ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

HOÀNG THỊ HÀ MY

NHỮNG RỦI RO TRONG GIAO KẾT

HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM

VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2019

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

HOÀNG THỊ HÀ MY

NHỮNG RỦI RO TRONG GIAO KẾT

HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM

VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA

Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự

Mã số

: 8380101.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. VƢƠNG THANH THÚY

Hà Nội – 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết

quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các

số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung

thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài

chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ

Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn !

NGƢỜI CAM ĐOAN

HOÀNG THỊ HÀ MY

DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT

(ASEAN) Liên hiệp các nước Đông Nam Á

(BLDS) Bộ luật dân sự

(TMĐT) Thương mại điện tử

(UNECE) Ủy ban Kinh tế Châu âu của Liên hợp quốc

(UNCITRAL) Ủy ban Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế

9

MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 CHƢƠNG 1:NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ 1.1. Khái niệm ...................................................................................................... 9 1.2. Đặc điểm của hợp đồng điện tử ................................................................ 11 1.3. Vai trò của hợp đồng điện tử .................................................................... 15 1.4. So sánh hợp đồng điện tử và hợp đồng truyền thống ............................. 18 1.4.1. Sự giống nhau............................................................................................ 19 1.4.2. Sự khác nhau: ............................................................................................ 20 1.5. Pháp luật về hợp đồng điện tử của một số quốc gia trên thế giới ......... 23 1.5.1. Pháp luật quốc tế về hợp đồng điện tử ..................................................... 23 1.5.2. Pháp luật về hợp đồng điện tử của một số quốc gia trên thế giới ............ 25 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ VÀ NHỮNG RỦI RO THƢỜNG GẶP TRONG GIAO KẾT HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM .............................................................................. 31 2.1. Thực trạng pháp luật về hợp đồng điện tử tại Việt Nam ....................... 31 2.1.1. Giao kết hợp đồng điện tử ......................................................................... 32 2.1.2. Hình thức của hợp đồng điện tử ............................................................... 45 2.1.3.Nội dung của hợp đồng .............................................................................. 46 2.1.4. Về vấn đề chữ ký trong hợp đồng điện tử ................................................. 51 2.2. Những rủi ro thƣờng gặp trong hợp đồng điện tử .................................. 54 2.2.1 Thiếu những quy định pháp luật cụ thể điều chỉnh, hướng dẫn việc giao kết hợp đồng điện tử qua website theo mô hình C2C. ........................................ 55 2.2.2. Thiếu những quy định pháp luật cụ thể điều chỉnh, hướng dẫn việc giao kết hợp đồng điện tử theo mẫu trên website. ...................................................... 56 2.2.3. Rủi ro về công chứng hợp đồng điện tử .................................................... 58 2.2.4. Khách hàng bị lộ thông tin cá nhân trong khi giao kết hợp đồng điện tử 60 2.2.5. Chưa có quy định cụ thể về giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nước ngoài. ................................................................................................................... 63 2.2.6. Chưa có quy định cụ thể hướng dẫn giải quyết tranh chấp liên quan đến giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử. ....................................................... 64 2.2.7. Những quy định hướng dẫn giao kết hợp đồng điện tử chưa đầy đủ, chưa cụ thể. ......................................................................................................... 66 2.2.8. Quyền lợi của người tiêu dùng có nguy cơ bị vi phạm – thế yêu của một bên trong giao kết hợp đồng điện tử ................................................................... 67 CHƢƠNG 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VÀ NGƢỜI TIÊU DÙNG VIỆT NAM .................................................................. 73 3.1.Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hợp đồng điện tử tại Việt Nam ....... 73

3.1.1. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh, hướng dẫn cụ thể viêc giao kết hợp đồng điện tử qua website theo mô hình C2C. ......................... 74 3.1.2. Xây dựng và ban hành các quy định pháp luật điều chỉnh, hướng dẫn cụ thể việc giao kết hợp đồng điện tử theo mẫu trên website. ............................ 75 3.1.3. Xây dựng thiết chế công chứng hợp đồng điện tử .................................... 78 3.1.4. Xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật riêng về bảo vệ dữ liệu cá nhân, kết hợp tăng cường bảo đảm an toàn thông tin trong giao kết hợp đồng điện tử.................................................................................................. 79 3.1.5. Ban hành hướng dẫn cụ thể về giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nước ngoài ........................................................................................................... 81 3.1.6. Bổ sung các quy định cụ thể hơn về giải quyết tranh chấp liên quan đến việc giao kết và thực hiện hợp đồng .................................................................... 82 3.1.7. Bổ sung thêm các quy định cụ thể hướng dẫn việc giao kết hợp đồng điện tử .................................................................................................................. 85 3.1.8. Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong giao kết hợp đồng điện tử .. 86 3.2. Những kiến nghị đối với doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng Việt Nam trong giao kết hợp đồng điện tử ....................................................................... 90 3.2.1. Giải pháp đối với doanh nghiệp................................................................ 90 3.2.2. Giải pháp đối với người tiêu dùng ............................................................ 96 KẾT LUẬN ...................................................................................................... 101 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 103

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Bước vào thế kỷ thứ XX cùng với sự phát triển mạnh mẽ của mạng Internet

và những ứng dụng của nó đã đưa loài người bước sang một kỷ nguyên mới – kỷ

nguyên của nền kinh tế tri thức. Sự ra đời và phát triển của thương mại điện tử đã

khiến các giao dịch thương mại ngày càng phát triển, mở rộng và tự do bởi sự tiện

lợi của nó. Sự tự do ở đây không phải là thiếu tính kiểm soát mà nó thể hiện ở sự

vượt qua những rào cản về không gian, thời gian của các quy trình giao kết hợp

đồng truyền thống, đẩy nhanh tốc độ, khối lượng giao dịch cũng như nhanh chóng

nắm bắt cơ hội thiết lập các mối quan hệ đa phương của thương mại quốc tế.

Cùng với những tiện ích to lớn mà việc ứng dụng công nghệ tin học vào các

hoạt động thương mại cũng đã đặt ra nhiều các vấn đề ở cả phạm vi các quốc gia

cũng như trên bình diện quốc tế về việc hình thành cơ sở pháp lý, tạo môi trường

thuận lợi, thúc đấy sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động thương mại điện tử

hướng tới mục tiêu vì con người, đồng thời hạn chế, khắc phục những mặt trái của

nó mang lại hoặc giải quyết những tranh chấp của nó trong quá trình ứng dụng và

phát triển. Điều đó đã đặt ra cho mỗi quốc gia phải từng bước hoàn thiện hệ thống

pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực thương mại điện tử, đáp

ứng được sự phù hợp với những đặc trưng vốn có của loại hình thương mại luôn có

xu hướng vượt qua những rào cản về không gian địa lý, thu hẹp toàn cầu thành một

thị trường chung, phi biên giới.

Ở các quốc gia phát triển, trước những yêu cầu đòi hỏi mạnh mẽ của việc

ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động thương mại, với bề dày truyền thống

trong lĩnh vực thương mại điện tử, không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia mà

còn hướng mạnh ra thị trường quốc tế đã từng bước xây dựng cho quốc gia mình

những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực thương

mại điện tử. Vì vậy cho đến nay các nước này các quốc gia nay đã có một hệ thống

1

pháp luật tương đối hoàn chỉnh điều chỉnh các vấn đề thương mại và thương mại

điện tử nói riêng. Ngoài ra những nước phát triển cũng đa góp phần quan trọng cùng

với các quốc gia khác xây dựng và hoàn thành các hệ thống pháp luật quốc tế có

liên quan đến các lĩnh vực thương mại điện tử, tạo ra khuôn khổ pháp lý thống nhất

trên phạm vi quốc tế, nhằm thúc đẩy mạnh mẽ cho sự phát triển của thương mại

toàn cầu.

Đối với nước ta, thực hiện chủ trương đổi mới tòan diện đất nước, trong

những năm qua kể từ khi nước ta ra nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) năm

2006, nhà nước ta đã thực hiện chuyển đối mạnh mẽ nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa theo hướng linh hoạt, mềm dẻo, cạnh tranh hiệu quả đáp

ứng yêu cầu và thách thức của nền kinh tế quốc tế và khu vực khi tham gia vào thị

trường kinh tế quốc tế với những “ luật chơi chung”. Các hoạt động thương mại

được chú trọng và phát triển mạnh mẽ đối với cả các giao lưu trong nước và quốc

tế. Vì vậy trong thời gian qua nhà nước ta đã nỗ lực, sửa đổi, bổ sung, xây dựng,

hoàn thiện môi trường pháp lý đáp ứng yêu cầu quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

sâu rộng theo hướng “hội nhập, hợp tác, phát triển, cùng có lợi”.

Trong lĩnh vực thương mại điện tử, nhà nước ta đã tập chung xây dựng nhiều

văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao, tạo cơ sở cho việc thúc đẩy sự

phát triển giao lưu thương mại như: Bộ Luật Dân sự năm 2015; Luật Thương mại

năm 2005; Luật Giao dịch điện tử năm 2005; Luật công nghệ thông tin năm 2006;

Nghị định số 57/2016/NĐ – CP ngày 09/6/2016 của Chính phủ về thương mại điện

tử và Nghị định số 71/2007/NĐ – CP ngày 03/5/2007 của Chính phủ quy định chi

tiết và hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật công nghệ thông tin về công

nghiệp công nghệ thông tin… Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta hiện

nay đã từng bước đặt nền móng cơ sở pháp lý điều chỉnh các hoạt động thương mại

điện tử.

Công nghệ thông tin đã có mặt ở hầu hết các lĩnh vực trong đời sống xã hội,

trong lĩnh vực hành chính công với Chính phủ điện tử, trong lĩnh vực báo chí là báo

2

điện tử, trong lĩnh vực giáo dục người ta nhắc nhiều đến đào tạo trực tuyến, trong

lĩnh vực ngân hàng phải kể đến ngân hàng điện tử, hay việc ứng dụng công nghệ

thông tin trong hoạt động thương mại hàng hóa…và trong đó có sự hiện diện của

các quan hệ hợp đồng mua bán.

Tuy nhiên tìm hiểu những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành có thể

thấy, các nội dung quy định về hợp đồng điện tử - một trong những nội dung cốt

yếu của vấn đề thương mại điện tử chưa được đề cập một cách đầy đủ, cụ thể. Sự

thiếu vắng những quy định này trong hệ thống pháp luật làm cho hoạt động thương

mại điện tử bị hạn chế rất lớn, không đáp ứng được yêu cầu ngày càng phát triển

mạnh mẽ của loại hình thương mại này. Một trong những lý do được nêu trên là

nước ta đang ở giai đoạn đầu của quá trình tiếp cận và phát triển thương mại điện

tử, vấn đề hợp đồng điện tử còn khá mới mẻ đối với Việt Nam những vấn đề này

còn đang trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm. Do đó các chế định pháp lý về

vấn đề này còn hạn chế, cần phải được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện trong thời gian

tới nhằm đáp ứng yêu cầu đòi hỏi khách quan của hoạt động thương mại khi chúng

ta đang trên tiến trình hội nhập kinh tế, quốc tế.

Với nền kinh tế ngày càng hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới, Việt

Nam cũng đã và đang nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của những ứng

dụng thương mại điển tử trong các lĩnh vực, đặc biệt là thương mại quốc tế .Vận

dụng được thương mại điện tử trong phát triển giao dịch thương mại sẽ là bàn đạp

giúp Việt Nam phát triển kinh tế nhanh hơn, mạnh hơn, nắm bắt được cơ hội thiết

lập các mối quan hệ thương mại quốc tế tốt hơn.

Sử dụng phương tiện điện tử để giao kết hợp đồng luôn là vấn đề có tính hai

mặt. Bên cạnh những lợi ích không thể phủ nhận như giảm chi phí, tiết kiệm thời

gian, tạo nhiều cơ hội, nâng cao khả năng cạnh tranh, thì giao kết hợp đồng điện tử

cũng có nhiều rủi ro tiềm ẩn, nảy sinh những rủi ro hết sức phức tạp mà việc thiếu

hiểu biết về những rủi ro này sẽ đem lại những khó khăn, tổn thất, hậu quả khó khắc

3

phục đối với các bên tham gia giao dịch.

Trong kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử nước ta giai đoạn

2016 – 2020 vừa được Thủ tướng Chính Phủ phê duyệt ngày 08/8/2016, một trong

những mục tiêu được đặt ra là tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý thương mại

điện tử nhằm thúc đẩy giao lưu thương mại, hạn chế thấp nhất các rủi ro trong giao

dịch điện tử trong nước và ngoài nước, phục vụ đắc lực cho quá trình hội nhập kinh

tế, quốc tế. Chính vì vậy tôi lựa chọn đề tài “Những rủi ro trong giao kết hợp đồng

điện tử tại Việt Nam và giải pháp phòng ngừa” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc

sĩ, qua đó góp phần tìm ra các nguyên nhân, đưa ra giải pháp hạn chế các rủi ro và

kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hợp đồng điện tử ở Việt Nam.

2. Tình hình nghiên cứu

Mạng Internet được đưa vào Việt Nam từ năm 1997. Chỉ trong một thời gian

ngắn phạm vi ảnh hưởng của nó đã ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực trong đời sống xã

hội, đặc biệt là các giao dịch về hợp đồng, kéo theo đó là nhiều vấn đề pháp lý nảy

sinh liên quan đến việc điều chỉnh các giao dịch này cũng như hoạt động của các

chủ thể tham gia và đồng thời thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu luật học

và kinh tế.

Trước khi có luật Giao dịch điển tử năm 2005 các bài viết về hợp đồng điện

tử được công bố rất ít, liên quan trực tiếp đến hợp đồng điện tử có đề tài nghiên cứu

luận văn thạc sĩ tại trường Đại học Luật Hà Nội năm 2004 của Ths. Trần Đình Toản

với đề tài “một số vấn đề pháp lý về hợp đồng trong lĩnh vự thương mại điện tử tại

Việt Nam” , đề tài này nghiên cứu trong bối cảnh hợp đồng điện tử chưa được pháp

luật thừa nhận tại nước ta, khi đó các văn bản pháp lý tạo môi trường thuận lợi cho

hoạt động giao kết hợp đồng điện tử chưa được ban hành. Như vậy, luận văn mới

chỉ dừng lại ở lý luận tiền năng mà chưa có sự nghiên cứu đầy đủ có hệ thống về

hợp đồng điện tử cũng như thực thực trạng hợp đồng điện tử tại Việt Nam.

Sau khi Quốc hội ban hành Luật Giao dịch điện tử năm 2005. Hợp đồng điện

tử đã chính thức được thừa nhận ở nước ta, đáng chú ý là các công trình nghiên cứu

4

chuyên sâu về hợp đồng điện tử, quan trọng kể đến:

Thứ nhất, nhóm cấp độ luận án tiến sĩ: có các đề tài nghiên cứu chuyên sâu

về hợp đồng điện tử của TS. Nguyễn Văn Thoan (2010) “Ký kết và thực hiện hợp

đồng điện tử trong điều kiện Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế”, Luận án Tiến sĩ

kinh tế, Đại học Ngoại Thương Hà Nội, công trình này được triển khai nghiên cứu

dưới góc độ kinh tế học. Tiếp theo cần kể đến là công trình nghiên cứu của TS. Trần

Văn Biên (2011) “Hợp đồng điện tử theo pháp luật Việt Nam”, Luận án tiến sĩ Luật

học, Trường Học Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam, Hà Nội, đây là luận án tiến sỹ

đầu tiên nghiên cứu đầy đủ và chuyên sâu về hợp đồng điện tử tại Việt Nam. Mới

gần đây có luận án tiến sĩ của TS. Lê Văn Thiệp (2016) “Pháp luật thương mại điện

tử ở Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Luật học,Trường Học Viện Khoa Học Xã

Hội Việt Nam, Hà Nội, nghiên cứu chuyên sâu pháp luật về thương mại điện tử.

Thứ hai, nhóm cấp độ luận văn Thạc sĩ: tìm hiểu các công trình nghiên cứu ở

cấp độ này tiêu biểu có công trình của ThS. Đỗ Thị Thu Hằng (2009), “Hợp đồng

điện tử theo pháp luật Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế, Khoa Luật,

Trường Đại Học Quốc Gia Hà Nội, luận văn tập chung phân tích các quy định của

pháp luật hiện hành của Việt Nam về thương mại điện tử và hợp đồng điện tử và đề

xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật.

Thứ ba nhóm sách, tạp chí nghiên cứu: tiêu biểu phải kể đến cuốn sách của

GS.TS. Nguyễn Thị Mơ (2006) “Cẩm nang pháp luật về giao kết hợp đồng điện

tử”, NXB Lao động – xã hội, Hà Nội; TS. Trần Văn Biên (2010) “Hợp đồng điện

tử theo pháp luật Việt Nam”, NXB Tư Pháp, Hà Nội. Tiếp đó là các bài viết của

GS.TS. Nguyễn Thị Mơ (2006), “ Luật giao dịch điện tử năm 2005 và những quy

định về giao kết hợp đồng điện tử”, tạp chí Kinh tế đối ngoại số 19; TS. Trần Văn

Biên, “Về khái niệm hợp đồng điện tử”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8/2010;

TS. Trần Văn Biên, “Sự thỏa thuận trong giao kết hợp đồng điện tử qua mạng

Internet”, Tạp chí nhà nước và luật, số 10/2010; TS. Trần Văn Biên, “Pháp luật và

hợp đồng điện tử”, tạp chí Tòa án nhân dân, số 20/2010; TS. Trần Văn Biên,

“Khung pháp lý cơ bản về giao dịch điện tử của Việt Nam”, tạp chí thông tin khoa

5

học xã hội, số 1/2011.

Mặc dù các công trình nghiên cứu trên đã giành một phần lớn nội dung để

nghiên cứu, phân tích và đánh giá về thương mại điện tử nói chung, các vấn đề pháp

lý về hợp đồng điện tử nói riêng, việc nghiên cứu về các rủi ro trong giao kết hợp

đồng điện tử và những biện pháp phòng ngừa chưa được nghiên cứu một cách có hệ

thống và toàn diện.

Từ việc đánh giá tình hình nghiên cứu trên có thể khẳng định, việc lựa chọn.

đề tài: “Những rủi ro trong giao kết hợp đồng điện tử tại Việt Nam và giải pháp

phòng ngừa” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ luật học là cần thiết và đề tài

này không bị trùng lặp với các công trình nghiên cứu đã thực hiện trước đó.

3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu

a) Mục đích

Luận văn tập chung nghiên cứu những vấn đề lý luận về đồng điện tử qua

mạng Internet – phương tiện điện tử được sử dụng phổ biến và có tầm ảnh hưởng,

chi phối lớn nhất trong giao kết hợp đồng điện tử hiện nay mà không mở rộng

nghiên cứu hợp đồng được giao kết thông qua các phương tiện điện tử khác như

điện thoại, điện tín, điện báo hay fax. Từ nền tảng lý luận về giao kết hợp đồng điện

tử và những rủi ro trong giao kết hợp đồng điện tử, tác giả sẽ đi sâu phân tích những

vấn đề lý luận về hợp đồng điện tử, thực trạng khung pháp lý và những rủi ro trong

giao kết hợp đồng điện tử ở Việt Nam từ đó đưa ra các biện pháp giúp phòng ngừa

các rủi ro này.

b) Phạm vi

Xuất phát từ mục đích nêu trên luận văn sẽ tập chung nghiên cứu những nội

dung cụ thể sau: (i) một số vấn đề lý luận chung về hợp đồng điện tử; (ii) thực trạng

pháp luật về hợp đồng điện tử và những rủi ro pháp lý thường gặp trong giao kết

hợp đồng điện tử; (iii) kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng điện tử

và các giải pháp đối với doanh nghiệp và người tiêu dùng Việt Nam.

6

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên

cứu luận văn đã sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp

phân tích, đánh giá, so sánh, diễn giải, tổng hợp nhằm làm rõ những vấn đề cần

được nghiên cứu. Trong số các phương pháp sử dụng luận văn đặc biệt lưu ý tới

phương pháp so sánh vì nó cho phép nhìn nhận vấn đề một cách đầy đủ, khách quan

trên có sở đối chiếu, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế, điều này là hết sức

cần thiết trong điều kiện hiện nay của Việt Nam vì đây là lĩnh vực còn khá mới mẻ

trong khi đó chúng ta cần thiết phải nỗ lực nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp

luật về thương mại điện tử đảm bảo phù hợp với các quy định của pháp luật quốc

tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.

5. Điểm mới của luận văn

Đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau liên quan

đến hợp đồng điện tử, tuy nhiên mỗi bài viết lại đề cập đến các khía cạnh, cung như

có cách tiếp cận khác nhau về hợp đồng điện tử. Theo quan điểm cá nhân của tác

giả, đa phần các bài viết đều nhìn nhận và tiếp cận hợp đồng điện tử dưới góc độ

kinh tế học. Thông qua đề tài "Những rủi ro trong giao kết hợp đồng điện tử tại Việt

Nam và giải pháp phòng ngừa" tác giả muốn tiếp cận vấn đề hợp đồng điện tự dưới

góc độ luật dân sự. Theo đó:

Thứ nhất, luận văn sẽ nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận

chung về hợp đồng điện tử theo pháp luật Việt Nam.

Thứ hai, luận văn sẽ đánh giá thực trạng pháp luật điều chỉnh hợp đồng điện tử

tại Việt Nam và đi sâu phân tích việc sử dụng phương tiện điện tử để giao kết hợp

đồng là vấn đề có tính hai mặt, bên cạnh những lợi ích không thể phủ nhận, thì giao

kết hợp đồng điện tử cũng có nhiều rủi ro tiềm ẩn gây thiệt hại về mặt kinh tế cho

các bên tham gia hợp đồng cũng như khó khăn cho cơ quan tài phán trong việc giải

quyết các tranh chấp phát sinh. Luận văn sẽ đưa ra sự nhận diện và kiểm soát vấn đề

7

rủi ro có thể phát sinh khi giao kết hợp đồng.

Thứ ba, Luận văn sẽ đưa ra sự nhận diện vấn đề rủi ro có thể phát sinh khi giao

kết hợp đồng, để từ đó thấy được những khó khăn, vướng mắc, kết hợp với sự tiếp

thu có chọn lọc kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về việc xây dựng và

ban hành văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ hợp đồng điện tử từ đó rút ra bài

học kinh nghiệm nhằm định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về giao

dịch điện tử trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

` Luận văn nghiên cứu tương đối có hệ thống về những rủi ro trong giao kết

hợp đồng điện tử, kết quả nghiên cứu luận văn có ý nghĩa quan trọng cả về phương

diện lý luận và ý nghĩa thực tiễn:

Hoàn thành luận văn này, tác giả hy vọng luận văn có thể được sử dụng làm tài

liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện quy định của pháp luật hợp

đồng điện tử; Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc

nghiên cứu và học tập, là cơ sở tham khảo cho các công trình nghiên cứu sau này về

giao dịch điện tử nói chung và hợp đồng điện tử nói chung.

Một trong những ý nghĩa mà tác giả thấy tâm đắc nhất đó là luận văn sẽ nâng

cao nhận thức của người đọc về hợp đồng điện tử, những rủi ro thường gặp và các

biện pháp phòng ngừa các rủi ro này để từ đó có các biện pháp phòng tránh rủi ro

bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia giao dịch.

7.Kết cấu của luận văn

Luận văn được trình bày gồm các nội dung chủ yếu sau:

Mở đầu

Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về hợp đồng điện tử.

Chương 2: Thực trạng pháp luật về hợp đồng điện tử và nhhững rủi ro thường

gặp trong giao kết hợp đồng điện tử tại Việt Nam.

Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hợp đồng điện tử và các giải

8

pháp đối với Doanh nghiệp và người tiêu dùng Việt Nam.

Kết luận

Danh mục tài liệu tham khảo

CHƢƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ

1.1. Khái niệm

Hợp đồng điện tử (Tiếng Anh là e-contracts hay on-line contracts) là một

loại hình cơ bản của giao dịch điện tử. Theo Điều 11 Luật Mẫu về Thương mại điện

tử của UNCITRAL năm 1996 “Hợp đồng điện tử được hiểu là hợp đồng được hình

thành thông qua việc sử dụng các phương tiện truyền dữ liệu”.[13, Điều 11]

` Theo Ủy ban Kinh tế Châu âu của Liên hợp quốc (UNECE), hợp đồng

điện tử là hợp đồng nhằm đáp ứng các yêu cầu của các đối tác thương mại

điện tử. Hợp đồng bao gồm các điều khoản cơ bản có thể đảm bảo rằng một

hay nhiều giao dịch thương mại điện tử, sau này có thể được ký kết giữa các

đối tác thương mại trong khuôn khổ pháp lý cho phép. Hợp đồng điện tử

nhằm đề cập tới mọi hình thức liên lạc điện tử có thể để ký kết các giao dịch

thương mại điện tử [26, tr.183-184].

Ở Việt Nam, hợp đồng điện tử là một thuật ngữ pháp lý mới, chính thức xuất

hiện ở Việt Nam vào những năm 2005, sau khi Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam thông qua năm 2005. Mặc dù được xây dựng trên cơ sở tham khảo

Luật mẫu về thương mại điện tử năm 1996 của UNCITRAL, nhưng khác với luật

mẫu và pháp luật của nhiều nước trên thế giới, Luật giao dịch điện tử năm 2005 của

Việt Nam đưa ra định nghĩa chính thức về hợp đồng điện tử tại Điều 33 như sau: “

Hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu”[21,

Điều 33], trong đó thông điệp dữ liệu được hiểu là “ thông tin được tạo ra, gửi đi,

được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử”[21,Điều 4(2)]. Thông điệp

dữ liệu được thể hiện dưới hình thức: trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư

9

điện tử, điện tín, điện báo, fax, và các hình thức tương tự khác [21, Điều 10].

Nếu như pháp luật quốc tế và pháp luật trong nước đều không đưa ra định

nghĩa chính thức về hợp đồng điện tử, thì ngược lại định nghĩa về hợp đồng điện tử

được một số nhà nghiên cứu khoa học hoặc hoạt động thực tiễn pháp lý đưa ra trong

các công trình nghiên cứu, bài viết hay hội thảo khoa học, trong đó:

Theo Luật sư Oliver Iteanu – Đoàn Luật sư Paris:

Hợp đồng điện tử là sự gặp gỡ trên mạng viễn thông quốc tế

giữa một lời đề nghị giao kết hợp đồng thể hiện bằng phương tiện

nghe nhìn và một lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Sự gặp gỡ

này có thể được thực hiện một cách tức thời, nhờ sự trao đổi tương

tác. [17, tr.106]

Hoặc là “Hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp

dữ liệu, hay nói cách khác là hợp đồng có sử dụng thông điệp dữ liệu”.[11, tr.367].

Đây là định nghĩa được đưa ra trong cuốn chuyên khảo Pháp luật về hợp đồng trong

thương mại và đầu tư – những vấn đề pháp lý cơ bản do TS. Nguyễn Thị Dung chủ

biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm 2008.

Trong tạp chí Nhà nước và pháp luật số 8/2010, TS. Trần Văn Biên cũng đã

phân tích, tìm hiểu và đưa ra khái niệm về hợp đồng điện tử “Tóm lại, nói đến hợp

đồng điện tử là nói đến một phương thức thiết lập hợp đồng chứ không phải là một

loại hợp đồng dựa trên một đối tượng cụ thể nào” [1,tr.36].

Ngày nay người ta hiểu khái niệm hợp đồng điện tử thông thường là những

hợp đồng được giao kết thông qua phương tiện điện tử mà trong đó internet đóng

vai trò cơ bản và được coi là điều kiện tiên quyết. Như vậy, Luật giao dịch điện tử

năm 2005 của Việt Nam định nghĩa hợp đồng điện tử theo cách khái quát. Sự liệt kê

thường không bao giờ đầy đủ, cách định nghĩa này là hợp lý, nó dự liệu được tất cả

các phương tiện điện tử được sử dụng để giao kết hợp đồng và giúp tránh khỏi sự

lạc hậu trước sự phát triển của công nghệ thông tin, bởi rất có thể trong tương lai sẽ

có thêm những phương tiện điện tử khác được phát minh, sáng chế mà được sử

10

dụng làm phương tiện điện tử.

Qua những phân tích ở trên có thể kết luận hợp đồng điện tử là những hợp

đồng được giao kết qua mạng Internet - phương tiện điện tử được sử dụng phổ biến

và có tầm ảnh hưởng, chi phối nhất trong giao kết hợp đồng điện tử hiện nay.

1.2. Đặc điểm của hợp đồng điện tử

Xét về bản chất hợp đồng điện tử cũng có những đặc điểm chung cơ bản

giống với hợp đồng truyền thống và đều phải tuân theo những quy định chung về

giao kết hợp đồng được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015.

Tham gia vào hợp đồng điện tử có ít nhất hai bên (có thể là hai doanh

nghiệp ký hợp đồng với nhau hoặc có thể là doanh nghiệp ký hợp đồng với người

tiêu dùng).

Về cơ sở hình thành hợp đồng điện tử cũng xuất phát từ sự thỏa thuận giữa

các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấp dứt quyền và nghĩa vụ như các hình

thức hợp đồng phổ biến mà chúng ta đang áp dụng, chỉ khác là chúng được xác lập

thông qua phương tiện điện tử dưới dạng thông điệp dữ liệu. Dù là hợp đồng truyền

thống hay hợp đồng điện tử, dù được giao kết bằng lời nói, hành vi, bằng văn bản

hay bằng các phương tiện điện tử thì điều quan trọng là hợp đồng chỉ hình thành

nếu các bên giao kết hoàn toàn tự nguyện, đạt được sự thỏa thuận rõ ràng, cụ thể về

quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Trong đó sự thống nhất và tự do ý chí giữa các bên

– cơ sở triết học của hợp đồng là điều quan trọng nhất dù là loại hợp đồng gì.

Hợp đồng điện tử khi giao kết hay thực hiện đều phải tuân thủ những chuẩn

mực chung nhất của hợp đồng nói chung liên quan tới hình thức của hợp đồng, chủ

thể của hợp đồng, các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, chế độ trách nhiệm khi vi

phạm hợp đồng và giải quyết tranh chấp phát sinh nếu có.

Khi giao kết hợp đồng điện tử hay hợp đồng truyền thống các bên đều phải

tuân thủ các nguyên tắc giao kết hợp đồng được quy định tại Bộ luật Dân sự đó là

11

nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã

hội và nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay

thẳng.

Trong giao kết hợp đồng điện tử, việc trao đổi thông tin đa phần được thực

hiện thông qua các phương tiện điện tử và chính yếu tố kỹ thuật công nghệ này đã

làm thay đổi cách thức, quy trình, thủ tục ký kết hợp đồng điện tử và hệ quả tiếp

theo là làm thay đổi cách thức thực hiện hợp đồng điện tử và ít nhiều chi phối cả

luật điều chỉnh. “Khía cạnh kỹ thuật làm cho quá trình giao kết hợp đồng điện tử

phát sinh nhiều vấn đề chưa từng gặp trong giao kết hợp đồng bằng phương thức

truyền thống và đây cũng chính là đặc điểm riêng của hợp đồng điện tử” [6, tr.24-

25]. Sự khác biệt này sẽ khiến cho hợp đồng điện tử mang một số tính riêng biệt cơ

bản sau đây:

- Về phương tiện ký kết: “Hợp đồng điện tử được ký kết thông qua các

phương tiện điện tử và mạng viễn thông, điển hình là mạng Internet. Chính các

công cụ này đã giúp mở rộng phạm vi ký kết hợp đồng điện tử ra khắp thế giới” [27,

tr.19]. Đặc biệt là việc sử dụng mạng Internet trong quá trình ký kết hợp đồng điện

tử đã giúp các bên có thể ký kết hợp đồng điện tử với mọi đối tác từ mọi nơi trên thế

giới mà không bị rào cản về biên giới quốc gia hạn chế. Với hợp đồng truyền thống

các bên sau khi gặp gỡ, trao đổi, thống nhất với nhau bằng các tài liệu giấy tờ và ký

bằng tay. Hợp đồng điện tử thì lại có một phương thức giao kết khác, các bên sẽ

không mất thời gian gặp gỡ, trao đổi và ký tay mà thực hiện việc giao kết trên các

phương tiện điện tử và hợp đồng sẽ được ký bằng chữ ký điện tử.

Một thương nhân, dù ở đâu, ở từng địa phương trong một quốc gia hay ở

phạm vi quốc tế, dù vào thời điểm nào cũng có thể giao dịch với đối tác của mình

mà không có bất kỳ trở ngại nào. Tuy nhiên việc xác định vị trí, địa điểm, nơi mà

thương nhân này tiến hành giao dịch trở nên khó khăn hơn so với hợp đồng truyền

thống, thậm chí đôi khi là không thể thực hiện. Điều này sẽ dẫn đến rất nhiều các

vấn đề pháp lý phức tạp khi phải xác định địa điểm giao kết hợp đồng, đặc biệt là

12

khi giao kết với thương nhân nước ngoài.

- Về chủ thể: Hợp đồng điện tử ngoài các chủ thể là người mua và người bán,

thì khi giao kết hợp đồng điện tử còn có một chủ thể khác không kém phần quan

trọng là các nhà cung cấp dịch vụ mạng và các cơ quan chứng thực chữ ký.

