ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOÀNG THỊ HÀ MY
NHỮNG RỦI RO TRONG GIAO KẾT
HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM
VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOÀNG THỊ HÀ MY
NHỮNG RỦI RO TRONG GIAO KẾT
HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM
VÀ GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA
Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số
: 8380101.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. VƢƠNG THANH THÚY
Hà Nội – 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ
Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
NGƢỜI CAM ĐOAN
HOÀNG THỊ HÀ MY
DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
(ASEAN) Liên hiệp các nước Đông Nam Á
(BLDS) Bộ luật dân sự
(TMĐT) Thương mại điện tử
(UNECE) Ủy ban Kinh tế Châu âu của Liên hợp quốc
(UNCITRAL) Ủy ban Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế
9
MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 CHƢƠNG 1:NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ 1.1. Khái niệm ...................................................................................................... 9 1.2. Đặc điểm của hợp đồng điện tử ................................................................ 11 1.3. Vai trò của hợp đồng điện tử .................................................................... 15 1.4. So sánh hợp đồng điện tử và hợp đồng truyền thống ............................. 18 1.4.1. Sự giống nhau............................................................................................ 19 1.4.2. Sự khác nhau: ............................................................................................ 20 1.5. Pháp luật về hợp đồng điện tử của một số quốc gia trên thế giới ......... 23 1.5.1. Pháp luật quốc tế về hợp đồng điện tử ..................................................... 23 1.5.2. Pháp luật về hợp đồng điện tử của một số quốc gia trên thế giới ............ 25 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ VÀ NHỮNG RỦI RO THƢỜNG GẶP TRONG GIAO KẾT HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM .............................................................................. 31 2.1. Thực trạng pháp luật về hợp đồng điện tử tại Việt Nam ....................... 31 2.1.1. Giao kết hợp đồng điện tử ......................................................................... 32 2.1.2. Hình thức của hợp đồng điện tử ............................................................... 45 2.1.3.Nội dung của hợp đồng .............................................................................. 46 2.1.4. Về vấn đề chữ ký trong hợp đồng điện tử ................................................. 51 2.2. Những rủi ro thƣờng gặp trong hợp đồng điện tử .................................. 54 2.2.1 Thiếu những quy định pháp luật cụ thể điều chỉnh, hướng dẫn việc giao kết hợp đồng điện tử qua website theo mô hình C2C. ........................................ 55 2.2.2. Thiếu những quy định pháp luật cụ thể điều chỉnh, hướng dẫn việc giao kết hợp đồng điện tử theo mẫu trên website. ...................................................... 56 2.2.3. Rủi ro về công chứng hợp đồng điện tử .................................................... 58 2.2.4. Khách hàng bị lộ thông tin cá nhân trong khi giao kết hợp đồng điện tử 60 2.2.5. Chưa có quy định cụ thể về giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nước ngoài. ................................................................................................................... 63 2.2.6. Chưa có quy định cụ thể hướng dẫn giải quyết tranh chấp liên quan đến giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử. ....................................................... 64 2.2.7. Những quy định hướng dẫn giao kết hợp đồng điện tử chưa đầy đủ, chưa cụ thể. ......................................................................................................... 66 2.2.8. Quyền lợi của người tiêu dùng có nguy cơ bị vi phạm – thế yêu của một bên trong giao kết hợp đồng điện tử ................................................................... 67 CHƢƠNG 3: KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VÀ NGƢỜI TIÊU DÙNG VIỆT NAM .................................................................. 73 3.1.Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hợp đồng điện tử tại Việt Nam ....... 73
3.1.1. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh, hướng dẫn cụ thể viêc giao kết hợp đồng điện tử qua website theo mô hình C2C. ......................... 74 3.1.2. Xây dựng và ban hành các quy định pháp luật điều chỉnh, hướng dẫn cụ thể việc giao kết hợp đồng điện tử theo mẫu trên website. ............................ 75 3.1.3. Xây dựng thiết chế công chứng hợp đồng điện tử .................................... 78 3.1.4. Xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật riêng về bảo vệ dữ liệu cá nhân, kết hợp tăng cường bảo đảm an toàn thông tin trong giao kết hợp đồng điện tử.................................................................................................. 79 3.1.5. Ban hành hướng dẫn cụ thể về giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nước ngoài ........................................................................................................... 81 3.1.6. Bổ sung các quy định cụ thể hơn về giải quyết tranh chấp liên quan đến việc giao kết và thực hiện hợp đồng .................................................................... 82 3.1.7. Bổ sung thêm các quy định cụ thể hướng dẫn việc giao kết hợp đồng điện tử .................................................................................................................. 85 3.1.8. Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong giao kết hợp đồng điện tử .. 86 3.2. Những kiến nghị đối với doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng Việt Nam trong giao kết hợp đồng điện tử ....................................................................... 90 3.2.1. Giải pháp đối với doanh nghiệp................................................................ 90 3.2.2. Giải pháp đối với người tiêu dùng ............................................................ 96 KẾT LUẬN ...................................................................................................... 101 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 103
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Bước vào thế kỷ thứ XX cùng với sự phát triển mạnh mẽ của mạng Internet
và những ứng dụng của nó đã đưa loài người bước sang một kỷ nguyên mới – kỷ
nguyên của nền kinh tế tri thức. Sự ra đời và phát triển của thương mại điện tử đã
khiến các giao dịch thương mại ngày càng phát triển, mở rộng và tự do bởi sự tiện
lợi của nó. Sự tự do ở đây không phải là thiếu tính kiểm soát mà nó thể hiện ở sự
vượt qua những rào cản về không gian, thời gian của các quy trình giao kết hợp
đồng truyền thống, đẩy nhanh tốc độ, khối lượng giao dịch cũng như nhanh chóng
nắm bắt cơ hội thiết lập các mối quan hệ đa phương của thương mại quốc tế.
Cùng với những tiện ích to lớn mà việc ứng dụng công nghệ tin học vào các
hoạt động thương mại cũng đã đặt ra nhiều các vấn đề ở cả phạm vi các quốc gia
cũng như trên bình diện quốc tế về việc hình thành cơ sở pháp lý, tạo môi trường
thuận lợi, thúc đấy sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động thương mại điện tử
hướng tới mục tiêu vì con người, đồng thời hạn chế, khắc phục những mặt trái của
nó mang lại hoặc giải quyết những tranh chấp của nó trong quá trình ứng dụng và
phát triển. Điều đó đã đặt ra cho mỗi quốc gia phải từng bước hoàn thiện hệ thống
pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực thương mại điện tử, đáp
ứng được sự phù hợp với những đặc trưng vốn có của loại hình thương mại luôn có
xu hướng vượt qua những rào cản về không gian địa lý, thu hẹp toàn cầu thành một
thị trường chung, phi biên giới.
Ở các quốc gia phát triển, trước những yêu cầu đòi hỏi mạnh mẽ của việc
ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động thương mại, với bề dày truyền thống
trong lĩnh vực thương mại điện tử, không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia mà
còn hướng mạnh ra thị trường quốc tế đã từng bước xây dựng cho quốc gia mình
những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực thương
mại điện tử. Vì vậy cho đến nay các nước này các quốc gia nay đã có một hệ thống
1
pháp luật tương đối hoàn chỉnh điều chỉnh các vấn đề thương mại và thương mại
điện tử nói riêng. Ngoài ra những nước phát triển cũng đa góp phần quan trọng cùng
với các quốc gia khác xây dựng và hoàn thành các hệ thống pháp luật quốc tế có
liên quan đến các lĩnh vực thương mại điện tử, tạo ra khuôn khổ pháp lý thống nhất
trên phạm vi quốc tế, nhằm thúc đẩy mạnh mẽ cho sự phát triển của thương mại
toàn cầu.
Đối với nước ta, thực hiện chủ trương đổi mới tòan diện đất nước, trong
những năm qua kể từ khi nước ta ra nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) năm
2006, nhà nước ta đã thực hiện chuyển đối mạnh mẽ nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa theo hướng linh hoạt, mềm dẻo, cạnh tranh hiệu quả đáp
ứng yêu cầu và thách thức của nền kinh tế quốc tế và khu vực khi tham gia vào thị
trường kinh tế quốc tế với những “ luật chơi chung”. Các hoạt động thương mại
được chú trọng và phát triển mạnh mẽ đối với cả các giao lưu trong nước và quốc
tế. Vì vậy trong thời gian qua nhà nước ta đã nỗ lực, sửa đổi, bổ sung, xây dựng,
hoàn thiện môi trường pháp lý đáp ứng yêu cầu quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
sâu rộng theo hướng “hội nhập, hợp tác, phát triển, cùng có lợi”.
Trong lĩnh vực thương mại điện tử, nhà nước ta đã tập chung xây dựng nhiều
văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao, tạo cơ sở cho việc thúc đẩy sự
phát triển giao lưu thương mại như: Bộ Luật Dân sự năm 2015; Luật Thương mại
năm 2005; Luật Giao dịch điện tử năm 2005; Luật công nghệ thông tin năm 2006;
Nghị định số 57/2016/NĐ – CP ngày 09/6/2016 của Chính phủ về thương mại điện
tử và Nghị định số 71/2007/NĐ – CP ngày 03/5/2007 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật công nghệ thông tin về công
nghiệp công nghệ thông tin… Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta hiện
nay đã từng bước đặt nền móng cơ sở pháp lý điều chỉnh các hoạt động thương mại
điện tử.
Công nghệ thông tin đã có mặt ở hầu hết các lĩnh vực trong đời sống xã hội,
trong lĩnh vực hành chính công với Chính phủ điện tử, trong lĩnh vực báo chí là báo
2
điện tử, trong lĩnh vực giáo dục người ta nhắc nhiều đến đào tạo trực tuyến, trong
lĩnh vực ngân hàng phải kể đến ngân hàng điện tử, hay việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong hoạt động thương mại hàng hóa…và trong đó có sự hiện diện của
các quan hệ hợp đồng mua bán.
Tuy nhiên tìm hiểu những quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành có thể
thấy, các nội dung quy định về hợp đồng điện tử - một trong những nội dung cốt
yếu của vấn đề thương mại điện tử chưa được đề cập một cách đầy đủ, cụ thể. Sự
thiếu vắng những quy định này trong hệ thống pháp luật làm cho hoạt động thương
mại điện tử bị hạn chế rất lớn, không đáp ứng được yêu cầu ngày càng phát triển
mạnh mẽ của loại hình thương mại này. Một trong những lý do được nêu trên là
nước ta đang ở giai đoạn đầu của quá trình tiếp cận và phát triển thương mại điện
tử, vấn đề hợp đồng điện tử còn khá mới mẻ đối với Việt Nam những vấn đề này
còn đang trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm. Do đó các chế định pháp lý về
vấn đề này còn hạn chế, cần phải được tiếp tục bổ sung, hoàn thiện trong thời gian
tới nhằm đáp ứng yêu cầu đòi hỏi khách quan của hoạt động thương mại khi chúng
ta đang trên tiến trình hội nhập kinh tế, quốc tế.
Với nền kinh tế ngày càng hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới, Việt
Nam cũng đã và đang nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của những ứng
dụng thương mại điển tử trong các lĩnh vực, đặc biệt là thương mại quốc tế .Vận
dụng được thương mại điện tử trong phát triển giao dịch thương mại sẽ là bàn đạp
giúp Việt Nam phát triển kinh tế nhanh hơn, mạnh hơn, nắm bắt được cơ hội thiết
lập các mối quan hệ thương mại quốc tế tốt hơn.
Sử dụng phương tiện điện tử để giao kết hợp đồng luôn là vấn đề có tính hai
mặt. Bên cạnh những lợi ích không thể phủ nhận như giảm chi phí, tiết kiệm thời
gian, tạo nhiều cơ hội, nâng cao khả năng cạnh tranh, thì giao kết hợp đồng điện tử
cũng có nhiều rủi ro tiềm ẩn, nảy sinh những rủi ro hết sức phức tạp mà việc thiếu
hiểu biết về những rủi ro này sẽ đem lại những khó khăn, tổn thất, hậu quả khó khắc
3
phục đối với các bên tham gia giao dịch.
Trong kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử nước ta giai đoạn
2016 – 2020 vừa được Thủ tướng Chính Phủ phê duyệt ngày 08/8/2016, một trong
những mục tiêu được đặt ra là tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý thương mại
điện tử nhằm thúc đẩy giao lưu thương mại, hạn chế thấp nhất các rủi ro trong giao
dịch điện tử trong nước và ngoài nước, phục vụ đắc lực cho quá trình hội nhập kinh
tế, quốc tế. Chính vì vậy tôi lựa chọn đề tài “Những rủi ro trong giao kết hợp đồng
điện tử tại Việt Nam và giải pháp phòng ngừa” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc
sĩ, qua đó góp phần tìm ra các nguyên nhân, đưa ra giải pháp hạn chế các rủi ro và
kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hợp đồng điện tử ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Mạng Internet được đưa vào Việt Nam từ năm 1997. Chỉ trong một thời gian
ngắn phạm vi ảnh hưởng của nó đã ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực trong đời sống xã
hội, đặc biệt là các giao dịch về hợp đồng, kéo theo đó là nhiều vấn đề pháp lý nảy
sinh liên quan đến việc điều chỉnh các giao dịch này cũng như hoạt động của các
chủ thể tham gia và đồng thời thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu luật học
và kinh tế.
Trước khi có luật Giao dịch điển tử năm 2005 các bài viết về hợp đồng điện
tử được công bố rất ít, liên quan trực tiếp đến hợp đồng điện tử có đề tài nghiên cứu
luận văn thạc sĩ tại trường Đại học Luật Hà Nội năm 2004 của Ths. Trần Đình Toản
với đề tài “một số vấn đề pháp lý về hợp đồng trong lĩnh vự thương mại điện tử tại
Việt Nam” , đề tài này nghiên cứu trong bối cảnh hợp đồng điện tử chưa được pháp
luật thừa nhận tại nước ta, khi đó các văn bản pháp lý tạo môi trường thuận lợi cho
hoạt động giao kết hợp đồng điện tử chưa được ban hành. Như vậy, luận văn mới
chỉ dừng lại ở lý luận tiền năng mà chưa có sự nghiên cứu đầy đủ có hệ thống về
hợp đồng điện tử cũng như thực thực trạng hợp đồng điện tử tại Việt Nam.
Sau khi Quốc hội ban hành Luật Giao dịch điện tử năm 2005. Hợp đồng điện
tử đã chính thức được thừa nhận ở nước ta, đáng chú ý là các công trình nghiên cứu
4
chuyên sâu về hợp đồng điện tử, quan trọng kể đến:
Thứ nhất, nhóm cấp độ luận án tiến sĩ: có các đề tài nghiên cứu chuyên sâu
về hợp đồng điện tử của TS. Nguyễn Văn Thoan (2010) “Ký kết và thực hiện hợp
đồng điện tử trong điều kiện Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế”, Luận án Tiến sĩ
kinh tế, Đại học Ngoại Thương Hà Nội, công trình này được triển khai nghiên cứu
dưới góc độ kinh tế học. Tiếp theo cần kể đến là công trình nghiên cứu của TS. Trần
Văn Biên (2011) “Hợp đồng điện tử theo pháp luật Việt Nam”, Luận án tiến sĩ Luật
học, Trường Học Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam, Hà Nội, đây là luận án tiến sỹ
đầu tiên nghiên cứu đầy đủ và chuyên sâu về hợp đồng điện tử tại Việt Nam. Mới
gần đây có luận án tiến sĩ của TS. Lê Văn Thiệp (2016) “Pháp luật thương mại điện
tử ở Việt Nam hiện nay”, Luận án Tiến sĩ Luật học,Trường Học Viện Khoa Học Xã
Hội Việt Nam, Hà Nội, nghiên cứu chuyên sâu pháp luật về thương mại điện tử.
Thứ hai, nhóm cấp độ luận văn Thạc sĩ: tìm hiểu các công trình nghiên cứu ở
cấp độ này tiêu biểu có công trình của ThS. Đỗ Thị Thu Hằng (2009), “Hợp đồng
điện tử theo pháp luật Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế, Khoa Luật,
Trường Đại Học Quốc Gia Hà Nội, luận văn tập chung phân tích các quy định của
pháp luật hiện hành của Việt Nam về thương mại điện tử và hợp đồng điện tử và đề
xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật.
Thứ ba nhóm sách, tạp chí nghiên cứu: tiêu biểu phải kể đến cuốn sách của
GS.TS. Nguyễn Thị Mơ (2006) “Cẩm nang pháp luật về giao kết hợp đồng điện
tử”, NXB Lao động – xã hội, Hà Nội; TS. Trần Văn Biên (2010) “Hợp đồng điện
tử theo pháp luật Việt Nam”, NXB Tư Pháp, Hà Nội. Tiếp đó là các bài viết của
GS.TS. Nguyễn Thị Mơ (2006), “ Luật giao dịch điện tử năm 2005 và những quy
định về giao kết hợp đồng điện tử”, tạp chí Kinh tế đối ngoại số 19; TS. Trần Văn
Biên, “Về khái niệm hợp đồng điện tử”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 8/2010;
TS. Trần Văn Biên, “Sự thỏa thuận trong giao kết hợp đồng điện tử qua mạng
Internet”, Tạp chí nhà nước và luật, số 10/2010; TS. Trần Văn Biên, “Pháp luật và
hợp đồng điện tử”, tạp chí Tòa án nhân dân, số 20/2010; TS. Trần Văn Biên,
“Khung pháp lý cơ bản về giao dịch điện tử của Việt Nam”, tạp chí thông tin khoa
5
học xã hội, số 1/2011.
Mặc dù các công trình nghiên cứu trên đã giành một phần lớn nội dung để
nghiên cứu, phân tích và đánh giá về thương mại điện tử nói chung, các vấn đề pháp
lý về hợp đồng điện tử nói riêng, việc nghiên cứu về các rủi ro trong giao kết hợp
đồng điện tử và những biện pháp phòng ngừa chưa được nghiên cứu một cách có hệ
thống và toàn diện.
Từ việc đánh giá tình hình nghiên cứu trên có thể khẳng định, việc lựa chọn.
đề tài: “Những rủi ro trong giao kết hợp đồng điện tử tại Việt Nam và giải pháp
phòng ngừa” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ luật học là cần thiết và đề tài
này không bị trùng lặp với các công trình nghiên cứu đã thực hiện trước đó.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
a) Mục đích
Luận văn tập chung nghiên cứu những vấn đề lý luận về đồng điện tử qua
mạng Internet – phương tiện điện tử được sử dụng phổ biến và có tầm ảnh hưởng,
chi phối lớn nhất trong giao kết hợp đồng điện tử hiện nay mà không mở rộng
nghiên cứu hợp đồng được giao kết thông qua các phương tiện điện tử khác như
điện thoại, điện tín, điện báo hay fax. Từ nền tảng lý luận về giao kết hợp đồng điện
tử và những rủi ro trong giao kết hợp đồng điện tử, tác giả sẽ đi sâu phân tích những
vấn đề lý luận về hợp đồng điện tử, thực trạng khung pháp lý và những rủi ro trong
giao kết hợp đồng điện tử ở Việt Nam từ đó đưa ra các biện pháp giúp phòng ngừa
các rủi ro này.
b) Phạm vi
Xuất phát từ mục đích nêu trên luận văn sẽ tập chung nghiên cứu những nội
dung cụ thể sau: (i) một số vấn đề lý luận chung về hợp đồng điện tử; (ii) thực trạng
pháp luật về hợp đồng điện tử và những rủi ro pháp lý thường gặp trong giao kết
hợp đồng điện tử; (iii) kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng điện tử
và các giải pháp đối với doanh nghiệp và người tiêu dùng Việt Nam.
6
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên
cứu luận văn đã sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp
phân tích, đánh giá, so sánh, diễn giải, tổng hợp nhằm làm rõ những vấn đề cần
được nghiên cứu. Trong số các phương pháp sử dụng luận văn đặc biệt lưu ý tới
phương pháp so sánh vì nó cho phép nhìn nhận vấn đề một cách đầy đủ, khách quan
trên có sở đối chiếu, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế, điều này là hết sức
cần thiết trong điều kiện hiện nay của Việt Nam vì đây là lĩnh vực còn khá mới mẻ
trong khi đó chúng ta cần thiết phải nỗ lực nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp
luật về thương mại điện tử đảm bảo phù hợp với các quy định của pháp luật quốc
tế, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
5. Điểm mới của luận văn
Đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau liên quan
đến hợp đồng điện tử, tuy nhiên mỗi bài viết lại đề cập đến các khía cạnh, cung như
có cách tiếp cận khác nhau về hợp đồng điện tử. Theo quan điểm cá nhân của tác
giả, đa phần các bài viết đều nhìn nhận và tiếp cận hợp đồng điện tử dưới góc độ
kinh tế học. Thông qua đề tài "Những rủi ro trong giao kết hợp đồng điện tử tại Việt
Nam và giải pháp phòng ngừa" tác giả muốn tiếp cận vấn đề hợp đồng điện tự dưới
góc độ luật dân sự. Theo đó:
Thứ nhất, luận văn sẽ nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận
chung về hợp đồng điện tử theo pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, luận văn sẽ đánh giá thực trạng pháp luật điều chỉnh hợp đồng điện tử
tại Việt Nam và đi sâu phân tích việc sử dụng phương tiện điện tử để giao kết hợp
đồng là vấn đề có tính hai mặt, bên cạnh những lợi ích không thể phủ nhận, thì giao
kết hợp đồng điện tử cũng có nhiều rủi ro tiềm ẩn gây thiệt hại về mặt kinh tế cho
các bên tham gia hợp đồng cũng như khó khăn cho cơ quan tài phán trong việc giải
quyết các tranh chấp phát sinh. Luận văn sẽ đưa ra sự nhận diện và kiểm soát vấn đề
7
rủi ro có thể phát sinh khi giao kết hợp đồng.
Thứ ba, Luận văn sẽ đưa ra sự nhận diện vấn đề rủi ro có thể phát sinh khi giao
kết hợp đồng, để từ đó thấy được những khó khăn, vướng mắc, kết hợp với sự tiếp
thu có chọn lọc kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới về việc xây dựng và
ban hành văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ hợp đồng điện tử từ đó rút ra bài
học kinh nghiệm nhằm định hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về giao
dịch điện tử trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
` Luận văn nghiên cứu tương đối có hệ thống về những rủi ro trong giao kết
hợp đồng điện tử, kết quả nghiên cứu luận văn có ý nghĩa quan trọng cả về phương
diện lý luận và ý nghĩa thực tiễn:
Hoàn thành luận văn này, tác giả hy vọng luận văn có thể được sử dụng làm tài
liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện quy định của pháp luật hợp
đồng điện tử; Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu và học tập, là cơ sở tham khảo cho các công trình nghiên cứu sau này về
giao dịch điện tử nói chung và hợp đồng điện tử nói chung.
Một trong những ý nghĩa mà tác giả thấy tâm đắc nhất đó là luận văn sẽ nâng
cao nhận thức của người đọc về hợp đồng điện tử, những rủi ro thường gặp và các
biện pháp phòng ngừa các rủi ro này để từ đó có các biện pháp phòng tránh rủi ro
bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi tham gia giao dịch.
7.Kết cấu của luận văn
Luận văn được trình bày gồm các nội dung chủ yếu sau:
Mở đầu
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về hợp đồng điện tử.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hợp đồng điện tử và nhhững rủi ro thường
gặp trong giao kết hợp đồng điện tử tại Việt Nam.
Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hợp đồng điện tử và các giải
8
pháp đối với Doanh nghiệp và người tiêu dùng Việt Nam.
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ
1.1. Khái niệm
Hợp đồng điện tử (Tiếng Anh là e-contracts hay on-line contracts) là một
loại hình cơ bản của giao dịch điện tử. Theo Điều 11 Luật Mẫu về Thương mại điện
tử của UNCITRAL năm 1996 “Hợp đồng điện tử được hiểu là hợp đồng được hình
thành thông qua việc sử dụng các phương tiện truyền dữ liệu”.[13, Điều 11]
` Theo Ủy ban Kinh tế Châu âu của Liên hợp quốc (UNECE), hợp đồng
điện tử là hợp đồng nhằm đáp ứng các yêu cầu của các đối tác thương mại
điện tử. Hợp đồng bao gồm các điều khoản cơ bản có thể đảm bảo rằng một
hay nhiều giao dịch thương mại điện tử, sau này có thể được ký kết giữa các
đối tác thương mại trong khuôn khổ pháp lý cho phép. Hợp đồng điện tử
nhằm đề cập tới mọi hình thức liên lạc điện tử có thể để ký kết các giao dịch
thương mại điện tử [26, tr.183-184].
Ở Việt Nam, hợp đồng điện tử là một thuật ngữ pháp lý mới, chính thức xuất
hiện ở Việt Nam vào những năm 2005, sau khi Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thông qua năm 2005. Mặc dù được xây dựng trên cơ sở tham khảo
Luật mẫu về thương mại điện tử năm 1996 của UNCITRAL, nhưng khác với luật
mẫu và pháp luật của nhiều nước trên thế giới, Luật giao dịch điện tử năm 2005 của
Việt Nam đưa ra định nghĩa chính thức về hợp đồng điện tử tại Điều 33 như sau: “
Hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp dữ liệu”[21,
Điều 33], trong đó thông điệp dữ liệu được hiểu là “ thông tin được tạo ra, gửi đi,
được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử”[21,Điều 4(2)]. Thông điệp
dữ liệu được thể hiện dưới hình thức: trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư
9
điện tử, điện tín, điện báo, fax, và các hình thức tương tự khác [21, Điều 10].
Nếu như pháp luật quốc tế và pháp luật trong nước đều không đưa ra định
nghĩa chính thức về hợp đồng điện tử, thì ngược lại định nghĩa về hợp đồng điện tử
được một số nhà nghiên cứu khoa học hoặc hoạt động thực tiễn pháp lý đưa ra trong
các công trình nghiên cứu, bài viết hay hội thảo khoa học, trong đó:
Theo Luật sư Oliver Iteanu – Đoàn Luật sư Paris:
Hợp đồng điện tử là sự gặp gỡ trên mạng viễn thông quốc tế
giữa một lời đề nghị giao kết hợp đồng thể hiện bằng phương tiện
nghe nhìn và một lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Sự gặp gỡ
này có thể được thực hiện một cách tức thời, nhờ sự trao đổi tương
tác. [17, tr.106]
Hoặc là “Hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông điệp
dữ liệu, hay nói cách khác là hợp đồng có sử dụng thông điệp dữ liệu”.[11, tr.367].
Đây là định nghĩa được đưa ra trong cuốn chuyên khảo Pháp luật về hợp đồng trong
thương mại và đầu tư – những vấn đề pháp lý cơ bản do TS. Nguyễn Thị Dung chủ
biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm 2008.
Trong tạp chí Nhà nước và pháp luật số 8/2010, TS. Trần Văn Biên cũng đã
phân tích, tìm hiểu và đưa ra khái niệm về hợp đồng điện tử “Tóm lại, nói đến hợp
đồng điện tử là nói đến một phương thức thiết lập hợp đồng chứ không phải là một
loại hợp đồng dựa trên một đối tượng cụ thể nào” [1,tr.36].
Ngày nay người ta hiểu khái niệm hợp đồng điện tử thông thường là những
hợp đồng được giao kết thông qua phương tiện điện tử mà trong đó internet đóng
vai trò cơ bản và được coi là điều kiện tiên quyết. Như vậy, Luật giao dịch điện tử
năm 2005 của Việt Nam định nghĩa hợp đồng điện tử theo cách khái quát. Sự liệt kê
thường không bao giờ đầy đủ, cách định nghĩa này là hợp lý, nó dự liệu được tất cả
các phương tiện điện tử được sử dụng để giao kết hợp đồng và giúp tránh khỏi sự
lạc hậu trước sự phát triển của công nghệ thông tin, bởi rất có thể trong tương lai sẽ
có thêm những phương tiện điện tử khác được phát minh, sáng chế mà được sử
10
dụng làm phương tiện điện tử.
Qua những phân tích ở trên có thể kết luận hợp đồng điện tử là những hợp
đồng được giao kết qua mạng Internet - phương tiện điện tử được sử dụng phổ biến
và có tầm ảnh hưởng, chi phối nhất trong giao kết hợp đồng điện tử hiện nay.
1.2. Đặc điểm của hợp đồng điện tử
Xét về bản chất hợp đồng điện tử cũng có những đặc điểm chung cơ bản
giống với hợp đồng truyền thống và đều phải tuân theo những quy định chung về
giao kết hợp đồng được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015.
Tham gia vào hợp đồng điện tử có ít nhất hai bên (có thể là hai doanh
nghiệp ký hợp đồng với nhau hoặc có thể là doanh nghiệp ký hợp đồng với người
tiêu dùng).
Về cơ sở hình thành hợp đồng điện tử cũng xuất phát từ sự thỏa thuận giữa
các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấp dứt quyền và nghĩa vụ như các hình
thức hợp đồng phổ biến mà chúng ta đang áp dụng, chỉ khác là chúng được xác lập
thông qua phương tiện điện tử dưới dạng thông điệp dữ liệu. Dù là hợp đồng truyền
thống hay hợp đồng điện tử, dù được giao kết bằng lời nói, hành vi, bằng văn bản
hay bằng các phương tiện điện tử thì điều quan trọng là hợp đồng chỉ hình thành
nếu các bên giao kết hoàn toàn tự nguyện, đạt được sự thỏa thuận rõ ràng, cụ thể về
quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Trong đó sự thống nhất và tự do ý chí giữa các bên
– cơ sở triết học của hợp đồng là điều quan trọng nhất dù là loại hợp đồng gì.
Hợp đồng điện tử khi giao kết hay thực hiện đều phải tuân thủ những chuẩn
mực chung nhất của hợp đồng nói chung liên quan tới hình thức của hợp đồng, chủ
thể của hợp đồng, các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, chế độ trách nhiệm khi vi
phạm hợp đồng và giải quyết tranh chấp phát sinh nếu có.
Khi giao kết hợp đồng điện tử hay hợp đồng truyền thống các bên đều phải
tuân thủ các nguyên tắc giao kết hợp đồng được quy định tại Bộ luật Dân sự đó là
11
nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã
hội và nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay
thẳng.
Trong giao kết hợp đồng điện tử, việc trao đổi thông tin đa phần được thực
hiện thông qua các phương tiện điện tử và chính yếu tố kỹ thuật công nghệ này đã
làm thay đổi cách thức, quy trình, thủ tục ký kết hợp đồng điện tử và hệ quả tiếp
theo là làm thay đổi cách thức thực hiện hợp đồng điện tử và ít nhiều chi phối cả
luật điều chỉnh. “Khía cạnh kỹ thuật làm cho quá trình giao kết hợp đồng điện tử
phát sinh nhiều vấn đề chưa từng gặp trong giao kết hợp đồng bằng phương thức
truyền thống và đây cũng chính là đặc điểm riêng của hợp đồng điện tử” [6, tr.24-
25]. Sự khác biệt này sẽ khiến cho hợp đồng điện tử mang một số tính riêng biệt cơ
bản sau đây:
- Về phương tiện ký kết: “Hợp đồng điện tử được ký kết thông qua các
phương tiện điện tử và mạng viễn thông, điển hình là mạng Internet. Chính các
công cụ này đã giúp mở rộng phạm vi ký kết hợp đồng điện tử ra khắp thế giới” [27,
tr.19]. Đặc biệt là việc sử dụng mạng Internet trong quá trình ký kết hợp đồng điện
tử đã giúp các bên có thể ký kết hợp đồng điện tử với mọi đối tác từ mọi nơi trên thế
giới mà không bị rào cản về biên giới quốc gia hạn chế. Với hợp đồng truyền thống
các bên sau khi gặp gỡ, trao đổi, thống nhất với nhau bằng các tài liệu giấy tờ và ký
bằng tay. Hợp đồng điện tử thì lại có một phương thức giao kết khác, các bên sẽ
không mất thời gian gặp gỡ, trao đổi và ký tay mà thực hiện việc giao kết trên các
phương tiện điện tử và hợp đồng sẽ được ký bằng chữ ký điện tử.
Một thương nhân, dù ở đâu, ở từng địa phương trong một quốc gia hay ở
phạm vi quốc tế, dù vào thời điểm nào cũng có thể giao dịch với đối tác của mình
mà không có bất kỳ trở ngại nào. Tuy nhiên việc xác định vị trí, địa điểm, nơi mà
thương nhân này tiến hành giao dịch trở nên khó khăn hơn so với hợp đồng truyền
thống, thậm chí đôi khi là không thể thực hiện. Điều này sẽ dẫn đến rất nhiều các
vấn đề pháp lý phức tạp khi phải xác định địa điểm giao kết hợp đồng, đặc biệt là
12
khi giao kết với thương nhân nước ngoài.
- Về chủ thể: Hợp đồng điện tử ngoài các chủ thể là người mua và người bán,
thì khi giao kết hợp đồng điện tử còn có một chủ thể khác không kém phần quan
trọng là các nhà cung cấp dịch vụ mạng và các cơ quan chứng thực chữ ký.
- Về vấn đề nội dung hợp đồng: hợp đồng điện tử có một số điểm khác biệt
với hợp đồng truyền thống như địa chỉ pháp lý, ngoài các địa chỉ pháp lý thông
thường hợp đồng điện tử còn có địa chỉ e-mail, địa chỉ website, địa chỉ xác định nơi
và ngày giờ gửi.
