ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC

NGUYỄN THỊ MAI

SÀNG LỌC NGUY CƠ LOÃNG XƯƠNG Ở

BỆNH NHÂN NỮ TRÊN 45 TUỔI BẰNG CHỈ SỐ SCORE

TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC

THÁI NGUYÊN, 2018

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC

NGUYỄN THỊ MAI

SÀNG LỌC NGUY CƠ LOÃNG XƯƠNG Ở

BỆNH NHÂN NỮ TRÊN 45 TUỔI BẰNG CHỈ SỐ SCORE

TẠI BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN

Chuyên nghành : Nội khoa

Mã số : 8720107

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN : PGS.TS LƯU THỊ BÌNH

THÁI NGUYÊN, 2018

LỜI CAM ĐOAN

Kính gửi:

- Ban giám hiệu Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên.

- Bộ phận đào tạo sau Đại học

- Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp.

Tôi là Nguyễn Thị Mai, học viên lớp cao học khoá 20, chuyên ngành

Nội Khoa, Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên xin cam đoan:

1. Đây là luận văn do tôi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn của

PGS.TS. Lưu Thị Bình.

2. Công trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác .

3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác,

trung thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp nhận của cơ sở

nơi nghiên cứu cho phép lấy số liệu và xác nhận.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về những cam đoan này.

Thái Nguyên, ngày 24 tháng 05 năm 2018

Học viên

Nguyễn Thị Mai

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn: Ban Giám hiệu, Bộ phận đào tạo sau đại học, Bộ môn Nội Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên; Ban lãnh đạo Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên, khoa Cơ Xương Khớp Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên; Ban lãnh đạo bệnh viện Gang Thép đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn.

Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Lưu Thị Bình trưởng khoa Cơ Xương Khớp Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên, người đã hết lòng dạy bảo, động viên tôi trong suốt quá trình học tập .

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các anh chị trong khoa Cơ xương khớp

Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học tập. Tôi xin trân trọng cảm ơn các Thầy, Cô giáo Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên và các thầy cô trong hội đồng chấm luận văn đã chỉ bảo tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn.

Cuối cùng, tôi cũng xin vô cùng biết ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp luôn là những người động viên, khích lệ và ủng hộ nhiệt tình giúp tôi vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống và học tập

Thái Nguyên, ngày 24 tháng 5 năm 2018

Nguyễn Thị Mai

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

AUC : Diện tích dưới đường cong ROC (Receiver operating characteristic)

BMC : Khối lượng chất khoáng xương (Bone Mineral Content)

BMD : Mật độ xương (Bone Mineral Density)

BMI : Chỉ khối cơ thể (Body Mass Index)

CSTL : Cột sống thắt lưng.

CXĐ : Cổ xương đùi.

DEXA : Hấp thụ tia X năng lượng kép (Dual Energy X ray

Absorptiometry)

ĐTNC : Đối tượng nghiên cứu

MĐX : Mật độ xương

OSTA : Chỉ số tự đánh giá loãng xương cho người châu Á

(Osteoporosis Self assessment Tool for Asian index)

ORAI : Công cụ đánh giá nguy cơ loãng xương

(Osteoporosis Risk Assessment In strument)

OSIRIS : Chỉ số nguy cơ loãng xương (Osteoporosis Index of Risk)

SCORE : Tính toán đơn giản ước lượng nguy cơ loãng xương

(Simple Calculated Osteoporosis Risk Estimation)

SD : Độ lệch chuẩn (Standard Deviatio)

Se : Độ nhạy (Sensitivity)

Sp : Độ đặc hiệu (Specificity)

PPV : Positive Predictive Value (Giá trị dự báo dương tính)

NPV : Negative Predictive Value (Giá trị dự báo âm tính)

VKDT : Viêm khớp dạng thấp

WHO : Tổ chức Y tế thế giới (World Health Organization)

MỤC LỤC

ĐẶT VẤN ĐỀ ................................................................................................. 1

Chương1: TỔNG QUAN ................................................................................ 3

1.1. Đại cương về loãng xương ....................................................................... 3

1.1.1 Định nghĩa loãng xương ......................................................................... 3

1.1.2. Phân loại loãng xương ........................................................................... 3

1.1.3. Một số yếu tố nguy cơ gây loãng xương ............................................... 4

1.1.4. Chẩn đoán loãng xương ........................................................................ 7

1.2. Loãng xương ở phụ nữ trên 45 tuổi ......................................................... 10

1.2.1 Không đạt khối lượng xương đỉnh lý tưởng trong quá trình

phát triển ......................................................................................................... 10

1.2.2 Sự thiếu hụt estrogen .............................................................................. 13

1.2.3. Nguy cơ loãng xương tăng theo tuổi .................................................... 14

1.3. Chỉ số SCORE ......................................................................................... 15

1.3.1. Một số chỉ số đánh giá nguy cơ loãng xương khác ............................... 15

1.3.2. Lịch sử nghiên cứu chỉ số SCORE ....................................................... 16

1.3.3. Tình hình nghiên cứu chỉ số SCORE trên thế giới ............................... 18

1.3.4. Tình hình nghiên cứu chỉ số SCORE tại Việt Nam .............................. 21

Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................. 22

2.1. Đối tượng nghiên cứu............................................................................... 22

2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn .............................................................................. 22

2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ ............................................................................... 22

2.2. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... 22

2.2.1. Thiết kế nghiên cứu ............................................................................... 22

2.2.2. Cỡ mẫu .................................................................................................. 22

2.2.3. Cách chọn mẫu ...................................................................................... 23

2.2.4. Thời gian và địa điểm............................................................................ 23

2.3. Nội dung nghiên cứu ................................................................................ 23

2.3.1. Chỉ số, biến sô nghiên cứu .................................................................... 23

2.3.2. Phương pháp thu thập nghiên cứu......................................................... 24

2.4. Xử lí số liệu .............................................................................................. 27

2.5. Đạo đức nghiên cứu ................................................................................. 29

Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................... 30

3.1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu ............................................................... 30

3.2. Khảo sát một số yếu tố nguy cơ loãng xương ở ĐTNC bằng thang điểm

SCORE ............................................................................................................ 34

3.3. Xác định giá trị dự báo nguy cơ loãng xương bằng chỉ số SCORE ở

ĐTNC .............................................................................................................. 38

Chương 4: BÀN LUẬN .................................................................................. 43

4.1. Đặc điểm chung của ĐTNC ..................................................................... 43

4.2. Đặc điểm mật độ xương bằng phương pháp DEXA của ĐTNC………..45

4.3. Khảo sát một số yếu tố nguy cơ loãng xương ở ĐTNC bằng thang điểm

SCORE ............................................................................................................ 50

4.4. Xác định giá trị dự báo nguy cơ loãng xương bằng của thang điểm

SCORE ở ĐTNC ............................................................................................. 54

KẾT LUẬN ..................................................................................................... 59

HẠN CHẾ.........................................................................................................60

KHUYẾN NGHỊ ............................................................................................. 61

TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Liên hệ nhóm bệnh và không bệnh……………………………….27

Bảng 2.2. Giá trị AUC……………………………………………………….28

Bảng 3.1. Đặc điểm tuổi của ĐTNC ............................................................... 30

Bảng 3.2. Đặc điểm thời gian mãn kinh của những đối tuợng đã mãn kinh .. 31

Bảng 3.3. Đặc điểm MĐX đo bằng phương pháp DEXA của ĐTNC ................ 32

Bảng 3.4. Chỉ số T-score trung bình theo nhóm tuổi và BMI của ĐTNC ...... 33

Bảng 3.5. Chỉ số T-score trung bình với đặc điểm mãn kinh ......................... 33

Bảng 3.6. Chỉ số T-score trung bình theo tiền sử VKD, dùng Estrogen, gãy

xương ............................................................................................................... 34

Bảng 3.7. Đặc điểm phân mức điểm Score .................................................... 34

Bảng 3.8. Điểm Score trung bình theo độ tuổi của ĐTNC ............................. 35

Bảng 3.9. Điểm SCORE trung bình với đặc điểm mãn kinh .......................... 35

Bảng 3.10. Điểm SCORE trung bình với thời gian mãn kinh ........................ 35

Bảng 3.11. Điểm SCORE trung bình theo tiền sử VKDT, dùng Estrogen,

gãy xương ........................................................................................................ 36

Bảng 3.12. Điểm SCORE trung bình theo BMI ............................................. 36

Bảng 3.13. Điểm SCORE trung bình theo chỉ số T- score của ĐTNC ........... 37

Bảng 3.14. Độ nhạy, độ đặc hiệu của chỉ số SCORE với T- score ≤ -1 ........ 38

Bảng 3.15. Chỉ số SCORE tại cut off 12 với T- score ≤ -1 ........................... 39

Bảng 3.16. Độ nhạy, độ đặc hiệu của chỉ số SCORE với T- score ≤ -2.5 ...... 40

Bảng 3.17. Chỉ số SCORE tại cut off 15 với T- score ≤ -2,5 ......................... 41

Bảng 3.18. Mối liên quan giữa nguy cơ loãng xương theo SCORE và loãng

xương theo T-score( Đo bằng DEXA) ........................................................... 42

Bảng 3.19. Giá trị chỉ số SCORE trong sàng lọc loãng xương…….............. 42

DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 3.1. Đặc điểm BMI, cân nặng của đối tượng nghiên cứu .................. 30

Biều đồ 3.2. Đặc điểm về tiền sử .................................................................... 31

Biểu đồ 3.3. Tình trạng MĐX của ĐTNC theo nhóm tuổi ............................. 32

Biểu đồ 3.4. Đường cong ROC với T- score ≤ -1 ........................................... 39

Biểu đồ 3.5. Đường cong ROC với T-score ≤ -2,5 ......................................... 41

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Loãng xương là một bệnh lý của xương, được đặc trưng bởi sự thay đổi

sức mạnh của xương bao gồm cả tình trạng giảm mật độ xương và chất lượng

xương, dẫn đến tăng tình trạng xương dễ bị gẫy [52]. Gẫy xương là biến

chứng thường gặp trong loãng xương đặc biệt là gãy cổ xương đùi làm bệnh

nhân có nguy cơ tử vong hoặc tàn phế, chi phí điều trị tốn kém, là gánh nặng

cho gia đình và xã hội. Tại Châu Âu cứ 30 giây có một người bị gẫy xương do

loãng xương [52]. Theo IOF, loãng xương chiếm tỷ lệ thứ hai sau các bệnh lý

về tim mạch [49], trên thế giới có 200 triệu người bị loãng xương, cứ 3 người

phụ nữ có 1 phụ nữ bị loãng xương ở người lớn tuổi, tại châu Á chiếm 51% tỷ

lệ người lớn tuổi [31]. Tại Việt Nam, theo báo cáo Viện Dinh Dưỡng có 2,5

triệu người bị loãng xương, hàng năm có 1500 ca gãy xương do loãng xương

đặc biệt là gẫy cổ xương đùi chiếm tỷ lệ cao, cứ 5 phụ nữ có 1 phụ nữ bị

loãng xương. Bởi vậy loãng xương đang trở thành một gánh nặng cho chương

trình chăm sóc sức khoẻ của mỗi quốc gia, trong đó có nước ta [5].

Phụ nữ giai đoạn tiền mãn kinh, buồng trứng có tình trạng giảm sản

xuất estrogen nên quá trình huỷ xương trội hơn. Tốc độ mất xương giảm 0,5 –

1% ở phụ nữ trên 40 tuổi, với phụ nữ mãn kinh tỷ lệ này chiếm 2-4% trong

5-10 năm đầu thời kỳ mãn kinh. Vì vậy, phụ nữ trên 45 tuổi được coi là đối

tượng có nguy cơ cao loãng xương và gẫy xương cần được phát hiện sớm để

điều trị kịp thời nhằm dự phòng ngừa nguy cơ gẫy xương [10].

Hiện nay đo mật độ xương bằng phương pháp DEXA là tiêu chuẩn

vàng để chẩn đoán loãng xương. Tuy nhiên, khó có thể thực hiện đo mật độ

xương trên mọi bệnh nhân do nhiều cơ sở y tế tại Việt Nam cũng như trên thế

giới còn thiếu máy đo mật độ xương bằng phương pháp DEXA, đặc biệt việc

phục vụ chẩn đoán sàng lọc loãng xương tại cộng đồng không thể tiến hành

trên các máy đo mật độ xương bằng phương pháp DEXA do khó khăn trong

2

việc vận chuyển. Vì vậy, cần thiết phải có phương pháp sàng lọc những bệnh

nhân có nguy cơ cao bị giảm MĐX hoặc loãng xương để được chỉ định đo

mật độ xương hoặc điều trị ngay nếu chưa có điều kiện đo mật độ xương.

Năm 1998 Eva Lydick và cộng sự nghiên cứu và xác lập ra một công

cụ sàng lọc nhằm xác định những phụ nữ có khả năng bị giảm MĐX hoặc

loãng xương, đó là chỉ số SCORE (Đánh giá nguy cơ loãng xương bằng tính

toán đơn giản). Chỉ số này được tính toán dựa trên 6 yếu tố: chủng tộc, tiền sử

viêm khớp dạng thấp, sử dụng Estrogen, tiền sử gãy xương không do chấn

thương sau 45 tuổi, tuổi, cân nặng. Chỉ số đã được nghiên cứu và ứng dụng ở

nhiều nơi như Canada năm 2000 [8], Châu Âu năm 2001 [9], 2016 tại Đài

Loan [28], Bắc Mỹ 2016 [21], Ấn Độ 2018 [29]…, đã cho thấy đây là một

phương pháp đánh giá nguy cơ loãng xương khá đơn giản, tiết kiệm và có tính

thực tiễn cao. Tại Việt Nam đã có nghiên cứu chỉ số SCORE của tác giả Đậu

Thế Hiệp (2015) trên 290 bệnh nhân nữ đã mãn kinh sống tại Hà Nội. Tuy

nhiên những phụ nữ sống tại khu vực trung du miền núi phía Bắc chưa có một

đánh giá nào về nguy cơ loãng xương dựa trên chỉ số SCORE cũng như chưa

có nghiên cứu nào tìm hiểu xác định một công cụ để đánh giá nguy cơ loãng

xương ở cộng đồng. Vì vậy chúng tôi thấy cần thiết phải nghiên cứu đề tài

“Sàng lọc nguy cơ loãng xương ở bệnh nhân nữ trên 45 tuổi bằng chỉ số

SCORE tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên ” với 2 mục tiêu:

1. Khảo sát một số yếu tố nguy cơ loãng xương ở phụ nữ trên 45 tuổi tại

phòng khám Cơ xương khớp Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên bằng thang

điểm SCORE.

2. Xác định giá trị dự báo nguy cơ loãng xương của thang điểm SCORE ở các

đối tượng trên.

3

Chương 1

TỔNG QUAN

1.1. Đại cương về loãng xương

1.1.1. Định nghĩa loãng xương

Năm 1993, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) chủ trì một hội nghị chuyên

đề loãng xương tại Thụy Sỹ đưa ra định nghĩa: Loãng xương là một bệnh lý

của xương được đặc trưng bởi khối lượng xương suy giảm kèm theo hư biến

cấu trúc của xương dẫn đến tính dễ gẫy của xương, tức là có nguy cơ gẫy

xương. Do vậy, cần đo MĐX để đánh giá nguy cơ gãy xương.[2]

Trong vòng 15 năm qua, rất nhiều nghiên cứu về loãng xương đã được

thực hiện qua đó chúng ta đã hiểu và biết nhiều hơn về loãng xương đặc biệt

là chất lượng của xương. Năm 2001, Viện Y tế Hoa Kỳ chủ trì một hội nghị

chuyên đề về loãng xương. Hội nghị đã đúc kết những hiểu biết mới và đi đến

một định nghĩa mới về loãng xương như sau: Loãng xương được đặc trưng

bởi sự thay đổi sức mạnh của xương. Sức mạnh của xương được đặc trưng bởi

mật độ xương và chất lượng xương. Chất lượng xương được đánh giá bởi các

thông số: Cấu trúc xương, chu chuyển xương, độ khoáng hóa, tổn thương tích

lũy, tính chất của các chất cơ bản của xương [3].

1.1.2. Phân loại loãng xương

1.1.2.1. Loãng xương nguyên phát

Là loại loãng xương không tìm thấy căn nguyên nào khác ngoài tuổi

và/hoặc tình trạng mãn kinh ở phụ nữ [2].

- Loãng xương nguyên phát typ 1 (loãng xương sau mãn kinh): Thường

gặp ở phụ nữ 50-60 tuổi đã mãn kinh. Tổn thương chủ yếu là mất chất khoáng

ở xương xốp, biểu hiện bằng sự lún các đốt sống hoặc gãy xương Pouteau-

Colles. Loãng xương nhóm này thường xuất hiện sau mãn kinh từ 5-15 năm.