- Về vấn đề nội dung hợp đồng: hợp đồng điện tử có một số điểm khác biệt

với hợp đồng truyền thống như địa chỉ pháp lý, ngoài các địa chỉ pháp lý thông

thường hợp đồng điện tử còn có địa chỉ e-mail, địa chỉ website, địa chỉ xác định nơi

và ngày giờ gửi.

- Tính vô hình, phi vật chất: môi trường điện tử là môi trường số hóa, môi

trường ảo, vì vậy các hợp đồng điện tử mang tính chất vô hình, nghĩa là hợp đồng

điện tử được tồn tại, được chứng minh, được lưu trữ bởi các dữ liệu điện tử, điện từ

chứ không nhận biết một cách vật chất được. Tính vô hình và phi vật chất này,

khiến cho việc xác định một số yếu tố của hợp đồng trở nên khác, và khó khăn hơn

so với hợp đồng bằng giấy truyền thống. Ví dụ như: vấn đề bản gốc, vấn đề chữ ký

của hai bên, vấn đề bằng chứng của hợp đồng để làm cơ sở pháp lý khi tranh tụng

trước tòa…

- Tính rủ ro: Phương thức giao kết hợp đồng điện tử cũng có nhiều rủi ro.

Với sự phát triển nhanh chóng của thương mại điện tử, người ta cũng đang phải đối

mặt với những rủi ro phát sinh từ việc giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử mà

nguyên nhân phát sinh rủi ro là do chính tính vô hình và tính hiện đại về mặt kỹ

thuật của hợp đồng điện tử mang lại. Trong một môi trường ảo, đôi khi rất khó khăn

để xác định năng lực pháp lý của đối tác giao kết hợp đồng, xác định xem đơn hàng

trên internet là đơn hàng thật hay đơn hàng giả. Tính “vô hình” khiến cho việc lưu

trữ hợp đồng nhằm đảm bảo bằng chúng về hợp đồng trong trường hợp xảy ra tranh

chấp cũng là điều không đơn giản.

Làm thế nào để có một chữ ký điện tử đáng tin cậy? làm thế nào để bảo mật

hợp đồng điện tử và chữ ký điện tử? làm thế nào để hạn chế rủi ro chống phá sự tấn

công của các hacker… Đó là những câu hỏi làm đau đầu không chỉ các nhà kinh

doanh mà còn cả những nhà làm luật khi giao dịch điện tử phát triển trên toàn thế

13

giới.

Trên thực tế nhiều người đã phải chịu thiệt thòi do những rủi ro này mang

lại. Nhiều khách hàng bị mất tiền do bảo mật thẻ tín dụng không tốt, nhiều doanh

nghiệp không lấy được tiền hàng do hợp đồng bị giả mạo chữ ký điện tử, nhiều vụ

tranh chấp rơi vào bế tắc khi cơ quan giải quyết tranh chấp không tìm được cơ sở

pháp lý để bảo về quyền lợi của các bên có lợi ích bị xâm phạm v.v..

- Luật điều chỉnh: Với tính đặc thù về mặt kỹ thuật công nghệ như đã phân

tích, hợp đồng điện tử một mặt chịu sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật về hợp

đồng như Bộ Luật Dân sự năm 2015, mặt khác, việc ký kết và thực hiện hợp đồng

điện tử còn cần phải tuân theo một quy đình và thủ tục đặc biệt nhằm phòng tránh

rủi ro do chính yếu tố kỹ thuật đem lại. Vì vậy bên cạnh pháp luật về hợp đồng, hợp

đồng điện tử còn chịu sự điều chỉnh của một số văn bản pháp luật riêng.

Đặc biệt là việc giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nước ngoài, một vấn đề

thường phát sinh khi nghiên cứu về nội dung pháp luật điều chỉnh việc giao kết hợp

đồng điện tử nói riêng và hợp đồng nói chung. Vấn đề mấu chốt là ở chỗ, nguyên

tắc tự do giao kết hợp đồng cho phép các bên tham gia trong hợp đồng, dù là hợp

đồng truyền thống hay hợp đồng điện tử, được quyền thỏa thuận, lựa chọn thống

nhất luật áp dụng mà các bên cho là thích hợp để điều chỉnh hợp đồng của mình.

Tuy nhiên, nếu các bên không thống nhất được vấn đề này, việc xác định luật nào sẽ

áp dụng cho hợp đồng trở nên khó khăn. Với các hợp đồng được giao kết với các

quốc gia khác nhau cũng vậy, mặc dù trong quan hệ hợp đồng không có ranh giới

quốc gia, các giao dịch được tiến hành một cách phi biên giới. Song trên thực tế sẽ

có những giao dịch mà chủ thể ở các nước khác nhau, và các chủ thể này có quốc

tịch khác nhau với nơi họ cư trú hoặc có trụ sở.

Một giao dịch như vậy có thể được điều chỉnh bởi nhiều hệ thống luật khác

nhau. Trong những trường hợp như vậy, việc xác định luật pháp của quốc gia nào

điều chỉnh hợp đồng điện tử có yếu tố nước ngoài là vấn đề hết sức phức tạp.

Rõ ràng những quy định về giao kết hợp đồng điện tử, không thể hoàn toàn

14

giống những quy định về giao kết hợp đồng truyền thống. Chính vì vậy luật điều

chỉnh hợp đồng điện tử trong đó có hợp đồng điện tử có yếu tố nước ngoài sẽ phải

có những điểm riêng biệt nhất định để điều chỉnh cho phù hợp.

1.3. Vai trò của hợp đồng điện tử

Những nghiên cứu lý luận và thực tiễn cho thấy việc sử dụng hợp đồng điện

tử trong đời sống hàng ngày cũng như trong thương mại đem lại nhiều lợi ích, đặc

biệt là cho các nhà kinh doanh. Những lợi ích này có thể thấy được thông qua vai

trò của hợp đồng điện tử. Theo đó, hợp đồng điện tử có những vai trò chủ yếu sau

đây:

Thứ nhất, hợp đồng điện tử giúp các bên giao kết tiết kiệm được thời gian

đàm phán, giao kết hợp đồng.

Quá trình giao kết hợp đồng gồm nhiều bước, từ tìm hiểu đối tác, giới thiệu

sản phẩm dịch vụ, gửi đơn chào hàng, gửi chấp nhận chào hàng, đàm phán các điều

khoản của hợp đồng, ký kết, sửa đổi, lưu trữ…Nếu tất cả những công việc ấy đều

diễn ra bằng giấy trắng, mực đen thì thời gian để các bên soạn thảo, in ấn giấy tờ,

thời gian gửi và chờ nhận thư liên lạc giữa các bên là không ngắn.

Các cuộc điều tra cho thấy 80% thời gian để ký hợp đồng sẽ được tiết kiệm

bằng việc sử dụng hợp đồng điện tử. Việc sử dụng Internet sẽ giúp người tiêu dùng,

giúp các bên giao kết, kể cả bên giao kết là doanh nghiệp, giảm đáng kể thời gian

giao dịch. Thời gian giao dịch qua Internet chỉ bằng 7% thời gian giao dịch qua Fax,

bằng khoảng 0.5 phần nghìn thời gian giao dịch qua bưu điện.

Thứ hai, bằng việc giao kết các hợp đồng điện tử, các doanh nghiệp giảm

được chi phí giao dịch, bán hàng.

Chỉ bằng một vài “click” trên máy tính, một nhà kinh doanh, ngồi tại văn

phòng của mình (hay thậm chí ngồi tại nhà riêng) cũng có thể cùng lúc giao dịch

cùng lúc với nhiều khách hàng, giao kết được nhiều hợp đồng với những đối tác ở

nhiều nơi khác nhau. Điều này không thể có được đối với hợp đồng truyền thống.

Bằng phương thức điện tử, nhất là thông qua mạng Internet, các bên tham gia giao

dịch, cùng với việc giảm thời gian giao kết hợp đồng, cũng sẽ giảm một cách đáng

15

kể chi phí để thực hiện điều đó.

Trước hết là giảm chi phí giao dịch. Chi phí giao dịch qua Internet rẻ hơn phí

giao dịch qua Fax hay qua bưu điện chuyển phát nhanh. Các ứng dụng Internet sẽ

thay thế các cuộc gặp gỡ trực tiếp với các nhà cung cấp và khách hàng, từ đó trợ

giúp việc trao đổi thông tin và ký kết hợp đồng. Thư điện tử, hội thoại qua video và

thảo luận trên mạng xã hội trở nên rẻ hơn và dễ sử dụng hơn đối với các bên giao

kết ở xa nhau, so với việc sử dụng điện thoại, fax và gửi thư thông thường. Hợp

đồng điện tử có thể làm giảm chi phí giấy tờ do tất cả các thông tin đều được gửi và

nhận trực tiếp mà không cần được thể hiện bằng bất kỳ hình thức giấy tờ nào. Đồng

thời việc lưu trữ các hợp đồng điện tử nói riêng và các thông tin điện tử nói chung,

xét về mặt kỹ thuật của công nghệ thông tin, đều có thể được thực hiện rất nhanh

chóng mà không tốn kém chi phí giấy tờ.

Thứ ba, thực hiện hợp đồng điện tử sẽ giúp đẩy nhanh tiến độ “số hóa” đối

với một số sản phẩm và dịch vụ.

Các giao dịch thương mại điện tử thường được chia thành hai nhóm sau:

Một là, giao dịch buôn bán hàng hóa vật chất và dịch vụ thông thường.

Trong nhóm này Internet hay các mạng mở khác được sử dụng như một phương

tiện cho các giao dịch chào hàng, giao kết hợp đồng, thậm chí cả thanh toán, nhưng

việc giao hàng hóa và dịch vụ tới khách hàng vẫn phải được thực hiện một cách vật

chất thông qua những phương tiện truyền thống.

Giao dịch điện tử thuộc nhóm này có sự kết hợp giữa giao dịch truyền thống

với giao dịch điện tử. Các quy trình giao kết hợp đồng điện tử được phối kết hợp,

đan xen giữa các bước, các quy trình truyền thống với các bước, các quy trình giao

dịch điện tử. Cách thức này tạo ra những ưu việt và thuận lợi cho một hợp đồng hợp

đồng điện tử nói riêng và giao dịch điện tử nói chung.

Hai là, giao dịch mua bán các sản phẩm và dịch vụ “số hóa”. Việc giao dịch,

việc thực hiện giao kết hợp đồng, thanh toán và cung ứng hàng hóa, dịch vụ đều

được thực hiện thông qua việc truyền các thông điệp dữ liệu đã được số hóa. Giao

dịch điện tử thuộc nhóm số hai này sẽ được thực hiện theo quy trình điện tử một

16

cách toàn diện.

Công nghệ thông tin bản thân nó đang xâm nhập vào các lĩnh vực kinh tế, xã

hội và cho ra đời một số sản phẩm đặc thù là những sản phẩm số (digital products).

Đây là các sản phẩm phi vật thể như: các trương trình phần mềm, các website, nhạc,

phim truyện, sách điện tử…các sản phẩm này có đặc điểm là có thể giao hàng qua

mạng. Thực chất của việc mua bán, trao đổi các sản phẩm này là việc trao dổi dung

liệu hàng hóa. Dung liệu (content) là nội dung của hàng hóa, mà không phải là bản

thân vật mang nội dung đó; ví dụ như: tin tức, nhạc phim, các trương trình phát

thanh, truyền hình, các chương trình phần mềm, các ý kiến tư vấn…

Trước đây dung liệu được thay đổi dưới dạng hiện vật (physical form) bằng

cách đưu vào đĩa, vào băng in thành sách, báo, thành văn bản, đóng gói thành bao bì

chuyển đến tay người sử dụng, hoặc đến đại lý phân phối (cửa hàng, quầy báo…) để

người sử dụng mua và nhận trực tiếp. Ngày nay dung liệu được số hóa và truyền gửi

qua mạng, gọi là “giao gửi số hóa” (digital delivery). Các tờ báo, các tư liệu của

các công ty, sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ lần lượt được đưa lên website. Các

chương trình phát thanh, truyền hình, giáo dục, ca nhạc, kể truyện cũng được số

hóa, truyền tải qua Internet, người sử dụng tải xuống sử dụng thông qua màn hình

và thiết bị âm thanh của máy tính điện tử. Các sản phẩm số này (hàng hóa thông tin

phi vật thể mà công nghệ thông tin mang lại) sẽ thực sự tạo ra các sản phẩm mới,

các kênh tiêu thụ lớn có giá trị cao.

Đối với việc giao dịch mua bán các sản phẩm đặc thù, hợp đồng điện tử sẽ là

phương thức phù hợp, tiện lợi và nhanh chóng nhất.

Thứ tư, sử dụng hợp đồng điện tử giúp các doanh nghiệp nâng cao năng lực

cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.

Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới phát triển với tốc độ nhanh chóng và sự

cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thế giới diễn ra ngày càng khốc liệt, việc tìm

kiếm được nhiều đối tác khách hàng, tìm kiếm được thị trường mới, tìm kiếm được

kênh cung ứng linh hoạt, gọn nhẹ, nhanh chóng với chi phí giảm cũng như khả năng

phản ứng nhanh hơn với các cơ hội trong guồng quay của thế giới kinh doanh là

17

những lợi thế không thể thiếu đối với một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triền

theo kịp với thị trường thế giới. Thương mại điện tử nói chung và hợp đồng điện tử

nói riêng chính là chiếc chìa khóa dẫn doanh nghiệp đến với những cơ hội, thử

thách, cũng như đưa doanh nghiệp doanh nghiệp tới khả năng nâng cao năng lực

cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong điều kiện hội nhập

kinh tế quốc tế.

Trước hết nói về việc tìm kiếm đối tác, khách hàng, lợi ích thương mại điện

tử nói chung và hợp đồng điện tử nói riêng là rất quan trọng vì nó giúp các doanh

nghiệp cùng một lúc và trong thời gian ngắn có thể tiếp cận, giao dịch và trao đổi

thông tin với rất nhiều đối tác. Thông qua sự kết nối điện tử doanh nghiệp có thể

liên lạc một cách hiệu quả, nhanh chóng, với các nhà cung cấp, với khách hàng của

mình, thậm chí nếu họ ở các nước khác nhau với múi giờ khác nhau và ngôn ngữ

khác nhau.

Giao kết hợp đồng điện tử thông qua mạng Internet/web sẽ tạo điều kiện cho

các chủ thể, dù họ là doanh nghiệp, cơ quan nhà nước, người tiêu dùng, dù họ ở

trong nước hay ở nước ngoài vẫn có thể giao tiếp trực tiếp (liên lạc trực tuyến) và

liên tục mà không bị cản trở bởi khoảng cách về thời gian, về địa lý… Điều này sẽ

tạo điều kiện cho các chủ thể giao kết hợp đồng, đặc biệt là hợp đồng thương mại

điện tử sẽ có thể hợp tác, quản lý, tận dụng tối đa các cơ hội kinh doanh trong phạm

vi quốc gia cũng như ở khu vực hay ở môi trường kinh doanh quốc tế.

Việc tiết kiệm thời gian và chi phí giao dịch, ký kết hợp đồng như đã phân

tích ở trên là yếu tố quan trọng làm giảm chi phí kinh doanh nói chung của doanh

nghiệp, từ đó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Hơn nữa

trong môi trường điện tử thông tin được truyền dẫn từ người khởi tạo và người nhận

hầu như, là ngay lập tức. Điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp nhờ vào các phương

tiện điện tử, có thể tiếp cận và nắm bắt được một cách kịp thời những cơ hội kinh

doanh mới, ký kết được hợp đồng một cách rất nhanh chóng.

1.4. So sánh hợp đồng điện tử và hợp đồng truyền thống

Hợp đồng truyền thống là những hợp đồng được ký kết theo những phương

18

thức truyền thống như các bên trực tiếp gặp gỡ, đàm phán và giao kết hợp đồng trực

tiếp bằng văn bản, thậm chí bằng hành vi cụ thể hoặc giao kết hợp đồng thông qua

trao đổi thư từ, tài liệu giao dịch bằng đường bưu điện. Còn hợp đồng điện tử là hợp

đồng được giao kết bằng phương tiện điện tử.

Về mặt pháp lý, hợp đồng điện tử và hợp đồng truyền thống đều là hợp đồng

được thiết lập dựa trên các quy định chung của Bộ luật Dân sự. Vì vậy chúng có

những điểm giống nhau và cũng có những điểm khác nhau.

1.4.1. Sự giống nhau

Thương mại điện tử không làm thay đổi khái niệm thương mại truyền thống.

thương mại điện tử là một hình thức kinh doanh mới, kinh doanh qua một phương

tiện, một cách thức mới trên cơ sở áp dụng các công nghệ hiện đại. Vì vậy hợp đồng

điện tử và hợp đồng truyền thống có những điểm giống nhau cơ bản.

- Điểm giống nhau thứ nhất: chúng đều là hợp đồng, mà hợp đồng được hiểu

là “sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,

nghĩa vụ dân sự [25, Điều 385]. Dù là hợp đồng truyền thống hay hợp đồng điện tử,

dù là hợp đồng được giao kết bằng lời nói, bằng hành vi, bằng văn bản hay các

phương tiện điện tử thì điều quan trọng là hợp đồng chỉ hình thành nếu các bên giao

kết đạt được sự thỏa thuận, sự thỏa thuận cụ thể, rõ ràng về quyền và nghĩa vụ đối

với nhau. Sự tự do và thống nhất ý chí giữa các bên đương sự là điều quan trọng

nhất làm nên hợp đồng, dù là hợp đồng truyền thống hay hợp đồng điện tử.

- Điểm giống nhau thứ hai: Cả hợp đồng điện tử và hợp đồng truyền thống,

khi giao kết và thực hiện chúng đều phải dựa trên những cơ sở pháp lý nhất định và

tuân thủ những quy định liên quan đến hình thức của hợp đồng, chủ thể của hợp

đồng, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, quy trình giao kết hợp đồng, trách nhiệm

do vi phạm hợp đồng và giải quyết tranh chấp phát sinh, nếu có.

- Điểm giống nhau thứ ba: khi giao kết hợp đồng dù là hợp đồng điện tử hay

hay hợp đồng truyền thống, các bên giao kết hợp đồng phải tuân thủ nguyên tắc

giao kết hợp đồng đó là “ tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận” và nguyên tắc “

thiện trí, trung thực”. Hai nguyên tắc này được quy định tại Điều 3 BLDS năm

19

2015. Hai nguyên tắc này được áp dụng cho tất cả các loại hợp đồng, dù đó là hợp

đồng điện tử hay hợp đồng truyền thống, là hợp đồng dân sự hay hợp đồng thương

mại.

- Điểm giống nhau thứ tư: là cả hai hợp đồng này đều phải tuân theo những

quy định có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng. Trước hết khi thực hiện hợp

đồng, dù là hợp đồng điện tử hay hợp đồng truyền thống, các bên trong hợp đồng

phải tuân theo ba nguyên tắc thực hiện hợp đồng: Nguyên tắc thứ nhất là nguyên tắc

thực hiện đúng hợp đồng: đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại, thời

hạn, phương thức và các thỏa thuận khác; Nguyên tắc thứ hai là nguyên tắc thực

hiện hợp đồng một cách trung thực theo tinh thần hợp tác và các bên cùng có lợi,

bảo đảm tin cậy lẫn nhau; và nguyên tắc thứ ba là nguyên tắc không được xâm

phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của

người khác.

1.4.2. Sự khác nhau:

Bên cạnh nhưng điểm giống nhau cơ bản như trên, hợp đồng điên tử và hợp

đồng truyền thống cũng có nhiều điểm khác nhau. Được giao kết qua việc sử dụng

các phương tiện điện tử hiện đại, với tính chất phi biên giới hợp đồng điện tử có rất

nhiều điểm khác biệt so với hợp đồng truyền thống. Nhiều quy định được áp dụng

đối với hợp đồng truyền thống trở nên không phù hợp với hợp đồng điện tử (như

quy định về hình thức viết, chữ ký tay…). Hiện nay trên thế giới đã xuất hiện các

hợp đồng điện tử mẫu. Những hợp đồng điện tử mẫu này khẳng định một lần nữa là,

về mặt nội dung cũng như về mặt pháp lý, hợp đồng điện tử có những điểm khác

biệt so với hợp đồng thông thường. Những điểm khác biệt đó là:

- Về chủ thể: Các chủ thể tham gia vào việc giao kết hợp đồng điện tử: Trong

giao dịch điện tử ngoài các chủ thể tham gia giao kết như đối với thương mại truyền

thống (người bán, người mua) đã xuất hiện các bên thứ ba có liên quan chặt chẽ đến

hợp đồng điện tử. Đó là các nhà cung cấp dịch vụ mạng và chứng thực chữ ký điện

tử. Những bên thứ ba này có nhiệm vụ chuyển đi, lưu giữ các thông tin giữa các bên

tham gia giao dịch thương mại điện tử, đồng thời họ cũng có thể đóng vai trò trong

20

việc xác nhận độ tin cậy của các thông tin trong giao dịch thương mại điện tử.

Với đặc thù đuộc giao kết dươi dạng phi giấy tờ, việc giao kết hợp đồng điện

tử sẽ gặp rủi ro nếu không có các nhà cung cấp dịch vụ mạng và các cơ qua chứng

thực chữ ký điện tử. Các nhà cung cấp dịch vụ mạng có trách nhiêm duy trì hệ

thống mạng (mạng nội bộ của doanh nghiệp cũng như mạng quốc gia) luôn ở trong

tình trạng hoạt động tốt. Hệ thống mạng trục trặc ngay lập tức sẽ ảnh hưởng đến

việc giao kết hợp đồng điện tử ở phạm vi từng đơn vị, doanh nghiệp … cũng như ở

phạm vi quốc gia. Còn cơ quan chứng thực chữ ký điện tử đóng vai trò quang trọng

trong việc xây dựng và tạo được một cơ chế sao cho các hợp đồng điện tử không thể

bị giả mạo và không thể bị phủ nhận khi tranh chấp phát sinh.

Chính vì vậy đối với hợp đồng điện tử, chừng nào hệ thống mạng có trục trặc

chừng nào các cơ quan chứng thực chữ ký chưa được thành lập, thậm chí được

thành lập nhưng chưa hoạt động thì chừng đó, việc giao kết hợp đồng điện tử cũng

như việc thực hiện hợp đồng điện tử sẽ khó có thể thành công. Rủi ro sẽ là rất lớn

nếu không có những người thứ ba này tham gia vào quy trình giao kết hợp đồng

điện tử.

Những người thứ ba này không tham gia vào quy trình đàm phán, giao kết

hay thực hiện hợp đồng. Họ chỉ tham gia với tư cách là các cơ quan hỗ trợ nhằm

đảm bảo tính hiệu quả và giá trị pháp lý cho việc giao kết và thực hiện hợp đồng

điện tử.

Địa vị pháp lý của họ với tư cách là chủ thể tham gia vào một khâu, hoặc

một số khâu của quá trình giao kết hợp đồng điện tử cần phải được quy định như thế

nào? Đây là điểm làm nên sự khác biệt của giao kết hợp đồng điện tử.

-Về nội dung: Hợp đồng điện tử có một số điển khác biệt so với hợp đồng

truyền thống. Những điểm khác biệt đó là:

+ Địa chỉ pháp lý: ngoài địa chỉ pháp lý thông thường (địa chỉ bưu điện) hợp

đồng điện tử còn có địa chỉ e –mail, địa chỉ website, địa chỉ xác định nơi, ngày giờ

gửi fax…Những địa chỉ điện tử này có ý nghĩa rất lớn để xác định tính hiện hữu, sự

tồn tại thật sự của các bên giao kết hợp đồng với tư cách là chủ thể của việc giao kết

21

hợp đồng điện tử.

+ Các quy định về truy cập, cải chính thông tin điện tử (ví dụ như việc thu

hồi hay hủy một đề nghị giao kết hợp đồng trên mạng Internet…)

+ Các quy định về chữ ký điện tử hay một cách thức khác ( như mật khẩu,

mã số…) để xác định được các thông tin có giá trị về các chủ thể giao kết hợp đồng.

+ Về thanh toán trong các hợp đồng điện tử cũng thường được thực hiện

thông qua các phương tiện điện tử. Vì vậy trong hợp đồng điện tử thường có các

quy định chi tiết về phương thức thanh toán điện tử, ví như thanh toán bằng thẻ tín

dụng, việc bảo mật các thông tin liên quan đến thẻ tín dụng cho khách hàng.

-Về quy trình giao kết hợp đồng điện tử: Đây là điểm khác biệt lớn nhất giữa

hợp đồng điện tử và hợp đồng truyền thống. Một hợp đồng truyền thống sẽ được

giao kết bằng việc các bên trực tiếp gặp nhau hay trao đổi với nhau bằng các

phương tiện “ giấy tờ”, “ vật chất” và ký bằng chữ ký tay. Còn một hợp đồng điện

tử sẽ được giao kết bằng phương tiện điện tử và hợp đồng sẽ được ký bằng chữ ký

điện tử. Hai phương thức giao kết hoàn toàn khác nhau sẽ làm phát sinh những điểm

khác biệt lớn liên quan đến quy trình giao kết: việc xác định thời gian và địa điểm

giao kết hợp đồng điện tử sẽ trở nên khó khăn hơn so với hợp đồng truyền thống vì

thời điểm “gửi” và “nhận” một thông điệp dữ liệu (chính là một chào hàng hay

chấp nhận chào hàng) trở nên khó xác định trong môi trường điện tử. Việc tạo lập

một “ chữ ký” trong môi trường điện tử hay việc áp một “con dấu” sẽ không thể

được thực hiện như đối với hợp đồng truyền thống.

- Về pháp luật điều chỉnh: Về mặt pháp lý, ngoài các quy định chung về hợp

đồng trong Bộ luật dân sự sẽ được áp dụng cho các hợp đồng truyền thống và hợp

đồng điện tử, do tính chất đặc thù cảu hợp đồng điện tử và do những vấn đề pháp lý

đặc biệt (hay chính các rủi ro về mặt pháp lý) nảy sinh trong quá trình giao kết và

thực hiện hợp đồng điện tử mà loại hợp đồng này thường còn phải được đặc biệt

điều chỉnh bởi một hệ thống quy phạm pháp luật đặc thù, dành riêng cho hợp đồng

điện tử. Điều đó giải thích tại sao để phát triển hoạt động thương mại điện tử nói

chung và tăng cường giao kết hợp đồng điện tử nói riêng, ở phạm vi quốc gia hay

22

quốc tế, các quốc gia và các tổ chức quốc tế đều xây dựng một khung pháp lý giành

riêng cho hoạt động thương mại điện tử trong đó có những quy định về hợp đồng

điện tử và giao kết hợp đồng điện tử. Ví dụ như các quy định về giá trị pháp lý của

hợp đồng điện tử, của chữ ký điện tử, của một bản gốc hợp đồng, các quy định về

việc chứng thực chữ ký điện tử. …Và vì vậy ngày nay ở nhiều nước, bên cạnh các

đạo luật về hợp đồng truyền thống người ta phải ban hành Luật giao dịch điện tử,

luật về giao kết hợp đồng điện tử, luật về thương mại điện tử, luật về chữ ký điện

tử…

1.5. Pháp luật về hợp đồng điện tử của một số quốc gia trên thế giới

1.5.1. Pháp luật quốc tế về hợp đồng điện tử

Trong quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam đã ký kết một số Điều ước quốc

tế như TPP, đang quan tâm để tham gia Công ước về giao dịch điện tử của Liêp hợp

quốc năm (Công ước 2005). Trên thực tế, khi xây dựng khung pháp luật về TMĐT

nói chung và hợp đồng điện tử nói riêng, Việt Nam đã tiếp thu các nguyên tắc, nội

dung cơ bản của Luật Mẫu về thương mại điện tử cũng như Luật Mẫu về chữ ký

điện tử. Cả hai Luật Mẫu này đều do Ủy ban Liên hợp quốc về Luật thương mại

quốc tế (UNCITRAL) ban hành.

a. Công ước Liên hợp quốc về sử dụng truyền thông điện tử trong hợp đồng

quốc tế

Với mục đích áp dụng một cách thống nhất và hài hòa trong các giao dịch

thương mại điện tử của các quốc gia thành viên, Công ước Liên hợp quốc về sử

dụng truyền thông điện tử trong hợp đồng quốc tế (Công ước TMĐT) được Đại hội

đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 23/11/2005 tại New York, Hoa Kỳ, Công ước

này mới có hiệu lực kể từ ngày 1/3/2013 khi có 3 nước phê chuẩn là Dominican,

Honduras và Singapore. Hiện nay Công ước này đã được18 quốc gia tham gia ký

kết và một quốc gia gia nhập.Công ước 2005 về TMĐT bao gồm 4 chương và 25

điều quy định về việc sử dụng thông tin điện tử trong hợp đồng quốc tế, công nhận

giá trị pháp lý cho hợp đồng điện tử, các yêu cầu về hình thức, thời gian và địa điểm

liên quan đến chứng từ điện tử, lời đề nghị giao kết hợp đồng hay sử dụng hệ thống

23

thông tin tự động hay tình huống lỗi nhập thông tin. Hiện nay Việt Nam chưa ký kết

hay gia nhập Công ước Liên hiệp quốc về sử dụng truyền thông điện tử trong hợp

đồng quốc tế ngày 23/11/2005 nhằm ràng buộc các trách nhiệm pháp lý trong hệ

thống pháp luật của mình trong lĩnh vực thương mại điện tử, tuy nhiên việc gia nhập

sẽ giúp Việt Nam tiếp cận các chuẩn mực pháp lý quốc tế cũng hội nhập sâu rộng

vào nền kinh tế thế giới

b.Luật Mẫu về thương mại điện tử

Để hạn chế các xung đột khi các cá nhân tổ chức ở các quốc gia khác nhau

thực hiện các giao dịch mua bán hàng hóa dịch vụ, Ủy ban Liên hợp quốc về Luật

thương mại quốc tế (UNCITRAL) đã ban hành Luật Mẫu về thương mại điện tử

ngày 12/6/1996 (Sửa đổi năm 1998) với hai phần gồm 17 điều. Luật mẫu được soạn

thảo dựa trên các nguyên tắc cơ bản như:

- Tương đương thuộc tính, hay công nhận giá trị pháp lý như văn bản.

- Tự do thoả thuận hợp đồng.

- Tôn trọng việc sử dụng tự nguyện phƣơng thức truyền thông điện tử.

- Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

- Xác định thời điểm, nơi gửi và nhận thông điệp dữ liệu.

- Giá trị pháp lý của hợp đồng và tính ưu việt của những quy định pháp lý về

hình thức hợp đồng: những đòi hỏi đối với hợp đồng để có giá trị pháp lý và khả

năng được thi hành phải được tôn trọng.

Việc xây dựng, ban hành Luật Mẫu về thương mại điên tử được nhiều Quốc

gia thành viên tiếp thu những nguyên tắc, nội dung cơ bản để xây dựng pháp luật về

thương mại điện tử cho riêng mình.

c. Luật Mẫu về chữ ký điện tử

Để bảo đảm an toàn cho các giao dịch điện tử, việc xây dựng Luật Mẫu về

chữ ký điện tử đã đươc Ủy ban Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế

(UNCITRAL) ban hành ngày 5 tháng 7 năm 2001 nhằm mục đích khuyến nghị các

quốc gia thành viên xây dựng, ban hành các văn bản pháp luật liên quan đến sử

24

dụng chữ ký điện tử một cách thống nhất hoặc ít có khác biệt.

Luật Mẫu về chữ ký điện tử với 12 điều, với các nguyên tắc cơ bản như:

Nguyên tắc tương đương chức năng, nguyên tắc không phân biệt và trung lập về

công nghệ. Ngoài các nguyên tắc, Luật Mẫu về chữ ký điện tử còn quy định một số

nội dung cơ bản như sau:

- Công nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử.

- Những điều kiện để chữ ký điện tử đảm bảo độ an toàn và tin cậy v.v...

Việc xây dựng Luật Mẫu về chữ ký điện tử đã đưa ra các quy định về tiêu chuẩn kỹ

thuật và các điều kiện đảm bảo giá trị hiệu lực của chữ ký điện tử. Hiện nay, nhiều

quốc gia thành viên đã tiếp thu những nguyên tắc và nội dung cơ bản của Luật Mẫu

về chữ ký điện tử trong pháp luật của mình.

1.5.2. Pháp luật về hợp đồng điện tử của một số quốc gia trên thế giới

a. Hoa Kỳ

Hoa Kỳ là nước đi đầu trong lĩnh vực thương mại điện tử, tháng 7 năm 1999,

Hiệp hội các thanh tra viên về pháp luật các tiểu bang Hoa Kỳ đã thông qua Luật

mẫu về các giao dịch điện tử và gửi cho các cơ quan lập pháp ở từng bang để thông

qua và ban hành dựa trên 4 nguyên tắc cơ bản là: (i) Các bên được tự do xác lập

quan hệ hợp đồng với nhau khi thấy phù hợp; (ii) Các quy định phải có tính chất

trung lập về mặt công nghệ và phải có tính mở cho tương lai, có nghĩa là không

được quy định về một loại công nghệ cụ thể nào đó và không được hạn chế việc sử

dụng hay phát triển của các công nghệ tương lai; (iii) Các quy định hiện hành cần

được sửa đổi, bổ sung và ban hành mới trong trường hợp cần thiết để hỗ trợ cho

việc sử dụng công nghệ điện tử; (iv) Các quy định phải công bằng cho cả các doanh

nghiệp đã áp dụng rộng rãi các công nghệ mới và các doanh nghiệp còn chưa áp

dụng. Nhằm tạo lập một khung pháp lý thống nhất cho giao dịch thương mại điện tử

ở Hoa Kỳ. Ngày 30/6/2000, Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã ký Luật Thương mại

quốc gia và quốc tế về chứ ký điện tử. E-Sign thừa nhận chữ ký điện tử có giá trị

pháp lý tương đương giá trị chữ ký truyền thống trong ký kết hợp đồng và không

thể bị phủ nhận hay từ chối chỉ vì lý do đó là chữ ký điện tử. Luật E-Sign của Hoa

25

Kỳ ra đời đã đánh dấu một mốc quan trọng về mặt pháp lý cho các giao dịch điện tử

nói chung và hợp đồng điện tử nói riêng. Riêng đối với doanh nghiệp Hoa Kỳ, E-

Sign được ban hành đã tạo môi trường pháp lý cho các doanh nghiệp Hoa Kỳ sử

dụng chữ ký số hoá trong các giao dịch điện tử. Luật thống nhất về Giao dịch điện

tử là một văn bản ngắn gọn, quy định về sự công nhận giá trị pháp lý của các dữ

liệu điện tử, chữ ký điện tử và các văn bản điện tử khác. Văn bản này không quy

định bất kỳ ưu thế nào cho bất kỳ một phương thức hay công nghệ nào.