- Tính vô hình, phi vật chất: môi trường điện tử là môi trường số hóa, môi
trường ảo, vì vậy các hợp đồng điện tử mang tính chất vô hình, nghĩa là hợp đồng
điện tử được tồn tại, được chứng minh, được lưu trữ bởi các dữ liệu điện tử, điện từ
chứ không nhận biết một cách vật chất được. Tính vô hình và phi vật chất này,
khiến cho việc xác định một số yếu tố của hợp đồng trở nên khác, và khó khăn hơn
so với hợp đồng bằng giấy truyền thống. Ví dụ như: vấn đề bản gốc, vấn đề chữ ký
của hai bên, vấn đề bằng chứng của hợp đồng để làm cơ sở pháp lý khi tranh tụng
trước tòa…
- Tính rủ ro: Phương thức giao kết hợp đồng điện tử cũng có nhiều rủi ro.
Với sự phát triển nhanh chóng của thương mại điện tử, người ta cũng đang phải đối
mặt với những rủi ro phát sinh từ việc giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử mà
nguyên nhân phát sinh rủi ro là do chính tính vô hình và tính hiện đại về mặt kỹ
thuật của hợp đồng điện tử mang lại. Trong một môi trường ảo, đôi khi rất khó khăn
để xác định năng lực pháp lý của đối tác giao kết hợp đồng, xác định xem đơn hàng
trên internet là đơn hàng thật hay đơn hàng giả. Tính “vô hình” khiến cho việc lưu
trữ hợp đồng nhằm đảm bảo bằng chúng về hợp đồng trong trường hợp xảy ra tranh
chấp cũng là điều không đơn giản.
Làm thế nào để có một chữ ký điện tử đáng tin cậy? làm thế nào để bảo mật
hợp đồng điện tử và chữ ký điện tử? làm thế nào để hạn chế rủi ro chống phá sự tấn
công của các hacker… Đó là những câu hỏi làm đau đầu không chỉ các nhà kinh
doanh mà còn cả những nhà làm luật khi giao dịch điện tử phát triển trên toàn thế
13
giới.
Trên thực tế nhiều người đã phải chịu thiệt thòi do những rủi ro này mang
lại. Nhiều khách hàng bị mất tiền do bảo mật thẻ tín dụng không tốt, nhiều doanh
nghiệp không lấy được tiền hàng do hợp đồng bị giả mạo chữ ký điện tử, nhiều vụ
tranh chấp rơi vào bế tắc khi cơ quan giải quyết tranh chấp không tìm được cơ sở
pháp lý để bảo về quyền lợi của các bên có lợi ích bị xâm phạm v.v..
- Luật điều chỉnh: Với tính đặc thù về mặt kỹ thuật công nghệ như đã phân
tích, hợp đồng điện tử một mặt chịu sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật về hợp
đồng như Bộ Luật Dân sự năm 2015, mặt khác, việc ký kết và thực hiện hợp đồng
điện tử còn cần phải tuân theo một quy đình và thủ tục đặc biệt nhằm phòng tránh
rủi ro do chính yếu tố kỹ thuật đem lại. Vì vậy bên cạnh pháp luật về hợp đồng, hợp
đồng điện tử còn chịu sự điều chỉnh của một số văn bản pháp luật riêng.
Đặc biệt là việc giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nước ngoài, một vấn đề
thường phát sinh khi nghiên cứu về nội dung pháp luật điều chỉnh việc giao kết hợp
đồng điện tử nói riêng và hợp đồng nói chung. Vấn đề mấu chốt là ở chỗ, nguyên
tắc tự do giao kết hợp đồng cho phép các bên tham gia trong hợp đồng, dù là hợp
đồng truyền thống hay hợp đồng điện tử, được quyền thỏa thuận, lựa chọn thống
nhất luật áp dụng mà các bên cho là thích hợp để điều chỉnh hợp đồng của mình.
Tuy nhiên, nếu các bên không thống nhất được vấn đề này, việc xác định luật nào sẽ
áp dụng cho hợp đồng trở nên khó khăn. Với các hợp đồng được giao kết với các
quốc gia khác nhau cũng vậy, mặc dù trong quan hệ hợp đồng không có ranh giới
quốc gia, các giao dịch được tiến hành một cách phi biên giới. Song trên thực tế sẽ
có những giao dịch mà chủ thể ở các nước khác nhau, và các chủ thể này có quốc
tịch khác nhau với nơi họ cư trú hoặc có trụ sở.
Một giao dịch như vậy có thể được điều chỉnh bởi nhiều hệ thống luật khác
nhau. Trong những trường hợp như vậy, việc xác định luật pháp của quốc gia nào
điều chỉnh hợp đồng điện tử có yếu tố nước ngoài là vấn đề hết sức phức tạp.
Rõ ràng những quy định về giao kết hợp đồng điện tử, không thể hoàn toàn
14
giống những quy định về giao kết hợp đồng truyền thống. Chính vì vậy luật điều
chỉnh hợp đồng điện tử trong đó có hợp đồng điện tử có yếu tố nước ngoài sẽ phải
có những điểm riêng biệt nhất định để điều chỉnh cho phù hợp.
1.3. Vai trò của hợp đồng điện tử
Những nghiên cứu lý luận và thực tiễn cho thấy việc sử dụng hợp đồng điện
tử trong đời sống hàng ngày cũng như trong thương mại đem lại nhiều lợi ích, đặc
biệt là cho các nhà kinh doanh. Những lợi ích này có thể thấy được thông qua vai
trò của hợp đồng điện tử. Theo đó, hợp đồng điện tử có những vai trò chủ yếu sau
đây:
Thứ nhất, hợp đồng điện tử giúp các bên giao kết tiết kiệm được thời gian
đàm phán, giao kết hợp đồng.
Quá trình giao kết hợp đồng gồm nhiều bước, từ tìm hiểu đối tác, giới thiệu
sản phẩm dịch vụ, gửi đơn chào hàng, gửi chấp nhận chào hàng, đàm phán các điều
khoản của hợp đồng, ký kết, sửa đổi, lưu trữ…Nếu tất cả những công việc ấy đều
diễn ra bằng giấy trắng, mực đen thì thời gian để các bên soạn thảo, in ấn giấy tờ,
thời gian gửi và chờ nhận thư liên lạc giữa các bên là không ngắn.
Các cuộc điều tra cho thấy 80% thời gian để ký hợp đồng sẽ được tiết kiệm
bằng việc sử dụng hợp đồng điện tử. Việc sử dụng Internet sẽ giúp người tiêu dùng,
giúp các bên giao kết, kể cả bên giao kết là doanh nghiệp, giảm đáng kể thời gian
giao dịch. Thời gian giao dịch qua Internet chỉ bằng 7% thời gian giao dịch qua Fax,
bằng khoảng 0.5 phần nghìn thời gian giao dịch qua bưu điện.
Thứ hai, bằng việc giao kết các hợp đồng điện tử, các doanh nghiệp giảm
được chi phí giao dịch, bán hàng.
Chỉ bằng một vài “click” trên máy tính, một nhà kinh doanh, ngồi tại văn
phòng của mình (hay thậm chí ngồi tại nhà riêng) cũng có thể cùng lúc giao dịch
cùng lúc với nhiều khách hàng, giao kết được nhiều hợp đồng với những đối tác ở
nhiều nơi khác nhau. Điều này không thể có được đối với hợp đồng truyền thống.
Bằng phương thức điện tử, nhất là thông qua mạng Internet, các bên tham gia giao
dịch, cùng với việc giảm thời gian giao kết hợp đồng, cũng sẽ giảm một cách đáng
15
kể chi phí để thực hiện điều đó.
Trước hết là giảm chi phí giao dịch. Chi phí giao dịch qua Internet rẻ hơn phí
giao dịch qua Fax hay qua bưu điện chuyển phát nhanh. Các ứng dụng Internet sẽ
thay thế các cuộc gặp gỡ trực tiếp với các nhà cung cấp và khách hàng, từ đó trợ
giúp việc trao đổi thông tin và ký kết hợp đồng. Thư điện tử, hội thoại qua video và
thảo luận trên mạng xã hội trở nên rẻ hơn và dễ sử dụng hơn đối với các bên giao
kết ở xa nhau, so với việc sử dụng điện thoại, fax và gửi thư thông thường. Hợp
đồng điện tử có thể làm giảm chi phí giấy tờ do tất cả các thông tin đều được gửi và
nhận trực tiếp mà không cần được thể hiện bằng bất kỳ hình thức giấy tờ nào. Đồng
thời việc lưu trữ các hợp đồng điện tử nói riêng và các thông tin điện tử nói chung,
xét về mặt kỹ thuật của công nghệ thông tin, đều có thể được thực hiện rất nhanh
chóng mà không tốn kém chi phí giấy tờ.
Thứ ba, thực hiện hợp đồng điện tử sẽ giúp đẩy nhanh tiến độ “số hóa” đối
với một số sản phẩm và dịch vụ.
Các giao dịch thương mại điện tử thường được chia thành hai nhóm sau:
Một là, giao dịch buôn bán hàng hóa vật chất và dịch vụ thông thường.
Trong nhóm này Internet hay các mạng mở khác được sử dụng như một phương
tiện cho các giao dịch chào hàng, giao kết hợp đồng, thậm chí cả thanh toán, nhưng
việc giao hàng hóa và dịch vụ tới khách hàng vẫn phải được thực hiện một cách vật
chất thông qua những phương tiện truyền thống.
Giao dịch điện tử thuộc nhóm này có sự kết hợp giữa giao dịch truyền thống
với giao dịch điện tử. Các quy trình giao kết hợp đồng điện tử được phối kết hợp,
đan xen giữa các bước, các quy trình truyền thống với các bước, các quy trình giao
dịch điện tử. Cách thức này tạo ra những ưu việt và thuận lợi cho một hợp đồng hợp
đồng điện tử nói riêng và giao dịch điện tử nói chung.
Hai là, giao dịch mua bán các sản phẩm và dịch vụ “số hóa”. Việc giao dịch,
việc thực hiện giao kết hợp đồng, thanh toán và cung ứng hàng hóa, dịch vụ đều
được thực hiện thông qua việc truyền các thông điệp dữ liệu đã được số hóa. Giao
dịch điện tử thuộc nhóm số hai này sẽ được thực hiện theo quy trình điện tử một
16
cách toàn diện.
Công nghệ thông tin bản thân nó đang xâm nhập vào các lĩnh vực kinh tế, xã
hội và cho ra đời một số sản phẩm đặc thù là những sản phẩm số (digital products).
Đây là các sản phẩm phi vật thể như: các trương trình phần mềm, các website, nhạc,
phim truyện, sách điện tử…các sản phẩm này có đặc điểm là có thể giao hàng qua
mạng. Thực chất của việc mua bán, trao đổi các sản phẩm này là việc trao dổi dung
liệu hàng hóa. Dung liệu (content) là nội dung của hàng hóa, mà không phải là bản
thân vật mang nội dung đó; ví dụ như: tin tức, nhạc phim, các trương trình phát
thanh, truyền hình, các chương trình phần mềm, các ý kiến tư vấn…
Trước đây dung liệu được thay đổi dưới dạng hiện vật (physical form) bằng
cách đưu vào đĩa, vào băng in thành sách, báo, thành văn bản, đóng gói thành bao bì
chuyển đến tay người sử dụng, hoặc đến đại lý phân phối (cửa hàng, quầy báo…) để
người sử dụng mua và nhận trực tiếp. Ngày nay dung liệu được số hóa và truyền gửi
qua mạng, gọi là “giao gửi số hóa” (digital delivery). Các tờ báo, các tư liệu của
các công ty, sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ lần lượt được đưa lên website. Các
chương trình phát thanh, truyền hình, giáo dục, ca nhạc, kể truyện cũng được số
hóa, truyền tải qua Internet, người sử dụng tải xuống sử dụng thông qua màn hình
và thiết bị âm thanh của máy tính điện tử. Các sản phẩm số này (hàng hóa thông tin
phi vật thể mà công nghệ thông tin mang lại) sẽ thực sự tạo ra các sản phẩm mới,
các kênh tiêu thụ lớn có giá trị cao.
Đối với việc giao dịch mua bán các sản phẩm đặc thù, hợp đồng điện tử sẽ là
phương thức phù hợp, tiện lợi và nhanh chóng nhất.
Thứ tư, sử dụng hợp đồng điện tử giúp các doanh nghiệp nâng cao năng lực
cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới phát triển với tốc độ nhanh chóng và sự
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thế giới diễn ra ngày càng khốc liệt, việc tìm
kiếm được nhiều đối tác khách hàng, tìm kiếm được thị trường mới, tìm kiếm được
kênh cung ứng linh hoạt, gọn nhẹ, nhanh chóng với chi phí giảm cũng như khả năng
phản ứng nhanh hơn với các cơ hội trong guồng quay của thế giới kinh doanh là
17
những lợi thế không thể thiếu đối với một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triền
theo kịp với thị trường thế giới. Thương mại điện tử nói chung và hợp đồng điện tử
nói riêng chính là chiếc chìa khóa dẫn doanh nghiệp đến với những cơ hội, thử
thách, cũng như đưa doanh nghiệp doanh nghiệp tới khả năng nâng cao năng lực
cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong điều kiện hội nhập
kinh tế quốc tế.
Trước hết nói về việc tìm kiếm đối tác, khách hàng, lợi ích thương mại điện
tử nói chung và hợp đồng điện tử nói riêng là rất quan trọng vì nó giúp các doanh
nghiệp cùng một lúc và trong thời gian ngắn có thể tiếp cận, giao dịch và trao đổi
thông tin với rất nhiều đối tác. Thông qua sự kết nối điện tử doanh nghiệp có thể
liên lạc một cách hiệu quả, nhanh chóng, với các nhà cung cấp, với khách hàng của
mình, thậm chí nếu họ ở các nước khác nhau với múi giờ khác nhau và ngôn ngữ
khác nhau.
Giao kết hợp đồng điện tử thông qua mạng Internet/web sẽ tạo điều kiện cho
các chủ thể, dù họ là doanh nghiệp, cơ quan nhà nước, người tiêu dùng, dù họ ở
trong nước hay ở nước ngoài vẫn có thể giao tiếp trực tiếp (liên lạc trực tuyến) và
liên tục mà không bị cản trở bởi khoảng cách về thời gian, về địa lý… Điều này sẽ
tạo điều kiện cho các chủ thể giao kết hợp đồng, đặc biệt là hợp đồng thương mại
điện tử sẽ có thể hợp tác, quản lý, tận dụng tối đa các cơ hội kinh doanh trong phạm
vi quốc gia cũng như ở khu vực hay ở môi trường kinh doanh quốc tế.
Việc tiết kiệm thời gian và chi phí giao dịch, ký kết hợp đồng như đã phân
tích ở trên là yếu tố quan trọng làm giảm chi phí kinh doanh nói chung của doanh
nghiệp, từ đó góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Hơn nữa
trong môi trường điện tử thông tin được truyền dẫn từ người khởi tạo và người nhận
hầu như, là ngay lập tức. Điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp nhờ vào các phương
tiện điện tử, có thể tiếp cận và nắm bắt được một cách kịp thời những cơ hội kinh
doanh mới, ký kết được hợp đồng một cách rất nhanh chóng.
1.4. So sánh hợp đồng điện tử và hợp đồng truyền thống
Hợp đồng truyền thống là những hợp đồng được ký kết theo những phương
18
thức truyền thống như các bên trực tiếp gặp gỡ, đàm phán và giao kết hợp đồng trực
tiếp bằng văn bản, thậm chí bằng hành vi cụ thể hoặc giao kết hợp đồng thông qua
trao đổi thư từ, tài liệu giao dịch bằng đường bưu điện. Còn hợp đồng điện tử là hợp
đồng được giao kết bằng phương tiện điện tử.
Về mặt pháp lý, hợp đồng điện tử và hợp đồng truyền thống đều là hợp đồng
được thiết lập dựa trên các quy định chung của Bộ luật Dân sự. Vì vậy chúng có
những điểm giống nhau và cũng có những điểm khác nhau.
1.4.1. Sự giống nhau
Thương mại điện tử không làm thay đổi khái niệm thương mại truyền thống.
thương mại điện tử là một hình thức kinh doanh mới, kinh doanh qua một phương
tiện, một cách thức mới trên cơ sở áp dụng các công nghệ hiện đại. Vì vậy hợp đồng
điện tử và hợp đồng truyền thống có những điểm giống nhau cơ bản.
- Điểm giống nhau thứ nhất: chúng đều là hợp đồng, mà hợp đồng được hiểu
là “sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự [25, Điều 385]. Dù là hợp đồng truyền thống hay hợp đồng điện tử,
dù là hợp đồng được giao kết bằng lời nói, bằng hành vi, bằng văn bản hay các
phương tiện điện tử thì điều quan trọng là hợp đồng chỉ hình thành nếu các bên giao
kết đạt được sự thỏa thuận, sự thỏa thuận cụ thể, rõ ràng về quyền và nghĩa vụ đối
với nhau. Sự tự do và thống nhất ý chí giữa các bên đương sự là điều quan trọng
nhất làm nên hợp đồng, dù là hợp đồng truyền thống hay hợp đồng điện tử.
- Điểm giống nhau thứ hai: Cả hợp đồng điện tử và hợp đồng truyền thống,
khi giao kết và thực hiện chúng đều phải dựa trên những cơ sở pháp lý nhất định và
tuân thủ những quy định liên quan đến hình thức của hợp đồng, chủ thể của hợp
đồng, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, quy trình giao kết hợp đồng, trách nhiệm
do vi phạm hợp đồng và giải quyết tranh chấp phát sinh, nếu có.
- Điểm giống nhau thứ ba: khi giao kết hợp đồng dù là hợp đồng điện tử hay
hay hợp đồng truyền thống, các bên giao kết hợp đồng phải tuân thủ nguyên tắc
giao kết hợp đồng đó là “ tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận” và nguyên tắc “
thiện trí, trung thực”. Hai nguyên tắc này được quy định tại Điều 3 BLDS năm
19
2015. Hai nguyên tắc này được áp dụng cho tất cả các loại hợp đồng, dù đó là hợp
đồng điện tử hay hợp đồng truyền thống, là hợp đồng dân sự hay hợp đồng thương
mại.
- Điểm giống nhau thứ tư: là cả hai hợp đồng này đều phải tuân theo những
quy định có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng. Trước hết khi thực hiện hợp
đồng, dù là hợp đồng điện tử hay hợp đồng truyền thống, các bên trong hợp đồng
phải tuân theo ba nguyên tắc thực hiện hợp đồng: Nguyên tắc thứ nhất là nguyên tắc
thực hiện đúng hợp đồng: đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại, thời
hạn, phương thức và các thỏa thuận khác; Nguyên tắc thứ hai là nguyên tắc thực
hiện hợp đồng một cách trung thực theo tinh thần hợp tác và các bên cùng có lợi,
bảo đảm tin cậy lẫn nhau; và nguyên tắc thứ ba là nguyên tắc không được xâm
phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác.
1.4.2. Sự khác nhau:
Bên cạnh nhưng điểm giống nhau cơ bản như trên, hợp đồng điên tử và hợp
đồng truyền thống cũng có nhiều điểm khác nhau. Được giao kết qua việc sử dụng
các phương tiện điện tử hiện đại, với tính chất phi biên giới hợp đồng điện tử có rất
nhiều điểm khác biệt so với hợp đồng truyền thống. Nhiều quy định được áp dụng
đối với hợp đồng truyền thống trở nên không phù hợp với hợp đồng điện tử (như
quy định về hình thức viết, chữ ký tay…). Hiện nay trên thế giới đã xuất hiện các
hợp đồng điện tử mẫu. Những hợp đồng điện tử mẫu này khẳng định một lần nữa là,
về mặt nội dung cũng như về mặt pháp lý, hợp đồng điện tử có những điểm khác
biệt so với hợp đồng thông thường. Những điểm khác biệt đó là:
- Về chủ thể: Các chủ thể tham gia vào việc giao kết hợp đồng điện tử: Trong
giao dịch điện tử ngoài các chủ thể tham gia giao kết như đối với thương mại truyền
thống (người bán, người mua) đã xuất hiện các bên thứ ba có liên quan chặt chẽ đến
hợp đồng điện tử. Đó là các nhà cung cấp dịch vụ mạng và chứng thực chữ ký điện
tử. Những bên thứ ba này có nhiệm vụ chuyển đi, lưu giữ các thông tin giữa các bên
tham gia giao dịch thương mại điện tử, đồng thời họ cũng có thể đóng vai trò trong
20
việc xác nhận độ tin cậy của các thông tin trong giao dịch thương mại điện tử.
Với đặc thù đuộc giao kết dươi dạng phi giấy tờ, việc giao kết hợp đồng điện
tử sẽ gặp rủi ro nếu không có các nhà cung cấp dịch vụ mạng và các cơ qua chứng
thực chữ ký điện tử. Các nhà cung cấp dịch vụ mạng có trách nhiêm duy trì hệ
thống mạng (mạng nội bộ của doanh nghiệp cũng như mạng quốc gia) luôn ở trong
tình trạng hoạt động tốt. Hệ thống mạng trục trặc ngay lập tức sẽ ảnh hưởng đến
việc giao kết hợp đồng điện tử ở phạm vi từng đơn vị, doanh nghiệp … cũng như ở
phạm vi quốc gia. Còn cơ quan chứng thực chữ ký điện tử đóng vai trò quang trọng
trong việc xây dựng và tạo được một cơ chế sao cho các hợp đồng điện tử không thể
bị giả mạo và không thể bị phủ nhận khi tranh chấp phát sinh.
Chính vì vậy đối với hợp đồng điện tử, chừng nào hệ thống mạng có trục trặc
chừng nào các cơ quan chứng thực chữ ký chưa được thành lập, thậm chí được
thành lập nhưng chưa hoạt động thì chừng đó, việc giao kết hợp đồng điện tử cũng
như việc thực hiện hợp đồng điện tử sẽ khó có thể thành công. Rủi ro sẽ là rất lớn
nếu không có những người thứ ba này tham gia vào quy trình giao kết hợp đồng
điện tử.
Những người thứ ba này không tham gia vào quy trình đàm phán, giao kết
hay thực hiện hợp đồng. Họ chỉ tham gia với tư cách là các cơ quan hỗ trợ nhằm
đảm bảo tính hiệu quả và giá trị pháp lý cho việc giao kết và thực hiện hợp đồng
điện tử.
Địa vị pháp lý của họ với tư cách là chủ thể tham gia vào một khâu, hoặc
một số khâu của quá trình giao kết hợp đồng điện tử cần phải được quy định như thế
nào? Đây là điểm làm nên sự khác biệt của giao kết hợp đồng điện tử.
-Về nội dung: Hợp đồng điện tử có một số điển khác biệt so với hợp đồng
truyền thống. Những điểm khác biệt đó là:
+ Địa chỉ pháp lý: ngoài địa chỉ pháp lý thông thường (địa chỉ bưu điện) hợp
đồng điện tử còn có địa chỉ e –mail, địa chỉ website, địa chỉ xác định nơi, ngày giờ
gửi fax…Những địa chỉ điện tử này có ý nghĩa rất lớn để xác định tính hiện hữu, sự
tồn tại thật sự của các bên giao kết hợp đồng với tư cách là chủ thể của việc giao kết
21
hợp đồng điện tử.
+ Các quy định về truy cập, cải chính thông tin điện tử (ví dụ như việc thu
hồi hay hủy một đề nghị giao kết hợp đồng trên mạng Internet…)
+ Các quy định về chữ ký điện tử hay một cách thức khác ( như mật khẩu,
mã số…) để xác định được các thông tin có giá trị về các chủ thể giao kết hợp đồng.
+ Về thanh toán trong các hợp đồng điện tử cũng thường được thực hiện
thông qua các phương tiện điện tử. Vì vậy trong hợp đồng điện tử thường có các
quy định chi tiết về phương thức thanh toán điện tử, ví như thanh toán bằng thẻ tín
dụng, việc bảo mật các thông tin liên quan đến thẻ tín dụng cho khách hàng.
-Về quy trình giao kết hợp đồng điện tử: Đây là điểm khác biệt lớn nhất giữa
hợp đồng điện tử và hợp đồng truyền thống. Một hợp đồng truyền thống sẽ được
giao kết bằng việc các bên trực tiếp gặp nhau hay trao đổi với nhau bằng các
phương tiện “ giấy tờ”, “ vật chất” và ký bằng chữ ký tay. Còn một hợp đồng điện
tử sẽ được giao kết bằng phương tiện điện tử và hợp đồng sẽ được ký bằng chữ ký
điện tử. Hai phương thức giao kết hoàn toàn khác nhau sẽ làm phát sinh những điểm
khác biệt lớn liên quan đến quy trình giao kết: việc xác định thời gian và địa điểm
giao kết hợp đồng điện tử sẽ trở nên khó khăn hơn so với hợp đồng truyền thống vì
thời điểm “gửi” và “nhận” một thông điệp dữ liệu (chính là một chào hàng hay
chấp nhận chào hàng) trở nên khó xác định trong môi trường điện tử. Việc tạo lập
một “ chữ ký” trong môi trường điện tử hay việc áp một “con dấu” sẽ không thể
được thực hiện như đối với hợp đồng truyền thống.
- Về pháp luật điều chỉnh: Về mặt pháp lý, ngoài các quy định chung về hợp
đồng trong Bộ luật dân sự sẽ được áp dụng cho các hợp đồng truyền thống và hợp
đồng điện tử, do tính chất đặc thù cảu hợp đồng điện tử và do những vấn đề pháp lý
đặc biệt (hay chính các rủi ro về mặt pháp lý) nảy sinh trong quá trình giao kết và
thực hiện hợp đồng điện tử mà loại hợp đồng này thường còn phải được đặc biệt
điều chỉnh bởi một hệ thống quy phạm pháp luật đặc thù, dành riêng cho hợp đồng
điện tử. Điều đó giải thích tại sao để phát triển hoạt động thương mại điện tử nói
chung và tăng cường giao kết hợp đồng điện tử nói riêng, ở phạm vi quốc gia hay
22
quốc tế, các quốc gia và các tổ chức quốc tế đều xây dựng một khung pháp lý giành
riêng cho hoạt động thương mại điện tử trong đó có những quy định về hợp đồng
điện tử và giao kết hợp đồng điện tử. Ví dụ như các quy định về giá trị pháp lý của
hợp đồng điện tử, của chữ ký điện tử, của một bản gốc hợp đồng, các quy định về
việc chứng thực chữ ký điện tử. …Và vì vậy ngày nay ở nhiều nước, bên cạnh các
đạo luật về hợp đồng truyền thống người ta phải ban hành Luật giao dịch điện tử,
luật về giao kết hợp đồng điện tử, luật về thương mại điện tử, luật về chữ ký điện
tử…
1.5. Pháp luật về hợp đồng điện tử của một số quốc gia trên thế giới
1.5.1. Pháp luật quốc tế về hợp đồng điện tử
Trong quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam đã ký kết một số Điều ước quốc
tế như TPP, đang quan tâm để tham gia Công ước về giao dịch điện tử của Liêp hợp
quốc năm (Công ước 2005). Trên thực tế, khi xây dựng khung pháp luật về TMĐT
nói chung và hợp đồng điện tử nói riêng, Việt Nam đã tiếp thu các nguyên tắc, nội
dung cơ bản của Luật Mẫu về thương mại điện tử cũng như Luật Mẫu về chữ ký
điện tử. Cả hai Luật Mẫu này đều do Ủy ban Liên hợp quốc về Luật thương mại
quốc tế (UNCITRAL) ban hành.
a. Công ước Liên hợp quốc về sử dụng truyền thông điện tử trong hợp đồng
quốc tế
Với mục đích áp dụng một cách thống nhất và hài hòa trong các giao dịch
thương mại điện tử của các quốc gia thành viên, Công ước Liên hợp quốc về sử
dụng truyền thông điện tử trong hợp đồng quốc tế (Công ước TMĐT) được Đại hội
đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 23/11/2005 tại New York, Hoa Kỳ, Công ước
này mới có hiệu lực kể từ ngày 1/3/2013 khi có 3 nước phê chuẩn là Dominican,
Honduras và Singapore. Hiện nay Công ước này đã được18 quốc gia tham gia ký
kết và một quốc gia gia nhập.Công ước 2005 về TMĐT bao gồm 4 chương và 25
điều quy định về việc sử dụng thông tin điện tử trong hợp đồng quốc tế, công nhận
giá trị pháp lý cho hợp đồng điện tử, các yêu cầu về hình thức, thời gian và địa điểm
liên quan đến chứng từ điện tử, lời đề nghị giao kết hợp đồng hay sử dụng hệ thống
23
thông tin tự động hay tình huống lỗi nhập thông tin. Hiện nay Việt Nam chưa ký kết
hay gia nhập Công ước Liên hiệp quốc về sử dụng truyền thông điện tử trong hợp
đồng quốc tế ngày 23/11/2005 nhằm ràng buộc các trách nhiệm pháp lý trong hệ
thống pháp luật của mình trong lĩnh vực thương mại điện tử, tuy nhiên việc gia nhập
sẽ giúp Việt Nam tiếp cận các chuẩn mực pháp lý quốc tế cũng hội nhập sâu rộng
vào nền kinh tế thế giới
b.Luật Mẫu về thương mại điện tử
Để hạn chế các xung đột khi các cá nhân tổ chức ở các quốc gia khác nhau
thực hiện các giao dịch mua bán hàng hóa dịch vụ, Ủy ban Liên hợp quốc về Luật
thương mại quốc tế (UNCITRAL) đã ban hành Luật Mẫu về thương mại điện tử
ngày 12/6/1996 (Sửa đổi năm 1998) với hai phần gồm 17 điều. Luật mẫu được soạn
thảo dựa trên các nguyên tắc cơ bản như:
- Tương đương thuộc tính, hay công nhận giá trị pháp lý như văn bản.
- Tự do thoả thuận hợp đồng.
- Tôn trọng việc sử dụng tự nguyện phƣơng thức truyền thông điện tử.
- Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
- Xác định thời điểm, nơi gửi và nhận thông điệp dữ liệu.
- Giá trị pháp lý của hợp đồng và tính ưu việt của những quy định pháp lý về
hình thức hợp đồng: những đòi hỏi đối với hợp đồng để có giá trị pháp lý và khả
năng được thi hành phải được tôn trọng.
Việc xây dựng, ban hành Luật Mẫu về thương mại điên tử được nhiều Quốc
gia thành viên tiếp thu những nguyên tắc, nội dung cơ bản để xây dựng pháp luật về
thương mại điện tử cho riêng mình.
c. Luật Mẫu về chữ ký điện tử
Để bảo đảm an toàn cho các giao dịch điện tử, việc xây dựng Luật Mẫu về
chữ ký điện tử đã đươc Ủy ban Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế
(UNCITRAL) ban hành ngày 5 tháng 7 năm 2001 nhằm mục đích khuyến nghị các
quốc gia thành viên xây dựng, ban hành các văn bản pháp luật liên quan đến sử
24
dụng chữ ký điện tử một cách thống nhất hoặc ít có khác biệt.
Luật Mẫu về chữ ký điện tử với 12 điều, với các nguyên tắc cơ bản như:
Nguyên tắc tương đương chức năng, nguyên tắc không phân biệt và trung lập về
công nghệ. Ngoài các nguyên tắc, Luật Mẫu về chữ ký điện tử còn quy định một số
nội dung cơ bản như sau:
- Công nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử.
- Những điều kiện để chữ ký điện tử đảm bảo độ an toàn và tin cậy v.v...
Việc xây dựng Luật Mẫu về chữ ký điện tử đã đưa ra các quy định về tiêu chuẩn kỹ
thuật và các điều kiện đảm bảo giá trị hiệu lực của chữ ký điện tử. Hiện nay, nhiều
quốc gia thành viên đã tiếp thu những nguyên tắc và nội dung cơ bản của Luật Mẫu
về chữ ký điện tử trong pháp luật của mình.
1.5.2. Pháp luật về hợp đồng điện tử của một số quốc gia trên thế giới
a. Hoa Kỳ
Hoa Kỳ là nước đi đầu trong lĩnh vực thương mại điện tử, tháng 7 năm 1999,
Hiệp hội các thanh tra viên về pháp luật các tiểu bang Hoa Kỳ đã thông qua Luật
mẫu về các giao dịch điện tử và gửi cho các cơ quan lập pháp ở từng bang để thông
qua và ban hành dựa trên 4 nguyên tắc cơ bản là: (i) Các bên được tự do xác lập
quan hệ hợp đồng với nhau khi thấy phù hợp; (ii) Các quy định phải có tính chất
trung lập về mặt công nghệ và phải có tính mở cho tương lai, có nghĩa là không
được quy định về một loại công nghệ cụ thể nào đó và không được hạn chế việc sử
dụng hay phát triển của các công nghệ tương lai; (iii) Các quy định hiện hành cần
được sửa đổi, bổ sung và ban hành mới trong trường hợp cần thiết để hỗ trợ cho
việc sử dụng công nghệ điện tử; (iv) Các quy định phải công bằng cho cả các doanh
nghiệp đã áp dụng rộng rãi các công nghệ mới và các doanh nghiệp còn chưa áp
dụng. Nhằm tạo lập một khung pháp lý thống nhất cho giao dịch thương mại điện tử
ở Hoa Kỳ. Ngày 30/6/2000, Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã ký Luật Thương mại
quốc gia và quốc tế về chứ ký điện tử. E-Sign thừa nhận chữ ký điện tử có giá trị
pháp lý tương đương giá trị chữ ký truyền thống trong ký kết hợp đồng và không
thể bị phủ nhận hay từ chối chỉ vì lý do đó là chữ ký điện tử. Luật E-Sign của Hoa
25
Kỳ ra đời đã đánh dấu một mốc quan trọng về mặt pháp lý cho các giao dịch điện tử
nói chung và hợp đồng điện tử nói riêng. Riêng đối với doanh nghiệp Hoa Kỳ, E-
Sign được ban hành đã tạo môi trường pháp lý cho các doanh nghiệp Hoa Kỳ sử
dụng chữ ký số hoá trong các giao dịch điện tử. Luật thống nhất về Giao dịch điện
tử là một văn bản ngắn gọn, quy định về sự công nhận giá trị pháp lý của các dữ
liệu điện tử, chữ ký điện tử và các văn bản điện tử khác. Văn bản này không quy
định bất kỳ ưu thế nào cho bất kỳ một phương thức hay công nghệ nào.