Nguyên nhân ngoài sự thiếu hụt estrogen, còn có sự giảm tiết hormon cận

4

giáp trạng, tăng thải calci qua nước tiểu, suy giảm hoạt động enzym 25-OH-

Vitamin D1 alpha hydroxylase.

- Loãng xương nguyên phát typ 2 (loãng xương tuổi già): Loãng xương

liên quan đến tuổi tác và có sự mất cân bằng tạo xương. Loại này xuất hiện cả

ở nam và nữ, thường trên 70 tuổi, mất chất khoáng toàn thể cả xương xốp và

xương đặc. Biểu hiện chủ yếu là gãy cổ xương đùi, liên quan tới hai yếu tố

quan trọng là giảm hấp thu calci, giảm chức năng tạo cốt bào dẫn tới cường

cận giáp trạng thứ phát [2].

1.1.2.2. Loãng xương thứ phát:

Là loại loãng xương tìm thấy nguyên nhân do một số bệnh hoặc một

số thuốc gây nên.

1.1.3. Một số yếu tố nguy cơ gây loãng xương

1.1.3.1. Tuổi

Tuổi càng cao mật độ xương càng giảm [38].

Loãng xương tuổi già xuất hiện ở cả nam và nữ, thường trên 70 tuổi với

tỉ lệ nữ so với nam là 2/1. Đây là hậu quả của sự mất xương từ từ trong nhiều

năm. Biểu hiện gãy xương hay gặp là gãy CXĐ, gãy lún đốt sống do tổn

thương xuất hiện đồng đều cả trên xương đặc cũng như xương xốp.

Người già có sự mất cân bằng giữa tạo xương và hủy xương tạo nên

những cân bằng âm tại những vị trí mất xương làm cho vỏ xương bị mỏng đi,

liên kết giữa các bè xương bị đứt gãy do hậu quả của sự thiếu hụt của nhiều

yếu tố kích thích tại xương do đó gián tiếp làm các yếu tố kích thích hủy

xương tăng lên. Đồng thời có sự giảm hấp thu calci ở ruột và giảm tái hấp thu

calci ở ống thận do đó làm tăng khả năng mắc loãng xương [2],[12].

1.1.3.2. Estrogen

Phụ nữ mãn kinh, giảm tiết Estrogen dẫn đến nguy cơ loãng xương [12].

Estrogen được bài tiết ở buồng trứng và một lượng nhỏ do tuyến vỏ

thượng thận. Ảnh hưởng của Estrogen đến quá trình tái mô hình là làm giảm

5

lượng tế bào và hoạt động của tế bào hủy xương. Estrogen còn tác động đến

sự phát sinh và hình thành các enzym và protein qua những cơ chế phức tạp

liên quan đến các hormon khác. Tính trung bình, phụ nữ mất khoảng 50%

xương xốp và 35% xương đặc trong quãng đời. Nhưng chưa ai biết bao nhiêu

phần trăm của sự mất xương này là do thiếu (hay suy giảm) estrogen, và bao

nhiêu là do các yếu tố liên quan đến sự lão hóa hay các yếu tố môi trường.

Tuy nhiên có ước tính cho rằng khoảng 25% xương xốp và 15% xương đặc bị

mất là do suy giảm/thiếu estrogen [12].

Estrogen kích thích thụ thể calcitonin, ức chế quá trình hủy xương,

kích thích quá trình tạo xương [12].

Ở cơ quan: Estrogen và sức căng cơ học duy trì khối lượng xương. Ở

mức độ tổ chức, Estrogen làm cân bằng quá trình tạo xương và hủy xương. Ở

mức độ tế bào, Estrogen ảnh hưởng lên quá trình sản xuất, đời sống và hoạt

tính của tế bào tạo xương và hủy xương [12].

Gần đây, hệ thống RANKL/OPG/RANK được phát hiện điều hòa tiền

tế bào hủy xương, biệt hóa và hoạt hóa tế bào hủy xương [15].

Thiếu Estrogen, OPG giảm, tiền thân của tế bào hủy xương sẽ đáp ứng

mạnh với RANKL. Khi đầy đủ Estrogen, nồng độ OPG tăng sẽ gắn với

RANKL, làm giảm sự sản xuất tế bào hủy xương. Ngoài ra, Estrogen cũng có

tác dụng đồng hóa lên tế bào tạo xương [15].

Sự suy giảm Estrogene ở phụ nữ từ 45 tuổi kích hoạt các tế bào hủy

xương khiến cho tốc độ hủy xương cao hơn tạo xương khiến khung xương

ngày càng thưa, dẫn đến loãng xương. Đây là nguyên nhân gây loãng xương

quan trọng nhất ở phụ nữ mãn kinh [12].

Ở phụ nữ sau thời kì mãn kinh, sử dụng Estrogen thay thế có khả năng

ngăn ngừa mất xương và tăng MĐX qua tương tác với các thụ thể estrogen

trên bề mặt của các tế bào xương, kích hoạt các gen và protein xương, và

giảm hoạt động của những cytokines kích hoạt các tế bào hủy xương [10].

6

Một số phụ nữ sử dụng sản phẩm chứa Estrogen như: Bảo xuân, Novasoy,

Isoflavone, EstroG 100,Niveal...làm giảm nguy cơ loãng xương [34].

1.1.3.3. Viêm khớp dạng thấp

Người bị viêm khớp dạng thấp có nguy cơ bị phá hủy xương và nứt gãy

xương cao. Glucocorticoid là thuốc thường được sử dụng để điều trị viêm

khớp dạng thấp. Việc sử dụng lâu dài glucocorticoid sẽ gây mất xương. Ngoài

ra, những cơn đau và việc khớp bị mất chức năng cũng khiến người bệnh ít

vận động và làm gia tăng nguy cơ loãng xương. Một số nghiên cứu đã chỉ ra

việc phá hủy xương là kết quả trực tiếp của bệnh viêm khớp dạng thấp. Việc

mất xương thường xảy ra ở khu vực bao quanh những khớp bị viêm [30].

1.1.3.4. Chủng tộc

Tỷ lệ loãng xương thay đổi đáng kể từ nước này đến nước khác. Ở Mỹ,

người da trắng và nguồn gốc Châu Á có tỷ lệ loãng xương cao hơn những

người da đen và trên thực tế những người da đen này có khối lượng xương

cao hơn [56].

1.1.3.5. Giới

Nữ giới luôn loãng xương nhiều hơn nam giới [48].

1.1.3.6. Yếu tố cân nặng

Ở những người nhẹ cân sự mất xương xảy ra nhanh hơn và tần suất gãy

CXĐ và xẹp đốt sống cao hơn. Ngược lại, cân nặng cao là một yếu tố bảo vệ

cơ thể khỏi tình trạng mất xương thông qua việc tạo xương và tăng chuyển

androgen của tuyến thượng thận thành estron ở mô mỡ [20].

1.1.3.7. Tiền sử gẫy xương

Những người có tiền sử gẫy xưong không do chấn thương có nguy cơ

loãng xương cao hơn người bình thường [60].

Người ta thấy có những cá thể dễ dàng gãy xương hơn những người

khác. Trong gia đình có bà, mẹ hoặc một người nào khác bị loãng xương thì

con cháu họ cũng có nguy cơ bị loãng xương [57].

7

1.1.3.8. Các yếu tố khác

* Yếu tố dinh dưỡng: Là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến tình trạng của bộ

xương. Chế độ ăn không đủ calci, vitamin D, thiếu hoặc quá thừa protein,

không cân đối calci và phospho sẽ ảnh hưởng tới sự đạt được đỉnh cao của

khối lượng xương và mất xương sau này [19].

* Yếu tố chiều cao: Những người có tầm vóc thấp, nhỏ có khối lượng

xương thấp hơn nên dễ có nguy cơ loãng xương. Nhiều nghiên cứu ở Việt

Nam và trên thế giới chỉ ra rằng yếu tố chiều cao có liên quan đến MĐX [18].

* Chỉ số khối cơ thể (BMI): Có nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng cùng với

cân nặng thì chỉ số khối cơ thể có ảnh hưởng đến MĐX. Nghiên cứu của

Asomaning K (2006) cho thấy người có BMI thấp có nguy cơ mắc loãng

xương gấp 1,8 lần người bình thường [20].

* Yếu tố vận động: Sự giảm vận động ở những người lớn tuổi cũng là

yếu tố nguy cơ dẫn tới sự mất xương. Sự vận động của các cơ kích thích sự

tạo xương và tăng khối lượng xương. Ngược lại, sự giảm vận động dẫn tới

mất xương nhanh. Ngoài ra tập thể dục thường xuyên làm cho cơ chắc khỏe

và giảm bớt nguy cơ té ngã [37].

* Các bệnh lý ảnh hưởng tới loãng xương: Bệnh lý gen, viêm khớp

dạng thấp, suy sinh dục, cường cận giáp, cường giáp, tình trạng suy dinh

dưỡng, bệnh viêm ruột…[33].

* Các yếu tố như: sử dụng một số thuốc (glucocorticoid, heparin…), di

truyền, uống rượu, hút thuốc lá, tình trạng sinh đẻ đều có ảnh hưởng tới loãng

xương [36], [6].

1.1.4. Chẩn đoán loãng xương

1.1.4.1. Triệu chứng lâm sàng [2]

Những biểu hiện lâm sàng chỉ xuất hiện khi MĐX giảm trên 30%.

Triệu chứng lâm sàng có thể xuất hiện đột ngột sau một chấn thương nhẹ hoặc

có thể xuất hiện từ từ tăng dần.

8

+ Đau: Thông thường loãng xương gây đau xương và đó là triệu chứng

chính. Thường đau ở vùng xương chịu tải của cơ thể (CSTL, chậu hông), đau

nhiều sau chấn thương, đau âm ỉ nếu là tự phát. Đau tăng khi vận động, đi lại,

đứng ngồi lâu và giảm khi nghỉ ngơi.

+ Hội chứng kích thích rễ thần kinh: Có thể có các dấu hiệu chèn ép rễ

thần kinh như đau dọc theo dây thần kinh liên sườn, thần kinh tọa...nhưng

không bao giờ gây hội chứng ép tuỷ

+ Biến dạng cột sống: Gù vẹo cột sống là hậu quả của đau và nén cột

sống lưng, thắt lưng kéo dài không được điều trị. Những trường hợp gù vẹo

cột sống do loãng xương thường xảy ra từ từ, gù có đường cong rộng, không

có điểm gồ.

+ Chiều cao của cơ thể giảm: Mỗi một đốt sống bị xẹp hoàn toàn có thể

làm chiều cao của cơ thể giảm 1cm và trong những trường hợp nặng khi nhiều

đốt sống bị xẹp chiều cao của cơ thể có thể giảm từ 10 - 20cm.

+ Gãy xương: Gãy xương do loãng xương thường là những gãy xương

tự nhiên hoặc sau một sang chấn rất nhỏ như ho hắt hơi, ngã nhẹ....

1.1.4.2. Các phương pháp đánh giá tình trạng loãng xương

Phương pháp đo MĐX bằng Hấp thụ tia X năng lượng kép (Dual

energy Xray abssorptiometry – DEXA).[16]

Phương pháp đo MĐX bằng tia X năng lượng kép (DEXA – Dual

Energy Xray Absorptiometry) hiện nay được ứng dụng nhiều nhất trên lâm

sàng, được xem là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán loãng xương với độ chính

xác cao và nhiều ưu điểm.

+ Nguyên lý: Đo MĐX bằng DEXA là sử dụng hai chùm photon có

năng lượng khác nhau, năng lượng cao >70 KV cho mô xương và năng lượng

thấp 30 – 50 KV cho mô mềm. Phép đo được thực hiện ở nhiều vị trí khác

nhau như CSTL, đầu trên xương đùi, cẳng tay và toàn bộ xương cơ thể. MĐX

không được đo trực tiếp bằng các thiết bị DEXA mà phải đo khối lượng

9

khoáng của xương (BMC) ở một đoạn xương nhất định (tính bằng gram) và

diện tích vùng được đo (tính bằng cm2), kết quả MĐX của vùng xương vừa

đo được tính bằng g/cm2. MĐX đo bằng DEXA có tương quan khá cao với

nguy cơ gãy xương, vị trí tiên đoán tốt nhất là đo ở vị trí CXĐ.

+ Ưu điểm: Độ chính xác cao, thời gian thăm dò ngắn, liều tia thấp,

mức độ sai số thấp, đánh giá tách biệt giữa xương bè và xương vỏ. Có thể đo

được ở những vị trí có nguy cơ cao như CSTL, CXĐ và các vị trí ngoại biên

như cổ tay, xương gót hoặc đo toàn thân. Ngoài ra phương pháp này

còn cho phép ước tính khối lượng nạc và mỡ của toàn thân.

+ Nhược điểm: Bị hạn chế khi đánh giá nếu gặp các gai xương và calci

hoá động mạch.

- Các phương pháp đánh giá tình trạng loãng xương khác[11]:

+ Chụp Xquang quy ước

+ Sinh thiết xương

+ Sử dụng các marker chu chuyển xương (Marker tạo xương, Marker

huỷ xương).

+ Chụp cắt lớp vi tính định lượng(Quantitative computer tomography

- QCT).

+ Hấp thụ photon đơn (Single photon absorptiometry - SPA).

+ Hấp thụ photon kép (Dual photon absorptiometry – DPA).

+ Siêu âm định lượng (Quantitative ultrasound – QUS).

+ Hấp thụ tia X năng lượng đơn (Single energy Xray absorptiometry – SXA).

+ Tuy nhiên, các phương pháp này ít được ứng dụng do không có nhiều

ưu điểm như phương pháp DEXA.

1.1.4.3. Tiêu chuẩn chẩn đoán loãng xương

Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) 1994 dựa vào MĐX tính theo T-

score [52].

+ Bình thường: T-score >-1SD

10

+ Giảm MĐX: -2.5 SD< T-score ≤ -1SD

+ Loãng xương: T-score ≤-2,5SD

+ Loãng xương nặng: T-score ≤-2,5SD và có ≥1 lần gãy xương.

1.2. Loãng xương ở phụ nữ trên 45 tuổi

Vào khoảng 40-50 tuổi, kinh nguyệt của người phụ nữ trở nên không

đều. Sau vài tháng đến vài năm người phụ nữ mất kinh nguyệt hoàn toàn và

không còn hiện tượng phóng noãn. Hiện tượng này được gọi là mãn kinh.[12]

Mãn kinh : là tình trạng thôi hành kinh vĩnh viễn, một vô kinh thứ phát do

suy giảm hoạt động của buồng trứng một cách tự nhiên và không hồi phục [14].

Phân loại mãn kinh [14] :

- Mãn kinh tự nhiên là tình trạng vô kinh liên tục sau 12 tháng mà

không có bất kỳ nguyên nhân bệnh lý nào.

- Mãn kinh nhân tạo là tình trạng dừng kinh nguyệt sau khi cắt bỏ

buồng trứng (có hoặc không cắt bỏ tử cung) hoặc do điều trị hoá chất, phóng

xạ làm suy giảm chức năng buồng trứng.

* Cơ chế bệnh sinh loãng xương ở phụ nữ sau 45 gồm 3 yếu tố:

- Không đạt khối lượng xương đỉnh lý tưởng trong quá trình phát triển

- Sự thiếu hụt estrogen

- Nguy cơ loãng xương tăng theo tuổi.

1.2.1. Không đạt khối lượng xương đỉnh lý tưởng trong quá trình phát triển

* Định nghĩa: Khối lượng xương đỉnh (BMD) là khối lượng tối đa của

mô xương đạt được lúc kết thúc giai đoạn trưởng thành. Khối lượng xương

đỉnh có một vai trò rất quan trọng vì nó là một trong hai yếu tố cơ bản quyết

định khối lượng xương của toàn bộ khung xương. Bởi vậy, khối lượng xương

đỉnh cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng tới tình trạng gãy xương do

loãng xương sau này [15]. Khối lượng xương đỉnh và tỷ lệ mất xương bị ảnh

hưởng bởi yếu tố môi trường và gen, 70% số trường hợp loãng xương có thể

là kết quả của yếu tố gen bao gồm gen chi phối việc cá thể đáp ứng với yếu tố

11

ngoại sinh, còn lại 30% trường hợp dưới tác động của môi trường. Thời kỳ

đạt đến độ đỉnh của khối xương bắt đầu từ 17-18 tuổi và kết thúc muộn nhất

vào tuổi 35, ở Việt Nam đạt đỉnh từ 27 đến 29 tuổi [16].

* Các yếu tố quyết định khối lượng xương đỉnh và sức mạnh xương

gồm 5 yếu tố:

- Di truyền

- Yếu tố nội tiết

- Lực cơ học

- Thành phần dinh dưỡng xương

- Lối sống

1.2.1.1.Di truyền

Dấu ấn vệ tinh AND và gen đa alen hoặc đa hình thái mã hóa cho các

sản phẩm tác động tới bệnh lý xương. Nhiều gen đa hình thái được tìm thấy

liên quan tới mật độ xương vùng (aBMD). Gen được nghiên cứu mã hóa cho

các phân tử tác động tới chức năng và cấu trúc xương như yếu tố nội tiết,

receptor của hoocmon, yếu tố điều hòa tại chỗ của tạo khuôn xương và tạo lại

khuôn xương hoặc chất căn bản [24].