Luật mẫu về các giao dịch điện tử là một văn bản có tính linh hoạt cao có thể

tồn tại lâu dài và là cơ sở pháp lý phù hợp cho các giao dịch thương mại điện tử

trong suốt một giai đoạn dài.

b. Canada

Để tạo một môi trường pháp lý hoàn chỉnh cho các giao dịch thương mại

điện tử, Chính phủ Canada đã tiến hành rà soát, sửa đổi các văn bản hiện hành đồng

thời ban hành các văn bản mới liên quan đến thương mại điện tử như luật về chữ ký

điện tử, chứng cứ điện tử v.v... Luật về Chữ ký điện tử của Canada cho phép các cơ

quan liên bang quyền quyết định các yêu cầu của pháp luật hiện hành về hình thức

giao dịch có thể được thoả mãn bằng các phương tiện điện tử như thế nào. Chữ ký

điện tử có thể được sử dụng trong các giao dịch thương mại điện tử.

Vấn đề đặt ra là phải xác định được mối liên hệ giữa chữ ký điện tử với

người ký tài liệu điện tử. Hiện nay, Canada đã có các quy định pháp luật về thu

thập, sử dụng và tiết lộ thông tin về cá nhân do các cơ quan nhà nước quản lý. Luật

bí mật cá nhân liên bang có hiệu lực từ năm 1982, được áp dụng đối với tất cả các

cơ quan nhà nước cấp liên bang và một số doanh nghiệp có quy mô liên bang.

Gần đây, Canada đã ban hành Luật Bảo vệ thông tin cá nhân và tài liệu điện

tử. Đây là một bước tiến mới trong việc bảo vệ thông tin cá nhân. Ngoài ra các cơ

quan nhà nước còn phải tuân thủ luật về quyền riêng tư (the Privacy Act).

Về vấn đề thuế, hiện nay Canada đang cùng một số thành viên khác của

OECD phát triển chiến lược quốc tế trong đó có các hiệp ước về thuế đối với

thương mại điện tử, hướng dẫn xử lý việc chuyển giá, về việc áp dụng thuế tiêu thụ

26

và về hàng rào thuế quan cửa khẩu.

c. Hàn Quốc

Ở Hàn Quốc, ngay từ năm 1999, Chính phủ đã xây dựng “Đạo luật cơ bản về

thương mại điện tử” và chuẩn bị một loạt các đạo luật liên quan đến thương mại

điện tử, liên tục nâng cao khuôn khổ pháp lý thương mại điện tử bằng cách chỉnh

sửa luật hiện hành, ban hành luật mới. Các đạo luật chính đã được ban hành bao

gồm: Luật khung về thương mại điện tử được ban hành năm 1999, sửa đổi năm

2002, 2005 đã tạo khung pháp lý trụ cột vững chắc cho các bộ luật khác về thương

mại điện tử ở Hàn Quốc. Luật Bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử

được ban hành năm 2002 và sửa đổi năm 2005. Luật Chữ ký điện tử được ban hành

năm 1998, sửa đổi năm 2001, 2005. Luật Phát triển ngành đào tạo điện tử được ban

hành năm 2004. Luật Phát triển ứng dụng mạng công nghệ thông tin và truyền

thông và bảo vệ thông tin được ban hành năm 1999, sửa đổi năm 2002, 2004 và

2005. Bên cạnh đó là một số đạo luật khác như: Luật Kinh doanh tài chính về tín

dụng; Luật Khuyến khích ngành nội dung số trực tuyến; Luật Sản phẩm trò chơi,

sản phẩm hình ảnh và âm thanh; Luật về các nguồn địa chỉ Internet; Luật Bản

quyền; Luật Chính phủ điện tử; Luật Bảo vệ chương trình máy tính; Luật Hóa đơn

điện tử cũng đƣợc ban hành nhằm thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động thương mại điện tử.

d. Singapore

Năm 1998, Singapore cho ban hành Luật Giao dịch điện tử (Electronic

Transaction Act 1998) nhằm mục đích giải quyết vướng mắc, khó khăn về mặt pháp

lý khi các chủ thể tham gia vào các giao dịch trong một môi trường phi giấy tờ và

không tiếp xúc trực tiếp với nhau. Nguyên tắc cơ bản để xây dựng Luật Giao dịch

điện tử là nhằm: Tuân theo các tiêu chuẩn quốc tế và mô hình quốc tế để có thể hoà

nhập với khung pháp luật thương mại điện tử toàn cầu; tránh các quy định quá chặt

chẽ; linh hoạt và trung lập về mặt công nghệ để theo kịp môi trường luôn thay đổi;

quy định rõ ràng, minh bạch và có khả năng tiên liệu trước.

Mục tiêu của đạo luật là thiết lập một quy tắc thực hành (Code of Conduct)

chung để hỗ trợ cho các giao dịch thương mại điện tử; xây dựng cơ sở hạ tầng về

27

công chứng; cho phép nộp đơn, hồ sơ và cấp phép điện tử ở các cơ quan quản lý

nhà nước; đồng thời, làm rõ trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ mạng đối với nội

dung thông tin của bên thứ ba. Luật Giao dịch điện tử của Singapore đã đưa ra

những quy tắc thương mại nhằm làm rõ quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia

trong một giao dịch thương mại điện tử. Những quy tắc nằm trong đạo luật này

mang các tính chất đặc trưng của những quy định mẫu quốc tế, đặc biệt là các quy

định của Luật mẫu UNCITRAL về thương mại điện tử. Quy tắc thực hành chung

trong Luật Giao dịch điện tử của Singapore cũng chứa đựng các điều khoản điều

chỉnh việc ký kết hợp đồng qua các phương tiện điện tử thông qua việc quy định về

thời gian, địa điểm gửi và nhận thông tin điện tử. Đạo luật này còn quy định về giá

trị pháp lý của các bản ghi và chữ ký điện tử, cùng với độ an toàn của chúng. Mặt

khác, để hỗ trợ cho việc sử dụng chữ ký điện tử, một cơ sở hạ tầng về công chứng

đã được xây dựng. Theo đó, cơ quan công chứng sẽ xác nhận một mã khoá chứng

thực có mối liên hệ với một cá nhân nhất định. Một cơ quan công chứng có thể xác

minh về một cá nhân nào đó trước khi cấp một chứng thực dưới dạng giấy chứng

nhận kỹ thuật số. Giấy chứng nhận này có thể dùng để xác minh chữ ký của cá nhân

đó.

Luật Giao dịch điện tử của Singapore đã tạo một môi trường pháp lý khá

phù hợp cho các giao dịch điện tử và thương mại điện tử nói chung, trong đó có

hướng dẫn giao kết hợp đồng điện tử nói riêng. Đạo luật này đã xoá bỏ được những

trở ngại trong các quy định pháp luật hiện hành và tạo được lòng tin cho các doanh

nghiệp, cá nhân khi tham gia vào thương mại điện tử cũng như giao kết hợp đồng

điện tử.

đ.Lược sử pháp luật về hợp đồng điện tử trong pháp luật Việt Nam

Trước năm 2000, Thương mại điện tử ở Việt Nam còn là thuật ngữ pháp lý

mới. Hệ thống pháp luật Việt Nam có quy định nhưng chưa thể hiện được bản chất

và tầm quan trọng của thương mại điện tử. Luật thương mại năm 1997 nhắc tới hình

thức hợp đồng bằng phương tiện điện tử như fax, telex, thư điện tử và coi chúng là

văn bản (Điều 49). Quy định này chỉ mang tính hình thức và chưa cụ thể hoá các

28

khía cạnh kỹ thuật đủ cho việc áp dụng một cách có hiệu quả. Trong một số vụ án

kinh tế liên quan tới giá trị chứng cứ của thư điện tử, bản fax trong giao dịch hợp

đồng, nhưng các quy định pháp lý chưa đủ để giải quyết.

Ngày 24/11/2000, Thủ tướng Chính phủ đã ký Hiệp định khung ASEAN về

Thương mại điện tử (E-ASEAN) theo đó Việt Nam cam kết phát triển thương mại

điện tử và tham gia không gian điện tử trong khối ASEAN. Hiệp định gồm bảy

điểm trong đó có hai điểm hết sức quan trọng là đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ

thông tin trong lĩnh vực thương mại và ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ

quan công quyền (gọi tắt là xây dựng Thương mại điện tử và Chính phủ điện tử).

Những yêu cầu của thực tiễn giao dịch thương mại trong nước cũng như

những yêu cầu từ các cam kết ở phạm vi khu vực và quốc tế đồi hỏi Việt Nam phải

xây dựng hệ thống các quy tắc giành riêng cho thương mại điện tử và cho việc giao

kết các hợp đồng điện tử. Tháng 01/2002 Chính phủ đa giao cho Bộ Thương mại

chủ trì xây dựng pháp lệnh Thương mại điện tử nhằm hình thành cơ sở pháp lý đầu

tiên cho thương mại điện tử.

Do tầm quan trọng của giao dịch điện tử đối với mọi mặt của kinh tế xã hội

nên Quốc hội đã quyết định xây dựng Luật giao dịch điện tử để thay thế cho pháp

lệnh Thương mại điện tử nói trên. Luật giao dịch điện tử năm 2005 đã được Kỳ họp

thứ 8 Quốc hội khóa XI thông qua vào ngày 9/11/2005 có hiệu lực từu ngày

01/3/2006. Sự ra đời của Luật giao dịch điện tử năm 2005 đã đánh dấu một bước

ngoặt quan trọng trong quá trình xây dựng khung pháp lý cho thương mại điện tử,

cho giao dịch điện tử, trong đó có hợp đồng điện tử. Đây là đạo luật đầu tiên điều

chỉnh trực tiếp việc sử dụng các phương tiện điện tử trong trao đổi, giao dịch. Luật

giao dịch điện tử năm 2005 có phạm vi điều chỉnh khá bao quát, bao gồm các giao

dịch điên tử trong lĩnh vực hành chính, dân sự và thương mại.

Việc ban hành Luật giao dịch điện tử năm 2005 là hợp lý và phù hợp với xu

hướng chung của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về thương mại điện tử và

hợp đồng điện tử. Trên thực tế hầu hết các nước như Hoa Kỳ, Singapore,

Philippines…đều xây dựng Luật giao dịch điện tử. Phạm vi điều chỉnh các luât này

29

rất rộng, gồm cả các giao dịch thương mại và phi thương mại.

Đặc biệt Luật giao dịch điện tử năm 2005 cũng đưa ra một số quy định liên

quan đến giao kết hợp đồng điện tử như: quy định về khái niệm hợp đồng điện tử

(Điều 33); khẳng định giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử (Điều 34); nguyên tắc

giao kết hợp đồng điện tử (Điều 36); khái niệm giao kết hợp đồng điện tử (Điều 37);

Ngoài ra luật còn quy định về chữ ký điện tử; nguyên tắc sử dụng chữ ký điện tử;

nghĩa vụ của người ký chữ ký điện tử và bên chấp nhận chữ ký điện tử v.v… tuy

chưa thật là đầy đủ và cụ thể nhưng những quy định này là những quy tắc pháp luật

đầu tiên hướng dẫn giao kết hợp đồng điện tử. Những quy định này do Luật Giao

dịch điện tử năm 2005 – đạo luật dầu tiên của Việt Nam điều chỉnh giao kết hợp

đồng điện tử - đưa ra sẽ có ý nghĩa như những quy định cơ bản, nền tảng để điều

chỉnh việc giao kết hợp đồng điện tử. Với quy tắc pháp luật này có thể thấy rõ Luật

giao dịch điện tử năm 2005 chính là đạo luật khung điều chỉnh giao dịch điện tử nói

chung và giao kết hợp đồng điện tử nói riêng. Từ đạo luật khung này đã có nhiều

văn bản dưới luật được ban hành nhằm cụ thể hóa các quy định về giao kết hợp

đồng điện tử hiện nay.

Như vậy cho đến thời điểm năm 2006 đã có rất nhiều văn bản pháp luật ra

đời, thể hiện rõ chính sách phát triển thương mại điện tử và đề cập đến các khía

cạnh pháp lý liên quan đến giao dịch điện tử và ký kết hợp đồng điện tử …những

văn bản này đã tạo cơ sở bước đầu để hình thành khung pháp lý cho giao kết và

thực hiện hợp đồng điện tử ở Việt Nam.

Qua việc nghiên cứu Chương 1 về những vấn đề lý luận chung về hợp đồng

điện tử, tác giả đã phân tích và hệ thống một cách tương đối đầy đủ những vấn đề lý

luận chung về hợp đồng điện tử làm rõ được khái niệm hợp đồng điện tử, cũng như

đặc điểm, vai trò của hợp đồng điện tử. Có thể thấy rằng, hợp đồng điện tử là hợp

đồng được thiết lập thông qua việc sử dụng phương tiện điện tử, khi nói đến hợp

đồng điện tử là nói đến một phương thức thiết lập hợp đồng chứ không phải một

loại hợp đồng dựa trên một đối tượng cụ thể nào. Ngoài những đặc điểm chung cơ

bản giống với hợp đồng truyền thống, thì hợp hợp đồng điện tử còn mang những

30

đặc điểm riêng nổi bật do chính yếu tố hiện đại khi giao kết tạo nên. Với những lợi

ích mà hợp đồng điện tử mang lại, thì ngày nay hợp đồng điện tử ngày càng thể hiện

vai trò to lớn đối với doanh nghiệp và ngươi tiêu dùng Việt Nam.

CHƢƠNG 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ VÀ NHỮNG

RỦI RO THƢỜNG GẶP TRONG GIAO KẾT HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ TẠI

VIỆT NAM

2.1. Thực trạng pháp luật về hợp đồng điện tử tại Việt Nam

Tuy nước ta đã có Luật Giao dịch điện tử năm 2005 để điều chỉnh các quan

hệ dân sự, thương mại và thậm chí là hành chính công sử dụng môi trường điện tử

là phương tiện truyền dẫn, nhưng Luật Giao dịch điện tử năm 2005 chỉ mới chú

31

trọng đến phương thức điện tử của giao dịch và bước đầu đề cập đến hình thức vật

lý của hợp đồng điện tử chứ chưa có các quy định cụ thể về vấn đề hợp đồng như

xác định thời điểm và địa điểm hợp đồng có hiệu lực, năng lực chủ thể của các bên

tham gia hợp đồng điện tử, các nội dung bắt buộc của một hợp đồng điện tử... Điều

này là một trong các hạn chế để phát triển thúc đẩy các giao dịch thương mại điện

tử.

2.1.1. Giao kết hợp đồng điện tử

a) Về yếu tố thỏa thuận trong giao kết hợp đồng điện tử

Xét về bản chất, hợp đồng điện tử cũng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc

xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ như các hình thức hợp đồng phổ biến

mà chúng ta đang áp dụng, chỉ khác là chúng được xác lập thông qua các phương

tiện điện tử dưới dạng thông điệp dữ liệu.

Trong giao kết hợp đồng điện tử, việc trao đổi thông tin đa phần được thực

hiện thông qua các phương tiện điện tử và chính yếu tố kỹ thuật công nghệ này đã

làm thay đổi cách thức, quy trình, thủ tục ký kết hợp đồng điện tử và hệ quả tiếp

theo là làm thay đổi cách thức thực hiện hợp đồng điện tử và ít nhiều chi phối cả

Luật điều chỉnh... Khía cạnh kỹ thuật làm cho quá trình giao kết hợp đồng điện tử

phát sinh nhiều vấn đề chưa từng gặp trong giao kết hợp đồng bằng phương thức

truyền thống, và đây cũng chính là đặc điểm riêng của hợp đồng điện tử.

Nghiên cứu về hợp đồng điện tử có một vấn đề quan trọng cần bàn là: Thông

qua những công cụ và giao thức mà mạng Internet cung cấp, liệu các chủ thế có

biểu hiện được ý chí của mình hay không? Khi các bên nhấp chuột vào biểu tượng

được chỉ định trên màn hình máy tính hay gõ bàn phím máy tính, thì đã đủ rõ ràng

thể hiện sự thống nhất ý chí giữa các bên hay chưa, đã cấu thành nên thảo thuận

giữa các bên - một trong những yếu tố cơ bản của hợp đồng chưa, để tư đó đi đến

thiết lập một hợp đồng có hiệu lực pháp lý.

Mạng Internet đưa ra bốn công cụ chính mà các bên có thể sử dụng khi tham

gia giao kết hợp đồng là: Thư điện tử (Email), công cụ tán gẫu (chat), trang thông

tin điện tử (website) và trao đổi dữ liệu điện tử (EDI). Các công cụ đó đều có những

32

nét giống và khác nhau, đòi hỏi pháp luật phải có những sự lưu tâm khác nhau. Bên

cạnh đó, các bên có thể kết hợp các công cụ này trong quá trình thương thảo và hình

thành hợp đồng. Do vậy việc phân tích, đánh giá về các công cụ cơ bản này là việc

cần thiết nhằm xem xét xem các bên có thể biểu hiện sự thỏa thuận của mình thông

qua các công cụ sử dụng trong giao dịch điện tử không? Vấn đề là phải xác định

được quy trình giao dịch trên mạng diễn ra như thế nào và những thỏa thuận đó

được hoàn tất ra sao.

* Thư điện tử (Email):

Thư điện tử là công cụ cơ bản nhất để thiết lập hợp đồng. Nói một cách đơn

giản,thư điện tử cho phép các chủ thể gửi thư bằng đường điện tử cho người khác

hoặc một nhóm người khác. Tuy nhiên ẩn sau định nghĩa đơn giản này là cả một

quá trình phức tạp. Để tạo một thư điện tử đầu tiên chúng ta phải viết một bức thư

và máy tính sẽ phân nhỏ thành dãy số và dãy số này sẽ được modem của máy tính

chia tách thành các tín hiệu giống nhau. Các tín hiệu này sẽ được truyền đi thông

qua đường truyền Internet đến một mạng máy tính và ở đó các tín hiệu này sẽ kết

hợp trở lại thành một "bưu kiện" số mà mỗi bưu kiện sẽ là những thông tin liên

quan tới nội dung mà bức thư đã được viết, mức độ bảo mật, thời gian và thông tin

của người gửi và người nhận.

Sau đó bưu kiện sẽ trở lại hình dạng tương tự ban đầu. Các bưu kiện được

các phương tiện điện tử truyền đi và cuối cùng đến máy tính của người nhận. Ở đây

chúng được kết hợp lại và chuyển thành dạng ký hiệu mà người nhận có thể đọc

được.

Cũng giống như những lá thư gửi bằng đường bưu điện, thư điện tử thường

dưới dạng viết và gửi đi bởi một chủ thể cho một cá nhân hoặc một nhóm người

khác.

Nội dung của bức thông điệp này nói chung mang tính cá nhân và giao tiếp

chỉ giữa người gửi và người nhận. Những bức thư điện tử dạng này có thể được ký

bằng chữ ký số nhằm mục đích xác thực và bảo đảm an toàn.Thêm vào đó người

gửi có thể gửi kèm các tệp tin mà người nhận có thể đọc hoặc sử dụng lại sau khi

33

mở thư.

Các bên có thể sử dụng thư điện tử cho mục đích giao lưu dân sự hay kinh

doanh và thương mại theo nhiều cách khác nhau. Một bức thư điện tử có thể bao

gồm thông tin liên quan đến những cuộc thương thảo, lời chào hàng và sự chấp

nhận chào hàng hay là một bản dự thảo hợp đồng. Thêm vào đó những giao dịch

liên quan đến những sản phẩm số hóa như phần mềm máy tính, âm nhạc, trò chơi....

thì những tập tin đính kèm theo thư điện tử có thể là đối tượng của giao dịch.

* Công cụ tán gẫu:

Các bên có thể sử dụng công cụ tán gẫu để tiến hành giao dịch. Công cụ tán

gẫu cho phép các chủ thể hội thoại trong thời gian thực vì khi một người gõ tin nhắn

thì người kia trong phòng tán gẫu có thể xem được tin nhắn đó ngay lập tức.

Giao tiếp mang lại cơ hội kinh doanh cho mỗi doanh nghiệp và cá nhân. Hiển

nhiên các chủ thể có quyền theo đuổi các cơ hội kinh doanh thông qua công cụ tán

gẫu. Các cá nhân trong một phòng tán gẫu có thể trao đổi thông tin với tốc độ nhanh

chóng cho mục đích thương lượng hay soạn thảo hợp đồng. Cũng giống như nói

chuyện qua điện thoại hay đối thoại trực tiếp, thông tin gửi qua phòng tán gẫu cũng

tạo nên một cuộc hội thoại tức thời cho phép các bên tham gia vào các cuộc thương

lượng, đưa ra lời đề nghị và chấp nhận lời đề nghị đó, gửi mẫu hợp đồng và gửi tài

liệu để thực thi điều khoản trong hợp đồng.

* Trang thông tin điện tử

Công cụ thứ ba dùng cho giao dịch Internet đó là các website trong đó có

tích hợp chức năng đặt hàng trực tuyến hoặc chứa đựng những hợp đồng theo mẫu.

Ngày nay Internet trở nên phổ biến phần lớn là nhờ các trang website. Website là

phần dễ truy cập nhất của Internet. Nó dựa trên nguyên tắc liên kết siêu văn bản,

công nghệ này cho phép kết nối các văn bản với nhau bất luận vị trí của nó ở đâu

trong không gian Internet.

Hợp đồng có thể được giao kết từ sự tương tác giữa khách hàng và chức

năng đặt hàng trực tuyến tự động trên website, người mua tiến hành các bước đặt

hàng tuần tự trên website của người bán theo quy trình đã được tự động hóa. Quy

34

trình này thông thường gồm các bước từ tìm kiếm sản phẩm, lựa chọn, đặt hàng,

tính giá, chọn hình thức giao hàng, thanh toán, xác nhận hợp đồng. Đặc điểm nổi

bật của loại hợp đồng điện tử này là nội dung hợp đồng không được soạn sẵn mà

đươc hình thành trong giao dịch tự động. Máy tính tự động tổng hợp nội dung hợp

đồng điện tử trong quá trình giao dịch dựa trên các thông tin do người mua nhập

vào. Một số giao dịch điện tử kết thúc bằng hợp đồng, một số khác kết thúc bằng

đơn đặt hàng điện tử. Kết thúc quá trình giao dịch hợp đồng điện tử được tổng hợp

và hiển thị để người mua xác nhận sự đồng ý của mình đối với các nội dung của

hợp đồng. Sau đó người bán sẽ được thông báo về hợp đồng và gửi xác nhận đến

người mua qua nhiều hình thức, có thể bằng email, điện thoại hoặc fax...

Một cách khác để giao kết hợp đồng điện tử trên cơ sở ứng dụng tiện ích của

website là các hợp đồng theo mẫu được đưa lên website để các bên tham gia giao

kết. Đây là những hợp đồng đã được chuẩn hóa về nội dung và sử dụng thường

xuyên, được thiết kế bởi một bên tham gia hợp đồng (thường là bên có vị thế mạnh

như người bán hàng, bên cung ứng dịch vụ, ngân hàng hay công ty bảo hiểm...) để

giao dịch với nhiều người và thường được cho là có hiệu lực miễn là nó hợp lý và

công bằng với bên còn lại. Các hợp đồng mẫu được sử dụng để giao dịch qua

website được chia làm ba loại:

- Hợp đồng nhấp chuột (Click - wrap);

- Hợp đồng duyệt web (Browse - wrap);

- Hợp đồng gói kèm (Shrink -wrap).

Trong dạng hợp đồng theo mẫu này hợp đồng gói kèm là loại hợp đồng đã

được sử dụng trước đó và trên thực tế đã được sử dụng trong thế giới giấy tờ, hai

loại hợp đồng còn lại - hợp đồng nhấp chuột và hợp đồng duyệt web thì chỉ riêng có

trong giao dịch điện tử.

Website có lợi thế khi nó là sự kết hợp của truyền thông đa phương tiện và

khả năng giao tiếp giữa các chủ thể với nhau. Những đặc điểm này không những

cho phép người bán hàng không những cung cấp sản phẩm và thông tin dịch vụ mà

còn tiếp cận được với những khách hàng tiềm năng. Nhiều trang website thương

35

mại điện tử có cả những hình thức mua hàng và thanh toán qua mạng. Người sử

dụng chỉ cần điền thông tin cá nhân vào các ô tương ứng và nhấn nút " chấp nhận"

là đã có thể hoàn thành xong giao dịch. Giao dịch có thể bao gồm mua hàng hóa

hữu hình như quần áo, tư trang, sách, điện thoại, máy ảnh... hay các sản phẩm số

hóa như phần mềm, phim ảnh, âm nhạc, hoặc tệp tin điện tử mà có thể tải về máy

tính của người sử dụng ngay sau khi trả tiền. Những giao dịch dạng này thường

không mang tính chất thương lượng.

* Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI)

Cuối cùng giao dịch điện tử có thể được thực hiện bằng công cụ giao thức

trao đổi dữ liệu điện tử. EDI được định nghĩa là " Sự chuyển thông tin từ máy tính

này sang máy tính khác bằng phương tiện điện tử theo một tiêu chuẩn đã được thỏa

thuận về cấu trúc" [21, Điều 4(15)]. Về cơ bản máy tính đóng vai trong như những

"tác nhân điện tử", cho việc soản thảo hợp đồng mà không cần sự can thiệp của con

người.

Tác nhân điện tử là một phương tiện máy tính, phương tiện điện tử hoặc tự

động khác được sử dụng độc lập để khởi đầu một hành động; hay trả lời toàn bộ

hoặc một phần các bản ghi điện tử; hay sự thực thi mà không cần sự xem lại; hay

hành động của con người. Ở đây có điểm đáng lưu ý là giao kết hợp đồng qua EDI

không cần thương lượng trước khi đi đến thỏa thuận. Mặc dù tiện lợi và hiệu quả,

nhưng liệu đặt ra là máy tính có năng lực pháp lý tham gia hợp đồng với tư cách là

tác nhân điện tử hay không?

Ví dụ: Công ty A là công ty chuyên cung cấp đồ ăn vặt qua cây bán hàng tự

động và nhân viên của công ty A thường xuyên phải thêm hàng vào máy bán hàng

tự động. Công ty H chuyên cung cấp thức ăn cho các máy này có sử dụng hệ thống

EDI để nhận các đơn hàng và sử lý chúng để họ có thể cung cấp một cách nhanh

nhất. Với mục đích tránh phải kiểm kê thường xuyên, công ty A thiết lập một

chương trình cho máy bán hàng, chương trình này sẽ theo dõi nguồn cung cấp hàng

trong máy. Khi bản kiểm kê cho thấy còn ít hàng, chương trình sẽ quay số đến hệ

36

thống EDI của công ty H và đặt một đơn hàng điện tử để cung cấp cho máy. Hệ

thống trao đổi dữ liệu điện tử của công ty H sẽ xác nhận đơn hàng và tuyền đơn

hàng tới nhà kho để hàng có thể được vận chuyển kịp thời.

Điều đáng chú ý ở ví dụ trên là giao dịch điện tử diễn ra mà không cần có sự

tham gia của con người; lời đề nghị, sự chấp nhận đều diễn ra giữa các chủ thể điện

tử.

Ngày nay để giảm chi phí giao dịch và thúc đẩy khả năng kinh doanh, những

đối tác làm ăn thường xuyên, thường thỏa thuận sử dụng hệ thống giao dịch điện tử

EDI để giao kết hợp đồng. Cần phải ghi nhận rằng, nếu một ai đó xây dựng một

chương trình máy tính hay hệ thống tự động để là một cái gì đó thì điều này minh

chứng là có tồn tại một ý định nhất định mang giá trị thông tin nào đó. Do vậy sự

ưng thuận của các tác nhân điện tử được xét lại là ý định của người đã lập trình nên

hệ thống tự động hay chương trình máy tính để thiết lập hay thực hiện hợp đồng, hệ

thống được sử dụng nhằm thực hiện công việc kinh doanh và các bên chấp nhận

chúng. Vì vậy sự ưng thuận của tác nhân điện tử chính là sự thỏa thuận của các bên

trong giao kết hợp đồng.

Quy định về việc sử dụng hệ thống giao dịch điện tử EDI để giao kết hợp

đồng đã được quy định tại Điều 13 Nghị định số 57/2016/NĐ – CP ngày 9/6/2016

của Chính phủ về thương mại điện tử:

Hợp đồng điện tử được giao kết từ sự tương tác giữa một hệ

thống thông tin tự động và một cá nhân, hoặc giữa các hệ thống thông

tin tự động với nhau, không bị phủ nhận giá trị pháp lý chỉ vì không

có sự kiểm tra hay can thiệp của con người vào từng hành động cụ thể

do các hệ thống thông tin tự động thực hiện hay hợp đồng được giao

kết [10,Điều 13].

Qua phân tích ở trên chúng ta thấy rằng hợp đồng điện tử không làm thay đổi

bản chất của các hợp đồng nhiều như nó thay đổi quá trình đi đến thỏa thuận. Một

hợp đồng có những điều khoản giống nhau dù được viết trên giấy hay giao kết qua

mạng Internet, thì đều là những thỏa thuận về việc xác lập, thay đổi, hoặc chấm dứt

37

quyền, nghĩa vụ.

Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ pháp luật hợp đồng có thừa nhận mỗi quá trình lại

cho ra một thỏa thuận có tính thực thi như nhau hay không? Hay nói cách khác,

những thỏa thuận qua mạng Internet với một quy trình có sự khác biệt như vậy có

được pháp luật hợp đồng đảm bảo thực hiện như những thỏa thuận được thiết lập

theo phương thức truyền thống hay không.

Mặc dù Luật hợp đồng được xây dựng để chi phối nhiều loại hợp đồng và

nhiều mối quan hệ thương mại, nhưng sử dụng pháp luật hợp đồng truyền thống để

giải quyết vấn đề của hợp đồng điện tử dường như mang tính chất chiếu lệ. Cuối

cùng các bên tham gia hợp đồng điện tử dường như phải tự điều chỉnh mình và

mong đợi đối tác cũng phải tự điều chỉnh hành vi giống như những gì họ thường

làm để tuân thủ theo các nguyên tắc truyền thống. Tuy nhiên sẽ là sai lầm nếu có

cách xử sự đơn giản như vậy, bởi vì hợp đồng điện tử không phải lúc nào cũng

tương thích với các nguyên tắc của hợp đồng truyền thống. Hợp đồng điện tử có thể

không xuất hiện trên giấy tờ, thậm chí không diễn ra thương lượng hay tương tác,

không có sự chi phối của con người mà vẫn diên ra sự giao dịch mang tính tức thời.

Nói khác xa với khái niệm niệm về một buổi hợp giữa các thương gia ăn mặc lịch

sự ngồi với nhau để thương lượng với một sự thận trọng và có suy tính, thì hợp

đồng điện tử lại diễn ra rất mau lẹ và nhiều khi không cần sự tác động của con

người. Việc xác định ranh giới giữa có sự thống nhất ý chí và chưa có sự thống nhất

ý chí giữa các bên nhiều khi còn là sự khó khăn và thiếu rõ ràng. Vì vậy để thích

ứng với hoàn cảnh mới, luật hợp đồng cần bổ sung một số quy tắc và giải thích để

quyết định khi nào có một lời đề nghị được ra và khi nào thì có biểu hiện của sự ưng

thuận.

Sự phát triển của công nghệ thông tin và Internet yêu cầu pháp luật phải có

sự điều chỉnh để đáp ứng những đòi hỏi của một xã hội hiện đại. Nếu không thích

ứng với những sự phát triển này, luật pháp lạc hậu sẽ khiến ngày càng nhiều vấn đề

bị mang ra kiện tụng và vì vậy sẽ khiến cho các luật sự và thẩm phán xét xử phải

khó xử.

38

b) Về quy trình giao kết

Thông thường hợp đồng được hình thành bởi quá trình mà trong đó các bên

tự do thể hiện ý chí thông qua đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao

kết hợp đồng. Hợp đồng điện tử đặc trưng cho các giao dịch được thiết lập từ xa.

Nếu như tài liệu trên giấy là những tài liệu giao dịch “giấy tờ”, “vật chất”, thì hợp

đồng điện tử lại là một quá trình và có hai giai đoạn xác định về mặt lý thuyết: chào

hàng và chấp nhận chào hàng. Các giai đoạn này thường được tạo ra thông qua quá

trình gửi và nhận các thông điệp dữ liệu khác nhau về ý định của các bên.

