intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Quan sát các biểu hiện hành vi hung tính của trẻ mẫu giáo với bạn - một nghiên cứu trường hợp

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

24
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết trình bày kết quả nghiên cứu trường hợp bằng phương pháp quan sát về mức độ biểu hiện hành vi hung tính của hai trẻ mẫu giáo (3 – 6 tuổi) trong quá trình tương tác với bạn ở trường mầm non. Thông qua quan sát trong vòng 4 tuần, kết quả cho thấy: Cả hai trẻ đều có biểu hiện hành vi hung tính ở mức độ rất cao với các hình thức hành vi hung tính bằng thể chất, lời nói và mối quan hệ.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Quan sát các biểu hiện hành vi hung tính của trẻ mẫu giáo với bạn - một nghiên cứu trường hợp

  1. HNUE JOURNAL OF SCIENCE Educational Sciences, 2021, Volume 66, Issue 4C, pp. 158-168 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn QUAN SÁT CÁC BIỂU HIỆN HÀNH VI HUNG TÍNH CỦA TRẺ MẪU GIÁO VỚI BẠN - MỘT NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP Nguyễn Thị Như Mai, Trần Thị Thắm* và Trần Thị Kim Liên Khoa Giáo dục Mầm non, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu trường hợp bằng phương pháp quan sát về mức độ biểu hiện hành vi hung tính của hai trẻ mẫu giáo (3 – 6 tuổi) trong quá trình tương tác với bạn ở trường mầm non. Thông qua quan sát trong vòng 4 tuần, kết quả cho thấy: Cả hai trẻ đều có biểu hiện hành vi hung tính ở mức độ rất cao với các hình thức hành vi hung tính bằng thể chất, lời nói và mối quan hệ. Trong đó, trẻ mẫu giáo bé (3 – 4 tuổi) chủ yếu có hành vi hung tính mang tính chủ động, còn trẻ mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi) chủ yếu có hành vi hung tính mang tính phản ứng. Hình thức hành vi hung tính bằng mối quan hệ chỉ có ở trẻ 5 - 6 tuổi. Những gợi ý về mặt sư phạm từ hai trường hợp này được đề xuất nhằm giúp các nhà giáo dục xây dựng các biện pháp tác động phù hợp với từng trẻ nhằm giúp trẻ hình thành, phát triển nhân cách tốt đẹp ngay từ lứa tuổi mầm non. Từ khóa: hành vi hung tính, phương pháp quan sát, trẻ mẫu giáo, nghiên cứu trường hợp. 1. Mở đầu Hành vi hung tính của trẻ là một vấn đề phức tạp và có thể ảnh hưởng không tốt tới quá trình phát triển nhân cách của các em. Các nghiên cứu đã chỉ ra, có khoảng 1/3 số trẻ có hành vi hung tính lúc năm tuổi sẽ tiếp tục biểu hiện hành vi đó lúc 14 tuổi [1]; trong số những trẻ có biểu hiện hành vi hung tính ở tuổi mẫu giáo sẽ có khoảng 50% số trẻ có những hành vi chống đối xã hội khi ở tuổi trưởng thành [2]. Vì vậy các nhà giáo dục cần tìm hiểu về mức độ biểu hiện hành vi hung tính của trẻ để có biện pháp tác động phù hợp nhằm hạn chế hành vi hung tính ngay từ lứa tuổi mầm non. Những nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam đã chỉ ra mức độ, hình thức biểu hiện, cũng như các kiểu hành vi hung tính của trẻ mẫu giáo. Cụ thể: các hình thức biểu hiện và chức năng hành vi hung tính (chủ động và phản ứng) của trẻ là tương đối ổn định trong suốt thời kì mẫu giáo [3-5]; trẻ gái có xu hướng thể hiện hành vi hung tính bằng mối quan hệ nhiều hơn so với trẻ trai [3], [6-8]; trẻ càng lớn thì càng ít thể hiện hành vi hung tính bằng thể chất hơn nhưng lại gia tăng hành vi hung tính bằng mối quan hệ [3], [8-9]; trẻ 5 – 6 tuổi được nghiên cứu ở Việt Nam hiếm khi hoặc thỉnh thoảng mới có biểu hiện hành vi hung tính, trẻ thể hiện hành vi hung tính dưới hình thức ngôn ngữ và phi ngôn ngữ một cách trực tiếp và gián tiếp [10-11]. Các hành vi hung tính của trẻ thường bộc lộ trong tương tác của trẻ với người khác, nhất là trong tương tác với bạn bè. Trong các phương pháp nghiên cứu hành vi hung tính của trẻ em, quan sát được coi là phương pháp chính, có nhiều ưu thế trong phát hiện các biểu hiện hành vi hung tính ở trẻ. Với đặc trưng hướng tới hành vi trong các tình huống khác nhau của hoàn cảnh sống, theo dõi sát sao Ngày nhận bài: 2/9/2021. Ngày sửa bài: 29/9/2021. Ngày nhận đăng: 10/10/2021. Tác giả liên hệ: Trần Thị Thắm. Địa chỉ e-mail: tranthitham@hnue.edu.vn 158
  2. Quan sát các biểu hiện hành vi hung tính của trẻ mẫu giáo với bạn – một nghiên cứu trường hợp từng biểu hiện tâm lí của trẻ, phương pháp quan sát giúp làm rõ tính chất hành vi, xác định được trẻ có hung tính hay không và hung tính ở mức độ nào. Nhiều công trình trên thế giới về lĩnh vực này đều sử dụng quan sát, có thể kể đến Buss.A.H (1961) [12], Cairns, R.B., &Cairns, B.D. (1984) [13], Barry H. Schneider và Sébastien Normand (2009) [14] hay Richard E. Tremblay (2008) [15] và nhiều công trình khác. Ở Việt Nam, những khảo sát về thực trạng hành vi hung tính của trẻ mẫu giáo cũng không thể không dùng phương pháp quan sát [11], [16]. Nghiên cứu trường hợp trong nghiên cứu tâm lí trẻ em là một phương pháp đặc biệt hiệu quả đối với các nghiên cứu định tính. Thông qua quan sát, trò chuyện trực tiếp với trẻ, điều tra những người có liên quan tới trẻ, nhà nghiên cứu thu lượm các thông tin cụ thể, chi tiết, chính xác về đặc điểm phát triển