Yếu tố gen tương tác với môi trường trong đáp ứng của bộ xương cùng

với dinh dưỡng và hoạt động thể chất trong quá trình phát triển vẫn là vấn đề

khó cần được nghiên cứu [56].

1.2.1.2. Yếu tố nội tiết

• Hoocmon giới tính ảnh hưởng tới sự phát triển của xương trong giai

đoạn dậy thì do tăng kích thước xương cùng với những thay đổi nhẹ trong

tổng mô xương khoáng hóa dưới lớp màng xương [26].

• Nguy cơ gãy xương do loãng xương ở nữ giới cao hơn nam giới :

• The growth hormone-insulin-like growth factor-1 system (GH-IGF-1)

IGF sinh ra từ gan, bị ảnh hưởng bởi GH và những yếu tố khác như acid amin

trong protein thức ăn. Receptor của chất này nằm ở tế bào ống thận, nó liên

12

quan tới sản xuất vitamin D và hệ thống vận chuyển phosphat nằm ở màng tế

bào ống thận. IGF-1 kích thích gián tiếp lên hấp thu canxi và phosphate ở

ruột. Trong giai đoạn dậy thì hoocmon này tăng. Tại xương chất này kích

thích hình thành tạo cốt bào [23].

• Cường cận giáp là một trong các nguyên nhân của giảm phospho máu.

1.2.1.3. Tác nhân cơ học

- Lực cơ học tác động lên bộ xương theo cách kích thích tạo cốt bào tạo

xương và ức chế hủy cốt bào [16].

- Luyện tập mức độ trung bình tăng khối khoáng cho xương ở trẻ em và

người lớn [27].

1.2.1.4. Dinh dưỡng

- Canxi, vitamin D và protein cần thiết cho sự phát triển của bộ xương.

Trong những năm phát triển từ 25 đến 30 tuổi, chế độ ăn giầu canxi sẽ duy trì

cân bằng dương canxi và đạt khối lượng xương đỉnh vì vậy sẽ giảm nguy cơ

gãy xương [54].

- Vitamin D giúp tăng cường hấp thu canxi qua đường tiêu hóa, tái hấp

thu canxi qua ống thận, kích thích hoạt động của tạo cốt bào và hủy cốt bào,

ức chế PTH. Thiếu vitamin D ngoài gây ra bệnh lý xương còn gây nên các

bệnh ung thư, bệnh tự miễn, tăng huyết áp và ĐTĐ. Giảm canxi và vitamin D

gây cường cận giáp trạng, tăng PTH, tăng quá trình hủy xương nhằm duy trì

nồng độ canxi ion ngoài tế bào [22].

- Canxi và phospho là thành phần khoáng của xương ở dạng tinh thể

hydroxyapatite lắng đọng trong collagen chất căn bản [19]. 99 % canxi trong

cơ thể là ở xương, cân bằng canxi phản ánh mức độ ghép cặp của hai quá

trình tạo xương và hủy xương. Cân bằng âm khi hủy xương mạnh hơn tạo

xương và ngược lại [5].

13

- Phospho: chiếm 1% trọng lượng cơ thể, 85% ở răng và xương . Khi

canxi máu thấp sẽ gây tăng PTH, hoocmon này làm tăng tái hấp thu canxi ở

thận và giảm tái hấp thu phospho.

• Giảm phospho máu gây nên một số bệnh lý xương Vitamin D cao

thúc đẩy hấp thu phospho ở ống lượn gần [20].

1.2.1.5. Lối sống

- Cafein: chế độ ăn có cafein thúc đẩy cân bằng âm canxi do tăng mất

canxi qua nước tiểu nhưng các nghiên cứu về tác động của cafein lên xương

còn hạn chế [7].

- Uống rượu: sử dụng rượu mạn tính đặc biệt ở thanh niên và thời trẻ

đều tăng nguy cơ loãng xương hơn người không sử dụng thông qua tác dụng

lên tạo cốt bào, chậm chu chuyển xương [56].

- Hút thuốc lá tăng nguy cơ gãy xương do ảnh hưởng tới chuyển hóa

estrogen nội môi nhưng các nghiên cứu còn hạn chế. Hút thuốc gây mãn kinh

sớm, và mãn kinh sớm là nguy cơ của loãng xương [53].

1.2.2. Sự thiếu hụt estrogen

- Thiếu estrogen làm tăng yếu tố hoạt hóa receptor của kappa B ligand

(RANKL tăng hoạt hóa hủy cốt bào và giảm sự tự chết theo chu trình

của hủy cốt bào) [14].

Hình 1.1. Mối liên quan RANK/RANKL/OPG và mật độ xương.

14

OPG (osteoprotegerin) sản xuất bởi tạo cốt bào là chất ức chế hủy cốt

bào, RANKL do tạo cốt bào sản xuất gắn với receptor của nó là RANK trên

hủy cốt bào, bị trung hòa bởi OPG, tăng lên khi thiếu estrogen [13].

RANK và RANKL tương tác nhau sẽ tăng hoạt động của hủy cốt bào.

OPG giống như giữ RANKL và ngăn chặn tác dụng của nó [13].

Estrogen làm tăng OPG và giảm M-CSF ,RANK , IL-1, TNF-α tăng

RANKL, OPG và M-CSF trong khi PGE2 tăng RANKL và giảm OPG.

Giảm estrogen làm thay đổi tỷ lệ RANKL/OPG làm tăng hủy xương

- Estrogen điều hòa sản xuất cytokine bởi tế bào đơn nhân chất nền

xương, ức chế các cytokine hủy xương như IL-6, IL-1, TNF-α, yếu tố kích

thích đại thực bào (M-CSF),và prostaglandins [19].

- Estrogen tăng sản xuất yếu tố tăng trưởng chuyển đổi TGF-β, chất

này thúc đẩy hủy cốt bào chết theo chương trình [19].

1.2.3. Nguy cơ loãng xương tăng theo tuổi

Mất xương theo tuổi là kết quả của quá trình tự nhiên diễn ra ở cả hai

giới. Các nghiên cứu cho thấy ở cả hai giới giảm mật độ xương tương đối

chậm bắt đầu ở khoảng 40 tuổi, ở phụ nữ tốc độ mất nhanh hơn ở thời điểm

bắt đầu mãn kinh từ 40 đến 50 tuổi. 8 đến 10 năm sau mãn kinh tốc độ mất

xương chậm lại và tiếp tục cho đến cuối đời.

* Mất xương theo tuổi do 3 yếu tố: sự thiếu hụt estrogen, cường cận

giáp thứ phát và giảm tạo xương.

- Sự thiếu hụt estrogen

- Cường cận giáp thứ phát

+ Trong giai đoạn đầu của quá trình mãn kinh, sự ức chế PTH ở mức

độ trung bình nhưng sau đó tăng dần lên [14].

+ Có nhiều nguyên nhân của cường cận giáp, thường gặp là thiếu

vitamin D. Thiếu estrogen dẫn tới cân bằng âm canxi trong máu vì estrogen

làm tăng hấp thu canxi ở ruột và tái hấp thu canxi ở ống thận. Nếu cân bằng

15

âm này không được bù lại bởi chế độ ăn giàu canxi sẽ dẫn tới cường cận giáp

thứ phát gây mất xương. Chế dinh dưỡng thiếu canxi và vitamin D ở người

cao tuổi cũng gây nên cường cận giáp trạng [54].

- Giảm tạo xương

Sự thiếu hụt estrogen tham gia vào giảm tạo xương ở người cao tuổi do

estrogen tăng sản xuất các yếu tố IGF-1, TGF-β, tổng hợp procollagen, tăng

đời sống hủy cốt bào. Ngoài ra sự giảm tạo xương tuổi già còn do giảm tạo

cốt bào[13].

1.3. Chỉ số SCORE

1.3.1. Một số chỉ số đánh giá nguy cơ loãng xuơng khác

1.3.1.1. Chỉ số ORAI: Osteoporosis Risk Assessment In­strument (Công cụ

đánh giá nguy cơ loãng xương.

Năm 2000 Cadarette và cộng sự nghiên cứu ở phụ nữ Canada từ 45 tuổi

trở lên đánh giá nguy cơ loãng xương dựa trên 3 yếu tố: Tuổi, Cân nặng,

Dùng Estrogen. Kết quả nghiên cứu là Se là 93,3%, Sp là 46,4% [52].

1.3.1.2 Chỉ số OSIRIS: Osteoporosis Index of Risk (Chỉ số nguy cơ loãng xương).

Năm 2002 Sedrine và cộng sự nghiên cứu 1303 phụ nữ mãn kinh ở Bỉ

đánh giá nguy cơ loãng xương dựa trên 4 yếu tố : tuổi, trọng lượng cơ thể, sử

dụng biện pháp hormone thay thế, tiền sử gãy xương . Kết quả là Se 78,5%,

Sp là 51,4% [49]

1.3.1.3. Chỉ số OSTA: Osteoporosis Self assessment Tool for Asian index

(chỉ số tự đánh giá loãng xương cho người châu Á).

Năm 2001 Koh LK và cộng sự nghiên cứu chỉ số OSTA tại 21 cộng

đồng dân cư tại 8 nước châu Á Singapore, Hồng Kông, Đài Loan, Trung

Quốc, Thái Lan, Malaysia, Philippines và Hàn Quốc trên 860 đối tượng phụ

nữ sau mãn kinh tại cộng đồng dựa vào 2 yếu tố cân nặng và tuổi. Kết quả có

Se 91% và Sp 45% [52].

16

So sánh công cụ tự đánh giá chứng loãng xương đối với Châu Á

(OSTA) và đánh giá chuẩn ở phụ nữ mãn kinh, Chiang Mai. Chỉ số OSTA ở

điểm cắt tiêu chuẩn <-1 có độ nhạy và độ đặc hiệu tương ứng là 36,2% và

71,4% đối với cột sống thắt lưng và 40,6% và 70,2 % với cổ xương đùi [51].

Các chỉ số này không đánh giá được một số yếu tố ảnh hưởng đến

loãng xương như: Chủng tộc, viêm khớp dạng thấp...

1.3.1.4. Bảng đánh giá nguy cơ loãng xuơng IOF (Internation Osteoporosis

Fuodation).

Bảng đánh giá dựa trên cơ sở trả lời 10 câu hỏi. Càng có nhiều yếu tố

nguy cơ , khả năng loãng xương hoặc có nguy cơ gẫy xuơng càng lớn [52].

1.3.1.5. Mô hình tiên lượng nguy cơ gãy xương FRAX (Fracture risk

Assessment Tool).

Mô hình sử dụng 12 câu hỏi, sau khi tính toán điểm sẽ chỉ ra bệnh nhân

cần can thiệp điều trị [48].

Ngoài các chỉ số, mô hình kể trên còn có các chỉ số khác như EBONE,

Garvan, QUS [46].

1.3.2. Lịch sử nghiên cứu chỉ số SCORE[40].

Simple Calculated Osteoporosis Risk Estimation (Đánh giá nguy cơ

loãng xương bằng tính toán đơn giản).

SCORE là một trong những chỉ đầu tiên nhằm phát triển một quy tắc dự đoán

để sàng lọc những người cần đo MĐX, phát hiện và điều trị dự phòng loãng

xương và gãy xương.

Năm 1998, Lydick và cộng sự đã phát triển và lượng giá bộ câu hỏi đơn

giản cho việc xác định những phụ nữ có mật độ xương thấp. Có 106 nhà

nghiên cứu tham gia gồm bác sỹ gia đình, bác sỹ nội khoa, bác sỹ nội tiết, bác

sỹ khớp và bác sỹ phụ khoa. Mỗi bác sỹ tham gia được yêu cầu chọn ra 10-15

phụ nữ để theo dõi. Nhóm nghiên cứu đã chọn 106 trung tâm để chọn bệnh

nhân đo mật độ xương. Dữ liệu gồm 1279 bệnh nhân. Những phụ nữ này

17

được theo dõi từ 10/1994-2/1995. Đó là những phụ nữ trên 45 tuổi, phải biết

đọc, có thể thuộc nhiều chủng tộc khác nhau. Chỉ những phụ nữ mất kinh trên

6 tháng mới được chọn vào nghiên cứu.

Loại bỏ nghiên cứu những phụ nữ bị vẹo cột sống, chấn thương, hoặc là

có di chứng của phẫu thuật chỉnh hình mà không thể đo được DEXA ở cột

sống và cổ xương đùi, có ung thư di căn xương hoặc suy thận. Trong nghiên

cứu này sử dụng ≤-2SD là loãng xương, -1SD đến -2SD là MĐX thấp và phải

phòng loãng xương.

Với mỗi phụ nữ sẽ phải trả lời 60 câu hỏi về các vấn đề và các yếu tố

liên quan đến loãng xương (bảng 1.1). Thu thập máu và nước tiểu để xét

nghiệm Phosphatase kiềm. Đo MĐX bằng DEXA tại CSTL và CXĐ bằng

máy Lunar, Hologic. Số liệu đo được sẽ tính trung bình và độ lệch chuẩn. Từ

đó tính T-score.

Nghiên cứu này nhằm mục đích phát triển bộ câu hỏi dựa vào những

thông tin lấy được từ bệnh nhân một cách dễ dàng, có thể đánh giá một trong

2 nhóm phụ nữ mãn kinh: (1) những phụ nữ không có nguy cơ giảm MĐX và

không phải đo DEXA tại thời điểm khám bệnh; (2) những phụ nữ có nguy cơ

giảm MĐX và nên đo DEXA để chẩn đoán xác định. Bởi vì mức độ nhạy và

độ đặc hiệu sẽ thay đổi phụ thuộc vào chi phí của DEXA. Do đó, mục tiêu

của nhóm nghiên cứu là tạo ra một công cụ có độ nhạy và độ đặc hiệu tốt nhất

với nhiều mức độ của MĐX. Nhóm nghiên cứu đã sử dụng mô hình hồi quy

để xác định các yếu tố tiên đoán nhất của MĐX thấp ở cổ xương đùi ở nhóm

sau mãn kinh. Chỉ sử dụng sáu câu hỏi (nhóm nghiên cứu đặt tên là SCORE),

đạt được độ nhạy 89% và độ đặc hiệu 50%.

Tính toán chỉ số SCORE như sau:

+ Chủng tộc: Da đen: 0 điểm, không phải da đen: 5 điểm

+ Tuổi: 3 điểm được thêm vào cho mỗi 10 năm tuổi (3 lần chữ số đầu

tiên của tuổi)

18

+ Tiền sử mắc VKDT: có: 4 điểm, không có: 0 điểm

+ Gãy xương không do chấn thương sau tuổi 45 (hông, cổ tay, hoặc

xương sườn):

4 điểm cho mỗi loại gãy xương, tối đa là 12 điểm;

+ Tiền sử sử dụng Estrogen: Có: 0 điểm, không: 1 điểm

+ Trọng lượng: 1 điểm được trừ cho mỗi 4,5 kg trọng lượng cơ thể

Cách tính điểm Score : (Điểm tuổi + Điểm tiền sử gãy xương + Điểm

chủng tộc + Điểm tiền sử VKDT + Điểm dùng estrogen) – (Điểm cân nặng)

Sau đó, chỉ số SCORE đã được nghiên cứu xác nhận trong một nhóm

riêng biệt gồm 207 phụ nữ sau mãn kinh mang lại độ nhạy 91% và độ đặc

hiệu 40%, AUC 0,72, 95%CI(0,81-0,96).

1.3.3. Tình hình nghiên cứu chỉ số SCORE trên thế giới

Năm 2000, Ungar và cộng sự kiểm tra việc thực hiện bảng hỏi SCORE

ở Canada trong một nhóm 307 phụ nữ ở độ tuổi từ 50 đến 70. Chỉ số SCORE

được so sánh với MĐX đo tại CXĐ và CSTL đo bằng DEXA. Với MĐX thấp

được định nghĩa là T-core≤ -2.0, ở phụ nữ độ tuổi từ 50-59 tuổi lấy điểm cắt

là 6, chỉ số SCORE có Se 96%, Sp là 51%. Ở phụ nữ tuổi từ 60-70 tuổi, điểm

cắt 8 thì Se 90% và Sp là 20% [40].

Năm 2001, Ben Sedrine và cộng sự, người đầu tiên phân tích tính hợp

lệ của bảng hỏi được làm ở lục địa châu Âu, đã báo cáo thử nghiệm Se là

91,5%, Sp là 26,5%, giá trị dự đoán dương tính (PPV-Positive predictive

value) 52% và giá trị dự đoán âm tính (NPV-Negative predictive value)

77,7% trong 4035 phụ nữ sau mãn kinh ở độ tuổi trên 45. Họ khẳng định

rằng mặc dù Se của thử nghiệm này cao, nhưng vì Sp thấp, nó có thể được sử

dụng với mục đích loại trừ những phụ nữ không cần đo MĐX [23]. Ngoài ra

còn có nghiên cứu của Russell AS và Cadarete SM cũng cho thấy SCORE là

chỉ số có ý nghĩ trong chẩn đoán loãng xương [25],[50].