Theo Ủy ban Kinh tế châu âu của liên Hợp Quốc, hợp đồng điện tử bao gồm

hai phần:

- Công cụ chào, nhờ vào đó một bên chào tham gia vào mối quan hệ hợp

đồng thương mại bằng các phương tiện điện tử và gửi cho bên kia; hoặc sắp đặt để

bên kia có các điều khoản mà theo đó công cụ chào được chuẩn bị để thực hiện.

Công cụ này cũng có thể được một số người sử dụng, họ thấy các điều khoản ban

đầu đưa ra không chấp nhận được và gửi một công cụ chào mới cho người gửi đầu

tiên cùng với những thay đổi được đề nghị.

- Công cụ chấp nhận, được đệ trình bởi người chấp nhận các điều khoản

trong công cụ chào nếu như các điều khoản này được chấp nhận.

Hợp đồng điện tử được ký kết bởi sự kết hợp trao đổi của công cụ chào, chấp

nhận và không yêu cầu một thủ tục nào nữa. Việc ký kết không bắt buộc do các điều

khoản của hợp đồng giữa các bên đã rõ rang từ việc trao đổi hai công cụ này. Tuy

nhiên, cần thận trọng trong việc lưu trữ các công cụ này để thực thi. Cả hai công cụ

đều phải được các bên ghi nhận và lưu giữ. Các điều khoản về bằng chứng và trong

tài ở một số nước đòi hởi phải có tài liệu bằng văn bản và phải được ký kết, do vậy

những điều khoản này cần phải được quan tâm khi thực hiện.

Như đã đề cập ở trên, hợp đồng điện tử đặc trưng cho các giao dịch được

thiết lập từ xa. Trong mối quan hệ này người tiêu dung luôn ở thế yếu so với nhà

cung cấp dịch vụ, hàng hóa. Thế yếu này bắt nguồn từ chính phương thức giao kết

hợp đồng: phải sử dụng biện pháp liên lạc từ xa (qua website, email, hay chat

39

room…). Người tiêu dùng có thể thiếu thông tin về tình hình thực tế hay pháp luật

về điều chỉnh quan hệ hợp đồng. Đặc điểm này là nguyên nhân gây ra bất bình đẳng

giữa các bên. Khi giữa người mua hàng và người bán hàng không trực tiếp gặp nhau

thương lượng và kiểm tra hàng hóa trước khi mua bán, người tiêu dùng có khả năng

gặp rủi ro từ giao dịch này. Chẳng hạn, do thông tin trao đổi giữa hai bên không rõ

ràng, người tiêu dùng có thể nhận những hàng hóa không như suy nghĩ và kỳ vọng

ban đầu của mình. Mặt khác, trên thực tế các hợp đồng điện tử đa phần tồn tại dưới

dạng là hợp đồng theo mẫu, do đó vị thế của người tiêu dùng từ xa đã yếu thế lại

càng yếu thế vì họ không có quyền thỏa thuận thương lượng.

Mặc dù có sự bất bình đẳng giữa các bên như vậy, mặc dù tình trang bất cân

xứng về thông tin và khả năng thương lượng giữa các bên như vậy , mặc dù quy

trình, phương thức giao kết hợp đồng điện tử có khác biệt như vậy, nhưng không

phải “cư dân mạng” nào cũng nắm rõ. Do đó cần thiết phải có sự can thiệp của pháp

luật để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng – bên yếu thế trong quan hệ hợp đồng

điện tử.

c) Xác định thời điểm và địa điểm giao kết hợp đồng

* Thời điểm giao kết hợp đồng điện tử

Thời gian và địa điểm giao kết hợp đồng có mối quan hệ chặt chẽ với thời

điểm có hiệu lực của hợp đồng, thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.

Xác định được thời gian và địa điểm giao kết hợp đồng sẽ giúp cho các bên ký kết

trong quá trình thực hiện hợp đồng cũng thuận lợi cho việc giải quyết tranh chấp

sau này.

Nếu như một hợp đồng soạn thảo dưới hình thức văn bản thường được giao

kết bằng cách hai bên gặp gỡ nhau trực tiếp để thương thảo các điều khoản hoặc

trao đổi với nhau bằng các tài liệu giao dịch và ký bằng chữ ký tay, thì đối với giao

kết hợp đồng điện tử, các bên giao tiếp với nhau trong môi trường ảo, có vị trí đại lý

xa nhau, ở bất kỳ đâu vào bất kỳ thời điểm nào có thể truy cập vào mạng để gửi

hoặc nhận một thông điệp dữ liệu đề nghị hay chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.

Đề nghị và chấp nhận giao kết hợp đồng điện tử được tạo ra, hay gửi đi, được nhận

40

và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử, thường không có sự can thiệp trực tiếp từ

con người. Do đó việc xác định thời điểm và địa điểm giao kết hợp đồng sẽ trở nên

khó khăn hơn so với hợp đồng được giao kết bằng phương thức truyền thống.

Luật Giao dịch điện tử năm 2005 chưa có bất kỳ quy định cụ thể nào đề cập

đến vấn đề thời điểm nào để xác định giao kết hợp đồng điện tử. Tuy nhiên xét về

bản chất, các giao dịch điện tử là các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại, do đó

các quy định chung của pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng phải được áp

dụng. Đối chiếu với các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 và theo tinh thần

của Luật Giao dịch điện tử năm 2005, các trường hợp được coi là thời điểm giao kết

hợp đồng điện tử là:

+ Khi người gửi thông điệp dữ liệu đầu tiên nhận được thông tin xác nhận

của người nhận thông điệp dữ liệu, tức là khi thông điệp dữ liệu phản hồi được gửi

ra khỏi hệ thống kiếm soát của người gửi (thường áp dụng với dạng hợp đồng điện

tử "click" tức là nhấp chuột vào ô chấp thuận).

+ Hợp đồng dân sự cũng được xem như là đã giao kết khi hết thời hạn trả lời

mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp

nhận giao kết.

+ Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các bên thỏa thuận

về nội dung của hợp đồng.

+ Thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản.

Tuy nhiên, đối với trường hợp xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng

theo quy định của khoản 2 Điều 104, Bộ luật Dân sự là: "Hợp đồng dân sự cũng

được xem như là đã giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn

im lặng, nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết" [25, Điều

104(2)], khi áp dụng đối với dạng hợp đồng điện tử sẽ phải có một số loại trừ sau:

a. Trường hợp trước hoặc trong khi gửi thông điệp dữ liệu, người khởi tạo đã

tuyên bố thông điệp dữ liệu đó chỉ có giá trị khi có thông báo xác nhận thì thông

điệp dữ liệu đó được xem là chưa gửi cho đến khi người khởi tạo nhận được thông

41

báo của người nhận xác nhận đã nhận được thông điệp dữ liệu đó;

b. Trường hợp người khởi tạo đã gửi thông điệp dữ liệu mà không tuyên bố

về việc người nhận phải gửi thông báo xác nhận và cũng chưa nhận được thông báo

xác nhận thì người khởi tạo có thể thông báo cho người nhận là chưa nhận được

thông báo xác nhận và ấn định khoảng thời gian hợp lý để người nhận gửi xác nhận;

nếu người khởi tạo vẫn không nhận được thông báo xác nhận trong khoảng thời

gian đã ấn định thì người khởi tạo có quyền xem là chưa gửi thông điệp dữ liệu đó.

Điều này nhằm bảo vệ lợi ích của các bên tham gia hợp đồng điện tử trong các

trường hợp bất trắc có thể phát sinh như lội của hệ thống mạng lưới truyền dẫn.

Trên thực tiễn, các hợp đồng điện tử đều được thực hiện trên môi trường điện tử,

phụ thuộc nhiều vào thiết bị điện tử và mạng lưới truyền dẫn. Do đó, việc phát sinh

lỗi kết nối hoặc lỗi kỹ thuật là hoàn toàn có thể xảy ra.

* Địa điểm giao kết hợp đồng điện tử

Luật Giao dịch điện tử năm 2005 quy định địa điểm gửi thông điệp dữ liệu là

trụ sở của người khởi tạo nếu người khởi tạo là cơ quan, tổ chức hoặc nơi cư trú của

người khởi tạo nếu người khởi tạo là cá nhân. Trường hợp người khởi tạo có nhiều

trụ sở thì địa điểm gửi thông điệp dữ liệu là trụ sở có mối liên hệ mật thiết nhất với

giao dịch. Địa điểm nhận thông điệp dữ liệu là trụ sở của người nhận nếu người

nhận là cơ quan, tổ chức hoặc nơi cư trú thường xuyên của người nhận nếu người

nhận là cá nhân. Trường hợp người nhận có nhiều trụ sở thì địa điểm nhận thông

điệp dữ liệu là trụ sở có mối liên hệ mật thiết nhất với giao dịch.

Luật Giao dịch điện tử năm 2005 không quy định địa điểm nào được xác

định là địa điểm giao kết hợp đồng mà chỉ quy định địa điểm nhận và gửi các thông

điệp dữ liệu. Tuy nhiên việc xác định địa điểm giao kết hợp đồng có ý nghĩa quan

trọng trong vấn đề xác định luật điều chỉnh và giải quyết tranh chấp phát sinh từ

hợp đồng hay liên quan đến hợp đồng sau này. Do đó phải được hiểu rằng nguyên

tắc xác định địa điểm giao kết hợp đồng của Bộ luật Dân sự năm 2005 sẽ được áp

dụng. Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định nguyên tắc xác định địa điểm ký kết hợp

đồng như sau: "Địa điểm giao kết hợp đồng dân sự do các bên thỏa thuận nếu

42

không có thỏa thuận thì địa điểm giao kết hợp đồng dân sự là nơi cư trú của cá

nhân hoặc trụ sở của pháp nhân đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng" [25, Điều 403].

Tuy nhiên, việc xác định địa điểm giao kết hợp đồng như trên lại chưa thật hợp lý vì

trong giao dịch thương mại điện tử, các bên tiếp xúc với nhau trong môi trường ảo.

Do vậy, nếu xác định địa điểm giao kết hợp đồng theo các quy định hiện hành thì

trong rất nhiều trường hợp sẽ không hoàn toàn phù hợp vì địa chỉ trên Internet

không thể hiện được nơi cư trú hay nơi có trụ sở của các bên. Đi đến đâu, dù ở bất

kỳ nước nào mọi người đều có thể truy nhập vào Internet và thực hiện các giao dịch.

d) Năng lực pháp lý của chủ thể tham gia giao kết hợp đồng điện tử

Chủ thể tham gia vào giao kết hợp đồng điện tử gồm các bên – người bán và

người mua hàng hóa (hoặc cung ứng dịch vụ qua mạng). Để hợp đồng có hiệu lực,

chủ thể phải có năng lực pháp lý hoặc năng lực hành vi. Tuy nhiên việc xác định

năng lực chủ thể của các chủ thể trong giao kết hợp đồng điện tử sẽ trở nên khó

khăn hơn rất nhiều so với trong hợp đồng truyền thống. Những khó khăn đấy là:

Thứ nhất, người bán trên mạng chắc chắn không muốn và không thể bán

hàng hóa và dịch vụ cho mọi đối tượng vào mạng Internet. Họ bị ràng buộc và bị

chi phối bởi các quy định pháp lý của quốc gia mình và quốc gia người tham giao

kết với họ. Hoặc theo quy định pháp luật của mỗi quốc gia một mặt hàng hay dịch

vụ ở quốc gia này là hợp pháp nhưng ở quốc gia khác lại bị cấm lưu thông cũng làm

cho hợp đồng điện tử được giao kết để mua bán mặt hàng đó không thực hiện được

dù là đã giao kết. Vì thế người bán hàng hóa, dịch vụ trên mạng thường quy định

một số hạn chế trong trang mạng của mình nhằm loại bỏ những chủ thể mà họ có

không có khả năng xác định được năng lực pháp lý. Chỉ cần một sơ xuất nhỏ trong

việc xác định năng lực của các chủ thể sẽ dẫn đến hậu quả là hợp đồng không thực

hiện được. Vấn đề này người cung cấp dịch vụ còn phải chịu áp lực lớn hơn so với

người bán hàng hóa hữu hình do địa điểm và nhân thân của khách hàng khó có thể

được xác định rõ ràng. Gánh nặng này với các nhà cung cấp hàng hóa hữu hình sẽ

được giảm nhẹ hơn nhờ dễ dàng xác định nơi giao hàng. Năng lực của công nghệ

thông tin hiện nay chưa cho phép kiểm soát và loại bỏ hết các đối tượng truy cập

43

không được mong đợi và do đó, vấn đề chủ thể giao kết hợp đồng điện tử cũng đang

là vấn đề mà các luật gia, các nhà kỹ thuật cũng như các bên tham gia hợp đồng

phải đặc biệt chú ý.

Thứ hai, khó khăn nhất với các doanh nghiệp cung cấp hàng hóa (dịch vụ)

qua mạng là khó xác định được xem liệu khách hàng có đủ tuổi có năng lực hành vi

hay chưa. Vấn đề phát sinh khi khách hàng đang ở tuổi vị thành niên. Một là, theo

quy định của pháp luật ở một số quốc gia, có một số loại hàng hóa nhất định không

thể bán cho đối tượng tuổi vị thành niên như thuốc lá, rượu, sách báo khiêu dâm

v.v… theo pháp luật của những quốc gia này, người bán trong hợp đồng này dễ bị

buộc vào tội hình sự hoặc phải chịu trách nhiệm dân sự nếu không biết chắc khách

hàng của mình đã đủ năng lực hành vi dân sự hay chưa. Rất khó xác định được điều

này khi mua bán qua mạng. Hai là, các hợp đồng giao kết với người vị thành niên

mà không nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của người đó cũng sẽ bị vô

hiệu. Vấn đề là ở chỗ, hợp đồng bị vô hiệu đối với người vị thành niên và người vị

thành niên sẽ được miễn trách nhiệm nhưng sẽ gây ra nhiều hậu quả pháp lý bất lợi

cho người bán: người bán chỉ thu hồi được hàng hóa đã cung cấp cho khách hàng là

người vị thành niên một khi hàng hóa đó vẫn còn ở trong tay đối tượng người mua

này. Vì thế tất cả các trạng web đều sử dụng cái gọi là Content Advisor (tạm dịch là

cảnh báo nội dung), tức là cảnh báo cho các đối tượng vị thành niên rằng hàng hóa,

dịch vụ này chỉ phù hợp với các đối tượng từ đủ tuổi có năng lực hành vi trở lên, và

yêu cầu người truy cập phải xác nhận rằng mình đã đủ tuổi có năng lực hành vi, ví

dụ: đủ 18 tuổi theo quy định của pháp luật Việt Nam. Xác nhận của người truy cập

dù là thật hay giả cũng góp phần làm giảm trách nhiệm cho người cung cấp hàng

hóa (dịch vụ) trên mạng. Vì vậy doanh nghiệp nào không sử dụng Content Advisor

thì sẽ rơi vào những rủi ro pháp lý khi họ không có khả năng hoặc không có đủ cơ

sở pháp lý để kiểm tra tư cách chủ thể của khách hàng giao dịch và ký kết hợp đồng

điện tử với mình.

Luật Giao dịch điện tử năm 2005 quy định các bên tham gia giao dịch điện tử

là người khởi tạo thông điệp dữ liệu và người nhận thông điệp dữ liệu: "Người khởi

44

tạo thông điệp dữ liệu là cơ quan, tổ chức, cá nhân tạo hoặc gửi một thông điệp dữ

liệu trước khi thông điệp dữ liệu đó được lưu giữ nhưng không bao hàm người

trung gian chuyển thông điệp dữ liệu" [21, Điều 16]; "người nhận thông điệp dữ

liệu là người được chỉ định nhận thông điệp dữ liệu từ người khởi tạo thông điệp dữ

liệu nhưng không bao hàm người trung gian chuyển thông điệp dữ liệu đó" [21,

Điều 18]. . Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, một giao dịch dân sự, kinh

tế, thương mại do người không có năng lực hành vi dân sự tiến hành thì sẽ bị coi là

vô hiệu. Đối với pháp nhân, năng lực hành vi được xác định bởi tư cách pháp nhân

của tổ chức đó và những lĩnh vực ngành nghề kinh doanh mà tổ chức đó được phép

hoạt động như đã được ghi tại giấy đăng ký kinh doanh do cơ quan có thẩm quyền

cấp. Đối với cá nhân, năng lực hành vi được xác định là khả năng của cá nhân bằng

hành vi của mình xác lập và thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Năng lực hành vi

dân sự đầy đủ chỉ có ở những người thành niên không bị mất năng lực hành vi dân

sự hoặc không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự được quy định tại Bộ luật Dân sự.

Việc xác định năng lực ký kết hợp đồng điện tử của các bên trong giao dịch chủ yếu

căn cứ vào các điều kiện thực tế sau:

+ Đối với tổ chức, doanh nghiệp: bằng uy tín và thương hiệu của doanh

nghiệp đó, bằng việc xác thực của các cơ quan có uy tín như Bộ Thương mại, nhà

cung cấp dịch vụ Internet, cơ quan quản lý sàn giao dịch điện tử, cơ quan chứng

thực chữ ký điện tử...

+ Đối với cá nhân: thẻ tín dụng, số chứng minh thư, số hộ chiếu, địa chỉ, vân

tay, giọng nói…

2.1.2. Hình thức của hợp đồng điện tử

Hình thức phổ biến của hợp đồng điện tử là thư điện tử. Luật giao dịch điện

tử Việt Nam năm 2005 quy định: “Hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập

dưới dạng thông điệp dữ liệu” [21, Điều 33]. Điều 10 của Luật này cũng giải thích

rõ: “Thông điệp dữ liệu được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử,

45

chứng từ điện tử, điện tín, điện báo, fax…” [21, Điều 10].

Các doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước… sử dụng thư điện tủ để gửi cho

nhau một cách “trực tuyến”, thông qua mạng gọi là thư điện tử (electronic mail,

viết tắt là e – mail).

Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 tại Điều 15 có quy định rõ: “Trong

hoạt động thương mại, các thông điệp dữ liệu đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn kỹ

thuật theo quy định của pháp luật thì được thừa nhận có giá trị pháp lý tương

đương với văn bản” [22, Điều 15]. Luật giao dịch điện tử Việt Nam năm 2005 đã cụ

thể hóa: “ Thông điệp dữ liệu được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử,

chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự

khác” [ 21, Điều 10]. Điều 11 Luật giao dịch điện tử năm 2005, khẳng định giá trị

pháp lý của các thông điệp dữ liệu điện tử trên là: “Thông tin trong thông điệp dữ

liệu không bị phủ nhận giá trị pháp lý chỉ vì thông tin đó không được thể hiện dưới

hình thức thông điệp dữ liệu” [21, Điều 11].

Nhằm hướng dẫn các doanh nghiệp về vấn đề này, đặc biệt nhằm làm yên

lòng các doanh nghiệp cũng như các chủ thể giao kết hơp đồng điện tử, Điều 12

Luật giao dịch điện tử Việt Nam năm 2005 quy định: “ Trong trường hợp pháp luật

yêu cầu thông tin phải được thể hiện bằng văn bản thì thông điệp dữ liệu được xem

là đáp ứng yêu cầu này, nếu thông tin chứa trong thông điệp đó có thể truy cập và

sử dụng được để tham chiếu khi cần thiết”[21, Điều 12]. Những quy định này sẽ là

cơ sở pháp lý quan trọng thừa nhận giá trị pháp lý của các hình thức khác nhau của

hợp đồng điện tử nếu những hình thức này có chứa những thông tin có thể truy cập

và sử dụng để tham chiếu khi cần thiết.

Như vậy trong những năm gần đây, thực tiễn pháp lý nhiều nước trên thế giới

cũng như ở Việt Nam đã có sự thừa nhận các phương tiện điện tử như fax, điện tín,

thư điện tử, v.v… là hình thức của hợp đồng điện tử, có giá trị pháp lý như văn bản,

có giá trị là chứng cứ (nếu đáp ứng các điều kiện do luật định). Vấn đề còn lại là

phải làm sao để những thông tin chứa trong thông điệp dữ liệu đó có thể truy cập và

sử dụng được để tham chiếu khi cần thiết.

46

2.1.3.Nội dung của hợp đồng

Nội dung của hợp đồng bảo gồm các điều khoản thỏa thuận giữa các chủ thể.

Đối với hợp đồng điện tử, các điều khoản này mang tính kỹ thuật điện tử rất cao và

thường do người bán (hoặc người cung ứng dịch vụ) làm sẵn và hiển thị trên trang

web của mình.

Vì vậy khi nói đến nội dung của hợp đồng điện tử, khác với hợp đồng truyền

thống – hợp đồng mà khi đàm phán để tiến tới giao kết, các bên thường chỉ chú ý

tới các điều khoản chủ yếu làm thành nội dung của hợp đồng như đối tượng của hợp

đồng, giá cả, điều kiện thanh toán, điều kiện giao hàng…, ở hợp đồng điện tử các

bên giao kết hợp đồng bắt buộc và trước hết phải chú ý đến các quy định có tính kỹ

thuật của công nghệ tin học. Đó là cách hiện thị nội dung của hợp đồng điện tử. Nếu

không thao tác tốt, chính xác quy trình kỹ thuật này thì việc giao kết hợp đồng điện

tử về mặt nội dung cũng không thể đạt được. Vì vậy, khía cạnh kỹ thuật công nghệ

đã gắn kết chặt chẽ với khía cạnh pháp lý của quy trình giao kết kiên quan đến nội

dung của hợp đồng điện tử. Từ đó, có thể khẳng định, các yêu cầu về mặt kỹ thuật

của cách hiển thị nội dung của hợp đồng điện tử cũng chính là cơ sở pháp lý mà các

bên phải tuân thủ khi giao kết hợp đồng điện tử.

a) Cách hiển thị nội dung của hợp đồng điện tử

Để những nội dung này có hiệu lực thì trước hết, chúng phải thu hút được sự

chú ý của người truy cập. Các cách hiển thị phổ biến nhất hiện nay là:

- Hiển thị thông tin có đường dẫn “whitout hyperlink”: Theo cách này người

bán thường ghi chú ở mỗi đơn đặt hàng rằng: “Hợp đồng này tuân theo các điều

khoản tiêu chuẩn cơ bản của công ty”. Tuy nhiên cách này có nhược điểm là chưa

đủ mạnh để thu hút sự chú ý của khách hàng và nếu khách hàng có để ý đi nữa thì

họ cũng không biết tìm các điều khoản tiêu chuẩn của công ty ở đâu”.

-Hiển thị có đường dẫn “with hyperlink”: ở trường hợp này cũng có sự ghi

chú giống trường hợp trên nhưng có đường dẫn đến trang web chứa các điều khoản

tiêu chuẩn của công ty. Cách thức này được phần lớn người bán trực tuyến sử dụng.

Nhược điểm của phương pháp này là chưa chắc khách hàng đã vào trang web để

47

đọc các điều khoản nói trên.

- Hiện thị điều khoản ở cuối trang web: theo cách hiển thị này, thay vì đường

dẫn tới một trang web khác thì người bán trực tuyến để toàn bộ điều khoản ở cuối

trang. Khách hàng muốn xem hết trang web thì buộc phải thực hiện thao tác cuộn

trang và buộc phải đi qua các điều khoản. Tất nhiên việc đọc hay không tùy thuộc

vào chính bản thân khách hàng nhưng nó cũng thể hiện rõ thiện chí của người bán

trong việc muốn cung cấp, chuyển tải và đưa nội dung hợp đồng đến tay khách

hàng.

- Hiện thị điều khoản ở dạng hộp thư thoại (Dialogue Box): Khách hàng

muốn tham gia giao kết hợp đồng phải kéo chuột qua tất cả các điều khoản ở cuối

trang rồi mới tới được hộp thư thoại “ Tôi đồng ý” hoặc “ Tôi đã xem các điều

khoản hợp đồng”. Khi Click chuột vào hộp thư thoại này thì coi như hợp đồng đã

được giao kết. Phương pháp này khắc phục được nhược điểm của hai phương pháp

trên ở chỗ: khi khách hàng click chuột vào hộp thư thoại có nội dung như trên, họ sẽ

tự có nhu cầu phải đọc các điều khoản mà họ đồng ý ràng buộc bản thân. Tuy nhiên,

cách thể hiện nội dung này không phải là không có nhược điểm. Nhược điểm là

người truy cập sẽ cảm thấy nản khi phải đọc những điều khoản dài ở cuối trang. Họ

có thể bỏ cuộc giữa chừng, đặc biệt là khi mua bán những mặt hàng hoặc dịch vụ có

giá trị thấp.

Trong cách hiển thị nói trên, hiện thị ở dạng hộp thư thoại được sử dụng

nhiều hơn cả. Trường hợp người mua vào kho hàng trực tuyến của người bán để đặt

hàng cũng vậy. Sau khi chọn lựa hàng hóa, họ chỉ có thể gửi được đơn đặt hàng sau

khi đã cuộn hết trang web để đọc toàn bộ điều khoản liên quan đến nội dung của

hợp đồng và click chuột vào hộp thoại “ Gửi đơn đặt hàng và đồng ý với mọi điều

khoản ở trên”.

b) Những điều khoản liên quan đến các điều kiện mà hai bên đã đưa vào

hợp đồng điện tử.

Bên cạnh những nội dung được diễn đạt rõ ràng trên trang web, các bên giao

kết hợp đồng điện tử còn bị ràng buộc bởi những điều khoản ngầm định (impied

48

terms) – tức là những điều khoản không có trong hợp đồng điện tử những mặc

nhiên được pháp luật và thực tiễn thừa nhận. Ví dụ như: hàng hóa phải thuộc quyền

sở hữu của người bán; hàng hóa phải là hàng không ở trong tình trạng bị tranh chấp;

hoặc sản phẩm phải có chất lượng phù hợp với mục đích sử dụng v.v… Tùy theo

hợp đồng điện tử là hợp đồng có tính dân sự hay thương mại mà các điều khoản này

có thể được ngầm định trong hợp đồng. Đối với hợp đồng điện tử, các điều khoản

liên quan đến hàng hóa và dịch vụ có thể sẽ được giao kết theo những quy định

riêng. Ví dụ, đối với những sản phẩm dịch vụ hay số hóa (là sản phẩm đến tay

người mua bằng cách tải lên trang web – download), người mua thông thường phải

trả tiền rồi mới tải được sản phẩm. Trong trường hợp này, mặc nhiên ngầm hiểu

rằng chương trình được tải về phải phù hợp với mục đích sử dụng của nó và phải

hoạt động được. Ngoài ra chương trình còn phải được tải về trong khoảng thời gian

hợp lý, nếu không, người bán sẽ phải hoàn trả lại tiền cho người mua.

c) Một số điều khoản đặc biệt cần lưu ý khi giao kết hợp đồng điện tử

Trong hợp đồng điện tử, có một số điều khoản được coi là các điều khoản

đặc biệt quan trọng liên quan tới tính hiệu lực của hợp đồng điện tử đó là:

- Điều khoản hình thành hợp đồng (Contract Formation Terms – còn gọi là

điều khoản để hợp đồng điện tử có hiệu lực.

Trong hợp đồng truyền thống, vấn đề khi nào hợp đồng có hiệu lực đã được

quy định bởi rất nhiều quy tắc và thực tiễn thương mại, qua lịch sử phát triển của

thương mại. Tuy nhiên đối với lĩnh vực giao kết trực tuyến, vấn đề này trở nên phức

tạp hơn. Đối với hợp đồng điện tử một điều dễ nhận thấy là người bán hàng hóa

(người cung ứng dịch vụ) luôn là người soạn sẵn hợp đồng và luôn muốn mình

giành lợi thế. Do đó họ luôn quy định sẵn thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng

bằng cách sử dụng điều khoản gọi là điều khoản hình thành hơp đồng.

- Điều khoản miễn giảm trách nhiệm (Limitation and Exclusion of

Liabilities):

Người bán hàng trực tuyến luôn sử dụng các điều khoản này để chối bỏ hoặc

49

cố ý giảm thiểu trách nhiệm của mình càng nhiều càng tốt.

Đối với hợp đồng truyền thống, luật pháp của nhiều nước quy định rất chặt

chẽ về giá trị pháp lý của điều khoản miễn giảm trách nhiệm theo kiểu nói trên. Ví

dụ các nước theo hệ thống Common law (hệ thống luật Anh – Mỹ) có những quy

định làm vô hiệu hóa những điều khoản như vậy, khi người mua là người tiêu dùng

(consumer contract). Tuy nhiên đối với hợp đồng điện tử rất khó có thể xác định

được chính xác người mua có phải là người tiêu dùng hay không. Do đó đối với

phần lớn các trường hợp giao kết hợp đồng điện tử, người bán trực tuyến luôn

chiếm lợi thế, bởi khi có tranh chấp phát sinh, cơ sở pháp lý của hợp đồng điện tử

lại thường là các điều khoản mẫu với nội dung bất lợi cho người mua mà người mua

đã tự tay mình – bằng một thao tác đơn giản là click vào hộp thoại.

-Điều khoản thanh toán và giao hàng (Payment and Delivery terms):

Trong các hợp đồng điện tử, điều khoản này được quy định rất chi tiết.

Phương thức thanh toán chủ yếu là phương thức điện tử. Theo đó, người mua cung

cấp số thẻ tín dụng cho người bán, phần lớn rủi ro thuộc về người mua. Việc thanh

toán chỉ coi như hoàn tất khi người bán nhận được tiền chứ không phải vào thời

điểm người mua nhập số thẻ tín dụng. Ngoài trừ một số công ty có uy tín, các công

ty “ma” thường xuyên phủ nhận việc tiền đã đến tay họ. Tuy nhiên trong thực tiễn

giải quyết tranh chấp phát sinh từ giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử, để bảo vệ

người mua trực tuyến , một số ít Tòa án cho rằng, nếu người bán đã mô tả quy trình

thanh toán và người mua đã thực hiện đúng chỉ dẫn đó thì coi như người mau đã

hoàn thành nghĩa vụ thanh toán của mình.

d) Vấn đề lỗi kỹ thuật trong nội dung hợp đồng điện tử

Khi giao kết hợp đồng điện tử qua trang web, người mua dường như phải tự

mình làm mọi việc, từ chọn hàng, số lượng, phương thức thanh toán đến việc giao

hàng v.v…nên dễ phạm phải các lỗi về thao tác kỹ thuật. Những lỗi này mang tính

khách quan, thể hiện sự không thống nhất giữa thao tác ngoài với ý chí bên trong

của người mua, do bị ảnh hưởng bởi yếu tố kỹ thuật của công nghệ tin học. Trong

trường hợp này không thể ràng buộc người mua về các lỗi ký thuật đó. Trong thực

50

tiễn, một số nước cho phép người mua không bị ràng buộc bởi hiệu lực của hợp

đồng bằng cách thông báo ngay cho người bán về lỗi kỹ thuật này. Không ngoại trừ

người bán cũng mắc phải lỗi tương tự. Tuy nhiên, trường hợp này hiếm khi được

Tòa án chấp nhận vì theo quan điểm của Tòa án , người bán (người chào hàng,

người đề nghị cung ứng dịch vụ) được coi là phải có sự thuần thục, nhuần nhuyễn

trong kỹ thuật mua bán trực tuyến. Cho đến nay luật pháp các nước cũng chưa có

quan điểm thống nhất trong việc xây dựng cơ sở pháp lý để giải quyết vấn đề lỗi kỹ

thuật khi quy định các điều khoản liên quan đến nội dung của hợp đồng điện tử.

Nghị định số 57/2006/NĐ – CP ngày 09/6/2006 về Thương mại điện tử của

Việt Nam quy định theo hướng bảo về bên mắc lỗi trong trường hợp mắc lỗi kỹ

thuật với điều kiện là bên làm phát sinh lỗi phải thông báo ngay cho bên kia khi biết

về lỗi kỹ thuật xảy ra và bên làm phát sinh lỗi chưa có được bất kỳ lợi ích vật chất

nào từ thương vụ này. Cụ thể tại khoản 1 Điều 15 Nghị định số 57/2006/NĐ – CP

ngày 09/6/2006 quy định như sau:

Trường hợp một cá nhân mắc phải lỗi nhập thông tin trong

một chứng từ điện tử được sử dụng để trao đổi với hệ thống thông tin

tự đồng của bên khác, nhưng hệ thống thông tin tự động này không hỗ

trợ cho cá nhân đó sửa lại lỗi thì cá nhân đó hoặc người đại diện của

mình có quyền rút bỏ phần chứng từ điện tử có lỗi nếu tuân thủ các

điều kiện sau:

a) Sau khi biết lỗi cá nhân hoặc đại diện của cá nhân đó thông

báo cho bên kia về lỗi và nêu rõ mình đã mắc phải lỗi trong chứng tư

điện tử này.

b) Cá nhân hoặc đại diện của cá nhân đó vẫn chưa sử dụng

hoặc có được bất kỳ lợi ích vật chất hay giá trị nào từ hàng hóa hay

dịch vụ nhận được từ bên kia.[10, Điều 15(1)]

2.1.4. Về vấn đề chữ ký trong hợp đồng điện tử

Đối với hợp đồng bằng văn bản, pháp luật hợp đồng các nước thường quy

định việc các bên tham gia cùng ký vào một hợp đồng bằng văn bản là điều kiện cần

51

để một hợp đồng có giá trị pháp lý. Chữ ký có thể là bất kỳ biểu tượng nào (ví dụ

như: đống dấu, điểm chỉ..) được sử dụng hoặc được chấp nhận bởi các bên tham gia

với mục đích xác thực nội dung hợp đồng; tuy nhiên sủ dụng chữ ký viết tay vẫn là

cách phổ biến để thể hiện sự đồng ý với các điều khoản của hợp đồng.

