp đánh giá hiệu quả quản lý nợ công của

WB, ta thấy rằng nợ công Việt Nam vẫn nằm trong giới hạn an toàn theo tiêu chuẩn

của HIPCs. Tuy vậy, các tỷ lệ nợ hiện tại còn an toàn cũng không loại trừ việc cần

phải thận trọng trong quản lý nợ công, phải tăng cường hiệu quả sử dụng số tiền vay

nợ được. Các dự án đầu tư từ nguồn vốn khu vực công mặc dù có sự đóng góp đáng

kể đến tăng trưởng kinh tế trong thời gian qua nhưng vẫn còn kém hiệu quả làm ảnh

hưởng đến tính công bằng liên thế hệ về gánh nặng nợ, do đó cần cải thiện hơn nữa

trong công tác quản lý nợ công của Việt Nam. Trong thời gian tới, nợ công của Việt

Nam có tiếp tục nằm trong tầm kiểm soát hay không còn tùy thuộc vào việc hoàn

thiện chính sách và thể chế, xây dựng và thực thi chiến lược quản lý nợ, kiểm soát

tỷ lệ bội chi ngân sách và tốc độ tăng trưởng kinh tế.

2.4 Dự báo khả năng xảy ra khủng hoảng nợ ở Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020

Theo tiêu chí đánh giá của WB, một nước được xem là rơi vào tình trạng nợ

trầm trọng nếu như tỷ lệ Nợ nước ngoài/GDP > 50% hoặc Nợ nước ngoài/Xuất

khẩu > 275%. Năm 2010, Nợ nước ngoài/GDP của Việt Nam ở mức 42,3% và Nợ

nước ngoài/xuất khẩu khoảng 54,2%. Theo tiêu chí tỷ lệ nợ/xuất khẩu của WB thì

tình trạng nợ của Việt Nam đang ở mức bình thường (< 165%). Tuy nhiên xét theo

tiêu chí nợ/GDP thì Việt Nam đang ở mức độ khó khăn về nợ (30% - 50%). Đồng

thời, tình hình cán cân tài khoản vãng lai của Việt Nam liên tục bị thâm hụt là một

dấu hiệu đáng lo, có nguy cơ tiềm ẩn về khả năng chịu đựng thâm hụt TKVL và khả

năng trả nợ nước ngoài trong tương lai. Trong khi đó, một phần khá lớn các khoản

vay được dùng để tài trợ cho việc nhập khẩu hàng hóa, tức bù đắp thâm hụt TKVL.

43

Do đó, để đánh giá khả năng thanh toán nợ của Việt Nam trong tương lai ta sẽ xem

xét tỷ lệ nợ/xuất khẩu trong giai đoạn 2011-2020 thông qua xây dựng mô hình cảnh

báo khủng hoảng nợ của Jaim de Pine (1989) (xem chi tiết mô hình ở mục 1.2.2.2)

(*)

2.4.1 Xác định các chỉ số tăng trƣởng xuất khẩu và chuyển giao ròng

(gx), tăng trƣởng nhập khẩu (gm) và lãi suất (i)

Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu (bao gồm chuyển giao ròng) và nhập khẩu

trong giai đoạn 2011 - 2020 được ước lượng thông qua mô hình Kinh tế lượng (sử

dụng phần mềm Eview 5.1) dựa trên dữ liệu từ năm 1990 - 2010 (xem Phụ lục 7A).

Kết quả thu được như sau (xem phần kiểm định và ước lượng ở Phụ lục 7B):

Ln(X_CGR) = 7,612121 + 0,179164t + [AR(1)=0,748438, AR(2)= -0,262867] +

Ln(M) = 7,762969 + 0,174509t + [AR(1)=0,921863, AR(2)= - 0,500122] +

Từ đó ước lượng tương ứng với tốc độ tăng trưởng nhập khẩu (hoặc

xuất khẩu và chuyển giao ròng) bình quân hàng năm trong điều kiện các yếu tố khác

không đổi và với mức ý nghĩa :

Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu và chuyển giao ròng: 0,160343 < gx < 0,197985

Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu: 0,155207 < gm < 0,193811

Về lãi suất, theo thông tin từ Bộ kế hoạch và đầu tư, mức lãi suất trên toàn

thế giới trong giai đoạn 2010 - 2015 ở trong khoảng từ 4,8% đến 6% và giảm xuống

còn trong khoảng từ 4% - 5,5% trong giai đoạn 2015 - 2020 [1, tr. 145-146]. Qua

đó, ta tính được lãi suất bình quân trong giai đoạn 2011-2020 là 5,075%.

2.4.2 Xác định các chỉ số a, b và dt

Từ bảng số liệu ở Phụ lục 7A, có thể xác định được các giá trị năm gốc

(năm 2010) để phân tích chỉ số nợ/xuất khẩu trong giai đoạn 2011 - 2020 như sau:

Xuất khẩu và chuyển giao ròng: X_CGR0 = 80.855 triệu USD

44

Nhập khẩu: M0 = 84.801 triệu USD

Nợ nước ngoài D0 = 43.812 triệu USD

d0 = D0 /X_CGR0 = 0,5419

v0 = M0/ X0 = 1,0488

Khoảng tin cậy của các chỉ số a, b trong mô hình (*) được xác định thông

qua các chỉ số gx, gm trong giai đoạn 1990 - 2010:

 0,8771 a 0,9056

 0,9643 b 1,0288

Từ tất cả các chỉ số đã được ước lượng cùng với giả thiết rằng các điều

kiện trong nền kinh tế tương lai sẽ không có nhiều biến động, dựa vào mô hình (*)

của Jaim de Pine để dự báo các chỉ số nợ trên xuất khẩu và chuyển giao ròng cho

giai đoạn 2011 - 2020.

Bảng 2.8: Chỉ số nợ trên xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020

(Năm gốc 2010: =0,5419, =1,0488)

Nguồn: Tính toán dựa vào mô hình của Jaime de Pine

Kết quả bảng 2.8 cho thấy rằng: trong giai đoạn 2011 - 2020, bất kể chỉ số a

nhận giá trị bao nhiêu trong khoảng tin cậy của mình thì chỉ số nợ trên xuất khẩu và

45

chuyển giao ròng không vượt qua mức 55% khi b nhận giá trị từ 0,9643 đến 0,9966

(tức b < 1). Khi b > 1 (b = 1.0288) thì chỉ số nợ trên xuất khẩu đã vượt ngưỡng

165% (mức độ khó khăn) nhưng điều này chỉ xảy ra vào năm 2019 trở đi và chưa

vượt quá mức nợ trầm trọng 275%.

Để thấy rõ hơn, ta cho b nhận giá trị từ 1 đến 1,0288 và dự báo thêm cho 5

năm tiếp theo. Ta có kết quả như sau:

Bảng 2.9 Chỉ số nợ trên xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2025

(Năm gốc 2010: =0,5419, =1,0488, b chạy từ 1 đến 1,0288 )

Nguồn: Tính toán dựa vào mô hình của Jaime de Pine

Dựa vào bảng trên ta thấy rằng, trong giai đoạn 2011 - 2020 chỉ số nợ trên

xuất khẩu và chuyển giao ròng chỉ vượt ngưỡng 165% khi b > 1,02 (tức tốc độ tăng

trưởng nhập khẩu lớn hơn 1,02 lần tốc độ tăng trưởng xuất khẩu và chuyển giao

ròng). Tuy nhiên, nếu xét đến năm 2025 và với b > 1,02 thì chỉ số này sẽ vượt qua

mức ngưỡng 275% vào năm 2024.

Như vậy, xét theo tiêu chí của WB, trong điều kiện kinh tế vĩ mô ổn định,

Việt Nam chỉ có nguy cơ khủng hoảng nợ khi tốc độ gia tăng nhập khẩu lớn hơn

1,02 lần tốc độ gia tăng xuất khẩu và chuyển giao ròng, và điều này chỉ có thể xảy ra

sớm nhất từ năm 2024. Do đó, nếu xét trong giai đoạn 2011-2020 Việt Nam không

có nguy cơ xảy ra khủng hoảng nợ nhưng vào những năm cuối giai đoạn này Việt

46

Nam có thể sẽ rơi vào tình trạng khó khăn về nợ nước ngoài. Nếu tốc độ tăng trưởng

nhập khẩu vẫn tiếp tục lớn hơn tốc độ tăng trưởng xuất khẩu thì Việt Nam có thể sẽ

rơi vào tình trạng nợ trầm trọng và có nguy cơ xảy ra khủng hoảng vào năm 2024.

Nhận định chung

Những phân tích trên mô hình Jaime De Pines cho thấy rằng tính ổn định

của nợ ở Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào mối tương quan giữa tăng trưởng nhập

khẩu và tăng trưởng xuất khẩu. Việt Nam sẽ luôn đảm bảo được khả năng thanh

toán trong điều kiện hiện nay nếu như duy trì được tỷ lệ tăng nhập khẩu thấp hơn tỷ

lệ tăng xuất khẩu. Khi đó, tỷ lệ nợ trên xuất khẩu sẽ có xu hướng giảm hoặc được

kiềm chế trong trung hạn.

Trong trường hợp nhập khẩu tăng ngang bằng xuất khẩu (b = 1), Việt Nam

sẽ trở nên nhạy cảm trước những thay đổi của lãi suất. Nếu lãi suất tăng đến mức xấp

xỉ tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu (a = 0,99) thì có thể dẫn đến tỷ lệ nợ trên xuất khẩu

tăng theo tỷ lệ tuyến tính và đạt mức gần gấp 2 lần giá trị hiện nay vào năm 2020.

Nhược điểm của mô hình nghiên cứu:

Do nguồn dữ liệu hạn chế nên mô hình trên chỉ sử dụng số liệu theo năm và

chỉ có 21 quan sát nhưng do dùng sai phân bậc 2 nên mô hình chỉ còn 19 quan sát,

do đó hiệu quả của việc cảnh báo là chưa cao. Đồng thời, số liệu được thu thập từ

nhiều nguồn khác nhau nên việc xuất hiện độ lệch với các nghiên cứu khác là điều

khó tránh khỏi. Do đó để đảm bảo cho mô hình hoạt động có hiệu quả thì cần thiết

phải có một trung tâm xử lý dữ liệu đáp ứng đủ yêu cầu của mô hình dự báo.

Mô hình được nghiên cứu là một mô hình định lượng, chỉ có tác dụng cảnh

báo, hy vọng sẽ giúp ích cho các nhà hoạch định chính sách vĩ mô, không nên xem

mô hình như là một công cụ tất yếu để dự báo khủng hoảng.

47

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2

Trong toàn bộ chương 2, tác giả đã khái quát chung về tình hình phát triển

kinh tế - xã hội và thực trạng nợ công Việt Nam hiện nay. Đồng thời, đánh giá hiệu

quả quản lý nợ công và dự báo khả năng xảy ra khủng hoảng ở Việt Nam trong thời

gian tới.

Theo tiêu chuẩn của HIPCs và kết quả dự báo dựa vào mô hình của Jaime

de Pines, nợ công Việt Nam hiện nay vẫn tương đối ổn định và nằm trong giới hạn

an toàn. Tuy nhiên, quy mô nợ công đang có xu hướng tăng nhanh, nợ nước ngoài

vẫn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu nợ công, trong khi đó cán cân tài khoản vãng

lai thường xuyên bị thâm hụt, hiệu quả đầu tư của các dự án sử dụng vốn vay lại

thấp và tình trạng tham nhũng, lãng phí trong đầu tư công vẫn chưa được khắc

phục. Đồng thời, thông tin về nợ công chưa được công khai minh bạch. Do vậy, nếu

Việt Nam không có chính sách hợp lý để nâng cao hiệu quả đầu tư và trong việc

quản lý nợ công thì chắc chắn nguy cơ khủng hoảng nợ công ở Việt Nam sẽ diễn ra

trong một tương lai không xa.

Từ những lý luận về thực trạng nợ công tại Việt Nam và kết quả dự báo

khủng hoảng nợ dựa vào mô hình Jaime de Pines, tác giả sẽ đưa ra một số đề xuất

được trình bày trong chương sau.

48

CHƢƠNG 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ

QUẢN LÝ NỢ CÔNG VÀ PHÒNG NGỪA KHẢ NĂNG RƠI VÀO

KHỦNG HOẢNG NỢ CHO VIỆT NAM

3.1 Phát triển và tận dụng tiềm lực trong nƣớc

Một trong những nguyên nhân gây ra các cuộc khủng hoảng nợ là do các

nước phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn từ bên ngoài. Do vậy, để giữ được tốc độ

tăng trưởng kinh tế cao và tránh rơi vào cuộc khủng hoảng nợ trong tương lai, Việt

Nam nên quan tâm đến việc phát triển và tận dụng nguồn lực trong nước để cân

bằng với nguồn lực từ bên ngoài vào. Nguồn lực trong nước bao gồm: số lượng lớn

đô la, vàng và đồng nội tệ nằm trong tay các hộ gia đình; lực lượng lao động;..

Việc phát huy nội lực trong phát triển kinh tế đóng vai trò quan trọng, bởi

vì việc huy động nguồn vốn từ nước ngoài trong việc phát triển kinh tế không hề

đơn giản, thường gắn với nhiều điều kiện cho vay đôi khi có cả những yếu tố chính

trị. Do vậy, huy động nội lực kinh tế, đồng thời thay đổi cơ cấu nợ công theo hướng

tăng tỷ lệ nợ trong nước cũng là biện pháp giảm thiểu rủi ro nợ công của Chính phủ.

Thực tế ở nước ta, nguồn vốn trong dân cư rất lớn, chúng được dự trữ chủ

yếu dưới dạng vàng và đồng đô la Mỹ. Điều quan trọng là Nhà nước cần có các

chính sách phù hợp để huy động nguồn vốn này từ dân cư. Chính phủ có thể phát

hành trái phiếu, đưa ra mức lãi suất phù hợp để nhà đầu tư có thể chấp nhận được.

Bên cạnh đó, Nhà nước phải đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, chống lạm phát, nâng

cao giá trị đồng nội tệ cũng như niềm tin của nhân dân vào đồng nội tệ. Thực tiễn

cho thấy, lạm phát tăng cao, nền kinh tế yếu kém và việc phá giá đồng tiền trong

nước đã ảnh hưởng đến lòng tin của người dân vào đồng nội tệ. Sự đô la hóa và

vàng hóa trong nền kinh tế đến nay vẫn diễn ra phổ biến và các giao dịch thông qua

đồng đô la Mỹ diễn ra cũng hết sức rộng rãi. Vì vậy, phát triển nội lực song song

với nâng cao giá trị đồng nội tệ cũng là cách để thu hút nguồn vốn trong nước cũng

như trong việc phát triển kinh tế.

49

Việc phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn lao động cũng là nhiệm vụ quan

trọng để đạt được sự tăng trưởng ổn định trong dài hạn mà không phụ thuộc vào

nguồn lực bên ngoài. Vì vậy, chúng ta nên đặc biệt quan tâm đến chất lượng giáo

dục hiện tại, hiệu quả sử dụng lao động trong các doanh nghiệp nhà nước và trong

các tổ chức hành chính.

3.2 Kiểm soát chặt chẽ chi tiêu công

Kiểm soát chặt chẽ chi tiêu công, nâng cao năng lực và hiệu quả của chi tiêu

công cũng là biện pháp giảm thiểu gánh nặng nợ công của Nhà nước. Thực tế chi tiêu

công ở Việt Nam ngày càng khó kiểm soát hơn. Sự thiếu chặt chẽ trong kiểm soát chi

tiêu công làm thất thoát NSNN và làm ảnh hưởng nặng nề đến nợ công ở Việt Nam.

Những biểu hiện của tình trạng khó kiểm soát chi tiêu công thể hiện ở những

lĩnh vực như: chi tiêu không đúng chế độ, sử dụng tài chính không đúng mục đích,

lãng phí, thất thoát, tham nhũng…Các nhóm biểu hiện chính như:

Sử dụng tài chính không đúng mục đích: Tuy Luật Ngân sách đã được ban

hành, và có Nghị định, Thông tư hướng dẫn thực hiện, tuy vậy tình trạng sử dụng tài

chính không đúng mục đích diễn ra rất phổ biến trong các cơ quan Nhà nước. Biểu

hiện rõ nhất là lĩnh vực mua sắm tài sản công. Hàng năm theo số liệu của Kiểm toán

Nhà nước thì chi tiêu không đúng mục đích vào khoảng 100 tỷ đồng. Như vậy nguồn

vốn này không những không được đầu tư tạo hiệu quả mà còn là gánh nặng phải trả

của Nhà nước.

Hiệu quả đầu tư thấp: Các dự án đầu tư của Nhà nước thường kéo dài mà

một phần nguyên nhân là các Bên muốn nâng giá công trình và điều chỉnh khối lượng

đầu tư. Ngoài ra nghiệm thu, thanh toán khối lượng công trình không đúng với thực

tế, chất lượng thấp vẫn tiến hành nghiệm thu, mỗi năm Nhà nước thất thoát khoảng

gần 1.000 tỷ đồng. Đây là con số lớn đối với nền kinh tế nhỏ và đang phát triển như

Việt Nam.

Tham nhũng: Sự cấu kết giữa chủ đầu tư, đơn vị thi công, thiết kế giám sát để

nâng khống khối lượng thanh toán, công trình chất lượng thấp, nâng giá vật tư…

50

cũng làm Ngân sách Nhà nước “chảy” ra ngoài mà không mang lại bất cứ điều gì cho

xã hội.

Việc thực hiện thanh toán chi tiêu công chủ yếu do các cơ quan Nhà nước

các cấp thực hiện, một phần (chủ yếu từ nguồn vốn ODA) được thanh toán qua Kho

bạc Nhà nước và Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB). Như vậy, chi tiêu công của

Chính phủ một phần nhỏ được thanh toán Kho bạc Nhà nước và VDB là được kiểm

soát chi trước khi thanh toán. Phần còn lại được kiểm soát sau do Kiểm toán Nhà

nước và Thanh tra Chính phủ tiến hành. Do kiểm soát sau nên thất thoát vốn NSNN

là điều khó tránh khỏi, đơn giản là vì sự việc đã xảy ra rồi nên việc khắc phục sẽ

không được như ban đầu nữa.

Biện pháp khắc phục tình trạng này chủ yếu là Nhà nước nên ban hành rõ

ràng danh mục mua sắm, đầu tư mà các cơ quan Nhà nước được phép chi tiêu hàng

năm. Bên cạnh đó, tăng cường hoạt động thanh tra giám sát, đặc biệt việc thanh toán

phải được thông qua các Bên thứ 3 là cơ quan của Nhà nước có chuyên môn để tiến

hành kiểm soát chi trước khi thanh toán như: Kho bạc Nhà nước, Ngân hàng Phát

triển, Ngân hàng chính sách xã hội…Thực hiện được việc đó sẽ giảm thiểu chi tiêu

công, và giảm thiểu rủi ro khủng hoảng nợ công.

3.3 Gia tăng nguồn thu trong nƣớc trên cơ sở hợp lý, tránh thất thu

Gia tăng các nguồn thu trong nước: Nền kinh tế phát triển sẽ gia tăng thu

cho Ngân sách Nhà nước thông qua các khoản thuế. Vì vậy, Nhà nước cần khuyến

khích và tạo điều kiện hơn nữa để thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển, tạo sân

chơi bình đẳng cho các thành phần kinh tế. Đặc biệt khuyến khích phát triển đối với

các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tăng sức cạnh tranh của của nền kinh tế. Bên cạnh đó

Nhà nước có thể gia tăng nguồn thu bằng cách áp dụng các khoản thuế hợp lý trong

xã hội như thuế thu nhập cá nhân, thuế giao dịch bất động sản… Biện pháp đánh thuế

này không những gia tăng nguồn thu cho NSNN mà còn giảm thiểu chênh lệch giàu

nghèo trong xã hội. Tuy nhiên mức thuế và loại thuế đưa ra cần phải hợp lý để gia

tăng nguồn thu cho Nhà nước nhưng không làm triệt tiêu động lực phát triển của lĩnh

vực chịu tác động của thuế.

51

Chống thất thu cũng là biện pháp quan trọng trong để gia tăng nguồn thu

NSNN. Hiện tượng nổi bật gây thất thu NSNN hiện nay là gian lận thương mại, buôn

lậu, trốn thuế và hiện tượng chuyển giá trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài. Vì vậy Nhà nước nên có các chính sách phù hợp đối với từng loại hình để tăng

nguồn thu cho NSNN:

+ Trường hợp gian lận thương mại: Nhà nước cần chi tiết mức thuế và công

khai hóa các mặt hàng được phép nhập khẩu, không để doanh nghiệp lợi dụng kẽ hở

pháp luật để thực hiện hành vi gian lận thương mại.