của các em. Hành vi hung tính là một loại hành vi đặc biệt, nếu chỉ nghiên cứu trên diện rộng có thể không chỉ ra được tính riêng biệt, đặc thù cho từng trẻ, và như vậy dễ ảnh hưởng đến tính thích đáng và hiệu quả của các tác động sư phạm. Để hiểu đúng về trẻ, có biện pháp tác động hiệu quả với từng trẻ trong từng trường hợp cụ thể, rất cần quan sát quá trình tương tác với người khác, đặc biệt là với bạn bè ở trường mầm non của các em. Bài viết này sẽ cung cấp kết quả nghiên cứu bằng phương pháp quan sát về mức độ biểu hiện hành vi hung tính của hai trường hợp trẻ mẫu giáo (3 – 6 tuổi). Đây là cơ sở để giáo viên mầm non định hướng hoạt động quan sát trẻ, từ đó có biện pháp tác động phù hợp nhằm hạn chế hành vi hung tính, giúp trẻ hình thành nhân cách tốt đẹp ngay từ lứa tuổi mầm non. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Hành vi hung tính và biểu hiện hành vi hung tính của trẻ mẫu giáo trong tương tác với bạn bè 2.1.1. Hành vi hung tính của trẻ mẫu giáo Hung tính là một vấn đề trong hành vi đang được nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới cũng như ở Việt Nam quan tâm. Khái niệm hành vi hung tính có thể được tiếp cận theo những hướng khác nhau và theo những cách gọi khác nhau như: hành vi hung hăng, hành vi gây hấn, hành vi xâm kích… Nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu đều có sự thống nhất và cho rằng đó là những hành vi mang tính chất công kích, sẵn sàng tấn công; thường hướng đến đối tượng có liên quan tới sự không thoả mãn nhu cầu, ý muốn của cá nhân; có thể gây tổn hại cho các đối tượng khác hoặc cho chính bản thân chủ thể về thể chất hoặc tinh thần. Ở tuổi mẫu giáo, trẻ đang trong giai đoạn hình thành và phát triển nhân cách, các chức năng tâm lí còn chưa hoàn thiện. Đặc biệt, hành vi của trẻ còn mang tính bột phát, chưa có sự kiểm soát nhiều của ý thức. Do đó, hành vi hung tính của trẻ mẫu giáo có thể hiểu là những phản ứng mang khuynh hướng sẵn sàng tấn công của trẻ 3 – 6 tuổi, hướng đến gây tổn hại cho đối tượng khác về thể chất hoặc tinh thần trong những tình huống nhất định. Với cách hiểu này, hành vi hung tính của trẻ mẫu giáo được đặc trưng bởi các đặc điểm như: tính công kích - sẵn sàng tấn công đối tượng khác; tính đối tượng – thường hướng đến đối tượng có liên quan tới sự không thỏa mãn nhu cầu của trẻ; tính xâm hại – hành vi của trẻ có thể gây tổn hại cho đối tượng bị tấn công hoặc cho chính bản thân trẻ. Do nhận thức và khả năng kiểm soát hành vi còn hạn chế nên trẻ mẫu giáo có xu hướng sử dụng hành vi hung tính như một cách giải tỏa cảm xúc tiêu cực mỗi khi nhu cầu không được thỏa mãn hoặc khi xảy ra xung đột với những người xung quanh. Khác với người lớn, hành vi của trẻ mẫu giáo chưa có sự tham gia kiểm soát nhiều của ý thức, đặc biệt là ý định gây tổn hại cho người khác là chưa rõ ràng. Vì vậy, hành vi hung tính của trẻ ở lứa tuổi này được xem xét như một biểu hiện của quá trình phát triển hơn là một vấn đề bệnh lí. Mặc dù vậy, hành vi hung tính của trẻ vẫn cần được phát hiện sớm để kịp thời có biện pháp giáo dục nhằm giúp trẻ hạn chế hành vi không mong muốn này ngay từ lứa tuổi mầm non. 159
  3. Nguyễn Thị Như Mai, Trần Thị Thắm* và Trần Thị Kim Liên Dựa vào quá trình hình thành cơ bản được suy luận từ tình huống xảy ra sự việc và mục đích, có thể xem xét hành vi hung tính của trẻ mẫu giáo theo hai kiểu hành vi hung tính mang tính chủ động và hành vi hung tính mang tính phản ứng. Trong đó, hành vi hung tính mang tính chủ động được xem là những phản ứng mà trẻ chủ động thực hiện nhằm công kích, đe dọa, tấn công với ý định gây tổn hại cho bạn, hoặc để đạt được mục tiêu cá nhân trong tình huống cụ thể (ví dụ, việc lấy được một món đồ chơi hoặc có một vai trò chắc chắn trong trò chơi). Còn hành vi hung tính mang tính phản ứng là những phản ứng của trẻ trước sự khiêu khích công khai của bạn, hoặc trước hành vi thể hiện sự hung hăng của bạn, hoặc trước sự thời ơ, không quan tâm đến trẻ của bạn… Như vậy, trẻ có thể là người chủ động công kích, tấn công, đe dọa các bạn khác hoặc trẻ cũng có thể là người bị động, phản ứng lại sự công kích, tấn công, đe dọa của các bạn khác bằng những hành vi hung tính. Hai kiểu hành vi hung tính này có mối liên hệ mật thiết với nhau và chúng có chức năng riêng về mặt tâm lí học. Hành vi hung tính mang tính chủ động dự báo trước một kết quả phục vụ cho chính bản thân trẻ; trong khi đó, hành vi hung tính mang tính phản ứng là một sự đáp trả thù địch của trẻ vì bị khiêu khích. 