19

Từ năm 2002 – 2005 đều có các nghiên cứu chỉ số SCORE . Đặc biệt

năm 2005 nghiên cứu tại Mỹ của Mauck KF kết luận SCORE có Se 100%, Sp

25%, PPV 27%, NPV 100% [26],[36],[45].

Năm 2008 M. Karkucak và cộng sự nghiên cứu trên 177 bệnh nhân ở

độ tuổi trên 45 ở Thổ Nhĩ Kỳ, với mục tiêu là nhằm đánh giá hiệu suất của chỉ

số SCORE với đo MĐX ở CXĐ và CSTL. Giá trị điểm cắt của hiệu suất thử

nghiệm được đánh giá theo các điểm 5, 6, 7, 8 và phân bố tuổi. Khi tất cả các

nhóm đều được đánh giá thì Se, Sp, PPV và NPV của SCORE 6 là lần lượt là:

97,1%, 40,4%, 66,7%, 91,7%. AUC là 0,6. Khi các giá trị điểm cắt tăng lên,

Sp tăng và Se giảm. Ở điểm cắt SCORE 7 Se, Sp, PPV, NPV lần lượt là: 86,7,

59,1, 63, 82,5%. Nghiên cứu đã đưa ra kết luận rằng việc thực hiện bảng hỏi

SCORE để dự đoán những phụ nữ có MĐX thấp trong dân số Thổ Nhĩ Kỳ là

khá hạn chế. Tuy nhiên, vì nó là một tiền thử nghiệm đơn giản, tiết kiệm và

có tính thực tiễn nên giá trị điểm cắt SCORE 6 cần được sử dụng cùng với

phân tích lâm sàng của bác sĩ để chuyển bệnh nhân nghi ngờ có MĐX thấp đo

bằng thiết bị DEXA [38].

Năm 2010 nghiên cứu của tác giả Basavilvazo – Rodriquez MA tại Tây

Ban Nha trên 201 bệnh nhân từ 55- 70 tuổi thì SCORE có Se 87%, Sp 34,6%.

[23] và một nghiên cứu của Heidi D cho AUC của SCORE có ý nghĩa hơn

các chỉ số khác từ 0,66 – 0,87 [33].

Năm 2012, Laura Gonzalez-Lopez và cộng sự đã nghiên cứu trên 191

phụ nữ Mexico mắc viêm khớp dạng thấp (VKDT) nhằm đánh giá các tiện ích

của 6 chỉ số (SCORE, ORAI, ORISIS, OST, IOF, ABONE), 2 chỉ số riêng

(Amsterdam và Amsterdam sửa đổi) trong xác định thiểu xương hoặc loãng

xương ở phụ nữ mắc VKDT; và mối tương quan của chúng với xác suất gãy

xương trong 10 năm theo đánh giá bằng Bộ công cụ đánh giá nguy cơ gãy

xương (FRAX) của Tổ chức Y tế Thế giới. Kết quả, để dự đoán loãng xương,

SCORE cho Se cao nhất (96%), trong khi OSIRIS (87%) và ORAI (82%) cho

20

thấy Sp cao nhất. OSIRIS cũng có PPV lớn nhất (92%). Các chỉ số riêng có

Se thấp và Sp thấp (Amsterdam tương ứng ở mức 50 % và 79%; Amsterdam

sửa đổi, 56% và 70%). Tất cả các chỉ số đều có mối tương quan thấp nhưng

có ý nghĩa với mô hình FRAX [11],[37].

Năm 2014 tại Iran, Ahmadzadeh A so sánh ba chỉ số ORAI, SCORE và

OSTA. Nghiên cứu cho thấy các chỉ số làm giảm chi phí đo mật độ xương

cho các bệnh nhân nguy cơ loãng xương cao và SCORE có độ nhạy cao nhất

95% và giá trị tiên đoán âm tính có một vai trò đặc biệt [16].

Năm 2015 Crandall CJ nghiên cứu tại Bắc Mỹ chỉ ra độ nhạy của chỉ

số SCORE là trên 90% [31].

Năm 2016 Jiang X và cộng sự, có nghiên cứu tại Mỹ có kết luận

SCORE là tốt nhất để xác định phụ nữ bị loãng xương với độ nhạy 92% AUC

là 0.75 [21]. Một nghiên cứu khác tại Đài Loan so sánh rất nhiều công cụ

đánh giá nguy cơ loãng xương với nhau SCORE vẫn chiếm ưu thế với độ

nhạy ở nam giới là 100% với nữ giới ≥ 90%, AUC ≥ 0,8 [28].

Năm 2017 Kharroubi A va cộng sự khi nghiên cứu 382 phụ nữ từ 45 tuổi

trở lên tại Palestine, kết quả đo mật độ xương bằng máy DEXA sau đó đối

chiếu IOF, FRAX, SCORE. Cho thấy chỉ số SCORE là công cụ dự báo tốt về

nguy cơ loãng xương (phụ nữ trên 64 tuổi có nguy cơ loãng xương cao) [43].

Năm 2018 Cherian KE và cộng sự tiến hành nghiên cứu trên 2108 phụ

nữ sau mãn kinh nông thôn ở Ấn Độ, được đánh giá bằng các công cụ

SCORE, ABONE, ORAI, OSTA và FRAX, QUS, trong đó 850 đối tượng

được đo mật độ xương bằng máy DEXA. Kết quả độ nhạy của SCORE,

ABONE, OSTA, ORAI, FRAX, và QUS lần lượt là 91,3%, 91,0%, 88,5%,

81,0%, 72,7% và 81,9%, và độ đặc hiệu là 36,0%, 33,5%, 41,7%, 52,0 %,

60,5%, và 50,3%, AUC chỉ tốt cho SCORE là 0.806, các chỉ số còn lại 0.713-

0.766. Trong đó chỉ số SCORE có độ nhạy tốt và AUC tốt để dự đoán loãng

xương . Do đó, công cụ này có thể được sử dụng ở các quốc gia để kiểm soát

21

dân số có nguy cơ loãng xương và để giúp các bác sĩ có hướng chẩn đoán và

điều trị phù hợp [29].

Chỉ số SCORE đã được nghiên cứu và phát triển ở nhiều nơi trên thế

giới cho thấy chỉ số đã được quan tâm và có những giá trị nhất định.

1.3.4. Tình hình nghiên cứu chỉ số SCORE tại Việt Nam

Tại Việt Nam có duy nhất 1 nghiên cứu về chỉ số SCORE của Đậu

Thế Hiệp nghiên cứu đánh giá nguy cơ loãng xương theo chỉ số SCORE

trên 290 bệnh nhân nữ đã mãn kinh tại bệnh viện Bạch Mai. Sau đó so sánh

với đo mật độ xương bằng DEXA kết quả là:

+ Điểm cut off = 6: Se 95,1% và Sp 20,9 %.

PPV 87,4% và NPV 42,9%.

AUC 0,776.

+ Điểm cut off = 14: Se 39,3% và Sp 93,3%.

PPV84,6% và NPV62,2%

AUC 0,779.

Cũng cho thấy chỉ số này có giá trị và có ý nghĩ thực tiễn.

22

Chương 2

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu

Gồm 300 phụ nữ trên 45 tuổi đến khám tại phòng khám Cơ xương

khớp Bệnh viện TW Thái Nguyên

2.1.1 Tiêu chuẩn lựa chọn

+ Nữ giới trên 45 tuổi.

+ Tự nguyện tham gia nghiên cứu.

2.1.2 Tiêu chuẩn loại trừ

+ Bệnh nhân đã được chẩn đoán loãng xương và đang điều trị loãng xương.

+ Bệnh nhân mất trí nhớ hoặc trí nhớ kém ảnh hưởng đến quá trình thu

thập thông tin chính xác.

+ Bệnh nhân không đo đựơc MĐX được bằng phương pháp DEXA

2.2. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp mô tả cắt ngang.

2.2.1.Thiết kế nghiên cứu

Tiến cứu.

2.2.2. Cỡ mẫu

Cỡ mẫu: Dựa theo công thức tính cỡ mẫu cho nghiên cứu tìm độ nhạy

hoặc độ đặc hiệu của một phương pháp chẩn đoán.

Z²α x Pse x (1 - Pse)

n = Pdis x w2 Trong đó:

Pse: độ nhạy của chỉ số SCORE (Pse= 0,91) (Theo nghiên cứu chỉ số

SCORE của Evar Lydick 1998) [40].

Z²α là hằng số phân bố chuẩn (Zα = 1,96 khi α= 0,05).

w : sai số của 2 xác suất dương tính thật và âm tính thật = 0,07.

23

Pdis là tỷ lệ mắc bệnh (24,6%) (Theo Đặng Hồng Hoa, Đoàn Văn Đệ,

Hoàng Đức Kiệt (2008). Nghiên cứu mật độ xương vùng cổ xương đùi của

người bình thường bằng phương pháp đo hấp thụ tia X năng lượng kép) [4].

Thay vào công thức n ≈ 261. Trong thời gian nghiên cưú chúng tôi lấy

được 300 bệnh nhân đáp ứng tiêu chuẩn nghiên cứu.

2.2.3. Cách chọn mẫu

Chọn mẫu có chủ đích: Bệnh nhân nữ trên 45 tuổi đo được mật độ

xương bằng phương pháp DEXA và tự nguyện tham gia nghiên cứu.

2.2.4. Thời gian và địa điểm nghiên cứu

Thời gian: Từ tháng 1 năm 2017 đến tháng 4 năm 2018.

Địa điểm : Phòng khám Cơ xương khớp Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên.

2.3. Nội dung nghiên cứu

2.3.1. Chỉ tiêu, biến số nghiên cứu

2.3.1.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu

+ Chủng tộc

+ Nhóm tuổi

+ BMI

+ Tiền sử gãy xương sau 45 tuổi.

+ Tiền sử VKDT

+ Tiền sử dùng Estrogen

+ Tình trạng mãn kinh

+ Tình trạng MĐX đánh giá qua chỉ số T-score.

2.3.1.2. Khảo sát một số yếu tố nguy cơ loãng xương ở ĐTNC bằng thang

điểm SCORE

+ Nhóm tuổi

+ BMI

+ Tiền sử gãy xương sau 45 tuổi.

+ Tiền sử VKDT

24

+ Tiền sử dùng Estrogen

+ Tình trạng mãn kinh

+ Tình trạng MĐX đánh giá qua chỉ số T-score.

+ Điểm SCORE

2.3.1.3. Xác định giá trị dự báo nguy cơ loãng xương của thang điểm SCORE

+ Tình trạng MĐX đánh giá qua chỉ số T-score.

+ Điểm SCORE

+ Se : Độ nhạy.

+ Sp : Độ đặc hiệu.

+ PPV : Giá trị dự báo dương tính.

+ NPV : Giá trị dự báo âm tính.

+ AUC : Diện tích dưới đường cong ROC.

+ Điểm cut off.

2.3.2. Phương pháp thu thập nghiên cứu

2.3.2.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu

+ Chủng tộc (Nhìn, hỏi): Người Việt Nam không phải chủng tộc da đen.

+ Tuổi (Hỏi): Phân loại tuổi theo WHO 2013 dành cho nguời châu Á

chia làm 4 nhón tuổi: 46 – 54; 55 – 64; 65 - 7 4; trên 74 tuổi [53].

+ Cân nặng: sử dụng cân chuẩn được kiểm tra, kiểm định thường xuyên.

+ Chiều cao: Đo bằng thước dây chuẩn, các chữ số rõ nét.

+ BMI (lấy cân nặng chia chiều cao bình phương hoặc đo bằng máy

DEXA) được chia làm 3 mức theo WHO 2004 dành cho người châu Á: [53].

• BMI < 18,5 là gầy

• 18,5 < BMI < 24,9 là bình thường

• BMI > 25 là béo phì

+ Tiền sử gãy xương sau 45 tuổi: Bất kỳ xương nào trên cơ thể gẫy tự

nhiên hoặc sau một sang chấn nhẹ sau tuổi 45. Với cột sống trên Xquang có

hình ảnh gãy ngang đốt sống, lún ở trung tâm, xẹp hình chêm hay hình bánh

25

kẹp được coi là gãy xương tự nhiên. Dựa vào kết quả chụp X quang hiện tại

hoặc hỏi và xem kết quả X quang bệnh nhân chụp trước đây.

+ Tiền sử VKDT: Coi là có khi bệnh nhân được chẩn đoán rõ ràng theo

tiêu chuẩn ACR 1987 hoặc EULAR 2010 qua thăm khám và hồ sơ, bệnh án.

+ Tiền sử dùng Estrogen (Hỏi): Được coi là sử dụng Estrogen nếu

ĐTNC có sử dụng các sản phẩm chứa Estrogen như thuốc tránh thai, Bảo xuân,

Novasoy, Isoflavone, EstroG 100, Niveal, Tây Thi... Nghiên cứu chỉ khảo sát

tiền sử có sử dụng Estrogen [43].

+ Tình trạng mãn kinh (Hỏi): gồm chưa mãn kinh và đã mãn kinh.

Bệnh nhân đã mãn kinh thì thời gian mãn kinh chia làm 3 mốc : [13].

• Duới 10 năm

• Từ 10 – 20 năm

• Trên 20 năm

+ Tình trạng MĐX đánh giá qua chỉ số T-score:

Đo mật độ xương: Các bệnh nhân trên 45 tuổi được chọn đo mật độ

xương bằng máy DEXA hãng sản xuất MEDIX DR của Pháp, điều dưỡng

chuẩn bị bệnh nhân và thực hiện các thao tác trên màn hình máy tính, bác sĩ

chuyên khoa Cơ xương khớp đọc kết quả tại phòng khám Cơ xương khớp

Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên. Bệnh nhân được đo tại 2 vị trí cột sống

thắt lưng và cổ xương đùi. Cột sống thắt lưng đo mật độ xương của L1, L2,

L3, L4. Cổ xương đùi đo tại vị trí cổ, mấu chuyển lớn, liên mấu chuyển và

tam giác Ward. Kết quả đo mật độ xương ở CSTL được tính bằng trung bình

cộng của các chỉ số ở các vùng được đo ở cột sống thắt lưng. Kết quả MĐX ở

cổ xương đùi được tính bằng trung bình cộng các chỉ số được đo tại cổ xương

đùi. Đánh giá MĐX theo WHO 1994:

- Bình thường: T-score > -1SD

- Giảm MĐX: -2.5 SD < T-score ≤ -1SD

- Loãng xương: T-score ≤ -2,5SD

26

- Loãng xương nặng: T-score ≤ -2,5 SD và có ≥ 1 lần gãy xương.

Bệnh nhân có T-score ≤ -2,5SD ở bất kỳ cột sống thắt lưng hay cổ

xương đùi được chẩn đoán loãng xương.

Hình 2.1. Đo MĐX bằng máy MEDIX DR

2.3.1.2. Khảo sát một số yếu tố nguy cơ loãng xương ở phụ nữ trên 45 tuổi

bằng thang điểm SCORE

+ Chủng tộc: Da đen: 0 điểm, không phải da đen: 5 điểm

+ Tuổi: 3 điểm được thêm vào cho mỗi 10 năm tuổi (3 lần chữ số đầu

tiên của tuổi)

+ Tiền sử mắc VKDT: có: 4 điểm, không có: 0 điểm

+ Gãy xương không do chấn thương : 4 điểm cho mỗi vị trí gãy xương.

+ Tiền sử sử dụng Estrogen: Có: 0 điểm, không: 1 điểm

+ Trọng lượng: 1 điểm được trừ cho mỗi 4,5 kg trọng lượng cơ thể

+ Tính điểm Score : (Điểm tuổi + Điểm tiền sử gãy xương + Điểm chủng

tộc + Điểm tiền sử VKDT + Điểm dùng estrogen) – (Điểm cân nặng) .

+ Phân loại chỉ số SCORE [43]:

• Trên 16 điểm : Nguy cơ cao. Đây là nhóm bệnh nhân nguy cơ cao bị

loãng xương, có thể điều trị ngay nếu không có điều kiện đo MĐX.

27

• 7 – 15 điểm: Nguy cơ trung bình. Bệnh nhân có thể bị giảm MĐX,

cần đo MĐX bằng DEXA và cân nhắc chỉ định điều trị.

• 0 - 6 điểm: Nguy cơ thấp. Có thể không cần đo MĐX vì ít có nguy cơ

giảm MĐX.

+ Tính điểm SCORE trung bình theo:

• Nhóm tuổi: 46 – 54; 55 – 64; 65 - 7 4; trên 74 tuổi

• BMI: BMI < 18,5; 18,5 < BMI < 24,9; BMI >25

• Đặc điểm mãn kinh: đã mãn kinh, chưa mãn kinh.