+ Hành vi buôn lậu và trốn thuế: Nhà nước nên tăng cường kiểm tra, kiểm

soát tại các khu vực biên giới, cửa khẩu. Tăng cường năng lực và trách nhiệm của

Quản lý thị trường để chống hành vi buôn lậu. Buôn lậu có tác động tiêu cực tới

nhiều mặt của nền kinh tế. Thất thu NSNN chỉ là một phần tác động của nó, ngoài ra

nó có thể bóp chết nền sản xuất trong nước. Đối với hành vi trốn thuế của các doanh

nghiệp, Nhà nước cần tăng cường hơn nữa trách nhiệm, năng lực, phẩm chất đạo đức

của cán bộ ngành thuế. Có như vậy việc phát hiện sớm và kịp thời dẫn đến việc truy

thu thuế có hiệu quả hơn cho NSNN.

+ Hành vi chuyển giá của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: có

thể nói đây là hiện tượng phổ biến trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Để thực hiện hành vi trốn thuế thu nhập doanh nghiệp, các công ty thường nhập khẩu

đầu vào quá trình sản xuất từ công ty mẹ ở nước ngoài với giá “bất thường” để triệt

tiêu lợi nhuận. Doanh nghiệp luôn luôn lỗ để tránh nộp thuế, thậm chí để được hưởng

một số ưu đãi khác của Nhà nước. Tuy lỗ nhưng các doanh nghiệp vẫn hoạt động

bình thường, một số doanh nghiệp còn mở rộng quy mô sản xuất. Đối với loại hình

gian lận này, Nhà nước cần áp dụng một mức giá cụ thể trên thị trường để tính chi phí

cho doanh nghiệp, vì không có lý do gì khi giá thị trường thấp, doanh nghiệp lại phải

mua giá cao hơn để tiến hành sản xuất.

52

3.4 Cân đối cán cân tài khoản vãng lai

Cán cân tài khoản vãng lai có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế,

giúp nền kinh tế có khả năng chống đỡ được với những cú sốc từ bên trong và bên

ngoài. Trong một số nước hiện nay, cuộc khủng hoảng nợ công không bắt nguồn từ

nợ công của Chính phủ cao mà bắt nguồn từ khả năng thanh khoản của các khoản

nợ nước ngoài của Chính phủ. Việc vay nợ nước ngoài bằng ngoại tệ nên việc trả nợ

cũng phải bằng đồng tiền vay nợ đó. Vì vậy, việc vay nợ trong nước giảm thiểu rủi

ro hơn so với vay nợ nước ngoài. Tuy nhiên, với một nền kinh tế kém phát triển, nội

lực còn yếu thì việc vay nợ nước ngoài để phát triển kinh tế là một điều tất yếu.

Đối với một số khoản vay để phục vụ xuất khẩu thì nguồn thu ngoại tệ cũng

là một trong những yếu tố để thẩm định xem xét cho vay, như vậy nguồn ngoại tệ từ

xuất khẩu của dự án đảm bảo trả khoản nợ nước ngoài mà nó vay. Trường hợp đối

với các dự án an sinh xã hội như chiếu sáng, điện, nước sạch,… phục vụ dân sinh

thì nguồn thu ngoại tệ không có để tiến hành trả nợ. Do vậy, nguồn thu từ xuất khẩu

sẽ giúp các dự án này trả nợ, hay đối phó với khủng hoảng nợ công tốt hơn.

Tuy nhiên, cán cân tài khoản vãng lai của Việt Nam luôn trong tình trạng

thâm hụt và có chiều hướng gia tăng trong thời gian gần đây. Nguyên nhân chủ yếu

là do hiện tượng nhập siêu tăng, giá nhập khẩu cao dẫn đến cán cân thương mại liên

tục thâm hụt qua các năm (xem bảng 2.4). Do đó, Chính phủ cần đẩy mạnh hơn nữa

hoạt động xuất khẩu (gia tăng cả về số lượng và chất lượng xuất khẩu), đồng thời

hạn chế nhập khẩu:

(i) Tăng hàm lượng công nghệ cao trong sản xuất để xuất khẩu được nhiều

sản phẩm tinh và ít sản phẩm thô hơn giúp gia tăng hàm lượng giá trị gia tăng trong

xuất khẩu;

(ii) Đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xúc tiến thương mại, nâng cao nhận biết

và thực hành về vấn đề thương hiệu cho các sản phẩm của Việt Nam trên thị

trường thế giới;

53

(iii) Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và nhiều

nhân công sản xuất những sản phẩm thay thế nhập khẩu và sản xuất những mặt

hàng xuất khẩu;

(iv) Giảm nhập khẩu nguyên phụ liệu cho sản xuất hàng xuất khẩu thông

qua việc đầu tư phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ;

(v) Nhà nước cần quản lý danh mục mặt hàng nhập khẩu chặt chẽ, quy định

rõ ràng những mặt hàng không được nhập khẩu hoặc hạn chế nhập khẩu, đặc biệt là

những mặt hàng xa xỉ như rượu, ôtô,… Song song với việc tuyên truyền người Việt

dùng hàng Việt là nâng cao sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước.

3.5 Sử dụng nguồn vốn nƣớc ngoài an toàn và hiệu quả

Không có ai có thể phủ nhận vai trò của nguồn vốn vay nước ngoài đến

phát triển của nền kinh tế, đặc biệt đối với một nền kinh tế kém phát triển như Việt

Nam, nơi mà nguồn nội lực còn yếu và khó có thể huy động bởi vì nhiều lý do khác

nhau. Chúng ta thấy rằng việc sử dụng không hiệu quả nợ nước ngoài là một trong

những yếu tố quyết định của khủng hoảng nợ, vì thế khi xây dựng một chiến lược

sử dụng nợ nước ngoài, cần quan tâm một số vấn đề sau:

+ Những dự án đầu tư sử dụng nợ nước ngoài phải được thẩm định hiệu quả

dự án một cách kỹ lưỡng, rõ ràng, đảm bảo hiệu quả đạt được là tối ưu, đặc biệt đối

với một số dự án phải cân nhắc nguồn thu ngoại tệ từ dự án để trả nợ.

+ Nợ nước ngoài ngắn hạn không được phép tài trợ cho những dự án dài

hạn mà có tốc độ hoàn vốn thấp. Nền kinh tế sẽ dễ đối mặt với khủng hoảng tính

thanh khoản khi các cú sốc trong và ngoài nước xuất hiện nếu nợ ngắn hạn sử dụng

cho những dự án đầu tư dài hạn mặc dù những dự án này có tốc độ hoàn vốn cao.

Việc vay nợ nước ngoài phải theo kế hoạch tổng hạn mức. Vay và trả nợ

nước ngoài hàng năm phải được Quốc hội phê duyệt trên cơ sở vay nợ phải căn cứ

vào nhu cầu đầu tư, khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế và khả năng hoàn trả nợ.

Ngoài việc thực hiện vay theo kế hoạch và cam kết, trong quá trình điều hành,

Chính phủ cần chú trọng hơn nữa công tác giải ngân, nâng cao chất lượng, hiệu quả

54

sử dụng vốn vay ODA. Kiên quyết chống tình trạng tham nhũng, khắc phục lãng

phí, thất thoát trong đầu tư xây dựng.

Để đảm bảo hiệu quả trong việc sử dụng vốn vay, cần phải thường xuyên

kiểm tra, giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng các khoản nợ vay, các khoản nợ được

Chính phủ bảo lãnh, nhất là tại các đơn vị trực tiếp sử dụng vốn vay như: tập đoàn

kinh tế, tổng công ty nhà nước, ngân hàng thương mại, các dự án đầu tư cơ sở hạ

tầng,… Đồng thời, nâng cao chất lượng công tác quản lý rủi ro đối với danh mục

nợ, bao gồm rủi ro về đồng tiền vay, lãi suất, tỷ giá, khả năng thanh toán, tín dụng

và rủi ro hoạt động để hạn chế tới mức thấp nhất chi phí vay và đảm bảo an ninh tài

chính quốc gia.

3.6 Tăng cƣờng quản lý và giám sát hệ thống ngân hàng

Từ khi cải cách hệ thống ngân hàng theo mô hình hai cấp (gồm Ngân hàng

Trung Ương và các Ngân hàng thương mại (NHTM)), các ngân hàng Việt Nam đã

cải thiện rõ rệt cả về quy mô, phương thức hoạt động cũng như về tình hình “sức

khỏe”. Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng Việt Nam còn nhiều bất cập. Xét về tỷ lệ nợ

xấu, các nghĩa vụ nợ và khả năng thanh khoản, không phải tất cả các ngân hàng đều

đảm bảo tiêu chuẩn an toàn.

Tại Hội nghị giữa kỳ Nhóm tư vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam đầu tháng

6/2011, Phó Thống đốc Nguyễn Văn Bình (hiện là Thống đốc Ngân hàng Nhà

nước) cho biết tỉ lệ nợ xấu các ngân hàng từ 2% lên 3%, trong trường hợp xấu nhất

thì cũng chỉ dưới 5% cả năm nay và vẫn là mức an toàn và kiểm soát được. Tuy

nhiên, theo công bố của tổ chức tín nhiệm Fitch Ratings, tỉ lệ nợ xấu của các ngân

hàng Việt Nam lên tới 13% tổng dư nợ, theo chuẩn mực quốc tế (nếu phần nợ đến

hạn không trả được thì toàn bộ khoản nợ phải được xếp vào nợ xấu). Các ngân hàng

Việt Nam hiện có xếp hạng thấp nhất khu vực.

Ngân hàng Nhà nước yêu cầu các NHTM phải hạn chế tăng trưởng tín dụng

không quá cao, nhưng trên thực tế trong 10 năm trở lại đây tốc độ tăng trưởng tín

dụng luôn ở mức hơn 20%/năm (chỉ có năm 2006 đạt 19,2%). Đáng chú ý là năm

55

2007, tăng trưởng tín dụng lên đến 51,39%, 2009 là 37,7% và 2010 tuy có giảm

song vẫn cao, ở mức 29,8%. Chính sách cho vay lỏng lẻo những năm trước đã để lại

nhiều hệ lụy, trong đó là vấn đề nợ xấu.

Trước những vấn đề của hệ thống ngân hàng quốc tế, hệ thống ngân hàng

Việt Nam cần chủ động rà soát lại theo hướng lành mạnh hóa tài chính, tái cấu

trúc lại hệ thống ngân hàng để hình thành những tập đoàn ngân hàng lớn mạnh

hơn, được quản lý và giám sát chặt chẽ hơn thay vì hàng trăm ngân hàng nhỏ lẻ

như hiện nay.

Ngân hàng Nhà nước cần kiểm soát chặt chẽ hơn sự lành mạnh của các tổ

chức tín dụng, khống chế chặt mức tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống xuống

dưới mức 20%. Kiềm chế sự phát triển thái quá của các ngân hàng thương mại cổ

phần, bao gồm việc huy động tiền gởi, tăng lượng cho vay, cơ cấu cho vay, chất

lượng tín dụng,... Thắt chặt tiêu chuẩn thành lập ngân hàng, hạn chế tình trạng nở rộ

ngân hàng mà hoạt động không hiệu quả, chạy đua lãi suất làm tác động xấu đến tài

chính tổng thể. Xử lý mạnh tay các hoạt động đầu tư chéo, đầu tư mở rộng, hạ thấp

các chuẩn mực an toàn tín dụng,.. nhằm nhận diện và kiểm soát sớm, tránh gây ra

những đổ vỡ hàng loạt cho toàn hệ thống. Kiên quyết thực hiện nghiêm lộ trình tăng

vốn điều lệ các ngân hàng thương mại, loại bỏ những ngân hàng yếu kém, tạo động

lực cho các định chế tài chính đầu tư phát triển, nâng cao dịch vụ và khả năng cung

cấp các sản phẩm tài chính.

3.7 Nâng cao hiệu quả hoạt động các DNNN, hạn chế thực hiện bảo

lãnh hay vay hộ cho các DNNN

Ở đây cần phải nhấn mạnh rằng, DNNN có vai trò rất quan trọng đối với

nền kinh tế quốc dân. Với vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, DNNN có đóng góp

quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Tuy có đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế đất nước nhưng hiệu quả hoạt động

vốn của các DNNN, các Tập đoàn kinh tế Nhà nước vẫn còn thấp, thậm chí là yếu

kém trong một số ngành lĩnh vực. Điển hình rõ nhất gần đây là sự sụp đổ gần như

phá sản của Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam-Vinashin. Sự yếu kém của

56

các DNNN thể hiện trong nhiều lĩnh vực như: đầu tư dàn trải, hiệu quả đầu tư thấp,

thời gian đầu tư kéo dài,… Do đó, cần tăng cường hiệu quả họat động của các

DNNN, các Tập đoàn Nhà nước, các Tổng Công ty lớn.

Cuộc khủng hoảng nợ công tại Ireland cho thấy một vấn đề khác. Để tránh

sự sụp đổ của hệ thống tài chính do sự sụp đổ của thị trường nhà đất gây nên, Chính

phủ Ireland đã phải ra tay can thiệp, dẫn đến mất khả năng thanh toán và phải cầu

viện tới các định chế tài chính thế giới.

Do vậy việc tăng cường giám sát và nâng cao hiệu quả hoạt động của các

DNNN là vấn đề then chốt trong chiến lược phát triển kinh tế nói chung và phòng

tránh nguy cơ khủng hoảng nợ công nói riêng. Để làm tốt được điều này cần phải

tập trung vào các vấn đề sau:

- Thực hiện cổ phần hóa DNNN: muốn DNNN phát triển và hoạt động có

hiệu quả thì không có cách nào khác là phải tiến hành cổ phần hóa. Nhà nước sẽ giữ

cổ phần chi phối đối với những doanh nghiệp thuộc các ngành quan trọng, ngành

xương sống của nền kinh tế.

- Chính phủ nên hạn chế việc bảo lãnh tín dụng, cho vay lại từ nguồn vay

của ngân sách đối với các dự án đầu tư kinh doanh, đồng thời buộc doanh nghiệp tự

huy động vốn bằng chính năng lực của mình. Các ngân hàng sẽ phải thẩm định kỹ

hơn và các doanh nghiệp chịu trách nhiệm lớn hơn đối với hiệu quả dự án. Tổng thể

nền kinh tế sẽ đạt hiệu quả cao hơn.

- Tăng cường giám sát, kiểm tra để các DNNN thực hiện đầu tư có hiệu

quả, tránh đầu tư dàn trải, đầu tư vào những dự án kém hiệu quả. Việc huy động vốn

nước ngoài của các DNNN, các Tổng Công ty lớn phải được xem xét, thẩm định,

giám sát một cách kỹ lưỡng. Thực tế việc buông lỏng quản lý tại Vinashine là một

ví dụ điển hình.

3.8 Công khai minh bạch thông tin về nợ công

Công khai, minh bạch là một nguyên tắc căn bản hàng đầu và phổ biến trên

thế giới trong quản trị công, đặc biệt là trong quản lý nợ công. Theo hướng dẫn

57

quản lý nợ công của IMF (2003) và Cẩm nang minh bạch tài khóa (2007), tất cả các

khoản vay phải được ghi có tại một tài khoản dưới sự kiểm tra của Bộ Tài chính, và

nghĩa vụ nợ và các điều khoản vay nợ phải được công bố đầy đủ cho công chúng.

Minh bạch tài khóa đòi hỏi cơ quan lập pháp phải xác định rõ các yêu cầu trong báo

cáo hàng năm về dư nợ và dòng chu chuyển nợ, kể cả số liệu về bảo lãnh nợ của

Chính phủ trình cơ quan lập pháp và công khai cho công chúng.

Theo Luật quản lý nợ công và Nghị định số 79/2010/NĐ-CP, Bộ Tài chính

có trách nhiệm công khai, cung cấp thông tin về tình hình vay, trả nợ trong nước và

nước ngoài của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh; vay, trả nợ nước ngoài của

quốc gia, nợ của chính quyền địa phương theo quy định thông qua hình thức phát

hành Bản tin về nợ công. Tuy nhiên, hiện nay Bộ Tài chính chỉ mới công khai thông

tin về nợ nước ngoài trên website dưới hình thức Bản tin nợ nước ngoài, mà chưa

công bố thông tin đầy đủ về toàn bộ nợ công. Việc số liệu không được công bố công

khai dễ khiến mọi người có đánh giá và nhận định sai lầm, làm sụt giảm niềm tin

của nhà đầu tư, vì thế làm tăng chi phí và hạn chế khả năng tiếp cận thị trường, tiếp

cận đầu tư.

Do đó, Chính phủ cần công khai về tổng dư nợ, cơ cấu nợ vay trong nước,

ngoài nước; nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương; số liệu vốn

vay thực nhận, các chỉ tiêu giám sát nợ,… Việc công khai, minh bạch nhằm tăng

cường trách nhiệm trong quản lý, sử dụng các khoản nợ công và trách nhiệm giải

trình của các cơ quan quản lý nợ công. Ngoài ra, cần đảm bảo rằng thông tin về nợ

công phải bao quát cả quá khứ, hiện tại và dự tính cho tương lai. Điều này là hết sức

cần thiết vì thông tin công khai về nợ còn nhằm tăng cường khả năng can thiệp và

phòng ngừa các tình huống xấu có thể xảy ra.

Để đảm bảo thông tin về nợ được chính xác, các hoạt động quản lý nợ cần

phải được bộ phận kiểm toán bên ngoài kiểm toán hàng năm. Trên cơ sở đó, tính

trách nhiệm trong quản lý nợ có thể được củng cố bằng việc tuyên bố công khai kết

quả kiểm toán của hoạt động quản lý nợ. Đồng thời, phải có cơ quan kiểm toán

quốc gia để cung cấp báo cáo định kỳ về tình hình quản lý vay, trả nợ của quốc gia

58

nói chung và Chính phủ nói riêng. Ngoài ra, nên kiểm toán thường xuyên hoạt

động, hệ thống và thủ tục kiểm soát quản lý nợ.

3.9 Đề xuất mô hình bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ

Doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) có vai trò ngày càng quan trọng trong việc

tạo công ăn việc làm và phát triển kinh tế đất nước. Tuy vậy, các doanh nghiệp này

thường khó tiếp cận được với các nguồn vốn tín dụng từ NHTM. Vì thế, một số Quỹ

bảo lãnh tại các địa phương đã ra đời. Hiện tại, ở Việt Nam đã có 06 Quỹ bảo lãnh

được thành lập ở Trà Vinh, Yên Bái, Đồng Tháp, Hà Nội, TP.HCM và Vĩnh Phúc.

Năm 2008, khủng hoảng kinh tế toàn cầu nổ ra, các doanh nghiệp Việt Nam

bắt đầu chịu tác động trực tiếp từ cuộc khủng hoảng này. Thị trường thu hẹp, doanh

số xuất khẩu giảm, các doanh nghiệp đứng trước rất nhiều khó khăn. Để giúp doanh

nghiệp tiếp cận với nguồn vốn dễ dàng hơn để phục vụ sản xuất, Chính phủ đã ban

hành Quyết định số 14/2009/QĐ-TTg ngày 21/01/2009 về quy chế bảo lãnh cho

doanh nghiệp vay vốn tại NHTM (sau này được thay thế bằng Quyết định số

03/2011/QĐ-TTg), và giao cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VDB) thực hiện.

Đây là chương trình bảo lãnh tín dụng lớn và quy mô nhất ở Việt Nam từ trước đến

nay. Chương trình bảo lãnh này được triển khai khắp Việt Nam, tại toàn bộ các chi

nhánh của hệ thống VDB. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ (trừ các doanh nghiệp hoạt

động trong lĩnh vực nhà hàng, bất động sản, tư vấn, dịch vụ, chứng khoán, vay để

thanh toán nợ,…) đều có cơ hội tiếp cận nguồn vốn NHTM.

Quyết định ban hành quy chế bảo lãnh tín dụng của Chính phủ ra đời đã

tháo gỡ phần nào khó khăn của các doanh nghiệp trong việc tiếp cận các nguồn vốn

của NHTM, giúp doanh nghiệp đứng vững và phát triển trong thời kỳ suy giảm kinh

tế toàn cầu. Tuy nhiên, những hạn chế, yếu kém đã bộc lộ ra trong quá trình thực

hiện quyết định trên nói riêng và trong hệ thống bảo lãnh tín dụng ở Việt Nam nói

chung:

- Tài sản thế chấp là điều kiện bắt buộc. Theo quy chế bảo lãnh hiện hành,

điều kiện để SME được bảo lãnh là cần phải có tài sản thế chấp. Ở đây, các doanh

59

nghiệp khó khăn không có tài sản thế chấp mới nhờ đến bảo lãnh tín dụng. Trường

hợp ngược lại họ có thể vay trực tiếp từ NHTM. Theo kinh nghiệm các nước trên

thế giới, các Quỹ bảo lãnh sẽ đánh giá xếp hạng doanh nghiệp, từ đó đưa ra tỷ lệ

bảo lãnh cũng như mức phí bảo lãnh. Việc đánh giá bảo lãnh dựa vào tài sản thế

chấp không những đã không giúp được doanh nghiệp khó khăn mà vô tình đã cào

bằng giữa các doanh nghiệp với nhau.