2.1.2. Biểu hiện hành vi hung tính của trẻ mẫu giáo trong tương tác với bạn bè Henri Piéron trong cuốn Từ điển Tâm lí học định nghĩa tương tác là “Tất cả hành động qua lại lẫn nhau giữa các thành viên của một nhóm người/dân cư ảnh hưởng đến ứng xử của các cá nhân” [17]. Từ đây, có thể hiểu tương tác với bạn bè là những tác động qua lại có ảnh hưởng đến hành vi, ứng xử của những người cùng độ tuổi, cùng sống trong một môi trường hoặc có quan hệ gần gũi, hiểu biết lẫn nhau. Tương tác với bạn bè của trẻ tuổi mẫu giáo ở trường mầm non muốn nói đến các quan hệ qua lại có ảnh hưởng đến nhau trong giao tiếp, trong hoạt động của các trẻ cùng nhóm, lớp hoặc cùng trường. Các nghiên cứu gần đây cho thấy bạn bè có vai trò xã hội hóa trẻ em ngay từ cuối năm thứ nhất. Trong năm thứ hai, trẻ bắt đầu bộc lộ một số hành vi như cho bạn đồ, giúp bạn, chia sẻ với bạn; một số trẻ bộc lộ hành vi hung tính với bạn. Đến 3 - 4 tuổi, một số trẻ có biểu hiện về khả năng làm cho bạn chấp nhận mình. Nghiên cứu cũng cho thấy: rõ ràng là một số trẻ hung tính hơn những trẻ khác [18]. Hành vi hung tính của trẻ mẫu giáo trong tương tác với bạn bè có thể được biểu hiện ra bên ngoài dưới nhiều hình thức phong phú và đa dạng. Đồng quan điểm với tác giả Crick và đồng nghiệp (1997), dựa vào phương tiện biểu hiện, nghiên cứu này tìm hiểu hành vi hung tính của trẻ mẫu giáo theo ba hình thức. Cụ thể: 1 - Hành vi hung tính bằng thể chất: Khi có xích mích, xung đột với bạn bè, trẻ có thể cào, cấu, giật tóc, đánh, đập, tát, đấm, đá, xô đẩy, cắn bạn hoặc dùng đồ chơi, ghế… tấn công làm bạn bị đau, bị thương; chiếm đoạt, phá hủy vật sở hữu của bạn…; 2 - Hành vi hung tính bằng lời nói:Khi tức giận, trẻ thường gào thét, quát nạt, dọa nạt, nói tục với bạn; sử dụng từ ngữ xúc phạm, không coi trọng giá trị của bạn như: đồ ngu ngốc, đồ dốt, đồ kém cỏi; gọi bạn bằng những tên xấu (A béo, A lùn, A thối…); sử dụng những lời nói có tính khiêu khích làm cho bạn cảm thấy khó chịu, tức giận như: tớ thích thế đấy, làm gì được nhau, thế thì làm sao… Đặc biệt, khi hung tính, giọng điệu của trẻ trở nên thô gắt hơn, âm lượng cũng lớn hơn và tốc độ nói nhanh hơn làm cho những người xung quanh dễ dàng nhận ra sự bực tức của trẻ; 3 - Hành vi hung tính bằng mối quan hệ: Trẻ sỗ sàng từ chối chơi cùng nếu bạn không làm theo yêu cầu của trẻ; xúi giục các bạn khác không chơi cùng với một bạn nào đó; tỏ vẻ lạnh nhạt, phớt lờ không quan tâm tới bạn với ý định làm cho bạn buồn, tổn thương hoặc để bạn phải làm theo mong muốn của trẻ. Tuy nhiên, những hành vi loại bạn ra khỏi nhóm, loại bạn ra khỏi cuộc chơi theo luật chơi một cách công bằng (ví dụ, người thua cuộc bị loại khỏi trò chơi) thì không bị coi là hành vi hung tính. Và chỉ những hành vi của trẻ liên quan tới ý định làm tổn hại đến bạn mới bị coi là hành vi hung tính. 160
  4. Quan sát các biểu hiện hành vi hung tính của trẻ mẫu giáo với bạn – một nghiên cứu trường hợp 2.2. Phương pháp quan sát và sử dụng phương pháp quan sát trong nghiên cứu biểu hiện hành vi hung tính của trẻ mẫu giáo 2.2.1. Phương pháp quan sát Quan sát là một phương pháp nghiên cứu cơ bản trong nghiên cứu tâm lí trẻ em nói chung và trong nghiên cứu trẻ em ở lứa tuổi mầm non nói riêng. Có thể hiểu quan sát trẻ em trong các hoạt động giáo dục ở trường mầm non là khả năng tri giác có chủ định của nhà giáo dục mầm non hướng đến trẻ em đang thực hiện các hoạt động ở trường mầm non nhằm thu thập thông tin để phản ánh chính xác, khách quan về sự phát triển của trẻ, làm cơ sở cho việc lập kế hoạch và tác động, giúp các em phát triển hài hòa, tốt đẹp. Qua quan sát, nhà giáo dục có được những thông tin thực tiễn có giá trị để hiểu biết về sự phát triển của trẻ. Trên cơ sở phân tích, giải thích và đánh giá trẻ, nhà giáo dục lập kế hoạch hoạt động và can thiệp phù hợp với trẻ. Quan sát cần được tiến hành dựa trên các yêu cầu cơ bản như xác định mục đích quan sát rõ ràng, nêu bật được đối tượng quan sát, có kế hoạch và trình tự quan sát, lựa chọn hình thức và công cụ quan sát. Quan sát trẻ mầm non có nhiều hình thức khác nhau như quan sát toàn diện và quan sát bộ phận; quan sát chọn mẫu và quan sát ngẫu nhiên; quan sát tham gia và quan sát không tham gia; quan sát trực tiếp và quan sát gián tiếp… Mỗi loại quan sát có thể sử dụng các công cụ quan sát khác nhau như sổ ghi chép, phiếu quan sát, bảng kiểm, thang đánh giá, hồ sơ… Nhà giáo dục cần xem xét ưu điểm và hạn chế của từng loại hình thức và công cụ để lựa chọn nhằm đáp ứng được mục tiêu quan sát đề ra. 2.2.2. Sử dụng phương pháp quan sát trong nghiên cứu biểu hiện hành vi hung tính của trẻ mẫu giáo Để tìm hiểu biểu hiện hành vi hung tính của trẻ mẫu giáo trong tương tác với bạn ở trường mầm non, nghiên cứu đã sử dụng quan sát làm phương pháp nghiên cứu chính. Mục đích: Tìm hiểu mức độ biểu hiện hành vi hung tính của trẻ mẫu giáo thông qua nghiên cứu 2 trường hợp điển hình. Nội dung: Hành vi hung tính của trẻ được quan sát theo 15 mã hành vi. Trong đó, có 5 mã hành vi hung tính bằng thể chất (gồm: 1,2,3,4,5); 5 mã hành vi hung tính bằng lời nói (gồm: 6,7,8,9,10); và 5 mã hành vi hung tính thông qua mối quan hệ (gồm: 11,12,13,14,15). Cụ thể: Mã hành vi 1: Trẻ đá hoặc đánh người khác. Mã hành vi 2: Trẻ doạ sẽ đánh hoặc đấm người khác. Mã hành vi 3: Trẻ phá hỏng đồ của người khác khi trẻ cảm thấy khó chịu. Mã hành vi 4: Trẻ xô hoặc đẩy người khác. Mã hành vi 5: Trẻ cấu véo làm cho ai đó bị đau. Mã hành vi 6: Trẻ tranh cãi to tiếng với người khác. Mã hành vi 7: Trẻ nói tục, nói bậy với người khác. Mã hành vi 8: Trẻ nói những lời có tính khiêu khích với người khác (vd, em/con thích thế đấy, làm gì được nhau…). Mã hành vi 9: Trẻ gọi người khác bằng những tên xấu (vd, A béo, A lùn, A ngố…). Mã hành vi 10: Trẻ chê bai người khác hoặc vật sở hữu của người khác (vd, áo của chị xấu mù...). Mã hành vi 11: Trẻ nói với người khác rằng trẻ sẽ không chơi cùng hoặc không kết bạn nếu người đó không làm theo yêu cầu của trẻ. Mã hành vi 12: Trẻ xúi giục người khác không chơi hoặc không kết bạn với một ai đó. 161