• Thời gian mãn kinh : >10 năm; 10 – 20 năm; > 20 năm.

• MĐX : T-score > -1SD; -2.5 SD < T-score ≤ -1SD; T-score ≤ -2,5SD

• Tiền sử gẫy xương

• Tiền sử viêm khớp dạng thấp

• Tiền sử dùng estrogen.

2.3.1.3. Xác định giá trị dự báo nguy cơ loãng xương của thang điểm SCORE.

Sử dụng phần mềm xử lý số liệu SPSS 16.0 và Exel tính Se, Sp, vẽ đồ thị

đường cong ROC, AUC, của các điểm SCORE tương ứng với T-score < -1 và T-

score ≤ -2,5. Sau đó chọn điểm cut off . Tính PPV, NPV của điểm cut off.

2.4. Xử lí số liệu

Nhập và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 16.0 và Exel [6]

+ Các công thức tính toán

Bảng 2.1. Liên hệ nhóm bệnh và không bệnh

Xét nghiệm Có bệnh Không bệnh Tổng số

(+) a b a+b

(-) c d c+d

Tổng số a+c b+d a+b+c+d

a: có bệnh và xét nghiệm (+)

b: không bệnh nhưng xét nghiệm (+)

c: có bệnh nhưng xét nghiệm (–)

28

d: không bệnh và xét nghiệm (–)

a

• Độ nhạy (Se) =

a+c d

• Độ đặc hiệu (Sp) = b + d

a

• Giá trị dự đoán dương tính (PPV) =

a + b d

• Giá trị dự đoán âm tính (NPV) =

c + d

a.d

• Nguy cơ tương đối OR =

b.c • Xác xuất dương tính giả: 1 – Sp

• Xác xuất âm tính giả: 1- Se

+ Phân tích đường cong ROC

• Sử dụng mục ROC cuver trong SPSS tính được AUC, độ nhạy và

1 – Sp. Sau đó coppy sang Exel tính Sp. Từ đó ta sẽ tìm điểm điểm cắt.

Bảng 2.2. Giá trị AUC

AUC Ý nghĩa

>0.90 Rất tốt

0.80 đến 0.90 Tốt

0.70 đến <0.80 Trung bình

0.60 đến <0.70 Không tốt

0.50 đến <0.60 Vô dụng

+ Xác định điểm cut off:

• Xác định điểm J = (Se + Sp) – 1

• Xác định điểm d = (1-Se)2 + (1 - Sp)2

Điểm cut off sẽ là giao điểm của J max và d min hoặc J max và d max

29

2.5. Đạo đức nghiên cứu

- Nghiên cứu được tiến hành sau khi thông qua Hội đồng khoa học và

đạo đức nghiên cứu của truờng Đại học Y Duợc Thái Nguyên, khoa Cơ

Xương Khớp - Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên.

- Bệnh nhân tham gia nghiên cứu một cách tự nguyện, được cung cấp

đầy đủ các thông tin về nghiên cứu, các thông tin liên quan đến bệnh nhân

được đảm bảo giữ bí mật.

Sơ đồ nghiên cứu

Nữ giới > 45 tuổi (n = 300)

.

Hỏi bệnh và thăm khám

Khảo sát các yếu tố nguy cơ

Tính điểm SCORE Đo MĐX bằng phương pháp DEXA

Xác định giá trị dự báo nguy cơ loãng xương của thang điểm SCORE ở các đối tượng trên.

30

Chương 3

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Đặc điểm chung đối tượng nghiên cứu

Bảng 3.1. Đặc điểm tuổi của đối tượng nghiên cứu

Nhóm tuổi Min Max ( ± SD) n %

86 46 – 54 28,6

66 55 – 64 22

62,7 ± 11,067 46 91 100 65 – 74 33,4

48 > 74 16

300 Tổng 100

Nhận xét:

- Tỷ lệ ĐTNC ở độ tuổi 65-74 là cao nhất 33,4%, tuổi trung bình

62,7, tuổi thấp nhất 46, tuổi cao nhất 91.

Biểu đồ 3.1. Đặc điểm BMI, cân nặng của ĐTNC

Nhận xét

- Tỷ lệ người gầy chỉ chiếm 7,3%, người thừa cân - béo phì chiếm 12,3%. Đa

số ĐTNC nằm trong nhóm BMI bình thuờng 80,3 %.

31

- Cân nặng trung bình của ĐTNC là 51,8.

Tiền sử

Biểu đồ 3.2. Đặc điểm về tiền sử

Nhận xét: - Đa số ĐTNC đã mãn kinh chiếm 78%.

- Có 92/300 ĐTNC có tiền sử VKDT chiếm tỉ lệ 30,7% và có 90/300

ĐTNC có tiền sử dùng Estrogen chiếm tỉ lệ 42,7%, có 128/300 ĐTNC có tiền

sử gãy xương toàn bộ gãy 1 vị trí chiếm 30%.

Bảng 3.2. Đặc điểm thời gian mãn kinh của những đối tượng đã mãn kinh

( ± SD) Thời gian mãn kinh n % (Min, Max)

< 10 năm 59 25,2

18,6 ± 0,78 10 – 20 năm 89 38

(1 ; 46) > 20 năm 86 36,8

Tổng 234 100

Tuổi MKTB 52,7 ± 4,6

Nhận xét:

- Thời gian mãn kinh trung bình 18,6 năm, tuổi mãn kinh trung bình 52,7.

32

Bảng 3.3. Đặc điểm MĐX đo bằng phương pháp DEXA

( ± SD) n % T-score (Min; Max)

63 21 Bình thường 0,259±0,79

31 10,3 Giảm MĐX -1,5±0,41

206 68,7 Loãng xương -3±0,72

300 100 Tổng -2,1±1,5

(-5,3 ; 3,3)

Nhận xét:

- Tỉ lệ loãng xương của ĐTNC là 68,7% , giảm MĐX chiếm 10,3%.

- T-score giảm dần theo mức độ mất xương

Biểu đồ 3.3. Tình trạng MĐX của ĐTNC theo nhóm tuổi

Nhận xét:

- Tỉ lệ loãng xương cao nhất ở lứa tuổi ≥ 75 là 97,9 %, giảm MĐX cao

ở độ tuổi 46-54 16,8% .

33

Bảng 3.4. Chỉ số T-score trung bình theo nhóm tuổi và BMI của ĐTNC

T-score p ( ±SD) Đặc điểm

46 – 54 (n=86) -0,79±1,5

55 – 64 (n=66) -2,19±1,18 Nhóm tuổi < 0,001 65 – 74 (n=100) -2,76±1,06

≥ 75 (n=48) -3,32 ±0,69

< 18,5 -3,13±0,93

< 0,001 18,5 – 24,9 -2,15±1,48 BMI > 24,9 -1,65±1,69

Nhận xét:

- Giá trị T-score trung bình giảm dần theo độ tuổi, ngược lại BMI càng

tăng thì T-score trung bình càng tăng, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với

p < 0,001

Bảng 3.5. Chỉ số T-score trung bình với đặc điểm mãn kinh của ĐTNC

Chỉ số T-score

Tình trạng mãn kinh ( ±SD)

Chưa mãn kinh(n=66) -0,41 ± 1,41

Đã mãn kinh (n=234) -2,6 6± 1,11

<10 năm -2,07 ± 1,13 Thời gian mãn 10 – 20 năm -2,7 3±0,989 kinh > 20 năm -3 ± 1,11

< 0,001 p

Nhận xét:

- Giá trị T-score trung bình có sự khác biệt giữa hai nhóm mãn kinh và

chưa mãn kinh .

- Giá trị T-score trung bình giảm dần theo thời gian mãn kinh, thời

gian mãn kinh càng lâu thì MĐX càng giảm, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê

với p < 0,001.

34

Bảng 3.6. Chỉ số T-score trung bình theo tiền sử VKDT, dùng Estrogen, gẫy xương

Chỉ số T-score p Tiền sử ( ± SD)

Có -2,81 ± 0,64 VKDT <0.001 Không -1,87 ± 1,68

Có -0,98 ± 1,55 Dùng Estrogen <0.001 Không -2,67 ± 1,16

Gãy xương Có -3,08 ± 0,89 <0.001 Không -1,48 ± 1,5

Nhận xét:

- Chỉ số T-score thấp hơn có ý nghĩ thống kê ở các nhóm có tiền sử VKDT

thấp, gẫy xương và không dùng estrogen với p < 0,001.

3.2. Khảo sát một số yếu tố nguy cơ loãng xương ở ĐTNC bằng thang

điểm SCORE

Bảng 3.7. Đặc điểm phân mức điểm SCORE

Phân mức điểm SCORE % n

50,3 > 15 151

34,7 7 – 15 104

15 < 7 45

Nhận xét:

- Nhóm ĐTNC có chỉ số SCORE > 15 (Nguy cơ cao) chiếm tỷ lệ cao

nhất 50,3 %.

35

Bảng 3.8 . Điểm SCORE trung bình theo độ tuổi của ĐTNC

SCORE trung bình Nhóm tuổi Min Max p ( ±SD)

8,08 ± 3,85 2 21 46 – 54

13,79 ±4,29 4 22 55 – 64

<0,001 17,58 ±3,47 6 29 65 – 74

22,21 ± 3,45 16 34 ≥ 75

14,76 ±6,22 2 34 Tổng (n= 300)

Nhận xét:

- Mức điểm SCORE tăng dần theo tuổi, tuổi càng cao thì SCORE càng

cao, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <0,001.

Bảng 3.9. Điểm SCORE trung bình với đặc điểm mãn kinh

SCORE trung bình Tình trạng mãn kinh Min Max p ( ±SD)

7,06 ± 3,37 2 16 Chưa mãn kinh <0,001 16,94 ± 4,99 4 34 Đã mãn kinh

Nhận xét:

- Điểm SCORE trung bình có sự khác biệt giữa hai nhóm chưa mãn

kinh và đã mãn kinh p < 0,001.

Bảng 3.10. Điểm SCORE trung bình với thời gian mãn kinh

SCORE trung bình Thời gian mãn kinh Min Max p ( ± SD)

< 10 năm 11,95± 3,72 4 21

10 – 20 năm 16,39 ± 3,51 5 22

<0,001 > 20 năm 20,92 ± 3,53 11 34

Nhận xét:

- Điểm SCORE trung bình tăng dần theo thời gian mãn kinh, với p <0,001.

36

Bảng 3.11. Điểm SCORE trung bình theo tiền sử VKDT, dùng Estrogen,

gãy xương

SCORE trung bình Tiền sử Min Max p ( ±SD)

16,79 ± 3,68 Có 7 28 VKDT <0,001 Không 13,87 ± 6,87 2 34

8,52 ± 4,04 Có 2 21 Dùng Estrogen <0,001 Không 17,44 ± 4,94 4 34

19,16 ± 3,90 Có 7 34 Gãy xương <0,001 Không 11,49 ± 5,58 2 28

Nhận xét:

- Điểm SCORE trung bình cao hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm ĐTNC

có tiền sử VKDT, gãy xương, không dùng estrogen với p <0,001.

Bảng 3.12. Điểm SCORE trung bình theo BMI của ĐTNC

SCORE trung bình Nhóm BMI (kg/m2) Min Max p ( ±SD)

19,77±6,6 3 34 <18,5 (n=22)

14,88±5,8 4 29 < 0,001 18,5-24,9 (n=241)

11,03±6,1 2 28 >24,9 (n=37)

Nhận xét:

- Điểm SCORE tăng nghịch biến với BMI, sự khác biệt có ý nghĩa

thống kê với p <0,001.

37

Bảng 3.13. Điểm SCORE trung bình theo chỉ số T- score của ĐTNC

SCORE trung

bình T SCORE Min Max p

( ±SD)

> -1 6,81 ± 2,57 3 34

< 0,001 -2,4 – (-1) 10,23 ± 5,01 2 28

≤ -2,5 17,88 ± 4,29 3 14

Nhận xét:

- Điểm SCORE trung bình tăng nghịch biến với chỉ số Tscore, sự khác

biệt có ý nghĩa thống kê với p <0,001.

38

3.3. Xác định giá trị dự báo nguy cơ loãng xuơng của thang điểm SCORE ở các đối tượng trên

Bảng 3.14. Độ nhạy độ đặc hiệu của chỉ số SCORE với T- score ≤ -1 Cut off Sp Se

100 99,6 99,2 98,7 97,5 96,6 94,5 93,2 90,7 89,9 86,1 80,2 75,5 71,7 66,2 58,2 49,4 40,9 34,2 20,3 13,5 8,4 6,3 4,2 3,4 25 1,3 0,4 0,000 0 0 3,1 19,0 36,5 58,7 68,2 71,4 79,3 90,4 96,8 96,8 98,4 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1 1

1,00 2,50 3,50 4,50 5,50 6,50 7,50 8,50 9,50 10,50 11,50 12,50 13,50 14,50 15,50 16,50 17,50 18,50 19,50 20,50 21,50 22,50 23,50 24,50 26,00 27,50 28,50 31,50 35,00 Nhận xét:

- Khi chỉ số SCORE tăng lên thì độ nhạy giảm và độ đặc hiệu tăng lên.

- Với T-score ≤ -1 tại 3 điểm cut off có Se, Sp cao nhất là 12, 13, 14. Chỉ số

SCORE có Se lần lượt là 86,1%, 80,2%, 75,7%; Sp lần lượt là 96,8%, 96,8%,

98,4%.

39

Biểu đồ 3.4. Đường cong ROC với T-score ≤ -1.

Nhận xét: - Diện tích dưới đường cong AUC của SCORE với

T-score ≤ -1 là 0,95 . Đây là kết quả rất tốt.

Bảng 3.15. Chỉ số SCORE tại cut off 12 với T- score ≤ -1

OR SCORE T- score ≤-1 SD T- score >-1 SD (95%CI)

>12 (n=192) 189 3 OR=81,7

p<0,001 ≤12(n=108) 47 61

PPV= 98,4% Tổng (n=300) 243 47 NPV=56,4%

Nhận xét:

- Có mối liên quan chặt chẽ giữa chỉ số SCORE và T-score. Nếu

ĐTNC có chỉ số SCORE >12 thì nguy cơ mắc MĐX thấp cao gấp 81,7 lần so

với ĐTNC có SCORE <12.

40

Bảng 3.16. Độ nhạy, độ đặc hiệu của chỉ số SCORE với T- score ≤ -2,5

Cut off 1,00 2,50 3,50 4,50 5,50 6,50 7,50 8,50 9,50 10,50 11,50 12,50 13,50 14,50 15,50 16,50 17,50 18,50 19,50 20,50 21,50 22,50 23,50 24,50 26,00 27,50 Se 1,000 1,000 99,5 99 99 99, 98,5 98,5 96,6 96,1 94,2 89,3 85,4 81,1 74,8 65,5 55,3 46,1 38,3 22,8 15 9,2 6,8 4,4 3,4 2,4 Sp 0 0 3,1 13,8 28,7 45,7 56,3 61,7 69,1 77,6 87,2 91,4 95,7 96,8 96,8 96,8 96,8 97,8 97,8 98,9 98,9 98,9 98,9 98,9 98,9 98,9

Nhận xét:

- Khi chỉ số SCORE tăng lên thì độ nhạy giảm và độ đặc hiệu tăng lên.

- Với T-score ≤ -2,5 có 3 điểm cut off 13, 14, 15 có Se, Sp cao nhất.

Chỉ số SCORE có Se lần lượt là 89,3%; 85,4%; 81,1%; Sp lần lượt là 91,4%,

95,7%; 96,8%.

41

Biểu đồ 3.5. Đường cong ROC với T-score ≤ -2,5

Nhận xét:- Diện tích dưới đường cong AUC của SCORE với

T-score ≤ -2,5 là 0,95. Chỉ số này là rất tốt.

Bảng 3.17. Chỉ số SCORE tại cut of 15 với T- score ≤ -2,5

OR SCORE T- score ≤ -2,5 T- score > -2,5 (95%CI)

> 15 (n=157) 153 4 OR=66,9

p<0,001 ≤ 15 (n=143) 52 91

PPV= 97,4% Tổng (n=300) 205 95 NPV=63,6 %

42

Nhận xét:

- Có mối liên quan chặt chẽ giữa chỉ số SCORE và T-score. Nếu ĐTNC

có chỉ số SCORE > 15 thì nguy cơ bị loãng xương cao gấp 66,9 lần so với

ĐTNC có SCORE < 15.

Bảng 3.18. Mối liên quan giữa chỉ số SCORE và T-score về nguy cơ và tình

trạng loãng xương.

≤-2,5 -2,4 – (-1) >-1 Tổng T- score p n % n % n % N % SCORE

151 50,4 148 98 3 2 0 0 >15

104 34,6 56 53,8 22 21,2 26 25 7-15

2 4,4 6 13,3 37 82,2 45 15 < 7 < 0,001 206 68,7 31 10,3 63 21 300 100 Tổng

Nhận xét:

- Có mối liên quan chặt chẽ giữa nguy cơ loãng xương theo chỉ số

SCORE với đo MĐX (T-score) với p < 0,001.