Đối với một hợp đồng điện tử việc tạo lập một chữ ký hay đóng dấu sẽ

không thể thực hiện như đối với hợp đồng bằng văn bản thường nhất thiết phải gắn

liền với chữ ký tay. Đối với hợp đồng điện tử nếu hiểu chữ ký theo phương pháp

truyền thống thì không thể có hợp đồng, vì vậy hợp đồng điện tử cần được “ký” bởi

một chữ ký khác – chữ ký điện tử thì hợp đồng điện tử sẽ có sự khác biệt là chữ ký

điện tử.

Chữ ký điện tử (electronic signature) là chữ ký được tạo lập

dưới dạng từ, chữ, số, ký hiệu, âm thanh, hoặc các hình thức khác

nhau bằng phương tiện điện tử, gắn liền hoặc kết hợp một cách logic

với thông điệp dữ liệu, có khả năng xác nhận người ký thông điệp dữ

liệu và xác nhận sự chấp thuận của người đó với nội dung thông điệp

dữ liệu được ký [2, Điều 21].

Trong giao kết hợp đồng điện tử, chức năng xác thực và bảo đảm toàn vẹn là

rất quan trọng. Đặc biệt trong bối cảnh các giao dịch điện tử được tự động hóa và hệ

thống kỹ thuật, công nghệ về giao dịch điện tử dễ bị sửa đổi, thì nhu cầu có một

cách thức đảm bảo nhận dạng bên đề nghị và bên được đề nghị giao kết hợp đồng

điện tử, cũng như sự toàn vẹn của thông điệp dữ liệu là rất cần thiết. Chữ ký điện tử

có nhiều loại khác nhau, có thể là một các tên đặt cuối thông điệp dữ liệu, một ảnh

chụp chữ ký viết tay gắn với thông điệp dữ liệu, một mã số bí mật có khả năng xác

định người gửi thông điệp dữ liệu… trong số đó, có chữ ký điện tử an toàn do một

tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử tin cậy phát hành hoặc có loại

chữ ký điện tử không đảm bảo độ an toàn do các bên giao dịch tự tạo ra. Dưới góc

độ pháp lý, những chữ ký điện tử như vậy phải được thừa nhận nhằm tạo điều kiện

thuận lợi cho việc giao kết hợp đồng điện tử. Vấn đề đặt ra là pháp luật phải đưa ra

52

các tiêu chí để xác định và bảo đảm giá trị pháp lý của chứ ký điện tử.

Câu hỏi đặt ra là chữ ký điện tử nào đảm bảo chức năng tương đương với

chữ ký truyền thống đồng thời ngăn ngừa việc giả mạo chứ ký, xác thực người ký

thông điệp dữ liệu, và bảo đảm tính toàn vẹn của thông điệp dữ liệu sau khi đã ký.

Khác với chữ ký tay, việc sử dụng chữ ký điện tử đặt ra vấn đề cần phải đảm bảo

các yêu cầu về mặt công nghệ về mặt pháp lý, tức là đảm bảo việc chứ ký điện tử

được sử dụng an toàn và thể hiện rõ ràng ý chí của các bên về thông tin trong thông

điệp dữ liệu. Vậy làm thế nào để nhận dạng chữ ký điện tử, hay nói cách khác cần

có biện pháp nào để các bên có thể xác định được chữ ký điện tử của bên đối tác.

Về vấn đề này cần có một cách thức nào đó mang tính kỹ thuật hoặc một tổ chức

trung gian nhằm chứng thực tính xác thực và đảm bảo độ tin cậy của chữ ký điện tử.

đây là một vấn đề không xảy ra khi giao kết hợp đồng truyền thống, nhưng lại rất

cần được quan tâm khi giao kết hợp đồng điện tử để đảm bảo sự an toàn.

Trong giao kết hợp đồng điện tử, quy trình cơ bản để ký kết hợp đồng điện tử

có sử dụng chữ ký số thường bao gồm 6 bước:

Bước 1: Bên gửi soạn thảo hợp đồng, sau đó mã hóa hợp đồng bằng phần

mềm. Quy trình này được gọi là quy trình rút gọn hợp đồng.

Bước 2: Bên gửi tiến hành tạo chữ ký số từ bản rút gọn của hợp đồng bằng

cách sử dụng khóa bí mật cảu mình. Hai bước này thường được gọi là quá trình ký

số.

Bước 3: Để đảm bảo bí mật về nội dung hợp đồng và chữ ký số, bên gửi tiến

hành mã hóa hợp đồng và chữ ký số vừa tạo bằng khóa công khai của bên nhận. Sau

đó, gửi hợp đồng và chữ ký số đã được mã hóa qua Intenet đến người nhận. Bước

này gọi là “gói phong bì số”.

Bước 4: Người nhận tiến hành mở “phong bì số” bằng cách sử dụng khóa bí

mật của mình để giải mã thông điệp nhận được. Bước này đảm bảo chỉ duy nhất

người nhận mới có thể mở được thông điệp dữ liệu và chữ ký số của người gửi. Khi

đó người nhận sẽ có trong tay hợp đồng và chữ ký số của người gửi. Tiếp theo,

53

người nhận tiến hành xác minh tính toàn vẹn nội dung của hợp đồng và chữ ký số.

Bước 5: Người nhận tiến hành rút gọn hợp đồng và nhận được bản rút gọn

thứ nhất; tiếp đó, người nhận tiến hành giải mã chữ ký số bằng khóa công khai của

người gửi và nhận được bản rút gọn thứ hai.

Bước 6: Người nhận tiến hành so sánh hai bản rút gọn này, nếu hai bản đó

giống nhau chứng tỏ sự toàn vẹn của hợp đồng và chữ ký số là của người gửi. Nếu

có sự khác biệt chứng tỏ đã có sự thay đổi nội dung hợp đồng hoặc chữ ký số.

Trong môi trường truyền thống, văn bản của các cơ quan, tổ chức chỉ có giá

trị pháp lý khi có chữ ký của người có thẩm quyền. Vai trò của con dấu là chứng

thực chữ ký trong văn bản đúng là chữ ký của người có thẩm quyền của cơ quan

hay tổ chức nói trên. Trong môi trường giao dịch điện tử, khái niệm con dấu không

còn tồn tại và phương pháp tạo ra chữ ký số cũng khác hoàn toàn so với chữ ký tay

truyền thống. Chữ ký số không phải do người ký tự tạo ra mà trên cơ sở kết hợp

khóa bí mật cảu người ký và nội dung thông điệp dữ liệu. Người ký là thuê bao của

tổ chức chứng thực chữ ký số và được tổ chức chứng thực chữ ký số đó kiểm tra,

xác minh, chứng thực là có thật thông qua việc cấp chứng thư số.

2.2. Những rủi ro thƣờng gặp trong hợp đồng điện tử

Trong giao kết hợp đồng điện tử, rủi ro là những biến cố không lường trước

gây thiêt hại hoặc làm cản trở các chủ thể trong hoạt động tham gia giao kết hợp

đồng. Nguyên nhân của những hạn chế tiềm ẩn trong chính môi trường và phương

tiện giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử.

Trong một môi trường ảo, đôi khi rất khó khăn để xác định năng lực của đối

tác giao kết hợp đồng, xác định xem đơn đặt hàng trên mạng là đơn đặt hàng giả

hay thật. Tính vô hình khiến cho việc lữu trữ hợp đồng nhằm đảm bảo bằng chứng

về hợp đồng cũng là điều không đơn giản. Làm thế nào để bảo mật hợp đồng điện

tử, làm thế nào để hạn chế sự chống phá, tấn công của các hacker ? Đây là vấn đề

cần quan tâm khi sử dụng phương tiện điện tử để giao kết hợp đồng. Trên thực tế

nhiều người đã phải chịu thiệt hại do những rủi ro này mang lại. Nhiều khách hàng

bị mất tiền do bảo mật không tốt thẻ tín dụng, nhiều doanh nghiệp không lấy được

54

tiền hàng do hợp đồng bị giả mạo chữ ký điện tử, nhiều người sau khi đặt hàng và

thanh toán qua mạng đã không nhận được món hàng đa mua hoặc nhận được nhưng

không đảm bảo chất lượng...

Một hợp đồng được hình thành khi một đề nghị giao kết hợp đồng được chấp

nhận. Đối với hợp đồng điện tử các vấn đề có thể phát sinh khi một đơn chào hàng

hoặc một sự chấp nhận bị mạo danh bởi một người nào đó không có thẩm quyền về

mặt pháp lý để ràng buộc bên mua với hợp đồng đã ký kết. Trong một số trường

hợp bên bán có thể nhận được đơn chào hàng hay đơn đặt hàng được ký bởi một

chữ ký không đảm bảo an toàn, ví dụ như loại chữ ký gồm các ký tự đơn giả, chữ ký

là bản quét chữ ký viết tay…Trong trường hợp như vậy, doanh nghiệp cần có một

thư điện tử yêu cầu đối tác xác nhận thông tin đã nêu nhằm tránh rủi ro có thể phát

sinh. Nếu bên mua không có sự xác nhận lại hoặc không có những thủ tục ràng

buộc, rất có khả năng một người khác đang lợi dụng những thông tin của bên đối

tác để gửi đơn chào hàng hoặc đơn đặt hàng. Nếu thực hiện việc giao hàng (hoặc

cung ứng dịch vụ) theo những đơn chào hàng, đặt hàng đó, bên mua sẽ gánh chịu

nhiều tổn thất do không lấy được tiền hàng mặc dù đã giao hàng.

Bên cạnh đó, đối với hợp đông điện tử vấn đề về lưu trữ chữ ký điện tử cũng

là vấn đề phức tạp. Bên sử dụng chữ ký điện tử cần phải có sự đảm bảo về việc bảo

mật cho chữ ký dạng này trong các máy vi tính vì trong trường hợp bất kỳ nếu một

người nào đó tiếp cận được với chữ ký đó và dụng nó để ký hợp đồng thì doanh

nghiệp không còn cách nào khác là phải công nhận hiệu lực của hiệu lực của hợp

đồng đã ký trước đối tác của mình, về mặt pháp lý dù điều đó bất lợi cho mình.

Hoặc nếu để lọt mật mã vào tay người khác thì người này có thể mạo danh người

mua để giao kết hợp đồng với đối tác. Trong trường hợp như vậy bên mua có thể

phải chịu một số rủi ro như mất danh tiếng, phải thực hiện những hợp đồng không

phải do mình ký, đối tác không tin tưởng…

2.2.1 Thiếu những quy định pháp luật cụ thể điều chỉnh, hướng dẫn việc

giao kết hợp đồng điện tử qua website theo mô hình C2C.

C2C (Consumer to Consumer) là mô hình giao dịch điện tử giữa người tiêu

55

dùng với người tiêu dùng hay còn gọi là mô hình giao dịch điện tử giữa cá nhân với

cá nhân. Mô hình này cho phép các cá nhân có thể tự chào bán các sản phẩm, thông

qua một website có sẵn cho phép người mua và người bán gặp nhau để tiến hành

các giao dịch đấu giá trực tuyến và lựa chọn người trả giá cao nhất để giao kết hợp

đồng.

Với những quy định cụ thể về quy trình giao kết hợp đồng trên website

thương mại điện tử, sau khi được ban hành, Nghị định số 57/2016/NĐ – CP ngày

09/6/2016 của Chính phủ và Thông tư số 09/2008/TT – BTC ngày 21/7/2008 của

Bộ công thương đã tạo hành lang pháp lý rõ ràng để các chủ thể yên tâm tiến hành

giao kết hợp đồng điện tử, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia.

Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 2 Nghị định số 57/2016/NĐ – CP ngày 09/6/2016

của Chính phủ và Điều 1 Thông tư số 09/ TT – BTC, thì hai văn bản này chỉ điều

chỉnh việc giao kết hợp đồng thương mại điện tử giữa thương nhân với khách hàng

(chủ yếu là các hợp đồng B2B và B2C). Còn các hợp đồng giữa cá nhân và cá nhân

(C2C) được coi là giao dịch dân sự, không thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định

và Thông tư này. Đây là một trở ngại khi giao kết hợp đồng điện tử giữa cá nhân

với cá nhân vì hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành còn thiếu những quy định cụ

thể hướng dẫn, điều chỉnh về quy trình giao kết hợp đồng điện tử giữa các cá nhân

với nhau, về quy trình mua bán tài sản theo hình thức đấu giá qua mạng, về nghĩa

vụ cung cấp thông tin, cơ chế hoạt độngc của các website thương mại điện tử theo

mô hình C2C, cũng như nghĩa vụ của các chủ sở hữu website (bên trung gian) đã

thiết lập nên trang web cho phép người tiêu dùng giao dịch với nhau trong những

trường hợp cần thiết.

2.2.2. Thiếu những quy định pháp luật cụ thể điều chỉnh, hướng dẫn việc

giao kết hợp đồng điện tử theo mẫu trên website.

Pháp luật hiện hành mới chỉ quan tâm điều chỉnh về quy trình giao kết hợp

đồng trên website thương mại điện tử bằng chức năng đặt hàng trực tuyến. Đối với

việc giao kết hợp đồng điện tử trên website thông qua những hợp đồng theo mẫu,

56

thì chúng ta vẫn còn thiếu vắng những quy định pháp luật cụ thể để điều chỉnh và

hướng dẫn các bên tham gia. Các giao dịch dạng này đang phát triển một cách tự

phát và nhiều khi gây bất lợi cho người tiêu dùng.

Hợp đồng theo mẫu là hợp đồng gồm những điều khoản do tổ chức, cá nhân

sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đơn phương soạn thảo để giao dịch với nhiều

người tiêu dùng. Nó là những điều khoản rập khuôn về việc xác lập một giao dịch

được lặp đi lặp lại. Nội dung của hợp đồng được người bán hàng, cung ứng dịch vụ

chuyên nghiệp chuẩn bị sẵn; người tiêu dùng chỉ có mỗi việc tuyên bố chấp nhận

hay không chấp nhận chứ không có cơ hội thảo luận, thương lương về từng điều

khoản của hợp đồng. Các hợp đồng mẫu soạn sẵn là một điển hình của sự bất cân

xứng về thông tin, bất cân xứng về khả năng thương lượng. Người tiêu dùng luôn

luôn ở thế yếu, trong khi người bán bao giờ cũng biết rõ hơn người mua những

thông tin liên quan đến hàng hóa, dịch vụ cung cấp và do vậy soạn thảo hợp đồng

với những điều khoản bất bình đẳng, dồn phần bất lợi cho khách hàng, lờ đi hoặc

giảm nhẹ những nghĩa vụ của người bán. Người tiêu dùng chỉ tiếp xúc với hợp đồng

theo mẫu mỗi khi quan tâm đến món hàng, dịch vụ được cung ứng theo hợp đồng

đó, hơn nữa họ chú ý nhiều nhất đến giá cả, các điều kiện khuyến mại (nếu có) và

thường bỏ qua các nội dung khác. Hợp đồng cồng kềnh, với nhiều điều khoản kỹ

thuật phức tạp, thì người tiêu dùng càng ít quan tâm đến việc tìm hiểu nội dung của

nó. Sự thờ ơ của đại đa số người tiêu dùng đối với nội dung hợp đồng theo mẫu, kết

hợp với kinh nghiệm tích lũy được trong quá trình kinh doanh, tạo điều kiện hình

thành một cách tự nhiên ở người bán hàng, cung ứng dịch vụ ý tưởng hoàn thiện

hợp đồng theo hướng chỉ có lợi cho mình. Thế là hợp đồng theo mẫu nhanh chóng

trở thành mảnh đất màu mỡ cho sự phát triển những giao ước không bình đẳng, mà

tất nhiên người ở thế yếu là người tiêu dùng. Các thỏa thuận không bình đẳng trong

hợp đồng theo mẫu được pháp luật của các nước tiên tiến gọi là các điều khoản lạm

dụng. Đó là những cam kết do người soạn thảo hợp đồng chủ động đề xuất, có tác

dụng tạo ra tình trạng mất cân đối không bình thường giữa quyền và nghĩa vụ của

các bên. Chẳng hạn người bán được miễn hoặc rút ngắn thời hạn chịu ràng buộc vào

57

trách nhiệm bảo đảm chất lượng tài sản bán hoặc bảo hành; người mua phải chịu

chế tài nặng nề trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ trả tiền, trong khi người bản lại

chỉ chịu trách nhiệm theo luật chung mỗi khi không thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa

vụ của mình… Về nguyên tắc một khi các bên đã đạt được thỏa thuận trên cơ sở tự

nguyện thì thỏa thuận ấy có giá trị. Tuy nhiên, đối với các hợp đồng theo mẫu, nhà

làm luật ở các nước phát triển không để mặc cho tác giả hợp đồng thao túng, mà

chủ động can thiệt để vô hiệu hóa tình trạng bất bình đẳng do người bán, người

cung ứng tạo ra nhờ lợi dụng sự cả tin và sao nhãng của người tiêu dùng. Lý do

chính của sự can thiệp không phải vì người tiêu dùng thường mất tập chung hoặc

“lười”, không chịu nghiền ngẫm để thấu hiểu nội dung của hợp đồng theo mẫu. Rõ

ràng, với kiến thức trung bình, người tiêu dùng điển hình, dù có muốn và có chú

tâm cũng không thể biết trước điều khoản nào tốt, điều khoản nào không tốt đối với

mình về phương diện hệ quả pháp lý. Chỉ đến khi có một rắc rối nào đó phát sinh

liên quan đến việc sử dụng tài sản, thì người tiêu dùng mới phát hiện những ràng

buộc của chính mình chấp nhận từ trước đó khi giao kết hợp đồng theo mẫu. Trong

bối cảnh đó quy chế pháp lý đối với loại hợp đồng theo mẫu này cần phải như thế

nào để vừa không ảnh hưởng tới quá trình đi đến sự thỏa thuận trong giao kết hợp

đồng điện tử giữa các bên, vừa bảo vệ được quyền lợi của người tiêu dùng là vấn đề

rất cần được quan tâm.

Hiện nay Luật bảo vệ người tiêu dùng năm 2010 (có hiệu lực từ ngày

01/7/2011), trong đó có đưa ra một số quy định về hợp đồng theo mẫu, tuy nhiên

các quy định này dường như chỉ quan tâm đến các hợp đồng giao kết theo phương

thức truyền thống mà chưa tính đến hợp đồng điện tử.

Như vậy, pháp luật hiện hành còn thiếu những quy định cần thiết để thiết lập

quy tắc và chuẩn mực pháp lý cho các hợp đồng điện tử theo mẫu được giao kết qua

website, nhằm nâng cao tính minh bạch của môi trường giao dịch, qua đó góp phần

cân bằng và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia.

2.2.3. Rủi ro về công chứng hợp đồng điện tử

Như chúng ta đã biết vấn đề công chứng có vai trò rất quan trọng trong việc

58

bảo đảm an toàn pháp lý đối với các hợp đồng, giao dịch dân sự, kinh tế… bằng

việc chứng nhận tính xác thực của hợp đồng, giao dịch, hoạt động công chứng mang

lại cho các hợp đồng, giao dịch đó một hiệu lực đặc biệt – hiêu lực thi hành và giá

trị chứng cứ trong trường hợp xảy ra tranh chấp.

Trong giao kết hợp đồng điện tử các bên tham gia có thể trao đổi, đàm phán,

thỏa thuận về nội dung của hợp đồng và ký kết hợp đồng từ xã thông qua phương

tiện điện tử mà không phải trực tiếp gặp nhau. Vấn đề đặt ra là khi các bên có yêu

cầu công chứng hợp đồng điện tử, giao dịch điện tử chúng ta có công chứng hay

không, công chứng thì công chứng như thế nào?

Có ý kiến cho rằng, trong giao dịch điện tử việc nhận dạng các bên đương

sự, chữ ký, và thậm chí là con dấu của họ…đều đã được số hóa và bằng công nghệ

hiện đại, người ta hoàn toàn có thể chứng minh trước Tòa án hoặc trước cơ quan có

thẩm quyền về nội dung của hợp đồng, giao dịch mà họ đã ký kết. Và khi tất cả các

công đoạn, phần việc để thực hiện một hợp đồng, giao dịch (bao gồm cả khâu ký

kết có thể thực hiện trên mạng), thì việc tham gia của công chứng viên vào hợp

đồng, giao dịch này là không cần thiết.

Ngược lại có quan điểm cho rằng, cho dù số lượng hợp đồng, giao dịch điện

tử được thực hiện ngày càng nhiều thì nó cũng không thể thay thế hoàn toàn hình

thức giao dịch theo kiểu truyền thống. Mặt khác, trên thực tế không phải tất cả các

chủ thể tham gia giao kết hợp đồng điện tử đều có điều kiện đăng ký sử dụng dịch

vụ chữ ký số để giúp đảm bảo an toàn về mặt pháp lý trong quá trình thực hiện giao

dịch của mình.

Do đó, việc tồn tại và hơn nữa là tiếp tục phát huy vai trò của công chứng

viên trong các giao dịch điện tử là điều không phải bàn cãi. Thêm vào đó trong giao

dịch điện tử, với chức năng là một nhà tư vấn, thông qua việc sử dụng các máy tính

đã nối mạng, Công chứng viên vẫn hoàn toàn có thể tham gia góp ý, tư vấn cho các

bên tham gia giao kết hợp đồng, giao dịch thể hiện ý chí của mình một cách hợp

pháp. Và đặc biệt bằng công cụ điện tử, công chứng viên vẫn có thực hiện chức

năng cơ bản và quan trọng nhất của mình là thay mặt nhà nước ghi nhận những thỏa

59

thuận cuối cùng của các bên với tư cách là một người làm chứng ngay thẳng và

chung thực. Như vậy có thể khẳng định rằng Công chứng có vai trò quan trọng

trong các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại…nhất là các giao dịch mà pháp luật

bắt buộc phải có sự tham gia chứng kiến của công chứng viên, cho dù các giao dịch

này được thể hiện dưới hình thức giao dịch điện tử. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với

ý kiến này.

Ở Việt Nam vấn đề công chứng các giao dịch, hợp đồng điện tử vẫn đang bị

bỏ ngỏ. Với sự phát triển nhanh chóng của các giao dịch điện tử như hiện nay, thì

nhu cầu chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng điện tử của các bên

tham gia là điều cần thiết. Để thiết chế công chứng có thể đáp ứng được những nhu

cầu chính đáng, hợp pháp của công dân và tổ chức, thì việc nghiên cứu, tham khảo

kinh nghiệm của nước ngoài về mô hình tổ chức và hoạt động của công chứng đối

với loại hình giao dịch này là cần thiết. Đây là vấn đề nếu không được giải quyết tốt

rất có thể sẽ trở thành lực cản đối với giao kết hợp đồng điện tử. Bởi trong giao kết

hợp đồng điện tử luôn tiềm ẩn một mức độ rủi ro đáng kể và công chứng viên được

hi vọng có thể trở thành một trong những tác nhân quan trọng góp phần quản lý rủi

ro về mặt pháp lý.

2.2.4. Khách hàng bị lộ thông tin cá nhân trong khi giao kết hợp đồng điện

tử

Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ thông tin các

doanh nghiệp, người bán hàng có thể thu thập được nguồn thông tin nhanh chóng,

chính xác, kịp thời với chi phí thấp, giúp doanh nghiệp và người bán hàng triển khai

hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn, nâng cao năng lực cạnh tranh trong môi trường

kinh doanh toàn cầu ngày càng khắc nghiệt. Nếu như trước đây, việc tiếp cận, thu

thập, tổng hợp và phân tích thông tin khách hàng thường gặp nhiều khó khăn, mất

thời gian và tốn kém thì với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và

giao dịch điện tử, thì giờ đây người bán hàng có thể thực hiện công việc này nhanh

chóng và với chi phí rất thấp. Tuy nhiên, cùng với sự tiện lợi đó, những vi phạm

liên quan đến thông tin cá nhân cũng ngày một nhiều hơn, gây tâm lý e ngại cho các

60

cá nhân, tổ chức khi tham gia giao dịch điện tử.

Do đặc thù của giao dịch điện tử là được thực hiện hoàn toàn trên môi trường

mạng, các đối tác thực hiện giao dịch mua bán, thanh toán, nhận hàng mà không

phải gặp mặt trực tiếp, nên nhu cầu về thông tin cá nhân là rất lớn, bao gồm cả

những thông tin riêng tư, nhạy cảm nhất. Bên cạnh đó, nhiều công nghệ hiện đại

như cookies, phần mềm gián điệp, định vị toàn cầu, và các cơ sở dữ liệu số hóa

cũng cho phép các doanh nghiệp chuyên kinh doanh trên Internet có thể dễ dàng thu

thập và xử lý thông tin cá nhân phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau. Các tổ chức

quảng cáo trực tuyến, cũng luôn đẩy mạnh hoạt động thu thập, thiết lập, thậm chí

kinh doanh các hồ sơ thông tin về người tiêu dùng. Thông tin cá nhân đã và đang

trở thành thứ hàng hóa có giá trị kinh doanh trên thị trường. Cá nhân, người tiêu

dùng khó có thể hình dung hết được những nguy cơ thông tin cá nhân của mình bị

khai thác bất hợp pháp khi tham gia giao dịch, mua bán trên môi trường mạng.

Cho đến thời gian gần đây, khái niệm bảo vệ thông tin cá nhân trên môi

trường điện tử vẫn còn là một vấn đề nan giải ở Việt Nam. Người dân, doanh

nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước vẫn còn nhiều bỡ ngỡ với khái niệm này. Tuy

nhiên, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và giao dịch điện tử,

đặc biệt là sự xâm nhập sâu rộng của Internet vào mọi mặt đời sống xã hội, những

tác động tiêu cực của việc sử dụng thông tin cá nhân bất hợp pháp đã ngày càng trở

nên rõ ràng hơn. Thực tế này đã khiến cho vấn đề bảo vệ thông tin cá nhân trở thành

một chủ đề lớn, thu hút sự quan tâm rộng rãi của các cơ quan quản lý nhà nước,

doanh nghiệp và cả xã hội.

Trước tình trạng trên, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực đưa các quy định liên

quan đến bảo vệ thông tin cá nhân vào các văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên,

vẫn chưa có một đạo luật riêng, toàn diện về bảo vệ thông tin cá nhân. Bên cạnh đó,

việc thực thi các quy định của pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân khi thực hiện

giao dịch điện tử thời gian qua vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định. Nguy cơ bị

xâm phạm và lạm dụng thông tin cá nhân luôn tiềm ẩn. Đây là một trong những rào

61

càn không nhỏ đối với việc đẩy mạnh ứng dụng giao dịch điện tử trên tất cả các lĩnh

vực của đời sống xã hội. Trong giao kết hợp đồng nổi cộm một số hành vi vi phạm

thông tin cá nhân như sau:

- Thứ nhất, sử dụng trái phép địa chỉ Email.

Một trong những hình thức vi phạm thông tin cá nhân rất phổ biến trong thời

gian qua là việc thu thập địa chỉ thư điện tử cá nhân trái phép để phục vụ cho nhiều

mục đích khác nhau, từ quảng cáo trực tuyến đến bán các danh sách này cho cá

nhân, tổ chức có nhu cầu. Với các công nghê hiện đại, hiện nay việc thu thập địa chỉ

thư điện tử tương đối dễ dàng. Việc nhiều cá nhân, doanh nghiệp công khai rao bán

hàng triệu địa chỉ thư điện tử đang gây tác động tiêu cực tới hoạt động quảng cáo

điện tử, gây bất lợi cho người tiêu dùng, làm giảm sút niềm tin của cộng đồng khi

tham gia giao dịch điện tử.

Bất kỳ ai sử dụng hộp thư điện tử cũng đều cảm thấy phiền phức vì những

thư gửi hàng loạt có nội dung quảng cáo, tiếp thị, chào hàng hoặc đem đến những

thông tin mà phần lớn trong số đó người đọc không quan tâm. Sự phát tán thư rác là

hệ quả của việc thông tin cá nhân (trong trường hợp này là địa chỉ thư điện tử) bị vi

phạm. Nhiều người không thể ngờ rằng, chính địa chỉ Email mà mình cung cấp khi

thực hiện giao dịch điện tử một ngày nào đó sẽ trở thành món hàng được mua đi,

bán lại. Sự tràn ngập thư rác chào hàng, quảng cáo, không chỉ gây ra sự khó chịu,

bức xức và phiền hà cho chủ hộp thư điện tử, mà còn ảnh hưởng đến hiệu quả xử lý

công việc, tắc nghẽn đường truyền, làm quá tải hộp thư và nhiều khi còn xóa sạch

dữ liệu máy tính do những thư này có đính kèm virut.

Thứ hai, ăn cắp, lừa đảo lấy thông tin cá nhân.

Trong giao kết hợp đồng điện tử, sự e ngại lớn nhất là bị mất các thông tin cá

nhân liên quan đến tài khoản cá nhân hoặc các thông tin về giao dịch sử dụng thẻ tín

dụng trong quá trình diễn ra giao dịch. Thanh toán điện tử khi giao kết hợp đồng là

một phương thức hiện đại, khá tiện lợi, nhưng lại là một trong những nguy cơ tiềm

ẩn rủi ro và là một bài toán khó đối với cả người tiêu dùng và các cơ quan chức

năng ở nước ta hiện nay. Lợi dụng điều đó, nhiều đối tượng tượng tội phạm đã thực

62

hiện các vụ ăn cắp, lừa đảo lấy thông tin tài khoản của cá nhân hoặc doanh nghiệp

để rút tiền hoặc mua bán hàng hóa kiếm lợi phi pháp. Các tệp chứa dữ liệu tài khoản

của khách hàng thường là những mục tiêu hấp dẫn đối với tin tặc khi tấn công vào

các website. Ngoài ra, chúng còn có thể đột nhập vào các website thương mại điện

tử hoặc lập ra các website giả mạo để lừa đảo, lấy cắp các thông tin cá nhân của

khách hàng như tên, địa chỉ, email, số điện thoại. Với những thông tin này chúng

có thể mạo danh khách hàng thiết lập các tài khoản tín dụng mới nhằm thực hiện

những giao dịch bất chính. Đây đang là hiện tượng tội phạm khá nổi cộm ở nước ta

hiện nay. Ngoài ra một số đói tượng làm việc trong lĩnh vực ngân hàng còn lấy cắp

mật khẩu cá nhân của người có thẩm quyền hoặc lợi dụng các kẽ hở trong quản lý

đê thực hiện các hanh vi phạm pháp, chiếm đoạt tiền của ngân hàng.

Thông tin cá nhân dễ bị chiếm đoạt và sử dụng trái phép trên môi trường

mạng kéo theo những hệ quả đáng tiếc có thể xảy ra đã tạo ra tâm lý e ngại cho

người tiêu dùng, đang là một trong những trở ngại lớn đối với sự phát triển của giao

kết hợp đồng điện tử qua Internet ở nước ta hiện nay. Vì vậy bên cạnh những biện

pháp về mặt kỹ thuật thì việc hoàn thiện và thực thi có hiệu quả các quy định của

pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân trên môi trường mạng là một trong những giải

pháp quan trọng để thúc đẩy giao dịch điện tử phát triển và tạo niềm tin để cá nhân,

tổ chức tận dụng tất cả những lợi ích mà Internet mang lại.

2.2.5. Chưa có quy định cụ thể về giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nước

ngoài.

Tương tự như với các hợp đồng truyền thống, các văn bản pháp luật hiện

hành của các nước và Việt Nam, khi quy định về giao kết và thực hiện hợp đồng,

đều có những quy định giành riêng cho hợp đồng được giao kết với các cá nhân và

pháp nhân nước ngoài. Bộ luật dân sự năm 2015 đã dành Phần thứ bảy của Bộ luật

để quy định về những vấn đề dân sự có yếu tố nước ngoài. Luật Thương mại Việt

Nam năm 2005 cũng có những quy định về thương nhân nước ngoài hoạt động tại

Việt Nam (mục 3 Chương 1); hoặc về mua bán hàng hóa quốc tế (Điều 27) và xuất,

nhập khẩu hàng hóa (Điều 28, Điều 29, Điều 30, Điều 31…), trong khi có cả 8

63

Chương và 54 điều khoản của Luật Giao dịch điện tử năm 2005 lại đều không có

một điều khoản nào về giao dịch điện tử, hoặc hợp đồng điện tử có yếu tố nước

ngoài. Luật Giao dịch điện tử năm 2005 quy định chỉ một điều duy nhất về thừa

nhận chữ ký điện tử và chứng thư điện tử nước ngoài, đó là khoản 1 Điều 27:

Nhà nước công nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử hoặc

chứng thư điện tử nước ngoài nếu chữ ký điện tử hoặc chứng thư

điện tử đó có độ tin cậy tương đương với độ tin cậy của chữ ký điện

tử và chứng thư điện tử theo quy định của pháp luật. Việc xác định

mức độ tin cậy của chữ ký điện tử và chứng thư điện tử nước ngoài

phải căn cứ vào các tiêu chuẩn quốc tế đã được thừa nhận, điều ước

quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên

và các yếu tố có liên quan. [21, Điều 27(1)].