Luật mẫu về các giao dịch điện tử là một văn bản có tính linh hoạt cao có thể
tồn tại lâu dài và là cơ sở pháp lý phù hợp cho các giao dịch thương mại điện tử
trong suốt một giai đoạn dài.
b. Canada
Để tạo một môi trường pháp lý hoàn chỉnh cho các giao dịch thương mại
điện tử, Chính phủ Canada đã tiến hành rà soát, sửa đổi các văn bản hiện hành đồng
thời ban hành các văn bản mới liên quan đến thương mại điện tử như luật về chữ ký
điện tử, chứng cứ điện tử v.v... Luật về Chữ ký điện tử của Canada cho phép các cơ
quan liên bang quyền quyết định các yêu cầu của pháp luật hiện hành về hình thức
giao dịch có thể được thoả mãn bằng các phương tiện điện tử như thế nào. Chữ ký
điện tử có thể được sử dụng trong các giao dịch thương mại điện tử.
Vấn đề đặt ra là phải xác định được mối liên hệ giữa chữ ký điện tử với
người ký tài liệu điện tử. Hiện nay, Canada đã có các quy định pháp luật về thu
thập, sử dụng và tiết lộ thông tin về cá nhân do các cơ quan nhà nước quản lý. Luật
bí mật cá nhân liên bang có hiệu lực từ năm 1982, được áp dụng đối với tất cả các
cơ quan nhà nước cấp liên bang và một số doanh nghiệp có quy mô liên bang.
Gần đây, Canada đã ban hành Luật Bảo vệ thông tin cá nhân và tài liệu điện
tử. Đây là một bước tiến mới trong việc bảo vệ thông tin cá nhân. Ngoài ra các cơ
quan nhà nước còn phải tuân thủ luật về quyền riêng tư (the Privacy Act).
Về vấn đề thuế, hiện nay Canada đang cùng một số thành viên khác của
OECD phát triển chiến lược quốc tế trong đó có các hiệp ước về thuế đối với
thương mại điện tử, hướng dẫn xử lý việc chuyển giá, về việc áp dụng thuế tiêu thụ
26
và về hàng rào thuế quan cửa khẩu.
c. Hàn Quốc
Ở Hàn Quốc, ngay từ năm 1999, Chính phủ đã xây dựng “Đạo luật cơ bản về
thương mại điện tử” và chuẩn bị một loạt các đạo luật liên quan đến thương mại
điện tử, liên tục nâng cao khuôn khổ pháp lý thương mại điện tử bằng cách chỉnh
sửa luật hiện hành, ban hành luật mới. Các đạo luật chính đã được ban hành bao
gồm: Luật khung về thương mại điện tử được ban hành năm 1999, sửa đổi năm
2002, 2005 đã tạo khung pháp lý trụ cột vững chắc cho các bộ luật khác về thương
mại điện tử ở Hàn Quốc. Luật Bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử
được ban hành năm 2002 và sửa đổi năm 2005. Luật Chữ ký điện tử được ban hành
năm 1998, sửa đổi năm 2001, 2005. Luật Phát triển ngành đào tạo điện tử được ban
hành năm 2004. Luật Phát triển ứng dụng mạng công nghệ thông tin và truyền
thông và bảo vệ thông tin được ban hành năm 1999, sửa đổi năm 2002, 2004 và
2005. Bên cạnh đó là một số đạo luật khác như: Luật Kinh doanh tài chính về tín
dụng; Luật Khuyến khích ngành nội dung số trực tuyến; Luật Sản phẩm trò chơi,
sản phẩm hình ảnh và âm thanh; Luật về các nguồn địa chỉ Internet; Luật Bản
quyền; Luật Chính phủ điện tử; Luật Bảo vệ chương trình máy tính; Luật Hóa đơn
điện tử cũng đƣợc ban hành nhằm thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động thương mại điện tử.
d. Singapore
Năm 1998, Singapore cho ban hành Luật Giao dịch điện tử (Electronic
Transaction Act 1998) nhằm mục đích giải quyết vướng mắc, khó khăn về mặt pháp
lý khi các chủ thể tham gia vào các giao dịch trong một môi trường phi giấy tờ và
không tiếp xúc trực tiếp với nhau. Nguyên tắc cơ bản để xây dựng Luật Giao dịch
điện tử là nhằm: Tuân theo các tiêu chuẩn quốc tế và mô hình quốc tế để có thể hoà
nhập với khung pháp luật thương mại điện tử toàn cầu; tránh các quy định quá chặt
chẽ; linh hoạt và trung lập về mặt công nghệ để theo kịp môi trường luôn thay đổi;
quy định rõ ràng, minh bạch và có khả năng tiên liệu trước.
Mục tiêu của đạo luật là thiết lập một quy tắc thực hành (Code of Conduct)
chung để hỗ trợ cho các giao dịch thương mại điện tử; xây dựng cơ sở hạ tầng về
27
công chứng; cho phép nộp đơn, hồ sơ và cấp phép điện tử ở các cơ quan quản lý
nhà nước; đồng thời, làm rõ trách nhiệm của nhà cung cấp dịch vụ mạng đối với nội
dung thông tin của bên thứ ba. Luật Giao dịch điện tử của Singapore đã đưa ra
những quy tắc thương mại nhằm làm rõ quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia
trong một giao dịch thương mại điện tử. Những quy tắc nằm trong đạo luật này
mang các tính chất đặc trưng của những quy định mẫu quốc tế, đặc biệt là các quy
định của Luật mẫu UNCITRAL về thương mại điện tử. Quy tắc thực hành chung
trong Luật Giao dịch điện tử của Singapore cũng chứa đựng các điều khoản điều
chỉnh việc ký kết hợp đồng qua các phương tiện điện tử thông qua việc quy định về
thời gian, địa điểm gửi và nhận thông tin điện tử. Đạo luật này còn quy định về giá
trị pháp lý của các bản ghi và chữ ký điện tử, cùng với độ an toàn của chúng. Mặt
khác, để hỗ trợ cho việc sử dụng chữ ký điện tử, một cơ sở hạ tầng về công chứng
đã được xây dựng. Theo đó, cơ quan công chứng sẽ xác nhận một mã khoá chứng
thực có mối liên hệ với một cá nhân nhất định. Một cơ quan công chứng có thể xác
minh về một cá nhân nào đó trước khi cấp một chứng thực dưới dạng giấy chứng
nhận kỹ thuật số. Giấy chứng nhận này có thể dùng để xác minh chữ ký của cá nhân
đó.
Luật Giao dịch điện tử của Singapore đã tạo một môi trường pháp lý khá
phù hợp cho các giao dịch điện tử và thương mại điện tử nói chung, trong đó có
hướng dẫn giao kết hợp đồng điện tử nói riêng. Đạo luật này đã xoá bỏ được những
trở ngại trong các quy định pháp luật hiện hành và tạo được lòng tin cho các doanh
nghiệp, cá nhân khi tham gia vào thương mại điện tử cũng như giao kết hợp đồng
điện tử.
đ.Lược sử pháp luật về hợp đồng điện tử trong pháp luật Việt Nam
Trước năm 2000, Thương mại điện tử ở Việt Nam còn là thuật ngữ pháp lý
mới. Hệ thống pháp luật Việt Nam có quy định nhưng chưa thể hiện được bản chất
và tầm quan trọng của thương mại điện tử. Luật thương mại năm 1997 nhắc tới hình
thức hợp đồng bằng phương tiện điện tử như fax, telex, thư điện tử và coi chúng là
văn bản (Điều 49). Quy định này chỉ mang tính hình thức và chưa cụ thể hoá các
28
khía cạnh kỹ thuật đủ cho việc áp dụng một cách có hiệu quả. Trong một số vụ án
kinh tế liên quan tới giá trị chứng cứ của thư điện tử, bản fax trong giao dịch hợp
đồng, nhưng các quy định pháp lý chưa đủ để giải quyết.
Ngày 24/11/2000, Thủ tướng Chính phủ đã ký Hiệp định khung ASEAN về
Thương mại điện tử (E-ASEAN) theo đó Việt Nam cam kết phát triển thương mại
điện tử và tham gia không gian điện tử trong khối ASEAN. Hiệp định gồm bảy
điểm trong đó có hai điểm hết sức quan trọng là đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ
thông tin trong lĩnh vực thương mại và ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ
quan công quyền (gọi tắt là xây dựng Thương mại điện tử và Chính phủ điện tử).
Những yêu cầu của thực tiễn giao dịch thương mại trong nước cũng như
những yêu cầu từ các cam kết ở phạm vi khu vực và quốc tế đồi hỏi Việt Nam phải
xây dựng hệ thống các quy tắc giành riêng cho thương mại điện tử và cho việc giao
kết các hợp đồng điện tử. Tháng 01/2002 Chính phủ đa giao cho Bộ Thương mại
chủ trì xây dựng pháp lệnh Thương mại điện tử nhằm hình thành cơ sở pháp lý đầu
tiên cho thương mại điện tử.
Do tầm quan trọng của giao dịch điện tử đối với mọi mặt của kinh tế xã hội
nên Quốc hội đã quyết định xây dựng Luật giao dịch điện tử để thay thế cho pháp
lệnh Thương mại điện tử nói trên. Luật giao dịch điện tử năm 2005 đã được Kỳ họp
thứ 8 Quốc hội khóa XI thông qua vào ngày 9/11/2005 có hiệu lực từu ngày
01/3/2006. Sự ra đời của Luật giao dịch điện tử năm 2005 đã đánh dấu một bước
ngoặt quan trọng trong quá trình xây dựng khung pháp lý cho thương mại điện tử,
cho giao dịch điện tử, trong đó có hợp đồng điện tử. Đây là đạo luật đầu tiên điều
chỉnh trực tiếp việc sử dụng các phương tiện điện tử trong trao đổi, giao dịch. Luật
giao dịch điện tử năm 2005 có phạm vi điều chỉnh khá bao quát, bao gồm các giao
dịch điên tử trong lĩnh vực hành chính, dân sự và thương mại.
Việc ban hành Luật giao dịch điện tử năm 2005 là hợp lý và phù hợp với xu
hướng chung của pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về thương mại điện tử và
hợp đồng điện tử. Trên thực tế hầu hết các nước như Hoa Kỳ, Singapore,
Philippines…đều xây dựng Luật giao dịch điện tử. Phạm vi điều chỉnh các luât này
29
rất rộng, gồm cả các giao dịch thương mại và phi thương mại.
Đặc biệt Luật giao dịch điện tử năm 2005 cũng đưa ra một số quy định liên
quan đến giao kết hợp đồng điện tử như: quy định về khái niệm hợp đồng điện tử
(Điều 33); khẳng định giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử (Điều 34); nguyên tắc
giao kết hợp đồng điện tử (Điều 36); khái niệm giao kết hợp đồng điện tử (Điều 37);
Ngoài ra luật còn quy định về chữ ký điện tử; nguyên tắc sử dụng chữ ký điện tử;
nghĩa vụ của người ký chữ ký điện tử và bên chấp nhận chữ ký điện tử v.v… tuy
chưa thật là đầy đủ và cụ thể nhưng những quy định này là những quy tắc pháp luật
đầu tiên hướng dẫn giao kết hợp đồng điện tử. Những quy định này do Luật Giao
dịch điện tử năm 2005 – đạo luật dầu tiên của Việt Nam điều chỉnh giao kết hợp
đồng điện tử - đưa ra sẽ có ý nghĩa như những quy định cơ bản, nền tảng để điều
chỉnh việc giao kết hợp đồng điện tử. Với quy tắc pháp luật này có thể thấy rõ Luật
giao dịch điện tử năm 2005 chính là đạo luật khung điều chỉnh giao dịch điện tử nói
chung và giao kết hợp đồng điện tử nói riêng. Từ đạo luật khung này đã có nhiều
văn bản dưới luật được ban hành nhằm cụ thể hóa các quy định về giao kết hợp
đồng điện tử hiện nay.
Như vậy cho đến thời điểm năm 2006 đã có rất nhiều văn bản pháp luật ra
đời, thể hiện rõ chính sách phát triển thương mại điện tử và đề cập đến các khía
cạnh pháp lý liên quan đến giao dịch điện tử và ký kết hợp đồng điện tử …những
văn bản này đã tạo cơ sở bước đầu để hình thành khung pháp lý cho giao kết và
thực hiện hợp đồng điện tử ở Việt Nam.
Qua việc nghiên cứu Chương 1 về những vấn đề lý luận chung về hợp đồng
điện tử, tác giả đã phân tích và hệ thống một cách tương đối đầy đủ những vấn đề lý
luận chung về hợp đồng điện tử làm rõ được khái niệm hợp đồng điện tử, cũng như
đặc điểm, vai trò của hợp đồng điện tử. Có thể thấy rằng, hợp đồng điện tử là hợp
đồng được thiết lập thông qua việc sử dụng phương tiện điện tử, khi nói đến hợp
đồng điện tử là nói đến một phương thức thiết lập hợp đồng chứ không phải một
loại hợp đồng dựa trên một đối tượng cụ thể nào. Ngoài những đặc điểm chung cơ
bản giống với hợp đồng truyền thống, thì hợp hợp đồng điện tử còn mang những
30
đặc điểm riêng nổi bật do chính yếu tố hiện đại khi giao kết tạo nên. Với những lợi
ích mà hợp đồng điện tử mang lại, thì ngày nay hợp đồng điện tử ngày càng thể hiện
vai trò to lớn đối với doanh nghiệp và ngươi tiêu dùng Việt Nam.
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ VÀ NHỮNG
RỦI RO THƢỜNG GẶP TRONG GIAO KẾT HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ TẠI
VIỆT NAM
2.1. Thực trạng pháp luật về hợp đồng điện tử tại Việt Nam
Tuy nước ta đã có Luật Giao dịch điện tử năm 2005 để điều chỉnh các quan
hệ dân sự, thương mại và thậm chí là hành chính công sử dụng môi trường điện tử
là phương tiện truyền dẫn, nhưng Luật Giao dịch điện tử năm 2005 chỉ mới chú
31
trọng đến phương thức điện tử của giao dịch và bước đầu đề cập đến hình thức vật
lý của hợp đồng điện tử chứ chưa có các quy định cụ thể về vấn đề hợp đồng như
xác định thời điểm và địa điểm hợp đồng có hiệu lực, năng lực chủ thể của các bên
tham gia hợp đồng điện tử, các nội dung bắt buộc của một hợp đồng điện tử... Điều
này là một trong các hạn chế để phát triển thúc đẩy các giao dịch thương mại điện
tử.
2.1.1. Giao kết hợp đồng điện tử
a) Về yếu tố thỏa thuận trong giao kết hợp đồng điện tử
Xét về bản chất, hợp đồng điện tử cũng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc
xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ như các hình thức hợp đồng phổ biến
mà chúng ta đang áp dụng, chỉ khác là chúng được xác lập thông qua các phương
tiện điện tử dưới dạng thông điệp dữ liệu.
Trong giao kết hợp đồng điện tử, việc trao đổi thông tin đa phần được thực
hiện thông qua các phương tiện điện tử và chính yếu tố kỹ thuật công nghệ này đã
làm thay đổi cách thức, quy trình, thủ tục ký kết hợp đồng điện tử và hệ quả tiếp
theo là làm thay đổi cách thức thực hiện hợp đồng điện tử và ít nhiều chi phối cả
Luật điều chỉnh... Khía cạnh kỹ thuật làm cho quá trình giao kết hợp đồng điện tử
phát sinh nhiều vấn đề chưa từng gặp trong giao kết hợp đồng bằng phương thức
truyền thống, và đây cũng chính là đặc điểm riêng của hợp đồng điện tử.
Nghiên cứu về hợp đồng điện tử có một vấn đề quan trọng cần bàn là: Thông
qua những công cụ và giao thức mà mạng Internet cung cấp, liệu các chủ thế có
biểu hiện được ý chí của mình hay không? Khi các bên nhấp chuột vào biểu tượng
được chỉ định trên màn hình máy tính hay gõ bàn phím máy tính, thì đã đủ rõ ràng
thể hiện sự thống nhất ý chí giữa các bên hay chưa, đã cấu thành nên thảo thuận
giữa các bên - một trong những yếu tố cơ bản của hợp đồng chưa, để tư đó đi đến
thiết lập một hợp đồng có hiệu lực pháp lý.
Mạng Internet đưa ra bốn công cụ chính mà các bên có thể sử dụng khi tham
gia giao kết hợp đồng là: Thư điện tử (Email), công cụ tán gẫu (chat), trang thông
tin điện tử (website) và trao đổi dữ liệu điện tử (EDI). Các công cụ đó đều có những
32
nét giống và khác nhau, đòi hỏi pháp luật phải có những sự lưu tâm khác nhau. Bên
cạnh đó, các bên có thể kết hợp các công cụ này trong quá trình thương thảo và hình
thành hợp đồng. Do vậy việc phân tích, đánh giá về các công cụ cơ bản này là việc
cần thiết nhằm xem xét xem các bên có thể biểu hiện sự thỏa thuận của mình thông
qua các công cụ sử dụng trong giao dịch điện tử không? Vấn đề là phải xác định
được quy trình giao dịch trên mạng diễn ra như thế nào và những thỏa thuận đó
được hoàn tất ra sao.
* Thư điện tử (Email):
Thư điện tử là công cụ cơ bản nhất để thiết lập hợp đồng. Nói một cách đơn
giản,thư điện tử cho phép các chủ thể gửi thư bằng đường điện tử cho người khác
hoặc một nhóm người khác. Tuy nhiên ẩn sau định nghĩa đơn giản này là cả một
quá trình phức tạp. Để tạo một thư điện tử đầu tiên chúng ta phải viết một bức thư
và máy tính sẽ phân nhỏ thành dãy số và dãy số này sẽ được modem của máy tính
chia tách thành các tín hiệu giống nhau. Các tín hiệu này sẽ được truyền đi thông
qua đường truyền Internet đến một mạng máy tính và ở đó các tín hiệu này sẽ kết
hợp trở lại thành một "bưu kiện" số mà mỗi bưu kiện sẽ là những thông tin liên
quan tới nội dung mà bức thư đã được viết, mức độ bảo mật, thời gian và thông tin
của người gửi và người nhận.
Sau đó bưu kiện sẽ trở lại hình dạng tương tự ban đầu. Các bưu kiện được
các phương tiện điện tử truyền đi và cuối cùng đến máy tính của người nhận. Ở đây
chúng được kết hợp lại và chuyển thành dạng ký hiệu mà người nhận có thể đọc
được.
Cũng giống như những lá thư gửi bằng đường bưu điện, thư điện tử thường
dưới dạng viết và gửi đi bởi một chủ thể cho một cá nhân hoặc một nhóm người
khác.
Nội dung của bức thông điệp này nói chung mang tính cá nhân và giao tiếp
chỉ giữa người gửi và người nhận. Những bức thư điện tử dạng này có thể được ký
bằng chữ ký số nhằm mục đích xác thực và bảo đảm an toàn.Thêm vào đó người
gửi có thể gửi kèm các tệp tin mà người nhận có thể đọc hoặc sử dụng lại sau khi
33
mở thư.
Các bên có thể sử dụng thư điện tử cho mục đích giao lưu dân sự hay kinh
doanh và thương mại theo nhiều cách khác nhau. Một bức thư điện tử có thể bao
gồm thông tin liên quan đến những cuộc thương thảo, lời chào hàng và sự chấp
nhận chào hàng hay là một bản dự thảo hợp đồng. Thêm vào đó những giao dịch
liên quan đến những sản phẩm số hóa như phần mềm máy tính, âm nhạc, trò chơi....
thì những tập tin đính kèm theo thư điện tử có thể là đối tượng của giao dịch.
* Công cụ tán gẫu:
Các bên có thể sử dụng công cụ tán gẫu để tiến hành giao dịch. Công cụ tán
gẫu cho phép các chủ thể hội thoại trong thời gian thực vì khi một người gõ tin nhắn
thì người kia trong phòng tán gẫu có thể xem được tin nhắn đó ngay lập tức.
Giao tiếp mang lại cơ hội kinh doanh cho mỗi doanh nghiệp và cá nhân. Hiển
nhiên các chủ thể có quyền theo đuổi các cơ hội kinh doanh thông qua công cụ tán
gẫu. Các cá nhân trong một phòng tán gẫu có thể trao đổi thông tin với tốc độ nhanh
chóng cho mục đích thương lượng hay soạn thảo hợp đồng. Cũng giống như nói
chuyện qua điện thoại hay đối thoại trực tiếp, thông tin gửi qua phòng tán gẫu cũng
tạo nên một cuộc hội thoại tức thời cho phép các bên tham gia vào các cuộc thương
lượng, đưa ra lời đề nghị và chấp nhận lời đề nghị đó, gửi mẫu hợp đồng và gửi tài
liệu để thực thi điều khoản trong hợp đồng.
* Trang thông tin điện tử
Công cụ thứ ba dùng cho giao dịch Internet đó là các website trong đó có
tích hợp chức năng đặt hàng trực tuyến hoặc chứa đựng những hợp đồng theo mẫu.
Ngày nay Internet trở nên phổ biến phần lớn là nhờ các trang website. Website là
phần dễ truy cập nhất của Internet. Nó dựa trên nguyên tắc liên kết siêu văn bản,
công nghệ này cho phép kết nối các văn bản với nhau bất luận vị trí của nó ở đâu
trong không gian Internet.
Hợp đồng có thể được giao kết từ sự tương tác giữa khách hàng và chức
năng đặt hàng trực tuyến tự động trên website, người mua tiến hành các bước đặt
hàng tuần tự trên website của người bán theo quy trình đã được tự động hóa. Quy
34
trình này thông thường gồm các bước từ tìm kiếm sản phẩm, lựa chọn, đặt hàng,
tính giá, chọn hình thức giao hàng, thanh toán, xác nhận hợp đồng. Đặc điểm nổi
bật của loại hợp đồng điện tử này là nội dung hợp đồng không được soạn sẵn mà
đươc hình thành trong giao dịch tự động. Máy tính tự động tổng hợp nội dung hợp
đồng điện tử trong quá trình giao dịch dựa trên các thông tin do người mua nhập
vào. Một số giao dịch điện tử kết thúc bằng hợp đồng, một số khác kết thúc bằng
đơn đặt hàng điện tử. Kết thúc quá trình giao dịch hợp đồng điện tử được tổng hợp
và hiển thị để người mua xác nhận sự đồng ý của mình đối với các nội dung của
hợp đồng. Sau đó người bán sẽ được thông báo về hợp đồng và gửi xác nhận đến
người mua qua nhiều hình thức, có thể bằng email, điện thoại hoặc fax...
Một cách khác để giao kết hợp đồng điện tử trên cơ sở ứng dụng tiện ích của
website là các hợp đồng theo mẫu được đưa lên website để các bên tham gia giao
kết. Đây là những hợp đồng đã được chuẩn hóa về nội dung và sử dụng thường
xuyên, được thiết kế bởi một bên tham gia hợp đồng (thường là bên có vị thế mạnh
như người bán hàng, bên cung ứng dịch vụ, ngân hàng hay công ty bảo hiểm...) để
giao dịch với nhiều người và thường được cho là có hiệu lực miễn là nó hợp lý và
công bằng với bên còn lại. Các hợp đồng mẫu được sử dụng để giao dịch qua
website được chia làm ba loại:
- Hợp đồng nhấp chuột (Click - wrap);
- Hợp đồng duyệt web (Browse - wrap);
- Hợp đồng gói kèm (Shrink -wrap).
Trong dạng hợp đồng theo mẫu này hợp đồng gói kèm là loại hợp đồng đã
được sử dụng trước đó và trên thực tế đã được sử dụng trong thế giới giấy tờ, hai
loại hợp đồng còn lại - hợp đồng nhấp chuột và hợp đồng duyệt web thì chỉ riêng có
trong giao dịch điện tử.
Website có lợi thế khi nó là sự kết hợp của truyền thông đa phương tiện và
khả năng giao tiếp giữa các chủ thể với nhau. Những đặc điểm này không những
cho phép người bán hàng không những cung cấp sản phẩm và thông tin dịch vụ mà
còn tiếp cận được với những khách hàng tiềm năng. Nhiều trang website thương
35
mại điện tử có cả những hình thức mua hàng và thanh toán qua mạng. Người sử
dụng chỉ cần điền thông tin cá nhân vào các ô tương ứng và nhấn nút " chấp nhận"
là đã có thể hoàn thành xong giao dịch. Giao dịch có thể bao gồm mua hàng hóa
hữu hình như quần áo, tư trang, sách, điện thoại, máy ảnh... hay các sản phẩm số
hóa như phần mềm, phim ảnh, âm nhạc, hoặc tệp tin điện tử mà có thể tải về máy
tính của người sử dụng ngay sau khi trả tiền. Những giao dịch dạng này thường
không mang tính chất thương lượng.
* Trao đổi dữ liệu điện tử (EDI)
Cuối cùng giao dịch điện tử có thể được thực hiện bằng công cụ giao thức
trao đổi dữ liệu điện tử. EDI được định nghĩa là " Sự chuyển thông tin từ máy tính
này sang máy tính khác bằng phương tiện điện tử theo một tiêu chuẩn đã được thỏa
thuận về cấu trúc" [21, Điều 4(15)]. Về cơ bản máy tính đóng vai trong như những
"tác nhân điện tử", cho việc soản thảo hợp đồng mà không cần sự can thiệp của con
người.
Tác nhân điện tử là một phương tiện máy tính, phương tiện điện tử hoặc tự
động khác được sử dụng độc lập để khởi đầu một hành động; hay trả lời toàn bộ
hoặc một phần các bản ghi điện tử; hay sự thực thi mà không cần sự xem lại; hay
hành động của con người. Ở đây có điểm đáng lưu ý là giao kết hợp đồng qua EDI
không cần thương lượng trước khi đi đến thỏa thuận. Mặc dù tiện lợi và hiệu quả,
nhưng liệu đặt ra là máy tính có năng lực pháp lý tham gia hợp đồng với tư cách là
tác nhân điện tử hay không?
Ví dụ: Công ty A là công ty chuyên cung cấp đồ ăn vặt qua cây bán hàng tự
động và nhân viên của công ty A thường xuyên phải thêm hàng vào máy bán hàng
tự động. Công ty H chuyên cung cấp thức ăn cho các máy này có sử dụng hệ thống
EDI để nhận các đơn hàng và sử lý chúng để họ có thể cung cấp một cách nhanh
nhất. Với mục đích tránh phải kiểm kê thường xuyên, công ty A thiết lập một
chương trình cho máy bán hàng, chương trình này sẽ theo dõi nguồn cung cấp hàng
trong máy. Khi bản kiểm kê cho thấy còn ít hàng, chương trình sẽ quay số đến hệ
36
thống EDI của công ty H và đặt một đơn hàng điện tử để cung cấp cho máy. Hệ
thống trao đổi dữ liệu điện tử của công ty H sẽ xác nhận đơn hàng và tuyền đơn
hàng tới nhà kho để hàng có thể được vận chuyển kịp thời.
Điều đáng chú ý ở ví dụ trên là giao dịch điện tử diễn ra mà không cần có sự
tham gia của con người; lời đề nghị, sự chấp nhận đều diễn ra giữa các chủ thể điện
tử.
Ngày nay để giảm chi phí giao dịch và thúc đẩy khả năng kinh doanh, những
đối tác làm ăn thường xuyên, thường thỏa thuận sử dụng hệ thống giao dịch điện tử
EDI để giao kết hợp đồng. Cần phải ghi nhận rằng, nếu một ai đó xây dựng một
chương trình máy tính hay hệ thống tự động để là một cái gì đó thì điều này minh
chứng là có tồn tại một ý định nhất định mang giá trị thông tin nào đó. Do vậy sự
ưng thuận của các tác nhân điện tử được xét lại là ý định của người đã lập trình nên
hệ thống tự động hay chương trình máy tính để thiết lập hay thực hiện hợp đồng, hệ
thống được sử dụng nhằm thực hiện công việc kinh doanh và các bên chấp nhận
chúng. Vì vậy sự ưng thuận của tác nhân điện tử chính là sự thỏa thuận của các bên
trong giao kết hợp đồng.
Quy định về việc sử dụng hệ thống giao dịch điện tử EDI để giao kết hợp
đồng đã được quy định tại Điều 13 Nghị định số 57/2016/NĐ – CP ngày 9/6/2016
của Chính phủ về thương mại điện tử:
Hợp đồng điện tử được giao kết từ sự tương tác giữa một hệ
thống thông tin tự động và một cá nhân, hoặc giữa các hệ thống thông
tin tự động với nhau, không bị phủ nhận giá trị pháp lý chỉ vì không
có sự kiểm tra hay can thiệp của con người vào từng hành động cụ thể
do các hệ thống thông tin tự động thực hiện hay hợp đồng được giao
kết [10,Điều 13].
Qua phân tích ở trên chúng ta thấy rằng hợp đồng điện tử không làm thay đổi
bản chất của các hợp đồng nhiều như nó thay đổi quá trình đi đến thỏa thuận. Một
hợp đồng có những điều khoản giống nhau dù được viết trên giấy hay giao kết qua
mạng Internet, thì đều là những thỏa thuận về việc xác lập, thay đổi, hoặc chấm dứt
37
quyền, nghĩa vụ.
Tuy nhiên, vấn đề là ở chỗ pháp luật hợp đồng có thừa nhận mỗi quá trình lại
cho ra một thỏa thuận có tính thực thi như nhau hay không? Hay nói cách khác,
những thỏa thuận qua mạng Internet với một quy trình có sự khác biệt như vậy có
được pháp luật hợp đồng đảm bảo thực hiện như những thỏa thuận được thiết lập
theo phương thức truyền thống hay không.
Mặc dù Luật hợp đồng được xây dựng để chi phối nhiều loại hợp đồng và
nhiều mối quan hệ thương mại, nhưng sử dụng pháp luật hợp đồng truyền thống để
giải quyết vấn đề của hợp đồng điện tử dường như mang tính chất chiếu lệ. Cuối
cùng các bên tham gia hợp đồng điện tử dường như phải tự điều chỉnh mình và
mong đợi đối tác cũng phải tự điều chỉnh hành vi giống như những gì họ thường
làm để tuân thủ theo các nguyên tắc truyền thống. Tuy nhiên sẽ là sai lầm nếu có
cách xử sự đơn giản như vậy, bởi vì hợp đồng điện tử không phải lúc nào cũng
tương thích với các nguyên tắc của hợp đồng truyền thống. Hợp đồng điện tử có thể
không xuất hiện trên giấy tờ, thậm chí không diễn ra thương lượng hay tương tác,
không có sự chi phối của con người mà vẫn diên ra sự giao dịch mang tính tức thời.
Nói khác xa với khái niệm niệm về một buổi hợp giữa các thương gia ăn mặc lịch
sự ngồi với nhau để thương lượng với một sự thận trọng và có suy tính, thì hợp
đồng điện tử lại diễn ra rất mau lẹ và nhiều khi không cần sự tác động của con
người. Việc xác định ranh giới giữa có sự thống nhất ý chí và chưa có sự thống nhất
ý chí giữa các bên nhiều khi còn là sự khó khăn và thiếu rõ ràng. Vì vậy để thích
ứng với hoàn cảnh mới, luật hợp đồng cần bổ sung một số quy tắc và giải thích để
quyết định khi nào có một lời đề nghị được ra và khi nào thì có biểu hiện của sự ưng
thuận.
Sự phát triển của công nghệ thông tin và Internet yêu cầu pháp luật phải có
sự điều chỉnh để đáp ứng những đòi hỏi của một xã hội hiện đại. Nếu không thích
ứng với những sự phát triển này, luật pháp lạc hậu sẽ khiến ngày càng nhiều vấn đề
bị mang ra kiện tụng và vì vậy sẽ khiến cho các luật sự và thẩm phán xét xử phải
khó xử.
38
b) Về quy trình giao kết
Thông thường hợp đồng được hình thành bởi quá trình mà trong đó các bên
tự do thể hiện ý chí thông qua đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao
kết hợp đồng. Hợp đồng điện tử đặc trưng cho các giao dịch được thiết lập từ xa.
Nếu như tài liệu trên giấy là những tài liệu giao dịch “giấy tờ”, “vật chất”, thì hợp
đồng điện tử lại là một quá trình và có hai giai đoạn xác định về mặt lý thuyết: chào
hàng và chấp nhận chào hàng. Các giai đoạn này thường được tạo ra thông qua quá
trình gửi và nhận các thông điệp dữ liệu khác nhau về ý định của các bên.