- Tỷ lệ loãng xương ở nhóm nguy cơ cao theo chỉ số SCORE (98%) lớn

hơn nhiều so với tỷ lệ loãng xương ở nhóm nguy cơ thấp (4,4%).

Bảng 3.19. Giá trị chỉ số SCORE trong sàng lọc loãng xương

Dự đoán MĐX thấp Dự đoán loãng xương Chỉ số SCORE (T-score≤-1SD) (T-score≤-2,5SD)

Điểm cut off 12 15

OR 81,7 66,9

Se 86,1% 81,1%

Sp 96,8% 96,8%

AUC 0,95 0,95

PPV 98,4% 97,4%

NPV 56,4% 63,6%

p < 0,001 < 0,001

43

Chương 4

BÀN LUẬN

4.1. Đặc điểm chung đối tượng nghiên cứu

4.1.1. Tuổi

Trong nghiên cứu của chúng tôi có 300 nữ giới trên 45 tuổi được điều

tra về lâm sàng có tuổi trung bình là 62,7 ± 11, cao nhất là 91. Nhóm tuổi từ

65 - 74 chiếm 33,4% trong đó nhóm tuổi trên 75 chiếm 16% đây là nhóm có

nguy cơ loãng xương và gãy xương cao (Bảng 3.1). Các nghiên cứu trong và

ngoài nước khẳng định tuổi càng cao tỷ lệ loãng xương càng tăng do mất cân

bằng quá trình tạo xương giảm huỷ xương tăng, sự hấp thu caxi giảm ở ruột,

tăng thải caxi ở ống thận, chế độ ăn kém và có nhiều bệnh kết hợp.

4.1.2. Cân nặng, BMI

Cân nặng trung bình của ĐTNC là 51,8 ± 2,7kg. Nghiên cứu của chúng

tôi có kết quả nghiên cứu tương tự Nguyễn Trung Hòa (2015) có kết quả cân

nặng trung bình 53,7 kg tương tự chúng tôi nhưng SD cao hơn chúng tôi.[8].

Nghiên cứu của Vũ Kim Hải (2017) có cân nặng trung bình 52,3 ± 8,3 tương

tự chúng tôi nhưng SD cao hơn [9]. Nghiên cứu của Đậu Thế Hiệp có kết quả

là 52,5 ± 3,1 thì gần sát với kết quả nghiên cứu của chũng tôi nhất [2].

BMI trung bình của các ĐTNC trong nghiên cứu của chúng tôi là 23,2

± 2,8 kg/m2 (Biểu đồ 3.1), của Nguyễn Trung Hòa là 23,7±3,3[8]; Đậu Thế

Hiệp 22,9 ± 3,1[2], Vũ thị Kim Hải 22,2 ± 3 [9]. Kết quả nghiên cứu của

chúng tôi và các tác giả cũng tương tự nhau.

M. Karkucak và cộng sự khi nghiên cứu chỉ số SCORE ở 177 phụ nữ

trên 45 tuổi tại Thổ Nhĩ Kỳ, có độ tuổi trung bình là 59,4 tương tự chúng

tôi, nhưng cân nặng trung bình là 53,7 kg cao hơn chúng tôi[40].

Độ tuổi trung bình của 208 phụ nữ trong nhóm xác nhận chỉ số SCORE

của Eva Lydick là 63±9,5, cao hơn nghiên cứu của chúng tôi [40], tuy nhiên

cân nặng trung bình của nhóm này không thấy ghi nhận.

44

4.1.3. Đặc điểm về tiền sử

Nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả 78% đã mãn kinh, chưa mãn

kinh 22% ( Biểu đồ 3.2). Các nghiên cứu loãng xương chủ yếu trên đối tượng

đã mãn kinh nhưng nghiên cứu của chúng tôi bao gồm cả đối tuợng chưa mãn

kinh. Tuổi mãn kinh trung bình của các ĐTNC: 52,7,8±4,6 (Bảng 3.2),

Nguyễn Trung Hòa 48,3± 4,1[8], Đậu Thế Hiệp 48,8 ± 3,6 [2]. Kết quả của

chúng tôi có cao hơn một chút so với 2 tác giả trên vì độ tuổi trung bình của

chúng tôi cao hơn, nhóm ĐTNC ≥ 55 tuổi chiếm chiếm tỉ lệ cao 71,4%.

Có 92/300 ĐTNC có tiền sử VKDT chiếm tỉ lệ 30,7% (Biểu đồ 3.2) .

Đậu Thế Hiệp là 9,3% [2], Vũ Kim Hải là 11,2%. tỉ lệ của chúng tôi cao hơn

gấp 3 lần so với 2 nghiên cứu này vì bệnh nhân có nhận thức hơn về bệnh và

đi khám tại các cơ sở y tế nhiều hơn. Hơn nữa khoa Cơ xương khớp ngày

càng đông bệnh nhân từ các tỉnh miền núi phía Bắc đến khám và trị nên số

bệnh nhân đuợc phát hiện cao hơn.

Có 128/300 ĐTNC có tiền sử dùng Estrogen chiếm tỉ lệ 42,7% (Biểu

đồ 3.2) cao hơn nghiên cứu của Đậu Thế Hiệp (20%) vì chất lượng cuộc sống

được nâng lên, bệnh nhân nữ có xu hướng làm đẹp nên nhu cầu dùng các

thuốc nội tiết để trẻ hoá cơ thể và ý thức phòng tránh thai cao hơn.

Có 90/300 ĐTNC có tiền sử gãy xương toàn bộ gãy 1 vị trí chiếm 30%

(Biểu đồ 3.2). Nghiên cứu của chúng tôi có tỉ lệ gẫy xương tự nhiên cao vì

chúng tôi coi bất kỳ xương trên cơ thể gẫy không do chấn thương ngoại trừ

các bệnh lý về xương khác được coi là gẫy xương tự nhiên. Với cột sống trên

Xquang có hình ảnh lún xẹp đốt sống được coi là gẫy xuơng tự nhiên mà

trong nghiên cứu của chúng tôi có 49,4% bệnh nhân trên 64 tuổi. Nhóm đối

tượng này có nguy cơ rất cao về gẫy xương. Khi chụp Xquang thì có tới 95 %

nhóm đối tượng này có hình ảnh lún xẹp đốt sống. Các nghiên cứu khác chỉ

lấy gẫy xương cổ tay, xương đùi, xương sườn là gãy xương tự nhiên.

45

4.2. Đặc điểm về MĐX đo bằng phương pháp DEXA của ĐTNC

4.2.1. Tỷ lệ loãng xương theo T- score của ĐTNC

Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ loãng xương 68,7%, 10,3% bị giảm

MĐX và có 21% ĐTNC có MĐX bình thường (Bảng 3.3).

Đặng Hồng Hoa (2008) nghiên cứu 1034 đối tượng cả nam và nữ trên

địa bàn Hà Nội tuổi từ 15 - 84 bằng máy DEXA Unigamma, có sử dụng giá

trị tham chiếu cho người Việt Nam thấy tỷ lệ loãng xương ở phụ nữ trên 50

tuổi là 24,6% [3].

Hoàng Thị Bích (2015) nghiên cứu 650 phụ nữ từ 60 tuổi tỷ lệ loãng

xương là 69,1% [7]. Đậu Thế Hiệp 48,3%, Vũ thị Kim Hải 79%. Kết quả nghiên

cứu của chúng tôi tương tự kết quả của Hoàng thị Bích, cao hơn kết quả của Đậu

Thế Hiệp nhưng nhỏ hơn nghiên cứu của tác giả Vũ thị Kim Hải [2],[9] vì tình

trạng lạm dụng thuốc nam nhiều trên, tuổi trung bình cao, sự hiểu biết về phát

hiện , phòng và điều trị loãng xương chưa tốt, hoạt động thể lực còn hạn chế.

4.2.2. Đặc điểm MĐX của ĐTNC

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi MĐX tính theo chỉ số T-score trung bình

là 2,1±1,5, thấp nhất là -5,3 lớn nhất là 3,3. Giá trị T-score trung bình giảm dần

theo mức độ mất xương có ý nghĩa thống kê với p< 0,001 (Bảng 3.3).

Kết quả nghiên của tác giả Đậu Thế Hiệp có Tsore trung bình là -

2,31±1,46, Vũ thị Kim Hải là 2,6±1,26. Tsore cũng giảm dần theo mức độ

loãng xương [2],[9]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn kết quả

nghiên cứu của tác giả Đậu Thế Hiệp và Vũ thị Kim Hải vì ĐTNC của chúng

tôi bao gồm cả phụ nữ chưa mãn kinh.

4.2.3. Mối liên quan giữa MĐX và một số yếu tố nguy cơ của ĐTNC

4.2.3.1. Tuổi

T-score giảm dần theo độ tuổi. Tuổi càng cao thì MĐX càng giảm, sự

liên quan có ý nghĩa thống kê với p<0,001 (Bảng 3.4). Do vậy, tỷ lệ loãng

xương cũng tăng theo độ tuổi: ở lứa tuổi 46-54, tỷ lệ loãng xương là 24,4 %;

46

55-64 tuổi loãng xương tăng lên 75,8%, 65-74 tuổi tỷ lệ này là 80%, còn từ 75

tuổi trở lên thì 100% các ĐTNC bị giảm MĐX và loãng xương, trong đó

loãng xương là 97,3% (Biểu đồ 3.3).

Nguyễn Trung Hòa (2015) nghiên cứu tình hình ở phụ nữ trên 45 tuổi tại

quận Gò Vấp, TP Hồ Chí Minh cho thấy tỷ lệ loãng xương tăng dần theo nhóm

tuổi: 45-49; 50-54; 55-59; 60-64; 65-69; 70-74; 75-79; ≥ 80 lần lượt là 7,2%;

15,2%; 30,9%; 53,2%, 61,9%, 70,3%, 84,8% và 85,7% [8]. Tuổi càng cao thì

khả năng mắc bệnh càng cao, sự liên quan có ý nghĩa thống kê p <0,001.

Hoàng Thị Bích, Đậu Thế Hiệp, Vũ thị Kim Hải cũng chỉ ra tuổi càng

cao thì MĐX càng giảm. Đây là loãng xương tuổi già, hậu quả của sự mất

xương từ từ trong nhiều năm [2],[7],[9].

Ở người già có sự mất cân bằng giữa tạo xương và huỷ xương. Chức năng

của tạo cốt bào bị suy giảm là một nguyên nhân dẫn tới tình trạng mất xương ở

người già. Một nguyên nhân thứ hai dẫn tới sự mất xương ở người già là sự suy

giảm hấp thu calci ở ruột và sự giảm tái hấp thu calci ở ống thận.

4.2.3.2 BMI

Những người có tầm vóc nhỏ có khối lượng xương thấp hơn nên dễ có

nguy cơ loãng xương. T-score liên quan chặt chẽ với BMI, BMI càng thấp thì

MĐX cũng càng thấp và ngược lại, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <

0,00 (Bảng 3.4).

Một số tác giả trong và ngoài nước cũng nhận thấy BMI thấp là yếu tố

nguy cơ loãng xương. Theo Tào Thị Minh Thúy (2015) người có BMI thấp có

nguy cơ mắc loãng xương cao gấp 4,368 lần người khác (95%CI: 1,603-

11,906) [7]. Nguyễn Trung Hòa (2015) nghiên cứu trên 898 người dân từ 45

tuổi trở lên sống tại Thành phố Hồ Chí Minh thấy người có BMI thấp có nguy

cơ mắc loãng xương gấp 2,6 lần người có BMI bình thường [8]. Theo

Asomaning K, người có BMI thấp có nguy cơ mắc loãng xương cao hơn 1,8

47

lần người có BMI bình thường [20]. Jiang X và cộng sự nghiên cứu phụ nữ

tuổi từ 50-64 thấy BMI < 18,5 là yếu tố nguy cơ loãng xương [21] .

4.2.3.3.Tình trạng mãn kinh

Trong nghiên cứu của chúng tôi có 66 ĐTNC chưa mãn kinh, 234

ĐTNC đã mãn kinh, tuổi mãn kinh trung bình của đối tượng nghiên cứu là:

52,7±4,6 , mãn kinh < 10 năm chiếm tỉ lệ 19,7%, 10 -19 năm 29,7%, trên 20

năm 28,7% (Bảng 3.5).

MĐX giảm dần theo thời gian mãn kinh: thời gian mãn kinh càng dài

thì MĐX càng giảm, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Tuy

nhiên có sự khác biệt về MĐX giữa 2 nhóm đã mãn kinh và chưa mãn kinh

(Bảng 3.5). Vũ Đình Chính (1996) nghiên cứu trên phụ nữ mãn kinh tại Hải

Hưng thấy tỷ lệ loãng xương tăng theo thời gian mãn kinh, tốc độ mất xương

trung bình là 1,97±1,59% năm, tốc độ mất xương có xu hướng nhanh trong

vòng 10-15 năm đầu sau mãn kinh, 20 năm sau mãn kinh thì tốc độ mất

xương giảm đáng kể [10]. Pouilles JM (1995) theo dõi MĐX theo thời gian của

81 phụ nữ đã mãn kinh bằng DEXA thấy có sự mất xương nhanh ngay sau khi

mãn kinh [39].

Có hiện tượng này là do sau khi mãn kinh có sự sụt giảm Estrogen dẫn

tới giảm mật độ xương một cách nhanh chóng. Năm 1940 Albright là người

đầu tiên đã tìm thấy được mối liên hệ giữa loãng xương và giảm chức năng

của buồng trứng ở phụ nữ. Sau đó nhiều kết quả nghiên cứu đã khẳng định kết

luận của Albright. Tăng tốc độ mất xương sau mãn kinh là nguyên nhân chính

gây loãng xương ở phụ nữ (loãng xương sau mãn kinh) [53].

Một số nghiên khác lại cho kết quả khác về mối liên quan giữa loãng

xương và mãn kinh sớm. Hoàng Thị Bích nghiên cứu ở phụ nữ ≥ 60 tuổi cũng

thấy tỷ lệ loãng xương tăng dần theo thời gian mãn kinh, nhưng người mãn kinh

hoặc cắt buồng trứng trước 45 tuổi có nguy cơ mắc loãng xương cao gấp 2,0

lần so với chưa mãn kinh (95%CI: 1,47-3,57) [7]. Nghiên cứu của Tào Thị

48

Minh Thúy thấy người mãn kinh và cắt buồng trứng trước 45 tuổi có nguy cơ

loãng xương cao gấp 3,38 lần so với chưa mãn kinh (95%CI: 1,405-8,130),

người đã mãn kinh trên 5 năm có nguy cơ mắc loãng xương gấp 1,73 lần so

với những người đã mãn kinh < 5 năm [7]. Jean Hodson và cộng sự nghiên

cứu trên 200 phụ nữ mãn kinh tuổi từ 60 - 69 thấy mãn kinh hoặc cắt buồng

trứng trước 45 tuổi là một yếu tố nguy cơ loãng xương [48].

4.2.3.4.Tiền sử mắc VKDT

Trong nghiên cứu của chúng tôi có 92/300 ĐTNC có tiền sử VKDT

chiếm tỉ lệ 30,7% (Biểu đồ 3.2). Theo bảng 3.6, T-score ở nhóm có tiền sử

VKDT thấp hơn ở nhóm không có tiền sử VKDT, sự khác biệt có ý nghĩa

thống kê với p<0,001.

Có nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước chứng minh người mắc

VKDT có nguy cơ bị loãng xương cao hơn người không mắc VKDT.

Nghiên cứu của Tào Thị Minh Thúy (2015) cho kết quả: người bị VKDT

chiếm 20,8% ở nhóm loãng xương, 12,6% ở nhóm không loãng xương; người bị

VKDT có nguy cơ mắc loãng xương cao hơn 1,83 lần so với người không bị

VKDT có ý nghĩa thống kê (OR 1, 95%CI: 037-3,206; p<0,05) [8].

Nghiên cứu của Đậu Thế Hiệp, Vũ Kim Hải cho thấy MĐX ở 2 nhóm

là khác nhau với p<0,001 [2],[9].

Nghiên cứu của M. Karkucak trên 177 phụ sau ≥ 45 tuổi có tỉ lệ

VKDT 1,1% [40], còn trong nghiên cứu của Eva Lydick tỷ lệ này rất cao

chiếm 24% [43].

Theo Gough AK và cộng sự, người bị VKDT có nguy cơ bị giảm MĐX

và loãng xương cao gấp 3-4 lần so với người bình thường, và có nguy cơ gãy

xương cao gấp 4 lần ở vị tri CXĐ và gấp 5 lần ở CSTL[58].

Cortet và cộng sự nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng lên sự mất xương ở

bệnh nhân VKDT đã kết luận rằng: sự mất xương ở bệnh nhân VKDT đặc

biệt ở CXĐ là do sự gia tăng tốc độ chuyển hóa luân hoàn của xương [30].