- Về nguồn vốn thực hiện: hiện tại chỉ có nguồn vốn của Chính phủ và

chính quyền địa phương cung cấp. Kinh nghiệm một số nước như Hàn Quốc cho

thấy, họ quy định một tỷ lệ bắt buộc đối với các tổ chức tài chính phải đóng vào

Quỹ bảo lãnh nhằm nâng cao hoạt động lĩnh vực bảo lãnh, và cũng là hình thức chia

sẻ rủi ro.

- Về cơ chế: hiện tại cơ chế hoạt động chưa rõ ràng và thay đổi liên tục, ảnh

hưởng rất lớn đến hoạt động bảo lãnh. Kinh nghiệm từ một số nước như Nhật Bản

và Hàn Quốc, họ có đạo luật riêng trong hoạt động bảo lãnh, quy định cụ thể chức

năng nhiệm vụ của các bên trong quá trình thực hiện bảo lãnh.

- Bảo hiểm bảo lãnh: bảo hiểm bảo lãnh là một công cụ nhằm chia sẻ rủi ro,

đặc biệt trong lĩnh vực phải đối mặt với rủi ro như bảo lãnh. Hiện tại Việt Nam chưa

thực hiện trong lĩnh vực này.

- Thủ tục bảo lãnh rườm rà và phức tạp: thời gian xem xét thẩm định lâu, ở

đây tổ chức bảo lãnh có thể phát hành chứng thư thay vì ra thông báo bảo lãnh rồi

phải ký một loạt hợp đồng nữa rồi mới phát hành chứng thư. Thời gian bảo lãnh kéo

dài làm doanh nghiệp tăng chi phí và mất đi cơ hội đầu tư.

- Tại các Quỹ bảo lãnh do địa phương thành lập, hầu hết các cán bộ là kiêm

nhiệm. Vì vậy, ngoài hạn chế về thời gian làm việc, các Quỹ bảo lãnh còn gặp phải

hạn chế về trình độ chuyên môn trong lĩnh vực tài chính tín dụng.

60

(1)

Chính phủ

(12)

(1)

Bộ Tài chính

(11)

(2)

Sơ đồ 3.1: Mô hình bảo lãnh tín dụng hiện nay

VDB

(8)

(10)

(3)

(4)

(9)

(6)

NHTM

(5)

SME

(7)

(Quỹ bảo lãnh)

Nguồn: Dựa theo Quyết định 03/2011/QĐ-TTg

Quy trình thực hiện bảo lãnh

(1) Chính phủ ra quyết định ban hành qui chế bảo lãnh và cung cấp vốn hoạt

động bảo lãnh

(2) Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện

(3) SME gởi hồ sơ xin bảo lãnh (Đơn xin bảo lãnh, Hồ sơ doanh nghiệp, Hồ sơ

tài chính và Phương án sản xuất kinh doanh/Dự án đầu tư)

(4) Quỹ bảo lãnh đánh giá và ra thông báo bảo lãnh

(5) SME gởi thông báo bảo lãnh cho NHTM, và 2 bên ký Hợp đồng (HĐ) tín dụng

(6) SME gởi HĐ tín dụng đã ký với NHTM đến Quỹ bảo lãnh, đồng thời 2 bên

ký HĐ bảo lãnh và HĐ thế chấp tài sản. Sau đó, Quỹ bảo lãnh phát hành chứng

thư bảo lãnh

(7) SME mang chứng thư bảo lãnh đến NHTM đã ký HĐ tín dụng để NHTM

thực hiện giải ngân

61

Quy trình thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh

(8) NHTM gởi thông báo về việc SME không trả được nợ và yêu cầu Quỹ bảo

lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh

(9) SME gởi Quỹ bảo lãnh đơn đề nghị thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, đồng thời

Quỹ bảo lãnh tiến hành thẩm định theo qui định. Sau đó, hai bên ký HĐ nhận

nợ bắt buộc

(10) Quỹ bảo lãnh thực hiện trả nợ cho NHTM

(11) Trường hợp SME thuộc đối tượng xử lý rủi ro, Quỹ bảo lãnh gởi Hồ sơ cho

Bộ Tài chính xem xét

(12) Sau khi xem xét, Bộ Tài chính trình Chính phủ quyết định xóa nợ

Để nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, góp

phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, bài viết xin đề xuất mô hình bảo lãnh tín dụng ở

Việt Nam như sau:

Chính phủ

Bộ Tài chính

Giám sát

Cấp vốn

Sơ đồ 3.2: Đề xuất mô hình bảo lãnh tín dụng

Ký HĐ Bảo hiểm

Công ty Bảo hiểm

Quỹ bảo lãnh

Góp vốn

HĐ và chứng thư bảo lãnh

Thông báo và thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh

Cho vay

Giám sát và xử lý nợ

SME

Trả nợ

NHTM

62

Theo đó, Quốc hội cần ban hành một đạo luật về bảo lãnh tín dụng. Vai trò

của Chính phủ chỉ là bên cung cấp vốn hoạt động cho Quỹ bảo lãnh tín dụng. Bộ

Tài chính sẽ là cơ quan Nhà nước giám sát hoạt động bảo lãnh tín dụng, xử lý rủi ro

của các Quỹ bảo lãnh cũng như giám sát hoạt động Bảo hiểm cho bảo lãnh tín dụng.

Quỹ bảo lãnh tín dụng sẽ là bên thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh tín dụng cho

các doanh nghiệp vay vốn. Nhiệm vụ của Quỹ là giúp đỡ các SME có phương án sản

xuất kinh doanh/dự án đầu tư tốt tiếp cận với nguồn vốn tín dụng của các NHTM.

Nhà nước cần đầu tư, hoặc chọn các tổ chức tài chính đủ mạnh về trình độ

chuyên môn để thực hiện việc đánh giá và xếp hạng tín dụng doanh nghiệp. Và sử

dụng công cụ này để quyết định về tỷ lệ cũng như mức phí bảo lãnh. Hiện nay, tại

các nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, các Quỹ bảo lãnh đều sử dụng

quy trình đánh giá xếp hạng tín dụng để ra quyết định bảo lãnh. Có như vậy mới có

thể đánh giá tốt tình hình doanh nghiệp trước khi ra quyết định bảo lãnh.

Các Quỹ bảo lãnh tín dụng khi thực hiện bảo lãnh cần phải mua bảo hiểm

để giảm thiểu rủi ro trong trường hợp phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Thực hiện

mua bảo hiểm bảo lãnh tín dụng cũng là hình thức chia sẻ rủi ro và hạn chế tủi ro.

Về thủ tục bảo lãnh nên đơn giản hóa. Thay vì ra thông báo bảo lãnh rồi căn

cứ thực vào hợp đồng tín dụng để phát hành chứng thư bảo lãnh thì sau khi xét

duyệt về tỷ lệ, phí và các điều kiện bảo lãnh, Quỹ bảo lãnh phát hành chứng thư để

doanh nghiệp có thể mang trực tiếp đến NHTM để vay vốn.

NHTM cần đóng góp một tỷ lệ nhất định vào nguồn vốn hoạt động của Quỹ

bảo lãnh. Đây cũng là hình thức chia sẻ rủi ro với Quỹ. Điển hình, theo Luật bảo

lãnh tín dụng hiện hành của Hàn Quốc, các NHTM phải đóng góp vào quỹ hoạt

động khoảng 0,225% các khoản vay được chỉ định. Bên cạnh đó, Quỹ sẽ kêu gọi sự

đóng góp nguồn vốn từ các tổ chức, nhà tài trợ khác. Việc huy động nguồn vốn từ

các tổ chức sẽ thuận lợi hơn khi Quỹ hoạt động có hiệu quả tốt. Nhưng nguồn vốn

hoạt động cơ bản của Quỹ vẫn từ NSNN, NHTM và lợi nhuận mang lại từ hoạt

động của Quỹ.

63

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3

Từ những bài học kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu và

thực trạng nợ công ở Việt Nam, trong chương 3 tác giả đã đưa ra một số đề xuất

nhằm góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nợ công, phòng ngừa khả năng rơi vào

khủng hoảng nợ công cho Việt Nam: Kiểm soát chặt chẽ chi tiêu ngân sách; hạn chế

thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai; sử dụng hiệu quả nguồn vốn vay nước ngoài;

đồng thời phát triển và tận dụng tiềm lực trong nước để giảm dần tỷ lệ nợ nước

ngoài trong cơ cấu nợ. Quản lý nợ của Việt Nam cũng cần hướng đến thiết lập hệ

thống thu thập và cung cấp thông tin minh bạch và đáng tin cậy. Và cuối cùng

nhưng không kém phần quan trọng, đó là tăng cường quản lý và giám sát hệ thống

ngân hàng; nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN, hạn chế thực hiện bảo lãnh

cho các DNNN.

Đồng thời, tác giả cũng đề xuất mô hình bảo lãnh tín dụng cho Việt Nam

dựa trên kinh nghiệm của các nước trên thế giới, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả

hoạt động bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.

.

64

KẾT LUẬN

Nợ công đang trở thành một vấn đề không chỉ đối với các nước Châu Âu mà

còn đe dọa sự ổn định kinh tế đối với nhiều nước trên thế giới. Khi khủng hoảng nợ

công xảy ra không những sẽ ảnh hưởng đến sự ổn định kinh tế mà còn đẩy các quốc

gia đến những biến động chính trị - xã hội hết sức phức tạp.

Qua bài nghiên cứu có thể thấy rằng nợ công của Việt Nam có xu hướng tăng

nhanh và đang trong giai đoạn báo động. Nguyên nhân chủ yếu trong vấn đề nợ

công ở Việt Nam là do Nhà nước đầu tư tràn lan, hiệu quả đầu tư công thấp, thâm

hụt ngân sách trong thời gian dài, thiếu một cơ chế quản lý hiệu quả cũng như chưa

minh bạch trong công bố thông tin. Chính sự không minh bạch về thông tin nên số

liệu nợ công được công bố giữa các tổ chức quốc tế và Việt Nam có sự khác biệt

lớn. Theo số liệu của các tổ chức quốc tế, nợ công Việt Nam đã ở mức đáng báo

động chứ không lạc quan như các cơ quan chức năng của Việt Nam đã nhận định.

Các nước Châu Âu đã rơi vào vòng xoáy của khủng hoảng nợ công thì Việt

Nam cũng sẽ khó tránh khỏi khả năng rơi vào khủng hoảng nợ công nếu không có

sự nhìn nhận và đánh giá đúng quy mô, bản chất của nợ công và có hướng xử lý kịp

thời. Qua nghiên cứu thực trạng nợ công ở Việt Nam, đề tài đã đề xuất một số giải

pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nợ công và phòng tránh một cuộc

khủng hoảng nợ công có thể xảy ra ở Việt Nam. Vấn đề quan trọng nhất là xây

dựng một hệ thống tài chính vững mạnh, đi kèm phát triển kinh tế bền vững, sẽ là

tiền đề để Việt Nam không rơi vào vòng xoáy của cuộc khủng hoảng nợ công.

Tuy vậy, đề tài nghiên cứu còn nhiều hạn chế, chỉ dừng lại ở việc đánh giá

tổng thể về thực trạng nợ công Việt Nam và dự báo khả năng xảy ra khủng hoảng

nợ dựa vào mô hình của Jaime de Pines. Đề tài chưa đi sâu vào phân tích cụ thể bản

chất nợ công và các vấn đề như: Tại sao đầu tư công lại diễn ra tràn lan?; hiệu quả

đầu tư công thấp?; rủi ro và chi phí trong cấu trúc nợ công ra sao?; kiểm soát chặt

chẽ nợ công như thế nào?; … Các giải pháp đề xuất cũng chỉ mang tính chất định

65

hướng, mô hình dự báo khủng hoảng nợ được sử dụng chưa phải là mô hình tối ưu,

đồng thời do hạn chế về nguồn dữ liệu nên kết quả dự báo của mô hình chưa cao.

Trong tương lai, nếu có điều kiện, tác giả sẽ nghiên cứu sâu hơn các nội dung gắn

liền với nợ công như: Hiệu quả đầu tư công ở Việt Nam; Đo lường rủi ro nợ công

của Việt Nam; Thiết lập mô hình kiểm soát nợ công và quản lý rủi ro nợ công; Xây

dựng mô hình dự báo khủng hoảng nợ công; …

66

TÀI LIỆU THAM KHẢO

TIẾNG VIỆT

1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2008), “Bối cảnh trong nước, quốc tế và việc nghiên

cứu xây dựng chiến lược 2011 – 2020”, NXB Hà Nội.

2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2011), “Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011–2020”

3. Bộ Tài chính - Ủy ban Kinh tế và Ngân sách của Quốc hội, Báo cáo quyết toán

Ngân sách nhà nước các năm.

4. Bộ Tài chính, Bản tin nợ nước ngoài (từ số 1 -> 7)

5. Daniel Cohen và Richard Portes, “Khủng hoảng nợ: phòng ngừa và giải pháp”,

Hội đồng phân tích kinh tế, 2005.

6. GS. TS Dương Thị Bình Minh (2007), “Quản lý nợ công của Việt Nam’, Trường

Đại học Kinh tế TP.HCM.

7. GS. TS. Dương Thị Bình Minh và PGS. TS. Sử Đình Thành (2009), “Phương

pháp tiếp cận đánh giá hiệu quả quản lý nợ công”, Tạp chí phát triển kinh tế số

tháng 9/2009.

8. GS.TS Trần Ngọc Thơ, PGS.TS Nguyễn Ngọc Định (2008), “Tài chính quốc tế

”, NXB Thống kê, tr. 448-451.

9. Hạ Thị Thiều Dao (2006), “Nâng cao hiệu quả quản lý nợ nước ngoài trong quá

trình phát triển kinh tế tại Việt Nam”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường ĐH Quốc

gia TP.HCM.

10. Luật Ngân sách Nhà nước số 01/2002/QH11 ngày 16/12/2002.

11. Luật quản lý nợ công số 29/2009/QH12 ngày 17/06/2009.

12. Ngân hàng Thế giới, “Báo cáo phát triển Việt Nam 2009 – Huy động và sử

dụng vốn”, tháng 12/2008.

13. Ngân hàng Thế giới, “Cập nhật tình hình phát triển kinh tế Việt Nam”, 6/2011.

67

14. Ngân hàng Thế giới, “Cập nhật triển vọng Kinh tế Đông Á - Thái Bình Dương”,

tháng 3/2011.

15. Ngân hàng Thế giới, “Dự thảo Triển vọng kinh tế toàn cầu”, tháng 6/2011.

16. Nghị định số 79/2010/NĐ-CP, “Hệ thống các chỉ tiêu giám sát nợ công và nợ

nước ngoài của quốc gia”.

17. Quỹ tiền tệ Quốc tế (2003), Thống kê nợ nước ngoài – Hướng dẫn tập hợp và

sử dụng

18. Nguyễn Thị Thanh Hương (2007), “Tăng cường quản lý nợ nước ngoài ở Việt

Nam”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân.

19. PGS. TS Nguyễn Phú Tụ, Ths. Huỳnh Công Minh, “Mối quan hệ giữa Đầu tư

trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế của Việt Nam”, Tạp chí Phát triển

kinh tế số 239, tháng 9/2010.

20. PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hùng (2006), “Quản lý ngân sách nhà nước”, NXB

Thống Kê

21. PGS. TS. Sử Đình Thành, TS. Bùi Thị Mai Hoài (2009), “Tài chính công và

phân tích chính sách thuế”, NXB Lao động Xã hội.

22. PGS.TS Sử Đình Thành (2006), “Lý thuyết tài chính công”, NXB ĐH Quốc gia

23. Th.s Phạm Trí Cao, Th.s Vũ Minh Châu (2009), “Kinh tế lượng ứng dụng”,

NXB Thống kê.

24. Thông tư số 21/2007/TT-BTC, “Hướng dẫn phương pháp tính toán các chỉ tiêu

nợ nước ngoài”.

25. TS. Mai Thu Hiền, Nguyễn Thị Như Nguyệt (2011), “Tình hình nợ công và

quản lý nợ công ở Việt Nam”, Trường Đại học Ngoại thương.

sbv.gov.vn/wps/wcm/connect/.../mai+thu+hien.pdf?MOD...

26. TS. Nguyễn Bá Ân (2011), “Định hướng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội

Việt Nam trong giai đoạn đến năm 2020”, Viện chiến lược phát triển – Bộ Kế

hoạch và Đầu tư.

68

27. Văn Anh Tuấn (2011), “Kiểm soát nợ công của Việt Nam trong kỷ nguyên bất

ổn định kinh tế toàn cầu”, Chuyên đề thực tập tốt nghiệp, ĐH Kinh tế TP.HCM.

28. Võ Trí Thành, Đinh Hiền Minh, Đỗ Thị Thu Hương, Nguyễn Thị Hồng (2002),

“Khả năng chịu đựng thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai của Việt Nam”,

NXB Lao động xã hội.

TIẾNG ANH

29. Aghion, P. and E. Kharroubi, 2007, “Cyclical Macro Policy and Industry

Growth: The Effect of Countercyclical Fiscal Policy,” Working Paper, Harvard

University.

30. Andrea Pescatori và Amadou N. R. Sy, “Debt Crises and the Development of

International Capital Market”, IMF, 3/2004

31. Baldacci, E., and M. Kumar, 2010, “Fiscal Deficits, Public Debt and Sovereign

Bond Yields,” IMF Working Paper, forthcoming (Washington: International

Monetary Fund).

32. Barro, R., 1979, “On the Determinants of the Public Debt,” Journal of Political

Economy, Vol. 85 (5), pp. 940–71.

33. Barro, R., 1995, “Inflation and Economic Growth,” NBER Working Paper No.

5326 (Cambridge, Massachusetts: National Bureau of Economic Research).

34. Benedict Bingham, “Vietnam: Fiscal Strategy and Public Debt”, Presentation

for National Assembly Hanoi - September 15, 2010

35. Burnside, C., M. Eichenbaum, and S. Rebelo, 2001, “Prospective Deficits and

the Asian Currency Crisis,” Journal of Political Economy, Vol. 109 (6), pp.

1155–97.

36. C. Bauer, B. Herrz và V.Karb (2003), “Another Twin Crisis: Currency and

Debt”, Diskussionspapier 04-03.

69

37. Clements, B., R. Bhattacharya and T. Q. Nguyen (2003), “External debt, public

investment, and growth in low-income countries”, IMF Working paper 03/249

38. Cochrane, J., 2010, “Understanding Policy in the Great Recession: Some

Unpleasant Fiscal Arithmetic,” Working Paper (Chicago: University of Chicago

Press).

39. Cohen, D. (1997), “Growth and external debt: A new perspective on the African

and Latin American tragedies”, Centre for Economic Policy Research

Discussion Paper No. 1753

40. Cristina Arellano (2008), “Internal Debt Crises and Sovereign Defaults”

41. Cristina Checherita and Philipp Rother (2010), “The impact of high and

growing government debt on economic growth: An empirical investigation for

the euro area”, Working paper series No 1237, August 2010.

42. Dotsey, M., 1994, “Some Unpleasant Supply Side Arithmetic,” Journal of

Monetary Economics, pp. 507–24.

43. Dr Shane Oliver (2011), “The euro-zone public debt crisis (again)”, AMP

Capital Investors.

44. Elmendorf, D. and N. G. Mankiw, 1999, “Government Debt,” in J. B. Taylor

and M. Woodford (eds.), Handbook of Macroeconomics, Vol. 1C, Amsterdam,

North – Holland.

45. Eurostat - European Commission, “Government finance statistics”, Summary

table – 1/2011.

46. Gale, W. and P. Orszag, 2003, “The Economic Effects of Long-term Fiscal

Discipline”, Urban-Brookings Tax Policy Center Discussion Paper No. 8

(Washington: Brookings Institution).

47. Gary A. Dymski (2002), “The International Debt Crisis”, The Handbook of

Globalisation

70

48. Haji H H Semboja (1998), “The debt crisis in least developing countries

(LDCs) – A theoretical note”, ESRF Discussion Paper No.24

49. Hemming, R., M. Kell, and A. Schimmelpfennig, 2003, “Fiscal Vulnerability

and Financial Crises in Emerging Market Economies”, IMF Occasional Paper

No. 218 (Washington: International Monetary Fund).

50. International Monetary Fund and World Bank, “Guideline for Public Debt

Management”, December 9, 2003.

51. International Monetary Fund, “The Joint World Bank–IMF Debt Sustainability

Framework for Low-Income Countries”, Factsheet URL:

http://www.imf.org/external/np/exr/facts/jdsf.htm

52. International Monetary Fund, “Joint World Bank–IMF Debt Sustainability

Analysis 2007”, www.imf.org/external/pubs/ft/DSA/.../dsacr07387.pdf

53. International Monetary Fund, “Joint World Bank–IMF Debt Sustainability

Analysis 2008”, www.imf.org/external/pubs/ft/dsa/.../dsacr09110.pdf

54. International Monetary Fund, “Joint World Bank–IMF Debt Sustainability

Analysis 2010”, www.imf.org/external/pubs/ft/dsa/.../dsacr10281.pdf

55. International Monetary Fund, World Economic Outlook Database, April 2011

56. International Monetary Fund, Public Information Notice (PIN) No. 11/81,

June 23, 2011

57. Jaime De Pines (1989), “Debt Sustainability and Overadjustment”, World

Development Vol 17, No 1

58. Kumar, M. and J. Woo (2010), “Public Debt and Growth”, IMF Working Paper

10/174

59. Nguyen Duy Vu, “The cause of debt crisis: Lessons for Vietnam”, HCMC

National University, Nov. 1998.