Vậy như thế nào được gọi là có độ tin cậy tương đương giữa chứ ký điện tử

nước ngoài với chữ ký điện tử theo quy định của pháp luật? Những tiêu chuẩn quốc

tế đã được thừa nhận về vấn đề này là những tiêu chuẩn như thế nào? Những tiêu

chuẩn nào đã được điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã là

thành viên công nhận? Hàng loạt những câu hỏi này cho đến nay chưa có được câu

trả lời.

Điều đáng lưu ý hơn nữa là Điều 27 khoản 2 Luật giao dịch điện tử năm

2005 lạ quy định rằng: “ Chính phủ quy định cụ thể về việc thừa nhận chữ ký điện

tử và chứng thư điện tử nước ngoài”[21, Điều 27(2)]. Cho đến nay Chính phủ vẫn

chưa có quy định cụ thể về vấn đề này. Và do đó, các doanh nghiệp nước ngoài, các

doanh nghiệp Việt Nam muốn giao kết hợp đồng điện tử với đối tác nước ngoài vẫn

chưa có quy định cụ thể, rõ ràng là điều này thật sự sẽ gây khó khăn cho các doanh

nghiệp Việt Nam khi họ giao kết và thực hiện các hợp đồng điện tử với các đối tác

nước ngoài.

2.2.6. Chưa có quy định cụ thể hướng dẫn giải quyết tranh chấp liên quan

đến giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử.

Nhìn chung, tuy nhiên Luật Giao dịch điện tử năm 2005, một văn bản được

64

coi là quan trọng nhất nhằm hình thành khung pháp lý ban đầu cho thương mại điện

tử nói chung và cho giao kết hợp đồng điện tử nói riêng ở Việt Nam đã được ban

hành nhưng nhiều nội dung trong Luật này còn chưa được cụ thể, chưa đủ tạo cơ sở

cho việc giải quyết các tranh chấp phát sinh, chưa tạo được niềm tin cho doanh

nghiệp và người tiêu dùng khi họ muốn tham gia giao kết hợp đồng điện tử.

Vấn đề là ở chỗ, không phải hợp đồng điện tử được giao kết xong rồi được

xếp vào ngăn kéo. Ngược lại, điều mà các chủ thể giao kết hợ đồng điện tử quan

tâm là hợp đồng điện tử đã được giao kết thì phải được thực hiện đầy đủ. Trong

trường hợp có một bên vi phạm thì bên kia phải có cơ chế bảo vệ các quyền lợi của

mình. Một trong những cơ chế đó là cơ chế giải quyết tranh chấp về giao kết và

thực hiện hợp đồng điện tử. Đáng tiếc là Luật giao dịch điện tử năm 2005 còn quy

định rất chung chung, rất sơ sài về vấn đề này. Luật chưa có hướng dẫn cụ thể về

phương thức giải quyết tranh chấp liên quan đến giao kết và thực hiện hợp đồng

điện tử. Luật chưa có quy định về các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp

phát sinh từ các hợp đồng điện tử điện tử được giao kết giữa các doanh nghiệp Việt

Nam với các doanh nghiệp nước ngoài; Luật chưa có quy định cũng như chưa có

hướng dẫn cụ thể về các chế tài được áp dụng khi có sự vi phạm hợp đồng điện tử,

đặc biệt là chưa quy định chế tài đối với hành vị lợi dụng phương thức kinh doanh

này để lừa đảo doanh nghiệp hoặc người tiêu dùng.

Luật Công nghệ thông tin (được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2006, có hiệu

lực từ ngày 01/01/2007 có đưa ra ba điều, Điều 75, 76, 77) vê giải quyết tranh chấp

và xử lý vi phạm nhưng, những quy định này chỉ hướng dẫn giải quyết tranh chấp

về công nghệ thông tin; giải quyết tranh chấp về đăng ký, sử dụng tên miền quốc

gia Việt Nam, Luật chưa có quy định cụ thể về cơ chế giải quyết tranh chấp liên

quan đến giao kết hợp đồng điện tử chung và giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố

nước ngoài nói riêng.

Đó là những điểm thiếu sót của Luật giao dịch điện tử Việt Nam năm 2005

nói riêng và khung pháp lý về giao kết hợp đồng điện tử ở Việt Nam nói chung.

Những thiếu sót này đã làm cho khung pháp lý về giao kết hợp đồng điện tử kể cả

65

hợp đồng thương mại điện tử của Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển

thương mại điện tử điện tử nói chung và giao kết hợp đồng điện tử nói riêng trong

điều kiện hội nhâp kinh tế quốc tế. Vì vậy, việc hoàn thiện khung pháp lý của Việt

Nam về giao kết hợp đồng điện tử là yêu cầu bức xúc và cấp bách.

2.2.7. Những quy định hướng dẫn giao kết hợp đồng điện tử chưa đầy đủ,

chưa cụ thể.

Pháp luật Việt Nam hiện hành đã đề cập đến một vài khía cạnh của thương

mại điện tử nhưng chưa đủ cụ thể để điều chỉnh các giao dịch thương mại điện tử và

các vấn đề phát sinh từ các giao dịch đó, đặc biệt là từ việc giao kết hợp đồng điện

tử. Hoạt động thương mại điện tử nói chung và giao kết hợp đồng điện tử nói riêng

mang rất nhiều điểm đặc thù, rất khác nhay với các hoạt động thương mại và việc

giao kết hợp đồng truyền thống. Vì vậy, ngoài những quy định hàm chứa trong các

văn bản quy phạm thương mại và pháp luật về hợp đồng nói chung, cần có những

quy định cụ thể, đầy đủ hơn hướng dẫn giao kết hợp đồng điện tử.

Luật giao dịch điện tử năm 2005 đã được ban hành. Tuy nhiên, nếu chỉ với 6

điều khoản quy đinh về giao kết hợp đồng điện tử thì trong thựa tiễn sẽ rất khó triển

khai việc giao kết, thực hiện, cũng như giải quyết tranh chấp phát sinh. Có rất nhiều

vướng mắc trong quá trình thực hiện hợp đồng điện tử như việc giả mạo chữ ký,

hoặc dấu, bằng cách scan để đưa vào hợp đồng điện tử, sẽ được giải quyết như thế

nào? Nếu đưa ra trọng tài thì trọng tài không có chức năng điều tra việc giả mạo

này. Nếu đưa ra Tòa án thì không thể được, bởi lẽ theo Điều 52 Luật giao dịch điện

tử năm 2005, việc giải quyết tranh chấp trong giao dịch điện tử được quy định như

sau:

1. Nhà nước khuyến khích các bên có tranh chấp trong giao

dịch điện tử giải quyết thông qua hòa giải;

2. Trong trường hợp các bên không hòa giải được thì thẩm

quyền, trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp về giao dịch điện tử được

66

thực hiện theo quy định của pháp luật. [21, Điều 52].

Theo quy định của pháp luật nào? Với quy định này không hiểu cơ quan nào

(tòa án hay trọng tài) sẽ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp? một quy định thật

chung chung, mơ hồ và không rõ ràng.

2.2.8. Quyền lợi của người tiêu dùng có nguy cơ bị vi phạm – thế yêu của

một bên trong giao kết hợp đồng điện tử

Trong giao kết hợp đồng điện tử, người tiêu dùng luôn ở thế yếu, xuất phát

từ chính phương thức giao kết hợp đồng do phải sư dụng các biện pháp liên lạc từ

xa (điện thoại, email, fax, chat room..).

Đặc điểm này là nguyên nhân gây ra bất bình đẳng giữa các bên: một bên giao

kết hợp đồng – người tiêu dùng có thể thiếu thông tin về tình hình thực tế hay luật

về quan hệ hợp đồng. Dễ dàng thấy rằng khi mua một mặt hàng bất kì (quần áo

chẳng hạn) thông qua 1 trang web, người tiêu dùng không có dịp kiểm tra màu sắc,

chất liệu hay kích cơ quần áo như khi mua ở một trung tâm thương mại, có thể trực

tiếp thử, sờ vào mặt hàng hay giơ ra ánh sáng. Vì vậy, sẽ có rủi ro khi kí kết hợp

đồng, sự đồng ý của người tiêu dùng sẽ không rõ rằng như khi kí kết hợp đồng có

sự hiện diện của các bên. Ở một cấp độ thấp hơn, việc mua hàng thiếu cân nhắc

cũng rất đáng ngại, khi đó người tiêu dùng sẽ không suy nghĩ chin chắn trước khi kí

kết hợp đồng như trong giao dịch truyền thống. Vị thế của các bên giao kết hợp

đồng cũng là lí do khiến người tiêu dùng từ xa ở thế yếu: đối với hợp đồng gia

nhập, người tiêu dùng không có quyền đưa ra ý kiến bình luận.

Mặc dù có sự bất bình đẳng giữa các bên, có tình trạng bất cân xứng về

thông tin và khả năng thương lượng giữa các bên, quy trình, phương thức giao kết

hợp đồng điện tử có khác biệt, nhưng không phải “cư dân mạng” nào cũng nắm rõ.

Do đó, cần thiết phải có sự can thiệp của pháp luật để bảo vệ quyền lợi người tiêu

dùng – bên yếu thế trong quan hệ hợp đồng điện tử.

Sự thành công của hợp đồng điện tử phụ thuộc vào việc xây dựng một môi

67

trường giao dịch thu hút cũng như an toàn đối với các bên tham gia. Điều này đặc

biệt đúng khi nói tới khía cạnh bảo vệ người tiêu dùng. Một yếu tố quan trọng để

tạo môi trường cho lòng tin và sự tín nhiệm trong giao kết hợp đồng điện tử là phải

bảo vệ được người tiêu dùng. Các bên tham gia giao kết hợp đồng điện tử qua mạng

Internet không nhất thiết hay không thể gặp mặt nhau. Thông thường, người tiêu

dùng không biết rõ các thông tin về hàng hóa, dịch vụ được cung cấp như người bán

hàng, khả năng chịu rủi ro sẽ cao hơn, do đó cần có những quy định pháp luật bảo

vệ họ.

Về vấn đề này, đầu tiên phải kể đến Luật Công nghệ thông tin năm 2006.

Khoản 2 Điều 30 Luật này quy định khi thực hiện việc kinh doanh trên mạng, một

website bán hàng phải bảo đảm các yêu cầu:

a) cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin về hàng hóa, dịch vụ, điều

kiện giao dịch, thủ tục giải quyết tranh chấp và bồi thường thiệt hại;

b) cung cấp cho người tiêu dùng thông tin về phương thức thanh toán

an toàn và tiện lợi trên môi trường mạng và

c) công bố các trường hợp người tiêu dùng có quyền hủy bỏ, sửa đổi

thỏa thuận trên môi trường mạng.[23, Điều 30(2)]

Trừ trường hợp các bên liên quan có thoả thuận khác, tổ chức, cá nhân bán

hàng hóa, cung cấp dịch vụ phải cung cấp các thông tin sau đây cho việc giao kết

hợp đồng:

a) trình tự thực hiện để tiến tới giao kết hợp đồng trên môi trường

mạng;

b) biện pháp kỹ thuật xác định và sửa đổi thông tin nhập sai;

c) việc lưu trữ hồ sơ hợp đồng và cho phép truy nhập hồ sơ đó. Khi

đưa ra các thông tin về điều kiện hợp đồng cho người tiêu dùng, tổ

chức, cá nhân phải bảo đảm cho người tiêu dùng khả năng lưu trữ và

68

tái tạo được các thông tin đó [23, Điều 31(1)].

Một thực tế trong giao dịch điện tử là mọi người thường vội vã nhấp nút

“Gửi” khi thực ra họ chưa định làm thế. Nhiều người giao kết hợp đồng qua mạng

chắc chắn đã từng gặp trường hợp nhập thông tin vào mẫu trên website mà sai về

mọi thứ, từ lỗi chính tả đến số lượng và món đồ định mua. Những lỗi này thường

mang tính khách quan, thể hiện sự không thống nhất giữa thao tác bên ngoài với ý

chí bên trong của người mua. Để đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng trong những

trường hợp như thế này, Luật Công nghệ thông tin năm 2006 đưa ra biện pháp tại

Điều 32:

Trường hợp người mua nhập sai thông tin gửi vào trang thông tin

điện tử bán hàng mà hệ thống nhập tin không cung cấp khả năng sửa

đổi thông tin, người mua có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng

nếu đã thực hiện các biện pháp sau đây:

1. Thông báo kịp thời cho người bán biết về thông tin nhập sai của

mình và người bán cũng đã xác nhận việc nhận được thông báo đó;

2. Trả lại hàng hoá đã nhận nhưng chưa sử dụng hoặc hưởng bất kỳ

lợi ích nào từ hàng hóa đó.[23, Điều 32]

Giải pháp tương tự cũng được quy định tại Điều 15 Nghị định số Nghị định

số 57/2016/NĐ – CP ngày 09/6/2016 về thương mại điện tử khi cho phép cá nhân

mắc phải lỗi nhập thông tin khi giao tiếp với một hệ thống thông tin tự động có thể

rút bỏ phần chứng từ điện tử có lỗi.

Tuy nhiên, có thể nhận thấy các quy định nêu trên mới chỉ là quy định khái

quát, mang tính nguyên tắc, để đi vào cuộc sống thì cần phải có những quy định cụ

thể, chi tiết hơn. Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thương mại điện tử, Bộ

Công thương đã xây dựng và ban hành Thông tư số 09/2008/TT-BCT ngày

21/7/2008 hướng dẫn việc cung cấp thông tin và giao kết hợp đồng trên website

thương mại điện tử nhằm đáp ứng các nhu cầu nói trên của thực tiễn kinh doanh.

69

Thông tư được xây dựng theo những quan điểm chủ yếu sau:

- Thông tư chỉ điều chỉnh những vấn đề mang tính đặc thù của việc giao kết

hợp đồng trên website thương mại điện tử, còn việc thực hiện hợp đồng được điều

chỉnh bởi pháp luật chung về hợp đồng (cũng như hoạt động kinh doanh của doanh

nghiệp phải tuân thủ pháp luật chung về thương mại);

- Thông tư điều chỉnh việc giao kết hợp đồng trên website thương mại điện

tử giữa thương nhân với khách hàng (là cá nhân hoặc tổ chức). Các giao dịch giữa

cá nhân và cá nhân là giao dịch dân sự, không thuộc phạm vi điều chỉnh của Thông

tư. Mục tiêu của Thông tư là đảm bảo sự cân bằng lợi ích giữa các bên tham gia

giao kết hợp đồng trên website thương mại điện tử do khách hàng thường ở thế bất

lợi hơn trong việc tiếp cận thông tin và bị động hơn trong việc thỏa thuận các điều

kiện hợp đồng;

- Thông tư đưa ra một khung quy định chung về những thông tin cần được

cung cấp và quy trình giao kết hợp đồng trên các website thương mại điện tử nhằm

bảo vệ lợi ích tối thiểu cho khách hàng. Thương nhân là bên chiếm ưu thế hơn trong

việc đề ra các điều khoản của hợp đồng, do đó có thể chủ động áp dụng những biện

pháp nhằm bảo vệ lợi ích của mình khi giao dịch với khách hàng trên website

thương mại điện tử.

Dựa trên những yếu tố đặc thù của môi trường mạng, Thông tư số

09/2008/TT-BCT quy định về một quy trình giao kết hợp đồng tiêu biểu qua

website thương mại điện tử, qua đó giúp phân định phạm vi trách nhiệm của mỗi

bên trong các giao dịch này, đồng thời giảm bớt sự bất bình đẳng giữa khách hàng

và thương nhân trong giao kết hợp đồng.

Bên cạnh những điều khoản về quy trình giao kết hợp đồng, Thông tư số

09/2008/TT-BCT còn quy định cụ thể việc cung cấp thông tin trên các website

thương mại điện tử nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong quá trình giao dịch

với yêu cầu những thông tin này phải: a) rõ ràng, chính xác, dễ tìm và dễ hiểu; b)

được sắp xếp tại các mục tương ứng trên website và có thể truy cập bằng phương

70

pháp trực tuyến; c) có khả năng lưu trữ, in ấn và hiển thị được về sau và d) được

hiển thị rõ đối với khách hàng trước thời điểm khách hàng gửi đề nghị giao kết hợp

đồng [7, Điều 11].

Những thông tin mà thương nhân phải công bố trên website theo quy định

của Thông tư số 09/2008/TT-BCT bao gồm: thông tin về thương nhân và người sở

hữu website; thông tin về hàng hóa, dịch vụ; thông tin về giá cả; thông tin về các

điều khoản giao dịch; thông tin về vận chuyển và giao nhận; thông tin về các

phương thức thanh toán; thông tin đầy đủ và trung thực về việc được chứng nhận

website thương mại điện tử uy tín.

Thông tư số 09/2008/TT-BCT còn dành một mục (Mục IV) quy định một số

vấn đề đặc thù trong bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng khi giao kết hợp đồng trên

website thương mại điện tử, như cơ chế rà soát và xác nhận nội dung hợp đồng; thủ

tục chấm dứt hợp đồng đối với hợp đồng cung ứng dịch vụ trực tuyến dài hạn; giải

quyết tranh chấp liên quan đến các hợp đồng giao kết trên website thương mại điện

tử; bảo vệ thông tin cá nhân của khách hàng trên website thương mại điện tử…

Có thể nhận thấy, các quy định pháp luật hiện hành về bảo vệ quyền lợi

người tiêu dùng trong giao kết hợp đồng điện tử của Việt Nam về cơ bản đã tiếp cận

được xu hướng điều chỉnh pháp luật trên thế giới, như quy định về nghĩa vụ cung

cấp thông tin của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; quy định về cơ

chế rà soát và xác nhận nội dung hợp đồng; quy định về sửa lỗi do nhập sai thông

tin khi giao kết hợp đồng qua mạng; quy định bảo vệ thông tin cá nhân của người

tiêu dùng khi giao kết hợp đồng qua mạng… Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chưa

có quy định cho phép người tiêu dùng có "quyền rút lui khỏi hợp đồng", trả lại hàng

hóa đã mua và không phải bồi thường, khi giao kết hợp đồng qua Internet trong một

thời hạn nhất định như pháp luật của một số nước tiên tiến trên thế giới. Ví dụ như

pháp luật của Pháp, người tiêu dùng có quyền rút lui khỏi hợp đồng trong vòng 7

ngày, không kể ngày lễ và chủ nhật: đối với hàng hóa, tính từ ngày người tiêu dùng

nhận được hàng hóa, nếu đã có thư khẳng định lại của thương nhân qua đường thư

71

điện tử (email); đối với dịch vụ: thời hạn này được tính từ ngày kí kết hợp đồng

hoặc từ ngày thương nhân khẳng định lại thông tin bằng thư điện tử. Trong trường

hợp thương nhân không thực hiện nghĩa vụ khẳng định lại thông tin bằng email, thì

thời hạn mà người tiêu dùng có thể rút lui khỏi hợp đồng là 3 tháng. Đối với hàng

hóa tình từ ngày người tiêu dùng nhận được hàng hóa; đối với dịch vụ tính tư ngày

ký kết hợp đồng. Trong trường hợp người tiêu dùng thực hiện quyền rút lui khỏi

hợp đồng, thương nhân phải hoàn trả lại số tiền đã nhận trong thời hạn tối đa là 30

ngày. Quyền rút lui của người tiêu dùng không áp dụng đối với những hàng hóa

hoặc dịch vụ được sử dụng ngay lập tức như: băng đĩa hình, nhạc; các phần mềm tin

học hay báo chí điện tử.

Quyền rút lui khỏi hợp đồng giúp người tiêu dùng không bị rơi vào thế yếu,

nếu nhận thấy mặt hàng mua từ xa không phù hợp với yêu cầu, người tiêu dùng có

thể thay đổi ý định mà không phỉa chịu phạt.

Bên cạnh đó, các quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao

kết hợp đồng điện tử còn nằm rải rác ở các văn bản khác nhau, khó cho việc tra cứu

và quan trọng hơn, phần lớn các quy định này mới chỉ được quy định trong một văn

bản có hiệu lực pháp lý thấp (Thông tư số 09/2008/TT-BCT), nên hiệu quả điều

chỉnh trong thực tiễn chưa cao. Điều đáng tiếc là trong quá trình xây dựng Luật Bảo

vệ người tiêu dùng, nhiều quy định Thông tư số 09/2008/TT-BTC) được đánh giá là

khá tốt lại chưa được pháp điển hóa, nâng lên thành luật quy định trong Luật Bảo vệ

người tiêu dùng. Chính điều này cũng là nguyên nhân dẫn tới ý thức tuân thủ pháp

luật của các tổ chức, cá nhân, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trên mạng chưa cao,

chế tài chưa đủ mạnh để răn đe.

Sử dụng phương tiện điện tử để giao kết hợp đồng luôn là vấn đề có tính hai

mặt. Bên cạnh những lợi ích không thể phủ nhận như giảm chi phí, tiết kiệm thời

gian, tạo ra nhiều cơ hội, nâng cao khả năng cạnh tranh, thì hợp đồng điện tử cũng

tồn tại rất nhiều rủi ro tiềm ẩn. Từ khi Luật giao dịch điện tử Việt Nam năm 2005 ra

đời, bước đầu đã tạo dựng được khung pháp lý cho giao kết hợp đồng điện tử, tuy

72

nhiên khung pháp lý về hợp đồng điện tử tại Việt Nam hiện này còn sơ sài, thiếu cụ

thể chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Vì vậy việc nhận diện và kiểm soát những rủi

ro có thể phát sinh trong giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử phải được đặc biệt

quan tâm trong thời gian tới cùng với việc hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh vấn

đề này.

CHƢƠNG 3

KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VÀ NGƢỜI TIÊU DÙNG VIỆT NAM

3.1.Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hợp đồng điện tử tại Việt Nam Sự ra đời của Luật giao dịch điện tử năm 2005, cùng với hàng loạt các Nghị

định và các văn bản dưới Luật hướng dẫn áp dụng luật thương mại điện tử. Điều

này cho thấy khung pháp lý về giao kết hợp đồng điện tử đã và đang từng bước

được hoàn thiện hơn. Tuy nhiên trong lĩnh vực thương mại điện tử, việc giao kết

hợp đồng điện tử, khung pháp lý về hợp đồng điện tử nói chung và giao kết hợp

đồng điện tử nói riêng, cho đến nay vẫn còn nhiều bất cập, quy định chưa đầy đủ,

cần phải được sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện. Việc hoàn thiện khung pháp lý cho

giao kết hợp đồng điện tử, trước hết phải đươc bắt đầu từ sự xem xét, tiếp tục sửa

đổi, bổ sung Luật giao dịch điện tử năm 2005.

Sự phát triển của công nghệ thông tin, giao dịch điện tử đã làm thay đổi cách

thức giao dịch, giao kết hợp đồng truyền thống và đem lại những lợi ích to lớn cho

xã hội. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng phải thừa nhận rằng, những rủi ro có thể gặp

trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng trên mạng là hiện thực và việc này

đòi hỏi phải có các giải pháp không chỉ về mặt kỹ thuật mà còn cần phải hình thành

được một khung pháp lý đầy đủ và hoàn thiện. Những kinh nghiệm thực tế trên thế

giới cho thấy, để thúc đẩy giao dịch điện tử phát triển thì vai trò của Nhà nước phải

73

được thể hiện rõ nét trên hai lĩnh vực: cung ứng dịch vụ điện tử và xây dựng một hệ

thống pháp luật đầy đủ, thống nhất và cụ thể để điều chỉnh các quan hệ hợp đồng

điện tử. Nếu như chúng ta thiếu đi một cơ sở pháp lý vững chắc cho hợp đồng điện

tử hoạt động thì các bên tham gia giao kết hợp đồng điện tử sẽ rất lúng túng trong

việc giải quyết các vấn đề có liên quan và về phía các cơ quan nhà nước cũng sẽ rất

khó có cơ sở để kiểm soát được các hoạt động giao kết hợp đồng điện tử.

Hơn thế nữa giao kết hợp đồng điện tử là một lĩnh vực rất mới mẻ cho nên

tạo được niềm tin cho các chủ thể tham gia vào các quan hệ hợp đồng điện tử là một

việc làm có tính cấp thiết mà một trong những yếu tố rất quan trọng là phải tạo ra

được một hành lang pháp lý hoàn thiện, thuận lợi, bảo về được quyề và lợi ích hợp

pháp của các bên tham gia. Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong quá trình xây

dụng pháp luật về hợp đồng điện tử thời gian vừa qua, thì khung pháp luật về hợp

đồng điện tử ở nước ta hiện nay vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập nhất định

đòi hỏi cần phải tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện. Ví dụ như; vấn đề giao kết hợp

đồng điệnt tử qua website theo mô hình C2C, vấn đề giao kết hợp đồng điện tử theo

mẫu trên wesite thương mại điện tử, vấn đề công chứng hợp đồng điện tử, vấn đề

bảo hộ pháp lý đối với tài sản ảo trong các quan hệ hợp đồng, vấn đề ý thức tuân thủ

pháp luật trong giao kết hợp đồng điện tử của các bên tham gia…Đây là những vấn

đề nếu không được giải quyết tốt sẽ trở thành rủi ro cho các bên tham gia giao kết

hợp đồng, là lực cản đối với sự phát triển của hợp đồng điện tử. Theo đó, các giải

pháp để phòng tránh rủi ro trong giao kết hợp đồng điện tử tại Việt Nam bao gồm:

3.1.1. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh, hướng dẫn cụ

thể viêc giao kết hợp đồng điện tử qua website theo mô hình C2C.

Mua bán đấu giá tài sản qua mạng Internet là hoạt động đang diễn ra phổ

biến ở Việt Nam hiện nay. Chừng nào pháp luật về bán đấu giá tài sản trực tuyến

chưa được xây dựng thì cơ sở pháp lý cho việc đảm bảo quyền và lợi ích của các

bên tham gia và động lực thúc đẩy các giao dịch dân sự, thương mại phát triển vẫn

đang bị bỏ ngỏ. Với những quy định tại Bộ luật dân sự năm 2015 và Nghị định số

17/2010/NĐ – CP của Chính phủ ngày 04/3/2010 về đấu giá tài sản, có thể nói pháp

74

luật Việt Nam hiện hành về bán đấu giá tài sản chưa bán sát thực tế cuộc sống, cũng

như chưa thúc đẩy được hoạt động đấu giá một cách mạnh mẽ trên thực tế. Các quy

định của pháp luật về đấu giá tài sản dường như xây dựng cho môi trường truyền

thống mà chưa chú ý tới sự phát triển của công nghệ; chú trọng nhiều hơn đến tài

sản bị buộc phải bán đấu giá và vẫn mang tính thủ tục hành chính mà chưa thực sự

mang bản chất là giao dịch dân sự, thương mại mang tính chất bình đẳng, thỏa

thuận và tự định đoạt. Chính vì vậy trong thời gian tới để thúc đẩy hoạt động đấu

giá phát triển, thúc đẩy sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, pháp luật về đấu

giá tài sản cần hoàn thiện theo hướng tách biệt hai loại đấu giá là: đấu giá bắt buộc

và đấu giá tự nguyện để có quy định riêng phù hợp góp phần bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch, góp phần thúc đẩy sự phát triển các

giao lưu dân sự. Đồng thời mở rộng phạm vi quy định quyền của người bán đấu giá

tài sản và phương thức bán đấu giá tài sản đối với chủ sở hữu tài sản là cá nhân

thông qua mạng Internet.

Bên cạnh đó cần ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể

hướng dẫn, điều chỉnh về quy trình giao kết hợp đồng điện tử qua website giữa các

cá nhân với nhau, về quy trình mua bán tài sản theo hình thức đấu giá qua mạng, về

nghĩa vụ cung cấp thông tin, cơ chế hoạt động của các website thương mại điện tử

theo mô hình C2C, cũng như nghĩa vụ của bên trung gian đã thiết lập trên trang web

cho phép người tiêu dùng mua bán tài sản với nhau theo hình thức đấu giá trực

tuyến.

3.1.2. Xây dựng và ban hành các quy định pháp luật điều chỉnh, hướng

dẫn cụ thể việc giao kết hợp đồng điện tử theo mẫu trên website.

Sự ra đời của hợp đồng theo mẫu đã phá vỡ quan niệm tự do hợp đồng

truyền thống (mặc dù về khía cạnh kinh tế không thể phủ nhận vai trò của nó trong

việc đơn giản hóa quá trình ký kết và tiết kiệm thời gia, công sức cho cả hai bên khi

atham gia quan hệ hợp đồng). Được hình thành không phải trên cơ sở thống nhất ý

chí tự do của các bên, hợp đồng theo mẫu được xem như là sự khước từ nguyên tắc

tự do hợp đồng. Người tiêu dùng bị tước bỏ mọi cơ hội thảo luận, bàn bạc về các

75

điều khoản của hợp đồng đã được một bên mạnh hơn về kinh tế quy định trước.

Như đã trình bày, các hợp đồng theo mẫu điện tử được sử dụng để giao dịch

qua website có 3 dạng là: Hợp đồng nhấp chuột, hợp đồng duyệt web và hợp đồng

gói kèm. Cả ba loại hợp đồng này đều đặt ra câu hỏi cơ bản liên quan tới sự thỏa

thuận do có sự chi phối của yếu tố công nghệ, mà pháp luật Việt Nam hiện hành cần

giải quyết. Để giải quyết vấn đề quan trọng này, việc điều chỉnh pháp luật cần được

tiếp cận từ 2 góc độ: lý thuyết vê sự ưng thuận trong giao kết hợp đồng (i) và bảo vệ

quyền lợi của người tiêu dùng (ii).

(i) Bản chất của hợp đồng phải là sự thống nhất ý chí giữa các bên. Tất cả các

hợp đồng đều là sự thỏa thuận. Về nguyên tắc, hiệu lực của hợp đồng không phụ

thuộc vào các điều kiện về hình thức, thủ tục; hợp đồng có hiệu lực khi các bên đã

đạt được thỏa thuận (lý thuyết ưng thuận), trừ một số trường hợp ngoại lệ. Vì vậy sự

ưng thuận được coi là yếu tố cơ bản, thành tố đầu tiên hình thành hợp đồng, nếu

thiếu không thể hình thành hợp đồng. Trong lĩnh vực hợp đồng, ưng thuận có hai

thành tố chủ yếu, đó là hiểu biết và sự lựa chọn hợp lý. Hai thành tố này cần được

đánh giá khi xem xét sựưng thuận về một hậu quả pháp lý nhất định. Người ưng

thuận trước hết phải có sự hiểu biết hay các thông tin về bản chất và đối tượng của

hợp đồng, có thể cùng với các điều kiện khác, và có quyền lựa chọn ít nhất là có hay

không giao kết hợp đồng. Với cách tiếp cận vấn đề như vậy, pháp luật về hợp đồng

cần đưa ra các quy định riêng đối với việc giao kế từng loại hợp đồng theo mẫu qua

website để đảm bảo yếu tố ưng thuận vân luôn là nền tảng trong việc hình thành

hợp đồng. Cụ thể là:

- Đối vơi hợp đồng nhấp chuột cần quy định: Khi giao kết hợp đồng điện

tử theo dạng nhấp chuột, tổ chức, ca nhân, sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ

phải cho phép bên kia (người tiêu dùng) xem xét toàn bộ hợp đồng trước khi chấp

thuận có giao dịch hay không; đặt phương tiện thê hiện sự đồng ý ở cuối các điều

khoản để yêu cầu người tiêu dùng đọc các điều khoản trước khi ưng thuận giao kết

76

hợp đồng.

Website phải cung cấp một sự lựa chọn rõ ràng giữa chấp thuận hay từ

chối hay từ chối các điều khoản của hợp đồng. Sự lựa chọn này nên xuất hiện vào

giai đoạn cuối khi người tiêu dùng được thể hiện sự ưng thuận của mình.

Trong trường hợp đồng ý với những điều khoản hợp đồng đã công bố,

người tiêu dùng sẽ có quyền tiếp cận bất cứ thứ gì mà hợp đồng đó hứa hẹn. Nếu

không đồng ý với những điều khoản mà hợp đồng đã công bố, người tiêu dùng sẽ

không thể hoàn tất giao dịch và bị từ chối quyền tiếp cận bất cứ thứ gì mà hợp đồng

đó đem lại

- Đối với hợp đồng duyệt web cần quy định các điều kiện để hợp đồng dể

một hợp đồng duyệt web được coi là giao kết và có hiệu lực. Các điều kiện đó là:

+ website phải thông báo một cách đầy đủ, công khai về sự tồn tại cảu hợp

đồng theo mẫu;

+ Người tiêu dùng có cơ hội để xem xét tất cả các điều khoản và toàn bộ

nội dung hợp đồng;

+ Website phải thông báo đầy đủ, rõ ràng về cách thức chấp nhận tham gia

hợp đồng là: Bằng việc truy cập và sử dụng trang web, người tiêu dùng đã thể hiện

sự ưng thuận của mình với các điều khoản được đề xuất và đồng ý tham gia hợp

đồng;

+ Người tiêu dùng truy cập và sử dụng trang web để thực hiện giao dịch

khi đã được thông báo về hình thức chấp nhận tham gia hợp đồng như ở điểm 3 nêu

trên.

- Đối với hợp đồng gói kèm cần quy định:

Tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ qua website phải

thông báo rõ ràng cho người tiêu dùng về việc sử dụng hàng hóa, dịch vụ phải tuân

theo các điều khoản trong hợp đồng gói kèm.