49

VKDT là một bệnh tự miễn, có biểu hiện viêm mạn tính màng hoạt dịch

của khớp mà nguyên nhân chưa được biết rõ. Sự hủy hoại màng hoạt dịch khớp

mạn tính cuối cùng sẽ dẫn đến suy giảm chức năng khớp và tàn phế. Có rất

nhiều yếu tố ảnh hưởng đến MĐX ở bệnh nhân mắc bệnh VKDT như: bệnh

nhân nữ ở tuổi trung niên, sự thay đổi nội tiết liên quan đến tình trạng mãn

kinh, ảnh hưởng của các yếu tố gây viêm, sự giảm hoạt động do tình trạng

bệnh, tình trạng dinh dưỡng và sự giảm trọng lượng cơ thể do bệnh [40].

Người ta cho rằng mất xương trong bệnh VKDT là do tăng nồng độ của

các chất gây viêm (pro- inflammatory cytokines) dẫn đến tăng quá trình hủy

xương. Những nghiên cứu gần đây cho thấy, giảm MĐX ở bệnh nhân VKDT

có liên quan đến sự ra tăng nồng độ của các chất chuyển hóa xương như:

PICP (procollagen type I C- terminal propeptide), PINP (procollagen type I

N- terminal propeptide) là những yếu tố phản ánh sự tạo xương và ICTP

(procollagen type I C- terminal telopeptide) là yếu tố phản ánh sự hủy xương

[31]. Ở những bệnh nhân mắc VKDT, việc xác định sớm MĐX thấp và các

yếu tố nguy cơ dẫn tới loãng xương là cần thiết vì nguy cơ gãy xương do

loãng xương ở những bệnh nhân này tăng lên cao so với những người

khác[33].

4.2.3.5. Tiền sử dùng Estrogen

Có 128/300 ĐTNC có tiền sử dùng Estrogen chiếm tỉ lệ 42,7% (Biểu đồ

3.2). Theo bảng 3.6, T-score ở nhóm có tiền sử dùng Estrogen cao hơn ở

nhóm không có tiền sử dùng Estrogen với p<0,001.

Sử dụng liệu pháp Hormone thay thế có khả năng ngăn ngừa mất

xương, giảm nguy cơ gãy xương theo nghiên cứu của Arnaud CD[19]

Trong nghiên cứu của chúng tôi, những ĐTNC có sử dụng các sản phẩm

chứa Estrogen thảo dược như: Bảo xuân,xuân xuân, tây thi, sắc ngọc khang

EstroG 100,thuốc tránh thai...được tính là có tiền sử sử dụng Estrogen. Sự suy

giảm Estrogen ở phụ nữ sau 45 tuổi kích hoạt các tế bào hủy xương khiến cho

50

tốc độ hủy xương cao hơn tạo xương khiến khung xương ngày càng thưa, dẫn

đến loãng xương. Ở phụ nữ sử dụng Estrogen thay thế có khả năng ngăn ngừa

mất xương và tăng MĐX qua tương tác với các thụ thể estrogen trên bề mặt

của các tế bào xương, kích hoạt các gen và protein xương, và giảm hoạt động

của những cytokines kích hoạt các tế bào hủy xương làm giảm nguy cơ loãng

xương [15].

4.2.3.6 .Tiền sử gãy xương

Trong nghiên cứu của chúng tôi, tiền sử gãy xương dựa vào kết quả X

quang hiện tại và hỏi kết quả chụp X quang của bệnh nhân từ các lần kiểm tra

trước đây. Có tới 90/300 ĐTNC có tiền sử gãy xương chiếm 30% (Biểu đò 3.2).

Tất cả chỉ gãy tại 1 vị trí. Gãy xương ở đây được xác định là gãy xương không do

chấn thương do các sang chấn tối thiểu sau tuổi 45 ở bất kỳ xương nào.

Theo bảng 3.6, MĐX ở nhóm có tiền sử gãy xương thấp hơn ở nhóm

không có tiền sử gãy xương với p<0,001.

Nguyễn Trung Hòa (2015) nghiên cứu trên 898 người dân từ 45 tuổi trở

lên sống tại Thành phố Hồ Chí Minh thấy 5,2% ĐTNC có tiền sử bị gãy

xương do chấn thương nhẹ, người có tiền sử gãy xương do chấn thương nhẹ

nguy cơ loãng xương gấp 5,3 lần người không có tiền sử gãy (p<0,05) [8].

4.3. Khảo sát một số yếu tố nguy cơ loãng xương ở phụ nữ trên 45 tuổi tại

phòng khám Cơ xương khớp Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên bằng

thang điểm SCORE

4.3.1. Phân loại chỉ số SCORE

Trong nghiên cứu của chúng tôi 300 phụ nữ Việt Nam tuổi trên 45

được khảo sát chỉ số SCORE, có 45 người (15%) thuộc nhóm nguy cơ thấp ,

104 (34,7%) người thuộc nhóm nguy cơ trung bình và có 151 người (50,3%)

chiếm tỉ lệ cao nhất thuộc nhóm nguy cơ cao.

Nghiên cứu của Đậu Thế Hiệp nguy cơ thấp 7,2%, nguy cơ trung bình

70,3%, nguy cơ cao 22,4% . Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có sự khác

51

nhau, nguy cơ thấp thấp hơn vì đối tượng nghiên cứu của chúng tôi gồm cả

phụ nữ chưa mãn kinh và phụ nữ sử dụng Estrogen nhiều hơn, nguy cơ cao

cao hơn vì độ tuổi trung bình của chúng tôi cao hơn, thời gian mãn kinh trung

bình dài hơn, tỉ lệ gẫy xuơng tự nhiên và tỉ lệ viêm khớp dạng thấp cao hơn.

Giá trị trung bình chỉ số SCORE trong nghiên cứu của chúng tôi là

14,67 ± 6,22, giá trị nhỏ nhất là 2, lớn nhất là 34 (Bảng 3.8). Hay gặp nhất là

SCORE = 20 có 33 người chiếm 11%.

Đậu Thế Hiệp nghiên cứu SCORE trung bình là 11,63±4,5 [2]

M. Karkucak và cộng sự (2008) nghiên cứu 177 phụ nữ sau mãn kinh

tại Thổ Nhĩ Kỳ cho kết quả SCORE trung bình là 7,5±4,1[40].

S. M. Cadarette1, S. B. Jaglal và T. M. Murray trên 398 phụ nữ sau

mãn kinh tuổi từ 45 ở Toronto - Canada cho kết quả giá trị SCORE dao động

từ 6 đến 24, với giá trị trung bình là 9,4 ± 4.9 [58]. Trong nhóm xác nhận của

Eva Lydick thì SCORE giao động từ 12 đến 28, không thấy ghi nhận chỉ số

SCORE trung bình [43].

Như vậy SCORE trong nghiên cứu của chúng tôi có giá trị cao hơn

nghiên cứu của các tác giả trên, điều này có thể giải thích vì ĐTNC của chúng

tôi 100% là người Việt Nam (không có chủng tộc da đen) và cân nặng trung

bình của phụ nữ Việt Nam thấp hơn phụ nữ nước ngoài, tỉ lệ gẫy xương tự

nhiên, viêm khớp dạng thấp, độ tuổi trung bình cao hơn, khoảng dao động

điểm SCORE của chúng tôi lớn hơn.

4.3.2. Liên quan chỉ số SCORE với một số yếu tố nguy cơ.

4.3.2.1. Tuổi

Chỉ số SCORE tăng dần theo tuổi, tuổi càng cao thì SCORE càng cao,

sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p <0,001(Bảng 3.8)

Như chúng tôi đã phân tích ở trên, MĐX giảm dần theo độ tuổi, và theo

đó tỷ lệ loãng xương cũng tăng theo độ tuổi. Chỉ số SCORE đã thiết lập có

52

tính toán đến yếu tố nguy cơ này. Khi tuổi tăng thêm 10, thì SCORE được

cộng thêm 3. Vì vậy, tuổi của ĐTNC tăng lên thì SCORE cũng tăng theo.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi giống kết quả của Đậu Thế Hiệp [2].

4.3.2.2. BMI

Cân nặng, BMI cũng là một trong những yếu tố liên quan đến loãng

xương. Ở phụ nữ nhẹ cân, BMI thấp, sự mất xương xảy ra nhanh hơn và nguy

cơ loãng xương cao hơn những phụ nữ khác. Ngược lại, cân nặng cao là một

yếu tố bảo vệ cơ thể khỏi tình trạng mất xương thông qua việc tăng tạo xương

và tăng chuyển hóa androgen của tuyến thượng thận thành estron. Như vậy

cân nặng là yếu tố ảnh hưởng cao đến MĐX và cũng là một trong những yếu

tố nguy cơ lâm sàng trong chỉ số SCORE, cân nặng là số trừ trong công thức

tính SCORE. BMI lại được tính bằng cân nặng chia bình phương chiều cao, vì

vậy BMI giảm thì SCORE tăng. Trong nghiên cứu của chúng tôi cũng cho

thấy khi BMI giảm thì SCORE tăng với p <0,001 (Bảng 3.12). Những phụ nữ

có BMI càng thấp thì SCORE càng cao, tức là càng có nguy cơ mắc loãng

xương [18].

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi giống kết quả của Đậu Thế Hiệp [2].

4.3.2.3. Tình trạng mãn kinh

Trong nghiên cứu của chúng tôi cũng thấy rằng SCORE tăng dần theo

thời gian mãn kinh với p <0,001 (bảng 3.10); nghĩa là thời gian mãn kinh càng

lâu thì SCORE càng cao, nguy cơ phụ nữ mắc loãng xương càng lớn. Điều này

phù hợp với đặc điểm về MĐX của ĐTNC cũng giảm dần theo thời gian mãn

kinh (bảng 3.5). Và chỉ số SCORE của 2 nhóm mãn kinh trước và sau 45 tuổi

không có sự khác biệt với p>0,05 (bảng 3.10), phù hợp với kết quả nghiên cứu

của chúng tôi về MĐX của 2 nhóm này cũng không có sự khác biệt.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi giống kết quả của Đậu Thế Hiệp về

điểm SCORE tăng theo thời gian mãn kinh [2]. Nghiên cứu của chúng tôi có

53

khác của Đậu Thế Hiệp là điểm SCORE của nhóm chưa mãn kinh thấp hơn

nhóm đã mãn kinh có ý nghĩa thống kê với p<0,001.

4.2.3.4. Tiền sử VKDT

Kết quả nghiên cứu, giá trị SCORE trung bình của nhóm có tiền sử

VKDT cao hơn nhóm không có tiền sử VKDT có ý nghĩa thống kê với p<

0,001. Kết quả này có thể giải thích được do VKDT là một yếu tố nguy cơ

của loãng xương mà chỉ số SCORE được xây dựng dựa trên yếu tố nguy cơ

đó nên chỉ số SCORE tăng theo tỉ lệ ở nhóm ĐTNC có tiền sử VKDT.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi giống kết quả của Đậu Thế Hiệp [2]

4.2.3.5. Tiền sử dùng Estrogen

Chỉ số SCORE trung bình giảm ở nhóm có dùng Estrogen, sự khác biệt

có ý nghĩa thống kê với p< 0,001. Do trong công thức tính điểm của chỉ số

SCORE, nhóm có tiền sử sử dụng Estrogen được cộng một điểm so với nhóm

không dùng. Do đó có mối liên quan giữa chỉ số SCORE và tiền sử sử dụng

Estrogen.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi giống kết quả của Đậu Thế Hiệp [2]

4.2.3.6. Tiền sử gãy xương không do chấn thương sau 45 tuổi

Chỉ số SCORE tăng cao hơn hẳn ở nhóm có tiền sử gãy xương. Kết quả

này có thể giải thích dễ dàng vì mỗi vị trí gãy xương được cộng thêm 4 điểm

vào công thức tính chỉ số SCORE. Vì vậy, có mối liên quan giữa chỉ số

SCORE và tiền sử gẫy xương với p< 0,001.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi giống kết quả của Đậu Thế Hiệp [2]

4.3.2. Liên quan chỉ số SCORE với MĐX tính theo T-score

Chỉ số SCORE tăng dần theo mức độ loãng xương, và tỷ lệ loãng

xương cũng tăng dần theo chỉ số SCORE với p<0,001 (Bảng 3.13).

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi giống kết quả của Đậu Thế Hiệp [2]

54

4.4. Xác định giá trị dự báo nguy cơ loãng xương của thang điểm SCORE

ở các đối tượng trên

Một phương pháp chẩn đoán lý tưởng có độ nhạy và đặc hiệu gần

100%. Nhưng trong thực tế, ít khi nào chúng ta có một phương pháp nào hoàn

hảo như thế. Có những phương pháp có độ nhạy cao, nhưng độ đặc hiệu thấp

(và ngược lại). Trong trường hợp kết quả của một phương pháp chẩn đoán có

nhiều giá trị (biến liên tục), việc xác định một điểm cut-off để phân biệt giữa

giữa “bình thường” và “bất bình thường” là điều rất quan trọng. Thông

thường, một phương pháp chẩn đoán có nhiều giá trị liên tục, độ nhạy và độ

đặc hiệu thường thay đổi nghịch chiều. Khi độ nhạy tăng thì độ đặc hiệu

giảm; ngược lại, khi độ nhạy giảm thì độ đặc hiệu tăng. Không có cách gì để

gia tăng độ đặc hiệu và độ nhạy trong cùng một lúc cho một phương pháp

chẩn đoán. Do đó, vấn đề là cần phải cân bằng giữa hai khía cạnh độ nhạy và

độ đặc hiệu của một phương pháp chẩn đoán.

Việc chọn phương pháp có độ nhạy hay độ đặc hiệu cao tùy thuộc vào

tình hình thực tế của bệnh.

Phương pháp có độ nhạy cao cho phép chúng ta loại bỏ khả năng mắc

bệnh, tức là với kết quả âm tính thì bệnh nhân ít khả năng mắc bệnh (giảm

khả năng bỏ sót số người bị bệnh). Do đó, nên chọn phương pháp có độ nhạy

cao nếu bỏ sót bệnh dẫn đến hệ quả nghiêm trọng cho bệnh nhân.

Phương pháp có độ đặc hiệu cao rất có ích cho việc xác định bệnh nếu

kết quả dương tính, có nghĩa là nếu đối tượng không có bệnh thì phương pháp

ít khi nào cho ra kết quả dương tính (giảm khả năng người không có bệnh bị

chẩn đoán nhầm là có bệnh). Các phương pháp có độ đặc hiệu cao rất cần

thiết khi kết quả dương tính giả dẫn đến hệ quả nghiêm trọng cho bệnh nhân.

Trong nghiên cứu của chúng tôi với T-score ≤ -1, với ngưỡng này mục

đích là sàng lọc để lựa chọn ĐTNC cần hay không cần đo MĐX bằng DEXA

nên ta chọn điểm cắt có độ nhạy cao nhất để sàng lọc tối đa đối tượng cần

55

được đo MĐX. Như vậy chọn điểm cut off là 12 với Se là 86,1% và Sp là

96,8%. PPV 98,4%, NPV 56,4% AUC 0,95 (Bảng 3.14, 3.15 và Biểu đồ 3.4).

Trong nghiên cứu của chúng tôi với T-score ≤ - 2,5, với T-score ≤ -2,5

mục đích sàng lọc bệnh nhân bị loãng xương cân nhắc chỉ định điều trị và đo

MĐX ngay, chúng tôi chọn điểm cut off có độ đặc hiệu cao nhất . Như vậy

chọn điểm cut off = 15, chỉ số SCORE có Se là 94,2%, Sp 87,2%,PPV 95,3%,

NPV 79,6% ACU là 0,95 (Bảng 3.16 và Biểu đồ 3.5).

So sánh với nghiên cứu của Đậu Thế Hiệp và các nghiên cứu nước

ngoài khác về chỉ số SCORE với T-score < -1 thì điểm cắt với nguy cơ thấp

là cao hơn so với các nghiên cứu khác vì nghiên cứu của chúng tôi bao gồm

cả đối tượng chưa mãn kinh thì nguy cơ loãng xương của nhóm này thấp hơn

so với nhóm đã mãn kinh và nghiên cứu của chúng tôi tiến hành tại bệnh viện

nên đa số bệnh nhân đến khám đều có bệnh nên những bệnh nhân không có

bệnh đựoc loại trừ dễ dàng hơn, còn các nghiên cứu khác tiến hành tại cộng

đồng thì tỉ lệ âm tính giả sẽ dễ sai số hơn.