60. Pattillo, C., H. Poirson, and L. Ricci (2002), “External Debt and Growth”, IMF

Working Paper 02/69

71

61. Reinhart, Carmen M. and Kenneth S. Rogoff (2009), “Growth In A Time Of

Debt”, Draft Version as of January 7, 2010. Working Paper.

62. Sargent, T., and N. Wallace, 1981, “Some Unpleasant Monetarist Arithmetic,”

Quarterly Review, (Fall) Federal Reserve Bank of Minneapolis.

63. Schclarek, A. (2004), “Debt and Economic Growth in Developing Industrial

Countries”, Mimeo

64. Sebastian Becker, Gunter Deuber and Sandra Stankiewicz (2010), “Public debt

2020: A sustainability analysis for DM and EM economies”, Deutsche Bank

Research, March 24, 2010.

65. Smyth, D. and Hsing, Y. (1995), “In search of an optimal debt ratio for

economic growth”, Contemporary Economic Policy, 13:51–59

66. Stephen G Cecchetti, M S Mohanty and Fabrizio Zampolli, “The future of

public debt: prospects and implications”, Bis Working Papers No 300, March

2010.

67. William R. Easterly (2001), “Growth Implosion and Debt Explosion: Do

Growth Slowdowns Cause Public Debt Crises?”, Volume 1, Issue 1, Article 1.

68. Woo, J., 2009, “Why Do More Polarized Countries Run More Procyclical

Fiscal Policy?” Review of Economics and Statistics, Vol. 91(4), pp. 850–70,

November.

WEBSITE THAM KHẢO

1. www.gso.gov.vn Tổng cục thống kê Việt Nam

2. www.imf.org Quỹ tiền tệ quốc tế - IMF

3. www.mof.gov.vn Bộ Tài chính Việt Nam

4. www.mpi.gov.vn Bộ Kế hoạch và Đầu tư

5. www.worldbank.org Ngân hàng Thế giới – WB

6. www.adb.org Ngân hàng Phát triển Châu Á – ADB

72

7. www.economist.com Tạp chí The Economist

8. epp.eurostat.ec.europa.eu Cục thống kê Châu Âu

9. www.ecb.eu Ngân hàng Trung ương Châu Âu – ECB

10. www.cia.gov Cơ quan tình báo trung ương Hoa Kỳ - CIA

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 11. www.sbv.gov.vn

12. www.na.gov.vn Ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam

13. www.vneconomy.vn Thời báo kinh tế Việt Nam

14. www.cafef.vn Cổng thông tin, dữ liệu tài chính – chứng khoán

Việt Nam

Bách khoa toàn thư mở 15. www.enwikipedia.org

16. Và một số website khác

73

PHỤ LỤC 1

Chứng minh mô hình động về nợ của Jaime De Pine [28]

Xuất phát từ đồng nhất thức của cán cân thanh toán

Trong đó: Dư nợ nước ngoài tính bằng USD : D

: CA Cán cân vãng lai

: t Thời gian

Cộng và trừ trả lãi của các khoản nợ nước ngoài vào phương trình (1) ta có:

(2)

trong đó i là lãi suất vay nợ nước ngoài.

Cán cân vãng lai bao gồm hai yếu tố cấu thành. Đó là chênh lệch giữa xuất khẩu (X)

và nhập khẩu (M) và chênh lệch giữa thu và lãi suất trả nợ. Phương trình (2) trở thành:

(3)

Chia cả hai vế của phương trình (3) cho , trong đó gxt là tốc độ tăng

trưởng xuất khẩu. Ta được:

(4)

Với gmt là mức tăng trưởng nhập khẩu

Đặt (chỉ số nợ trên xuất khẩu)

(chỉ số giữa lãi suất trên tăng trưởng xuất khẩu)

(chỉ số giữa tăng trưởng nhập khẩu trên tăng trưởng xuất khẩu)

(chỉ số giữa nhập khẩu trên xuất khẩu)

74

Phương trình (4) có thể viết lại dưới dạng sau:

(5)

Theo định nghĩa, (6)

Giả sử a và b là dương và không đổi. Phương trình (5) và (6) có thể giải

tương tự:

nếu s = t => (a)

Khi s = t

(b)

và Đặt

ta có

Thay thế S1 và S2 vào phương trình (b), ta có:

75

a=1

gxt

(1): a<1, b<1

(2): a>1, b<1

(4): a<1, b>1

(3): a>1, b>1

i

Sơ đồ mô hình động về nợ của Jaime De Pine

Sơ đồ trên có thể giúp giải thích rõ hơn về mô hình động về nợ của Jaime

de Pine. Trục tung biểu thị tốc độ tăng trưởng xuất khẩu và trục hoành thể hiện mức

lãi suất. Đường a = 1 tập hợp tất cả các điểm mà tại đó tốc độ tăng trưởng xuất khẩu

bằng mức lãi suất. Đường b = 1 là quỹ tích các điểm có tốc độ tăng trưởng xuất

khẩu bằng tốc độ tăng trưởng nhập khẩu. Đường a = 1 và b = 1 chia cung phần tư

thứ nhất trong hình thành 4 miền.

Miền 1 (a<1, b<1), tốc độ tăng trưởng cao hơn mức lãi suất và tốc độ tăng

trưởng nhập khẩu. Trong miền này, chỉ số nợ trên xuất khẩu có xu hướng giảm xuống.

Ngược lại, ở miền 3 (a>1, b>1), chỉ số nợ trên xuất khẩu sẽ bùng phát. Nếu

như mọi nỗ lực điều chỉnh trước đây, v0 < 1, thì chỉ số nợ trên xuất khẩu có thể giảm

trong một giai đoạn nhất định. Tuy nhiên, nếu tốc độ tăng trưởng nhập khẩu và mức

lãi suất cao hơn tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, thì chỉ số nợ trên xuất khẩu sẽ có xu

hướng tăng, do đó, mọi nỗ lực điều chỉnh trước đây (v0) sẽ bị xóa bỏ. Mọi nỗ lực điều

chỉnh trước đây chỉ có thể duy trì ảnh hưởng trong tương lai khi tốc độ tăng trưởng

nhập khẩu tương xứng với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu (b=1). Để cho điều này xảy

ra, chỉ số nhập khẩu trên xuất khẩu cần thỏa mãn bất đẳng thức: .

Miền 2 (a>1, b<1), trong khi thu xuất khẩu có xu hướng làm cho chỉ số nợ

trên xuất khẩu giảm, trả lãi vay nợ lại làm cho chỉ só này tăng lên. Nếu tốc độ tăng

76

nhập khẩu hạn chế đủ lớn so với tốc độ tăng xuất khẩu, chỉ số nợ trên xuất khẩu sẽ

giảm thậm chí ngay cả khi mức lãi suất vượt quá nhịp tăng xuất khẩu và chỉ số nhập

khẩu trên xuất khẩu ban đầu lớn hơn 1. Điều này sẽ xảy ra nếu thỏa mãn bất đẳng

thức sau: trong đó .

Trong miền 4 (a<1, b>1), chỉ số nợ trên xuất khẩu có xu hướng tăng lên, và

bất kỳ một nền kinh tế nào rơi vào trong miền này đều không có khả năng chịu

đựng được nợ và thâm hụt cán cân vãng lai. Nguyên nhân là do với tốc độ tăng

nhập khẩu cao hơn tốc độ tăng xuất khẩu, cán cân vãng lai không tính lãi suất sẽ

thâm hụt nhiều hơn.

77

PHỤ LỤC 2

Nghiên cứu thực nghiệm của các nhà kinh tế trên thế giới về mối quan hệ

nợ công với tăng trƣởng kinh tế

Một bài nghiên cứu gần đây của Carmen M. Reinhart và Kenneth S. Rogoff

(2010) về tăng trưởng kinh tế và lạm phát tại những mức độ nợ Chính phủ và nợ

nước ngoài khác nhau tại 20 nước tiên tiến (advanced countries) và 24 nước mới nổi

dựa trên chuỗi dữ liệu kéo dài hai thế kỷ (1790 - 2009), đã phát hiện rằng: Thứ nhất,

nợ Chính phủ và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ yếu đối với tỷ lệ nợ/GDP dưới

ngưỡng 90% GDP. Trên 90%, tốc độ tăng trưởng trung vị (median growth rate) sụt

giảm 1% và tốc độ tăng trưởng trung bình giảm nhiều hơn đáng kể. Tác giả cũng tìm

thấy rằng ngưỡng nợ công thì giống nhau cho cả các nền kinh tế tiên tiến và mới nổi.

Thứ hai, thị trường mới nổi phải đối mặt với ngưỡng thấp hơn cho nợ nước ngoài

(nhà nước và tư nhân). Khi nợ nước ngoài đạt đến 60% của GDP, tốc độ tăng trưởng

hàng năm sụt giảm khoảng 2%; ở mức nợ cao hơn, tốc độ tăng trưởng bị cắt giảm

xấp xỉ một nửa. Thứ ba, không có mối liên hệ rõ ràng xảy ra cùng thời gian giữa lạm

phát và mức nợ công cho nhóm các nước tiên tiến (một vài nước, như Mỹ, đã từng

trải qua mức lạm phát cao hơn thì nợ/GDP sẽ cao) nhưng điều này hoàn toàn khác

đối với các thị trường mới nổi nơi mà lạm phát tăng mạnh khi nợ tăng.

Manmohan S. Kumar and Jaejoon Woo (2010) đã tiến hành nghiên cứu tác

động của nợ công cao đến tăng trưởng kinh tế dài hạn của các nền kinh tế thị trường

mới nổi và tiên tiến trong giai đoạn 1970 - 2007 (phân tích dựa trên bảng dữ liệu của

38 nền kinh tế tiên tiến và mới nổi với dân số trên 5 triệu). Kết quả nghiên cứu thực

nghiệm cho thấy mối quan hệ nghịch đảo giữa nợ và tăng trưởng: bình quân, một sự

gia tăng 10 điểm % trong tỷ lệ nợ trên GDP đầu kỳ đi kèm với một sự sụt giảm trong

tăng trưởng GDP thực/người hàng năm vào khoảng 0,2 điểm % mỗi năm, đối với

nhóm nước tiên tiến mức tác động này sẽ nhỏ hơn (khoảng 0,15 điểm %). Tính trung

bình, một sự gia tăng 10 điểm % trong nợ đầu kỳ đi kèm với sự sụt giảm đầu tư

khoảng 0,4 điểm % GDP, mức tác động này lớn hơn tại nhóm các nước mới nổi.

78

Nghiên cứu của Cristina Checherita và Philipp Rother (2010) tìm thấy bằng

chứng cho tác động phi tuyến tính của nợ công lên tốc độ tăng trưởng GDP bình

quân đầu người qua 12 nước khu vực Châu Âu trong một giai đoạn dài bắt đầu từ

năm 1970. Nợ công và tốc độ tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ hình chữ U ngược

với điểm ngoặc của nợ là khoảng 90 - 100% GDP (nghĩa là, bình quân, một tỷ lệ

nợ/GDP cao hơn đi kèm với tốc độ tăng trưởng dài hạn thấp hơn tại mức nợ trên

phạm vi 90 - 100% GDP).

Theo Cristina Checherita và Philipp Rother, những kênh truyền dẫn mà nợ

công có khả năng tác động đến tăng trưởng kinh tế như: tiết kiệm tư nhân, đầu tư,

tổng năng suất các yếu tố sản xuất và lãi suất. Kết quả hồi quy cho thấy: thông qua

kênh lãi suất nợ công có tác động tuyến tính với tăng trưởng; nợ công không tác

động trực tiếp đến tăng trưởng thông qua kênh đầu tư tư nhân; kênh tỷ lệ tiết kiệm

tư nhân có điểm ngoặc của nợ là 82 - 91% GDP; và điểm ngoặc của nợ là 45 - 68%

GDP đối với kênh đầu tư của Chính phủ.

Schclarek (2004) cũng có bài nghiên cứu về mối quan hệ giữa tổng nợ

Chính phủ và tăng trưởng GDP bình quân đầu người tại các quốc gia phát triển. Tuy

nhiên, kết quả là không có bằng chứng rõ ràng về mối quan hệ có ý nghĩa thống kê

được tìm thấy đối với bộ mẫu gồm 24 nước công nghiệp với dữ liệu được tính trung

bình qua 7 giai đoạn từ năm 1970 đến 2002.

Một số nghiên cứu khác cũng xem xét tác động của nợ nước ngoài đến tăng

trưởng kinh tế. Pattillo et al. (2002) sử dụng một bộ dữ liệu của 93 nước đang phát

triển trong giai đoạn 1969 - 1998 và tìm thấy rằng tác động của nợ nước ngoài đến

tăng trưởng GDP bình quân đầu người thì ngược hướng đối với mức giá trị hiện tại

thuần của nợ trên 35 - 40% GDP. Clement et al. (2003) nghiên cứu mối quan hệ này

cho nhóm 55 nước có thu nhập thấp trong giai đoạn 1970 - 1999 và phát hiện rằng

điểm ngoặc của giá trị hiện tại thuần của nợ nước ngoài là 20 - 25% GDP.

Imbs và Ranciere (2009) và Pattillo, Poirson, và Ricci (2002, 2004) tìm

thấy có một ảnh hưởng phi tuyến tính của nợ nước ngoài đến tăng trưởng: đó là,

một tác động ngược hướng và có ý nghĩa đến tăng trưởng tại mức nợ cao (tiêu biểu

79

là 60% GDP), nhưng một tác động không có ý nghĩa tại mức nợ thấp. Những

nghiên cứu thực nghiệm khác trước đó cũng tìm thấy một ảnh hưởng phi tuyến tính

của nợ nước ngoài đến tăng trưởng (Hsing (1995) và Cohen (1997)).

Ngược lại, Cordella, Ricci và Arranz (2005) tìm thấy bằng chứng của “nợ

quá mức” (debt overhang) đối với mức độ nợ trung gian (intermediate debt), nhưng

mối quan hệ nợ-tăng trưởng không có ý nghĩa tại mức độ nợ quá thấp và quá cao.

Schclarek (2004) tìm thấy một tác động ngược hướng tuyến tính của nợ nước ngoài

đến tăng trưởng bình quân đầu người (không có bằng chứng của mối quan hệ hình

chữ U ngược) khi nghiên cứu trên một nhóm 59 quốc gia đang phát triển qua giai

đoạn 1970 - 2002.

Như vậy, tăng trưởng kinh tế có vai trò như thế nào đối với các cuộc khủng

hoảng nợ công? Có phải tăng trưởng chậm là nguyên nhân của cuộc khủng hoảng

nợ công? Câu hỏi này đã được tác giả William R. Easterly xem xét trong bài

nghiên cứu của mình vào năm 2001. Bài nghiên cứu cung cấp một góc nhìn mới về

cuộc khủng hoảng nợ từ trên quan điểm về ảnh hưởng của tăng trưởng chậm lên

năng lực tài chính.

Sự sụt giảm tăng trưởng kinh tế toàn cầu sau năm 1975 đóng một vai trò

quan trọng trong cuộc khủng hoảng nợ của các nước thu nhập trung bình trong thập

niên 1980, cuộc khủng hoảng của các quốc gia nghèo gánh nặng nợ cao (HIPCs), và

sự gia tăng gánh nặng nợ công của các nước công nghiệp trong thập niên 1980 và

1990. Những kiểm định và sự tính toán khả năng thanh toán từ ngân sách đã xác

nhận vai trò quan trọng của tăng trưởng trong các cuộc khủng hoảng nợ.

Tuy nhiên, tác giả cho rằng điều này không có nghĩa là tăng trưởng chậm là

nguyên nhân duy nhất của cuộc khủng hoảng nợ, hoặc là nâng cao tốc độ tăng

trưởng là một liều thuốc dễ dàng để thoát khỏi khủng hoảng. Những nghi ngờ thông

thường của tỷ giá hối đoái và quản lý vĩ mô kém vẫn còn phù hợp, nhưng cần được

xem trong một khuôn khổ toàn diện hơn thông qua tính toán khả năng thanh toán từ

ngân sách.

80

PHỤ LỤC 3

Khủng hoảng nợ công Châu Âu

3.1 Tình hình nợ công của một số nƣớc trên thế giới

Theo đồng hồ đo nợ công trên The Economist, tổng số nợ công toàn cầu tính

đến ngày 06/08/2011 đã vượt qua mốc 42.832 tỷ USD (dự báo năm 2012 con số này

vượt mốc 46 nghìn tỷ USD). Trước đó, theo thống kê của cơ quan xếp hạng tín

dụng Moodys, từ năm 2007-2010, nợ công toàn cầu sẽ tăng lên khoảng 15.300 tỷ

USD. Theo IMF, nguyên nhân chính dẫn đến số nợ công khổng lồ này là thu nhập

thuế của các Chính phủ đã giảm mạnh, buộc họ phải đi vay sau suy thoái kinh tế để

trả cho những khoản cứu trợ, các chương trình kích thích và hỗ trợ những người thất

nghiệp. IMF cho rằng, tỷ lệ nợ công/GDP của các nước phát triển vào năm 2015 có

thể tăng lên 110%, so với mức khoảng 75% của năm 2007.

Nợ công và thâm hụt ngân sách của một số quốc gia trên thế giới

Nói đến khủng hoảng nợ công, các nhà đầu tư nghĩ ngay đến Hy Lạp, Ireland

và Bồ Đào Nha. Thế nhưng, những vấn đề của các nền kinh tế ở Châu Âu này chỉ

mới là khúc dạo đầu của cuộc khủng hoảng nợ công đang lan tràn trên thế giới. Các

nhà phân tích dự báo ngòi nổ của vụ nổ lớn tài chính tiền tệ này chính là Nhật Bản.

Các hãng xếp hạn tín dụng đã đưa ra những lời cảnh báo. Về lâu dài, triển

vọng của nền kinh tế lớn thứ ba này bị đánh giá là không mấy sáng sủa. Ngày

81

11/05/2011, công ty xếp hạng Moodys cho biết tỷ lệ vỡ nợ các khoản vay thế chấp

của Nhật Bản đã đạt đỉnh. Theo số liệu thống kê mới nhất của Bộ tài chính Nhật

Bản, tính đến thời điểm kết thúc tài khóa 2010 (ngày 31/03 vừa qua), nợ công của

Nhật Bản đã đạt mức cao kỷ lục 924.000 tỷ Yên (hơn 11.000 tỷ USD). Như vậy dư

nợ bình quân đầu người của Nhật Bản lên đến gần 90.000 USD.

Nợ công Nhật Bản hiện đã lên đến mức gấp hơn 2 lần GDP, với tỷ lệ cao hơn

Hy Lạp tới hơn 50%. Tuy nhiên, do nợ công của Nhật chủ yếu là nợ trong nước nên

Nhật chưa phải trải qua những gì mà Hy Lạp đã gánh chịu trong năm 2010. Các nhà

phân tích cho rằng Nhật Bản sẽ là “một Hy Lạp tiếp theo” nhưng với hậu quả tiêu

cực gấp bội.

Theo số liệu được Cơ quan Kiểm toán Quốc gia Trung Quốc (NAO) công bố

vào cuối tháng 6/2011, chính quyền các địa phương đã mắc tổng số nợ 10.700 tỷ

Nhân dân tệ (khoảng 1.650 tỷ USD), chiếm khoảng 27% GDP năm 2010. Tuy

nhiên, các nhà kinh tế cho rằng con số thực tế cao hơn nhiều. Ngân hàng Nhân dân

Trung Quốc gần đây ước tính nợ của các địa phương đã lên tới 14.000 tỷ NDT (hầu

hết là nợ Ngân hàng), cao hơn 30% so với số liệu của NAO.

Trên giấy tờ, nợ của Trung Quốc chỉ dưới 20% GDP tuy nhiên nếu tính các

khoản nợ của địa phương, chi phí tái cấp vốn cho các ngân hàng Nhà nước, trái

phiếu do ngân hàng Nhà nước phát hành và trái phiếu đường sắt,… tổng nợ của

Trung Quốc có thể lên tới 70-80% GDP, gần bằng mức nợ công của Mỹ và Anh. Do

hầu hết các khoản nợ này được vay trong thập niên vừa qua nên Trung Quốc đang

trên quỹ đạo không bền vững với tốc độ tích tụ nợ hiện nay, đặc biệt khi tăng

trưởng kinh tế được dự báo sẽ tăng trưởng chậm lại trong thập niên kế tiếp.