Theo Ủy ban Kinh tế châu âu của liên Hợp Quốc, hợp đồng điện tử bao gồm
hai phần:
- Công cụ chào, nhờ vào đó một bên chào tham gia vào mối quan hệ hợp
đồng thương mại bằng các phương tiện điện tử và gửi cho bên kia; hoặc sắp đặt để
bên kia có các điều khoản mà theo đó công cụ chào được chuẩn bị để thực hiện.
Công cụ này cũng có thể được một số người sử dụng, họ thấy các điều khoản ban
đầu đưa ra không chấp nhận được và gửi một công cụ chào mới cho người gửi đầu
tiên cùng với những thay đổi được đề nghị.
- Công cụ chấp nhận, được đệ trình bởi người chấp nhận các điều khoản
trong công cụ chào nếu như các điều khoản này được chấp nhận.
Hợp đồng điện tử được ký kết bởi sự kết hợp trao đổi của công cụ chào, chấp
nhận và không yêu cầu một thủ tục nào nữa. Việc ký kết không bắt buộc do các điều
khoản của hợp đồng giữa các bên đã rõ rang từ việc trao đổi hai công cụ này. Tuy
nhiên, cần thận trọng trong việc lưu trữ các công cụ này để thực thi. Cả hai công cụ
đều phải được các bên ghi nhận và lưu giữ. Các điều khoản về bằng chứng và trong
tài ở một số nước đòi hởi phải có tài liệu bằng văn bản và phải được ký kết, do vậy
những điều khoản này cần phải được quan tâm khi thực hiện.
Như đã đề cập ở trên, hợp đồng điện tử đặc trưng cho các giao dịch được
thiết lập từ xa. Trong mối quan hệ này người tiêu dung luôn ở thế yếu so với nhà
cung cấp dịch vụ, hàng hóa. Thế yếu này bắt nguồn từ chính phương thức giao kết
hợp đồng: phải sử dụng biện pháp liên lạc từ xa (qua website, email, hay chat
39
room…). Người tiêu dùng có thể thiếu thông tin về tình hình thực tế hay pháp luật
về điều chỉnh quan hệ hợp đồng. Đặc điểm này là nguyên nhân gây ra bất bình đẳng
giữa các bên. Khi giữa người mua hàng và người bán hàng không trực tiếp gặp nhau
thương lượng và kiểm tra hàng hóa trước khi mua bán, người tiêu dùng có khả năng
gặp rủi ro từ giao dịch này. Chẳng hạn, do thông tin trao đổi giữa hai bên không rõ
ràng, người tiêu dùng có thể nhận những hàng hóa không như suy nghĩ và kỳ vọng
ban đầu của mình. Mặt khác, trên thực tế các hợp đồng điện tử đa phần tồn tại dưới
dạng là hợp đồng theo mẫu, do đó vị thế của người tiêu dùng từ xa đã yếu thế lại
càng yếu thế vì họ không có quyền thỏa thuận thương lượng.
Mặc dù có sự bất bình đẳng giữa các bên như vậy, mặc dù tình trang bất cân
xứng về thông tin và khả năng thương lượng giữa các bên như vậy , mặc dù quy
trình, phương thức giao kết hợp đồng điện tử có khác biệt như vậy, nhưng không
phải “cư dân mạng” nào cũng nắm rõ. Do đó cần thiết phải có sự can thiệp của pháp
luật để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng – bên yếu thế trong quan hệ hợp đồng
điện tử.
c) Xác định thời điểm và địa điểm giao kết hợp đồng
* Thời điểm giao kết hợp đồng điện tử
Thời gian và địa điểm giao kết hợp đồng có mối quan hệ chặt chẽ với thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng, thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.
Xác định được thời gian và địa điểm giao kết hợp đồng sẽ giúp cho các bên ký kết
trong quá trình thực hiện hợp đồng cũng thuận lợi cho việc giải quyết tranh chấp
sau này.
Nếu như một hợp đồng soạn thảo dưới hình thức văn bản thường được giao
kết bằng cách hai bên gặp gỡ nhau trực tiếp để thương thảo các điều khoản hoặc
trao đổi với nhau bằng các tài liệu giao dịch và ký bằng chữ ký tay, thì đối với giao
kết hợp đồng điện tử, các bên giao tiếp với nhau trong môi trường ảo, có vị trí đại lý
xa nhau, ở bất kỳ đâu vào bất kỳ thời điểm nào có thể truy cập vào mạng để gửi
hoặc nhận một thông điệp dữ liệu đề nghị hay chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Đề nghị và chấp nhận giao kết hợp đồng điện tử được tạo ra, hay gửi đi, được nhận
40
và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử, thường không có sự can thiệp trực tiếp từ
con người. Do đó việc xác định thời điểm và địa điểm giao kết hợp đồng sẽ trở nên
khó khăn hơn so với hợp đồng được giao kết bằng phương thức truyền thống.
Luật Giao dịch điện tử năm 2005 chưa có bất kỳ quy định cụ thể nào đề cập
đến vấn đề thời điểm nào để xác định giao kết hợp đồng điện tử. Tuy nhiên xét về
bản chất, các giao dịch điện tử là các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại, do đó
các quy định chung của pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng phải được áp
dụng. Đối chiếu với các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 và theo tinh thần
của Luật Giao dịch điện tử năm 2005, các trường hợp được coi là thời điểm giao kết
hợp đồng điện tử là:
+ Khi người gửi thông điệp dữ liệu đầu tiên nhận được thông tin xác nhận
của người nhận thông điệp dữ liệu, tức là khi thông điệp dữ liệu phản hồi được gửi
ra khỏi hệ thống kiếm soát của người gửi (thường áp dụng với dạng hợp đồng điện
tử "click" tức là nhấp chuột vào ô chấp thuận).
+ Hợp đồng dân sự cũng được xem như là đã giao kết khi hết thời hạn trả lời
mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp
nhận giao kết.
+ Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các bên thỏa thuận
về nội dung của hợp đồng.
+ Thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản.
Tuy nhiên, đối với trường hợp xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng
theo quy định của khoản 2 Điều 104, Bộ luật Dân sự là: "Hợp đồng dân sự cũng
được xem như là đã giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn
im lặng, nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết" [25, Điều
104(2)], khi áp dụng đối với dạng hợp đồng điện tử sẽ phải có một số loại trừ sau:
a. Trường hợp trước hoặc trong khi gửi thông điệp dữ liệu, người khởi tạo đã
tuyên bố thông điệp dữ liệu đó chỉ có giá trị khi có thông báo xác nhận thì thông
điệp dữ liệu đó được xem là chưa gửi cho đến khi người khởi tạo nhận được thông
41
báo của người nhận xác nhận đã nhận được thông điệp dữ liệu đó;
b. Trường hợp người khởi tạo đã gửi thông điệp dữ liệu mà không tuyên bố
về việc người nhận phải gửi thông báo xác nhận và cũng chưa nhận được thông báo
xác nhận thì người khởi tạo có thể thông báo cho người nhận là chưa nhận được
thông báo xác nhận và ấn định khoảng thời gian hợp lý để người nhận gửi xác nhận;
nếu người khởi tạo vẫn không nhận được thông báo xác nhận trong khoảng thời
gian đã ấn định thì người khởi tạo có quyền xem là chưa gửi thông điệp dữ liệu đó.
Điều này nhằm bảo vệ lợi ích của các bên tham gia hợp đồng điện tử trong các
trường hợp bất trắc có thể phát sinh như lội của hệ thống mạng lưới truyền dẫn.
Trên thực tiễn, các hợp đồng điện tử đều được thực hiện trên môi trường điện tử,
phụ thuộc nhiều vào thiết bị điện tử và mạng lưới truyền dẫn. Do đó, việc phát sinh
lỗi kết nối hoặc lỗi kỹ thuật là hoàn toàn có thể xảy ra.
* Địa điểm giao kết hợp đồng điện tử
Luật Giao dịch điện tử năm 2005 quy định địa điểm gửi thông điệp dữ liệu là
trụ sở của người khởi tạo nếu người khởi tạo là cơ quan, tổ chức hoặc nơi cư trú của
người khởi tạo nếu người khởi tạo là cá nhân. Trường hợp người khởi tạo có nhiều
trụ sở thì địa điểm gửi thông điệp dữ liệu là trụ sở có mối liên hệ mật thiết nhất với
giao dịch. Địa điểm nhận thông điệp dữ liệu là trụ sở của người nhận nếu người
nhận là cơ quan, tổ chức hoặc nơi cư trú thường xuyên của người nhận nếu người
nhận là cá nhân. Trường hợp người nhận có nhiều trụ sở thì địa điểm nhận thông
điệp dữ liệu là trụ sở có mối liên hệ mật thiết nhất với giao dịch.
Luật Giao dịch điện tử năm 2005 không quy định địa điểm nào được xác
định là địa điểm giao kết hợp đồng mà chỉ quy định địa điểm nhận và gửi các thông
điệp dữ liệu. Tuy nhiên việc xác định địa điểm giao kết hợp đồng có ý nghĩa quan
trọng trong vấn đề xác định luật điều chỉnh và giải quyết tranh chấp phát sinh từ
hợp đồng hay liên quan đến hợp đồng sau này. Do đó phải được hiểu rằng nguyên
tắc xác định địa điểm giao kết hợp đồng của Bộ luật Dân sự năm 2005 sẽ được áp
dụng. Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định nguyên tắc xác định địa điểm ký kết hợp
đồng như sau: "Địa điểm giao kết hợp đồng dân sự do các bên thỏa thuận nếu
42
không có thỏa thuận thì địa điểm giao kết hợp đồng dân sự là nơi cư trú của cá
nhân hoặc trụ sở của pháp nhân đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng" [25, Điều 403].
Tuy nhiên, việc xác định địa điểm giao kết hợp đồng như trên lại chưa thật hợp lý vì
trong giao dịch thương mại điện tử, các bên tiếp xúc với nhau trong môi trường ảo.
Do vậy, nếu xác định địa điểm giao kết hợp đồng theo các quy định hiện hành thì
trong rất nhiều trường hợp sẽ không hoàn toàn phù hợp vì địa chỉ trên Internet
không thể hiện được nơi cư trú hay nơi có trụ sở của các bên. Đi đến đâu, dù ở bất
kỳ nước nào mọi người đều có thể truy nhập vào Internet và thực hiện các giao dịch.
d) Năng lực pháp lý của chủ thể tham gia giao kết hợp đồng điện tử
Chủ thể tham gia vào giao kết hợp đồng điện tử gồm các bên – người bán và
người mua hàng hóa (hoặc cung ứng dịch vụ qua mạng). Để hợp đồng có hiệu lực,
chủ thể phải có năng lực pháp lý hoặc năng lực hành vi. Tuy nhiên việc xác định
năng lực chủ thể của các chủ thể trong giao kết hợp đồng điện tử sẽ trở nên khó
khăn hơn rất nhiều so với trong hợp đồng truyền thống. Những khó khăn đấy là:
Thứ nhất, người bán trên mạng chắc chắn không muốn và không thể bán
hàng hóa và dịch vụ cho mọi đối tượng vào mạng Internet. Họ bị ràng buộc và bị
chi phối bởi các quy định pháp lý của quốc gia mình và quốc gia người tham giao
kết với họ. Hoặc theo quy định pháp luật của mỗi quốc gia một mặt hàng hay dịch
vụ ở quốc gia này là hợp pháp nhưng ở quốc gia khác lại bị cấm lưu thông cũng làm
cho hợp đồng điện tử được giao kết để mua bán mặt hàng đó không thực hiện được
dù là đã giao kết. Vì thế người bán hàng hóa, dịch vụ trên mạng thường quy định
một số hạn chế trong trang mạng của mình nhằm loại bỏ những chủ thể mà họ có
không có khả năng xác định được năng lực pháp lý. Chỉ cần một sơ xuất nhỏ trong
việc xác định năng lực của các chủ thể sẽ dẫn đến hậu quả là hợp đồng không thực
hiện được. Vấn đề này người cung cấp dịch vụ còn phải chịu áp lực lớn hơn so với
người bán hàng hóa hữu hình do địa điểm và nhân thân của khách hàng khó có thể
được xác định rõ ràng. Gánh nặng này với các nhà cung cấp hàng hóa hữu hình sẽ
được giảm nhẹ hơn nhờ dễ dàng xác định nơi giao hàng. Năng lực của công nghệ
thông tin hiện nay chưa cho phép kiểm soát và loại bỏ hết các đối tượng truy cập
43
không được mong đợi và do đó, vấn đề chủ thể giao kết hợp đồng điện tử cũng đang
là vấn đề mà các luật gia, các nhà kỹ thuật cũng như các bên tham gia hợp đồng
phải đặc biệt chú ý.
Thứ hai, khó khăn nhất với các doanh nghiệp cung cấp hàng hóa (dịch vụ)
qua mạng là khó xác định được xem liệu khách hàng có đủ tuổi có năng lực hành vi
hay chưa. Vấn đề phát sinh khi khách hàng đang ở tuổi vị thành niên. Một là, theo
quy định của pháp luật ở một số quốc gia, có một số loại hàng hóa nhất định không
thể bán cho đối tượng tuổi vị thành niên như thuốc lá, rượu, sách báo khiêu dâm
v.v… theo pháp luật của những quốc gia này, người bán trong hợp đồng này dễ bị
buộc vào tội hình sự hoặc phải chịu trách nhiệm dân sự nếu không biết chắc khách
hàng của mình đã đủ năng lực hành vi dân sự hay chưa. Rất khó xác định được điều
này khi mua bán qua mạng. Hai là, các hợp đồng giao kết với người vị thành niên
mà không nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của người đó cũng sẽ bị vô
hiệu. Vấn đề là ở chỗ, hợp đồng bị vô hiệu đối với người vị thành niên và người vị
thành niên sẽ được miễn trách nhiệm nhưng sẽ gây ra nhiều hậu quả pháp lý bất lợi
cho người bán: người bán chỉ thu hồi được hàng hóa đã cung cấp cho khách hàng là
người vị thành niên một khi hàng hóa đó vẫn còn ở trong tay đối tượng người mua
này. Vì thế tất cả các trạng web đều sử dụng cái gọi là Content Advisor (tạm dịch là
cảnh báo nội dung), tức là cảnh báo cho các đối tượng vị thành niên rằng hàng hóa,
dịch vụ này chỉ phù hợp với các đối tượng từ đủ tuổi có năng lực hành vi trở lên, và
yêu cầu người truy cập phải xác nhận rằng mình đã đủ tuổi có năng lực hành vi, ví
dụ: đủ 18 tuổi theo quy định của pháp luật Việt Nam. Xác nhận của người truy cập
dù là thật hay giả cũng góp phần làm giảm trách nhiệm cho người cung cấp hàng
hóa (dịch vụ) trên mạng. Vì vậy doanh nghiệp nào không sử dụng Content Advisor
thì sẽ rơi vào những rủi ro pháp lý khi họ không có khả năng hoặc không có đủ cơ
sở pháp lý để kiểm tra tư cách chủ thể của khách hàng giao dịch và ký kết hợp đồng
điện tử với mình.
Luật Giao dịch điện tử năm 2005 quy định các bên tham gia giao dịch điện tử
là người khởi tạo thông điệp dữ liệu và người nhận thông điệp dữ liệu: "Người khởi
44
tạo thông điệp dữ liệu là cơ quan, tổ chức, cá nhân tạo hoặc gửi một thông điệp dữ
liệu trước khi thông điệp dữ liệu đó được lưu giữ nhưng không bao hàm người
trung gian chuyển thông điệp dữ liệu" [21, Điều 16]; "người nhận thông điệp dữ
liệu là người được chỉ định nhận thông điệp dữ liệu từ người khởi tạo thông điệp dữ
liệu nhưng không bao hàm người trung gian chuyển thông điệp dữ liệu đó" [21,
Điều 18]. . Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, một giao dịch dân sự, kinh
tế, thương mại do người không có năng lực hành vi dân sự tiến hành thì sẽ bị coi là
vô hiệu. Đối với pháp nhân, năng lực hành vi được xác định bởi tư cách pháp nhân
của tổ chức đó và những lĩnh vực ngành nghề kinh doanh mà tổ chức đó được phép
hoạt động như đã được ghi tại giấy đăng ký kinh doanh do cơ quan có thẩm quyền
cấp. Đối với cá nhân, năng lực hành vi được xác định là khả năng của cá nhân bằng
hành vi của mình xác lập và thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Năng lực hành vi
dân sự đầy đủ chỉ có ở những người thành niên không bị mất năng lực hành vi dân
sự hoặc không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự được quy định tại Bộ luật Dân sự.
Việc xác định năng lực ký kết hợp đồng điện tử của các bên trong giao dịch chủ yếu
căn cứ vào các điều kiện thực tế sau:
+ Đối với tổ chức, doanh nghiệp: bằng uy tín và thương hiệu của doanh
nghiệp đó, bằng việc xác thực của các cơ quan có uy tín như Bộ Thương mại, nhà
cung cấp dịch vụ Internet, cơ quan quản lý sàn giao dịch điện tử, cơ quan chứng
thực chữ ký điện tử...
+ Đối với cá nhân: thẻ tín dụng, số chứng minh thư, số hộ chiếu, địa chỉ, vân
tay, giọng nói…
2.1.2. Hình thức của hợp đồng điện tử
Hình thức phổ biến của hợp đồng điện tử là thư điện tử. Luật giao dịch điện
tử Việt Nam năm 2005 quy định: “Hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập
dưới dạng thông điệp dữ liệu” [21, Điều 33]. Điều 10 của Luật này cũng giải thích
rõ: “Thông điệp dữ liệu được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử,
45
chứng từ điện tử, điện tín, điện báo, fax…” [21, Điều 10].
Các doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước… sử dụng thư điện tủ để gửi cho
nhau một cách “trực tuyến”, thông qua mạng gọi là thư điện tử (electronic mail,
viết tắt là e – mail).
Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 tại Điều 15 có quy định rõ: “Trong
hoạt động thương mại, các thông điệp dữ liệu đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn kỹ
thuật theo quy định của pháp luật thì được thừa nhận có giá trị pháp lý tương
đương với văn bản” [22, Điều 15]. Luật giao dịch điện tử Việt Nam năm 2005 đã cụ
thể hóa: “ Thông điệp dữ liệu được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử,
chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự
khác” [ 21, Điều 10]. Điều 11 Luật giao dịch điện tử năm 2005, khẳng định giá trị
pháp lý của các thông điệp dữ liệu điện tử trên là: “Thông tin trong thông điệp dữ
liệu không bị phủ nhận giá trị pháp lý chỉ vì thông tin đó không được thể hiện dưới
hình thức thông điệp dữ liệu” [21, Điều 11].
Nhằm hướng dẫn các doanh nghiệp về vấn đề này, đặc biệt nhằm làm yên
lòng các doanh nghiệp cũng như các chủ thể giao kết hơp đồng điện tử, Điều 12
Luật giao dịch điện tử Việt Nam năm 2005 quy định: “ Trong trường hợp pháp luật
yêu cầu thông tin phải được thể hiện bằng văn bản thì thông điệp dữ liệu được xem
là đáp ứng yêu cầu này, nếu thông tin chứa trong thông điệp đó có thể truy cập và
sử dụng được để tham chiếu khi cần thiết”[21, Điều 12]. Những quy định này sẽ là
cơ sở pháp lý quan trọng thừa nhận giá trị pháp lý của các hình thức khác nhau của
hợp đồng điện tử nếu những hình thức này có chứa những thông tin có thể truy cập
và sử dụng để tham chiếu khi cần thiết.
Như vậy trong những năm gần đây, thực tiễn pháp lý nhiều nước trên thế giới
cũng như ở Việt Nam đã có sự thừa nhận các phương tiện điện tử như fax, điện tín,
thư điện tử, v.v… là hình thức của hợp đồng điện tử, có giá trị pháp lý như văn bản,
có giá trị là chứng cứ (nếu đáp ứng các điều kiện do luật định). Vấn đề còn lại là
phải làm sao để những thông tin chứa trong thông điệp dữ liệu đó có thể truy cập và
sử dụng được để tham chiếu khi cần thiết.
46
2.1.3.Nội dung của hợp đồng
Nội dung của hợp đồng bảo gồm các điều khoản thỏa thuận giữa các chủ thể.
Đối với hợp đồng điện tử, các điều khoản này mang tính kỹ thuật điện tử rất cao và
thường do người bán (hoặc người cung ứng dịch vụ) làm sẵn và hiển thị trên trang
web của mình.
Vì vậy khi nói đến nội dung của hợp đồng điện tử, khác với hợp đồng truyền
thống – hợp đồng mà khi đàm phán để tiến tới giao kết, các bên thường chỉ chú ý
tới các điều khoản chủ yếu làm thành nội dung của hợp đồng như đối tượng của hợp
đồng, giá cả, điều kiện thanh toán, điều kiện giao hàng…, ở hợp đồng điện tử các
bên giao kết hợp đồng bắt buộc và trước hết phải chú ý đến các quy định có tính kỹ
thuật của công nghệ tin học. Đó là cách hiện thị nội dung của hợp đồng điện tử. Nếu
không thao tác tốt, chính xác quy trình kỹ thuật này thì việc giao kết hợp đồng điện
tử về mặt nội dung cũng không thể đạt được. Vì vậy, khía cạnh kỹ thuật công nghệ
đã gắn kết chặt chẽ với khía cạnh pháp lý của quy trình giao kết kiên quan đến nội
dung của hợp đồng điện tử. Từ đó, có thể khẳng định, các yêu cầu về mặt kỹ thuật
của cách hiển thị nội dung của hợp đồng điện tử cũng chính là cơ sở pháp lý mà các
bên phải tuân thủ khi giao kết hợp đồng điện tử.
a) Cách hiển thị nội dung của hợp đồng điện tử
Để những nội dung này có hiệu lực thì trước hết, chúng phải thu hút được sự
chú ý của người truy cập. Các cách hiển thị phổ biến nhất hiện nay là:
- Hiển thị thông tin có đường dẫn “whitout hyperlink”: Theo cách này người
bán thường ghi chú ở mỗi đơn đặt hàng rằng: “Hợp đồng này tuân theo các điều
khoản tiêu chuẩn cơ bản của công ty”. Tuy nhiên cách này có nhược điểm là chưa
đủ mạnh để thu hút sự chú ý của khách hàng và nếu khách hàng có để ý đi nữa thì
họ cũng không biết tìm các điều khoản tiêu chuẩn của công ty ở đâu”.
-Hiển thị có đường dẫn “with hyperlink”: ở trường hợp này cũng có sự ghi
chú giống trường hợp trên nhưng có đường dẫn đến trang web chứa các điều khoản
tiêu chuẩn của công ty. Cách thức này được phần lớn người bán trực tuyến sử dụng.
Nhược điểm của phương pháp này là chưa chắc khách hàng đã vào trang web để
47
đọc các điều khoản nói trên.
- Hiện thị điều khoản ở cuối trang web: theo cách hiển thị này, thay vì đường
dẫn tới một trang web khác thì người bán trực tuyến để toàn bộ điều khoản ở cuối
trang. Khách hàng muốn xem hết trang web thì buộc phải thực hiện thao tác cuộn
trang và buộc phải đi qua các điều khoản. Tất nhiên việc đọc hay không tùy thuộc
vào chính bản thân khách hàng nhưng nó cũng thể hiện rõ thiện chí của người bán
trong việc muốn cung cấp, chuyển tải và đưa nội dung hợp đồng đến tay khách
hàng.
- Hiện thị điều khoản ở dạng hộp thư thoại (Dialogue Box): Khách hàng
muốn tham gia giao kết hợp đồng phải kéo chuột qua tất cả các điều khoản ở cuối
trang rồi mới tới được hộp thư thoại “ Tôi đồng ý” hoặc “ Tôi đã xem các điều
khoản hợp đồng”. Khi Click chuột vào hộp thư thoại này thì coi như hợp đồng đã
được giao kết. Phương pháp này khắc phục được nhược điểm của hai phương pháp
trên ở chỗ: khi khách hàng click chuột vào hộp thư thoại có nội dung như trên, họ sẽ
tự có nhu cầu phải đọc các điều khoản mà họ đồng ý ràng buộc bản thân. Tuy nhiên,
cách thể hiện nội dung này không phải là không có nhược điểm. Nhược điểm là
người truy cập sẽ cảm thấy nản khi phải đọc những điều khoản dài ở cuối trang. Họ
có thể bỏ cuộc giữa chừng, đặc biệt là khi mua bán những mặt hàng hoặc dịch vụ có
giá trị thấp.
Trong cách hiển thị nói trên, hiện thị ở dạng hộp thư thoại được sử dụng
nhiều hơn cả. Trường hợp người mua vào kho hàng trực tuyến của người bán để đặt
hàng cũng vậy. Sau khi chọn lựa hàng hóa, họ chỉ có thể gửi được đơn đặt hàng sau
khi đã cuộn hết trang web để đọc toàn bộ điều khoản liên quan đến nội dung của
hợp đồng và click chuột vào hộp thoại “ Gửi đơn đặt hàng và đồng ý với mọi điều
khoản ở trên”.
b) Những điều khoản liên quan đến các điều kiện mà hai bên đã đưa vào
hợp đồng điện tử.
Bên cạnh những nội dung được diễn đạt rõ ràng trên trang web, các bên giao
kết hợp đồng điện tử còn bị ràng buộc bởi những điều khoản ngầm định (impied
48
terms) – tức là những điều khoản không có trong hợp đồng điện tử những mặc
nhiên được pháp luật và thực tiễn thừa nhận. Ví dụ như: hàng hóa phải thuộc quyền
sở hữu của người bán; hàng hóa phải là hàng không ở trong tình trạng bị tranh chấp;
hoặc sản phẩm phải có chất lượng phù hợp với mục đích sử dụng v.v… Tùy theo
hợp đồng điện tử là hợp đồng có tính dân sự hay thương mại mà các điều khoản này
có thể được ngầm định trong hợp đồng. Đối với hợp đồng điện tử, các điều khoản
liên quan đến hàng hóa và dịch vụ có thể sẽ được giao kết theo những quy định
riêng. Ví dụ, đối với những sản phẩm dịch vụ hay số hóa (là sản phẩm đến tay
người mua bằng cách tải lên trang web – download), người mua thông thường phải
trả tiền rồi mới tải được sản phẩm. Trong trường hợp này, mặc nhiên ngầm hiểu
rằng chương trình được tải về phải phù hợp với mục đích sử dụng của nó và phải
hoạt động được. Ngoài ra chương trình còn phải được tải về trong khoảng thời gian
hợp lý, nếu không, người bán sẽ phải hoàn trả lại tiền cho người mua.
c) Một số điều khoản đặc biệt cần lưu ý khi giao kết hợp đồng điện tử
Trong hợp đồng điện tử, có một số điều khoản được coi là các điều khoản
đặc biệt quan trọng liên quan tới tính hiệu lực của hợp đồng điện tử đó là:
- Điều khoản hình thành hợp đồng (Contract Formation Terms – còn gọi là
điều khoản để hợp đồng điện tử có hiệu lực.
Trong hợp đồng truyền thống, vấn đề khi nào hợp đồng có hiệu lực đã được
quy định bởi rất nhiều quy tắc và thực tiễn thương mại, qua lịch sử phát triển của
thương mại. Tuy nhiên đối với lĩnh vực giao kết trực tuyến, vấn đề này trở nên phức
tạp hơn. Đối với hợp đồng điện tử một điều dễ nhận thấy là người bán hàng hóa
(người cung ứng dịch vụ) luôn là người soạn sẵn hợp đồng và luôn muốn mình
giành lợi thế. Do đó họ luôn quy định sẵn thời điểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng
bằng cách sử dụng điều khoản gọi là điều khoản hình thành hơp đồng.
- Điều khoản miễn giảm trách nhiệm (Limitation and Exclusion of
Liabilities):
Người bán hàng trực tuyến luôn sử dụng các điều khoản này để chối bỏ hoặc
49
cố ý giảm thiểu trách nhiệm của mình càng nhiều càng tốt.
Đối với hợp đồng truyền thống, luật pháp của nhiều nước quy định rất chặt
chẽ về giá trị pháp lý của điều khoản miễn giảm trách nhiệm theo kiểu nói trên. Ví
dụ các nước theo hệ thống Common law (hệ thống luật Anh – Mỹ) có những quy
định làm vô hiệu hóa những điều khoản như vậy, khi người mua là người tiêu dùng
(consumer contract). Tuy nhiên đối với hợp đồng điện tử rất khó có thể xác định
được chính xác người mua có phải là người tiêu dùng hay không. Do đó đối với
phần lớn các trường hợp giao kết hợp đồng điện tử, người bán trực tuyến luôn
chiếm lợi thế, bởi khi có tranh chấp phát sinh, cơ sở pháp lý của hợp đồng điện tử
lại thường là các điều khoản mẫu với nội dung bất lợi cho người mua mà người mua
đã tự tay mình – bằng một thao tác đơn giản là click vào hộp thoại.
-Điều khoản thanh toán và giao hàng (Payment and Delivery terms):
Trong các hợp đồng điện tử, điều khoản này được quy định rất chi tiết.
Phương thức thanh toán chủ yếu là phương thức điện tử. Theo đó, người mua cung
cấp số thẻ tín dụng cho người bán, phần lớn rủi ro thuộc về người mua. Việc thanh
toán chỉ coi như hoàn tất khi người bán nhận được tiền chứ không phải vào thời
điểm người mua nhập số thẻ tín dụng. Ngoài trừ một số công ty có uy tín, các công
ty “ma” thường xuyên phủ nhận việc tiền đã đến tay họ. Tuy nhiên trong thực tiễn
giải quyết tranh chấp phát sinh từ giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử, để bảo vệ
người mua trực tuyến , một số ít Tòa án cho rằng, nếu người bán đã mô tả quy trình
thanh toán và người mua đã thực hiện đúng chỉ dẫn đó thì coi như người mau đã
hoàn thành nghĩa vụ thanh toán của mình.
d) Vấn đề lỗi kỹ thuật trong nội dung hợp đồng điện tử
Khi giao kết hợp đồng điện tử qua trang web, người mua dường như phải tự
mình làm mọi việc, từ chọn hàng, số lượng, phương thức thanh toán đến việc giao
hàng v.v…nên dễ phạm phải các lỗi về thao tác kỹ thuật. Những lỗi này mang tính
khách quan, thể hiện sự không thống nhất giữa thao tác ngoài với ý chí bên trong
của người mua, do bị ảnh hưởng bởi yếu tố kỹ thuật của công nghệ tin học. Trong
trường hợp này không thể ràng buộc người mua về các lỗi ký thuật đó. Trong thực
50
tiễn, một số nước cho phép người mua không bị ràng buộc bởi hiệu lực của hợp
đồng bằng cách thông báo ngay cho người bán về lỗi kỹ thuật này. Không ngoại trừ
người bán cũng mắc phải lỗi tương tự. Tuy nhiên, trường hợp này hiếm khi được
Tòa án chấp nhận vì theo quan điểm của Tòa án , người bán (người chào hàng,
người đề nghị cung ứng dịch vụ) được coi là phải có sự thuần thục, nhuần nhuyễn
trong kỹ thuật mua bán trực tuyến. Cho đến nay luật pháp các nước cũng chưa có
quan điểm thống nhất trong việc xây dựng cơ sở pháp lý để giải quyết vấn đề lỗi kỹ
thuật khi quy định các điều khoản liên quan đến nội dung của hợp đồng điện tử.
Nghị định số 57/2006/NĐ – CP ngày 09/6/2006 về Thương mại điện tử của
Việt Nam quy định theo hướng bảo về bên mắc lỗi trong trường hợp mắc lỗi kỹ
thuật với điều kiện là bên làm phát sinh lỗi phải thông báo ngay cho bên kia khi biết
về lỗi kỹ thuật xảy ra và bên làm phát sinh lỗi chưa có được bất kỳ lợi ích vật chất
nào từ thương vụ này. Cụ thể tại khoản 1 Điều 15 Nghị định số 57/2006/NĐ – CP
ngày 09/6/2006 quy định như sau:
Trường hợp một cá nhân mắc phải lỗi nhập thông tin trong
một chứng từ điện tử được sử dụng để trao đổi với hệ thống thông tin
tự đồng của bên khác, nhưng hệ thống thông tin tự động này không hỗ
trợ cho cá nhân đó sửa lại lỗi thì cá nhân đó hoặc người đại diện của
mình có quyền rút bỏ phần chứng từ điện tử có lỗi nếu tuân thủ các
điều kiện sau:
a) Sau khi biết lỗi cá nhân hoặc đại diện của cá nhân đó thông
báo cho bên kia về lỗi và nêu rõ mình đã mắc phải lỗi trong chứng tư
điện tử này.
b) Cá nhân hoặc đại diện của cá nhân đó vẫn chưa sử dụng
hoặc có được bất kỳ lợi ích vật chất hay giá trị nào từ hàng hóa hay
dịch vụ nhận được từ bên kia.[10, Điều 15(1)]
2.1.4. Về vấn đề chữ ký trong hợp đồng điện tử
Đối với hợp đồng bằng văn bản, pháp luật hợp đồng các nước thường quy
định việc các bên tham gia cùng ký vào một hợp đồng bằng văn bản là điều kiện cần
51
để một hợp đồng có giá trị pháp lý. Chữ ký có thể là bất kỳ biểu tượng nào (ví dụ
như: đống dấu, điểm chỉ..) được sử dụng hoặc được chấp nhận bởi các bên tham gia
với mục đích xác thực nội dung hợp đồng; tuy nhiên sủ dụng chữ ký viết tay vẫn là
cách phổ biến để thể hiện sự đồng ý với các điều khoản của hợp đồng.