  5. Nguyễn Thị Như Mai, Trần Thị Thắm* và Trần Thị Kim Liên Mã hành vi 13: Khi tức giận với ai, trẻ không cho người đó chơi cùng trong nhóm. Mã hành vi 14: Trẻ nói với người khác rằng trẻ sẽ không mời họ dự sinh nhật của mình (hoặc một điều tương tự) nếu người đó không làm theo mong muốn của trẻ. Mã hành vi 15: Trẻ doạ không cho người khác chơi chung trong nhóm nếu họ không làm theo yêu cầu của trẻ. Cách tiến hành: Để thu thập dữ liệu về mức độ hành vi hung tính của trẻ mẫu giáo, nghiên cứu được thực hiện từ tháng 01 – 02/2021, trên hai trường hợp: 1 trẻ 3 – 4 tuổi và 1 trẻ 5 – 6 tuổi đang học ở một trường mầm non M.T. thuộc huyện Mỹ Lộc, Nam Định. Hai trẻ này được giáo viên nhận định là thường xuyên có những biểu hiện hành vi hung tính trong tương tác với bạn. Mỗi trẻ được quan sát trong 4 tuần, mỗi tuần 1 buổi, mỗi buổi 60 phút, có nghĩa là mỗi trẻ sẽ được quan sát tất cả 4 tiếng (240 phút). Kết quả được ghi lại bằng biên bản quan sát dành riêng cho mỗi trẻ, gồm các cột: thời gian, tình huống dẫn đến hành vi hung tính của trẻ (sự kiện tiền hành vi, hành vi, sự kiện sau hành vi), tần số biểu hiện hành vi hung tính (về hình thức và kiểu hành vi). Những yếu tố liên quan tới tình huống dẫn tới hành vi hung tính của trẻ được đặc biệt quan tâm vì đây chính là cơ sở để tìm hiểu nguyên nhân dẫn tới hành vi hung tính ở trẻ. Tần số xuất hiện hành vi hung tính của trẻ được tính như sau: + Mỗi lần trẻ có biểu hiện hành vi hung tính thuộc những mã hành vi khác nhau – tính 1 lần/1 mã hành vi. + Trong cùng một mã hành vi, mỗi hành vi hung tính khác nhau – tính 1 lần. Ví dụ, ở mã hành vi số 7, nếu trẻ vừa đá vừa đánh bạn thì tính: đá – 1 lần, đánh – 1 lần, tần số xuất hiện hành vi mã số 7 – 2 lần. + Trong cùng 1 tình huống, 1 hành vi được lặp lại liên tiếp – tính 1 lần. Ví dụ, trẻ liên tiếp cào nhiều vết vào mặt bạn thì chỉ tính hành vi hung tính đó xuất hiện 1 lần. + Trong cùng 1 tình huống, 1 hành vi được thực hiện nhiều lần nhưng không liên tiếp nhau – tính theo số lần hành vi đó được lặp lại. Ví dụ, trẻ giật tóc bạn, rồi quay sang chiếm đồ chơi, sau đó lại xảy ra tranh chấp và trẻ lại giật tóc bạn – hành vi giật tóc bạn trong trường hợp này được tính 2 lần. Cách đánh giá: Trên cơ sở tổng số hành vi hung tính của trẻ được quan sát trong 240 phút, có thể đánh giá hành vi hung tínhcủa trẻ theo 3 mức độ: Chưa rõ: trẻ có 0 đến 3 hành vi hung tính Khá rõ: trẻ có 4 đến 6 hành vi hung tính Rất rõ: trẻ có từ 7 hành vi hung tính trở lên Bên cạnh đó, để thu thập thêm thông tin nhằm làm rõ hơn kết quả thu được thông qua phương pháp quan sát, nghiên cứu còn sử dụng kết hợp phương pháp trò chuyện với trẻ,với giáo viên trực tiếp đứng lớp và cha mẹ của trẻ để tìm hiểu thêm về các tình huống khác dẫn đến hành vi hung tính của trẻ. 2.3. Kết quả nghiên cứu trường hợp 2.3.1. Trường hợp 1 - Hành vi hung tính của trẻ mẫu giáo bé (3 - 4 tuổi) Thông tin về trẻ: Bé T.N.A. là một trẻ trai 3 tuổi 6 tháng (tính tới thời điểm quan sát), đang học tại lớp mẫu giáo bé (3 – 4 tuổi) trường mầm non M.T. thuộc huyện Mỹ Lộc, Nam Định. Bé T.N.A. là con đầu lòng, dưới T.N.A. là một em trai 2 tuổi. Hiện nay, T.N.A. đang sống cùng gia đình đa thế hệ gồm có ông, bà, cha, mẹ và em trai (20 tháng). Cha của T.N.A. mở tiệm cắt tóc tại nhà, còn mẹ của T.N.A. là công nhân may. Quan sát T.N.A. trong quá trình tương tác với bạn ở trường mầm non, nghiên cứu thu được mức độ hành vi hung tính của T.N.A. ở Bảng 1 như sau: 162
  6. Quan sát các biểu hiện hành vi hung tính của trẻ mẫu giáo với bạn – một nghiên cứu trường hợp Bảng 1. Mức độ biểu hiện hành vi hung tính của bé T.N.A Hình thức biểu hiện Kiểu hành vi hung tính Tổng 1 Chủ động Phản ứng Thể chất 7 2 9 Lời nói 5 1 6 Mối quan hệ 0 0 0 Tổng 2 12 3 15 Trong quá trình tương tác với bạn ở trường mầm non, N.A có biểu hiện hành vi hung tính ở mức độ rất rõ với 15 hành vi/240 phút quan sát. Trong đó, T.N.A. chủ yếu thể hiện hành vi hung tính ở hình thức thể chất (9/15 hành vi) như: xô đẩy bạn, véo bạn, tát bạn, cắn bạn. Ví dụ, khi cả lớp xếp hàng để chuẩn bị ra sân chơi, T.N.A. chen lên đứng trước một bạn nam khác, bạn nam này không đồng ý nên lại chen lên đứng trước. T.N.A. liền đẩy bạn xô về phía trước khiến bạn suýt bị ngã. Cô giáo nhìn thấy nhắc nhở T.N.A. và kéo trẻ đứng xuống cuối hàng. T.N.A. mặt hầm hầm tỏ ra tức giận nhưng không chen lấn với bạn nào nữa. Bên cạnh đó, T.N.A. còn dùng những lời nói hung tính (6/15 hành vi) để quát nạt bạn (ví dụ, “nào”, “tránh ra”) hoặc chọc tức bạn (ví dụ, “lêu lêu”). Kết quả quan sát này khá tương