Tại Châu Âu, Italia và Tây Ban Nha hiện cũng đang phải đối mặt với nguy

cơ rơi vào vòng xoáy khủng hoảng nợ công ở Châu Âu. Xem xét mạng lưới nợ công

5 nước: Hy Lạp, Ireland, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Italia, tờ The New York

Times đánh giá “nguy cơ thực sự nằm ở Tây Ban Nha và Italia”.

82

Tình hình nợ công của một số quốc gia Châu Âu

Nguồn: Cục thống kê Châu Âu (Eurostat)[45] và IMF, World Economic Outlook Database, April 2011

Italia là nước có nền kinh tế lớn thứ ba ở Châu Âu, sau Đức và Pháp nhưng

trong giai đoạn 2001 - 2010 Italia lại là nước có mức độ tăng trưởng kinh tế thấp

nhất trong số các thành viên EU (GDP trung bình mỗi năm chỉ đạt 0,2% so với mức

trung bình 1,1% của EU). Số nợ công của Italia hiện đang ở mức hơn 2.237 tỷ euro,

chiếm gần 120% GDP (theo The Economist ngày 06/08/2011). Dự báo năm 2011

và 2012, GDP của nước này chỉ đạt tương ứng là 1,1 % và 1,4% trong khi mức

thâm hụt ngân sách chiếm 4,5% GDP (theo “Dự báo kinh tế năm 2011 và 2012” của

Hội đồng EU).

Đối với Tây Ban Nha, mức nợ công đã lên đến hơn 877 tỉ euro, chiếm

khoảng 68,8% GDP (theo The Economist ngày 06/08/2011). Chỉ tính trong 2 tháng

đầu năm 2011, tỷ lệ vay nợ của quốc gia này đã tăng thêm 6,2% tăng tổng số tiền

vay lên 112 tỷ euro. GDP của Tây Ban Nha dự báo năm 2011 và 2012 chỉ đạt tăng

trưởng ở mức 0,7% và 1,7% trong khi thâm hụt ngân sách cao tới 9,2% và tỷ lệ thất

nghiệp ở mức 20% (theo “Dự báo kinh tế năm 2011 và 2012” của Hội đồng EU).

83

Theo các nhà kinh tế, những bất ổn kinh tế ở Italia và Tây Ban Nha có thể

dẫn đến những hậu quả vô cùng trầm trọng, kể cả nguy cơ “phá sản của hệ thống

đồng euro”. Bên cạnh đó, tình hình nợ công ở các nước khác trong khu vực Châu

Âu cũng đang ngày càng nghiêm trọng và đe dọa tới hệ thống tiền tệ của khối, cụ

thể như Đức đang ở mức 2.290 tỷ euro, chiếm 76,7% GDP; Pháp là 2.063 tỷ euro,

chiếm 86,6% GDP; Bỉ là 426,8 tỷ euro, chiếm 101,6% GDP; Hà Lan là 480,9 tỷ

euro, chiếm 67,3% GDP; …(theo Economist ngày 06/08/2011). So với qui định

60% của Hiệp ước Maastricht, nợ công của các nước này đều đang ở mức báo động.

Trong khi đó, tình hình kinh tế nhiều nước không mấy sáng sủa: tăng trưởng thấp,

thâm hụt ngân sách lớn và tỷ lệ thất nghiệp cao. Theo báo cáo triển vọng kinh tế thế

giới vào tháng 6/2011 của IMF, triển vọng tăng trưởng kinh tế khu vực euro năm

2011 và 2012 lần lượt là 2,0% và 1,7% (năm 2010 đạt 1,8%) trong khi đó mức thâm

hụt ngân sách vẫn ở mức 4,75% vào năm 2011 và 3,75% vào năm 2012; tỷ lệ thất

nghiệp cao tới 9% trong năm 2011 và nợ công trong năm 2012 dự báo vẫn chiếm

tới 83% GDP (theo dự báo của Hội đồng EU)

Còn ở Châu Mỹ, Bộ Tài chính Mỹ ngày 03/08/2011 cho biết nợ công của

nước này đã vượt 100% GDP ngay khi lưỡng viện Quốc hội Mỹ thông qua dự luật

về nâng trần nợ công và cắt giảm ngân sách. Theo bản tin về tình hình tài chính

công do Bộ Tài chính Mỹ công bố, nợ liên bang của Mỹ tính đến tháng 08/2011 đã

đạt mức 14.580,7 tỷ USD vượt GDP của năm 2010 (14.526,5 tỷ USD). Lần cuối

cùng nợ công của Mỹ vượt GDP diễn ra vào năm 1947, ngay sau kết thúc Chiến

tranh Thế giới thứ hai. Tỷ lệ này giảm mạnh xuống còn 32,5% vào năm 1981 và

tăng lên 64,4% trong năm 2007.

Theo số liệu từ IMF, Mỹ hiện đang là một trong nhóm các quốc gia có nợ

công cao hơn GDP (gồm Nhật Bản (229%), Hy Lạp (152%), Jamaica (137%),

Liban (134%), Italy (120%), Ireland (114%) và Iceland (103%)). Văn phòng Ngân

sách Quốc hội Mỹ cho rằng nếu Mỹ tiếp tục kéo dài chương trình cắt giảm thuế

được phê chuẩn năm 2011, nợ công của nước này có thể tăng gần gấp đôi GDP vào

năm 2035. Theo tạp chí “Thị trường và Tiền tệ” (Mỹ), ba nhà kinh tế nổi tiếng Mỹ

84

là Martin Weiss, Richard Mogey và Monty Agarwal đã dự báo thâm hụt ngân sách

của Mỹ sẽ vượt quá 2.000 tỷ USD vào năm 2012. Mặc dù chính quyền Mỹ tiếp tục

dự báo lạc quan về tăng trưởng kinh tế và dự báo thâm hụt ngân sách năm 2012 của

nền kinh tế lớn nhất thế giới này sẽ chỉ là 828 tỷ USD, nhưng thực tế, nền kinh tế

Mỹ vẫn suy thoái, khiến thâm hụt ngân sách có thể đạt kỷ lục 2.000 tỷ USD.

Tình hình nợ công của các nƣớc nhóm G7

Nguồn: IMF, World Economic Outlook Database, April 2011

Theo tổ chức xếp hạng tín dụng Moody’s, chính phủ Mỹ cần hạ tỷ lệ nợ

công/GDP xuống 73% vào năm 2015 để đảm bảo nền kinh tế quốc gia và duy trì

bậc tín dụng AAA một cách bền vững. Các hãng xếp hạng tín dụng quốc tế gồm

Moody’s và Fitch vẫn giữ mức xếp hạng tín nhiệm uy tín AAA của Mỹ sau khi

Quốc hội nước này thông qua dự luật nâng trần nhưng các cơ quan này cũng cảnh

báo Mỹ có thể vẫn phải đối mặt với nguy cơ bị đánh tụt hạng nếu kỷ luật ngân sách

không được siết chặt và tăng trưởng kinh tế tiếp tục xấu đi. Riêng Standard & Poor's

vẫn cảnh báo sẽ hạ mức AAA của Mỹ trong tháng 8/2011 nếu phát hiện có trục trặc.

Đến ngày 5/8/2011, Standard & Poor’s đã hạ bậc tín nhiệm của Mỹ từ AAA xuống

còn AA+ với lý do “rủi ro chính chính trị” gắn liền với món nợ công khổng lồ của

85

nước Mỹ. S&P's cũng tuyên bố trong vòng hai năm tới nếu Mỹ không thực hiện

được các biện pháp giảm thâm hụt thì hãng sẽ hạ tiếp điểm xuống còn AA.

Nợ công ở các nước Châu Âu đang ngày càng nghiêm trọng và ngày càng

lan rộng ra nhiều nước trên thế giới làm cho tình hình kinh tế thế giới, vốn mới bắt

đầu hồi phục, lại có nguy cơ rơi vào một cuộc suy thoái mới. Sau cơn khủng hoảng

tài chính toàn cầu, thu ngân sách Chính phủ thấp trong khi chi ngân sách lại gia

tăng. Điều này khiến mục tiêu cân bằng ngân sách trở thành một nhiệm vụ khó khăn

hơn, trừ khi các Chính phủ đưa ra các biện pháp ứng phó kịp thời để sữa chữa và

bình ổn tình hình tài chính.

Dự báo nợ công năm 2011 của một số nƣớc giàu nhất thế giới

Theo số liệu của World Economic Outlook Database (IMF), dự báo đến

năm 2016 tình hình nợ công của các nước trên thế giới có xu hướng tăng so với năm

2010 đối với nhóm các quốc gia phát triển, trong đó tăng mạnh là các nước thuộc

nhóm các nước công nghiệp phát triển - G7. Riêng đối với nhóm các quốc gia mới

nổi và đang phát triển thì tình hình nợ công đến 2016 có vẻ khả quan hơn (hình 2.5).

86

Dự báo nợ công đến năm 2016 của các nƣớc theo nhóm

Nguồn: IMF, World Economic Outlook Database, April 2011

Vấn đề trần nợ công ở Mỹ

Nền kinh tế Mỹ tiếp tục èo uột trong nửa đầu năm 2011, có nguy cơ rơi vào

suy thoái nếu Quốc hội tiếp tục bế tắc trong việc đàm phán nâng mức trần nợ công

trước ngày 2/8/2011. Theo Reuters, Bộ Thương mại Mỹ thông báo trong Quý II nền

kinh tế Mỹ chỉ tăng trưởng 1,3%, thấp hơn nhiều so với dự kiến (1,8%). Trong khi

đó, các tính toán mới cho thấy GDP của quý I chỉ đạt 0,4%, trong khi mức ước tính

là 1,9%. Đây là sáu tháng tồi tệ nhất đối với nền kinh tế Mỹ kể từ khi cuộc đại suy

thoái kết thúc hồi tháng 6/2009. Nguyên nhân chủ yếu do tiêu dùng hầu như không

tăng, giá nhiên liệu và thực phẩm tăng cao...

Trong khi đó, Chính phủ Mỹ sẽ không còn khả năng vay nợ nếu Quốc hội

không nâng mức trần nợ công lên trên ngưỡng 14.300 tỉ USD trước ngày 2/8/2011.

Các chuyên gia kinh tế dự báo khi đó Mỹ sẽ buộc phải cắt giảm 40% chi tiêu (cứ

87

mỗi 1 USD chính quyền Mỹ chi tiêu thì có 40 cent tiền đi vay), đẩy nền kinh tế Mỹ

rơi vào suy thoái.

Ngày 3/8/2011, Quốc hội Mỹ đã thông qua dự luật nâng mức trần nợ công và

cắt giảm chi tiêu công nhằm ngăn chặn thảm họa vỡ nợ. Tổng thống Obama đã ký

thành luật dự dự luật nâng mức trần nợ công đến hết năm 2012. Luật mới trên đã

nâng mức trần nợ công của Mỹ lên thêm 2.400 tỷ USD từ mức 14.300 tỷ USD hiện

nay; đồng thời yêu cầu cắt giảm 2.100 tỷ USD chi tiêu của chính phủ trong vòng 10

năm tới nhưng không tăng thuế. Việc cắt giảm thâm hụt ngân sách chia làm hai giai

đoạn: Giai đoạn đầu cắt giảm 1.000 tỷ USD và có hiệu lực ngay; giai đoạn hai giảm

1.500 tỷ USD và sẽ do một Ủy ban lưỡng Đảng công bố ngày 23/11/2011 để Quốc

Hội thông qua vào ngày 23/12/2011.

Đây không phải là lần đầu tiên mà từ rất nhiều năm trước, Mỹ đã bắt đầu

tăng mức trần nợ công với số lần và số tiền ngày càng tăng. Từ năm 1980 đến nay,

mức trần nợ công của nước này đã được tăng gần 40 lần, riêng thập niên vừa qua đã

chứng kiến sự bùng nổ với 10 lần tăng mức trần.

Nước Mỹ đã thoát khỏi được nguy cơ vỡ nợ kỹ thuật sau khi dự luật nâng

trần nợ công đã được thông qua. Tuy nhiên, theo các nhà phân tích, thỏa thuận nâng

trần nợ công trước mắt đã giúp Mỹ tránh được nguy cơ vỡ nợ kèm theo suy thoái

kinh tế nhưng thực tế cho thấy, nước này vẫn đang đứng trước nguy cơ lớn bị nhấn

chìm bởi những cơn sóng nợ, bất kể có hay không các gói tiết kiệm cắt giảm chi

tiêu. Theo tính toán của Nhà Trắng, khoản chi ngân sách của nước Mỹ trong giai

đoạn 2012 – 2016 sẽ lên tới 20.100 tỷ USD, trong khi thu ngân sách chỉ đạt 16.700

tỷ USD. Điều này có nghĩa là ngay cả khi tăng gấp đôi tốc độ tiết kiệm, đến giữa

thập niên này, nước Mỹ vẫn mắc nợ thêm khoảng 1.000 tỷ USD.

Việc nâng trần nợ công của Mỹ cũng tạo ra những thách thức không nhỏ

cho nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt là các thị trường mới nổi. Ngoài lạm phát cao, các

thị trường mới nổi còn lo ngại rủi ro lạm phát nhập khẩu khi Mỹ tiếp tục phát hành

thêm trái phiếu mới để chi trả cho các khoản nợ cũ.

88

Trong vài tháng gần đây, những lo sợ về việc Mỹ bị vỡ nợ đã ảnh hưởng

đến nền kinh tế toàn cầu và một lượng lớn các nhà đầu tư đã bán đô la Mỹ, làm

đồng đô la Mỹ mất giá và khiến cho hạn mức tín nhiệm của Mỹ cũng giảm xuống.

Những dự đoán về sự mất giá của đô la Mỹ sẽ làm cho giá trị của các mặt hàng như

dầu, vàng cao hơn, gây ra nhiều thách thức hơn cho các nền kinh tế mới nổi, hiện

đang đối mặt với lạm phát tăng cao. Các nhà phân tích đã cảnh báo các thị trường

mới nổi về các nguồn vốn đầu cơ đến từ thị trường Mỹ.

3.2 Cuộc khủng hoảng nợ công tại Hy Lạp

3.2.1 Vài nét về tình hình kinh tế Hy Lạp trƣớc khi khủng hoảng

Hy Lạp có nền kinh tế công - nông nghiệp khá phát triển, là sự pha trộn giữa

nền kinh tế tư bản và kinh tế nhà nước; và có nhiều khoáng sản như: Bốc-xít, quặng

sắt, Ni-ken,…

Thế mạnh kinh tế Hy Lạp là vận tải đường biển và du lịch: có đội thương

thuyền đứng thứ 3 thế giới, kiểm soát 25% kim ngạch vận tải biển thế giới; có hệ

thống đường xá, khách sạn, hải cảng, sân bay hiện đại. Hàng năm Hy Lạp thu hút

khoảng 17 triệu lượt khách du lịch, ngành này đóng góp 15% GDP của Hy Lạp.

Công nghiệp du lịch đóng 15% GDP quốc dân. Hy Lạp là nước nhận viện trợ lớn

nhất của EU, chiếm khoảng 3,3% tổng GDP. Bên cạnh đó, các ngành kinh tế khác

như ngân hàng, tài chính, viễn thông, sản xuất các thiết bị công nghệ cao cũng phát

triển mạnh tại Hy Lạp. Nước này cũng có lợi thế về kinh tế biển với rất nhiều cảng

nước sâu và một ngành công nghiệp đóng tàu hùng mạnh. Các ngành công nghiệp

quan trọng khác ở Hy Lạp là dệt, hóa chất, khai thác khoáng sản, chế biến thực

phẩm. Nông nghiệp tuy chiếm tỉ trọng nhỏ song vẫn đóng một vai trò quan trọng

trong nền kinh tế. Các loại cây trồng chủ yếu ở Hy Lạp là lúa mì, lúa mạch, ôliu,

hoa hướng dương, cà chua, cam, chanh... Cơ cấu kinh tế của Hy Lạp như sau: dịch

vụ chiếm 74,4%, công nghiệp 20,6% và nông nghiệp 5,1%.

Từ 19/6/2000, nhờ áp dụng các biện pháp kinh tế tài chính có hiệu quả, Hy

Lạp đã đạt các tiêu chí và được gia nhập khu vực đồng euro. Trong giai đoạn 2001 -

89

2007 Hy Lạp là một trong những nước có tốc độ phát triển cao nhất ở Liên minh

Châu Âu (EU) với mức tăng trưởng trung bình 4%/năm. Năm 2008 tăng trưởng của

Hy Lạp chỉ đạt 2,8%, đây là con số thấp hơn các năm trước nhưng vẫn cao hơn tăng

trưởng trung bình của các nước thuộc khối EU. Tuy nhiên, Hy Lạp vẫn gặp nhiều

thách thức như: việc giảm nợ nhà nước, lạm phát, thất nghiệp, cơ cấu lại nền kinh tế

bao gồm cả việc tư nhân hóa một số công ty nhà nước, tăng lương và giảm thiểu

tính quan liêu.

Năm 2009, Hy Lạp lún sâu vào khủng hoảng với thâm hụt ngân sách trầm

trọng (15,6% GDP - theo mức điều chỉnh của Cơ quan thống kê Châu Âu), nợ công

lên đến 127,1% GDP và tỷ lệ thất nghiệp vào loại cao nhất EU (15% - 20% dân số

sống dưới ngưỡng nghèo khổ) trong khi tăng trưởng kinh tế vẫn tiếp tục âm.

Nợ công và thâm hụt ngân sách của Hy Lạp so với các nước trong EU

Nguồn: Cục thống kê Châu Âu (Eurostat) [45]

3.2.2 Nguyên nhân khủng hoảng nợ Hy Lạp

Vấn đề kinh tế hiện nay của Hy Lạp đã được gây ra từ một hỗn hợp các yếu

tố nội địa và quốc tế. Trong nước, việc chi tiêu quá mức của chính phủ, sự bất linh

hoạt của cơ cấu, việc trốn thuế, tham nhũng, … tất cả góp phần tích tụ nợ Hy Lạp

trong thập kỷ qua. Việc thông qua đồng tiền chung Châu Âu cộng với thực thi luật

lệ lỏng lẻo của Liên minh Châu Âu cũng bị cho rằng đã góp phần vào cuộc khủng

hoảng nợ công hiện tại của Hy Lạp.

90

3.2.2.1 Nguyên nhân chủ quan

Hy Lạp đã không tuân thủ chặt chẽ các quy định trong liên minh tiền tệ

Theo Hiệp ước Maastricht, để tham gia vào khu vực đồng tiền chung, các

quốc gia thành viên phải đáp ứng nhiều chuẩn mực, trong đó có quy định mức bội

chi của ngân sách phải nhỏ hơn hoặc bằng 3% GDP, có xem xét trường hợp mức

thâm hụt đang trong xu hướng được cải thiện hoặc mức thâm hụt lớn hơn 3% nhưng

mang tính tạm thời, không đáng kể, không là mức bội chi cơ cấu; nợ Chính phủ nhỏ

hơn hoặc bằng 60% GDP, có xem xét các trường hợp đang điều chỉnh. Theo quy

định này, Hy Lạp chưa đủ điều kiện tham gia khu vực đồng tiền chung châu Âu vào

tháng 5-1998. Nhưng hai năm sau, ngày 1/1/2001, mặc dù vẫn chưa đủ chuẩn, Hy

Lạp cũng được chấp thuận gia nhập vào khu vực đồng tiền chung với điều kiện phải

nỗ lực cải thiện mức thâm hụt ngân sách và nợ Chính phủ. Tuy nhiên, đến nay các

ràng buộc trên vẫn chỉ là lời hứa của Hy Lạp, bội chi ngân sách và nợ nước ngoài

không những không được cải thiện mà có xu hướng ngày càng tăng, đồng thời để

che dấu việc này Hy Lạp đã đưa ra các báo cáo kinh tế sai lệch.

Quản lý chi tiêu công kém hiệu quả.

Trong giai đoạn 2001 - 2007, GDP của Hy Lạp tăng trưởng với tốc độ trung

bình 4,3%/năm so với mức trung bình 3,1% của Châu Âu. Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế

cao đã bị đẩy lên do việc tăng lên trong tiêu dùng tư nhân và công chúng đầu tư

được hỗ trợ bởi Liên minh Châu Âu và chính quyền Trung Ương. Tuy nhiên, trong

sáu năm qua trong khi chi ngân sách tăng 87%, thu chỉ tăng tăng 31% dẫn đến thâm

hụt ngân sách vượt ngưỡng cho phép 3% của Liên minh Châu Âu. Tổ chức hành

chính công, chi phí lương hưu và hệ thống thuế kém hiệu quả là một trong những

yếu tố chính đằng sau thâm hụt của Hy Lạp.