Cho phép người tiêu dùng có quyền rút lui khỏi hợp đồng, trả lại hàng hóa đã mua

và được hoàn lại tiền mà không phải bồi thường, khi không chấp nhận được các

77

điều khoản trong hợp đồng gói kèm trong một thời hạn nhất định.

ii) Với mục tiêu bảo đảm tính công bằng trong quan hệ giữa thương nhân và người

tiêu dùng, pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng của nhiều quốc gia như các quốc gia

thuộc liên minh châu Âu, Canada, Nhật Bản, Hoa Kỳ… cấm thương nhân đưa ra

các điều khoản không công bằng vào hợp đồng của mình với người tiêu dùng. Pháp

luật của các quốc gia này thường nêu khá chi tiết và cụ thể các dangjq uy định được

coi là bất công với người tiêu dùng để người tiêu dùng dễ dàng nhận biết, đánh giá

và yêu cầu thương nhân hoặc cơ quan có thẩm quyền xem xét lại. Một điều khoản

được coi là bất công nếu điều khoản đó nằm trong các hợp đồng theo mẫu do

thương nhân sử dụng, không được đưa ra thương lượng trực tiếp với người tiêu

dùng và taok sự bất cân xứng giữa quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng theo

hướng bất lợi cho người tiêu dùng. Những nội dung kể trên rất nên được quy định

trong pháp luật Việt Nam.

3.1.3. Xây dựng thiết chế công chứng hợp đồng điện tử

Ở nước ta, vấn đề hiện đại hóa hoạt động tư pháp và bổ trợ tư pháp nói chung

cũng như hoạt động công chứng nói riêng đang rất được quan tâm. Hiện nay dưới

sự chủ trì của Bộ Tư pháp, ngành công chứng Việt Nam cũng đang thực hiện dự án

tin học hóa trong chương trình hợp tác quốc tế với ngành công chứng của Cộng hòa

Pháp. Mục tiêu bước đầu của dự án không chỉ là việc đầu tư về trang thiết bị vật

chất (bao gồm cả phần cứng và phần mềm) mà còn đào tạo kỹ năng tác nghiệp trên

máy vi tính cho các Công chứng viên, cán bộ của phòng công chứng. Có thể nói đây

là những bước đi đầu tiên nhằm tạo tiền đề, cơ sở vật chất ban đầu cũng như nhăm

đúc rút kinh nghiệp thực tế cho việc xây dựng công chứng điện tử ở nước ta hiện

nay, đặc biệt là khi Luật giao dịch điện tử được ban hành. Luật giao dịch điện tử

năm 2005 đã xây dựng cơ sở pháp lý cần thiết cho hoạt động công chứng bằng việc

ghi nhận những biện pháp, công cụ điện tử được sủ dụng trong giao dịch điện tử

cũng như giá trị pháp lý của hình thức giao dịch này. Do đó, để thiết chế công

chứng có thể đáp ứng được những yêu cầu chính đáng, hợp pháp của công dân, tổ

78

chức trong thời gian tới, ngay từ bây giờ, chúng ta phải tiến hành nghiên cứu mô

hình tổ chức và hoạt động của công chứng điện tử. Theo đó, muốn thực hiện được

mục tiêu này, chúng ta cần phải đáp ứng được hai yêu cầu cơ bản sau:

Thứ nhất,cần ghi nhận, khẳng định được vị trí, vai trò của hoạt động công

chứng trong xã hội điện tử (hợp đồng điện tử, giao dịch điện tử, thương mại điện

tử…) trong các văn bản quy phạm pháp luật. Một khi đã được pháp luật khẳng định

chính thức về vị trí, vai trò của mình trong các giao dịch điện tử, công chứng điện tử

sẽ có đầy đủ cơ sở pháp lý để phát triển, khẳng định mình cũng như tạo ra hành lang

pháp lý an toàn cho cá nhân, tổ chức khi tham gia giao kết các hợp đồng, giao dịch

bằng phương tiện điện tử. Đó là điều kiện cần.

Thứ hai, điều kiện đủ. Để công chứng điện tử đi vào cuộc sống là phải xây

dựng cơ sở vật chất cần thiết (hạ tầng mạng, chất lượng đường truyền, hệ thống máy

chủ, chi phí rẻ…) và đưa những giải pháp về mặt công nghệ (chữ ký điện tử, con

dấu điện tử, xác định nhận dạng của đương sự bằng các phương tiện điện tử, vấn đề

bảo mật những thông tin liên quan đến giao dịch…)

Ngoài ra, chúng ta cần nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện cơ sở lý luận về

hoạt động công chứng cũng như những yêu cầu đối với hoạt động công chứng nói

chung và công chứng điện tử nói riêng trên cơ sở tham khảo và học hỏi kinh nghiệm

quốc tế.

3.1.4. Xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật riêng về bảo

vệ dữ liệu cá nhân, kết hợp tăng cường bảo đảm an toàn thông tin trong giao kết

hợp đồng điện tử.

Quyền được bảo vệ dữ liệu cá nhân là một quyền còn khá mới mẻ ở Việt

Nam và ít người biết đến. Tuy nhiên, trước sự phát triển của công nghệ thông tin và

Internet, quyền được bảo vệ dữ liệu cá nhân đã trở thành quyền quan trọng không

thể bỏ qua. Điều 1 Luật về tin học và các quyền tự do của Pháp quy định: Tin học

phải phục vụ mọi công dân. Việc phát triển tin học phải được thực hiện trong khuôn

khổ hợp tác quốc tế. Tin học không được vi phạm con người, nhân quyền, đời sống

79

riêng tư, các quyền tự do của con người. Cho đến nay có tổng cộng hơn 50 quốc gia

trên thế giới Luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân, trong đó đa số là các nước phát triển,

nhưng ngày càng có nhiều nước đang phát triển cũng đã ban hành.

Cùng với sự phát triển của giao dịch qua mạng Internet, thì nguy cơ xâm

phạm và lạm dụng thông tin cá nhân cũng diễn ra ngày càng nhiều hơn với tính chất

và mức độ khác nhau. Đây là một rào cản không nhỏ đối với giao kết hợp đồng điện

tử nói riêng và đối với việc đẩy mạnh ứng dụng Iternet trên tất cả các lĩnh vực đời

sống xã hội. Do vậy, việc xây dựng khung pháp lý vềdữliệu cá nhân trong môi

trường mạng là vấn đề có tính cấp thiết đối với mỗi quốc gia nếu muốn tận dụng tối

đa các tiện ích của Internet. Việc xây dựng pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân cần

dựa trên bốn yếu tố cơ bản sau:

-Thừa nhận quyền được bảo vệ dữ liệu cá nhân như là một quyền cơ bản.

- Xây dựng các nguyên tắc về bảo vệ dữ liệu cá nhân, trong đó quy định rõ

các nguyên tắc cần tuân thủ đặc biệt về nghĩa vụ tôn trọng mục đích xử lý dữ liệu,

nghĩa vụ bảo quản dữ liệu, nghĩa vụ bảo đảm an toàn và nghĩa vụ thông tin cho

người có thông tin bị thu thập.

- Quy định cơ chế và chế tài xử phạt trong trường hợp vi phạm nguyên tắc về

bảo vệ dữ liệu cá nhân hoặc vi phạm quyền được bảo vệ dữ liệu cá nhận của người

khác.

- Thành lập một cơ quan bảo vệ dữ liệu cá nhân độc lập, đảm bảo cho việc

tuân thủ các nguyên tắc trong lĩnh vực bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền của mỗi

người được bảo vệ dữ liệu cá nhân. Cơ quan bảo vệ dữ liệu cá nhân phải có thẩm

quyền kiểm tra và áp dụng chế tài khi cần thiết.

Bên cạnh việc xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật riêng

về bảo vệ dữ liệu cá nhân,thì công tác tăng cường bảo đảm an toàn thông tin trong

giao kết hợp đồng điện tử là vấn đề cốt yếu để triển khai hợp đồng điện tử một cách

sâu rộng. Nếu không giải quyết được vấn đề này thì không thể thúc đẩy giao kết

hợp đồng điện tử điện tử phát triển. Do đó phỉa tăng cường triển khai các hoạt động

về an toàn thông tin trong giao dịch điện tử, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát

80

nhằm đảm bảo cho pháp luật về hợp đồng điện tử được thực hiện một cách đầy đủ,

kịp thời. Chủ động đấu tranh phòng, chống, phát hiện tội phạm và các hành vi vi

phạm pháp luật trong giao kết hợp đồng điện tử, tiến hành xử lý nghiêm minh để

răn đe các chủ thể có ý định thực hiện các hành vi tương tự.

Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của an toàn thông tin, quyền lợi,

nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên tham gia giao kết hợp đồng điện tử trong việc

đảm bảo an toàn thông tin, lợi ích của việc sử dụng chữ ký số, và dịch vụ chứng

thực chữ ký số trong giao kết hợp đồng điện tử.

Phát triển cac tổ chức cungc cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số có uy tín; phát

triển các tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực cho website thương mại điện tử.

Khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân ứng dụng các công nghệ bảo mật

tiên tiến để thông tin trao đổi trên môi trường mạng máy tính được đảm bảo an toàn.

Đẩy mạnh hoạt động cấp chứng nhận website thương mại điện tử uy tín; phổ biến

lợi ích của hoạt động này đối với doanh nghiệp và người tiêu dùng; khuyến khích

các tổ chức cấp chứng nhận website thương mại điện tử uy tín hợp tác, trao đổi kinh

nghiệm với các tổ chức cấp chứng nhận website thương mại điện tử uy tín của nước

ngoài.

3.1.5. Ban hành hướng dẫn cụ thể về giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố

nước ngoài

Luật giao dịch điện tử năm 2005 quy định một điều khoản liên quan đến chữ

ký điện tử và chứng thư điện tử nước ngoài. Tuy nhiên không có một quy định nào

liên quan đến giao kết hợp đồng điện tử với đối tác nước ngoài. Trong thực tiễn việc

giao kết hợp đồng điện tử với các bên là đối tác nước ngoài thường có những đặc

điểm và yêu cầu riêng, đặc biệt về mặt pháp lý so với hợp đồng trong nước. Trong

thương mại điện tử cũng vậy mặc dù hợp đồng điện tử mang tính phi biên giới, tính

hiện đại, tính chính xác cao… nhưng nó lại tiềm ẩn nhiều rủi ro. Việc giao kết hợp

đồng điện tử giữa hai doanh nghiệp của hai quốc gia khác nhau khi xảy ra tranh

81

chấp phát sinh lập tức vấn đề đầu tiên cần giải quyết là tranh chấp từ hợp đồng điện

tử đó sẽ được giải quyết bằng pháp luật của quốc gia nào và tiếp đến là cơ quan giải

quyết tranh chấp (tòa án hay trọng tài) của nước nào sẽ có thẩm quyền giải quyết

những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng điện tử đó. Vì vậy, Luật giao dịch điện tử

năm 2005 không quy định vấn đề này thì vấn đề sẽ bế tắc không giải quyết được, do

đó cần bổ sung những quy định cụ thể đối với giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố

nước ngoài.

3.1.6. Bổ sung các quy định cụ thể hơn về giải quyết tranh chấp liên quan

đến việc giao kết và thực hiện hợp đồng

Thứ nhất, Luật giao dịch điện tử năm 2005 qquy định tại Chương VII về giải

quyết tranh chấp và xử lý vi phạm. Với 3 Điều 50, 51,53, Luật mới chỉ quy định về

xử lý vi phạm pháp luật về giao dịch điện tử và giải quyết tranh chấp trong giao

dịch điện tử. Không có quy định nào nói về giải quyết tranh chấp phát sinh từ, hoặc

liên quan đến việc giao kết hợp đồng điện tử. Giao dịch điện tử có thể bao gồm cả

hợp đồng điện tử. Điều 116 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Giao dịch dân sự

là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt

quyền, nghĩa vụ dân sự”[25, Điều 16]. Như vậy, hợp đồng dân sự là một loại hình

giao dịch dân sự. Tuy nhiên, do có những quy định khác biệt liên quan đến hợp

đồng dân sự, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã giành hẳn mục 7 thuộc Chương XVII với

40 điều khoản để hướng dẫn việc giao kết thực hiện và giải quyết tranh chấp từ hợp

đồng dân sự.

Tôi cho rằng hợp đồng dân sự cũng nên có cách tiếp cận như vậy. Ví dụ,

Điều 429 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “ Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa

án giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự là 3 năm, kể từ ngày người có quyền yêu

cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”[25, Điều

492].

Vậy đối với những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng điện tử, thời hiệu khởi

kiện sẽ là bao nhiêu lâu? Vẫn giữa nguyên 2 năm hay ngắn hơn? Thời hiệu khởi

82

kiện áp dụng đối với tranh chấp thương mại cũng được quy định là 2 năm (Điều 319

Luật Thương mại Việt Nam năm 2005). Vậy đối với tranh chấp phát sinh từ hợp

đồng điện tử thì thời hiệu tố tụng sẽ là bao nhiêu ?

Vấn đề này cần phải được quy định rõ ràng trong Luật giao dịch điện tử Việt

Nam 2005 bằng một điều bổ sung mới về thời hiệu tố tụng trong Luật, hoặc bằng

một điều khoản dẫn chiếu tới Bộ luật Dân sự 2015 hoặc tới Luật Thương mại năm

2005,. Không thể để thiếu quy định này trong Luật Giao dịch điện tử hiện hành nếu

muốn nó phát huy đầy đủ hiệu lực trong giao dịch điện tử của của doanh nghiệp và

người tiêu dùng.

Thứ hai, Sửa đổi điều 52 của Luật Giao dịch điện tử năm 2005

Điều 52 quy định: “1. Nhà nước khuyến khích các bên có tranh chấp trong

giao dịch điện tử giải quyết thông qua hòa giải; 2.Trong trường hợp các bên không

hòa giải được thì trình tự, thủ tục, thầm quyền giải quyết tranh chấp về giao dịch

điện tử được thực hiện theo quy định của pháp luật.[21, Điều 52].

Quy định của Điều 52 này vừa không rõ ràng, vừa không cụ thể về mặt pháp

lý. Điều này thể hiện ở chỗ:

Khi có tranh chấp phát sinh, giữa những người bình thường hoặc giữa những

chủ thể của hợp đồng (kể cả hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại), việc đầu

tiên phải làm là tiến hành thương lượng trực tiếp giữa các bên với nhau (còn gọi là

khiếu nại). Phương thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng giữa các bên đã

được pháp luật nhiều nước thừa nhận, đặc biệt là trong kinh doanh thương mại

trong nước cũng như quốc tế. Để việc thương lượng thành công, người đi thương

lượng phải nắm vững và tuân thủ một số thủ tục pháp lý liên quan đến phương thức

giải quyết traanh chấp bằng thương lượng. Nếu giải quyết tranh chấp bằng thương

lượng trực tiếp khong đạt kết quả thì người ta mới tiến hành hòa giải. Hòa giải qua

người trung gian (Mediation) hoặc hòa giải qua người hòa giải (Conciliation). Giải

quyết tranh chấp bằng hòa giải có sự xuất hiện của người thứ ba. Quy trình, thủ tục

giải quyết bằng hòa giải được tiến hành hoàn toàn khác với giải quyết tranh chấp

bằng thương lượng. Vì tầm quan trọng của các phương giải quyết tranh chấp thương

83

mại là rất rõ ràng nên Luật Thương mại Việt Nam năm 2005, đã liệt kê theo thứ tự

từng phương thức :“1. Thương lượng giữa hai bên; 2. Hòa giải giữa các bên do một

cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận làm trung gian hòa giải; 3.

Giải quyết tại Trọng tài hoặc Tòa án.” [22, Điều 317].

Trong đó Điều 52 Luật Giao dịch điện tử Việt Nam năm 2005 quy định thật

mơ hồ, không rõ ràng: hòa giải theo cách thức nào? Giữa ai với ai hay là hòa giải

giữa các bên trước khi ra Tòa án hoặc trọng tài? Nếu không sửa đổi, bổ sung điều

luật này thì các doanh nghiệp tiến hành giao kết hợp đồng điện tử sẽ gặp rất nhiều

khó khăn khi tranh chấp phát sinh.

Khoản 2 điều 52 cũng quy dịnh thật chung chung, mơ hồ: “2.Trong trường hợp các

bên không hòa giải được thì trình tự, thủ tục, thầm quyền giải quyết tranh chấp về

giao dịch điện tử được thực hiện theo quy định của pháp luật”[21, Điều 52(2)]. Đọc

khoản 2 sẽ thấy phát sinh hàng loạt các vấn đề trình tự, thủ tục, thẩm quyền giải

quyết tranh chấp về giao dịch điện tử…thẩm quyền giải quyết của ai? Của hòa giải

viên hay của Tòa án? Hay của trọng tài? Luật không quy định rõ. Cụm từ “ theo quy

định của pháp luật” cũng không rõ ràng: pháp luật nào? Pháp luật về dân sự hay

thương mại?.

Vì vậy, Điều 52 cũng phải được sửa đổi theo hướng phù hợp với các văn bản

pháp luật hiện hành của Việt Nam về giải quyết tranh chấp từ hoặc liên quan đến

giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử.

Thứ ba, bổ sung các quy định về trách nhiệm cụ thể do vi phạm hợp đồng điện tử.

Luật Giao dịch điện tử năm 2005 chỉ quy định về trách nhiệm của cơ quan

nhà nước trong trường hợp hệ thống thông tin điện tử bị lỗi (Điều 42); trách nhiệm

của các bên hữu quan trong việc đảm bảo an ninh, an toàn, bảo mật trong giao dịch

điện tử (Chương VI); xử lý vi phạm pháp luật về giao dịch điện tử (Điều 50).

Không có một quy định nào trong luật quy định về trách nhiệm của các bên giao kết

hợp đồng điện tử (ví dụ người bán hoặc người mua) khi họ vi phạm hợp đồng điện

tử đã ký kết. Đây là lỗ hổng của Luật giao dịch điện tử Việt Nam năm 2005, mà nếu

không được bổ sung thêm, việc vi phạm các hợp đồng điện tử đã được giao kết mà

84

không có chế tài xử lý nghiêm khắc sẽ dẫn đến hậu quả là các bên giao kết hợp

đồng điện tử bị thiệt hại sẽ không muốn giao kết hợp đồng điện tử nữa. Họ sẽ quay

về với các hợp đồng truyền thống và vì vậy thương mại điện tử sẽ rất khó phát triển

như chúng ta mong muốn.

Khi bổ sung chế độ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng điện tử, cũng cấn lưu ý

sự khác nhau giữa chế độ trách nhiệm, giữa các chế tài được áp dụng khi có vi

phạm hợp đồng điện tử trong lĩnh vực dân sự với hợp đồng điện tử trong lĩnh vực

thương mại. Bởi vì, Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 đưa ra 7 chế tài cụ thể

mà các bên có thể áp dụng khi có sự vi phạm hợp đồng thương mại. Trong khi đó

Bộ luật Dân sự Việt Nam 2015 không liệt kê 7 chế tài như vậy, ngược lại chỉ quy

định chế tài đối với việc vi phạm từng loại hợp đồng dân sự cụ thể (như hợp đồng

mua bán tài sản. hợp đồng vay tài sản, hợp đồng mượn tài sản…). Chính những

điều này đã tạo ra sự không rõ ràng trong quy định về chế độ trách nhiệm do vi

phạm hợp đồng truyền thống.

Vì vậy, cách sửa đổi, bổ sung hợp lý đối với các quy định liên quan đến vi

phạm hợp đồng điện tử cũng nên đi theo hai hướng: vi phạm hợp đồng điện tử trong

lĩnh vực dân sự sẽ do Bộ luật Dân sự điều chỉnh, còn vi phạm hợp đồng điện tử

trong lĩnh vực thương mại nên giải quyết theo quy định của Luật Thương mại năm

2005. Cách này sẽ tránh được sự đồng nhất các mối quan hệ dân sự với các mối

quan hệ thương mại, vì quan hệ thương mại phải được điều chỉnh bởi những quy

định riêng do mục đích sinh lời của chúng rất khác với mục đích tiêu dùng trong

quan hệ dân sự. Nói cách khác, cần bổ sung vào Luật Giao dịch điện tử Việt Nam

năm 2005 quy định về các loại chế tài được áp dụng khi vi phạm hợp đồng điện tử.

3.1.7. Bổ sung thêm các quy định cụ thể hướng dẫn việc giao kết hợp đồng

điện tử

Vấn đề giao kết hợp đồng điện tử được quy định ở Chương IV với 6 điều, từ

Điều 33 dến Điều 38, ngoài ra còn có các Điều 17, 18, 19 và 20 hướng dẫn về việc

gửi, nhận thông điệp dữ liệu như một quy trình giao kết hợp đồng điện tử. Tuy

nhiên, quy định này mới chỉ là những quy định về giao dịch điên tử và những quy

85

định rất sơ sài về giao kết hợp đồng điện tử. Chỉ với những quy định này, hàng loạt

vấn đề liên quan đến giao kết hợp đồng điện tử vẫn chưa rõ ràng, như: thế nào là

một đề nghị giao kết hợp đồng điện tử chắc chắn? Trong trường hợp người đề nghị

giao kết hợp đồng điện tử đã gửi đề nghị giao kết giao kết hợp đồng điện tử nhưng

sau đó lại muốn thu hồi lại đề nghị đó thì phải làm như thế nào vì các khâu thao tác

liên quan đến giao kết hợp đồng điện tử thường rất nhanh? Thế nào là một chấp

nhận đề nghị giao kết hợp đồng điện tử ? Khi người được đề nghị đã chấp nhận đề

nghị giao kết hợp đồng nhưng có nêu điều kiện hoặc sửa đổi đề nghị đã được gửi tới

thì người này có được coi là đã đưa ra một đề nghị mới như đối với giao kết hợp

đồng truyền thống hay không?... Tất cả những vấn đề này đều chưa được quy định

trong Luật giao dịch điện tử năm 2005, và vì vậy Luật này chưa được coi là đủ cơ

sở pháp lý cho giao kết hợp đồng điện tử. Ngay cả Nghị định số Nghị định số

57/2016/NĐ – CP ngày 09/6/2016 cũng chưa có quy định cụ thể vấn đề này. Rõ

ràng, việc phải bổ sung thêm những quy định cụ thể hướng dẫn việc giao kết hợp

đồng điện tử nói chung và giao kết hợp đồng điện tử trong lĩnh vực thương mại nói

riêng là rất cần thiết.

Để bổ sung những quy định cụ thể về giao kết hợp đồng điện tử, làm cho

Luật giao dịch điện tử năm 2005 mang tính khả thi và thực tiễn, tôi đề nghị bổ sung

vào Chương IV Luật giao dịch điện tử năm 2005 tất cả các quy định hướng dẫn giao

kết hợp đồng điện tử. Cụ thể, bổ sung quy định về khái niệm đề nghị giao kết hợp

đồng điện tử, về thời hạn hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng điện tử, về thay

đổi, rút lại, hủy bỏ và chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng điện tử… Bổ sung quy

định về khái niệm chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng điện tử, về thời hạn trả lời

chấp nhận giao kết hợp đồng điện tử, về nội dung hợp đồng điện tử và điều kiện

một hợp đồng điện tử được coi là vô hiệu. Bên cạnh đó cần tham khảo Luật mẫu

của UNCITRAL về chữ ký điện tử để đưa vào Luật giao dịch điện tử năm 2005

những quy định về chữ ký đối với hợp đồng điện tử có yếu tố nước ngoài.

3.1.8. Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong giao kết hợp đồng điện

86

tử

Sự thành công của hợp đồng điện tử phụ thuộc vào việc xây dựng một môi

trường giao dịch thu hút cũng như an toàn đối với các bên tham gia. Điều này đặc

biệt đúng khi nói tới khía cạnh bảo vệ người tiêu dùng. Một yếu tố quan trọng để

tạo môi trường cho long tin và sự tín nhiệm trong giao kết hợp đồng điện tử đó là

phải bảo vệ người tiêu dùng. Các bên tham gia giao kết hợp đồng điện tử qua mạng

Iternet không nhất thiết hay không thể gặp nhau. Thông thường, người tiêu dùng

không biết rõ các thông tin về hàng hóa, dịch vụ được cung cấp cũng như người bán

hàng, khả năng chịu rủi ro sẽ cao hơn, do đó cần co những quy định pháp luật bảo

vệ họ.

Xuất phát từ thế yếu của người tiêu dùng so với nhà cung cấp dịch vụ, hàng

hóa trong giao kết hợp đồng điện tử, pháp luật Liên minh Châu âu đã đưa ra nhiều

biện pháp để bảo vệ bên ký kết hợp đồng ở thế yếu này (người tiêu dùng) theo

nguyên tắc mức độ bảo vệ trong giao dịch điện tử không thấp hơn so với các giao

dịch truyền thống. Trong các biện pháp đó, đáng chú ý là biện pháp trao cho họ

quyền rút lui khỏi hợp đồng và biện pháp cung cấp nghĩa vụ thông tin, gia tăng các

quy định về hình thức.

Đã có nhiều biện pháp được triển khai để bảo vệ một bên kí kết hợp đồng

chịu ở thế yếu.Tôi nghiêng về biện pháp trao cho họ quyền rút lui khỏi hợp đồng,

tăng cường nghĩa vụ cung cấp thông tin và gia tăng các quy định về hình thức.

Thứ nhất, quyền rút lui khỏi hợp đồng

Nhằm bảo vệ nguyên tắc chấp thuận của người tiêu dùng, Chỉ thị 97/7/CE

ngày 20/5/1997 về bảo vệ người tiêu dùng trong giao kết hợp đồng từ xa (Điều 6)

đã trao cho họ “quyền rút lui khỏi hợp đồng”. Trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ

thời điểm xác định, người tiêu dùng có thể rút lui khỏi hợp đồng mà không phải

chịu phạt hay giải thích nguyên nhân. Nếu người tiêu dùng thực hiện quyền này

theo quy định, nhà cung ứng có nghĩa vụ hoàn trả các khoản tiền đã đặt trước trong

thời hạn ngắn nhất hoặc muộn nhất là 30 ngày. Quyền rút lui khỏi hợp đồng giúp

87

người tiêu dùng không bị rơi vào thế yếu: nếu nhận thấy mặt hàng mua từ xa không

phù hợp với yêu cầu (áo quần không vừa), người tiêu dùng có thể thay đổi ý định

mà không phải chịu phạt hay giải thích nguyên do.

Thứ hai, tăng cường nghĩa vụ cung cấp thông tin

Vì phương thức giao kết hợp đồng đặc biệt – từ xa hay thông qua các phương

tiện điện tử - nên người tiêu dùng rơi vào thế yếu do không có được đầy đủ thông

tin về thực tế hay về pháp luật trong quan hệ hợp đồng. Vì vậy, để người tiêu dùng

có thể tự do và sáng suốt khi chấp thuận giao kết hợp đồng, Chỉ thị số 97/7/CE ngày

20/5/1997 về bảo vệ người tiêu dùng trong giao kết hợp đồng từ xa (Điều 4 và Điêu

5), Chỉ thị số 2003/31/EC về thương mại điện tử (Điều 5, 10 và 11) đã đưa ra các

quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin mà người bán phải tuân theo. Các nghĩa vụ

này chủ yếu liên quan đến danh tính và các thông tin liên quan đến người bán, đối

tượng hợp đồng (mô tả sản phẩm hay dịch vụ, giá cả…) cũng như các quyền của

người tiêu dùng (quyền rút lui khỏi hợp đồng, dịch vụ hậu mãi nếu có hay dịch vụ

bảo hành). Việc phần lớn người tiêu dùng không thành thạo công nghệ thông tin và

nguy cơ sai sót có thể nảy sinh từ đó cũng khiến cơ quan lập pháp Liên minh Châu

Âu yêu cầu người cung cấp dịch vụ, hàng hóa cung cấp cho khách hàng của mình

nhiều thông tin khác nhau, chủ yếu là các bước kỹ thuật cần tiến hành để giao kết

hợp đồng hay các biện pháp kỹ thuật để nhận ra và sửa chữa sai sót khi nhập thông

tin trước khi thực hiện thao tác đặt hàng (Điều 10 Chỉ thị số 2003/31/CE ngày

8/6/2000 về thương mại điện tử.

Thứ ba, gia tăng các yêu cầu về mặt hình thức

Trong số các biện pháp do cơ quan lập pháp Châu âu đề ra nhằm giúp cho

người tiêu dùng đưa ra quyết định rõ rằng, còn có biện pháp gia tăng các yêu cầu về

mặt hình thức (các nội dung mang tính chất thông tin, văn bản và phương thức

truyền thông tin…) Đối với các hợp đồng kí từ xa liên quan đến các dịch vụ tài

chính, nhà cung cấp có nghĩa vụ thông báo cho người tiêu dùng biết điều kiện hợp

đồng cũng như các thông tin khác trên “giấy” hay một loại vật liệu có khả năng bảo

88

quản lâu dài, mà người tiêu dùng có thể nhận được trước khi kí kết hợp đồng từ xa

hay chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Theo Chỉ thị về thương mại điện tử, nhà

cung cấp dịch vụ phải thông báo qua các phương tiện điện tử cho khách hàng biết

đã nhận được đơn đặt hàng của họ, không được chậm trễ nếu không có lí do chính

đáng.

Cùng với sự lên ngôi của xã hội thông tin, câu hỏi được đặt ra là làm thế nào

để thực hiện hiệu quả các quy định về hình thức khi giao dịch qua các phương tiện

điện tử, khi chúng ta đã có truyền thống căn cứ vào văn bản giấy tờ. Về điểm này,

chúng ta biết rằng các nước thành viên Liên minh Châu Âu đã cam kết xóa bỏ các

rào cản về mặt hình thức trong việc giao kết hợp đồng thông qua các phương tiện

điện tử. Yêu cầu này rất có ý nghĩa bởi nguyên tắc về mặt hình thức của hợp đồng là

một cơ chế bảo vệ một bên bị yếu thế mà cơ quan lập pháp thường sử dụng. Quả

vậy, tùy theo từng trường hợp, các yêu cầu về mặt hình thức giúp cung cấp thông

tin cho bên bị yếu thế, lưu ý họ một số thông tin, đảm bảo tính dễ đọc, tính toàn vẹn

và lâu dài của thông tin… Trong khi hành nghề và mở rộng hoạt động, nhà cung cấp

dịch vụ cũng có thể bị thiệt hại do các rào cản này chưa đảm bảo an toàn pháp lí.

Vì vậy, lí thuyết tương đương chức năng này lại được đưa vào các quy định

luật pháp trong nước (tuy nhiên giữa các nước vẫn có sự khác biệt). Lí thuyết này

bắt nguồn từ nhận định rằng các phương thức giao dịch trên giấy tờ nhằm đáp ứng

các quy định về hình thức không thể được sử dụng y nguyên trong trường hợp giao

kết hợp đồng thông qua các phương tiện điện tử, vì như thế sẽ không đảm bảo an

ninh về mặt pháp lí. Nếu muốn thiết lập quan hệ hợp đồng bằng con đường này, cần

phải xác định phương thức triển khai trong môi trường kĩ thuật số. Theo lí thuyết

tương đương chức năng, không có một quy định nào là hình thức văn bản phải được

thực hiện theo một biện pháp kĩ thuật đặc biệt (giấy đối với văn bản viết, nét chữ

riêng và viết tay trực tiếp trên chất liệu đối với chữ kí… ) nhưng có quy định về

chức năng mà hình thức văn bản phải đáp ứng (đảm bảo tính dễ đọc, tính lâu dài,

thậm chí là tính toàn vẹn của thông tin, đối với văn bản viết chẳng hạn) . Hai

phương thưc được tiến hành trong môi trường truyền thống (giấy đối với văn bản

89

viết) và môi trường số (tài liệu ở định dạng pdf ghi lên đĩa CD-ROM được coi là

tương đương vì chúng đáp ứng chức năng tối thiểu về thể thức văn bản (văn bản

viết). Sự tương đương này nghĩa là trên khía cạnh pháp lí, hai hình thức này có hệ

quả như nhau nên có thể thay thế cho nhau được. Hay nói cách khác, thể thức văn

bản quy định được thực hiện trong môi trường số khi phương thức lựa chọn có được

chức năng như yêu cầu.

3.2. Những kiến nghị đối với doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng Việt Nam

trong giao kết hợp đồng điện tử

Trong môi trường xã hội hiện đại, khi mà công nghệ thông tin đang phát

triển một cách nhanh chóng đến từng giờ, với những tần suất lớn. Thì việc giao kết

hợp đồng điện tử là việc rất cần thiết, tuy nhiên như đã phân tích ở hai chương trên

của luận văn thì giao kết hợp đồng điện tử luôn là phương pháp giao kết có tính hai

mặt, bên cạnh đó khung pháp lý về giao kết hợp đồng điện tử chưa cụ thể và hoàn

thiện, vì vậy doanh nghiệp và người tiêu dùng cần phải cẩn trọng khi giao kết hợp

đồng điện tử. Những kiến nghị sau đây xin được chuyển đến doanh nghiệp và người

tiêu dùng Việt Nam.

3.2.1. Giải pháp đối với doanh nghiệp

a) Lưu ý về giá trị pháp lý của Hợp đồng điện tử

Khi giao kết hợp đồng điện tử, để đảm bảo giá trị pháp lý của hợp đồng điện

tử, các Doanh nghiệp Việt Nam là các bên của hợp đồng điện tử cần lưu ý một số

điểm sau:

- Đảm bảo rằng các thỏa thuận là công bằng: Các điều khoản càng phức tạp

thì khi tranh chấp, Tòa án sẽ càng yêu cầu các chứng cứ xác thực nhiều hơn.