đồng với kết quả mà nghiên cứu thu được thông qua trò chuyện với cha mẹ của T.N.A. Cha của T.N.A. cho biết: khi chơi với em trai (20 tháng tuổi), T.N.A. thường có đánh em, cấu em, phá đồ chơi của em, quát nạt em. Đôi khi, T.N.A. cũng thể hiện hành vi hung tính với cả anh (5 tuổi) và chị (7 tuổi) - con nhà bác. Trong quá trình trò chuyện với cha của T.N.A., nhận thấy: những biểu hiện hành vi hung tính của T.N.A. có thể một phần là do trẻ đã bắt chước hành vi của người lớn trong gia đình. Bởi vì, khi T.N.A. có hành vi không mong muốn, cha của trẻ thường quát mắng, thậm chí đánh đòn con khiến cho trẻ sợ hãi, không lặp lại hành vi khi có sự xuất hiện của người cha. Phần lớn hành vi hung tính của N.A hướng đến bạn là mang tính chủ động (12/15 hành vi). Trong hầu hết các tình huống, T.N.A. thường là người chủ động gây sự khi tương tác với bạn. Chẳng hạn: Trong khi chơi xếp hình, T.N.A. ngồi một mình và xếp chồng các miếng ghép; một nhóm có 3 trẻ khác cũng đang ngồi cùng nhau để xếp các miếng ghép. T.N.A. quay sang nhìn các bạn, rồi chăm chăm nhìn miếng ghép màu xanh mà một bạn nam đang cầm. T.N.A. tiến lại gần, không nói gì và giằng lấy miếng ghép màu xanh. Ngay lập tức bạn đó giật lấy lại miếng ghép. T.N.A. hét lên “nào!” và giằng lại nhưng bạn không buông tay. T.N.A. nghiến răng rồi véo mạnh vào tay bạn làm cho bạn khóc. Giáo viên lại gần nhắc nhở, yêu cầu T.N.A. xin lỗi bạn. Cô giáo di chuyển sang nhóm khác, T.N.A. tiếp tục chơi xếp hình. Hoặc trong một tình huống khác, vào giờ ăn trưa, các bạn đã ngồi vào bàn ăn, cô giáo đang chuẩn bị bữa trưa cho cả lớp. T.N.A. đề nghị đổi thìa với bạn bên cạnh nhưng bạn không đồng ý. T.N.A. giật thìa của bạn nhưng không lấy được vì bạn đã kịp quay người đi để giấu chiếc thìa. T.N.A dùng thìa của mình gõ nhẹ vào vào đầu bạn, bạn khó chịu kéo ghế ngồi ra xa. T.N.A. tiến lại gần bạn và tiếp tục lấy thìa gõ vào đầu bạn. Bạn dọa mách cô giáo, T.N.A. quay sang trừng mắt, lè lưỡi “lêu lêu” chế giễu bạn. Cô giáo nhìn thấy hành vi của T.N.A. nên đã nhắc nhở, T.N.A. không đánh bạn nữa, ngồi đợi cô cho ăn cơm. Có thể nhận thấy, ở những tình huống trên, mặc dù hành vi hung tính của T.N.A có thể làm đau bạn, làm cho bạn tức giận nhưng những hành vi đó chủ yếu hướng đến chiếm được đồ vật, đồ chơi của bạn hơn là làm tổn thương bạn. Thông qua trò chuyện và quan sát cách ứng xử của giáo viên trong những tình huống trên, nhận thấy: khi thấy trẻ tranh giành đồ chơi và có biểu hiện hành vi hung tính, giáo viên chủ yếu nhắc nhở trẻ, ví dụ: “Các con không được tranh giành đồ chơi, phải chia sẻ với nhau chứ”; hoặc giáo viên yêu cầu trẻ xin lỗi bạn. Tuy nhiên, giáo viên chưa dành thời gian tìm hiểu nhu cầu thực sự của trẻ, chưa có những hướng dẫn cụ thể để trẻ 163
  7. Nguyễn Thị Như Mai, Trần Thị Thắm* và Trần Thị Kim Liên biết cách thể hiện nhu cầu của mình một cách phù hợp. Do đó, trẻ trong lớp nói chung và bé T.N.A. nói riêng chỉ chấm dứt hành vi không mong muốn tại thời điểm đó nhưng có thể vẫn tiếp tục lặp lại hành vi này trong những tình huống khác, nhất là khi không có sự xuất hiện của giáo viên. Và cô giáo lớp bé T.N.A.cũng chia sẻ: “Có mặt cô giáo ở đó thì T.N.A. không dám đánh bạn đâu, nhưng hễ cô đi sang nhóm chơi khác là T.N.A. rất hay đánh bạn” Bên cạnh những hành vi hung tính mang tính chủ động thì T.N.A. cũng có những biểu hiện hành vi hung tính mang tính phản ứng (3/15 hành vi). Khi bị bạn bè trêu chọc, T.N.A. dễ bị kích động và thường đáp lại bằng những hành vi mang khuynh hướng tấn công. Ví dụ: Trong khi chơi tự do ngoài sân trường, T.N.A. và hai bạn khác rất thích thú chơi cầu trượt. T.N.A. đã trượt xong và quay lại cầu thang để lên trượt tiếp. Có một bạn nam muốn trêu các bạn nên đứng dang tay chắn cầu thang, T.N.A. giọng gắt gỏng quát “đứng ra”. Nhưng bạn nam đó vẫn cười và nhất quyết không cho T.N.A. đi qua, T.N.A. xông lại cắn vào tay của bạn, bạn đó kêu lên “đau quá”, T.N.A. đắc chí nói “cho chết”. Cô giáo quan sát thấy liền tới can thiệp và nhắc nhở cả hai bạn. Một tình huống khác, T.N.A. đang ngồi xếp hình một mình. Một bạn nam khác đến ngồi cạnh và cầm miếng ghép của T.N.A. để chơi, T.N.A. quát lớn “của tớ mà, cút đi”. Hai bạn giằng co nhau, T.N.A. liền giơ tay tát vào mặt bạn liên tiếp hai cái. T.N.A. lấy lại được miếng ghép. Nguyên nhân của những hành vi hung tính đó có thể được giải thích một phần là do đặc điểm lứa tuổi của trẻ tạo nên. Có thể nói, ở độ tuổi của T.N.A. (3 – 4 tuổi), tính duy kỉ vẫn đang phát triển mạnh, trẻ tự coi mình là trung tâm và mọi việc làm, hành động của trẻ đều là “có lí”. Vì vậy, khi trẻ có bất cứ nhu cầu gì thì trẻ sẽ tìm mọi cách để thỏa mãn mà ít quan tâm tới ý nghĩ, nhu cầu, nguyện vọng của bạn khác. Bên cạnh đó, quan sát quá trình tương tác giữa T.N.A. với bạn cho thấy: khả năng sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp, để trao đổi, thỏa thuận với bạn của T.N.A. vẫn còn hạn chế, do đó trẻ chưa biết diễn đạt nhu cầu, mong muốn của mình với bạn bằng lời nói một cách rõ ràng. Và khi trẻ xuất hiện một nhu cầu nào