91

Tình hình thu, chi và thâm hụt ngân sách của Hy Lạp

Nguồn: Cục Thống kê Châu Âu (eurostat) [45]

Theo OECD, năm 2004 chi tiêu hành chính tính theo tỷ lệ phần trăm tổng

chi tiêu công ở Hy Lạp đã cao hơn so với bất kỳ thành viên OECD nào và không có

bằng chứng cho thấy số lượng hay chất lượng của các dịch vụ công tại quốc gia này

tốt hơn. Xu hướng này vẫn tiếp tục: chi tiêu chính phủ Hy Lạp trong năm 2009

chiếm 52,9% GDP với 75% chi tiêu cho tiền lương công và lợi ích xã hội.

Các nhà phân tích kinh tế đều cho rằng, khủng hoảng nợ công ở Hy Lạp là

do chi tiêu của Chính phủ quá lớn, thậm chí còn cho rằng Chính phủ không có trách

nhiệm khi quyết định chi tiêu quá lớn so với nền kinh tế và tăng trưởng kinh tế của

chính nước mình. Việc chi tiêu quá lớn đã tạo ra thâm hụt ngân sách và khủng

hoảng nợ công (lương cao cho các nhà chính trị, công chức, hệ thống an sinh xã hội

và lao động, chế độ nghỉ hưu sớm, …).

Ngoài ra, năm 2008 khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra đã ảnh hưởng khá

mạnh đến các ngành công nghiệp chủ chốt của nước này. Ngành du lịch và vận tải

biển, doanh thu đều sụt giảm trên 15% trong năm 2009. Kinh tế Hy Lạp cũng lâm

vào tình trạng khó khăn, nguồn thu để tài trợ cho NSNN bị co hẹp mạnh, trong khi

đó Hy Lạp lại phải tăng cường chi tiêu công để kích thích kinh tế trong giai đoạn

hậu khủng hoảng.

92

Sự lão hóa dân số - tỷ lệ dân số trên 64 tuổi dự kiến sẽ tăng từ 19% trong

năm 2007 lên 32% vào năm 2060 - có thể sẽ gia tăng gánh nặng về chi tiêu công tại

Hy Lạp (một trong những hệ thống trợ cấp hào phóng nhất của Châu Âu) trong

những năm tới.

Nợ vay nước ngoài chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu nợ công

Nhu cầu chi tiêu của Chính phủ cao trong khi nguồn thu hạn chế, đồng thời

lợi tức trái phiếu Hy Lạp liên tục giảm nhờ vào việc gia nhập EU, tạo điều kiện cho

Chính phủ tăng cường vay nợ tài trợ để cho chi tiêu công. Thêm vào đó, tỷ lệ tiết

kiệm trong nước thấp và liên tục sụt giảm từ năm 2003 (từ 17,9% năm 2003 giảm

còn chỉ 5% năm 2009 – hình 2.8) nên nhu cầu chi tiêu của Chính phủ và các khoản

thâm hụt được tài trợ chủ yếu bởi các khoản nợ nước ngoài.

Tỷ lệ tiết kiệm quốc gia của Hy Lạp so với EU

Nguồn: IMF, World Economic Outlook Database, April 2011

Ước tính tỷ lệ trái phiếu do nước ngoài nắm giữ có thể lên tới 80% lượng

trái phiếu chính phủ Hy Lạp phát hành. Chủ nợ phần lớn là các ngân hàng Châu Âu.

Điều này làm cho rủi ro nợ công của Hy Lạp tăng cao. Các nước Ý, Ireland cũng

trong tình cảnh thâm hụt ngân sách và nợ công cao, nhưng không bị đánh giá

nghiêm trọng bằng Hy Lạp. Sở dĩ như vậy vì các nước này có nền kinh tế tương đối

lớn, ngân sách lớn và khả năng kiểm soát nợ trong nước cao hơn.

93

Vào tháng 04/2010, các tổ chức định mức tín nhiệm như S&P, Moody’s và

Fitch Rating đã hạ bậc trái phiếu Chính phủ Hy Lạp xuống mức rủi ro cao, trước

nguy cơ mất khả năng thanh khoản. S&P ước tính trong trường hợp Hy Lạp mất khả

năng thanh toán, nhà đầu tư có thể mất 30-50% giá trị khoản đầu tư. Ngay lập tức

sau đó lợi tức trái phiếu Chính phủ Hy Lạp đã tăng mạnh. Điều này đã khiến cho

Chính phủ Hy Lạp gặp nhiều khó khăn hơn trong việc huy động vốn trên thị trường

tài chính quốc tế để tái cấu trúc các khoản vay.

3.2.2.2 Nguyên nhân khách quan

Tác động tiêu cực của tiến trình hội nhập kinh tế khu vực

Quá trình hình thành đồng tiền chung được chia thành ba giai đoạn nhằm

giúp các quốc gia điều chỉnh nền kinh tế theo hướng hội nhập toàn diện và sâu rộng

- hàng hóa, vốn và sức lao động được tự do hóa hoàn toàn. Tuy nhiên, hội nhập

cũng có mặt trái của nó. Đối với các quốc gia nhỏ, năng lực cạnh tranh yếu thì đây

thực sự là thách thức.

Với một quốc gia có nguồn tài nguyên hạn hẹp, lợi thế thương mại thấp,

năng lực cạnh tranh thấp thì họ không thể xây dựng rào cản để bảo hộ nền sản xuất

trong nước. Hàng hóa thiếu cạnh tranh, sản xuất đình trệ, tỷ lệ thất nghiệp gia tăng,

thu ngân sách giảm, chi an sinh xã hội cao.

Ngoài ra, theo quy định của EU, các quốc gia được phép giữ lại 25% thuế

xuất nhập khẩu hàng hóa vào EU để trang trải chi phí hoạt động và 75% còn lại

được chuyển vào ngân sách chung của EU. Điều này có nghĩa là các quốc gia có

vị trí thuận lợi về giao thông quốc tế: sân bay, bến cảng... sẽ nhận được một nguồn

thu đặc biệt từ thuế nhập khẩu vào EU mà các quốc gia nhỏ hơn, ở vị trí bất lợi

hơn như Hy Lạp không nhận được; thậm chí đó là khoản thuế đánh trên hàng hóa

nhập khẩu đang tiêu thụ tại nước mình. Do đó, nguồn thu ngân sách của họ bị suy

giảm. Hơn nữa, tại các nước kém phát triển hơn như Hy Lạp, để tránh làn sóng di

dân khi thực hiện tự do hóa lao động, chính phủ buộc phải gia tăng các khoản chi

94

phúc lợi, chi an sinh xã hội cho công dân của mình. Điều này góp phần làm gia

tăng thâm hụt ngân sách.

Thiếu cơ chế giám sát và xử phạt của khối Liên minh Châu Âu

Việc thiếu thực thi của Hiệp ước ổn định và tăng trưởng cũng được xem

như là một yếu tố góp phần vào vấn đề nợ ở Hy Lạp. Năm 1997, các thành viên EU

đã thông qua Hiệp ước ổn định và tăng trưởng, một thỏa thuận nhằm tăng cường

giám sát và thực thi các qui tắc tài chính công nêu trong “tiêu chuẩn hội tụ” của

Hiệp ước Maastricht năm 1992. Các qui tắc cho thâm hụt ngân sách Chính phủ

không quá 3% GDP, nợ công không vượt quá 60% GDP.

Năm 1997, Hiệp ước tăng trưởng và ổn định đã không được giữ vững, các

quốc gia thành viên đã vượt qua giới hạn thâm hụt. Họ đã không tuân thủ đầy đủ

các biện pháp khắc phục khuyến cáo của Ủy ban Châu Âu và Hội đồng Liên minh

Châu Âu quy định về thâm hụt ngân sách.

Sau sự ra mắt của đồng Euro trong năm 1999, số lượng các nước thành viên

ngày càng tăng cho thấy khó thực hiện theo mức quy định của Hiệp ước. Từ năm

2003, hơn 30 trường hợp thâm hụt quá mức diễn ra, tuy nhiên Liên minh Châu Âu

chưa bao giờ áp đặt một hình thức xử phạt tài chính nào đối với bất kỳ quốc gia

thành viên vì vi phạm giới hạn thâm hụt.

3.2.3 Diễn biến cuộc khủng hoảng nợ Hy Lạp

Gia nhập khu vực đồng tiền chung euro năm 2001 là cơ hội lớn để Hy Lạp

có thể tiếp cận với thị trường vốn quốc tế. Nhưng đây lại là nguyên nhân khiến quốc

gia này lâm vào cảnh nợ nần. Do dễ dàng thu hút vốn đầu tư nước ngoài nên trong

gần một thập kỷ qua, Chính phủ Hy Lạp liên tục bán trái phiếu để thu về hàng trăm

tỷ đôla. Số tiền này lẽ ra có thể giúp kinh tế Hy Lạp tiến rất xa nếu chính phủ có kế

hoạch chi tiêu hợp lý. Chính phủ Hy Lạp chỉ biết chi tiêu (phần lớn cho cơ sở hạ

tầng) chứ hầu như không quan tâm đến các kế hoạch trả nợ.

95

Một ví dụ dễ thấy nhất là công tác tổ chức Olympic 2004 - kỳ thế vận hội

được hoành tráng nhất và cũng tốn kém nhất trong lịch sử. Chi 12 tỷ euro (cao hơn

tới 10 tỷ so với dự kiến) nhưng không cho phép bất cứ một biển hiệu quảng cáo nào

được xuất hiện trên đường phố, Chính phủ Hy Lạp đã khiến ngân sách quốc gia

năm 2004 thâm hụt tới 6,1% so với GDP trong khi giới hạn mà khối EU cho phép là

3%. Không chỉ chi phí cho cơ sở hạ tầng, quỹ lương của khối dịch vụ công tại Hy

Lạp đã tăng gấp đôi trong vòng 10 năm qua. Trong khi đó, nguồn thu không được

cải thiện sau hàng loạt biện pháp cắt giảm thuế để kích thích đầu tư.

Những bất ổn nội tại của kinh tế Hy Lạp thực sự biến thành cơn bạo bệnh khi

cơn bão khủng hoảng kinh tế thế giới 2008-2009 tràn qua quốc gia Nam Âu này.

Cuối tháng 9/2009, chỉ vài tuần trước khi bị đánh bại trong cuộc tổng tuyển cử ngày

4/10/2009, chính quyền của Thủ tướng Costas Karamanlis cho biết thâm hụt ngân

sách năm 2009 của nước này ở mức 6-8% so với GDP. Con số này nhanh chóng bị

bác bỏ khi Đảng Xã hội Hy Lạp lên nắm quyền. Ngày 20/10/2009, tân thủ tướng

George Papandreou khẳng định thâm hụt ngân sách trong tài khóa 2009 phải ở mức

12,5%, gấp hơn 4 lần giới hạn cho phép của một quốc gia sử dụng đồng euro. Mức

thâm hụt này cùng với khoản nợ trị giá 300 tỷ euro đã thực sự cho thấy tính nghiêm

trọng của cuộc khủng hoảng tại Hy Lạp. Nguy hiểm hơn, nền kinh tế lớn thứ 27 thế

giới này rất có thể chỉ là kíp nổ của toàn bộ hệ thống tài chính, tiền tệ châu Âu.

Ngày 3/11/2009, Ủy ban Châu Âu (EC) dự báo mức thâm hụt ngân sách của

Hy Lạp là 12,7% trong năm 2009 và 12,2% trong 2010. Hai ngày sau, chính phủ

nước này công bố dự thảo ngân sách tài khóa 2010, trong đó nhấn mạnh tới việc

thắt chặt chi tiêu và dừng các chương trình miễn thuế nhằm giảm thâm hụt ngân

sách xuống mức 9,4%. Cùng thời điểm này, nhiều dự báo được được đưa ra cho

thấy nợ công của Hy Lạp có thể tăng từ mức 113,4% GDP năm 2009 lên 121-125%

GDP trong năm 2010. Hàng loạt tổ chức quốc tế tuyên bố hạ định mức tín nhiệm

của Hy Lạp trên thị trương tài chính. Ngày 7/12/2009, S&P cho Hy Lạp điểm tín

nhiệm A- với triển vọng kém lạc quan. Một ngày sau đó, Fitch đánh tụt điểm số của

nền kinh tế này từ A- xuống còn BBB+. Trước những diễn biến xấu, ngày

96

14/12/2009, Thủ tướng Papandreou tuyên bố sẽ thẳng tay với nạn tham nhũng, thắt

chặt chi tiêu hơn nữa, trong đó đánh thuế 90% lên các khoản thưởng của giới “cá

mập” ngân hàng cũng như ra lệnh cấm toàn bộ việc thưởng tiền cho các quan chức

điều hành trong khu vực công. Mười ngày sau, Quốc hội Hy Lạp thông qua dự thảo

ngân sách và dự báo mức thâm hụt ngân sách của năm 2010 là 9,1%. Tuy nhiên,

cộng đồng quốc tế, đặc biệt là các quốc gia trong khối sử dụng đồng tiền chung euro

vẫn tỏ ra chưa thật hài lòng với kế hoạch nói trên vì cho rằng tình trạng ngân sách

thâm thủng và bất ổn của Hy Lạp có thể ảnh hưởng tới toàn khối. Định mức tín

nhiệm của nước này tiếp tục đi xuống trong mắt các tổ chức quốc tế. S&P tiếp tục

hạ điểm của Hy Lạp xuống còn BBB- vào ngày 16/12. Trái phiếu Chính phủ Hy

Lạp liên tục phải nâng lãi suất trên thị trường tài chính quốc tế.

Bước sang năm 2010, Chính quyền của Thủ tướng Papandreou một lần nữa

phải thay đổi kế hoạch vào ngày 14/1/2010 nhằm hạ mức thâm hụt xuống dưới 3%

vào năm 2012 như yêu cầu của EU. Theo kế hoạch này, bội chi ngân sách trong

năm 2010 của quốc gia Nam Âu này sẽ phải ở mức 8,7%. Song song với cắt giảm

ngân sách dành cho y tế, quốc phòng, tăng thuế. Ngày 2/2/2010, lãnh đạo Hy Lạp

tuyên bố một chính sách lương thưởng hà khắc đối với khối dịch vụ công. Mục tiêu

của chính sách này là nhằm cắt giảm quỹ lương khoảng 4%. Đến ngày 25/2/2010,

sau cuộc gặp với đại diện EU và IMF, Chính phủ Hy Lạp cho biết sẽ xem xét một

kế hoạch “thắt lưng buộc bụng” mới. Kế hoạch này, cuối cùng đã được công bố vào

ngày 3/3/2010 với quy mô tương đương 4,8 tỷ euro, bao gồm cắt giảm quỹ hưu trí,

lương thưởng tại khu vực công, ban hành một số sắc thuế mới đối với các các sản

phẩm nhập khẩu như thuốc lá, rượu, xăng dầu và các mặt hàng xa xỉ.

Sau nhiều tháng tranh cãi, vào cuối tháng 3/2010 các nước sử dụng chung

đồng euro đã đồng ý về một giải pháp an toàn cho Hy Lạp. Theo đó Hy Lạp sẽ nhận

được các khoản vay từ các quốc gia châu Âu và IMF. Tuy nhiên những cam kết

thiếu cụ thể này chưa đủ sức thuyết phục để làm giảm sức ép lãi suất trên thị trường

trái phiếu đối với chính phủ Hy Lạp. Lãi suất trái phiếu chính phủ Hy Lạp tiếp tục

tăng mạnh do lo ngại của giới đầu tư về khả năng mất khả năng thanh toán của

97

chính phủ nước này. Vào ngày 11/4/2010 các nhà lãnh đạo châu Âu thông báo hứa

sẽ cho chính phủ Hy Lạp vay 30 tỉ USD, cùng với khoản vay 15 tỉ USD từ IMF, với

mức lãi suất 5% - thấp hơn so với mức lãi suất 7,5% mà Hy Lạp đang phải trả, tuy

nhiên nó cũng đủ lớn để các quan chức của Đức cho rằng đó không phải là một sự

trợ cấp hay giải cứu đối với Hy lạp.

Cũng trong tháng 4/2010, ông Papandreou đã chính thức thỉnh cầu gói cứu

trợ trị giá 60 tỉ USD nhằm cứu con tàu kinh tế đang chìm dần. Giới đầu tư quốc tế

tiếp tục hạ thấp mức tín nhiệm của trái phiếu chính phủ Hy Lạp, điều này khiến

IMF và các đối tác của Hy Lạp ở châu Âu buộc phải đứng ra cam kết một gói cứu

trợ lớn hơn. Theo kế hoạch này, công bố ngày 2/5/2010 và được thông qua bởi quốc

hội Hy Lạp ngày 6/5/2010, Hy Lạp sẽ nhận được khoản vay trị giá 110 tỉ euro hay

tương đương 140 tỉ USD trong vòng 3 năm tới nhằm tránh mất khả năng thanh toán.

Đổi lại, chính phủ Hy Lạp phải đáp ứng những cam kết cắt giảm nợ trong vòng 3

năm tới. Chính phủ Hy Lạp đã đồng ý thực hiện các biện pháp thắt lưng buộc bụng

và nhiều khả năng thâm hụt ngân sách sẽ giảm nhưng đồng thời cũng nhiều khả

năng gây ra một chu kì khủng hoảng kinh tế mới cho nước này.

Tuy nhiên, thị trường tiếp tục hoài nghi với các khoản vay được cam kết này,

các nhà đầu từ tiếp tục đẩy lãi suất đối với trái phiếu chỉnh phủ Hy Lạp lên cao hơn

cả trái phiếu chính phủ của các nước đang phát triển như Ấn Độ và Philippines.

Điều đó khiến Hy Lạp lầm vào tình thế khó khăn hơn trên thị trường tài chính và

buộc ông Papandreou phải kêu gọi giải ngân ngay các khoản vay này nhằm tránh sự

lo ngại leo thang.

Ngày 18/5/2010 Hy Lạp đã nhận được khoản vay đầu tiên trong gói cứu trợ

kéo dài 3 năm của 10 nước châu Âu (trị giá 110 tỷ euro, tương đương 136 tỷ USD),

trong đó có Đức và IMF nhằm tránh khả năng phá sản. Gói cứu trợ kéo dài 3 năm

này được đưa ra nhằm giúp Hy Lạp không cần dựa vào thị trường tài chính cho tới

cuối năm 2011 và quý đầu của năm 2012. Tuy nhiên, Bộ trưởng tài chính Hy Lạp -

ông George Papaconstantinou cho rằng nước này có thể không cần phải đợi đến thời

gian đó nếu kinh tế Hy Lạp hồi phục và niềm tin của các nhà đầu tư trên thị trường

98

tài chính đối với trái phiếu chính phủ Hy Lạp quay trở lại. Khoản giải ngân ngày

18/5/2010 đã giúp Hy Lạp trả món nợ trị giá 8,5 tỉ euro đáo hạn vào ngày hôm sau.

Khoản nợ tiếp theo mà chính phủ Hy Lạp cần phải chi trả trị giá 8,6 tỉ euro sẽ đáo

hạn vào tháng 3/2011.

Như vậy, sau khi những lời hứa thất bại trong việc lấy lại niềm tin của thị

trường tài chính vào Hy Lạp thì phần đầu tiên của gói cứu trợ đã thực sự được giải

ngân. Những lo ngại về khả năng tuyên bố phá sản và quỵt nợ của Hy Lạp hầu như

không còn nữa. Giá trị đồng euro, thể hiện niềm tin của giới đầu tư vào khu vực

châu Âu, đã tăng nhẹ trở lại. Cái mà thế giới đang quan tâm lúc này chính là khả

năng phục hồi của kinh tế Hy Lạp cũng như tác động của nó đến kinh tế thế giới mà

đầu tàu là kinh tế Mỹ.

Ngày 21/07/2011 các nhà lãnh đạo 17 nước khu vực đồng tiền chung Châu

Âu (Eurozone) và IMF đã đồng ý một thỏa thuận toàn diện cứu Hy Lạp khỏi khủng

hoảng nợ, trong đó có việc dành cho Hy Lạp gói cứu trợ thứ hai (và được hy vọng

là cuối cùng) trị giá 109 tỉ euro (155 tỉ USD).

So với gói cứu trợ đầu tiên, kế hoạch giải cứu lần này có sự tham gia của cả khu vực

tư nhân vào quỹ hỗ trợ, với số tiền đóng góp lên tới hơn 53 tỷ USD, chiếm hơn một

phần ba số tiền mà Hy Lạp nhận được. Theo bản tin Anh BBC, cùng với gói cứu trợ

tức thời, các ngân hàng cũng cam kết cho Hy Lạp vay hơn 194 tỷ USD trong vòng

30 năm tới. Sau khi quyết định giải cứu được công bố, Thủ tướng Hy Lạp cho rằng

với gói tài chính nêu trên, nước này có thể tính tới một chương trình trả nợ hợp lý

và bền vững.

Các cột mốc quan trọng đánh dấu mức độ tăng tốc khủng hoảng nợ Hy Lạp từ

cuối tháng 3/2010:

Ngày 25/3: Hy Lạp tham gia vào gói vay cứu trợ của EU và IMF phối hợp

Ngày 29/3: Hy Lạp tiến hành phát hành mới trái phiếu chính phủ kỳ hạn 7

năm, tổng trị giá 5 tỷ euro, với mức lãi suất vào khoảng 6%.