Đối với một hợp đồng điện tử việc tạo lập một chữ ký hay đóng dấu sẽ
không thể thực hiện như đối với hợp đồng bằng văn bản thường nhất thiết phải gắn
liền với chữ ký tay. Đối với hợp đồng điện tử nếu hiểu chữ ký theo phương pháp
truyền thống thì không thể có hợp đồng, vì vậy hợp đồng điện tử cần được “ký” bởi
một chữ ký khác – chữ ký điện tử thì hợp đồng điện tử sẽ có sự khác biệt là chữ ký
điện tử.
Chữ ký điện tử (electronic signature) là chữ ký được tạo lập
dưới dạng từ, chữ, số, ký hiệu, âm thanh, hoặc các hình thức khác
nhau bằng phương tiện điện tử, gắn liền hoặc kết hợp một cách logic
với thông điệp dữ liệu, có khả năng xác nhận người ký thông điệp dữ
liệu và xác nhận sự chấp thuận của người đó với nội dung thông điệp
dữ liệu được ký [2, Điều 21].
Trong giao kết hợp đồng điện tử, chức năng xác thực và bảo đảm toàn vẹn là
rất quan trọng. Đặc biệt trong bối cảnh các giao dịch điện tử được tự động hóa và hệ
thống kỹ thuật, công nghệ về giao dịch điện tử dễ bị sửa đổi, thì nhu cầu có một
cách thức đảm bảo nhận dạng bên đề nghị và bên được đề nghị giao kết hợp đồng
điện tử, cũng như sự toàn vẹn của thông điệp dữ liệu là rất cần thiết. Chữ ký điện tử
có nhiều loại khác nhau, có thể là một các tên đặt cuối thông điệp dữ liệu, một ảnh
chụp chữ ký viết tay gắn với thông điệp dữ liệu, một mã số bí mật có khả năng xác
định người gửi thông điệp dữ liệu… trong số đó, có chữ ký điện tử an toàn do một
tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử tin cậy phát hành hoặc có loại
chữ ký điện tử không đảm bảo độ an toàn do các bên giao dịch tự tạo ra. Dưới góc
độ pháp lý, những chữ ký điện tử như vậy phải được thừa nhận nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho việc giao kết hợp đồng điện tử. Vấn đề đặt ra là pháp luật phải đưa ra
52
các tiêu chí để xác định và bảo đảm giá trị pháp lý của chứ ký điện tử.
Câu hỏi đặt ra là chữ ký điện tử nào đảm bảo chức năng tương đương với
chữ ký truyền thống đồng thời ngăn ngừa việc giả mạo chứ ký, xác thực người ký
thông điệp dữ liệu, và bảo đảm tính toàn vẹn của thông điệp dữ liệu sau khi đã ký.
Khác với chữ ký tay, việc sử dụng chữ ký điện tử đặt ra vấn đề cần phải đảm bảo
các yêu cầu về mặt công nghệ về mặt pháp lý, tức là đảm bảo việc chứ ký điện tử
được sử dụng an toàn và thể hiện rõ ràng ý chí của các bên về thông tin trong thông
điệp dữ liệu. Vậy làm thế nào để nhận dạng chữ ký điện tử, hay nói cách khác cần
có biện pháp nào để các bên có thể xác định được chữ ký điện tử của bên đối tác.
Về vấn đề này cần có một cách thức nào đó mang tính kỹ thuật hoặc một tổ chức
trung gian nhằm chứng thực tính xác thực và đảm bảo độ tin cậy của chữ ký điện tử.
đây là một vấn đề không xảy ra khi giao kết hợp đồng truyền thống, nhưng lại rất
cần được quan tâm khi giao kết hợp đồng điện tử để đảm bảo sự an toàn.
Trong giao kết hợp đồng điện tử, quy trình cơ bản để ký kết hợp đồng điện tử
có sử dụng chữ ký số thường bao gồm 6 bước:
Bước 1: Bên gửi soạn thảo hợp đồng, sau đó mã hóa hợp đồng bằng phần
mềm. Quy trình này được gọi là quy trình rút gọn hợp đồng.
Bước 2: Bên gửi tiến hành tạo chữ ký số từ bản rút gọn của hợp đồng bằng
cách sử dụng khóa bí mật cảu mình. Hai bước này thường được gọi là quá trình ký
số.
Bước 3: Để đảm bảo bí mật về nội dung hợp đồng và chữ ký số, bên gửi tiến
hành mã hóa hợp đồng và chữ ký số vừa tạo bằng khóa công khai của bên nhận. Sau
đó, gửi hợp đồng và chữ ký số đã được mã hóa qua Intenet đến người nhận. Bước
này gọi là “gói phong bì số”.
Bước 4: Người nhận tiến hành mở “phong bì số” bằng cách sử dụng khóa bí
mật của mình để giải mã thông điệp nhận được. Bước này đảm bảo chỉ duy nhất
người nhận mới có thể mở được thông điệp dữ liệu và chữ ký số của người gửi. Khi
đó người nhận sẽ có trong tay hợp đồng và chữ ký số của người gửi. Tiếp theo,
53
người nhận tiến hành xác minh tính toàn vẹn nội dung của hợp đồng và chữ ký số.
Bước 5: Người nhận tiến hành rút gọn hợp đồng và nhận được bản rút gọn
thứ nhất; tiếp đó, người nhận tiến hành giải mã chữ ký số bằng khóa công khai của
người gửi và nhận được bản rút gọn thứ hai.
Bước 6: Người nhận tiến hành so sánh hai bản rút gọn này, nếu hai bản đó
giống nhau chứng tỏ sự toàn vẹn của hợp đồng và chữ ký số là của người gửi. Nếu
có sự khác biệt chứng tỏ đã có sự thay đổi nội dung hợp đồng hoặc chữ ký số.
Trong môi trường truyền thống, văn bản của các cơ quan, tổ chức chỉ có giá
trị pháp lý khi có chữ ký của người có thẩm quyền. Vai trò của con dấu là chứng
thực chữ ký trong văn bản đúng là chữ ký của người có thẩm quyền của cơ quan
hay tổ chức nói trên. Trong môi trường giao dịch điện tử, khái niệm con dấu không
còn tồn tại và phương pháp tạo ra chữ ký số cũng khác hoàn toàn so với chữ ký tay
truyền thống. Chữ ký số không phải do người ký tự tạo ra mà trên cơ sở kết hợp
khóa bí mật cảu người ký và nội dung thông điệp dữ liệu. Người ký là thuê bao của
tổ chức chứng thực chữ ký số và được tổ chức chứng thực chữ ký số đó kiểm tra,
xác minh, chứng thực là có thật thông qua việc cấp chứng thư số.
2.2. Những rủi ro thƣờng gặp trong hợp đồng điện tử
Trong giao kết hợp đồng điện tử, rủi ro là những biến cố không lường trước
gây thiêt hại hoặc làm cản trở các chủ thể trong hoạt động tham gia giao kết hợp
đồng. Nguyên nhân của những hạn chế tiềm ẩn trong chính môi trường và phương
tiện giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử.
Trong một môi trường ảo, đôi khi rất khó khăn để xác định năng lực của đối
tác giao kết hợp đồng, xác định xem đơn đặt hàng trên mạng là đơn đặt hàng giả
hay thật. Tính vô hình khiến cho việc lữu trữ hợp đồng nhằm đảm bảo bằng chứng
về hợp đồng cũng là điều không đơn giản. Làm thế nào để bảo mật hợp đồng điện
tử, làm thế nào để hạn chế sự chống phá, tấn công của các hacker ? Đây là vấn đề
cần quan tâm khi sử dụng phương tiện điện tử để giao kết hợp đồng. Trên thực tế
nhiều người đã phải chịu thiệt hại do những rủi ro này mang lại. Nhiều khách hàng
bị mất tiền do bảo mật không tốt thẻ tín dụng, nhiều doanh nghiệp không lấy được
54
tiền hàng do hợp đồng bị giả mạo chữ ký điện tử, nhiều người sau khi đặt hàng và
thanh toán qua mạng đã không nhận được món hàng đa mua hoặc nhận được nhưng
không đảm bảo chất lượng...
Một hợp đồng được hình thành khi một đề nghị giao kết hợp đồng được chấp
nhận. Đối với hợp đồng điện tử các vấn đề có thể phát sinh khi một đơn chào hàng
hoặc một sự chấp nhận bị mạo danh bởi một người nào đó không có thẩm quyền về
mặt pháp lý để ràng buộc bên mua với hợp đồng đã ký kết. Trong một số trường
hợp bên bán có thể nhận được đơn chào hàng hay đơn đặt hàng được ký bởi một
chữ ký không đảm bảo an toàn, ví dụ như loại chữ ký gồm các ký tự đơn giả, chữ ký
là bản quét chữ ký viết tay…Trong trường hợp như vậy, doanh nghiệp cần có một
thư điện tử yêu cầu đối tác xác nhận thông tin đã nêu nhằm tránh rủi ro có thể phát
sinh. Nếu bên mua không có sự xác nhận lại hoặc không có những thủ tục ràng
buộc, rất có khả năng một người khác đang lợi dụng những thông tin của bên đối
tác để gửi đơn chào hàng hoặc đơn đặt hàng. Nếu thực hiện việc giao hàng (hoặc
cung ứng dịch vụ) theo những đơn chào hàng, đặt hàng đó, bên mua sẽ gánh chịu
nhiều tổn thất do không lấy được tiền hàng mặc dù đã giao hàng.
Bên cạnh đó, đối với hợp đông điện tử vấn đề về lưu trữ chữ ký điện tử cũng
là vấn đề phức tạp. Bên sử dụng chữ ký điện tử cần phải có sự đảm bảo về việc bảo
mật cho chữ ký dạng này trong các máy vi tính vì trong trường hợp bất kỳ nếu một
người nào đó tiếp cận được với chữ ký đó và dụng nó để ký hợp đồng thì doanh
nghiệp không còn cách nào khác là phải công nhận hiệu lực của hiệu lực của hợp
đồng đã ký trước đối tác của mình, về mặt pháp lý dù điều đó bất lợi cho mình.
Hoặc nếu để lọt mật mã vào tay người khác thì người này có thể mạo danh người
mua để giao kết hợp đồng với đối tác. Trong trường hợp như vậy bên mua có thể
phải chịu một số rủi ro như mất danh tiếng, phải thực hiện những hợp đồng không
phải do mình ký, đối tác không tin tưởng…
2.2.1 Thiếu những quy định pháp luật cụ thể điều chỉnh, hướng dẫn việc
giao kết hợp đồng điện tử qua website theo mô hình C2C.
C2C (Consumer to Consumer) là mô hình giao dịch điện tử giữa người tiêu
55
dùng với người tiêu dùng hay còn gọi là mô hình giao dịch điện tử giữa cá nhân với
cá nhân. Mô hình này cho phép các cá nhân có thể tự chào bán các sản phẩm, thông
qua một website có sẵn cho phép người mua và người bán gặp nhau để tiến hành
các giao dịch đấu giá trực tuyến và lựa chọn người trả giá cao nhất để giao kết hợp
đồng.
Với những quy định cụ thể về quy trình giao kết hợp đồng trên website
thương mại điện tử, sau khi được ban hành, Nghị định số 57/2016/NĐ – CP ngày
09/6/2016 của Chính phủ và Thông tư số 09/2008/TT – BTC ngày 21/7/2008 của
Bộ công thương đã tạo hành lang pháp lý rõ ràng để các chủ thể yên tâm tiến hành
giao kết hợp đồng điện tử, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia.
Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 2 Nghị định số 57/2016/NĐ – CP ngày 09/6/2016
của Chính phủ và Điều 1 Thông tư số 09/ TT – BTC, thì hai văn bản này chỉ điều
chỉnh việc giao kết hợp đồng thương mại điện tử giữa thương nhân với khách hàng
(chủ yếu là các hợp đồng B2B và B2C). Còn các hợp đồng giữa cá nhân và cá nhân
(C2C) được coi là giao dịch dân sự, không thuộc phạm vi điều chỉnh của Nghị định
và Thông tư này. Đây là một trở ngại khi giao kết hợp đồng điện tử giữa cá nhân
với cá nhân vì hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành còn thiếu những quy định cụ
thể hướng dẫn, điều chỉnh về quy trình giao kết hợp đồng điện tử giữa các cá nhân
với nhau, về quy trình mua bán tài sản theo hình thức đấu giá qua mạng, về nghĩa
vụ cung cấp thông tin, cơ chế hoạt độngc của các website thương mại điện tử theo
mô hình C2C, cũng như nghĩa vụ của các chủ sở hữu website (bên trung gian) đã
thiết lập nên trang web cho phép người tiêu dùng giao dịch với nhau trong những
trường hợp cần thiết.
2.2.2. Thiếu những quy định pháp luật cụ thể điều chỉnh, hướng dẫn việc
giao kết hợp đồng điện tử theo mẫu trên website.
Pháp luật hiện hành mới chỉ quan tâm điều chỉnh về quy trình giao kết hợp
đồng trên website thương mại điện tử bằng chức năng đặt hàng trực tuyến. Đối với
việc giao kết hợp đồng điện tử trên website thông qua những hợp đồng theo mẫu,
56
thì chúng ta vẫn còn thiếu vắng những quy định pháp luật cụ thể để điều chỉnh và
hướng dẫn các bên tham gia. Các giao dịch dạng này đang phát triển một cách tự
phát và nhiều khi gây bất lợi cho người tiêu dùng.
Hợp đồng theo mẫu là hợp đồng gồm những điều khoản do tổ chức, cá nhân
sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đơn phương soạn thảo để giao dịch với nhiều
người tiêu dùng. Nó là những điều khoản rập khuôn về việc xác lập một giao dịch
được lặp đi lặp lại. Nội dung của hợp đồng được người bán hàng, cung ứng dịch vụ
chuyên nghiệp chuẩn bị sẵn; người tiêu dùng chỉ có mỗi việc tuyên bố chấp nhận
hay không chấp nhận chứ không có cơ hội thảo luận, thương lương về từng điều
khoản của hợp đồng. Các hợp đồng mẫu soạn sẵn là một điển hình của sự bất cân
xứng về thông tin, bất cân xứng về khả năng thương lượng. Người tiêu dùng luôn
luôn ở thế yếu, trong khi người bán bao giờ cũng biết rõ hơn người mua những
thông tin liên quan đến hàng hóa, dịch vụ cung cấp và do vậy soạn thảo hợp đồng
với những điều khoản bất bình đẳng, dồn phần bất lợi cho khách hàng, lờ đi hoặc
giảm nhẹ những nghĩa vụ của người bán. Người tiêu dùng chỉ tiếp xúc với hợp đồng
theo mẫu mỗi khi quan tâm đến món hàng, dịch vụ được cung ứng theo hợp đồng
đó, hơn nữa họ chú ý nhiều nhất đến giá cả, các điều kiện khuyến mại (nếu có) và
thường bỏ qua các nội dung khác. Hợp đồng cồng kềnh, với nhiều điều khoản kỹ
thuật phức tạp, thì người tiêu dùng càng ít quan tâm đến việc tìm hiểu nội dung của
nó. Sự thờ ơ của đại đa số người tiêu dùng đối với nội dung hợp đồng theo mẫu, kết
hợp với kinh nghiệm tích lũy được trong quá trình kinh doanh, tạo điều kiện hình
thành một cách tự nhiên ở người bán hàng, cung ứng dịch vụ ý tưởng hoàn thiện
hợp đồng theo hướng chỉ có lợi cho mình. Thế là hợp đồng theo mẫu nhanh chóng
trở thành mảnh đất màu mỡ cho sự phát triển những giao ước không bình đẳng, mà
tất nhiên người ở thế yếu là người tiêu dùng. Các thỏa thuận không bình đẳng trong
hợp đồng theo mẫu được pháp luật của các nước tiên tiến gọi là các điều khoản lạm
dụng. Đó là những cam kết do người soạn thảo hợp đồng chủ động đề xuất, có tác
dụng tạo ra tình trạng mất cân đối không bình thường giữa quyền và nghĩa vụ của
các bên. Chẳng hạn người bán được miễn hoặc rút ngắn thời hạn chịu ràng buộc vào
57
trách nhiệm bảo đảm chất lượng tài sản bán hoặc bảo hành; người mua phải chịu
chế tài nặng nề trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ trả tiền, trong khi người bản lại
chỉ chịu trách nhiệm theo luật chung mỗi khi không thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa
vụ của mình… Về nguyên tắc một khi các bên đã đạt được thỏa thuận trên cơ sở tự
nguyện thì thỏa thuận ấy có giá trị. Tuy nhiên, đối với các hợp đồng theo mẫu, nhà
làm luật ở các nước phát triển không để mặc cho tác giả hợp đồng thao túng, mà
chủ động can thiệt để vô hiệu hóa tình trạng bất bình đẳng do người bán, người
cung ứng tạo ra nhờ lợi dụng sự cả tin và sao nhãng của người tiêu dùng. Lý do
chính của sự can thiệp không phải vì người tiêu dùng thường mất tập chung hoặc
“lười”, không chịu nghiền ngẫm để thấu hiểu nội dung của hợp đồng theo mẫu. Rõ
ràng, với kiến thức trung bình, người tiêu dùng điển hình, dù có muốn và có chú
tâm cũng không thể biết trước điều khoản nào tốt, điều khoản nào không tốt đối với
mình về phương diện hệ quả pháp lý. Chỉ đến khi có một rắc rối nào đó phát sinh
liên quan đến việc sử dụng tài sản, thì người tiêu dùng mới phát hiện những ràng
buộc của chính mình chấp nhận từ trước đó khi giao kết hợp đồng theo mẫu. Trong
bối cảnh đó quy chế pháp lý đối với loại hợp đồng theo mẫu này cần phải như thế
nào để vừa không ảnh hưởng tới quá trình đi đến sự thỏa thuận trong giao kết hợp
đồng điện tử giữa các bên, vừa bảo vệ được quyền lợi của người tiêu dùng là vấn đề
rất cần được quan tâm.
Hiện nay Luật bảo vệ người tiêu dùng năm 2010 (có hiệu lực từ ngày
01/7/2011), trong đó có đưa ra một số quy định về hợp đồng theo mẫu, tuy nhiên
các quy định này dường như chỉ quan tâm đến các hợp đồng giao kết theo phương
thức truyền thống mà chưa tính đến hợp đồng điện tử.
Như vậy, pháp luật hiện hành còn thiếu những quy định cần thiết để thiết lập
quy tắc và chuẩn mực pháp lý cho các hợp đồng điện tử theo mẫu được giao kết qua
website, nhằm nâng cao tính minh bạch của môi trường giao dịch, qua đó góp phần
cân bằng và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia.
2.2.3. Rủi ro về công chứng hợp đồng điện tử
Như chúng ta đã biết vấn đề công chứng có vai trò rất quan trọng trong việc
58
bảo đảm an toàn pháp lý đối với các hợp đồng, giao dịch dân sự, kinh tế… bằng
việc chứng nhận tính xác thực của hợp đồng, giao dịch, hoạt động công chứng mang
lại cho các hợp đồng, giao dịch đó một hiệu lực đặc biệt – hiêu lực thi hành và giá
trị chứng cứ trong trường hợp xảy ra tranh chấp.
Trong giao kết hợp đồng điện tử các bên tham gia có thể trao đổi, đàm phán,
thỏa thuận về nội dung của hợp đồng và ký kết hợp đồng từ xã thông qua phương
tiện điện tử mà không phải trực tiếp gặp nhau. Vấn đề đặt ra là khi các bên có yêu
cầu công chứng hợp đồng điện tử, giao dịch điện tử chúng ta có công chứng hay
không, công chứng thì công chứng như thế nào?
Có ý kiến cho rằng, trong giao dịch điện tử việc nhận dạng các bên đương
sự, chữ ký, và thậm chí là con dấu của họ…đều đã được số hóa và bằng công nghệ
hiện đại, người ta hoàn toàn có thể chứng minh trước Tòa án hoặc trước cơ quan có
thẩm quyền về nội dung của hợp đồng, giao dịch mà họ đã ký kết. Và khi tất cả các
công đoạn, phần việc để thực hiện một hợp đồng, giao dịch (bao gồm cả khâu ký
kết có thể thực hiện trên mạng), thì việc tham gia của công chứng viên vào hợp
đồng, giao dịch này là không cần thiết.
Ngược lại có quan điểm cho rằng, cho dù số lượng hợp đồng, giao dịch điện
tử được thực hiện ngày càng nhiều thì nó cũng không thể thay thế hoàn toàn hình
thức giao dịch theo kiểu truyền thống. Mặt khác, trên thực tế không phải tất cả các
chủ thể tham gia giao kết hợp đồng điện tử đều có điều kiện đăng ký sử dụng dịch
vụ chữ ký số để giúp đảm bảo an toàn về mặt pháp lý trong quá trình thực hiện giao
dịch của mình.
Do đó, việc tồn tại và hơn nữa là tiếp tục phát huy vai trò của công chứng
viên trong các giao dịch điện tử là điều không phải bàn cãi. Thêm vào đó trong giao
dịch điện tử, với chức năng là một nhà tư vấn, thông qua việc sử dụng các máy tính
đã nối mạng, Công chứng viên vẫn hoàn toàn có thể tham gia góp ý, tư vấn cho các
bên tham gia giao kết hợp đồng, giao dịch thể hiện ý chí của mình một cách hợp
pháp. Và đặc biệt bằng công cụ điện tử, công chứng viên vẫn có thực hiện chức
năng cơ bản và quan trọng nhất của mình là thay mặt nhà nước ghi nhận những thỏa
59
thuận cuối cùng của các bên với tư cách là một người làm chứng ngay thẳng và
chung thực. Như vậy có thể khẳng định rằng Công chứng có vai trò quan trọng
trong các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại…nhất là các giao dịch mà pháp luật
bắt buộc phải có sự tham gia chứng kiến của công chứng viên, cho dù các giao dịch
này được thể hiện dưới hình thức giao dịch điện tử. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với
ý kiến này.
Ở Việt Nam vấn đề công chứng các giao dịch, hợp đồng điện tử vẫn đang bị
bỏ ngỏ. Với sự phát triển nhanh chóng của các giao dịch điện tử như hiện nay, thì
nhu cầu chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng điện tử của các bên
tham gia là điều cần thiết. Để thiết chế công chứng có thể đáp ứng được những nhu
cầu chính đáng, hợp pháp của công dân và tổ chức, thì việc nghiên cứu, tham khảo
kinh nghiệm của nước ngoài về mô hình tổ chức và hoạt động của công chứng đối
với loại hình giao dịch này là cần thiết. Đây là vấn đề nếu không được giải quyết tốt
rất có thể sẽ trở thành lực cản đối với giao kết hợp đồng điện tử. Bởi trong giao kết
hợp đồng điện tử luôn tiềm ẩn một mức độ rủi ro đáng kể và công chứng viên được
hi vọng có thể trở thành một trong những tác nhân quan trọng góp phần quản lý rủi
ro về mặt pháp lý.
2.2.4. Khách hàng bị lộ thông tin cá nhân trong khi giao kết hợp đồng điện
tử
Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ thông tin các
doanh nghiệp, người bán hàng có thể thu thập được nguồn thông tin nhanh chóng,
chính xác, kịp thời với chi phí thấp, giúp doanh nghiệp và người bán hàng triển khai
hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn, nâng cao năng lực cạnh tranh trong môi trường
kinh doanh toàn cầu ngày càng khắc nghiệt. Nếu như trước đây, việc tiếp cận, thu
thập, tổng hợp và phân tích thông tin khách hàng thường gặp nhiều khó khăn, mất
thời gian và tốn kém thì với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và
giao dịch điện tử, thì giờ đây người bán hàng có thể thực hiện công việc này nhanh
chóng và với chi phí rất thấp. Tuy nhiên, cùng với sự tiện lợi đó, những vi phạm
liên quan đến thông tin cá nhân cũng ngày một nhiều hơn, gây tâm lý e ngại cho các
60
cá nhân, tổ chức khi tham gia giao dịch điện tử.
Do đặc thù của giao dịch điện tử là được thực hiện hoàn toàn trên môi trường
mạng, các đối tác thực hiện giao dịch mua bán, thanh toán, nhận hàng mà không
phải gặp mặt trực tiếp, nên nhu cầu về thông tin cá nhân là rất lớn, bao gồm cả
những thông tin riêng tư, nhạy cảm nhất. Bên cạnh đó, nhiều công nghệ hiện đại
như cookies, phần mềm gián điệp, định vị toàn cầu, và các cơ sở dữ liệu số hóa
cũng cho phép các doanh nghiệp chuyên kinh doanh trên Internet có thể dễ dàng thu
thập và xử lý thông tin cá nhân phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau. Các tổ chức
quảng cáo trực tuyến, cũng luôn đẩy mạnh hoạt động thu thập, thiết lập, thậm chí
kinh doanh các hồ sơ thông tin về người tiêu dùng. Thông tin cá nhân đã và đang
trở thành thứ hàng hóa có giá trị kinh doanh trên thị trường. Cá nhân, người tiêu
dùng khó có thể hình dung hết được những nguy cơ thông tin cá nhân của mình bị
khai thác bất hợp pháp khi tham gia giao dịch, mua bán trên môi trường mạng.
Cho đến thời gian gần đây, khái niệm bảo vệ thông tin cá nhân trên môi
trường điện tử vẫn còn là một vấn đề nan giải ở Việt Nam. Người dân, doanh
nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước vẫn còn nhiều bỡ ngỡ với khái niệm này. Tuy
nhiên, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và giao dịch điện tử,
đặc biệt là sự xâm nhập sâu rộng của Internet vào mọi mặt đời sống xã hội, những
tác động tiêu cực của việc sử dụng thông tin cá nhân bất hợp pháp đã ngày càng trở
nên rõ ràng hơn. Thực tế này đã khiến cho vấn đề bảo vệ thông tin cá nhân trở thành
một chủ đề lớn, thu hút sự quan tâm rộng rãi của các cơ quan quản lý nhà nước,
doanh nghiệp và cả xã hội.
Trước tình trạng trên, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực đưa các quy định liên
quan đến bảo vệ thông tin cá nhân vào các văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên,
vẫn chưa có một đạo luật riêng, toàn diện về bảo vệ thông tin cá nhân. Bên cạnh đó,
việc thực thi các quy định của pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân khi thực hiện
giao dịch điện tử thời gian qua vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định. Nguy cơ bị
xâm phạm và lạm dụng thông tin cá nhân luôn tiềm ẩn. Đây là một trong những rào
61
càn không nhỏ đối với việc đẩy mạnh ứng dụng giao dịch điện tử trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Trong giao kết hợp đồng nổi cộm một số hành vi vi phạm
thông tin cá nhân như sau:
- Thứ nhất, sử dụng trái phép địa chỉ Email.
Một trong những hình thức vi phạm thông tin cá nhân rất phổ biến trong thời
gian qua là việc thu thập địa chỉ thư điện tử cá nhân trái phép để phục vụ cho nhiều
mục đích khác nhau, từ quảng cáo trực tuyến đến bán các danh sách này cho cá
nhân, tổ chức có nhu cầu. Với các công nghê hiện đại, hiện nay việc thu thập địa chỉ
thư điện tử tương đối dễ dàng. Việc nhiều cá nhân, doanh nghiệp công khai rao bán
hàng triệu địa chỉ thư điện tử đang gây tác động tiêu cực tới hoạt động quảng cáo
điện tử, gây bất lợi cho người tiêu dùng, làm giảm sút niềm tin của cộng đồng khi
tham gia giao dịch điện tử.
Bất kỳ ai sử dụng hộp thư điện tử cũng đều cảm thấy phiền phức vì những
thư gửi hàng loạt có nội dung quảng cáo, tiếp thị, chào hàng hoặc đem đến những
thông tin mà phần lớn trong số đó người đọc không quan tâm. Sự phát tán thư rác là
hệ quả của việc thông tin cá nhân (trong trường hợp này là địa chỉ thư điện tử) bị vi
phạm. Nhiều người không thể ngờ rằng, chính địa chỉ Email mà mình cung cấp khi
thực hiện giao dịch điện tử một ngày nào đó sẽ trở thành món hàng được mua đi,
bán lại. Sự tràn ngập thư rác chào hàng, quảng cáo, không chỉ gây ra sự khó chịu,
bức xức và phiền hà cho chủ hộp thư điện tử, mà còn ảnh hưởng đến hiệu quả xử lý
công việc, tắc nghẽn đường truyền, làm quá tải hộp thư và nhiều khi còn xóa sạch
dữ liệu máy tính do những thư này có đính kèm virut.
Thứ hai, ăn cắp, lừa đảo lấy thông tin cá nhân.
Trong giao kết hợp đồng điện tử, sự e ngại lớn nhất là bị mất các thông tin cá
nhân liên quan đến tài khoản cá nhân hoặc các thông tin về giao dịch sử dụng thẻ tín
dụng trong quá trình diễn ra giao dịch. Thanh toán điện tử khi giao kết hợp đồng là
một phương thức hiện đại, khá tiện lợi, nhưng lại là một trong những nguy cơ tiềm
ẩn rủi ro và là một bài toán khó đối với cả người tiêu dùng và các cơ quan chức
năng ở nước ta hiện nay. Lợi dụng điều đó, nhiều đối tượng tượng tội phạm đã thực
62
hiện các vụ ăn cắp, lừa đảo lấy thông tin tài khoản của cá nhân hoặc doanh nghiệp
để rút tiền hoặc mua bán hàng hóa kiếm lợi phi pháp. Các tệp chứa dữ liệu tài khoản
của khách hàng thường là những mục tiêu hấp dẫn đối với tin tặc khi tấn công vào
các website. Ngoài ra, chúng còn có thể đột nhập vào các website thương mại điện
tử hoặc lập ra các website giả mạo để lừa đảo, lấy cắp các thông tin cá nhân của
khách hàng như tên, địa chỉ, email, số điện thoại. Với những thông tin này chúng
có thể mạo danh khách hàng thiết lập các tài khoản tín dụng mới nhằm thực hiện
những giao dịch bất chính. Đây đang là hiện tượng tội phạm khá nổi cộm ở nước ta
hiện nay. Ngoài ra một số đói tượng làm việc trong lĩnh vực ngân hàng còn lấy cắp
mật khẩu cá nhân của người có thẩm quyền hoặc lợi dụng các kẽ hở trong quản lý
đê thực hiện các hanh vi phạm pháp, chiếm đoạt tiền của ngân hàng.
Thông tin cá nhân dễ bị chiếm đoạt và sử dụng trái phép trên môi trường
mạng kéo theo những hệ quả đáng tiếc có thể xảy ra đã tạo ra tâm lý e ngại cho
người tiêu dùng, đang là một trong những trở ngại lớn đối với sự phát triển của giao
kết hợp đồng điện tử qua Internet ở nước ta hiện nay. Vì vậy bên cạnh những biện
pháp về mặt kỹ thuật thì việc hoàn thiện và thực thi có hiệu quả các quy định của
pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân trên môi trường mạng là một trong những giải
pháp quan trọng để thúc đẩy giao dịch điện tử phát triển và tạo niềm tin để cá nhân,
tổ chức tận dụng tất cả những lợi ích mà Internet mang lại.
2.2.5. Chưa có quy định cụ thể về giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nước
ngoài.
Tương tự như với các hợp đồng truyền thống, các văn bản pháp luật hiện
hành của các nước và Việt Nam, khi quy định về giao kết và thực hiện hợp đồng,
đều có những quy định giành riêng cho hợp đồng được giao kết với các cá nhân và
pháp nhân nước ngoài. Bộ luật dân sự năm 2015 đã dành Phần thứ bảy của Bộ luật
để quy định về những vấn đề dân sự có yếu tố nước ngoài. Luật Thương mại Việt
Nam năm 2005 cũng có những quy định về thương nhân nước ngoài hoạt động tại
Việt Nam (mục 3 Chương 1); hoặc về mua bán hàng hóa quốc tế (Điều 27) và xuất,
nhập khẩu hàng hóa (Điều 28, Điều 29, Điều 30, Điều 31…), trong khi có cả 8
63
Chương và 54 điều khoản của Luật Giao dịch điện tử năm 2005 lại đều không có
một điều khoản nào về giao dịch điện tử, hoặc hợp đồng điện tử có yếu tố nước
ngoài. Luật Giao dịch điện tử năm 2005 quy định chỉ một điều duy nhất về thừa
nhận chữ ký điện tử và chứng thư điện tử nước ngoài, đó là khoản 1 Điều 27:
Nhà nước công nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử hoặc
chứng thư điện tử nước ngoài nếu chữ ký điện tử hoặc chứng thư
điện tử đó có độ tin cậy tương đương với độ tin cậy của chữ ký điện
tử và chứng thư điện tử theo quy định của pháp luật. Việc xác định
mức độ tin cậy của chữ ký điện tử và chứng thư điện tử nước ngoài
phải căn cứ vào các tiêu chuẩn quốc tế đã được thừa nhận, điều ước
quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên
và các yếu tố có liên quan. [21, Điều 27(1)].
Vậy như thế nào được gọi là có độ tin cậy tương đương giữa chứ ký điện tử
nước ngoài với chữ ký điện tử theo quy định của pháp luật? Những tiêu chuẩn quốc
tế đã được thừa nhận về vấn đề này là những tiêu chuẩn như thế nào? Những tiêu
chuẩn nào đã được điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã là
thành viên công nhận? Hàng loạt những câu hỏi này cho đến nay chưa có được câu
trả lời.