đó cần được thỏa mãn, thay vì thỏa thuận bằng lời nói thì T.N.A. lại thường có xu hướng sử dụng những hành vi hung tính như giật đồ, đánh bạn, cắn bạn, quát nạt… để bạn phải đáp ứng yêu cầu của mình. 2.3.2. Trường hợp 2 - Hành vi hung tính của trẻ mẫu giáo lớn (5 - 6 tuổi) Thông tin về trẻ: Bé T.K.Q. là một trẻ trai 5 tuổi 7 tháng (tính tới thời điểm quan sát), đang học tại lớp mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi) trường mầm non M.T. thuộc huyện Mỹ Lộc, Nam Định. Bé T.K.Q. là con thứ hai, trênT.K.Q. là chị gái 9 tuổi. Hiện nay, T.K.Q. đang sống trong gia đình hạt nhân. Cha của T.K.Q. làm nghề tự do, còn mẹ của T.K.Q. là nhân viên văn phòng ở một trường cấp hai. Quan sát T.K.Q. trong quá trình tương tác với bạn ở trường mầm non, nghiên cứu thu được mức độ hành vi hung tính của T.K.Q. ở Bảng 2 như sau: Bảng 2. Mức độ biểu hiện hành vi hung tính của bé T.K.Q. Hình thức biểu hiện Kiểu hành vi hung tính Tổng 1 Chủ động Phản ứng Thể chất 2 2 4 Lời nói 1 2 3 Mối quan hệ 0 3 3 Tổng 2 3 7 10 So với bé T.N.A (3 – 4 tuổi), T.K.Q. biểu hiện số hành vi hung tính ít hơn nhưng vẫn ở mức độ rất rõ (10 hành vi/240 phút). Bên cạnh hành vi hung tính thể chất (phá/ném đồ của bạn, đánh bạn) và bằng lời nói (quát bạn, đe dọa phá đồ của bạn) thì T.KQ. còn có những biểu hiện 164
  8. Quan sát các biểu hiện hành vi hung tính của trẻ mẫu giáo với bạn – một nghiên cứu trường hợp hành vi hung tính bằng mối quan hệ (dọa không cho bạn chơi chung, xúi giục người khác không chơi cùng bạn). Hình thức hành vi này phù hợp với đặc điểm phát triển tâm lí của trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo. Cụ thể, nhu cầu giao tiếp với bạn của trẻ mẫu giáo, nhất là từ độ tuổi từ mẫu giáo nhỡ (4 – 5 tuổi) trở đi, đang phát triển rất mạnh, hay nói cách khác là đang ở thời kì phát cảm. Việc bị bạn từ chối chơi cùng hoặc bị loại khỏi nhóm chơi có thể khiến trẻ buồn bã, đau khổ [19]. Do đó, phá vỡ hoặc đe dọa phá vỡ mối quan hệ, tình cảm với các bạn cũng trở thành một hình thức hung tính trong hành vi nhằm tấn công các bạn mà trẻ mẫu giáo thường xuyên sử dụng. Ví dụ: Một nhóm bạn đang chơi đóng vai công an truy bắt tội phạm, T.K.Q. ngỏ lời muốn tham gia nhưng các bạn từ chối vì đã đủ người rồi. T.K.Q. lớn tiếng: “Không cho tớ chơi cùng, đừng hòng tớ cho chơi chung thẻ (thẻ Pokemon) nữa. Hít le”. Một bạn trong nhóm đáp lại “Không thèm, chơi bắt cướp thích hơn”. T.K.Q. tức giận, cầm chiếc mũ công an của bạn ném xuống đất, rồi bỏ sang góc khác. Các bạn tỏ ra khó chịu và không quan tâm đến T.K.Q. nữa. Hơn nữa, thông qua trò chuyện với giáo viên đang trực tiếp chăm sóc, giáo dục ở lớp bé T.K.Q., nhận thấy: T.K.Q. thường có biểu hiện hành vi hung tính bằng mối quan hệ là do giáo viên hiếm khi, thậm chí không bao giờ can thiệp khi trẻ có những biểu hiện hành vi này. Bởi lẽ, giáo viên cho rằng việc trẻ từ chối chơi với bạn hoặc xúi giục người khác không chơi với bạn để bạn phải làm theo yêu cầu của trẻ là chuyện bình thường. Hành vi này thường xuyên diễn ra khi trẻ tương tác với nhau và không ảnh hưởng tới quá trình phát triển nhân cách của trẻ. Cô giáo T.H. chia sẻ: “Giáo viên mầm non có rất nhiều việc phải làm nên không thể giải quyết hết được mọi cuộc xích mích của trẻ. Với lại, việc các con không chơi cùng bạn vì bạn không cho bánh kẹo, không nhường đồ chơi cũng thường diễn ra ở trẻ nhỏ. Tôi thấy hiện tượng này cũng không có gì đáng lo ngại, các con chỉ giận dỗi thế thôi, một lúc sau là lại chơi với nhau ngay”. Tuy nhiên, theo kết quả của một số nghiên cứu chỉ ra rằng: nếu trẻ thường xuyên có biểu hiện hành vi hung tính bằng mối quan hệ ở lứa tuổi mẫu giáo thì có khả năng cao là đến tuổi trưởng thành sẽ vẫn duy trì và tiếp tục thể hiện sự hung tính của mình thông qua mối quan hệ nhưng với những hình thức phức tạp hơn [9]; hoặc gây ra sự lo lắng, trầm cảm cho các bạn cùng chơi, đồng thời có thể ảnh hưởng tiêu cực đối với chính bản thân trẻ, làm cho trẻ dễ bị rơi vào trạng thái cô đơn, khó hoà nhập, gây mất đoàn kết trong tập thể [6]. Đa số hành vi hung tính của T.K.Q. xuất hiện trong những tình huống bị bạn bè trêu chọc, khiêu khích, hoặc đáp lại những cảm xúc tiêu cực (7/10 hành vi). Chẳng hạn: T.K.Q. đang đứng chọn đồ chơi, T. chạy tới trêu, dùng tay đẩy T.K.Q. một cái, làm cho bé suýt ngã. T.K.Q. tức giận quát “đồ điên” và đuổi theo, giơ tay định đánh bạn. Nhưng nhận ra cô giáo đang nhìn mình, T.K.Q. dừng lại, miệng lẩm bẩm điều gì đó. Buổi chiều, T.K.Q. và bạn chơi bập bênh ngoài sân trường, T. chạy đến xin chơi cùng. T.K.Q. nói giọng tức giận: “Đừng cho chơi! Lúc nãy, thằng này đẩy tớ suýt ngã mà không xin lỗi. Hít le đi”. Sau đó, dù bạn T. đã năn nỉ nhưng T.K.Q. nhất định không đồng ý cho bạn chơi chung. Những hành vi hung tính mang tính phản ứng của trẻ trong những trường hợp này được xem là có nguyên nhân khởi nguồn từ phía các bạn, do đó hành vi này của trẻ có thể giảm đi khi trẻ không còn là đối tượng trêu chọc của các bạn nữa. Tuy nhiên, các nhà giáo dục, đặc biệt là giáo viên và cha mẹ của trẻ cần quan tâm, hướng dẫn trẻ biết cách ứng xử phù hợp trước sự khiêu khích của bạn bè. Bên cạnh đó, T.K.Q. đôi khi cũng có những hành vi chủ động khiêu khích trong quá trình tương tác với các bạn ở trường mầm non (3/10 hành vi). Ví dụ: Thấy bạn đang chơi xếp hình ngôi nhà, T.K.Q. ngỏ lời muốn được xếp hình cùng bạn. Nhưng bạn đó muốn tự mình xếp ngôi nhà nên đã từ chối. T.K.Q giơ chân giẫm lên ngôi nhà mà bạn đang xếp rồi cao giọng “Có cho tớ chơi cùng không? Không cho là tớ đạp đổ bây giờ”. Nhìn thấy cô giáo đang tiến lại gần, T.K.Q. nhấc chân ra và đi sang góc khác để chơi. 165