99

Ngày 30/3: Hy Lạp tái phát hành trái phiếu chính phủ kỳ hạn 20 năm (loại

đã phát hành sẽ đáo hạn vào 2020)

Ngày 7/4: Bốn ngân hàng lớn nhất của Hy Lạp yêu cầu Chính phủ hỗ trợ

thanh khoản, đề nghị được tiếp cận khoảng 17 tỷ euro còn lại trong tổng 28 tỷ euro

nằm trong gói hỗ trợ nhà nước thành lập từ năm 2008.

Ngày 9/4: Tổ chức xếp hạng tín dụng Fitch hạ mức xếp hạng phát hành trái

phiếu dài hạn bằng cả nội tệ và ngoại tệ của Hy Lạp từ mức BBB+ xuống BBB-

Ngày 11/4: EU/IMF tuyên bố gói cứu trợ trị giá 45 tỷ euro cho Hy Lạp

trong thời gian 3 năm, trong đó các nước EU cam kết góp 30 tỷ euro, còn IMF hy

vọng sẽ hỗ trợ từ 10 – 15 tỷ euro.

Ngày 22/4: Thâm hụt ngân sách Hy Lạp năm 2009 được điều chỉnh tăng từ

mức 12,9% lên 13,6% GDP. Trong cùng ngày, tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody’s

hạ mức xếp hạng tín nhiệm của trái phiếu chính phủ Hy Lạp xuống A3.

Ngày 23/4: Hy Lạp chính thức xin gói vay cứu trợ của EU/IMF

Ngày 27/4: Tổ chức xếp hạng tín nhiệm S&P hạ mức xếp hạng tín nhiệm

của trái phiếu chính phủ từ mức BBB+ xuống mức BB+

Ngày 18/5: Hy Lạp đã nhận được khoản vay đầu tiên trong gói cứu

trợ kéo dài 3 năm của 10 nước Châu Âu và IMF trị giá 110 tỷ euro, tương đương

136 tỷ USD để ngăn chặn khả năng vỡ nợ của nước này.

3.2.4 Hƣớng giải quyết khủng hoảng nợ của Hy Lạp

Nằm trong kế hoặc thắt lưng buộc bụng nhằm nhận được gói cứu trợ, vào

đầu tháng 3/2010 Chính phủ Hy Lạp đã phê chuẩn một kế hoạch cắt giảm chi tiêu

bao gồm: cắt giảm lương của khu vực công, tăng thuế, và cắt giảm lương hưu.

Những biện pháp thắt lưng buộc bụng khó khăn này đã gặp phải sự phản ứng giận

dữ từ công chúng khi mà có tới 1/3 lực lượng lao động thuộc khu vực Nhà nước.

Các nhà phân tích cho rằng, các cuộc biểu tình có thể là tín hiệu khởi đầu của một

xã hội bất ổn. Nó có thể làm tê liệt và đẩy nền kinh tế lún sâu vào suy thoái.

100

Về nguồn thu Chính phủ, Bộ trưởng Tài chính Hy Lạp, ông George

Papaconstantinou, thông báo rằng Chính phủ Hy Lạp đã đồng ý tăng thuế Giá trị gia

tăng (VAT) từ 21% lên 23%, giữ nguyên tiền lương và bỏ tiền thưởng của khu vực

công. Đồng thời, các thành viên Quốc hội sẽ không nhận tiền thưởng. Những quy

định đặc biệt cho phép về hưu sớm sẽ được thắt chặt và Chính phủ dự định tăng

thuế đối với nhiên liệu, thuốc lá, và rượu khoảng 10%. Hy Lạp hy vọng những cải

cách kinh tế sẽ tăng nguồn thu lên chiếm 1,8% GDP, giúp thâm hụt ngân sách của

Hy Lạp giảm xuống còn 8,1% GDP trong năm 2010, so với mức 13,6% của năm

2009 (theo mức điều chỉnh của Eurostat vào tháng 4/2010). Theo quy định của EU,

các nước nên giới hạn thâm hụt ngân sách không quá 3% GDP. Hy Lạp dự kiến sẽ

cắt giảm thâm hụt ngân sách xuống còn 4,9% vào năm 2013 và xuống dưới mức

giới hạn 3% của EU vào năm 2014.

Ngay cả khi nhận được gói cứu trợ, Hy Lạp vẫn đang phải đối mặt với

nhiều vấn đề liên quan đến việc tìm kiếm các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế

trong thời gian tới. Ngoài hiện trạng thâm hụt ngân sách cao khiến lãi suất tăng vọt

trên thị trường tài chính, Hy Lạp còn đang phải đối mặt với một nền kinh tế yếu với

khả năng cạnh tranh thấp. Khác với ở Đức, sự gia tăng tiền lương ở Hy Lạp trong

thời gian qua không tương ứng với sự gia tăng năng suất. Khả năng cạnh tranh kém

đã làm giảm cầu về hàng hóa Hy Lạp và dẫn đến thâm hụt cán cân thương mại cao

(khoảng 14% GDP). Hơn nữa, do sử dụng đồng tiền chung châu Âu nên Hy Lạp

không có khả năng phá giá tiền tệ nhằm khôi phục khả năng cạnh tranh.

Tăng trưởng kinh tế năm 2009 của Hy Lạp giảm 1,2% và các cuộc biểu tình

bãi công khiến cho khả năng hồi phục càng chậm lại. Các giải pháp thắt lưng buộc

bụng hiện tại có thể chỉ làm trầm trọng thêm vấn đề. Các nước đang kêu gọi Hy Lạp

cần phải cắt giảm chi tiêu Chính phủ. Tuy nhiên, khi nền kinh tế đang lâm vào suy

thoái và thất nghiệp cao, biện pháp vừa tăng thuế vừa cắt giảm chi tiêu Chính phủ

có thể dẫn đến thất nghiệp nghiêm trọng hơn và đưa Hy Lạp đến tình trạng suy

thoái nặng hơn.

101

Dự báo nợ công Hy lạp đến năm 2016

Nguồn: IMF, World Economic Outlook Database, April 2011

3.3 Nguyên nhân và hƣớng giải quyết khủng hoảng nợ công tại một số nƣớc

khác ở Châu Âu

3.3.1 Ireland

Nguyên nhân khủng hoảng nợ công của Ireland

Khác với nguyên nhân khủng hoảng nợ của Hy Lạp, trình trạng khủng

hoảng nợ công của Ireland bắt nguồn từ việc Chính phủ đã không kịp thời khống

chế hành vi cho vay thiếu trách nhiệm của một số ngân hàng. Mức thâm hụt ngân

sách của Ireland vào cuối năm 2010 tăng mạnh không kém Hy Lạp là do Chính phủ

nước này phải bỏ tiền ra cứu trợ ngành ngân hàng, bao gồm quốc hữu hóa ngân

hàng và chi tiền để tái cấp vốn cho một số ngân hàng trong nước.

Nguyên nhân chính là do các ngân hàng của Ireland ngày càng phải gánh

nhiều nợ xấu sau khi đã tăng cho vay quá mạnh trong thời kỳ kinh tế nước này tăng

tưởng mạnh và bong bóng bất động sản phình to. Khi thị trường bất động sản nước

này sụp đổ, nhiều phần trong các khoản cho vay bất động sản này trở thành nợ xấu

và các ngân hàng đứng trước nguy cơ sụp đổ. Chính phủ Ireland buộc phải cứu hệ

thống ngân hàng bằng cách tạo ra một định chế tài chính mới gọi là NAMA

(National Asset Management Agency) vào năm 2009 để nhận hầu hết các khoản nợ

xấu của các ngân hàng lớn của Ireland. Chính phủ Ireland đã biến nợ xấu của các

102

ngân hàng này thành “tài sản tệ hại” (toxic assets) mà Chính phủ phải quản lý, nghĩa

là trở thành tài sản công (nhưng đang liên tục mất giá) và lấy tiền của ngân sách để

bù đắp cho các tổn thất của nó.

Vì vậy, khủng hoảng nợ của Ireland thực tế là do Chính phủ phải đi cứu trợ

cho hệ thống ngân hàng, khiến nợ xấu từ khu vực tư nhân tạo thành gánh nặng nợ

nần của Chính phủ. Và cuối cùng Chính phủ không đủ tiền trả nợ phải đi cầu viện

EU và IMF để có tiền cứu giúp hệ thống ngân hàng của mình.

Tình hình nợ công và thâm hụt ngân sách của Ireland

Nguồn: Eurostat [45]

Hướng giải quyết của chính phủ Ireland

Ban đầu, Chính phủ Ireland kiên quyết không cần tới sự giúp đỡ từ bên

ngoài nhưng cuối cùng ngày 21/11/2010 Ireland cũng đã phải cầu cứu sự viện trợ

của EU và IMF (với gói cứu trợ trị giá 85 tỷ euro). Sau đó, Chính phủ Ireland công

bố chương trình thắt chặt tài chính trong bốn năm với tổng giá trị lên tới 15 tỷ euro,

trong đó cắt giảm 10 tỷ euro chi tiêu và tăng 5 tỷ euro thuế. Mục tiêu của chương

trình này là nhằm giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách/GDP xuống còn 3% vào năm 2014

để phù hợp với yêu cầu của EU.

Chính phủ Ireland cho biết sẽ duy trì mức 12,5% thuế doanh nghiệp, nhưng

sẽ cải cách lại thuế thu nhập cá nhân và dự tính sẽ nâng thuế Giá trị gia tăng từ mức

103

hiện nay là 21% lên tới 22% vào năm 2013. Ngoài ra, sẽ cắt giảm 24.750 việc làm

của ngành cộng đồng và giảm 10% lương nhân viên mới ngành cộng đồng. Tổng

cộng sẽ cắt giảm 1,2 tỷ euro lương ngành cộng đồng và giảm mạnh 2,8 tỷ euro

khoản phúc lợi xã hội.

3.3.2 Bồ Đào Nha

Nguyên nhân khủng hoảng nợ công của Bồ Đào Nha

Tiếp theo cuộc khủng hoảng nợ công xảy ra tại Hy Lạp và Ireland, cuộc

khủng hoảng nợ công đã lan đến Bồ Đào Nha như một hiệu ứng domino ở khu vực

đồng tiền chung châu Âu (Eurozone). Tại mỗi nước có những căn nguyên khác

nhau và cách giải quyết khác nhau.

Tình hình nợ công và thâm hụt ngân sách Bồ Đào Nha

Nguồn: Eurostat [45]

Khủng hoảng nợ của Hy Lạp xuất phát từ nguyên nhân chính là khả năng

quản trị tài chính công yếu kém của nước này với những khoản chi tiêu của Chính

phủ quá lớn và vượt kiểm soát. Trong khi đó, cuộc khủng hoảng nợ công tại Ireland

lại xảy ra từ một khía cạnh khác. Khủng hoảng nợ của Ireland là do Chính phủ phải

đi cứu trợ cho hệ thống ngân hàng, nợ tư trong nước đã biến thành nợ công, trở

thành gánh nặng nợ nần cho Chính phủ.

104

Tương tự như Ireland, khủng hoảng nợ công của Bồ Đào Nha cũng đến từ

nợ của khu vực tư nhân. Tất nhiên nợ nước ngoài có ảnh hưởng quan trọng đến nợ

công của các quốc gia. Tuy nhiên ở Bồ Đào Nha, cú đánh có tính chất quyết định

dẫn đến cuộc khủng hoảng nợ công xảy ra tại đây là từ vấn đề nợ nước ngoài của

khu vực tư nhân. Tầm quan trọng của nợ nước ngoài có thể được minh họa bằng

trường hợp của Bồ Đào Nha. Ở quốc gia này, mặc dù nợ công và tỷ lệ thâm hụt khá

cao nhưng cũng chỉ tương tự như của Pháp. Vấn đề quan trọng nhất mà Bồ Đào

Nha đang phải đối mặt, không phải là chính sách tài chính, mà là các khoản nợ nước

ngoài cao của khu vực tư nhân: các ngân hàng và các doanh nghiệp Bồ Đào Nha.

Hướng giải quyết của chính phủ Bồ Đào Nha

Để đối phó với cuộc khủng hoảng nợ công, Chính phủ Bồ Đào Nha đã đưa

ra kế hoạch “thắt lưng buộc bụng”, trong đó chủ yếu là cắt giảm chi tiêu và tăng

thuế để giảm thâm hụt ngân sách. Tuy vậy, kế hoạch trên của Chính phủ Bồ Đào

Nha đã không được Quốc hội ủng hộ. Sự không ủng hộ của Quốc hội đối với kế

hoạch chi tiêu “thắt lưng buộc bụng” của Chính phủ đã đẩy Chính phủ Bồ Đào Nha

phải gõ cửa các tổ chức tài chính hàng đầu thế giới là IMF và EU.

Một kế hoạch cứu con thuyền nợ công Bồ Đào Nha đã được thông qua, theo

đó IMF và EU sẽ đưa ra gói cứu trợ 78 tỷ Euro (tương đương) 110 tỷ USD, trong đó

IMF sẽ cho vay 26 tỷ Euro, số còn lại là từ EU. Đổi lại số tiền trên, Bồ Đào Nha sẽ

phải cắt giảm mạnh chi tiêu, nâng thuế khóa, cải tổ hệ thống pháp lý và lao động.

3.4 Ảnh hƣởng của cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu

Tác động đến nền kinh tế Trung Quốc

Cuộc khủng hoảng nợ công của các nước khu vực đồng Euro đã làm đồng

Euro mất giá so với đồng Nhân dân tệ. Điều này sẽ làm tăng áp lực chi phí cho các

nhà sản xuất Trung Quốc, tác động tiêu cực đến xuất khẩu Trung Quốc, hàng hoá

xuất sang EU sẽ kém cạnh tranh, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế của nước này.

Bên cạnh đó, trong nhiều năm gần đây, nhằm tránh lệ thuộc quá nhiều vào trái

phiếu kho bạc Mỹ. Trung Quốc đã đa dạng hoá nguồn dự trữ ngoại tệ, mở rộng nắm

105

giữ trái phiếu chính phủ của các nước châu Âu. Với cuộc khủng hoảng hiện nay tại

Châu Âu, Trung Quốc bị thiệt hại khá nhiều trong tổng số giá trị dự trữ ngoại hối

của mình.

Cuộc khủng hoảng nợ công buộc các Chính phủ châu Âu thực hiện chính

sách tiền tệ thắt chặt. Các chính sách này có thể cũng ảnh hưởng đến hàng hoá xuất

khẩu của Trung Quốc. Ngày 31/5/2010, Thủ tướng Trung Quốc - Ôn Gia Bảo cho

rằng cuộc đấu trang ngăn chặn gia tăng nợ chủ quyền tạo ra mối đe dọa đến việc

khôi phục tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Ông cho biết, vẫn còn quá sớm để rút các

gói kích thích kinh tế đã triển khai trong cuộc khủng hoảng 2007-2009.

Tác động đến nền kinh tế Mỹ

Mỹ cũng chịu tác động của cuộc khủng hoảng từ châu Âu, đặc biệt là tác

động đến khả năng khôi phục kinh tế sau khủng hoảng năm 2007. Trước mắt, khủng

hoảng nợ châu Âu làm cho thị trường tài chính Mỹ đi xuống bởi Mỹ là chủ nợ lớn

của các nước thuộc khu vực đồng Euro và nếu đồng euro mất giá so với đồng đôla

Mỹ, các hoạt động xuất nhập khẩu của Mỹ bị ảnh hưởng tiêu cực. Bên cạnh đó, lợi

nhuận của các công ty Mỹ có thị phần tại châu Âu giảm do thị trường châu Âu đóng

góp 20% tổng doanh thu của các công ty sản xuất hàng tiêu dùng của Mỹ.

Việc tiếp tục gia tăng bất ổn ở thị trường tài chính và các điều kiện tín dụng

thắt chặt ở châu Âu có thể làm giảm ý chí của các công ty cho vay, cho thuê của

Mỹ, vì vậy tác động đến khôi phục kinh tế của Mỹ. Tổng thống Mỹ Obama đã kêu

gọi lãnh đạo của các nước EU có các biện pháp mạnh nhằm ngăn chặn khủng hoảng

nợ công. Bộ trưởng tài chính Mỹ Grithner cho rằng, các biện pháp của châu Âu

chưa đúng tầm, cần phải được tăng cường hơn nữa. Cục Dự trữ liên bang Mỹ cũng

quyết định hỗ trợ đối với các nền kinh tế châu Âu bằng việc mở lại chương trình

cho Ngân hàng Trung ương Châu Âu và các ngân hàng nước ngoài khác vay bằng

tiền đôla Mỹ .

106

Làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới, tỷ lệ thất nghiệp tăng cao

Cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu đã làm cho tốc độ phục hồi kinh tế

thế giới chậm lại và ảnh hưởng đến xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế của nhiều nước

trên thế giới, đặc biệt là khu vực châu Âu sẽ phải chứng kiến tình hình thất nghiệp

và lạm phát tăng cao, đồng Euro mất giá, tăng trưởng GDP giảm sút, làm cho thu

nhập thực tế người dân và cầu tiêu dùng với hàng nhập khẩu giảm mạnh.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

Khủng hoảng nợ công ở Châu Âu có thể tạo ra hai tác động trái chiều hoàn

toàn với luồng vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trên phạm vi toàn cầu. Trong

những quốc gia có trình độ phát triển tương đương với các nước thuộc EU sẽ hưởng

lợi do nguồn vốn FDI sẽ dịch chuyển từ châu Âu sang các quốc gia này khi nhà đầu

tư muốn tránh thuế thu nhập doanh nghiệp đang có xu hướng tăng cao tại các quốc

gia châu Âu. Ngược lại, các nước có trình độ phát triển thấp như Việt Nam thì

luồng vốn từ các nhà đầu tư Châu Âu vào các quốc gia này có thể bị giảm sút do

cuộc khủng hoảng nợ.

Biến động tỷ giá và gia tăng rủi ro tỷ giá hối đoái

Khủng hoảng nợ công Châu Âu cũng tạo ra những biến động khó lường về tỷ

giá. Từ khi cuộc khủng hoảng có dấu hiệu nghiêm trọng, đồng Euro mất giá tương

đối so với USD và các ngoại tệ mạnh trên thế giới. Điều này sẽ tạo ra những rủi ro

nhất định trong việc vay, trả ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng

như cho hoạt động ngoại hối của các ngân hàng thương mại.

Hiện nay, để giải quyết vấn đề khủng hoảng nợ công, Chính phủ các nước

đang áp dụng biện pháp thắt chặt tài chính như giảm chi tiêu, tăng tuế, giảm lương

và tư nhân hoá. Tuy nhiên, các biện pháp thắt chặt tài chính có thể sẽ làm giảm cầu

nội địa, cản trở kích thích kinh tế cần thiết và gây khó khăn cho việc khôi phục kinh

tế ở các nước khu vực đồng Euro.

107

Do đó, cuộc khủng hoảng nợ công ở châu Âu ít nhiều cũng tác động đến

kinh tế Việt Nam. Do chính sách thắt chặt tài chính của EU nên cầu tiêu dùng EU

giảm và điều này sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt là các mặt

hàng dệt may, thuỷ sản và một số mặt hàng khác đang được sản xuất trong các khu

chế xuất và khu công nghiệp Việt Nam có bạn hàng từ các nước sử dụng đồng Euro.

108

PHỤ LỤC 4

Giải pháp cho các cuộc khủng hoảng nợ [8]

4.1 Mua nợ

Mua bán nợ là hoạt động kinh tế để trao đổi và chuyển giao phần tài sản từ

đối tượng này sang đối tượng khác. Thực chất, đó là việc chuyển nhượng lại “quyền

thu hồi nợ” từ một “khoản nợ phải thu” của chủ nợ đối với con nợ sang cho bên

mua nợ để bên mua nợ trở thành chủ nợ mới của bên con nợ. Như vậy, hoạt động

mua bán nợ được thực hiện đối với các khoản nợ phải thu (của bên chủ nợ) mà

không phải là nợ phải trả (của bên con nợ).

Theo nghĩa hẹp, mua bán nợ (factoring) diễn ra giữa các doanh nghiệp và

có sự trung gian của các tổ chức tài chính với vai trò là cấp tín dụng. Suy rộng ra

cho cả nền kinh tế và xét dưới góc độ một quốc gia, mua bán nợ (Repurchase debt)

là việc mua lại món nợ quốc gia thông thường với một mức giá chiết khấu nhất định

trên thị trường thứ cấp.