Điều đáng lưu ý hơn nữa là Điều 27 khoản 2 Luật giao dịch điện tử năm
2005 lạ quy định rằng: “ Chính phủ quy định cụ thể về việc thừa nhận chữ ký điện
tử và chứng thư điện tử nước ngoài”[21, Điều 27(2)]. Cho đến nay Chính phủ vẫn
chưa có quy định cụ thể về vấn đề này. Và do đó, các doanh nghiệp nước ngoài, các
doanh nghiệp Việt Nam muốn giao kết hợp đồng điện tử với đối tác nước ngoài vẫn
chưa có quy định cụ thể, rõ ràng là điều này thật sự sẽ gây khó khăn cho các doanh
nghiệp Việt Nam khi họ giao kết và thực hiện các hợp đồng điện tử với các đối tác
nước ngoài.
2.2.6. Chưa có quy định cụ thể hướng dẫn giải quyết tranh chấp liên quan
đến giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử.
Nhìn chung, tuy nhiên Luật Giao dịch điện tử năm 2005, một văn bản được
64
coi là quan trọng nhất nhằm hình thành khung pháp lý ban đầu cho thương mại điện
tử nói chung và cho giao kết hợp đồng điện tử nói riêng ở Việt Nam đã được ban
hành nhưng nhiều nội dung trong Luật này còn chưa được cụ thể, chưa đủ tạo cơ sở
cho việc giải quyết các tranh chấp phát sinh, chưa tạo được niềm tin cho doanh
nghiệp và người tiêu dùng khi họ muốn tham gia giao kết hợp đồng điện tử.
Vấn đề là ở chỗ, không phải hợp đồng điện tử được giao kết xong rồi được
xếp vào ngăn kéo. Ngược lại, điều mà các chủ thể giao kết hợ đồng điện tử quan
tâm là hợp đồng điện tử đã được giao kết thì phải được thực hiện đầy đủ. Trong
trường hợp có một bên vi phạm thì bên kia phải có cơ chế bảo vệ các quyền lợi của
mình. Một trong những cơ chế đó là cơ chế giải quyết tranh chấp về giao kết và
thực hiện hợp đồng điện tử. Đáng tiếc là Luật giao dịch điện tử năm 2005 còn quy
định rất chung chung, rất sơ sài về vấn đề này. Luật chưa có hướng dẫn cụ thể về
phương thức giải quyết tranh chấp liên quan đến giao kết và thực hiện hợp đồng
điện tử. Luật chưa có quy định về các cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp
phát sinh từ các hợp đồng điện tử điện tử được giao kết giữa các doanh nghiệp Việt
Nam với các doanh nghiệp nước ngoài; Luật chưa có quy định cũng như chưa có
hướng dẫn cụ thể về các chế tài được áp dụng khi có sự vi phạm hợp đồng điện tử,
đặc biệt là chưa quy định chế tài đối với hành vị lợi dụng phương thức kinh doanh
này để lừa đảo doanh nghiệp hoặc người tiêu dùng.
Luật Công nghệ thông tin (được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2006, có hiệu
lực từ ngày 01/01/2007 có đưa ra ba điều, Điều 75, 76, 77) vê giải quyết tranh chấp
và xử lý vi phạm nhưng, những quy định này chỉ hướng dẫn giải quyết tranh chấp
về công nghệ thông tin; giải quyết tranh chấp về đăng ký, sử dụng tên miền quốc
gia Việt Nam, Luật chưa có quy định cụ thể về cơ chế giải quyết tranh chấp liên
quan đến giao kết hợp đồng điện tử chung và giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố
nước ngoài nói riêng.
Đó là những điểm thiếu sót của Luật giao dịch điện tử Việt Nam năm 2005
nói riêng và khung pháp lý về giao kết hợp đồng điện tử ở Việt Nam nói chung.
Những thiếu sót này đã làm cho khung pháp lý về giao kết hợp đồng điện tử kể cả
65
hợp đồng thương mại điện tử của Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển
thương mại điện tử điện tử nói chung và giao kết hợp đồng điện tử nói riêng trong
điều kiện hội nhâp kinh tế quốc tế. Vì vậy, việc hoàn thiện khung pháp lý của Việt
Nam về giao kết hợp đồng điện tử là yêu cầu bức xúc và cấp bách.
2.2.7. Những quy định hướng dẫn giao kết hợp đồng điện tử chưa đầy đủ,
chưa cụ thể.
Pháp luật Việt Nam hiện hành đã đề cập đến một vài khía cạnh của thương
mại điện tử nhưng chưa đủ cụ thể để điều chỉnh các giao dịch thương mại điện tử và
các vấn đề phát sinh từ các giao dịch đó, đặc biệt là từ việc giao kết hợp đồng điện
tử. Hoạt động thương mại điện tử nói chung và giao kết hợp đồng điện tử nói riêng
mang rất nhiều điểm đặc thù, rất khác nhay với các hoạt động thương mại và việc
giao kết hợp đồng truyền thống. Vì vậy, ngoài những quy định hàm chứa trong các
văn bản quy phạm thương mại và pháp luật về hợp đồng nói chung, cần có những
quy định cụ thể, đầy đủ hơn hướng dẫn giao kết hợp đồng điện tử.
Luật giao dịch điện tử năm 2005 đã được ban hành. Tuy nhiên, nếu chỉ với 6
điều khoản quy đinh về giao kết hợp đồng điện tử thì trong thựa tiễn sẽ rất khó triển
khai việc giao kết, thực hiện, cũng như giải quyết tranh chấp phát sinh. Có rất nhiều
vướng mắc trong quá trình thực hiện hợp đồng điện tử như việc giả mạo chữ ký,
hoặc dấu, bằng cách scan để đưa vào hợp đồng điện tử, sẽ được giải quyết như thế
nào? Nếu đưa ra trọng tài thì trọng tài không có chức năng điều tra việc giả mạo
này. Nếu đưa ra Tòa án thì không thể được, bởi lẽ theo Điều 52 Luật giao dịch điện
tử năm 2005, việc giải quyết tranh chấp trong giao dịch điện tử được quy định như
sau:
1. Nhà nước khuyến khích các bên có tranh chấp trong giao
dịch điện tử giải quyết thông qua hòa giải;
2. Trong trường hợp các bên không hòa giải được thì thẩm
quyền, trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp về giao dịch điện tử được
66
thực hiện theo quy định của pháp luật. [21, Điều 52].
Theo quy định của pháp luật nào? Với quy định này không hiểu cơ quan nào
(tòa án hay trọng tài) sẽ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp? một quy định thật
chung chung, mơ hồ và không rõ ràng.
2.2.8. Quyền lợi của người tiêu dùng có nguy cơ bị vi phạm – thế yêu của
một bên trong giao kết hợp đồng điện tử
Trong giao kết hợp đồng điện tử, người tiêu dùng luôn ở thế yếu, xuất phát
từ chính phương thức giao kết hợp đồng do phải sư dụng các biện pháp liên lạc từ
xa (điện thoại, email, fax, chat room..).
Đặc điểm này là nguyên nhân gây ra bất bình đẳng giữa các bên: một bên giao
kết hợp đồng – người tiêu dùng có thể thiếu thông tin về tình hình thực tế hay luật
về quan hệ hợp đồng. Dễ dàng thấy rằng khi mua một mặt hàng bất kì (quần áo
chẳng hạn) thông qua 1 trang web, người tiêu dùng không có dịp kiểm tra màu sắc,
chất liệu hay kích cơ quần áo như khi mua ở một trung tâm thương mại, có thể trực
tiếp thử, sờ vào mặt hàng hay giơ ra ánh sáng. Vì vậy, sẽ có rủi ro khi kí kết hợp
đồng, sự đồng ý của người tiêu dùng sẽ không rõ rằng như khi kí kết hợp đồng có
sự hiện diện của các bên. Ở một cấp độ thấp hơn, việc mua hàng thiếu cân nhắc
cũng rất đáng ngại, khi đó người tiêu dùng sẽ không suy nghĩ chin chắn trước khi kí
kết hợp đồng như trong giao dịch truyền thống. Vị thế của các bên giao kết hợp
đồng cũng là lí do khiến người tiêu dùng từ xa ở thế yếu: đối với hợp đồng gia
nhập, người tiêu dùng không có quyền đưa ra ý kiến bình luận.
Mặc dù có sự bất bình đẳng giữa các bên, có tình trạng bất cân xứng về
thông tin và khả năng thương lượng giữa các bên, quy trình, phương thức giao kết
hợp đồng điện tử có khác biệt, nhưng không phải “cư dân mạng” nào cũng nắm rõ.
Do đó, cần thiết phải có sự can thiệp của pháp luật để bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng – bên yếu thế trong quan hệ hợp đồng điện tử.
Sự thành công của hợp đồng điện tử phụ thuộc vào việc xây dựng một môi
67
trường giao dịch thu hút cũng như an toàn đối với các bên tham gia. Điều này đặc
biệt đúng khi nói tới khía cạnh bảo vệ người tiêu dùng. Một yếu tố quan trọng để
tạo môi trường cho lòng tin và sự tín nhiệm trong giao kết hợp đồng điện tử là phải
bảo vệ được người tiêu dùng. Các bên tham gia giao kết hợp đồng điện tử qua mạng
Internet không nhất thiết hay không thể gặp mặt nhau. Thông thường, người tiêu
dùng không biết rõ các thông tin về hàng hóa, dịch vụ được cung cấp như người bán
hàng, khả năng chịu rủi ro sẽ cao hơn, do đó cần có những quy định pháp luật bảo
vệ họ.
Về vấn đề này, đầu tiên phải kể đến Luật Công nghệ thông tin năm 2006.
Khoản 2 Điều 30 Luật này quy định khi thực hiện việc kinh doanh trên mạng, một
website bán hàng phải bảo đảm các yêu cầu:
a) cung cấp đầy đủ, chính xác thông tin về hàng hóa, dịch vụ, điều
kiện giao dịch, thủ tục giải quyết tranh chấp và bồi thường thiệt hại;
b) cung cấp cho người tiêu dùng thông tin về phương thức thanh toán
an toàn và tiện lợi trên môi trường mạng và
c) công bố các trường hợp người tiêu dùng có quyền hủy bỏ, sửa đổi
thỏa thuận trên môi trường mạng.[23, Điều 30(2)]
Trừ trường hợp các bên liên quan có thoả thuận khác, tổ chức, cá nhân bán
hàng hóa, cung cấp dịch vụ phải cung cấp các thông tin sau đây cho việc giao kết
hợp đồng:
a) trình tự thực hiện để tiến tới giao kết hợp đồng trên môi trường
mạng;
b) biện pháp kỹ thuật xác định và sửa đổi thông tin nhập sai;
c) việc lưu trữ hồ sơ hợp đồng và cho phép truy nhập hồ sơ đó. Khi
đưa ra các thông tin về điều kiện hợp đồng cho người tiêu dùng, tổ
chức, cá nhân phải bảo đảm cho người tiêu dùng khả năng lưu trữ và
68
tái tạo được các thông tin đó [23, Điều 31(1)].
Một thực tế trong giao dịch điện tử là mọi người thường vội vã nhấp nút
“Gửi” khi thực ra họ chưa định làm thế. Nhiều người giao kết hợp đồng qua mạng
chắc chắn đã từng gặp trường hợp nhập thông tin vào mẫu trên website mà sai về
mọi thứ, từ lỗi chính tả đến số lượng và món đồ định mua. Những lỗi này thường
mang tính khách quan, thể hiện sự không thống nhất giữa thao tác bên ngoài với ý
chí bên trong của người mua. Để đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng trong những
trường hợp như thế này, Luật Công nghệ thông tin năm 2006 đưa ra biện pháp tại
Điều 32:
Trường hợp người mua nhập sai thông tin gửi vào trang thông tin
điện tử bán hàng mà hệ thống nhập tin không cung cấp khả năng sửa
đổi thông tin, người mua có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng
nếu đã thực hiện các biện pháp sau đây:
1. Thông báo kịp thời cho người bán biết về thông tin nhập sai của
mình và người bán cũng đã xác nhận việc nhận được thông báo đó;
2. Trả lại hàng hoá đã nhận nhưng chưa sử dụng hoặc hưởng bất kỳ
lợi ích nào từ hàng hóa đó.[23, Điều 32]
Giải pháp tương tự cũng được quy định tại Điều 15 Nghị định số Nghị định
số 57/2016/NĐ – CP ngày 09/6/2016 về thương mại điện tử khi cho phép cá nhân
mắc phải lỗi nhập thông tin khi giao tiếp với một hệ thống thông tin tự động có thể
rút bỏ phần chứng từ điện tử có lỗi.
Tuy nhiên, có thể nhận thấy các quy định nêu trên mới chỉ là quy định khái
quát, mang tính nguyên tắc, để đi vào cuộc sống thì cần phải có những quy định cụ
thể, chi tiết hơn. Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thương mại điện tử, Bộ
Công thương đã xây dựng và ban hành Thông tư số 09/2008/TT-BCT ngày
21/7/2008 hướng dẫn việc cung cấp thông tin và giao kết hợp đồng trên website
thương mại điện tử nhằm đáp ứng các nhu cầu nói trên của thực tiễn kinh doanh.
69
Thông tư được xây dựng theo những quan điểm chủ yếu sau:
- Thông tư chỉ điều chỉnh những vấn đề mang tính đặc thù của việc giao kết
hợp đồng trên website thương mại điện tử, còn việc thực hiện hợp đồng được điều
chỉnh bởi pháp luật chung về hợp đồng (cũng như hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp phải tuân thủ pháp luật chung về thương mại);
- Thông tư điều chỉnh việc giao kết hợp đồng trên website thương mại điện
tử giữa thương nhân với khách hàng (là cá nhân hoặc tổ chức). Các giao dịch giữa
cá nhân và cá nhân là giao dịch dân sự, không thuộc phạm vi điều chỉnh của Thông
tư. Mục tiêu của Thông tư là đảm bảo sự cân bằng lợi ích giữa các bên tham gia
giao kết hợp đồng trên website thương mại điện tử do khách hàng thường ở thế bất
lợi hơn trong việc tiếp cận thông tin và bị động hơn trong việc thỏa thuận các điều
kiện hợp đồng;
- Thông tư đưa ra một khung quy định chung về những thông tin cần được
cung cấp và quy trình giao kết hợp đồng trên các website thương mại điện tử nhằm
bảo vệ lợi ích tối thiểu cho khách hàng. Thương nhân là bên chiếm ưu thế hơn trong
việc đề ra các điều khoản của hợp đồng, do đó có thể chủ động áp dụng những biện
pháp nhằm bảo vệ lợi ích của mình khi giao dịch với khách hàng trên website
thương mại điện tử.
Dựa trên những yếu tố đặc thù của môi trường mạng, Thông tư số
09/2008/TT-BCT quy định về một quy trình giao kết hợp đồng tiêu biểu qua
website thương mại điện tử, qua đó giúp phân định phạm vi trách nhiệm của mỗi
bên trong các giao dịch này, đồng thời giảm bớt sự bất bình đẳng giữa khách hàng
và thương nhân trong giao kết hợp đồng.
Bên cạnh những điều khoản về quy trình giao kết hợp đồng, Thông tư số
09/2008/TT-BCT còn quy định cụ thể việc cung cấp thông tin trên các website
thương mại điện tử nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong quá trình giao dịch
với yêu cầu những thông tin này phải: a) rõ ràng, chính xác, dễ tìm và dễ hiểu; b)
được sắp xếp tại các mục tương ứng trên website và có thể truy cập bằng phương
70
pháp trực tuyến; c) có khả năng lưu trữ, in ấn và hiển thị được về sau và d) được
hiển thị rõ đối với khách hàng trước thời điểm khách hàng gửi đề nghị giao kết hợp
đồng [7, Điều 11].
Những thông tin mà thương nhân phải công bố trên website theo quy định
của Thông tư số 09/2008/TT-BCT bao gồm: thông tin về thương nhân và người sở
hữu website; thông tin về hàng hóa, dịch vụ; thông tin về giá cả; thông tin về các
điều khoản giao dịch; thông tin về vận chuyển và giao nhận; thông tin về các
phương thức thanh toán; thông tin đầy đủ và trung thực về việc được chứng nhận
website thương mại điện tử uy tín.
Thông tư số 09/2008/TT-BCT còn dành một mục (Mục IV) quy định một số
vấn đề đặc thù trong bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng khi giao kết hợp đồng trên
website thương mại điện tử, như cơ chế rà soát và xác nhận nội dung hợp đồng; thủ
tục chấm dứt hợp đồng đối với hợp đồng cung ứng dịch vụ trực tuyến dài hạn; giải
quyết tranh chấp liên quan đến các hợp đồng giao kết trên website thương mại điện
tử; bảo vệ thông tin cá nhân của khách hàng trên website thương mại điện tử…
Có thể nhận thấy, các quy định pháp luật hiện hành về bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng trong giao kết hợp đồng điện tử của Việt Nam về cơ bản đã tiếp cận
được xu hướng điều chỉnh pháp luật trên thế giới, như quy định về nghĩa vụ cung
cấp thông tin của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; quy định về cơ
chế rà soát và xác nhận nội dung hợp đồng; quy định về sửa lỗi do nhập sai thông
tin khi giao kết hợp đồng qua mạng; quy định bảo vệ thông tin cá nhân của người
tiêu dùng khi giao kết hợp đồng qua mạng… Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chưa
có quy định cho phép người tiêu dùng có "quyền rút lui khỏi hợp đồng", trả lại hàng
hóa đã mua và không phải bồi thường, khi giao kết hợp đồng qua Internet trong một
thời hạn nhất định như pháp luật của một số nước tiên tiến trên thế giới. Ví dụ như
pháp luật của Pháp, người tiêu dùng có quyền rút lui khỏi hợp đồng trong vòng 7
ngày, không kể ngày lễ và chủ nhật: đối với hàng hóa, tính từ ngày người tiêu dùng
nhận được hàng hóa, nếu đã có thư khẳng định lại của thương nhân qua đường thư
71
điện tử (email); đối với dịch vụ: thời hạn này được tính từ ngày kí kết hợp đồng
hoặc từ ngày thương nhân khẳng định lại thông tin bằng thư điện tử. Trong trường
hợp thương nhân không thực hiện nghĩa vụ khẳng định lại thông tin bằng email, thì
thời hạn mà người tiêu dùng có thể rút lui khỏi hợp đồng là 3 tháng. Đối với hàng
hóa tình từ ngày người tiêu dùng nhận được hàng hóa; đối với dịch vụ tính tư ngày
ký kết hợp đồng. Trong trường hợp người tiêu dùng thực hiện quyền rút lui khỏi
hợp đồng, thương nhân phải hoàn trả lại số tiền đã nhận trong thời hạn tối đa là 30
ngày. Quyền rút lui của người tiêu dùng không áp dụng đối với những hàng hóa
hoặc dịch vụ được sử dụng ngay lập tức như: băng đĩa hình, nhạc; các phần mềm tin
học hay báo chí điện tử.
Quyền rút lui khỏi hợp đồng giúp người tiêu dùng không bị rơi vào thế yếu,
nếu nhận thấy mặt hàng mua từ xa không phù hợp với yêu cầu, người tiêu dùng có
thể thay đổi ý định mà không phỉa chịu phạt.
Bên cạnh đó, các quy định về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao
kết hợp đồng điện tử còn nằm rải rác ở các văn bản khác nhau, khó cho việc tra cứu
và quan trọng hơn, phần lớn các quy định này mới chỉ được quy định trong một văn
bản có hiệu lực pháp lý thấp (Thông tư số 09/2008/TT-BCT), nên hiệu quả điều
chỉnh trong thực tiễn chưa cao. Điều đáng tiếc là trong quá trình xây dựng Luật Bảo
vệ người tiêu dùng, nhiều quy định Thông tư số 09/2008/TT-BTC) được đánh giá là
khá tốt lại chưa được pháp điển hóa, nâng lên thành luật quy định trong Luật Bảo vệ
người tiêu dùng. Chính điều này cũng là nguyên nhân dẫn tới ý thức tuân thủ pháp
luật của các tổ chức, cá nhân, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trên mạng chưa cao,
chế tài chưa đủ mạnh để răn đe.
Sử dụng phương tiện điện tử để giao kết hợp đồng luôn là vấn đề có tính hai
mặt. Bên cạnh những lợi ích không thể phủ nhận như giảm chi phí, tiết kiệm thời
gian, tạo ra nhiều cơ hội, nâng cao khả năng cạnh tranh, thì hợp đồng điện tử cũng
tồn tại rất nhiều rủi ro tiềm ẩn. Từ khi Luật giao dịch điện tử Việt Nam năm 2005 ra
đời, bước đầu đã tạo dựng được khung pháp lý cho giao kết hợp đồng điện tử, tuy
72
nhiên khung pháp lý về hợp đồng điện tử tại Việt Nam hiện này còn sơ sài, thiếu cụ
thể chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Vì vậy việc nhận diện và kiểm soát những rủi
ro có thể phát sinh trong giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử phải được đặc biệt
quan tâm trong thời gian tới cùng với việc hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh vấn
đề này.
CHƢƠNG 3
KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ VÀ CÁC GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VÀ NGƢỜI TIÊU DÙNG VIỆT NAM
3.1.Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hợp đồng điện tử tại Việt Nam Sự ra đời của Luật giao dịch điện tử năm 2005, cùng với hàng loạt các Nghị
định và các văn bản dưới Luật hướng dẫn áp dụng luật thương mại điện tử. Điều
này cho thấy khung pháp lý về giao kết hợp đồng điện tử đã và đang từng bước
được hoàn thiện hơn. Tuy nhiên trong lĩnh vực thương mại điện tử, việc giao kết
hợp đồng điện tử, khung pháp lý về hợp đồng điện tử nói chung và giao kết hợp
đồng điện tử nói riêng, cho đến nay vẫn còn nhiều bất cập, quy định chưa đầy đủ,
cần phải được sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện. Việc hoàn thiện khung pháp lý cho
giao kết hợp đồng điện tử, trước hết phải đươc bắt đầu từ sự xem xét, tiếp tục sửa
đổi, bổ sung Luật giao dịch điện tử năm 2005.
Sự phát triển của công nghệ thông tin, giao dịch điện tử đã làm thay đổi cách
thức giao dịch, giao kết hợp đồng truyền thống và đem lại những lợi ích to lớn cho
xã hội. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng phải thừa nhận rằng, những rủi ro có thể gặp
trong quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng trên mạng là hiện thực và việc này
đòi hỏi phải có các giải pháp không chỉ về mặt kỹ thuật mà còn cần phải hình thành
được một khung pháp lý đầy đủ và hoàn thiện. Những kinh nghiệm thực tế trên thế
giới cho thấy, để thúc đẩy giao dịch điện tử phát triển thì vai trò của Nhà nước phải
73
được thể hiện rõ nét trên hai lĩnh vực: cung ứng dịch vụ điện tử và xây dựng một hệ
thống pháp luật đầy đủ, thống nhất và cụ thể để điều chỉnh các quan hệ hợp đồng
điện tử. Nếu như chúng ta thiếu đi một cơ sở pháp lý vững chắc cho hợp đồng điện
tử hoạt động thì các bên tham gia giao kết hợp đồng điện tử sẽ rất lúng túng trong
việc giải quyết các vấn đề có liên quan và về phía các cơ quan nhà nước cũng sẽ rất
khó có cơ sở để kiểm soát được các hoạt động giao kết hợp đồng điện tử.
Hơn thế nữa giao kết hợp đồng điện tử là một lĩnh vực rất mới mẻ cho nên
tạo được niềm tin cho các chủ thể tham gia vào các quan hệ hợp đồng điện tử là một
việc làm có tính cấp thiết mà một trong những yếu tố rất quan trọng là phải tạo ra
được một hành lang pháp lý hoàn thiện, thuận lợi, bảo về được quyề và lợi ích hợp
pháp của các bên tham gia. Bên cạnh những kết quả đã đạt được trong quá trình xây
dụng pháp luật về hợp đồng điện tử thời gian vừa qua, thì khung pháp luật về hợp
đồng điện tử ở nước ta hiện nay vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập nhất định
đòi hỏi cần phải tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện. Ví dụ như; vấn đề giao kết hợp
đồng điệnt tử qua website theo mô hình C2C, vấn đề giao kết hợp đồng điện tử theo
mẫu trên wesite thương mại điện tử, vấn đề công chứng hợp đồng điện tử, vấn đề
bảo hộ pháp lý đối với tài sản ảo trong các quan hệ hợp đồng, vấn đề ý thức tuân thủ
pháp luật trong giao kết hợp đồng điện tử của các bên tham gia…Đây là những vấn
đề nếu không được giải quyết tốt sẽ trở thành rủi ro cho các bên tham gia giao kết
hợp đồng, là lực cản đối với sự phát triển của hợp đồng điện tử. Theo đó, các giải
pháp để phòng tránh rủi ro trong giao kết hợp đồng điện tử tại Việt Nam bao gồm:
3.1.1. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh, hướng dẫn cụ
thể viêc giao kết hợp đồng điện tử qua website theo mô hình C2C.
Mua bán đấu giá tài sản qua mạng Internet là hoạt động đang diễn ra phổ
biến ở Việt Nam hiện nay. Chừng nào pháp luật về bán đấu giá tài sản trực tuyến
chưa được xây dựng thì cơ sở pháp lý cho việc đảm bảo quyền và lợi ích của các
bên tham gia và động lực thúc đẩy các giao dịch dân sự, thương mại phát triển vẫn
đang bị bỏ ngỏ. Với những quy định tại Bộ luật dân sự năm 2015 và Nghị định số
17/2010/NĐ – CP của Chính phủ ngày 04/3/2010 về đấu giá tài sản, có thể nói pháp
74
luật Việt Nam hiện hành về bán đấu giá tài sản chưa bán sát thực tế cuộc sống, cũng
như chưa thúc đẩy được hoạt động đấu giá một cách mạnh mẽ trên thực tế. Các quy
định của pháp luật về đấu giá tài sản dường như xây dựng cho môi trường truyền
thống mà chưa chú ý tới sự phát triển của công nghệ; chú trọng nhiều hơn đến tài
sản bị buộc phải bán đấu giá và vẫn mang tính thủ tục hành chính mà chưa thực sự
mang bản chất là giao dịch dân sự, thương mại mang tính chất bình đẳng, thỏa
thuận và tự định đoạt. Chính vì vậy trong thời gian tới để thúc đẩy hoạt động đấu
giá phát triển, thúc đẩy sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, pháp luật về đấu
giá tài sản cần hoàn thiện theo hướng tách biệt hai loại đấu giá là: đấu giá bắt buộc
và đấu giá tự nguyện để có quy định riêng phù hợp góp phần bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch, góp phần thúc đẩy sự phát triển các
giao lưu dân sự. Đồng thời mở rộng phạm vi quy định quyền của người bán đấu giá
tài sản và phương thức bán đấu giá tài sản đối với chủ sở hữu tài sản là cá nhân
thông qua mạng Internet.
Bên cạnh đó cần ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể
hướng dẫn, điều chỉnh về quy trình giao kết hợp đồng điện tử qua website giữa các
cá nhân với nhau, về quy trình mua bán tài sản theo hình thức đấu giá qua mạng, về
nghĩa vụ cung cấp thông tin, cơ chế hoạt động của các website thương mại điện tử
theo mô hình C2C, cũng như nghĩa vụ của bên trung gian đã thiết lập trên trang web
cho phép người tiêu dùng mua bán tài sản với nhau theo hình thức đấu giá trực
tuyến.
3.1.2. Xây dựng và ban hành các quy định pháp luật điều chỉnh, hướng
dẫn cụ thể việc giao kết hợp đồng điện tử theo mẫu trên website.
Sự ra đời của hợp đồng theo mẫu đã phá vỡ quan niệm tự do hợp đồng
truyền thống (mặc dù về khía cạnh kinh tế không thể phủ nhận vai trò của nó trong
việc đơn giản hóa quá trình ký kết và tiết kiệm thời gia, công sức cho cả hai bên khi
atham gia quan hệ hợp đồng). Được hình thành không phải trên cơ sở thống nhất ý
chí tự do của các bên, hợp đồng theo mẫu được xem như là sự khước từ nguyên tắc
tự do hợp đồng. Người tiêu dùng bị tước bỏ mọi cơ hội thảo luận, bàn bạc về các
75
điều khoản của hợp đồng đã được một bên mạnh hơn về kinh tế quy định trước.
Như đã trình bày, các hợp đồng theo mẫu điện tử được sử dụng để giao dịch
qua website có 3 dạng là: Hợp đồng nhấp chuột, hợp đồng duyệt web và hợp đồng
gói kèm. Cả ba loại hợp đồng này đều đặt ra câu hỏi cơ bản liên quan tới sự thỏa
thuận do có sự chi phối của yếu tố công nghệ, mà pháp luật Việt Nam hiện hành cần
giải quyết. Để giải quyết vấn đề quan trọng này, việc điều chỉnh pháp luật cần được
tiếp cận từ 2 góc độ: lý thuyết vê sự ưng thuận trong giao kết hợp đồng (i) và bảo vệ
quyền lợi của người tiêu dùng (ii).
(i) Bản chất của hợp đồng phải là sự thống nhất ý chí giữa các bên. Tất cả các
hợp đồng đều là sự thỏa thuận. Về nguyên tắc, hiệu lực của hợp đồng không phụ
thuộc vào các điều kiện về hình thức, thủ tục; hợp đồng có hiệu lực khi các bên đã
đạt được thỏa thuận (lý thuyết ưng thuận), trừ một số trường hợp ngoại lệ. Vì vậy sự
ưng thuận được coi là yếu tố cơ bản, thành tố đầu tiên hình thành hợp đồng, nếu
thiếu không thể hình thành hợp đồng. Trong lĩnh vực hợp đồng, ưng thuận có hai
thành tố chủ yếu, đó là hiểu biết và sự lựa chọn hợp lý. Hai thành tố này cần được
đánh giá khi xem xét sựưng thuận về một hậu quả pháp lý nhất định. Người ưng
thuận trước hết phải có sự hiểu biết hay các thông tin về bản chất và đối tượng của
hợp đồng, có thể cùng với các điều kiện khác, và có quyền lựa chọn ít nhất là có hay
không giao kết hợp đồng. Với cách tiếp cận vấn đề như vậy, pháp luật về hợp đồng
cần đưa ra các quy định riêng đối với việc giao kế từng loại hợp đồng theo mẫu qua
website để đảm bảo yếu tố ưng thuận vân luôn là nền tảng trong việc hình thành
hợp đồng. Cụ thể là:
- Đối vơi hợp đồng nhấp chuột cần quy định: Khi giao kết hợp đồng điện
tử theo dạng nhấp chuột, tổ chức, ca nhân, sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
phải cho phép bên kia (người tiêu dùng) xem xét toàn bộ hợp đồng trước khi chấp
thuận có giao dịch hay không; đặt phương tiện thê hiện sự đồng ý ở cuối các điều
khoản để yêu cầu người tiêu dùng đọc các điều khoản trước khi ưng thuận giao kết
76
hợp đồng.
Website phải cung cấp một sự lựa chọn rõ ràng giữa chấp thuận hay từ
chối hay từ chối các điều khoản của hợp đồng. Sự lựa chọn này nên xuất hiện vào
giai đoạn cuối khi người tiêu dùng được thể hiện sự ưng thuận của mình.
Trong trường hợp đồng ý với những điều khoản hợp đồng đã công bố,
người tiêu dùng sẽ có quyền tiếp cận bất cứ thứ gì mà hợp đồng đó hứa hẹn. Nếu
không đồng ý với những điều khoản mà hợp đồng đã công bố, người tiêu dùng sẽ
không thể hoàn tất giao dịch và bị từ chối quyền tiếp cận bất cứ thứ gì mà hợp đồng
đó đem lại
- Đối với hợp đồng duyệt web cần quy định các điều kiện để hợp đồng dể
một hợp đồng duyệt web được coi là giao kết và có hiệu lực. Các điều kiện đó là:
+ website phải thông báo một cách đầy đủ, công khai về sự tồn tại cảu hợp
đồng theo mẫu;
+ Người tiêu dùng có cơ hội để xem xét tất cả các điều khoản và toàn bộ
nội dung hợp đồng;
+ Website phải thông báo đầy đủ, rõ ràng về cách thức chấp nhận tham gia
hợp đồng là: Bằng việc truy cập và sử dụng trang web, người tiêu dùng đã thể hiện
sự ưng thuận của mình với các điều khoản được đề xuất và đồng ý tham gia hợp
đồng;
+ Người tiêu dùng truy cập và sử dụng trang web để thực hiện giao dịch
khi đã được thông báo về hình thức chấp nhận tham gia hợp đồng như ở điểm 3 nêu
trên.
- Đối với hợp đồng gói kèm cần quy định:
Tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ qua website phải
thông báo rõ ràng cho người tiêu dùng về việc sử dụng hàng hóa, dịch vụ phải tuân
theo các điều khoản trong hợp đồng gói kèm.