  9. Nguyễn Thị Như Mai, Trần Thị Thắm* và Trần Thị Kim Liên Trong những tình huống trên, sự gia tăng hành vi hung tính của trẻ đã được ngăn chặn khi có sự xuất hiện của giáo viên. Điều này thể hiện T.K.Q. đã bắt đầu có khả năng tự kiềm chế, tự kiểm soát hành vi. Nhưng thông qua trò chuyện với T.K.Q. nhận thấy: việc trẻ kiềm chế, không tiếp tục thực hiện hành vi hung tính chủ yếu là do sợ bị cô giáo phạt. T.K.Q. nói: “Đánh bạn ở lớp, cô nhìn thấy là cô phạt ngay… Nhưng ở nhà, chị con mà làm con đau là con đánh lại luôn”. Bên cạnh đó, mẹ của bé T.K.Q. cũng cho biết: “Ở nhà, thi thoảng con cũng hay gây sự với chị, với mấy đứa em con nhà cậu. Tôi cũng mắng con, phạt con nhưng có vẻ không ăn thua, nhiều lúc nó còn nổi khùng hơn”. 2.3.3. Gợi ý sư phạm từ hai trường hợp - Về phía cha mẹ: Việc cha mẹ thường xuyên quát mắng, đánh đòn... để áp đặt ý muốn lên trẻ có thể làm trẻ nhận ra rằng: bằng những hành vi hung tính (quát, mắng, đánh…) có thể làm cho người khác sợ hãi, phục tùng theo yêu cầu của mình. Từ đó, trẻ có xu hướng áp dụng bài học này khi tương tác với những đối tượng yếu thế hơn (em trai) hoặc những đối tượng ngang hàng (anh/chị họ, bạn trong lớp). Và đặc biệt khi những chiến lược đó đem lại hiệu quả thì đây chính là yếu tố củng cố để trẻ tiếp tục duy trì hành vi hung tính của mình. Vì vậy, cha mẹ và những người lớn trong gia đình cần trở thành hình mẫu tốt cho trẻ noi theo. Trong những trường hợp cần thiết phải sử dụng đến kỉ luật, cha mẹ cũng cần lựa chọn các hình thức phù hợp, tránh lạm dụng các hình thức kỉ luật có thể gây tổn thương đến thể chất và tâm lí, ảnh hưởng không tốt tới quá trình hình thành, phát triển nhân cách của trẻ. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ. Đặc biệt, gia đình và nhà trường cần xây dựng khung, giới hạn hành vi thống nhất để giúp trẻ dễ dàng nhận thức và có thói quen tuân theo các quy tắc hành vi, từ đó góp phần hạn chế hành vi hung tính của trẻ. - Về phía giáo viên mầm non: Giáo viên mầm non cần có những hiểu biết về đặc điểm phát triển tâm lí của trẻ trong từng giai đoạn lứa tuổi để có ứng xử phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nhân cách của trẻ. Cụ thể: Ở lứa tuổi mẫu giáo, nhất là trẻ 3 – 4 tuổi, khả năng sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt ý muốn, nhu cầu còn hạn chế. Thêm vào đó, trẻ vẫn bị chi phối ít nhiều bởi tính duy kỷ đặc trưng cho lứa tuổi trước. Vì vậy, giáo viên cần quan tâm, hướng dẫn trẻ cách bày tỏ mong muốn, nguyện vọng bằng lời nói; giúp trẻ biết cách trao đổi, thỏa thuận với bạn trong quá trình chơi, từ đó góp phần hạn chế các hành vi hung tính. Giáo viên mầm non cần nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của mối quan hệ bạn bè với trẻ để có những tác động phù hợp nhằm góp phần hạn chế hành vi hung tính bằng mối quan hệ của trẻ ngay từ lứa tuổi mầm non. Trong giáo dục trẻ mẫu giáo, việc giáo viên đưa ra những hình phạt (đặc biệt là hình phạt về thể chất) chỉ hạn chế hành vi hung tính của trẻ trong những tình huống nhất định (ví dụ, có sự xuất hiện của giáo viên) nhưng lại có thể trở thành “mẫu hành vi” cho trẻ bắt chước ở những tình huống khác. Vì vậy, đặt ra khung, giới hạn hành vi cho trẻ là cần thiết nhưng giáo viên cũng cần cân nhắc lựa chọn các hình thức kỉ luật phù hợp đối với hành vi không mong muốn của trẻ, tránh ảnh hưởng không tốt tới hành vi và sự phát triển nhân cách của trẻ. 3. Kết luận Bằng phương pháp quan sát, nghiên cứu đã mô tả mức độ biểu hiện hành vi hung tính của hai trường hợp điển hình – một trẻ mẫu giáo bé (3 – 4 tuổi) và một trẻ mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi). Cả hai trẻ này đều có biểu hiện hành vi hung tính ở mức độ rất cao với các hình thức hành vi hung tính bằng thể chất, lời nói và mối quan hệ. Trong đó, trẻ mẫu giáo bé (3 – 4 tuổi) chủ yếu có 166