Trong cuộc khủng hoảng nợ quốc tế, nhiều ngân hàng quốc tế cho vay cố

gắng giảm thiểu rủi ro tổn thất từ việc cho các nước đang phát triển vay. Một vài

ngân hàng cố gắng hoán đổi các khoản vay của các nước đang phát triển để đạt

được một danh mục đa dạng hóa hơn. Các khoản vay nước ngoài lúc này được mua

bán dưới một mức chiết khấu đáng kể. Trên thực tế, một vài ngân hàng Trung Đông

và Châu Âu muốn bán toàn bộ các khoản cho vay của mình. Các ngân hàng muốn

bán các khoản vay của mình thường là không sẵn sàng tái cấu trúc các điều khoản

cho vay và họ không dành thời gian cho các nước đang phát triển hồi phục. Thay

vào đó, họ muốn bán rẻ các khoản vay và chịu tổn thất ngay lập tức. Họ cho rằng,

điều này sẽ tránh được những tổn thất có thể có về sau, và đây là một phương pháp

đánh đổi. Xác suất thanh toán các khoản vay quan sát được có thể được đánh giá

bằng cách xem lại các chiết khấu dành cho các khoản vay của các nước đang phát

triển giao dịch ở thị trường thứ cấp.

109

4.2 Thực hiện kế hoạch Brady

Trong khoảng thời gian từ 1985 đến 1988, kế hoạch Brady được đưa ra như

một phương cách làm giảm bớt cơn khủng hoảng nợ ở các quốc gia đang phát triển.

Kế hoạch được căn cứ trên các hành động tự nguyện của các chủ nợ nhằm giảm

thiểu rủi ro của họ.

Tháng 12/1988, WB đã đề nghị thực hiện dần kế hoạch, cùng với cam kết

cung cấp cho các nước đang phát triển các khoản vay thay cho các khoản vay ngân

hàng và áp đặt các biện pháp cải tổ ở các nước này. Đến năm 1989 kế hoạch lấy đà

đi lên khi IMF cho thấy sẵn sàng thay thế nợ của các nước đang phát triển do các

ngân hàng đang nắm giữ.

Theo kế hoạch, các cuộc đàm phán giữa ngân hàng thương mại quốc tế cho

vay với từng nước đang phát triển được khuyến khích lập ra để cung cấp cho các

ngân hàng quyền chọn việc nợ của họ được WB và IMF thay thế bằng cách mua lại

ở một mức giá chiết khấu.

Một ví dụ về thỏa thuận ở Mêxicô, theo đó các ngân hàng quốc tế đóng vai

trò là chủ nợ, được quyền lựa chọn một trong hai phương án sau: (1) đồng ý cắt

giảm 35% vốn hoặc lãi từ khoản vay, và (2) cung cấp một khoản vay mới bằng 25%

các khoản vay của Mêxicô. Nói chung, việc đánh đổi bao gồm, hoặc công nhận tổn

thất từ các khoản vay cũ trong khi cắt giảm rủi ro, hoặc tăng thêm đầu tư vào các

nước đang phát triển mà không chịu tổn thất tức thời. Thỏa ước này, về phía

Mêxicô là đang cải thiện vị thế quốc gia, nó cắt giảm số nợ của Mêxicô và cũng cho

phép quốc gia này nợ thêm từ các ngân hàng.

Một vấn đề được đặt ra là nếu như tất cả các ngân hàng đều không muốn

cho các nước đang phát triển vay thêm bằng cách xóa tất cả hoặc một phần món nợ

hiện hiện hữu, các nước này có thể sẽ không thể nào phục hồi được nền kinh tế của

mình. Vì cơ hội duy nhất của họ để thanh toán các khoản nợ hiện hữu là cải tổ kinh

tế, việc này đòi hỏi phát sinh thêm nhiều khoản vay mới. Do đó, việc sử dụng ngân

110

quỹ của WB và IMF để mua lại nợ của các ngân hàng thương mại với một mức giá

chiết khấu có thể giúp giải quyết cuộc khủng hoảng đang tiếp diễn.

4.3 Hoán đổi nợ thành vốn cổ phần

Nhiều ngân hàng và các công ty đa quốc gia đã tham gia vào việc hoán đổi

nợ thành vốn cổ phần trong nỗ lực giải quyết vấn đề nợ, qua đó làm giảm số lượng

nợ của các nước đang phát triển do các định chế tài chính nắm giữ. Một công ty đa

quốc gia có thể mua lại với một mức chiết khấu một vài các khoản nợ vay còn tồn

đọng của một nước đang phát triển ở thị trường thứ cấp. Sau đó công ty đổi món nợ

này với chính phủ nước này lấy một vài tài sản đang được chính phủ nước này

thanh lý. Các tài sản đó có thể gồm máy bay, máy móc, nhà xưởng, …

Trên thực tế, các công ty đa quốc gia đặt trụ sở tại Mỹ như Allied-Signal

Inc, Chrysler Corporation và General Electric Company đã tham gia hoán đổi nợ và

vốn cổ phần này. Nhiều định chế tài chính đang nắm giữ nợ của các nước đang phát

triển cũng thực hiện việc hoán đổi. Ngân hàng Citicorp đã hoán đổi nợ thành vốn cổ

phần vào mỏ vàng ở Chilê.

Thành công của các hoạt động này là ở chỗ mỗi bên đều giải quyết được

công việc của mình. Trong việc chuyển nhượng các tín dụng, ngân hàng cho vay

thu lại các khoản tín dụng mà tưởng như không còn hy vọng đòi được nữa, mặc dù

họ phải chịu mất một khoản chiết khấu nhưng trên thực tế không làm ảnh hưởng lớn

đến các hoạt động kinh doanh. Đơn vị mà mua nợ đầu tư vào nước nợ có thể đầu tư

với giá rẻ cho dự án của mình khiến nước mắc nợ giảm bớt được gánh nặng nợ

nước ngoài và được hưởng những khoản đầu tư mới để tạo việc làm mới.

Các công ty đa quốc gia được khuyến khích việc hoán đổi nợ thành vốn cổ

phần tại các quốc gia đang phát triển. Do đó, thị trường thứ cấp về nợ của các nước

này trở nên sôi nổi hơn. Nếu không có việc hoán đổi nợ thành vốn cổ phần thì sẽ chỉ

có những định chế tài chính nào sẵn sàng chấp nhận rủi ro tổn thất lớn hơn từ nợ

của các nước đang phát triển mới có thể mua lại những món nợ này trên thị trường

thứ cấp. Sự hiện diện của việc hoán đổi nợ thành vốn cổ phần cho phép các công ty

111

và các định chế tài chính khác thực hiện việc mua lại nghĩa vụ nợ của các nước

đang phát triển ngay khi họ không có kế hoạch nắm giữ các nghĩa vụ này. Vì các

hoán đổi nợ thành vốn cổ phần gia tăng nhu cầu mua nợ của các nước đang phát

triển trong thị trường thứ cấp, chúng làm giảm tỷ lệ chiết khấu của các món nợ này,

tức là chủ nợ cũ chịu ít thiệt thòi hơn trong việc bán nợ.

4.4 Các biện pháp khác

Một số biện pháp khác cũng được sử dụng để giải quyết vấn đề nợ ở các

quốc gia như: áp đặt hàng rào mậu dịch và phá giá tiền tệ; gia tăng dự trữ tổn thất

cho vay, …

Khi mức nợ hiện hữu của một quốc gia ở mức cao thì họ không thể thu hút

vốn đầu tư nước ngoài để trang trải nợ nần mà phải dựa chủ yếu vào xuất khẩu để

tài trợ nợ. Tuy nhiên, khi cuộc khủng hoảng lan nhanh và hầu hết các quốc gia đều

có dự định này nên không phải nước nào cũng thực hiện được nó. Để đạt được mậu

dịch thuận lợi hơn, chính phủ các nước đang phát triển có thể xem xét việc áp đặt

các hàng rào mậu dịch đối với nhập khẩu hoặc can thiệp sâu vào thị trường tiền tệ

để phá giá đồng nội tệ. Cả hai giải pháp này đều không phải là tối ưu khi vấp phải

sự trả đũa của các nước khác, cũng như có thể làm cho các khoản thanh toán nợ vay

trở nên đắt đỏ hơn bao giờ hết.

Ngoài ra, ngân hàng quốc tế cho vay có thể áp dụng việc tăng dự trữ tổn thất

cho vay, việc này làm giảm lợi nhuận công bố của các ngân hàng, mặc dù trên thực

tế chúng không hề mất đi các khoản dự trữ tổn thất này. Các khoản này được xem

như là một quỹ dự phòng, trong trường hợp xấu nhất đến với ngân hàng là không

đòi được nợ. Việc này cũng làm giảm số thuế ngân hàng phải nộp.

112

PHỤ LỤC 5

Xếp hạng nợ công của các quốc gia trên thế giới năm 2010

Nguồn: World Factbook - CIA

113

PHỤ LỤC 6

Một số chỉ số đánh giá hiệu quả quản lý nợ công Việt nam

Nguồn: Tổng hợp từ Bộ tài chính, ADB, IMF [52,53,54,55], [6] và [25]

114

PHỤ LỤC 7A

Cơ sở dữ liệu giai đoạn 1990 – 2010

Nguồn: Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, IMF [56] và ADB

115

PHỤ LỤC 7B

Kiểm định các mô hình hồi quy và ƣớc lƣợng các hệ số

Dùng mô hình hồi quy tuyến tính (HQTT) dạng log-lin để tìm hiểu mối

tương quan giữa giá trị xuất khẩu và chuyển giao ròng (X_CGR), nhập khẩu (M)

theo biến xu thế thời gian (t). Mô hình sai phân có thể được sử dụng để xử lý các

mô hình có hiện tượng tự tương quan. Từ đó, ước lượng tương ứng với tốc độ

tăng trưởng xuất khẩu và chuyển giao ròng, tốc độ tăng trưởng nhập khẩu trong

điều kiện các yếu tố khác không đổi và với mức ý nghĩa (cũng áp dụng cho

tất cả các kiểm định).

2.1 Hàm HQTT Ln(X_CGR) theo t

Dependent Variable: LOG(X_CGR)

Method: Least Squares

Date: 09/10/11 Time: 15:28

Sample: 1990 2010

Std. Error

t-Statistic

Prob.

Included observations: 21 Variable C

Coefficient 7.525509

0.060048

125.3251

0.0000

0.004782

38.64061

0.0000

0.184787

T

R-squared

0.987435 Mean dependent var

9.558169

Adjusted R-squared

0.986773 S.D. dependent var

1.153847

S.E. of regression

0.132701 Akaike info criterion

-1.111047

Sum squared resid

0.334580 Schwarz criterion

-1.011569

Log likelihood

13.66600 F-statistic

1493.097

Durbin-Watson stat

0.968756 Prob(F-statistic)

0.000000

Kết quả hồi quy (sử dụng phần mềm Eview 5.1) như sau:

Kiểm định Durbin Waston: Từ kết quả hồi quy ta có giá trị thống kê

Durbin-Watson d = 0,968756. Dựa vào bảng Durbin-Watson, với n = 21 và k’ = 1

(do có 1 biến độc lập), ta có hai giá trị phân vị và tại mức ý

116

nghĩa 5%. Vì d = 0,968756 < nên kết luận mô hình có tự tương quan

dương bậc 1.

Breusch-Godfrey Serial Correlation LM Test:

F-statistic Obs*R-squared

0.030852 0.026763

5.487021 Prob. F(1,18) 4.906005 Prob. Chi-Square(1) Ta có p- value=0,026763 < 0,05 nên kết luận mô hình có hiện tượng tự

Kiểm định Breusch-Godfrey (BG):

tương quan bậc 1

Để khắc phục hiện tượng tự tương quan, ta sử dụng sai phân bậc 1 cho mô

Dependent Variable: LOG(X_CGR) Method: Least Squares Date: 09/10/11 Time: 15:51 Sample (adjusted): 1991 2010 Included observations: 20 after adjustments Convergence achieved after 3 iterations

Std. Error

t-Statistic

Prob.

0.123891 0.008963 0.208516

60.35472 20.88722 2.343102

0.0000 0.0000 0.0315

Variable C T AR(1)

Coefficient 7.477411 0.187220 0.488574

R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood Durbin-Watson stat

0.989916 Mean dependent var 0.988730 S.D. dependent var 0.118141 Akaike info criterion 0.237276 Schwarz criterion 15.96387 F-statistic 1.220673 Prob(F-statistic)

Inverted AR Roots

.49

9.644042 1.112846 -1.296387 -1.147028 834.4255 0.000000

Kiểm định BG:

Breusch-Godfrey Serial Correlation LM Test:

F-statistic Obs*R-squared

5.033245 Prob. F(1,16) 4.785990 Prob. Chi-Square(1)

0.039371 0.028692

hình hồi qui. Kết quả mô hình sai phân bậc 1:

117

Ta có p- value=0,028692 < 0,05 nên kết luận mô hình vẫn xảy ra hiện

tượng tự tương quan bậc 1. Kết quả kiểm định ở các bậc cao hơn (2,3,4 và 5) đều có

Breusch-Godfrey Serial Correlation LM Test:

F-statistic Obs*R-squared

0.028307 0.032300

3.744402 Prob. F(5,12) 12.18801 Prob. Chi-Square(5) Do đó, mô hình sai phân bậc hai được sử dụng để loại bỏ tự tương quan.

luận có xảy ra hiện tượng tự tương quan.

Dependent Variable: LOG(X_CGR) Method: Least Squares Date: 09/10/11 Time: 16:33 Sample (adjusted): 1992 2010 Included observations: 19 after adjustments Convergence achieved after 3 iterations

Std. Error

t-Statistic

Prob.

0.122965 0.008920 0.199147 0.204992

61.90495 20.08524 3.758216 -1.282330

0.0000 0.0000 0.0019 0.2192

Variable C T AR(1) AR(2)

Coefficient 7.612121 0.179164 0.748438 -0.262867

R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood Durbin-Watson stat

0.992803 Mean dependent var 0.991363 S.D. dependent var 0.096759 Akaike info criterion 0.140434 Schwarz criterion 19.66102 F-statistic 2.240198 Prob(F-statistic)

Inverted AR Roots

.37+.35i

.37-.35i

9.746869 1.041159 -1.648528 -1.449699 689.7122 0.000000

Kết quả hồi quy như sau:

Ln(X_CGR) = 7,612121 + 0,179164t + [AR(1)=0,748438, AR(2)=-0,262867] +

Mô hình có p = 0,00000 << 0,05 -> bác bỏ giả thiết , tức mô

hình giải thích được 99,28% sự thay đổi của tăng trưởng xuất khẩu theo t.

118

2.1.1 Kiểm định hiện tượng tự tương quan

Kiểm định Durbin Waston: Từ kết quả hồi quy ta có giá trị thống kê

Durbin-Watson d = 2,240198 -> nên mô hình không xảy ra hiện tượng tự

tương quan.

Breusch-Godfrey Serial Correlation LM Test:

F-statistic Obs*R-squared

0.815888 Prob. F(1,14) 1.046300 Prob. Chi-Square(1)

0.381665 0.306361

Kiểm định BG:

Ta có p- value = 0,306361 > 0,05 nên mô hình không còn tự tương quan.

White Heteroskedasticity Test:

F-statistic Obs*R-squared

1.046615 Prob. F(2,16) 2.198136 Prob. Chi-Square(2)

0.373965 0.333181

2.1.2 Kiểm định phương sai thay đổi (sử dụng kiểm định White)

có xác suất p- value tương ứng là 0,333181 >

Thống kê

nên ta chấp nhận giả thiết , tức mô hình HQTT có phương sai không đổi.

Ramsey RESET Test:

F-statistic Log likelihood ratio

0.459841 0.380769

0.577655 Prob. F(1,14) 0.768219 Prob. Chi-Square(1)

2.1.3 Kiểm định bỏ sót biến (sử dụng kiểm định RESET của RAMSEY)

F = 0,577655 và p- value = 0,380769 > 0,05 nên chấp nhận giả thiết , tức

mô hình hồi quy không bỏ sót biến.

2.1.4 Kiểm định phân phối chuẩn của (sử dụng kiểm định Jarque-Bera)

119

Thống kê JB = 2,811929 có xác suất p- value = 0,245131 > 0,05 nên ta

chấp nhận giả thiết , tức có phân phối chuẩn.

2.1.5 Ước lượng

Với , tra bảng t-student ta có = 2,110

Dựa vào kết quả hồi quy, ta có se( ) = 0,008920

Vậy tốc độ tăng trưởng xuất khẩu và chuyển giao ròng bình quân hàng năm

nằm trong khoảng: 0,179164 2,110*0,008920

hay (0,160343 ; 0,197985)

2.2 Hàm HQTT Ln(M) theo t

Dependent Variable: LOG(M)

Std. Error

t-Statistic

Prob.

0.083879 0.006680

91.28199 27.15456

0.0000 0.0000

Kết quả hồi quy (sử dụng phần mềm Eview 5.1) như sau:

Coefficient 7.656629 0.181395

R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood Durbin-Watson stat

0.974880 Mean dependent var 0.973558 S.D. dependent var 0.185365 Akaike info criterion 0.652844 Schwarz criterion 6.647156 F-statistic 0.821935 Prob(F-statistic)

9.651973 1.139935 -0.442586 -0.343108 737.3700 0.000000

Method: Least Squares Date: 09/10/11 Time: 18:00 Sample: 1990 2010 Included observations: 21 Variable C T

Kiểm định Durbin Waston: Từ kết quả hồi quy ta có giá trị thống kê Durbin-

Watson d = 0,968756 < 1 nên kết luận mô hình có tự tương quan dương bậc 1.

Breusch-Godfrey Serial Correlation LM Test:

F-statistic Obs*R-squared

9.158489 Prob. F(1,18) 7.081700 Prob. Chi-Square(1)

0.007258 0.007788

Kiểm định Breusch-Godfrey (BG):

120

Ta có p- value=0,007788 < 0,05 nên kết luận mô hình có hiện tượng tự

tương quan bậc 1.

Tương tự mô hình HQTT của Ln(X_CGR), mô hình sai phân bậc hai được

Dependent Variable: LOG(M) Method: Least Squares Date: 09/10/11 Time: 18:04 Sample (adjusted): 1992 2010 Included observations: 19 after adjustments Convergence achieved after 3 iterations

Std. Error

t-Statistic

Prob.

0.120943 0.009148 0.181480 0.184112

64.18709 19.07648 5.079682 -2.716402

0.0000 0.0000 0.0001 0.0159

Variable C T AR(1) AR(2)

Coefficient 7.762969 0.174509 0.921863 -0.500122

R-squared Adjusted R-squared S.E. of regression Sum squared resid Log likelihood Durbin-Watson stat

0.988802 Mean dependent var 0.986563 S.D. dependent var 0.118174 Akaike info criterion 0.209477 Schwarz criterion 15.86217 F-statistic 2.406149 Prob(F-statistic)

Inverted AR Roots

.46+.54i

.46-.54i

9.842848 1.019458 -1.248649 -1.049820 441.5232 0.000000

sử dụng để loại bỏ tự tương quan. Kết quả hồi quy như sau:

Ln(M) = 7,762969 + 0,174509t + [AR(1)=0,921863, AR(2)= - 0,500122] +

Mô hình có p = 0,00000 << 0,05 -> bác bỏ giả thiết , tức mô

hình giải thích được 98,88% sự thay đổi của tăng trưởng xuất khẩu theo t.

2.2.1 Kiểm định hiện tượng tự tương quan

Kiểm định Durbin Waston: Từ kết quả hồi quy ta có giá trị thống kê

Durbin-Watson d = 2,406149 -> (1;3) nên mô hình không xảy ra hiện tượng tự

tương quan.

121

Breusch-Godfrey Serial Correlation LM Test:

F-statistic Obs*R-squared

3.419604 Prob. F(1,14) 3.729848 Prob. Chi-Square(1)

0.085651 0.053448

Kiểm định BG:

Ta có p- value = 0,053448 > 0,05 nên mô hình không còn tự tương quan.

White Heteroskedasticity Test:

F-statistic Obs*R-squared

0.979487 Prob. F(2,16) 2.072529 Prob. Chi-Square(2)

0.396924 0.354777

2.2.2 Kiểm định phương sai thay đổi (sử dụng kiểm định White)

có xác suất p- value tương ứng là 0,354777 >

Thống kê

nên ta chấp nhận giả thiết , tức mô hình HQTT có phương sai không đổi.

Ramsey RESET Test:

F-statistic Log likelihood ratio

1.135253 Prob. F(1,14) 1.481418 Prob. Chi-Square(1)

0.304689 0.223553

2.2.3 Kiểm định bỏ sót biến (sử dụng kiểm định RESET của RAMSEY)

F = 1,135253 và p- value = 0,223553 > 0,05 nên chấp nhận giả thiết , tức

mô hình hồi quy không bỏ sót biến.

2.2.4 Kiểm định phân phối chuẩn của (sử dụng kiểm định Jarque-Bera)

122

Thống kê JB = 0.973075 có xác suất p- value = 0,614751 > 0,05 nên ta

chấp nhận giả thiết , tức có phân phối chuẩn.

2.2.5 Ước lượng

Với , tra bảng t-student ta có = 2,110

Dựa vào kết quả hồi quy, ta có se( ) = 0,009148

Vậy tốc độ tăng trưởng nhập khẩu bình quân hàng năm nằm trong khoảng:

0,174509 2,110*0,009148

hay (0,155207 ; 0,193811)

.