Cho phép người tiêu dùng có quyền rút lui khỏi hợp đồng, trả lại hàng hóa đã mua
và được hoàn lại tiền mà không phải bồi thường, khi không chấp nhận được các
77
điều khoản trong hợp đồng gói kèm trong một thời hạn nhất định.
ii) Với mục tiêu bảo đảm tính công bằng trong quan hệ giữa thương nhân và người
tiêu dùng, pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng của nhiều quốc gia như các quốc gia
thuộc liên minh châu Âu, Canada, Nhật Bản, Hoa Kỳ… cấm thương nhân đưa ra
các điều khoản không công bằng vào hợp đồng của mình với người tiêu dùng. Pháp
luật của các quốc gia này thường nêu khá chi tiết và cụ thể các dangjq uy định được
coi là bất công với người tiêu dùng để người tiêu dùng dễ dàng nhận biết, đánh giá
và yêu cầu thương nhân hoặc cơ quan có thẩm quyền xem xét lại. Một điều khoản
được coi là bất công nếu điều khoản đó nằm trong các hợp đồng theo mẫu do
thương nhân sử dụng, không được đưa ra thương lượng trực tiếp với người tiêu
dùng và taok sự bất cân xứng giữa quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng theo
hướng bất lợi cho người tiêu dùng. Những nội dung kể trên rất nên được quy định
trong pháp luật Việt Nam.
3.1.3. Xây dựng thiết chế công chứng hợp đồng điện tử
Ở nước ta, vấn đề hiện đại hóa hoạt động tư pháp và bổ trợ tư pháp nói chung
cũng như hoạt động công chứng nói riêng đang rất được quan tâm. Hiện nay dưới
sự chủ trì của Bộ Tư pháp, ngành công chứng Việt Nam cũng đang thực hiện dự án
tin học hóa trong chương trình hợp tác quốc tế với ngành công chứng của Cộng hòa
Pháp. Mục tiêu bước đầu của dự án không chỉ là việc đầu tư về trang thiết bị vật
chất (bao gồm cả phần cứng và phần mềm) mà còn đào tạo kỹ năng tác nghiệp trên
máy vi tính cho các Công chứng viên, cán bộ của phòng công chứng. Có thể nói đây
là những bước đi đầu tiên nhằm tạo tiền đề, cơ sở vật chất ban đầu cũng như nhăm
đúc rút kinh nghiệp thực tế cho việc xây dựng công chứng điện tử ở nước ta hiện
nay, đặc biệt là khi Luật giao dịch điện tử được ban hành. Luật giao dịch điện tử
năm 2005 đã xây dựng cơ sở pháp lý cần thiết cho hoạt động công chứng bằng việc
ghi nhận những biện pháp, công cụ điện tử được sủ dụng trong giao dịch điện tử
cũng như giá trị pháp lý của hình thức giao dịch này. Do đó, để thiết chế công
chứng có thể đáp ứng được những yêu cầu chính đáng, hợp pháp của công dân, tổ
78
chức trong thời gian tới, ngay từ bây giờ, chúng ta phải tiến hành nghiên cứu mô
hình tổ chức và hoạt động của công chứng điện tử. Theo đó, muốn thực hiện được
mục tiêu này, chúng ta cần phải đáp ứng được hai yêu cầu cơ bản sau:
Thứ nhất,cần ghi nhận, khẳng định được vị trí, vai trò của hoạt động công
chứng trong xã hội điện tử (hợp đồng điện tử, giao dịch điện tử, thương mại điện
tử…) trong các văn bản quy phạm pháp luật. Một khi đã được pháp luật khẳng định
chính thức về vị trí, vai trò của mình trong các giao dịch điện tử, công chứng điện tử
sẽ có đầy đủ cơ sở pháp lý để phát triển, khẳng định mình cũng như tạo ra hành lang
pháp lý an toàn cho cá nhân, tổ chức khi tham gia giao kết các hợp đồng, giao dịch
bằng phương tiện điện tử. Đó là điều kiện cần.
Thứ hai, điều kiện đủ. Để công chứng điện tử đi vào cuộc sống là phải xây
dựng cơ sở vật chất cần thiết (hạ tầng mạng, chất lượng đường truyền, hệ thống máy
chủ, chi phí rẻ…) và đưa những giải pháp về mặt công nghệ (chữ ký điện tử, con
dấu điện tử, xác định nhận dạng của đương sự bằng các phương tiện điện tử, vấn đề
bảo mật những thông tin liên quan đến giao dịch…)
Ngoài ra, chúng ta cần nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện cơ sở lý luận về
hoạt động công chứng cũng như những yêu cầu đối với hoạt động công chứng nói
chung và công chứng điện tử nói riêng trên cơ sở tham khảo và học hỏi kinh nghiệm
quốc tế.
3.1.4. Xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật riêng về bảo
vệ dữ liệu cá nhân, kết hợp tăng cường bảo đảm an toàn thông tin trong giao kết
hợp đồng điện tử.
Quyền được bảo vệ dữ liệu cá nhân là một quyền còn khá mới mẻ ở Việt
Nam và ít người biết đến. Tuy nhiên, trước sự phát triển của công nghệ thông tin và
Internet, quyền được bảo vệ dữ liệu cá nhân đã trở thành quyền quan trọng không
thể bỏ qua. Điều 1 Luật về tin học và các quyền tự do của Pháp quy định: Tin học
phải phục vụ mọi công dân. Việc phát triển tin học phải được thực hiện trong khuôn
khổ hợp tác quốc tế. Tin học không được vi phạm con người, nhân quyền, đời sống
79
riêng tư, các quyền tự do của con người. Cho đến nay có tổng cộng hơn 50 quốc gia
trên thế giới Luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân, trong đó đa số là các nước phát triển,
nhưng ngày càng có nhiều nước đang phát triển cũng đã ban hành.
Cùng với sự phát triển của giao dịch qua mạng Internet, thì nguy cơ xâm
phạm và lạm dụng thông tin cá nhân cũng diễn ra ngày càng nhiều hơn với tính chất
và mức độ khác nhau. Đây là một rào cản không nhỏ đối với giao kết hợp đồng điện
tử nói riêng và đối với việc đẩy mạnh ứng dụng Iternet trên tất cả các lĩnh vực đời
sống xã hội. Do vậy, việc xây dựng khung pháp lý vềdữliệu cá nhân trong môi
trường mạng là vấn đề có tính cấp thiết đối với mỗi quốc gia nếu muốn tận dụng tối
đa các tiện ích của Internet. Việc xây dựng pháp luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân cần
dựa trên bốn yếu tố cơ bản sau:
-Thừa nhận quyền được bảo vệ dữ liệu cá nhân như là một quyền cơ bản.
- Xây dựng các nguyên tắc về bảo vệ dữ liệu cá nhân, trong đó quy định rõ
các nguyên tắc cần tuân thủ đặc biệt về nghĩa vụ tôn trọng mục đích xử lý dữ liệu,
nghĩa vụ bảo quản dữ liệu, nghĩa vụ bảo đảm an toàn và nghĩa vụ thông tin cho
người có thông tin bị thu thập.
- Quy định cơ chế và chế tài xử phạt trong trường hợp vi phạm nguyên tắc về
bảo vệ dữ liệu cá nhân hoặc vi phạm quyền được bảo vệ dữ liệu cá nhận của người
khác.
- Thành lập một cơ quan bảo vệ dữ liệu cá nhân độc lập, đảm bảo cho việc
tuân thủ các nguyên tắc trong lĩnh vực bảo vệ dữ liệu cá nhân và quyền của mỗi
người được bảo vệ dữ liệu cá nhân. Cơ quan bảo vệ dữ liệu cá nhân phải có thẩm
quyền kiểm tra và áp dụng chế tài khi cần thiết.
Bên cạnh việc xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật riêng
về bảo vệ dữ liệu cá nhân,thì công tác tăng cường bảo đảm an toàn thông tin trong
giao kết hợp đồng điện tử là vấn đề cốt yếu để triển khai hợp đồng điện tử một cách
sâu rộng. Nếu không giải quyết được vấn đề này thì không thể thúc đẩy giao kết
hợp đồng điện tử điện tử phát triển. Do đó phỉa tăng cường triển khai các hoạt động
về an toàn thông tin trong giao dịch điện tử, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát
80
nhằm đảm bảo cho pháp luật về hợp đồng điện tử được thực hiện một cách đầy đủ,
kịp thời. Chủ động đấu tranh phòng, chống, phát hiện tội phạm và các hành vi vi
phạm pháp luật trong giao kết hợp đồng điện tử, tiến hành xử lý nghiêm minh để
răn đe các chủ thể có ý định thực hiện các hành vi tương tự.
Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của an toàn thông tin, quyền lợi,
nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên tham gia giao kết hợp đồng điện tử trong việc
đảm bảo an toàn thông tin, lợi ích của việc sử dụng chữ ký số, và dịch vụ chứng
thực chữ ký số trong giao kết hợp đồng điện tử.
Phát triển cac tổ chức cungc cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số có uy tín; phát
triển các tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực cho website thương mại điện tử.
Khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân ứng dụng các công nghệ bảo mật
tiên tiến để thông tin trao đổi trên môi trường mạng máy tính được đảm bảo an toàn.
Đẩy mạnh hoạt động cấp chứng nhận website thương mại điện tử uy tín; phổ biến
lợi ích của hoạt động này đối với doanh nghiệp và người tiêu dùng; khuyến khích
các tổ chức cấp chứng nhận website thương mại điện tử uy tín hợp tác, trao đổi kinh
nghiệm với các tổ chức cấp chứng nhận website thương mại điện tử uy tín của nước
ngoài.
3.1.5. Ban hành hướng dẫn cụ thể về giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố
nước ngoài
Luật giao dịch điện tử năm 2005 quy định một điều khoản liên quan đến chữ
ký điện tử và chứng thư điện tử nước ngoài. Tuy nhiên không có một quy định nào
liên quan đến giao kết hợp đồng điện tử với đối tác nước ngoài. Trong thực tiễn việc
giao kết hợp đồng điện tử với các bên là đối tác nước ngoài thường có những đặc
điểm và yêu cầu riêng, đặc biệt về mặt pháp lý so với hợp đồng trong nước. Trong
thương mại điện tử cũng vậy mặc dù hợp đồng điện tử mang tính phi biên giới, tính
hiện đại, tính chính xác cao… nhưng nó lại tiềm ẩn nhiều rủi ro. Việc giao kết hợp
đồng điện tử giữa hai doanh nghiệp của hai quốc gia khác nhau khi xảy ra tranh
81
chấp phát sinh lập tức vấn đề đầu tiên cần giải quyết là tranh chấp từ hợp đồng điện
tử đó sẽ được giải quyết bằng pháp luật của quốc gia nào và tiếp đến là cơ quan giải
quyết tranh chấp (tòa án hay trọng tài) của nước nào sẽ có thẩm quyền giải quyết
những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng điện tử đó. Vì vậy, Luật giao dịch điện tử
năm 2005 không quy định vấn đề này thì vấn đề sẽ bế tắc không giải quyết được, do
đó cần bổ sung những quy định cụ thể đối với giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố
nước ngoài.
3.1.6. Bổ sung các quy định cụ thể hơn về giải quyết tranh chấp liên quan
đến việc giao kết và thực hiện hợp đồng
Thứ nhất, Luật giao dịch điện tử năm 2005 qquy định tại Chương VII về giải
quyết tranh chấp và xử lý vi phạm. Với 3 Điều 50, 51,53, Luật mới chỉ quy định về
xử lý vi phạm pháp luật về giao dịch điện tử và giải quyết tranh chấp trong giao
dịch điện tử. Không có quy định nào nói về giải quyết tranh chấp phát sinh từ, hoặc
liên quan đến việc giao kết hợp đồng điện tử. Giao dịch điện tử có thể bao gồm cả
hợp đồng điện tử. Điều 116 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Giao dịch dân sự
là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự”[25, Điều 16]. Như vậy, hợp đồng dân sự là một loại hình
giao dịch dân sự. Tuy nhiên, do có những quy định khác biệt liên quan đến hợp
đồng dân sự, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã giành hẳn mục 7 thuộc Chương XVII với
40 điều khoản để hướng dẫn việc giao kết thực hiện và giải quyết tranh chấp từ hợp
đồng dân sự.
Tôi cho rằng hợp đồng dân sự cũng nên có cách tiếp cận như vậy. Ví dụ,
Điều 429 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “ Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa
án giải quyết tranh chấp hợp đồng dân sự là 3 năm, kể từ ngày người có quyền yêu
cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”[25, Điều
492].
Vậy đối với những tranh chấp phát sinh từ hợp đồng điện tử, thời hiệu khởi
kiện sẽ là bao nhiêu lâu? Vẫn giữa nguyên 2 năm hay ngắn hơn? Thời hiệu khởi
82
kiện áp dụng đối với tranh chấp thương mại cũng được quy định là 2 năm (Điều 319
Luật Thương mại Việt Nam năm 2005). Vậy đối với tranh chấp phát sinh từ hợp
đồng điện tử thì thời hiệu tố tụng sẽ là bao nhiêu ?
Vấn đề này cần phải được quy định rõ ràng trong Luật giao dịch điện tử Việt
Nam 2005 bằng một điều bổ sung mới về thời hiệu tố tụng trong Luật, hoặc bằng
một điều khoản dẫn chiếu tới Bộ luật Dân sự 2015 hoặc tới Luật Thương mại năm
2005,. Không thể để thiếu quy định này trong Luật Giao dịch điện tử hiện hành nếu
muốn nó phát huy đầy đủ hiệu lực trong giao dịch điện tử của của doanh nghiệp và
người tiêu dùng.
Thứ hai, Sửa đổi điều 52 của Luật Giao dịch điện tử năm 2005
Điều 52 quy định: “1. Nhà nước khuyến khích các bên có tranh chấp trong
giao dịch điện tử giải quyết thông qua hòa giải; 2.Trong trường hợp các bên không
hòa giải được thì trình tự, thủ tục, thầm quyền giải quyết tranh chấp về giao dịch
điện tử được thực hiện theo quy định của pháp luật.[21, Điều 52].
Quy định của Điều 52 này vừa không rõ ràng, vừa không cụ thể về mặt pháp
lý. Điều này thể hiện ở chỗ:
Khi có tranh chấp phát sinh, giữa những người bình thường hoặc giữa những
chủ thể của hợp đồng (kể cả hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại), việc đầu
tiên phải làm là tiến hành thương lượng trực tiếp giữa các bên với nhau (còn gọi là
khiếu nại). Phương thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng giữa các bên đã
được pháp luật nhiều nước thừa nhận, đặc biệt là trong kinh doanh thương mại
trong nước cũng như quốc tế. Để việc thương lượng thành công, người đi thương
lượng phải nắm vững và tuân thủ một số thủ tục pháp lý liên quan đến phương thức
giải quyết traanh chấp bằng thương lượng. Nếu giải quyết tranh chấp bằng thương
lượng trực tiếp khong đạt kết quả thì người ta mới tiến hành hòa giải. Hòa giải qua
người trung gian (Mediation) hoặc hòa giải qua người hòa giải (Conciliation). Giải
quyết tranh chấp bằng hòa giải có sự xuất hiện của người thứ ba. Quy trình, thủ tục
giải quyết bằng hòa giải được tiến hành hoàn toàn khác với giải quyết tranh chấp
bằng thương lượng. Vì tầm quan trọng của các phương giải quyết tranh chấp thương
83
mại là rất rõ ràng nên Luật Thương mại Việt Nam năm 2005, đã liệt kê theo thứ tự
từng phương thức :“1. Thương lượng giữa hai bên; 2. Hòa giải giữa các bên do một
cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên thỏa thuận làm trung gian hòa giải; 3.
Giải quyết tại Trọng tài hoặc Tòa án.” [22, Điều 317].
Trong đó Điều 52 Luật Giao dịch điện tử Việt Nam năm 2005 quy định thật
mơ hồ, không rõ ràng: hòa giải theo cách thức nào? Giữa ai với ai hay là hòa giải
giữa các bên trước khi ra Tòa án hoặc trọng tài? Nếu không sửa đổi, bổ sung điều
luật này thì các doanh nghiệp tiến hành giao kết hợp đồng điện tử sẽ gặp rất nhiều
khó khăn khi tranh chấp phát sinh.
Khoản 2 điều 52 cũng quy dịnh thật chung chung, mơ hồ: “2.Trong trường hợp các
bên không hòa giải được thì trình tự, thủ tục, thầm quyền giải quyết tranh chấp về
giao dịch điện tử được thực hiện theo quy định của pháp luật”[21, Điều 52(2)]. Đọc
khoản 2 sẽ thấy phát sinh hàng loạt các vấn đề trình tự, thủ tục, thẩm quyền giải
quyết tranh chấp về giao dịch điện tử…thẩm quyền giải quyết của ai? Của hòa giải
viên hay của Tòa án? Hay của trọng tài? Luật không quy định rõ. Cụm từ “ theo quy
định của pháp luật” cũng không rõ ràng: pháp luật nào? Pháp luật về dân sự hay
thương mại?.
Vì vậy, Điều 52 cũng phải được sửa đổi theo hướng phù hợp với các văn bản
pháp luật hiện hành của Việt Nam về giải quyết tranh chấp từ hoặc liên quan đến
giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử.
Thứ ba, bổ sung các quy định về trách nhiệm cụ thể do vi phạm hợp đồng điện tử.
Luật Giao dịch điện tử năm 2005 chỉ quy định về trách nhiệm của cơ quan
nhà nước trong trường hợp hệ thống thông tin điện tử bị lỗi (Điều 42); trách nhiệm
của các bên hữu quan trong việc đảm bảo an ninh, an toàn, bảo mật trong giao dịch
điện tử (Chương VI); xử lý vi phạm pháp luật về giao dịch điện tử (Điều 50).
Không có một quy định nào trong luật quy định về trách nhiệm của các bên giao kết
hợp đồng điện tử (ví dụ người bán hoặc người mua) khi họ vi phạm hợp đồng điện
tử đã ký kết. Đây là lỗ hổng của Luật giao dịch điện tử Việt Nam năm 2005, mà nếu
không được bổ sung thêm, việc vi phạm các hợp đồng điện tử đã được giao kết mà
84
không có chế tài xử lý nghiêm khắc sẽ dẫn đến hậu quả là các bên giao kết hợp
đồng điện tử bị thiệt hại sẽ không muốn giao kết hợp đồng điện tử nữa. Họ sẽ quay
về với các hợp đồng truyền thống và vì vậy thương mại điện tử sẽ rất khó phát triển
như chúng ta mong muốn.
Khi bổ sung chế độ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng điện tử, cũng cấn lưu ý
sự khác nhau giữa chế độ trách nhiệm, giữa các chế tài được áp dụng khi có vi
phạm hợp đồng điện tử trong lĩnh vực dân sự với hợp đồng điện tử trong lĩnh vực
thương mại. Bởi vì, Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 đưa ra 7 chế tài cụ thể
mà các bên có thể áp dụng khi có sự vi phạm hợp đồng thương mại. Trong khi đó
Bộ luật Dân sự Việt Nam 2015 không liệt kê 7 chế tài như vậy, ngược lại chỉ quy
định chế tài đối với việc vi phạm từng loại hợp đồng dân sự cụ thể (như hợp đồng
mua bán tài sản. hợp đồng vay tài sản, hợp đồng mượn tài sản…). Chính những
điều này đã tạo ra sự không rõ ràng trong quy định về chế độ trách nhiệm do vi
phạm hợp đồng truyền thống.
Vì vậy, cách sửa đổi, bổ sung hợp lý đối với các quy định liên quan đến vi
phạm hợp đồng điện tử cũng nên đi theo hai hướng: vi phạm hợp đồng điện tử trong
lĩnh vực dân sự sẽ do Bộ luật Dân sự điều chỉnh, còn vi phạm hợp đồng điện tử
trong lĩnh vực thương mại nên giải quyết theo quy định của Luật Thương mại năm
2005. Cách này sẽ tránh được sự đồng nhất các mối quan hệ dân sự với các mối
quan hệ thương mại, vì quan hệ thương mại phải được điều chỉnh bởi những quy
định riêng do mục đích sinh lời của chúng rất khác với mục đích tiêu dùng trong
quan hệ dân sự. Nói cách khác, cần bổ sung vào Luật Giao dịch điện tử Việt Nam
năm 2005 quy định về các loại chế tài được áp dụng khi vi phạm hợp đồng điện tử.
3.1.7. Bổ sung thêm các quy định cụ thể hướng dẫn việc giao kết hợp đồng
điện tử
Vấn đề giao kết hợp đồng điện tử được quy định ở Chương IV với 6 điều, từ
Điều 33 dến Điều 38, ngoài ra còn có các Điều 17, 18, 19 và 20 hướng dẫn về việc
gửi, nhận thông điệp dữ liệu như một quy trình giao kết hợp đồng điện tử. Tuy
nhiên, quy định này mới chỉ là những quy định về giao dịch điên tử và những quy
85
định rất sơ sài về giao kết hợp đồng điện tử. Chỉ với những quy định này, hàng loạt
vấn đề liên quan đến giao kết hợp đồng điện tử vẫn chưa rõ ràng, như: thế nào là
một đề nghị giao kết hợp đồng điện tử chắc chắn? Trong trường hợp người đề nghị
giao kết hợp đồng điện tử đã gửi đề nghị giao kết giao kết hợp đồng điện tử nhưng
sau đó lại muốn thu hồi lại đề nghị đó thì phải làm như thế nào vì các khâu thao tác
liên quan đến giao kết hợp đồng điện tử thường rất nhanh? Thế nào là một chấp
nhận đề nghị giao kết hợp đồng điện tử ? Khi người được đề nghị đã chấp nhận đề
nghị giao kết hợp đồng nhưng có nêu điều kiện hoặc sửa đổi đề nghị đã được gửi tới
thì người này có được coi là đã đưa ra một đề nghị mới như đối với giao kết hợp
đồng truyền thống hay không?... Tất cả những vấn đề này đều chưa được quy định
trong Luật giao dịch điện tử năm 2005, và vì vậy Luật này chưa được coi là đủ cơ
sở pháp lý cho giao kết hợp đồng điện tử. Ngay cả Nghị định số Nghị định số
57/2016/NĐ – CP ngày 09/6/2016 cũng chưa có quy định cụ thể vấn đề này. Rõ
ràng, việc phải bổ sung thêm những quy định cụ thể hướng dẫn việc giao kết hợp
đồng điện tử nói chung và giao kết hợp đồng điện tử trong lĩnh vực thương mại nói
riêng là rất cần thiết.
Để bổ sung những quy định cụ thể về giao kết hợp đồng điện tử, làm cho
Luật giao dịch điện tử năm 2005 mang tính khả thi và thực tiễn, tôi đề nghị bổ sung
vào Chương IV Luật giao dịch điện tử năm 2005 tất cả các quy định hướng dẫn giao
kết hợp đồng điện tử. Cụ thể, bổ sung quy định về khái niệm đề nghị giao kết hợp
đồng điện tử, về thời hạn hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng điện tử, về thay
đổi, rút lại, hủy bỏ và chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng điện tử… Bổ sung quy
định về khái niệm chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng điện tử, về thời hạn trả lời
chấp nhận giao kết hợp đồng điện tử, về nội dung hợp đồng điện tử và điều kiện
một hợp đồng điện tử được coi là vô hiệu. Bên cạnh đó cần tham khảo Luật mẫu
của UNCITRAL về chữ ký điện tử để đưa vào Luật giao dịch điện tử năm 2005
những quy định về chữ ký đối với hợp đồng điện tử có yếu tố nước ngoài.
3.1.8. Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong giao kết hợp đồng điện
86
tử
Sự thành công của hợp đồng điện tử phụ thuộc vào việc xây dựng một môi
trường giao dịch thu hút cũng như an toàn đối với các bên tham gia. Điều này đặc
biệt đúng khi nói tới khía cạnh bảo vệ người tiêu dùng. Một yếu tố quan trọng để
tạo môi trường cho long tin và sự tín nhiệm trong giao kết hợp đồng điện tử đó là
phải bảo vệ người tiêu dùng. Các bên tham gia giao kết hợp đồng điện tử qua mạng
Iternet không nhất thiết hay không thể gặp nhau. Thông thường, người tiêu dùng
không biết rõ các thông tin về hàng hóa, dịch vụ được cung cấp cũng như người bán
hàng, khả năng chịu rủi ro sẽ cao hơn, do đó cần co những quy định pháp luật bảo
vệ họ.
Xuất phát từ thế yếu của người tiêu dùng so với nhà cung cấp dịch vụ, hàng
hóa trong giao kết hợp đồng điện tử, pháp luật Liên minh Châu âu đã đưa ra nhiều
biện pháp để bảo vệ bên ký kết hợp đồng ở thế yếu này (người tiêu dùng) theo
nguyên tắc mức độ bảo vệ trong giao dịch điện tử không thấp hơn so với các giao
dịch truyền thống. Trong các biện pháp đó, đáng chú ý là biện pháp trao cho họ
quyền rút lui khỏi hợp đồng và biện pháp cung cấp nghĩa vụ thông tin, gia tăng các
quy định về hình thức.
Đã có nhiều biện pháp được triển khai để bảo vệ một bên kí kết hợp đồng
chịu ở thế yếu.Tôi nghiêng về biện pháp trao cho họ quyền rút lui khỏi hợp đồng,
tăng cường nghĩa vụ cung cấp thông tin và gia tăng các quy định về hình thức.
Thứ nhất, quyền rút lui khỏi hợp đồng
Nhằm bảo vệ nguyên tắc chấp thuận của người tiêu dùng, Chỉ thị 97/7/CE
ngày 20/5/1997 về bảo vệ người tiêu dùng trong giao kết hợp đồng từ xa (Điều 6)
đã trao cho họ “quyền rút lui khỏi hợp đồng”. Trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ
thời điểm xác định, người tiêu dùng có thể rút lui khỏi hợp đồng mà không phải
chịu phạt hay giải thích nguyên nhân. Nếu người tiêu dùng thực hiện quyền này
theo quy định, nhà cung ứng có nghĩa vụ hoàn trả các khoản tiền đã đặt trước trong
thời hạn ngắn nhất hoặc muộn nhất là 30 ngày. Quyền rút lui khỏi hợp đồng giúp
87
người tiêu dùng không bị rơi vào thế yếu: nếu nhận thấy mặt hàng mua từ xa không
phù hợp với yêu cầu (áo quần không vừa), người tiêu dùng có thể thay đổi ý định
mà không phải chịu phạt hay giải thích nguyên do.
Thứ hai, tăng cường nghĩa vụ cung cấp thông tin
Vì phương thức giao kết hợp đồng đặc biệt – từ xa hay thông qua các phương
tiện điện tử - nên người tiêu dùng rơi vào thế yếu do không có được đầy đủ thông
tin về thực tế hay về pháp luật trong quan hệ hợp đồng. Vì vậy, để người tiêu dùng
có thể tự do và sáng suốt khi chấp thuận giao kết hợp đồng, Chỉ thị số 97/7/CE ngày
20/5/1997 về bảo vệ người tiêu dùng trong giao kết hợp đồng từ xa (Điều 4 và Điêu
5), Chỉ thị số 2003/31/EC về thương mại điện tử (Điều 5, 10 và 11) đã đưa ra các
quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin mà người bán phải tuân theo. Các nghĩa vụ
này chủ yếu liên quan đến danh tính và các thông tin liên quan đến người bán, đối
tượng hợp đồng (mô tả sản phẩm hay dịch vụ, giá cả…) cũng như các quyền của
người tiêu dùng (quyền rút lui khỏi hợp đồng, dịch vụ hậu mãi nếu có hay dịch vụ
bảo hành). Việc phần lớn người tiêu dùng không thành thạo công nghệ thông tin và
nguy cơ sai sót có thể nảy sinh từ đó cũng khiến cơ quan lập pháp Liên minh Châu
Âu yêu cầu người cung cấp dịch vụ, hàng hóa cung cấp cho khách hàng của mình
nhiều thông tin khác nhau, chủ yếu là các bước kỹ thuật cần tiến hành để giao kết
hợp đồng hay các biện pháp kỹ thuật để nhận ra và sửa chữa sai sót khi nhập thông
tin trước khi thực hiện thao tác đặt hàng (Điều 10 Chỉ thị số 2003/31/CE ngày
8/6/2000 về thương mại điện tử.
Thứ ba, gia tăng các yêu cầu về mặt hình thức
Trong số các biện pháp do cơ quan lập pháp Châu âu đề ra nhằm giúp cho
người tiêu dùng đưa ra quyết định rõ rằng, còn có biện pháp gia tăng các yêu cầu về
mặt hình thức (các nội dung mang tính chất thông tin, văn bản và phương thức
truyền thông tin…) Đối với các hợp đồng kí từ xa liên quan đến các dịch vụ tài
chính, nhà cung cấp có nghĩa vụ thông báo cho người tiêu dùng biết điều kiện hợp
đồng cũng như các thông tin khác trên “giấy” hay một loại vật liệu có khả năng bảo
88
quản lâu dài, mà người tiêu dùng có thể nhận được trước khi kí kết hợp đồng từ xa
hay chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Theo Chỉ thị về thương mại điện tử, nhà
cung cấp dịch vụ phải thông báo qua các phương tiện điện tử cho khách hàng biết
đã nhận được đơn đặt hàng của họ, không được chậm trễ nếu không có lí do chính
đáng.
Cùng với sự lên ngôi của xã hội thông tin, câu hỏi được đặt ra là làm thế nào
để thực hiện hiệu quả các quy định về hình thức khi giao dịch qua các phương tiện
điện tử, khi chúng ta đã có truyền thống căn cứ vào văn bản giấy tờ. Về điểm này,
chúng ta biết rằng các nước thành viên Liên minh Châu Âu đã cam kết xóa bỏ các
rào cản về mặt hình thức trong việc giao kết hợp đồng thông qua các phương tiện
điện tử. Yêu cầu này rất có ý nghĩa bởi nguyên tắc về mặt hình thức của hợp đồng là
một cơ chế bảo vệ một bên bị yếu thế mà cơ quan lập pháp thường sử dụng. Quả
vậy, tùy theo từng trường hợp, các yêu cầu về mặt hình thức giúp cung cấp thông
tin cho bên bị yếu thế, lưu ý họ một số thông tin, đảm bảo tính dễ đọc, tính toàn vẹn
và lâu dài của thông tin… Trong khi hành nghề và mở rộng hoạt động, nhà cung cấp
dịch vụ cũng có thể bị thiệt hại do các rào cản này chưa đảm bảo an toàn pháp lí.
Vì vậy, lí thuyết tương đương chức năng này lại được đưa vào các quy định
luật pháp trong nước (tuy nhiên giữa các nước vẫn có sự khác biệt). Lí thuyết này
bắt nguồn từ nhận định rằng các phương thức giao dịch trên giấy tờ nhằm đáp ứng
các quy định về hình thức không thể được sử dụng y nguyên trong trường hợp giao
kết hợp đồng thông qua các phương tiện điện tử, vì như thế sẽ không đảm bảo an
ninh về mặt pháp lí. Nếu muốn thiết lập quan hệ hợp đồng bằng con đường này, cần
phải xác định phương thức triển khai trong môi trường kĩ thuật số. Theo lí thuyết
tương đương chức năng, không có một quy định nào là hình thức văn bản phải được
thực hiện theo một biện pháp kĩ thuật đặc biệt (giấy đối với văn bản viết, nét chữ
riêng và viết tay trực tiếp trên chất liệu đối với chữ kí… ) nhưng có quy định về
chức năng mà hình thức văn bản phải đáp ứng (đảm bảo tính dễ đọc, tính lâu dài,
thậm chí là tính toàn vẹn của thông tin, đối với văn bản viết chẳng hạn) . Hai
phương thưc được tiến hành trong môi trường truyền thống (giấy đối với văn bản
89
viết) và môi trường số (tài liệu ở định dạng pdf ghi lên đĩa CD-ROM được coi là
tương đương vì chúng đáp ứng chức năng tối thiểu về thể thức văn bản (văn bản
viết). Sự tương đương này nghĩa là trên khía cạnh pháp lí, hai hình thức này có hệ
quả như nhau nên có thể thay thế cho nhau được. Hay nói cách khác, thể thức văn
bản quy định được thực hiện trong môi trường số khi phương thức lựa chọn có được
chức năng như yêu cầu.
3.2. Những kiến nghị đối với doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng Việt Nam
trong giao kết hợp đồng điện tử
Trong môi trường xã hội hiện đại, khi mà công nghệ thông tin đang phát
triển một cách nhanh chóng đến từng giờ, với những tần suất lớn. Thì việc giao kết
hợp đồng điện tử là việc rất cần thiết, tuy nhiên như đã phân tích ở hai chương trên
của luận văn thì giao kết hợp đồng điện tử luôn là phương pháp giao kết có tính hai
mặt, bên cạnh đó khung pháp lý về giao kết hợp đồng điện tử chưa cụ thể và hoàn
thiện, vì vậy doanh nghiệp và người tiêu dùng cần phải cẩn trọng khi giao kết hợp
đồng điện tử. Những kiến nghị sau đây xin được chuyển đến doanh nghiệp và người
tiêu dùng Việt Nam.
3.2.1. Giải pháp đối với doanh nghiệp
a) Lưu ý về giá trị pháp lý của Hợp đồng điện tử
Khi giao kết hợp đồng điện tử, để đảm bảo giá trị pháp lý của hợp đồng điện
tử, các Doanh nghiệp Việt Nam là các bên của hợp đồng điện tử cần lưu ý một số
điểm sau:
- Đảm bảo rằng các thỏa thuận là công bằng: Các điều khoản càng phức tạp
thì khi tranh chấp, Tòa án sẽ càng yêu cầu các chứng cứ xác thực nhiều hơn.