  10. Quan sát các biểu hiện hành vi hung tính của trẻ mẫu giáo với bạn – một nghiên cứu trường hợp hành vi hung tính mang tính chủ động, còn trẻ mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi) chủ yếu có hành vi hung tính mang tính phản ứng. Hành vi hung tính dưới hình thức mối quan hệ chỉ có ở trẻ 5 - 6 tuổi. Mặc dù hành vi hung tính chỉ là một biểu hiện tâm lí trong quá trình phát triển của trẻ ở tuổi mẫu giáo nhưng nếu hành vi này kéo dài có thể ảnh hưởng không tốt tới sự hình thành, phát triển nhân cách của trẻ trong những giai đoạn tiếp theo. Do đó, các nhà giáo dục nói chung và giáo viên mầm non nói riêng cần có biện pháp tác động phù hợp dựa vào đặc điểm phát triển tâm lí của trẻ nhằm hạn chế hành vi hung tính và ảnh hưởng không tích cực của nó ngay từ lứa tuổi mầm non. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] William Bor, Jake M. Najman, Michael O’Callaghan, Gail M. Williams, & Kaarin Anstey, 2001. “Aggression and the development of delinquent behaviour in children”. Australian Institute of Crim, No.207. [2] Campbell, S. B., 1995. Behaviour problems in preschool children: A review of recent research. Journal of Child Psychology and Psychiatry, 36 (1), pp. 115-119. [3] Dianna Murray-Close, Jamie M. Ostrov, 2009. A Longitudinal Study of Forms and Functions of Aggressive Behavior in Early Childhood. Child Development, 80 (3), pp. 828–842. [4] McAuliffe, M. D., Hubbard, J. A., Rubin, R. M., Morrow, M. T., & Dearing, K. F., 2006. Reactive and proactive aggression: Stability of constructs and relations to cor-relates. Journal of Genetic Psychology, 167, pp. 365–382. [5] Persson, Gun E. B., 2005. Developmental perspectives on prosocial and aggressive motives in preschoolers’ peer interactions. International Journal of Behavioral Development, 29 (1), pp. 80–91. [6] Crick, N. R., & Grotpeter, J. K., 1995. Relational aggression, gender, and social- psychological adjustment. Child Development, 66, pp. 710–722. [7] Crick, N. R., Casas, J. F., & Mosher, M., 1997. Relational and overt aggression in preschool. Developmental Psychology, 33(4), pp. 579–588. [8] Crick, N. R., Ostrov, J. M., Burr, J. E., Cullerton-Sen, C., Jansen-Yeh, E., & Ralston, P., 2006. A longitudinal study of relational and physical aggression in pre-school. Journal of Applied Developmental Psychology, 27, pp. 254–268. [9] Karen A. Morine, Laura M. Crothers, James B. Schreiber, Jered B. Kolbert, Tammy L. Hughes, & Ara J. Schmitt, 2011. Relational Aggression in Preschool Students: An Exploration of the Variables of Sex, Age, and Siblings. Child Development Research. [10] Hồ Thị Thúy Hằng, 2018. Hành vi hung tính của trẻ mẫu giáo lớn trong các trường công lập trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Luận án Tiến sĩ Tâm lí học, Học viện khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội. [11] Nguyễn Thị Như Mai và Trương Thu Trang, 2020. Các biểu hiện hành vi hung tính của trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non. VNU Journal of Science: Education Research, Vol.37, No. 1, tr. 53-66, doi: https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnuer.4393. [12] Buss, A. H., 1961. The psychology of aggression. John Wiley & Sons Inc. New York. [13] Cairns, R.B., & Cairns, B.D., 1984. Predicting aggressive patterns in girls and boys: A developmental study. Aggressive Behavior, 10, 277–242. [14] Sous la direction de Barry H. Schneider và Sébastien Normand, 2009. Conduites agressives chez l’enfant- Perspectives développementales et psychosociales. Presses de l’Université du Quebec, pp.3-7. 167
  11. Nguyễn Thị Như Mai, Trần Thị Thắm* và Trần Thị Kim Liên [15] Richard E. Tremblay, 2008. Prévenir la violence dès la petite enfance. Odile Jacob, Paris [16] Trần Thị Thắm, 2016. Thực trạng hành vi hung hăng trong tương tác với bạn của trẻ từ 24 tháng đến 36 tháng, Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt tháng 4/2016, tr.44-48. [17] Henri Piéron, Vocabulaire de la psychologie, 1992. Quadrige/ Presses Universitaires de France, p. 233. [18] Dale F. Hay, Ph.D. Cardiff University, Avril, 2005. Relations précoces entre pairs et impacts sur le développement des enfants. Royaume Uni. [19] Nguyễn Ánh Tuyết (chủ biên), Nguyễn Thị Như Mai và Đinh Thị Kim Thoa, 2008. Tâm lí học trẻ em lứa tuổi mầm non. Nxb Đại học Sư phạm. ABSTRACT Observation signs of aggressive behaviours in peer interaction of preschoolers – A case study Nguyen Thi Nhu Mai, Tran Thi Tham* and Tran Thi Kim Lien Faculty of Early Childhood Education, Ha Noi National University of Education The article presents a case study that used observations as a main method to explore the reality of aggressive behaviours in peer interaction of two preschoolers. Observational data were collected during four weeks separated by four days. The results showed that: two studied preschoolers have aggressive behaviours at very high level. Their aggressive behaviours are manifested with different forms, such as physical, verbal and relational aggression. Aggressive behaviours of the first child (3 – 4 year - old) are manifested with proactive aggression. Conversely, the main function of aggression of the second child (5 – 6 year - old) is reactive. Relational aggression behaviour is only found in 5 – 6 year - old. Pedagogical implications from two studied preschoolers are proposed to help educators to build appropriate measures for each child to help him developping their personalities from the preschool age. Keywords: aggressive behaviours, observation method, preschooler, case study. 168
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2