- Đọc kỹ các nội dung của hợp đồng điện tử trước khi ký kết: Các bên tham

gia giao kết hợp đồng điện tử cần phải đọc kỹ các nội dung của hợp đồng, đặc biêt

trong trường hợp giá trị hợp đồng lớn. Thông thường, pháp luật thừa nhận giá trị

pháp lý của hợp đồng sau khi các bên đã đồng ý mà không quan tâm đến việc các

90

bên có đọc kỹ hay không. Trong quá trình ký kết hợp đồng nếu trang web cung cấp

thêm đường link tham khảo thì các bên cần click vào và đọc rõ những nội dung

được liên kết đến. Nếu không đọc tất cả thông tin mà trang web cung cấp hoặc liên

kết đến thì rủi ro thuộc về người ký.

- Quy định rõ về hợp đồng điện tử sẽ hình thành: các bên có thể trách khỏi

tranh chấp nếu tuyên bố rõ ràng trong các giao dịch điện tử của mình rằng hợp đồng

cuối cùng ràng buộc các bên sẽ được ký kết dưới hình thức văn bản hay được hình

thành dưới dạng thông điệp dữ liệu sau khi có sự xác nhận đồng ý của các bên. Điều

này tránh tranh chấp giúp các bên tránh tranh chấp về việc khi nào hình thành hợp

đồng điện tử.

- Giá trị hợp đồng điện tử phụ thuộc vào luật của từng quốc gia: Mặc dù hợp

đồng điện tử được hình thành theo quy định của Luật về thương mại điện tử hoặc

Luật về giao dịch điện tử của một số nước, nhưng giá trị pháp lý của hợp đồng đó

còn phụ thuộc vào một số yếu tố liên quan. Trong nhiều trường hợp yếu tố liên quan

có thể là chữ ký của những người tham gia ký kết hợp đồng điện tử có phù hợp với

các tiêu chuẩn về đạo đức và pháp luật hay không. Hiện tại một số quốc gia chỉ cho

phép ký kết hợp đồng điện tử trong một số lĩnh vực. Chính vì vậy, khi ký kết hợp

đồng điện tử cần phải tìm hiểu thêm luật của từng quốc gia xem lĩnh vực đó có được

chấp thuận hay không.

b) Lưu ý trong việc tránh để gây ra lỗi nhập dữ liệu

Các hợp đồng điên tử có thể được ký kết một cách nhanh chóng và phạm vi

giao dịch rất rộng do khả năng kết nối toàn cầu của Internet. Do vậy đối với các

công ty bán hàng trên mạn, khi cho phép khách hàng ký kết hợp đồng với chương

trình tự động qua website cần có một biện pháp quản lý dữ liệu sản phẩm chặt chẽ

và có độ chính xác cao.

Ngoài ra để hạn chế tranh chấp giữa các bên khi có lỗi xảy ra thì ngay trong

hợp đồng điện tử nhà cung cấp phải có thêm điều khoản bảo lưu về khoảng thời

gian tối thiểu đề các bên báo với nhau về lỗi nhập dữ liệu và quy định rõ những biện

91

pháp xử lý lỗi nhập dữ liệu. Đồng thời các bên có thể quy định rõ quy trình sửa đổi

đơn hàng trong trường hợp người mua phát hiện ra sai sót của mình trong quá trình

ký kết hợp đồng.

c) Lưu ý khi ký kết hợp đồng qua thư điện tử

Trước khi giao kết hợp đồng điện tử các doanh nghiệp này cần phải:

- Có năng lực thật sự về thương mại điện tử

Các doanh nghiệp khi tham gia vào giao kết hợp đồng điện tử trước tiên cần

trang bị cho mình đầy đủ những kiến thức cơ bản về thương mại điện tử và hợp

đồng điện tử. Điều này đòi hỏi từ người lãnh đạo doanh nghiệp đến các nhân viên

của doanh nghiệp phải nắm bắt được không chỉ các vấn đề về kỹ thuật mà cả vấn đề

về kinh doanh, đặc biệt là các vấn đề pháp lý liên quan đến giao kết hợp đồng bằng

phương tiện điện tử - nhiều tiện ích nhưng cũng ẩn chứa rất nhiều rủi ro nếu không

nắm bắt và làm chủ được nó.

- Cần tuyển dụng đội ngũ chuyên gia giỏi về tin học, về công nghệ thông tin

Doanh nghiệp cần có một đội ngũ chuyên gia tin học mạnh, thường xuyên

cập nhật và bắt kịp công nghệ thông tin mới để phục vụ cho việc giao dịch, cũng

như có khả năng thiết kế các công cụ phần mềm đáp ứng được nhu cầu hoạt động

thương mại điện tử của doanh nghiệp ( thiết kế các trang web quảng cáo sản phẩm,

làm các đơn chào hàng, xây dựng các quy tình chuẩn cho việc giao kết hợp đồng

điện tử...) và giải quyết các vấn đề kỹ thuật phát sinh.

- Đầu tư đủ mạnh về trang thiết bị kỹ thuật

Đối với yêu cầu này, doanh nghiệp cần: thứ nhất, cần trang bị các máy tính

hiện đại và các thiết bị kỹ thuật (thiết bị mạng) đạt đủ các điều kiện kỹ thuật; thứ

hai, là truyền thông, doanh nghiệp cần phải có một đường dẫn dữ liệu ổn định,

nhanh, chính xác. Để có được điều này cần phải có sự đầu tư thích đáng, đầu tư cơ

92

sở hạ tầng, công nghệ thông tin và đầu tư nguồn nhân lực cho doanh nghiệp.

Không chỉ có Nhà nước đầu tư mạnh mẽ mà doanh nghiệp cũng cần đầu tư

đủ mạnh về trang thiết bị kỹ thuật nhằm bảo đảm cho sự thành công về mặt công

nghệ thông tin, cho việc giao kết hợp đồng điện tử tại doanh nghiệp mình.

- Có kỹ năng bảo mật các hợp đồng điện tử

Doanh nghiệp cần phải có một phương pháp quản lý dữ liệu thích hợp nhằm

đảm bảo tính bảo mật cho các hợp đồng điện tử. Khi hoạt động ký kết hợp đồng

diễn ra qua mạng Internet, một thế giới ảo không phải lúc nào cũng kiểm soát được

thì vấn đề về bảo mật thông tin càng được quan tâm. Nhiều khi đây là nhân tố quyết

định thành bại trong kinh doanh, đảm bảo uy tín cho doanh nghiệp và có được sự tin

tưởng tử phía khách hàng và đối tác. Hợp đồng điện tử sẽ không thể phát triển nếu

như người tham gia chưa an tâm về công tác bảo mật.

Nếu muốn giao kết hợp đồng điện tử thành công thì trước tiên lãnh đạo

doanh nghiệp phải giáo dục ý thức bảo mật cho thành viên trong doanh nghiệp. Bên

cạnh đó doanh nghiệp cần phải chủ động xây dựng cơ chế bảo mật và cơ chế giám

sát việc thực thi cơ chế bảo mật đó. Sẽ là rủi ro khôn lường nếu tội phạm lừa đảo

tiết lộ thông tin, ăn cắp bí mật...lại do chính thành viên trong nội bộ doanh nghiệp

thực hiện.

- Đổi mới nhận thức về vai trò của hợp đồng điện tử

Cần phải thay đổi nhận thức của người chủ doanh nghiệp, các nhân viên

trong doanh nghiệp về hình thức kinh doanh mới này. Giao kết hợp đồng điện tử sẽ

không thể thực hiện được tại các doanh nghiệp nơi mà ở đó chưa có sự đổi mới

trong nhận thức, vẫn duy trì phương thức giao kết hợp đồng truyền thống. Hoặc là

vì sự bảo thủ, hoặc là do dự trước những rủi ro mà hình thức này có thể đem lại, đó

là những lý do cản trở các doanh nghiệp vào cuộc. Công nghệ thông tin phát triển sẽ

tạo ra nhiều hình thức, phương thức kinh doanh mới, đem lại nhiều hiệu quả, nhiều

lợi ích. Giao kết hơp đồng điện tử là một hình thức kinh doanh mới, hiện đại và là

xu hướng phát triển chung không chỉ ở Việt Nam mà còn trên bình diện quốc tế. Vì

93

vậy trong môi trường kinh doanh "số hóa" hiện nay các doanh nghiệp cần phải có

quyết tâm cao để vào cuộc nhằm nắm được những cơ hội kinh doanh mới. Tìm hiểu

và nắm được những vấn đề đặc biệt của hợp đồng điện tử sẽ giúp các doanh nghiệp

tránh được những rủi ro có thể gặp phải, để có thể giao kết hợp đồng điện tử thành

công va có được lợi ích từ phương thức giao kết hợp đồng mới mẻ này.

- Có hiểu biết đầy đủ về những vấn đề pháp lý liên quan đến giao kết hợp

đồng điện tử

Như đã phân tích ở trên, mặc dù chưa hoàn hảo những khung pháp lý điều

chỉnh việc giao kết hợp đồng điện tử đã và đang từng bước được xây dựng, được

hoàn thiện. Có rất nhiều quy định mới, phức tạp cần phải nắm bắt, hiểu và vận dụng

trong thực tế. Vì vậy, trước khi giao kết hợp đồng điện tử, các doanh nghiệp cần

phải nghiên cứu kỹ các vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng điện tử . Sự hiểu biết

về pháp luật sẽ tạo cho các doanh nghiệp năng lực tự phân tích, tự đánh giá và tự

chịu trách nhiệm khi triển khai việc giao kết hợp đồng điện tử.

Sự nắm vững các quy định của pháp luật về giao kết hợp đồng điện tử sẽ

giúp các doanh nghiệp thận trọng hơn, chủ động hơn khi gặp những rủi ro không chỉ

về mặt kỹ thuật mà còn về mặt pháp lý khi giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử.

Những vấn đề pháp lý về giao kết hợp đồng điện tử, đặc biệt là hợp đồng

điện tử có yếu tố nước ngoài là những vấn đề pháp lý phức tạp. Vì vậy, khi gặp

những đối tác lần đầu quen biết, khi lần đầu tham gia vào một môi trường pháp luật

xa lạ, khi giao kết những hợp đồng có giá trị lớn, tốt nhất là cần tìm đến luật sư tư

vấn về vấn đề này.

b) Kiến nghị đối với những doanh nghiệp đã có kinh nghiệm trong giao kết

hợp đồng điện tử

Thực tiễn thương mại điện tử trong những năm gần đây cho thấy có rất nhiều

doanh nghiệp Việt Nam đã mạnh dạn ứng dụng công nghệ thông tin vào giao kết

hợp đồng của doanh nghiệp. Có những doanh nghiệp để chớp thờ cơ, đã giao kết

94

hợp đồng điện tử thông qua người trung gian. Nhiều hợp đồng điện tử thành công

và cũng nhiều hợp đồng điện tử bị thất bại do không lưu lại được chứng cứ pháp lý.

Vì vậy, kiến nghị đối với những doanh nghiệp này là:

- Thận trọng khi thông qua người trung gian (môi giới) để giao kết hợp đồng

điện tử.

Điều 150 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 quy định: “Môi giới thương

mại là hoạt động thương mại, theo đó một thương nhân làm trung gian (gọi là bên

môi giới) cho các bên mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ (gọi là bên được môi

giới) trong việc đàm phán, giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ và được

hưởng thù lao theo hợp đồng môi giới”. [22, Điều 150]. Điều 151 khoản 3 quy định

người môi giới thương mại “chịu trách nhiệm về tư cách pháp lý của các bên được

môi giới, nhưng không chịu trách nhiệm về khả năng thanh toán của họ”.[22, Điều

151(3). Những quy định trên cho thấy các bên có thể giao kết hợp đồng điện tử

thông qua người môi giới thương mại. Tuy nhiên trong trường hợp như vậy, chủ thể

hợp đồng thương mại điện tử - người cũng là bên được môi giới trong quan hệ với

người được môi giới- phải ký hợp đồng môi giới để giàng buộc trách nhiệm của

người môi giới về tư cách pháp lý của đối tác ký kết hợp đồng thương mại điện tử

với mình. Không nên quá tin tưởng người môi giới tới mức không ký hợp đồng môi

giới với người trung gian môi giới như một số doanh nghiệp Việt Nam đã làm trong

những năm vừa qua. Những doanh nghiệp này cũng đã gánh hậu quả thua thiệt vì

không có đủ cơ sở pháp lý để ràng buộc trung gian môi giới.

Hay làm như Điều 153 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 quy định: “

Quyền hưởng thù lao môi giới phát sinh từ thời điểm các bên được môi giới đã ký

vào hợp đồng với nhau”[22, Điều 153]. Điều này có nghĩa là một trong hai bên

được môi giới phủ nhận hợp đồng điện tử đã được giao kết thì người môi giới

không được hưởng thù lao. Vận dụng Điều 153 này cũng là một biện pháp phòng

ngừa rủi ro khi phải thông qua người thứ ba để giao kết hợp đồng điện.

- Không nên giao kết hợp đồng điện tử với những khách hàng lần đầu quen

95

biết.

Nếu là khách hàng mới quen biết, nếu là thị trường lần đầu thâm nhập mà đã

giao kết hợp đồng bằng các phương tiện điện tử thì rủi ro sẽ là rất lớn. Hãy thận

trọng với những đối tác, thị trường như vậy. Tốt nhất là ký hợp đồng có giá trị lớn

theo phương thức kinh doanh truyền thống. An toàn là trên hết.

Tất nhiên, nếu là những đối tác quen biết và có uy tín thì hãy tận dụng triệt

để việc giao kết hợp đồng bằng phương tiện điện tử. Mặc dù vậy, khi các điều kiện

cần thiết để đảm bảo an toàn cho giao kết hợp đồng điện tử chưa có thì, ngay sau

khi giao kết hợp đồng điện tử xong, các doanh nghiệp nên có cách để “lưu trữ” lại

các hợp đồng đó cho mình. Chúng sẽ là những bằng chứng hữu hiệu trước cơ quan

giải quyết tranh chấp. Trong những trường hợp khác, nên mời chuyên gia tư vấn cụ

thể.

-Tăng cường chiến lược tiếp thị qua Website.

Mặc dù doanh nghiệp đang có các hoạt động tiếp thị qua web nhưng đối với

mỗi doanh nghiệp, việc lập website riêng với những kỹ năng cho phép doanh

nghiệp thực hiện việc quảng cáo trược tuyến về sản phẩm và hình ảnh của doanh

nghiệp là hết sức quan trọng. Các thông tin đầy đủ, chính xác liên quan đến giá cả,

chất lượng, các điều khoản và các điều kiện mua bán hàng hóa…cũng như các

thông tin khác về doanh nghiệp có trên website sẽ giúp khách hàng đưa ra các quyết

định mua hàng hóa.Các website cũng cho phép doanh nghiệp quản lý các mối quan

hệ với khách hàng và các đối tác kinh doanh. Bên cạnh đó, việc tăng cường chiến

lược tiếp thị qua mạng cũng sẽ giúp đội ngũ cán bộ của doanh nghiệp năng động

hơn, sáng tạo hơn và nhạy bén hơn khi giao kết hợp đồng điện tử.

3.2.2. Giải pháp đối với người tiêu dùng

a) Sử dụng các công cụ hỗ trợ khách hàng khi mua hàng trực tuyến

Trong thương mại điện tử, khách hàng có nhiều công cụ hỗ trợ khi ra quyết

định mua hàng. Khách hàng cần phải cân nhắc những dịch vụ gì, từ công ty nào.

Trang web nào (có thể là trang web của người sản xuất, nhà phân phối hoặc hãng

96

bán lẻ) và sử dụng những dịch vụ nào. Một số trang web hỗ trợ khách hàng trong

việc so sánh giá cả, đánh giá chất lượng dịch vụ, độ tin cậy và những nhân tố khác.

Đó là các cổng mua hàng, các trang web xếp hạng kinh doanh, các trang xác minh

độ tin cậy và các dạng hỗ trợ mua hàng khác.

b)Cổng mua hàng (shopping portal)

Nhiều cổng mua hàng cung cấp các dịch vụ tư vấn hoặc xếp hạng các sản

phẩm hoặc xếp hạng các công ty bán lẻ. Một số khác cung cấp các dịch vụ tương

tác cho phép khách hàng thực hiện so sánh dựa trên các tiêu chí riêng của họ, một

số cổng mua hàng khác chỉ cung cấp các đường dẫn để khách hàng tự lựa chọn và

cân nhắc.

Cổng mua hàng có thể là hỗn hợp hoặc đơn. Cổng hỗn hợp là cổng có nhiều

đường dẫn tới các người bán hàng khác nhau cung cấp các loại sản phẩm khác nhau.

Cổng mua hàng đơn chuyên môn hóa vào một sản phẩm cụ thể, cung cấp thông tin

và đường dẫn cho việc mua những sản phẩm và dịch vụ như ô tôt, máy tính, du

lịch…

- Robot mua hàng (shopbot)

Người sử dụng thương mại điện tử và Internet thành thạo có thể tìm được

những trang web khác bán những sản phẩm tương tự với mức giá hấp dẫn hơn hoặc

có những dịch vụ chất lượng cao hơn? Các robot mua hàng shopping bot) sẽ giúp

khách hàng làm điều này. Các shopbot sẽ rà soát trên các trang web bán hàng khác

nhau theo các tiêu chí do người sủ dụng đặt ra. Mỗi shopbot sủ dụng các phương

pháp tìm kiếm khác nhau.

- Các loại công cụ hỗ trợ khách hàng khác

Có nhiều loại trung gian khác nhau trong thương mại điện tử cung cấp dịch

vụ hỗ trợ người mua, người bán, hoặc cả hai trong quá trình mua bán. Ví dụ như

dịch vụ trung gian bên thứ ba. Vì cả người mua và người bán đều không nhìn thấy

và không biết nhau nên thông thường họ có nhu cầu bên thứ ba bảo đảm việc

97

chuyển giao hàng, tiền giống như các cổng mua hàng, các trang web cung câp dịch

vụ pháp lý cũng hỗ trợ việc tìm kiếm thông tin hoặc cung cấp các dịch vụ khác. Các

trang web đó cũng có thể cung cấp dịch vụ hỗ trợ thanh toán. Thương mại truyền

thống, hâu hết khách hàng thanh toán bằng tiền mặt, thẻ tín dụng. Trong thương mại

điện tử tiền mặt không thể sử dụng được, trong khi khách hàng lo ngại việc cung

cấp thông tin về thẻ tín dụng qua Internet. Do vậy nhiều công nghệ đã phát triển để

hỗ trợ thanh toán trực tuyến như tiền điện tử, các phương pháp kiểm tra tín dụng

hợp lý, công nghệ ví tiền điện tử và nhiều hệ thống thanh toán có sự tha gia của bên

thứ ba… các loại công cụ hỗ trợ khách hàng như cộng đồng khách hàng sẽ cung cấp

các thông tin, ý kiến và tư vấn về sản phẩm và người bán.

c) Một số phương pháp đáng tin cậy giúp khách hàng trên mạng:

+ Mua hàng trên mạng: hãy nghĩ về vấn đề an toàn khi bắt đầu liên hệ với

đối tác. Nên nhớ rằng thông tin truyền đi qua internet có thể bị ngăn chặn. Nếu

thông tin đó có cả ký hiệu thẻ tín dụng của bạn chẳng hạn thì cần phải có những

biện pháp bảo vệ những chi tiết của thẻ tín dụng. Một phương pháp phổ biến mà các

thương gia trên mạng có thẻ cung cấp những mực độ an toàn có thể chấp nhận cho

khách hàng của họ là sử dụng một thiết bị làm chức năng bảo vệ an toàn. Dịch vụ

này sử dụng một văn bản đặc biệt đã được cải biên (HTTP) để bảo đảm rằng thông

tin giữa khách hàng và đối tác của họ được mã hóa bằng một hệ thống mậ mã chặt

chẽ.

+ Tìm hiểu thông tin cụ thể về sản phẩm: Để có được những thông tin này,

bạn hãy tìm những web giới thiệu những thông tin về sản phẩm và dịch vụ của các

công ty bằng cách thức dễ nhìn và ngôn ngữ dễ hiểu.

+ Đọc điều khoản, điều kiện giao dịch và lữu giữ bằng chứng về việc giao

kết hợp đồng điện tử: những điều này bao gồm trả hàng đầy đủ, điều kiện giao

hàng, phương thức thanh toán. Nếu cần thiết bạn hãy hỏi giá vận chuyển trước

những khoản tiền mà bạn phải chi trả. Trước khi đặt hàng bạn phải biết rõ chính

98

sách đối ứng của công ty bán hàng.

+ Kiểm tra tính lành mạnh và rõ ràng về trình tự giải quyết khiếu nại của

doanh nghiệp: trong web của doanh nghiệp phải phải bao gồm một trình tự rõ ràng

về giải quyết khiếu nại, thắc mắc và yêu cầu của khách hàng.

+ Những điều cần thận trọng khi sử dụng thẻ tín dụng: khi mua hàng trên

internet bạn cần biết chắc rằng bạn cảm thấy thuận tiện trong quá trình mua hàng

của thương gia đó và biết rõ phương pháp hủy bỏ một đơn đặt hàng. Hầu hết các

web đều cho phép bạn hoàn thành một đơn hàng theo mẫu có sẵn hoặc điền tên

hàng bạn định mua vào phiếu đặt hàng. Chỉ sau khi bạn hoàn thành và xác nhận đơn

hàng, phương thức giao dịch, bạn mới kết thúc việc đặt hàng bằng cách ấn nút gửi

thư. Sau khi biết chắc chắn rằng giá cả đầy đủ, điều khoản, điều kiện, và phương

thức giao dịch đã được thể hiện rõ, bạn hãy in lại nội dung đó và lưu lại một bản.

Trước khi phát tín hiệu thẻ tín dụng cảu bạn lên mạng, bạn hãy tìm tài liệu chứng

minh rằng công ty mà bạn liên hệ đang hoạt động trong điều kiện máy tính có chức

năng bảo vệ an toàn. Nếu bạn không biết chắc chắn về sự an toàn khi liên hệ với

một công ty nào đó thì bạn đừng truyền đi thông tin về thẻ tín dụng của mình. Bạn

cần biết rằng chiếc máy tính có chức năng bảo vệ an toàn không phải là nơi duy

nhất mà từ đó dữ liệu của bạn có thể bị đánh cắp.

+ Kiểm tra chính sách của doanh nghiệp về việc bảo vệ thông tin cá nhân:

Những công ty, doanh nghiệp có uy tín sẽ thông báo chính sách của họ về việc bảo

vệ bí mật thông tin cá nhân trên mạng nhằm báo cho bạn biết họ đối xử đối với

thông tin mà bạn cung cấp khi mua hàng. Nếu bạn chưa biết chính sách của họ về

việc bảo vệ bí mật thông tin thì hãy liên lạc để hỏi và biết về điều đó.

Sử dụng phương tiện điện tử để giao kết hợp đồng luôn là vấn đề có tính hai

mặt. Bên cạnh những lợi ích không thể phủ nhận như giảm chi phí, tiết kiệm thời

gian, tạo ra nhiều cơ hội, nâng cao khả năng cạnh tranh, thì hợp đồng điện tử cũng

tồn tại rất nhiều rủi ro tiềm ẩn. Từ khi Luật giao dịch điện tử Việt Nam năm 2005 ra

đời, bước đầu đã tạo dựng được khung pháp lý cho giao kết hợp đồng điện tử, tuy

99

nhiên khung pháp lý về hợp đồng điện tử tại Việt Nam hiện này còn sơ sài, thiếu cụ

thể chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Vì vậy việc nhận diện và kiểm soát những rủi

ro có thể phát sinh trong giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử phải được đặc biệt

quan tâm trong thời gian tới cùng với việc hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh vấn

đề này.

Dù hợp đồng được giao kết bằng phương tiện truyền thống hay phương tiện

điện tử hiện đại thì luôn tiềm ẩn những rủi ro khác nhau. Tuy nhiên, do đặc thù của

môi trường giao dịch, nên mức độ rủi ro có thể xảy ra trong giao kết hợp đồng điện

tử là lớn hơn. Vì vậy, nhận diện và kiểm soát rủi ro có thể phát sinh thông qua công

cụ pháp luật và biện pháp kỹ thuật là vấn đề cần được các chủ thể quan tâm khi

tham gia vào các quan hệ hợp đồng điện tử. Qua việc nghiên cứu lý luận và thực

tiễn cho thấy, việc hoàn thiện khung pháp lý và đưa ra các giải pháp phòng ngừa rủi

ro trong giao kết hợp đồng điện tử Việt Nam hiện nay là điều cần thiết góp phần

phát triển các giao dịch điện tử một cách đồng bộ, có hệ thống, tạo được niềm tin

cho các bên tham gia giao dịch. Hợp đồng điện tử sẽ không thể phát triển mạnh nếu

như không có một môi trường pháp lý đầy đủ cho nó hoạt động, cùng với đó là cơ

chế kiểm soát hạn chế các rủi ro khi giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử góp

phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia.

Trên cơ sở những rủi ro khi giao kết hợp đồng điện tử tại Việt Nam và những

yêu cầu cấp thiết về việc đưa ra nhưng giải pháp về việc phòng ngừa những rủi ro

đó, tác giá đã mạnh dạn kiến nghị với ba nội dung với ba đối tượng cụ thể, đó là:

thứ nhất, kiến nghị đối với những doanh nghiệp đã có kinh nghiệm trong giao kết

hợp đồng điện tử; thứ hai, kiến nghị đối với những doanh nghiệp đang có nhu áp

dụng giao kết hợp đồng điện tử; thứ ba, kiến nghị đối với người tiêu dùng. Để từ đó

nhằm nâng cao hiệu quả và thúc đẩy hơn nữa việc giao kết và thực hiện hợp đồng

100

điện tử hiện nay.

KẾT LUẬN

Thương mại điện tử nói chung và hợp đồng điện tử nói riêng đã và đang là

một xu thế phát triển tất yếu không chỉ ở nước ta mà trên cả phạm vi toàn thế giới.

Trong những năm gần đây Việt Nam đã nhận thức và coi trọng thương mại điện tử

như một chiến lược cần đạt tới, chúng ta cần nhìn nhận và đánh giá khách quan

những yếu tố còn tồn tại để có thể nhanh chóng từng bước khắc phục những hạn chế

cũng như phòng tránh được những rủi ro pháp lý trong ứng dụng thương mại điện

tử nói chung và thực hiện hợp đồng điện tử nói chung.

Giao dịch điện tử với một lợi thế là tốc độ nhanh, chi phí rẻ, truyền tải thông

tin đa dạng, không phụ thuộc nhiều vào khoảng cách, giao dịch điện tử ngày càng

trở nên phổ cập, được nhiều người tiêu dùng và doanh nghiệp sử dụng. Trong giao

dịch điện tử, hợp đồng điện tử luôn là công cụ chủ yếu trong giao dịch. Vì vậy khi

giao dịch điện tử xuất hiện thì hợp đồng điện tử cũng hình thành và phát triển theo.

Nói đến hợp đồng điện tử là nói đến một phương thức thiết lập hợp đồng. Hợp đồng

điện tử là hợp đồng được giao kết thông qua phương tiện điện tử, mà trong đó

Internet đóng một vai trò quan trọng – công nghệ được coi là điều kiện tiên quyết.

Đặc biệt, quy trình giao kết hợp đồng điện tử trong các doanh nghiệp Việt

Nam còn rất hạn chế, những điều kiện bước đầu về cơ sở hạ tầng, khung pháp lý

điều chỉnh cho giao dịch điện tử đang trong quá trình hoàn thiện, chưa đáp ứng

được yêu cầu của thương mại điện tử. Điều này sẽ ảnh hưởng không tốt đến việc

101

giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử trong thời gian tới.

Việc học hỏi kinh nghiệm của các nước phát triển đi trước sẽ giúp Việt Nam

tiếp cận được những kinh nghệm quý báu trong thời gian tới để xây dựng một môi

trường pháp lý khoa học, hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp ứng

dụng giao dịch điện tử vào hoạt động kinh doanh của mình cũng như thúc đẩy sự

phát triển của nền kinh tế.

Hơn nữa, vấn đề rủi ro trong giao kết hợp đồng điện tử và giải pháp phòng

ngừa cần phải được nghiên cứu thường xuyên. Đối với yêu cầu này không chỉ các

nhà làm luật, các thương nhân, doanh nghiệp mà ngay cả người tiêu dùng cũng phải

thường xuyên trau dồi kiến thức về giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử để phục

vụ cho hoạt động kinh doanh, tiêu dùng của mình một cách hiệu quả, tránh được

102

những rủi ro không đáng có./.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. TS. Trần Văn Biên (số 8/2010), “Về khái niệm hợp đồng điện tử”, Tạp chí

Nhà nước và pháp luật.

2. TS. Trần Văn Biên (số 10/2010), “Sự thỏa thuận trong giao kết hợp đồng

điện tử qua mạng Internet”, Tạp chí nhà nước và luật.

3. TS. Trần Văn Biên số 20/2010), “Pháp luật và hợp đồng điện tử”, tạp chí

Tòa án nhân dân.

4. TS. Trần Văn Biên (số 1/2011), “Khung pháp lý cơ bản về giao dịch điện tử

của Việt Nam”, tạp chí thông tin khoa học xã hội.

5. TS. Trần Văn Biên (2012) “Hợp đồng điện tử theo pháp luật Việt Nam”,

Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Trường Học viện khoa học xã hội Việt

Nam, Hà Nội.

6. TS. Trần Văn Biên (2012) " Hợp đồng điện tử theo pháp luật Việt Nam",

NXB Tư pháp, Hà Nội.

7. Bộ Công thương (2008), “Thông tư số 09/2008/TT – BCT ngày 21/7/2008

của Bộ Công thương Hướng dẫn nghị định Thương mại điện tử về cung cấp

thông tin và giao kết hợp đồng trên website thương mại điện tử”, Hà Nội.

8. Chính Phủ (2007), “Nghị định của Chính phủ số 26/2007/NĐ-CP ngày

15/2/2007 quy định chi tiết thi hành luật giao dịch điện tử về chữ ký số và

103

dịch vụ chứng thực chữ ký số”, Hà Nội.

9. Chính Phủ (2007), “Nghị định số 71/2007/NĐ – CP ngày 30/5/2007 của

Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật

công nghệ thông tin về công nghiệp công nghệ thông tin, Hà Nội.

10. Chính Phủ (2016), “Nghị định số 57/2016/NĐ – CP ngày 09/6/2016 của

Chính phủ về thương mại điện tử”, Hà Nội.

11. TS. Nguyễn Thị Dung (2008), “Pháp luật về hợp đồng trong thương mại và

đầu tư – những vấn đề pháp lý cơ bản”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. ThS. Đỗ Thị Thu Hằng (2009), “Pháp luật về hợp đồng điện tử ở Việt Nam”,

Luận văn Thạc sỹ, Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội, Hà Nôi;

13. Luật Mẫu về Thương mại điện tử năm 1996 của UNCITRAL

14. Luật Mẫu về chữ ký điện tử năm 2010 của UNCITRAL

15. GS.TS. Nguyễn Thị Mơ (2006), “Cẩm nang pháp luật về giao kết hợp đồng

điện tử”, NXB Lao động – xã hội, Hà Nội.

16. GS.TS. Nguyễn Thị Mơ (số 19/2006), “Luật giao dịch điện tử năm 2005 và

những quy định về giao kết hợp đồng điện tử”, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, Hà

Nội.

17. Nhà pháp luật Việt – Pháp (1999), “Khoảng không vũ trụ, mạng không gian

và thông tin viễn thông (tiến bộ công nghệ và các vấn đề pháp lý)”, Kỷ yếu

hội thảo Pháp – Việt, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Nhà pháp luật Việt – Pháp (2002), “Pháp luật về thương mại điện tử”, Kỷ

yếu hội thảo, Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Nhà pháp luật Việt – Pháp (2005), “Quy chế nghề công chứng và phương

hướng xây dựng pháp lệnh Công chứng Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo, Hà Nội.

20. Nhà nước Pháp luật Việt – Pháp (2009), Những thách thức về mặt pháp lý

của sự phát triển công nghệ thông tin và truyền thông: Thực trạng và triển

vọng, Kỷ yếu hội thảo, Hà Nội.

21. Quốc Hội (2005), Luật Giao dịch điện tử, Hà Nội.

22. Quốc Hội (2005), Luật Thương mại, Hà Nội.

104

23. Quốc Hội (2006), Luật công nghệ thông tin, Hà Nội.

24. Quốc Hội (2010), Luật Bảo vệ người tiêu dùng, Hà Nội.

25. Quốc Hội (2015), Luật Dân Sự, Hà Nội.

26. Trung tâm thương mại quốc tế (2002), “Bí quyết thương mại điện tử, Phụ lục

III, Hợp đồng thương mại điện tử của UNECE”, NXB. Thế Giới, Hà Nội.

27. TS. Nguyễn Văn Thoan (2010), “Ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử trong

điều kiện Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế”, Luận án Tiến sỹ, Trường Đại

học Ngoại Thương, Hà Nội.

28. TS.Lê Văn Thiệp (2016), “Pháp luật thương mại điện tử ở nước ta hiện

nay”, Luận án Tiến sĩ Luật Học, Trường Học viện khoa học xã hội Việt

105

Nam, Hà Nội.

106