- Đọc kỹ các nội dung của hợp đồng điện tử trước khi ký kết: Các bên tham
gia giao kết hợp đồng điện tử cần phải đọc kỹ các nội dung của hợp đồng, đặc biêt
trong trường hợp giá trị hợp đồng lớn. Thông thường, pháp luật thừa nhận giá trị
pháp lý của hợp đồng sau khi các bên đã đồng ý mà không quan tâm đến việc các
90
bên có đọc kỹ hay không. Trong quá trình ký kết hợp đồng nếu trang web cung cấp
thêm đường link tham khảo thì các bên cần click vào và đọc rõ những nội dung
được liên kết đến. Nếu không đọc tất cả thông tin mà trang web cung cấp hoặc liên
kết đến thì rủi ro thuộc về người ký.
- Quy định rõ về hợp đồng điện tử sẽ hình thành: các bên có thể trách khỏi
tranh chấp nếu tuyên bố rõ ràng trong các giao dịch điện tử của mình rằng hợp đồng
cuối cùng ràng buộc các bên sẽ được ký kết dưới hình thức văn bản hay được hình
thành dưới dạng thông điệp dữ liệu sau khi có sự xác nhận đồng ý của các bên. Điều
này tránh tranh chấp giúp các bên tránh tranh chấp về việc khi nào hình thành hợp
đồng điện tử.
- Giá trị hợp đồng điện tử phụ thuộc vào luật của từng quốc gia: Mặc dù hợp
đồng điện tử được hình thành theo quy định của Luật về thương mại điện tử hoặc
Luật về giao dịch điện tử của một số nước, nhưng giá trị pháp lý của hợp đồng đó
còn phụ thuộc vào một số yếu tố liên quan. Trong nhiều trường hợp yếu tố liên quan
có thể là chữ ký của những người tham gia ký kết hợp đồng điện tử có phù hợp với
các tiêu chuẩn về đạo đức và pháp luật hay không. Hiện tại một số quốc gia chỉ cho
phép ký kết hợp đồng điện tử trong một số lĩnh vực. Chính vì vậy, khi ký kết hợp
đồng điện tử cần phải tìm hiểu thêm luật của từng quốc gia xem lĩnh vực đó có được
chấp thuận hay không.
b) Lưu ý trong việc tránh để gây ra lỗi nhập dữ liệu
Các hợp đồng điên tử có thể được ký kết một cách nhanh chóng và phạm vi
giao dịch rất rộng do khả năng kết nối toàn cầu của Internet. Do vậy đối với các
công ty bán hàng trên mạn, khi cho phép khách hàng ký kết hợp đồng với chương
trình tự động qua website cần có một biện pháp quản lý dữ liệu sản phẩm chặt chẽ
và có độ chính xác cao.
Ngoài ra để hạn chế tranh chấp giữa các bên khi có lỗi xảy ra thì ngay trong
hợp đồng điện tử nhà cung cấp phải có thêm điều khoản bảo lưu về khoảng thời
gian tối thiểu đề các bên báo với nhau về lỗi nhập dữ liệu và quy định rõ những biện
91
pháp xử lý lỗi nhập dữ liệu. Đồng thời các bên có thể quy định rõ quy trình sửa đổi
đơn hàng trong trường hợp người mua phát hiện ra sai sót của mình trong quá trình
ký kết hợp đồng.
c) Lưu ý khi ký kết hợp đồng qua thư điện tử
Trước khi giao kết hợp đồng điện tử các doanh nghiệp này cần phải:
- Có năng lực thật sự về thương mại điện tử
Các doanh nghiệp khi tham gia vào giao kết hợp đồng điện tử trước tiên cần
trang bị cho mình đầy đủ những kiến thức cơ bản về thương mại điện tử và hợp
đồng điện tử. Điều này đòi hỏi từ người lãnh đạo doanh nghiệp đến các nhân viên
của doanh nghiệp phải nắm bắt được không chỉ các vấn đề về kỹ thuật mà cả vấn đề
về kinh doanh, đặc biệt là các vấn đề pháp lý liên quan đến giao kết hợp đồng bằng
phương tiện điện tử - nhiều tiện ích nhưng cũng ẩn chứa rất nhiều rủi ro nếu không
nắm bắt và làm chủ được nó.
- Cần tuyển dụng đội ngũ chuyên gia giỏi về tin học, về công nghệ thông tin
Doanh nghiệp cần có một đội ngũ chuyên gia tin học mạnh, thường xuyên
cập nhật và bắt kịp công nghệ thông tin mới để phục vụ cho việc giao dịch, cũng
như có khả năng thiết kế các công cụ phần mềm đáp ứng được nhu cầu hoạt động
thương mại điện tử của doanh nghiệp ( thiết kế các trang web quảng cáo sản phẩm,
làm các đơn chào hàng, xây dựng các quy tình chuẩn cho việc giao kết hợp đồng
điện tử...) và giải quyết các vấn đề kỹ thuật phát sinh.
- Đầu tư đủ mạnh về trang thiết bị kỹ thuật
Đối với yêu cầu này, doanh nghiệp cần: thứ nhất, cần trang bị các máy tính
hiện đại và các thiết bị kỹ thuật (thiết bị mạng) đạt đủ các điều kiện kỹ thuật; thứ
hai, là truyền thông, doanh nghiệp cần phải có một đường dẫn dữ liệu ổn định,
nhanh, chính xác. Để có được điều này cần phải có sự đầu tư thích đáng, đầu tư cơ
92
sở hạ tầng, công nghệ thông tin và đầu tư nguồn nhân lực cho doanh nghiệp.
Không chỉ có Nhà nước đầu tư mạnh mẽ mà doanh nghiệp cũng cần đầu tư
đủ mạnh về trang thiết bị kỹ thuật nhằm bảo đảm cho sự thành công về mặt công
nghệ thông tin, cho việc giao kết hợp đồng điện tử tại doanh nghiệp mình.
- Có kỹ năng bảo mật các hợp đồng điện tử
Doanh nghiệp cần phải có một phương pháp quản lý dữ liệu thích hợp nhằm
đảm bảo tính bảo mật cho các hợp đồng điện tử. Khi hoạt động ký kết hợp đồng
diễn ra qua mạng Internet, một thế giới ảo không phải lúc nào cũng kiểm soát được
thì vấn đề về bảo mật thông tin càng được quan tâm. Nhiều khi đây là nhân tố quyết
định thành bại trong kinh doanh, đảm bảo uy tín cho doanh nghiệp và có được sự tin
tưởng tử phía khách hàng và đối tác. Hợp đồng điện tử sẽ không thể phát triển nếu
như người tham gia chưa an tâm về công tác bảo mật.
Nếu muốn giao kết hợp đồng điện tử thành công thì trước tiên lãnh đạo
doanh nghiệp phải giáo dục ý thức bảo mật cho thành viên trong doanh nghiệp. Bên
cạnh đó doanh nghiệp cần phải chủ động xây dựng cơ chế bảo mật và cơ chế giám
sát việc thực thi cơ chế bảo mật đó. Sẽ là rủi ro khôn lường nếu tội phạm lừa đảo
tiết lộ thông tin, ăn cắp bí mật...lại do chính thành viên trong nội bộ doanh nghiệp
thực hiện.
- Đổi mới nhận thức về vai trò của hợp đồng điện tử
Cần phải thay đổi nhận thức của người chủ doanh nghiệp, các nhân viên
trong doanh nghiệp về hình thức kinh doanh mới này. Giao kết hợp đồng điện tử sẽ
không thể thực hiện được tại các doanh nghiệp nơi mà ở đó chưa có sự đổi mới
trong nhận thức, vẫn duy trì phương thức giao kết hợp đồng truyền thống. Hoặc là
vì sự bảo thủ, hoặc là do dự trước những rủi ro mà hình thức này có thể đem lại, đó
là những lý do cản trở các doanh nghiệp vào cuộc. Công nghệ thông tin phát triển sẽ
tạo ra nhiều hình thức, phương thức kinh doanh mới, đem lại nhiều hiệu quả, nhiều
lợi ích. Giao kết hơp đồng điện tử là một hình thức kinh doanh mới, hiện đại và là
xu hướng phát triển chung không chỉ ở Việt Nam mà còn trên bình diện quốc tế. Vì
93
vậy trong môi trường kinh doanh "số hóa" hiện nay các doanh nghiệp cần phải có
quyết tâm cao để vào cuộc nhằm nắm được những cơ hội kinh doanh mới. Tìm hiểu
và nắm được những vấn đề đặc biệt của hợp đồng điện tử sẽ giúp các doanh nghiệp
tránh được những rủi ro có thể gặp phải, để có thể giao kết hợp đồng điện tử thành
công va có được lợi ích từ phương thức giao kết hợp đồng mới mẻ này.
- Có hiểu biết đầy đủ về những vấn đề pháp lý liên quan đến giao kết hợp
đồng điện tử
Như đã phân tích ở trên, mặc dù chưa hoàn hảo những khung pháp lý điều
chỉnh việc giao kết hợp đồng điện tử đã và đang từng bước được xây dựng, được
hoàn thiện. Có rất nhiều quy định mới, phức tạp cần phải nắm bắt, hiểu và vận dụng
trong thực tế. Vì vậy, trước khi giao kết hợp đồng điện tử, các doanh nghiệp cần
phải nghiên cứu kỹ các vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng điện tử . Sự hiểu biết
về pháp luật sẽ tạo cho các doanh nghiệp năng lực tự phân tích, tự đánh giá và tự
chịu trách nhiệm khi triển khai việc giao kết hợp đồng điện tử.
Sự nắm vững các quy định của pháp luật về giao kết hợp đồng điện tử sẽ
giúp các doanh nghiệp thận trọng hơn, chủ động hơn khi gặp những rủi ro không chỉ
về mặt kỹ thuật mà còn về mặt pháp lý khi giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử.
Những vấn đề pháp lý về giao kết hợp đồng điện tử, đặc biệt là hợp đồng
điện tử có yếu tố nước ngoài là những vấn đề pháp lý phức tạp. Vì vậy, khi gặp
những đối tác lần đầu quen biết, khi lần đầu tham gia vào một môi trường pháp luật
xa lạ, khi giao kết những hợp đồng có giá trị lớn, tốt nhất là cần tìm đến luật sư tư
vấn về vấn đề này.
b) Kiến nghị đối với những doanh nghiệp đã có kinh nghiệm trong giao kết
hợp đồng điện tử
Thực tiễn thương mại điện tử trong những năm gần đây cho thấy có rất nhiều
doanh nghiệp Việt Nam đã mạnh dạn ứng dụng công nghệ thông tin vào giao kết
hợp đồng của doanh nghiệp. Có những doanh nghiệp để chớp thờ cơ, đã giao kết
94
hợp đồng điện tử thông qua người trung gian. Nhiều hợp đồng điện tử thành công
và cũng nhiều hợp đồng điện tử bị thất bại do không lưu lại được chứng cứ pháp lý.
Vì vậy, kiến nghị đối với những doanh nghiệp này là:
- Thận trọng khi thông qua người trung gian (môi giới) để giao kết hợp đồng
điện tử.
Điều 150 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 quy định: “Môi giới thương
mại là hoạt động thương mại, theo đó một thương nhân làm trung gian (gọi là bên
môi giới) cho các bên mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ (gọi là bên được môi
giới) trong việc đàm phán, giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ và được
hưởng thù lao theo hợp đồng môi giới”. [22, Điều 150]. Điều 151 khoản 3 quy định
người môi giới thương mại “chịu trách nhiệm về tư cách pháp lý của các bên được
môi giới, nhưng không chịu trách nhiệm về khả năng thanh toán của họ”.[22, Điều
151(3). Những quy định trên cho thấy các bên có thể giao kết hợp đồng điện tử
thông qua người môi giới thương mại. Tuy nhiên trong trường hợp như vậy, chủ thể
hợp đồng thương mại điện tử - người cũng là bên được môi giới trong quan hệ với
người được môi giới- phải ký hợp đồng môi giới để giàng buộc trách nhiệm của
người môi giới về tư cách pháp lý của đối tác ký kết hợp đồng thương mại điện tử
với mình. Không nên quá tin tưởng người môi giới tới mức không ký hợp đồng môi
giới với người trung gian môi giới như một số doanh nghiệp Việt Nam đã làm trong
những năm vừa qua. Những doanh nghiệp này cũng đã gánh hậu quả thua thiệt vì
không có đủ cơ sở pháp lý để ràng buộc trung gian môi giới.
Hay làm như Điều 153 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 quy định: “
Quyền hưởng thù lao môi giới phát sinh từ thời điểm các bên được môi giới đã ký
vào hợp đồng với nhau”[22, Điều 153]. Điều này có nghĩa là một trong hai bên
được môi giới phủ nhận hợp đồng điện tử đã được giao kết thì người môi giới
không được hưởng thù lao. Vận dụng Điều 153 này cũng là một biện pháp phòng
ngừa rủi ro khi phải thông qua người thứ ba để giao kết hợp đồng điện.
- Không nên giao kết hợp đồng điện tử với những khách hàng lần đầu quen
95
biết.
Nếu là khách hàng mới quen biết, nếu là thị trường lần đầu thâm nhập mà đã
giao kết hợp đồng bằng các phương tiện điện tử thì rủi ro sẽ là rất lớn. Hãy thận
trọng với những đối tác, thị trường như vậy. Tốt nhất là ký hợp đồng có giá trị lớn
theo phương thức kinh doanh truyền thống. An toàn là trên hết.
Tất nhiên, nếu là những đối tác quen biết và có uy tín thì hãy tận dụng triệt
để việc giao kết hợp đồng bằng phương tiện điện tử. Mặc dù vậy, khi các điều kiện
cần thiết để đảm bảo an toàn cho giao kết hợp đồng điện tử chưa có thì, ngay sau
khi giao kết hợp đồng điện tử xong, các doanh nghiệp nên có cách để “lưu trữ” lại
các hợp đồng đó cho mình. Chúng sẽ là những bằng chứng hữu hiệu trước cơ quan
giải quyết tranh chấp. Trong những trường hợp khác, nên mời chuyên gia tư vấn cụ
thể.
-Tăng cường chiến lược tiếp thị qua Website.
Mặc dù doanh nghiệp đang có các hoạt động tiếp thị qua web nhưng đối với
mỗi doanh nghiệp, việc lập website riêng với những kỹ năng cho phép doanh
nghiệp thực hiện việc quảng cáo trược tuyến về sản phẩm và hình ảnh của doanh
nghiệp là hết sức quan trọng. Các thông tin đầy đủ, chính xác liên quan đến giá cả,
chất lượng, các điều khoản và các điều kiện mua bán hàng hóa…cũng như các
thông tin khác về doanh nghiệp có trên website sẽ giúp khách hàng đưa ra các quyết
định mua hàng hóa.Các website cũng cho phép doanh nghiệp quản lý các mối quan
hệ với khách hàng và các đối tác kinh doanh. Bên cạnh đó, việc tăng cường chiến
lược tiếp thị qua mạng cũng sẽ giúp đội ngũ cán bộ của doanh nghiệp năng động
hơn, sáng tạo hơn và nhạy bén hơn khi giao kết hợp đồng điện tử.
3.2.2. Giải pháp đối với người tiêu dùng
a) Sử dụng các công cụ hỗ trợ khách hàng khi mua hàng trực tuyến
Trong thương mại điện tử, khách hàng có nhiều công cụ hỗ trợ khi ra quyết
định mua hàng. Khách hàng cần phải cân nhắc những dịch vụ gì, từ công ty nào.
Trang web nào (có thể là trang web của người sản xuất, nhà phân phối hoặc hãng
96
bán lẻ) và sử dụng những dịch vụ nào. Một số trang web hỗ trợ khách hàng trong
việc so sánh giá cả, đánh giá chất lượng dịch vụ, độ tin cậy và những nhân tố khác.
Đó là các cổng mua hàng, các trang web xếp hạng kinh doanh, các trang xác minh
độ tin cậy và các dạng hỗ trợ mua hàng khác.
b)Cổng mua hàng (shopping portal)
Nhiều cổng mua hàng cung cấp các dịch vụ tư vấn hoặc xếp hạng các sản
phẩm hoặc xếp hạng các công ty bán lẻ. Một số khác cung cấp các dịch vụ tương
tác cho phép khách hàng thực hiện so sánh dựa trên các tiêu chí riêng của họ, một
số cổng mua hàng khác chỉ cung cấp các đường dẫn để khách hàng tự lựa chọn và
cân nhắc.
Cổng mua hàng có thể là hỗn hợp hoặc đơn. Cổng hỗn hợp là cổng có nhiều
đường dẫn tới các người bán hàng khác nhau cung cấp các loại sản phẩm khác nhau.
Cổng mua hàng đơn chuyên môn hóa vào một sản phẩm cụ thể, cung cấp thông tin
và đường dẫn cho việc mua những sản phẩm và dịch vụ như ô tôt, máy tính, du
lịch…
- Robot mua hàng (shopbot)
Người sử dụng thương mại điện tử và Internet thành thạo có thể tìm được
những trang web khác bán những sản phẩm tương tự với mức giá hấp dẫn hơn hoặc
có những dịch vụ chất lượng cao hơn? Các robot mua hàng shopping bot) sẽ giúp
khách hàng làm điều này. Các shopbot sẽ rà soát trên các trang web bán hàng khác
nhau theo các tiêu chí do người sủ dụng đặt ra. Mỗi shopbot sủ dụng các phương
pháp tìm kiếm khác nhau.
- Các loại công cụ hỗ trợ khách hàng khác
Có nhiều loại trung gian khác nhau trong thương mại điện tử cung cấp dịch
vụ hỗ trợ người mua, người bán, hoặc cả hai trong quá trình mua bán. Ví dụ như
dịch vụ trung gian bên thứ ba. Vì cả người mua và người bán đều không nhìn thấy
và không biết nhau nên thông thường họ có nhu cầu bên thứ ba bảo đảm việc
97
chuyển giao hàng, tiền giống như các cổng mua hàng, các trang web cung câp dịch
vụ pháp lý cũng hỗ trợ việc tìm kiếm thông tin hoặc cung cấp các dịch vụ khác. Các
trang web đó cũng có thể cung cấp dịch vụ hỗ trợ thanh toán. Thương mại truyền
thống, hâu hết khách hàng thanh toán bằng tiền mặt, thẻ tín dụng. Trong thương mại
điện tử tiền mặt không thể sử dụng được, trong khi khách hàng lo ngại việc cung
cấp thông tin về thẻ tín dụng qua Internet. Do vậy nhiều công nghệ đã phát triển để
hỗ trợ thanh toán trực tuyến như tiền điện tử, các phương pháp kiểm tra tín dụng
hợp lý, công nghệ ví tiền điện tử và nhiều hệ thống thanh toán có sự tha gia của bên
thứ ba… các loại công cụ hỗ trợ khách hàng như cộng đồng khách hàng sẽ cung cấp
các thông tin, ý kiến và tư vấn về sản phẩm và người bán.
c) Một số phương pháp đáng tin cậy giúp khách hàng trên mạng:
+ Mua hàng trên mạng: hãy nghĩ về vấn đề an toàn khi bắt đầu liên hệ với
đối tác. Nên nhớ rằng thông tin truyền đi qua internet có thể bị ngăn chặn. Nếu
thông tin đó có cả ký hiệu thẻ tín dụng của bạn chẳng hạn thì cần phải có những
biện pháp bảo vệ những chi tiết của thẻ tín dụng. Một phương pháp phổ biến mà các
thương gia trên mạng có thẻ cung cấp những mực độ an toàn có thể chấp nhận cho
khách hàng của họ là sử dụng một thiết bị làm chức năng bảo vệ an toàn. Dịch vụ
này sử dụng một văn bản đặc biệt đã được cải biên (HTTP) để bảo đảm rằng thông
tin giữa khách hàng và đối tác của họ được mã hóa bằng một hệ thống mậ mã chặt
chẽ.
+ Tìm hiểu thông tin cụ thể về sản phẩm: Để có được những thông tin này,
bạn hãy tìm những web giới thiệu những thông tin về sản phẩm và dịch vụ của các
công ty bằng cách thức dễ nhìn và ngôn ngữ dễ hiểu.
+ Đọc điều khoản, điều kiện giao dịch và lữu giữ bằng chứng về việc giao
kết hợp đồng điện tử: những điều này bao gồm trả hàng đầy đủ, điều kiện giao
hàng, phương thức thanh toán. Nếu cần thiết bạn hãy hỏi giá vận chuyển trước
những khoản tiền mà bạn phải chi trả. Trước khi đặt hàng bạn phải biết rõ chính
98
sách đối ứng của công ty bán hàng.
+ Kiểm tra tính lành mạnh và rõ ràng về trình tự giải quyết khiếu nại của
doanh nghiệp: trong web của doanh nghiệp phải phải bao gồm một trình tự rõ ràng
về giải quyết khiếu nại, thắc mắc và yêu cầu của khách hàng.
+ Những điều cần thận trọng khi sử dụng thẻ tín dụng: khi mua hàng trên
internet bạn cần biết chắc rằng bạn cảm thấy thuận tiện trong quá trình mua hàng
của thương gia đó và biết rõ phương pháp hủy bỏ một đơn đặt hàng. Hầu hết các
web đều cho phép bạn hoàn thành một đơn hàng theo mẫu có sẵn hoặc điền tên
hàng bạn định mua vào phiếu đặt hàng. Chỉ sau khi bạn hoàn thành và xác nhận đơn
hàng, phương thức giao dịch, bạn mới kết thúc việc đặt hàng bằng cách ấn nút gửi
thư. Sau khi biết chắc chắn rằng giá cả đầy đủ, điều khoản, điều kiện, và phương
thức giao dịch đã được thể hiện rõ, bạn hãy in lại nội dung đó và lưu lại một bản.
Trước khi phát tín hiệu thẻ tín dụng cảu bạn lên mạng, bạn hãy tìm tài liệu chứng
minh rằng công ty mà bạn liên hệ đang hoạt động trong điều kiện máy tính có chức
năng bảo vệ an toàn. Nếu bạn không biết chắc chắn về sự an toàn khi liên hệ với
một công ty nào đó thì bạn đừng truyền đi thông tin về thẻ tín dụng của mình. Bạn
cần biết rằng chiếc máy tính có chức năng bảo vệ an toàn không phải là nơi duy
nhất mà từ đó dữ liệu của bạn có thể bị đánh cắp.
+ Kiểm tra chính sách của doanh nghiệp về việc bảo vệ thông tin cá nhân:
Những công ty, doanh nghiệp có uy tín sẽ thông báo chính sách của họ về việc bảo
vệ bí mật thông tin cá nhân trên mạng nhằm báo cho bạn biết họ đối xử đối với
thông tin mà bạn cung cấp khi mua hàng. Nếu bạn chưa biết chính sách của họ về
việc bảo vệ bí mật thông tin thì hãy liên lạc để hỏi và biết về điều đó.
Sử dụng phương tiện điện tử để giao kết hợp đồng luôn là vấn đề có tính hai
mặt. Bên cạnh những lợi ích không thể phủ nhận như giảm chi phí, tiết kiệm thời
gian, tạo ra nhiều cơ hội, nâng cao khả năng cạnh tranh, thì hợp đồng điện tử cũng
tồn tại rất nhiều rủi ro tiềm ẩn. Từ khi Luật giao dịch điện tử Việt Nam năm 2005 ra
đời, bước đầu đã tạo dựng được khung pháp lý cho giao kết hợp đồng điện tử, tuy
99
nhiên khung pháp lý về hợp đồng điện tử tại Việt Nam hiện này còn sơ sài, thiếu cụ
thể chưa đáp ứng được yêu cầu đề ra. Vì vậy việc nhận diện và kiểm soát những rủi
ro có thể phát sinh trong giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử phải được đặc biệt
quan tâm trong thời gian tới cùng với việc hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh vấn
đề này.
Dù hợp đồng được giao kết bằng phương tiện truyền thống hay phương tiện
điện tử hiện đại thì luôn tiềm ẩn những rủi ro khác nhau. Tuy nhiên, do đặc thù của
môi trường giao dịch, nên mức độ rủi ro có thể xảy ra trong giao kết hợp đồng điện
tử là lớn hơn. Vì vậy, nhận diện và kiểm soát rủi ro có thể phát sinh thông qua công
cụ pháp luật và biện pháp kỹ thuật là vấn đề cần được các chủ thể quan tâm khi
tham gia vào các quan hệ hợp đồng điện tử. Qua việc nghiên cứu lý luận và thực
tiễn cho thấy, việc hoàn thiện khung pháp lý và đưa ra các giải pháp phòng ngừa rủi
ro trong giao kết hợp đồng điện tử Việt Nam hiện nay là điều cần thiết góp phần
phát triển các giao dịch điện tử một cách đồng bộ, có hệ thống, tạo được niềm tin
cho các bên tham gia giao dịch. Hợp đồng điện tử sẽ không thể phát triển mạnh nếu
như không có một môi trường pháp lý đầy đủ cho nó hoạt động, cùng với đó là cơ
chế kiểm soát hạn chế các rủi ro khi giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử góp
phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia.
Trên cơ sở những rủi ro khi giao kết hợp đồng điện tử tại Việt Nam và những
yêu cầu cấp thiết về việc đưa ra nhưng giải pháp về việc phòng ngừa những rủi ro
đó, tác giá đã mạnh dạn kiến nghị với ba nội dung với ba đối tượng cụ thể, đó là:
thứ nhất, kiến nghị đối với những doanh nghiệp đã có kinh nghiệm trong giao kết
hợp đồng điện tử; thứ hai, kiến nghị đối với những doanh nghiệp đang có nhu áp
dụng giao kết hợp đồng điện tử; thứ ba, kiến nghị đối với người tiêu dùng. Để từ đó
nhằm nâng cao hiệu quả và thúc đẩy hơn nữa việc giao kết và thực hiện hợp đồng
100
điện tử hiện nay.
KẾT LUẬN
Thương mại điện tử nói chung và hợp đồng điện tử nói riêng đã và đang là
một xu thế phát triển tất yếu không chỉ ở nước ta mà trên cả phạm vi toàn thế giới.
Trong những năm gần đây Việt Nam đã nhận thức và coi trọng thương mại điện tử
như một chiến lược cần đạt tới, chúng ta cần nhìn nhận và đánh giá khách quan
những yếu tố còn tồn tại để có thể nhanh chóng từng bước khắc phục những hạn chế
cũng như phòng tránh được những rủi ro pháp lý trong ứng dụng thương mại điện
tử nói chung và thực hiện hợp đồng điện tử nói chung.
Giao dịch điện tử với một lợi thế là tốc độ nhanh, chi phí rẻ, truyền tải thông
tin đa dạng, không phụ thuộc nhiều vào khoảng cách, giao dịch điện tử ngày càng
trở nên phổ cập, được nhiều người tiêu dùng và doanh nghiệp sử dụng. Trong giao
dịch điện tử, hợp đồng điện tử luôn là công cụ chủ yếu trong giao dịch. Vì vậy khi
giao dịch điện tử xuất hiện thì hợp đồng điện tử cũng hình thành và phát triển theo.
Nói đến hợp đồng điện tử là nói đến một phương thức thiết lập hợp đồng. Hợp đồng
điện tử là hợp đồng được giao kết thông qua phương tiện điện tử, mà trong đó
Internet đóng một vai trò quan trọng – công nghệ được coi là điều kiện tiên quyết.
Đặc biệt, quy trình giao kết hợp đồng điện tử trong các doanh nghiệp Việt
Nam còn rất hạn chế, những điều kiện bước đầu về cơ sở hạ tầng, khung pháp lý
điều chỉnh cho giao dịch điện tử đang trong quá trình hoàn thiện, chưa đáp ứng
được yêu cầu của thương mại điện tử. Điều này sẽ ảnh hưởng không tốt đến việc
101
giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử trong thời gian tới.
Việc học hỏi kinh nghiệm của các nước phát triển đi trước sẽ giúp Việt Nam
tiếp cận được những kinh nghệm quý báu trong thời gian tới để xây dựng một môi
trường pháp lý khoa học, hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp ứng
dụng giao dịch điện tử vào hoạt động kinh doanh của mình cũng như thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế.
Hơn nữa, vấn đề rủi ro trong giao kết hợp đồng điện tử và giải pháp phòng
ngừa cần phải được nghiên cứu thường xuyên. Đối với yêu cầu này không chỉ các
nhà làm luật, các thương nhân, doanh nghiệp mà ngay cả người tiêu dùng cũng phải
thường xuyên trau dồi kiến thức về giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử để phục
vụ cho hoạt động kinh doanh, tiêu dùng của mình một cách hiệu quả, tránh được
102
những rủi ro không đáng có./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Trần Văn Biên (số 8/2010), “Về khái niệm hợp đồng điện tử”, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật.
2. TS. Trần Văn Biên (số 10/2010), “Sự thỏa thuận trong giao kết hợp đồng
điện tử qua mạng Internet”, Tạp chí nhà nước và luật.
3. TS. Trần Văn Biên số 20/2010), “Pháp luật và hợp đồng điện tử”, tạp chí
Tòa án nhân dân.
4. TS. Trần Văn Biên (số 1/2011), “Khung pháp lý cơ bản về giao dịch điện tử
của Việt Nam”, tạp chí thông tin khoa học xã hội.
5. TS. Trần Văn Biên (2012) “Hợp đồng điện tử theo pháp luật Việt Nam”,
Luận án tiến sĩ Luật học, Trường Trường Học viện khoa học xã hội Việt
Nam, Hà Nội.
6. TS. Trần Văn Biên (2012) " Hợp đồng điện tử theo pháp luật Việt Nam",
NXB Tư pháp, Hà Nội.
7. Bộ Công thương (2008), “Thông tư số 09/2008/TT – BCT ngày 21/7/2008
của Bộ Công thương Hướng dẫn nghị định Thương mại điện tử về cung cấp
thông tin và giao kết hợp đồng trên website thương mại điện tử”, Hà Nội.
8. Chính Phủ (2007), “Nghị định của Chính phủ số 26/2007/NĐ-CP ngày
15/2/2007 quy định chi tiết thi hành luật giao dịch điện tử về chữ ký số và
103
dịch vụ chứng thực chữ ký số”, Hà Nội.
9. Chính Phủ (2007), “Nghị định số 71/2007/NĐ – CP ngày 30/5/2007 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật
công nghệ thông tin về công nghiệp công nghệ thông tin, Hà Nội.
10. Chính Phủ (2016), “Nghị định số 57/2016/NĐ – CP ngày 09/6/2016 của
Chính phủ về thương mại điện tử”, Hà Nội.
11. TS. Nguyễn Thị Dung (2008), “Pháp luật về hợp đồng trong thương mại và
đầu tư – những vấn đề pháp lý cơ bản”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. ThS. Đỗ Thị Thu Hằng (2009), “Pháp luật về hợp đồng điện tử ở Việt Nam”,
Luận văn Thạc sỹ, Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội, Hà Nôi;
13. Luật Mẫu về Thương mại điện tử năm 1996 của UNCITRAL
14. Luật Mẫu về chữ ký điện tử năm 2010 của UNCITRAL
15. GS.TS. Nguyễn Thị Mơ (2006), “Cẩm nang pháp luật về giao kết hợp đồng
điện tử”, NXB Lao động – xã hội, Hà Nội.
16. GS.TS. Nguyễn Thị Mơ (số 19/2006), “Luật giao dịch điện tử năm 2005 và
những quy định về giao kết hợp đồng điện tử”, Tạp chí Kinh tế đối ngoại, Hà
Nội.
17. Nhà pháp luật Việt – Pháp (1999), “Khoảng không vũ trụ, mạng không gian
và thông tin viễn thông (tiến bộ công nghệ và các vấn đề pháp lý)”, Kỷ yếu
hội thảo Pháp – Việt, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Nhà pháp luật Việt – Pháp (2002), “Pháp luật về thương mại điện tử”, Kỷ
yếu hội thảo, Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Nhà pháp luật Việt – Pháp (2005), “Quy chế nghề công chứng và phương
hướng xây dựng pháp lệnh Công chứng Việt Nam”, Kỷ yếu hội thảo, Hà Nội.
20. Nhà nước Pháp luật Việt – Pháp (2009), Những thách thức về mặt pháp lý
của sự phát triển công nghệ thông tin và truyền thông: Thực trạng và triển
vọng, Kỷ yếu hội thảo, Hà Nội.
21. Quốc Hội (2005), Luật Giao dịch điện tử, Hà Nội.
22. Quốc Hội (2005), Luật Thương mại, Hà Nội.
104
23. Quốc Hội (2006), Luật công nghệ thông tin, Hà Nội.
24. Quốc Hội (2010), Luật Bảo vệ người tiêu dùng, Hà Nội.
25. Quốc Hội (2015), Luật Dân Sự, Hà Nội.
26. Trung tâm thương mại quốc tế (2002), “Bí quyết thương mại điện tử, Phụ lục
III, Hợp đồng thương mại điện tử của UNECE”, NXB. Thế Giới, Hà Nội.
27. TS. Nguyễn Văn Thoan (2010), “Ký kết và thực hiện hợp đồng điện tử trong
điều kiện Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế”, Luận án Tiến sỹ, Trường Đại
học Ngoại Thương, Hà Nội.
28. TS.Lê Văn Thiệp (2016), “Pháp luật thương mại điện tử ở nước ta hiện
nay”, Luận án Tiến sĩ Luật Học, Trường Học viện khoa học xã hội Việt
105
Nam, Hà Nội.
106