Nghiên cứu của chúng tôi so các nghiên cứu nước ngoài khác thì chỉ số

SCORE với T-score < -2,5 không có sự khác biệt về điểm cắt vì ngày nay chế

độ dinh duỡng tốt hơn người Việt Nam đựơc cải thiện về tầm vóc, phụ nữ

Việt Nam cũng được dùng Estogen thay thế nhiều hơn. Nghiên cứu của Đậu

Thế Hiệp chỉ số SCORE với T-score < -2,5 thì điểm cắt nguy cơ cao là 14

thấp hơn nghiên cứu của chúng tôi và các nghiên cứu nước ngoài khác là 1

điểm là vì trong nghiên cứu của tác giả tỉ lệ bệnh nhân gẫy xương tự nhiên và

viêm khớp dạng thấp, dùng estrogen thấp.

Năm 2001, Ben Sedrine và cộng sự, người đầu tiên phân tích tính hợp

lệ của bảng hỏi được làm ở lục địa châu Âu, đã báo cáo thử nghiệm Se là

91,5% cao hơn nghiên cứu chúng tôi, nhưng Sp là 26,5% thấp hơn, giá trị dự

đoán dương tính (PPV-Positive predictive value ) 52% thấp hơn và giá trị dự

đoán âm tính (NPV-Negative predictive value ) 77,7% cao hơn.

56

Từ năm 2002 – 2005 đều có các nghiên cứu chỉ số SCORE . Đặc biệt

năm 2005 nghiên cứu tại Mỹ của Mauck KF kết luận SCORE có Se 100% ,

Sp 25% thấp hơn, PPV 27% thấp hơn, NPV 100% cao hơn[26][36][45]

Năm 2008 M. Karkucak và cộng sự nghiên cứu trên 177 bệnh nhân ở

độ tuổi trên 45 ở Thổ Nhĩ Kỳ, với mục tiêu là nhằm đánh giá hiệu suất của chỉ

số SCORE với đo MĐX ở CXĐ và CSTL. Giá trị điểm cắt của hiệu suất thử

nghiệm được đánh giá theocác điểm 5, 6, 7, 8 và phân bố tuổi. Khi tất cả các

nhóm đều được đánh giá thì Se, Sp, PPV và NPV của SCORE 6 là lần lượt là:

97,1%, 40,4%, 66,7%, 91,7%. AUC là 0,6. Khi các giá trị điểm cắt tăng lên,

Sp tăng và Se giảm. Ở điểm cắt SCORE 7 Se, Sp, PPV, NPV lần lượt là: 86,7,

59,1, 63, 82,5%.

Năm 2010 nghiên cứu của tác giả Basavilvazo – Rodriquez MA tại

Tây Ban Nha trên 201 bệnh nhân từ 55- 70 tuổi thì SCORE có Se 87%, Sp

34,6% [23] và một nghiên cứu của Heidi D tại Mỹ cho AUC của SCORE là

0.89 có ý nghĩa hơn các chỉ số khác.

Năm 2012, Laura Gonzalez-Lopez và cộng sự đã nghiên cứu trên 191

phụ nữ Mexico mắc viêm khớp dạng thấp (VKDT) nhằm đánh giá các tiện ích

của 6 chỉ số nguy cơ chung (SCORE, ORAI, ORISIS, OST, NOF, ABONE) ,

2 chỉ số riêng (Amsterdam và Amsterdam sửa đổi) trong xác định thiểu xương

hoặc loãng xương ở phụ nữ mắc VKDT; và mối tương quan của chúng với

xác suất gãy xương trong 10 năm theo đánh giá bằng Bộ công cụ đánh giá

nguy cơ gãy xương (FRAX) của Tổ chức Y tế Thế giới. Kết quả, để dự đoán

loãng xương, SCORE cho Se cao nhất (96%).

Năm 2014 tại Iran , Ahmadzadeh A so sánh ba khác nhau loãng xương

có nguy cơ công cụ đánh giá ORAI, SCORE và OST . Nghiên cứu cho thấy

các chỉ số làm giảm chi phí đo mật độ xương cho các bệnh nhân nguy cơ

loãng xương cao và SCORE có độ nhạy cao nhất 95% và giá trị tiên đoán âm

tính có một vai trò đặc biệt[16].

57

Năm 2015 Crandall CJ với nghiên cứu tại Bắc Mỹ chỉ ra độ nhạy của

chỉ số SCORE là trên 90%[31]. Tại Việt Nam , Đậu Thế Hiệp nghiên cứu 290

phụ nữ từ 45 tuổi trở lên được đo mật độ xương sau đó dùng chỉ số SCORE

đánh giá nguy cơ loãng xương. Kết quả nghiên cứu tại điểm cut off là 6 , độ

nhạy SCORE là 95,1 %, AUC là 0,776[3].

Năm 2016 Jiang X, Good LE, Spinka R, Schnatz PF, có nghiên cứu tại

Mỹ có kết luận SCORE là tốt nhất để xác định phụ nữ bị loãng xương với độ

nhạy 92% AUC là 0.75 [21].

Một nghiên cứu khác tại Đài Loan so sánh rất nhiều công cụ đánh giá

nguy cơ loãng xương với nhau SCORE vẫn chiếm ưu thế với độ nhạy ở nam

giới là 100% với nữ giới ≥ 90%, AUC ≥ 0,8 [28].

Năm 2018 Cherian KE, Kapoor N1, Shetty S, Naik D, Thomas N, Paul

TV một nghiên cứu thực hiện ở 2108 phụ nữ sau mãn kinh nông thôn ở Ấn

Độ được đánh giá bằng các công cụ SCORE, ABONE, ORAI, OSTA và

FRAX. QUS ,850 đối tượng được đo mật độ xương bằng máy DEXA,. Độ

nhạy của SCORE, ABONE, OSTA, ORAI, FRAX, và QUS là 91,3%, 91,0%,

88,5%, 81,0%, 72,7% và 81,9%, và đặc trưng là 36,0%, 33,5%, 41,7%, 52,0

%, 60,5%, và 50,3%, AUC chỉ tốt cho SCORE 0.806, chỉ số còn lại 0.713-

0.766. Trong nhóm nghiên cứu lớn của phụ nữ mãn kinh ở nông thôn, chỉ số

SCORE có độ nhạy tốt và AUC tốt để dự đoán loãng xương

Như kết quả các nghiên cứu kể trên so nghiên cứu của chúng tôi cho

thấy Se tương đuơng 1 vài nghiên cứu như của Eval Lidick, Karkucak,

Basavilvazo- Rodrriquez MA; thấp hơn không đáng kể với các nghiên cứu

của Ben Sedrrine, Mauck KF, Laura Gonzalez, Crandall CJ, Jiang X , Cherian

KE, Đậu Thế Hiệp; nhưng Sp lại cao hơn với các nghiên cứu trên. Ngiên cứu

của Heidi D năm 2010 có AUC là 0,89, của Chen SJ tại Đài Loan năm 2016

AUC là ≥0,8, của Jiang X là 0,75, của Cherian KF là 0,806, Đậu Thế Hiệp là

0,77 chỉ ra AUC tốt. Nghiên cứu của chúng tôi có AUC 0,95 cao hơn các

nghiên cứu bởi vì nghiên cứu của chúng tối thực hiện tại bệnh viện còn các

58

nghiên cứu khác thực hiện tại cộng đồng nên Sp cao hơn và AUC tốt hơn.

Như vậy SCORE có giá trị dự đoán nguy cơ MĐX thấp và loãng xương ở phụ

nữ trên 45 tuổi.

Sau khi quyết định lấy 2 điểm cut off là 12 và 15, nguy cơ loãng xương

theo chỉ số SCORE theo nghiên cứu của chúng tôi được chia như sau:

SCORE > 15: nguy cơ cao

SCORE từ 12 đến 15: nguy cơ trung bình

SCORE ≤ 12: nguy cơ thấp

Tỷ lệ nguy cơ loãng xương theo chỉ số SCORE trong nghiên cứu của

chúng tôi là: nguy cơ cao có 151/300 người chiếm tỷ lệ 50,4%, nguy cơ trung

bình 104/300 người (34,6%), nguy cơ thấp 45/300 người (15%) (Bảng 3.7).

Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối liên quan chặt chẽ giữa phân mức

nguy cơ loãng xương theo SCORE và phân loại loãng xương theo T-score với

p < 0,001, tỷ lệ loãng xương ở nhóm nguy cơ cao theo chỉ số SCORE lớn

hơn nhiều so với tỷ lệ loãng xương ở nhóm nguy cơ thấp (Bảng 3.19).

Với SCORE <7 (Nguy cơ thấp) thì 95,6% ĐTNC không bị loãng

xương (MĐX bình thường chiếm tỷ lệ 82,2%, giảm MĐX chiếm 13,3%) và

4,4% bị loãng xương. Với SCORE từ 7-15 (Nguy cơ trung bình) thì 46,2%

không loãng xương (MĐX bình thường chiếm 25%, giảm MĐX chiếm

21,2%) và 53,8% bị loãng xương. Với SCORE > 15 (nguy cơ cao): 2%

(3/151) là giảm MĐX và 98% (148/151) là loãng xương, không có trường

hợp có MĐX bình thường.

Như vậy, sử dụng điểm cut off SCORE ≤ 12 giúp ước lượng chính xác

cho 43/45(95,6%) bệnh nhân không phải đi đo MĐX. Chỉ bỏ sót 2/45 (4,4%)

bệnh nhân bị loãng xương. Đây là tỉ lệ chấp nhận được.

Sử dụng điểm cut off SCORE > 15 giúp các bác sỹ ước lượng chính

xác 148/151 (98%) bệnh nhân bị loãng xương, khuyên bệnh nhân đi đo MĐX

ngay, có 3/151 (2%) bệnh nhân MĐX thấp và không có trường hợp nào có

MĐX bình thường bị đưa vào nhóm loãng xương.

59

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu đánh giá nguy cơ loãng xương theo chỉ số SCORE so

sánh với đo mật độ xương bằng DEXA ở 300 phụ nữ trên 45 tuổi trở, chúng

tôi rút ra một số kết luận sau:

1. Khảo sát một số yếu tố nguy cơ loãng xương ở phụ nữ trên 45 tuổi

bằng thang điểm SCORE của ĐTNC

- Nguy cơ thấp (SCORE < 7) chiếm tỷ lệ 15%.

- Nguy cơ trung bình (7

- Nguy cơ cao (SCORE > 15) chiếm tỷ lệ 50,4%.

- Điểm SCORE tăng dần theo tuổi và thời gian mãn kinh.

- Điểm SCORE cao hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm ĐTNC đã mãn

kinh, có tiền sử VKDT, gẫy xương và không dùng Estrogen với p < 0,001.

- Điểm SCORE tăng nghịch biến với BMI, sự khác biệt có ý nghĩa

thống kê với p <0,001.

- Có mối liên quan chặt chẽ giữa nguy cơ loãng xương theo chỉ số

SCORE với đo MĐX bằng phương pháp DEXA (T-score).

2. Xác định giá trị dự báo nguy cơ loãng xương của thang điểm SCORE ở

ĐTNC

- Trong chẩn đoán sàng lọc nguy cơ giảm MĐX (T-score≤ -1SD):

Điểm cut off 12 có Độ nhạy 86,1,1% và Độ đặc hiệu 96,8 %; Giá trị dự báo

dương tính 98,4% và Giá trị dự báo âm tính 56,4%; Diện tích dưới đường

cong ROC 0,95.

- Trong chẩn đoán sàng lọc nguy cơ loãng xương (T-score≤ -2,5SD):

Tại điểm cut off 15 có Độ nhạy 81,1% và Độ đặc hiệu 96,8%; Giá trị dự báo

dương tính 97,4% và Giá trị dự báo âm tính 63,6%; Diện tích dưới đường

cong ROC 0,95 .

- Tỷ lệ loãng xương ở nhóm nguy cơ cao theo chỉ số SCORE (98%) lớn

hơn nhiều so với tỷ lệ loãng xương ở nhóm nguy cơ thấp (4,4%).

60

HẠN CHẾ ĐỀ TÀI

Đề tài sẽ tăng giá trị khoa học hơn nếu được thực hiện tại cộng đồng.

Tuy nhiên vì chúng tôi sử dụng “tiêu chuẩn vàng” để chẩn đoán loãng xương,

đó là dựa vào kết quả đo MĐX bằng DEXA ở trung tâm (CSTL, CXĐ), nên

nghiên cứu được thực hiện tại bệnh viện là khả thi hơn. Mặt khác, nếu thực

hiện tại cộng đồng đòi hỏi thời gian và kinh phí nhiều hơn. Điều này không

phù hợp với điều kiện thực tế hiện tại của chúng tôi.

Đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu chỉ số SCORE tại Thái Nguyên.

Chúng tôi rất mong nhận được nhiều sự đồng cảm và cũng mong rằng đây

cũng có thể là một tiền đề cho các tác giả sau này sẽ có được sự chuẩn bị tốt

hơn để nghiên cứu, áp dụng chỉ số SCORE có hiệu quả phù hợp với điều kiện

Việt Nam.

61

KHUYẾN NGHỊ

- Chỉ số SCORE là một công cụ đơn giản, có thể áp dụng trong việc

xác định nguy cơ loãng xương ở phụ nữ trên 45 tuổi đã mãn kinh và chưa

mãn kinh phù hợp với điều kiện Việt Nam .

- Cần có thêm các nghiên cứu hơn nữa tại cộng đồng để xác định rõ

hơn giá trị thực tiễn của chỉ số SCORE.

- Điểm SCORE từ 12 đến 15 khuyên bệnh nhân cần phải đo MĐX sớm.

- Điểm SCORE trên 15 nên khuyên bệnh nhân phải đi đo MĐX ngay

và có thể cân nhắc điều trị, nhất là với trường hợp bệnh nhân có gẫy

xương tự nhiên.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

TIẾNG VIỆT

1. Bộ y tế, Bệnh học cơ xương khớp nội khoa (2013) , “Loãng xương”

Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam.

2. Đậu Thế Hiệp ( 2015), Đánh giá chỉ số Score trong sàng lọc nguy cơ

loãng xương ở phụ nữ mạn kinh, Luận văn chuyên khoa cấp II. Trường

Đại học Y Hà Nội.

3. Đặng Hồng Hoa, Đoàn Văn Đệ, Hoàng Đức Kiệt (2008), Nghiên cứu

mật độ xương vùng cổ xương đùi của người bình thường bằng phương

pháp đo hấp thụ tia X năng lượng kép, Học viện Quân y Hà Nội.

4. Hoàng Anh Dũng, Nguyễn Bạch Mai, Nguyễn Thị Ngọc Lan

(2017), Nghiên cứu mật độ xương, các yếu tố nguy cơ loãng xương, sự

thay đổi một số dâu ấn chu chuyển xương ở phụ nữ sau mạn kinh sau

khi được bổ sung sữa đậu nành có tăng cường vitamin D và canxi tại

cộng đồng, Đại học Y Hà Nội.

5. Hoàng Thanh Vân, Phạm Như Thế, Võ Tam (2013), Một số vấn đề

loãng xương,Trường Đại học Y Dược Huế.

6. Lê Đình Vấn (2017), Ứng dụng đường cong ROC”, Trường Đại học Y

Dược Huế.

7. Tào Minh Thúy, Hoàng thị Bích, Nguyễn Ngọc Bích (2015), Khảo sát

yếu tố nguy cơ loãng xương ở phụ nữ Việt Nam từ 50 tuổi trở lên và

nam giới từ 60 tuổi trở lên, Trường Đại học Y Hà Nội.

8. Nguyễn Trung Hòa, Đào Đình Dũng, Nguyễn Văn Tập (2015), Đánh

giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp cộng đồng ở người từ 45 tuổi

trở lên tại thành phố Hồ Chí Minh, Viện vệ sinh dịch tễ Trung Ương.

9. Vũ thị Kim Hải (2017), Đặc điểm và một số yếu tố nguy cơ loãng

xương ở phụ nữ mạn kinh điều trị tại Bệnh viện Trung ương Thái

Nguyên, Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên.

10. Vũ Đình Chính (1994), Bước đầu đánh giá tình trạng loãng xương ở

phụ nữ sau mãn kinh, ở một số vùng nông thôn Hải Hưng, những biểu

hiện lâm sàng và những thay đổi chỉ số barnett và Nordin, Trường Đại

học Y Hà Nội.

11. Trường Đại học Y Dược Tp Hồ Chí Minh (2016), Mãn kinh, Nhà xuất

bản Tp Hồ CHí Minh, 189 – 195.

12. Trường Đại học Y Hà Nội , Bệnh học nội khoa tập 2 (2015) , “ Loãng

xương, Nhà xuất bản y học.

TIẾNG ANH

13. Alexxander G. Robling, Alesha B. Castillo, and Charles H. Turner

(2006), Biomechanical and Molecular regulation of bone remodeling,

Department of anatony and cell biology, biomedical engineering and

orthopadic surgely, Cornell university.

14. Ahmadzadeh A (2014). Comparison of three different osteoporosis risk

assessment tools: ORAI (osteoporosis risk assessment instrument),

SCORE (simple calculated osteoporosis risk estimation) and OST

(osteoporosis self-assessment tool. Medical juoral of the islamic republic

of Iran, 28- 94, 46-51

15. Ana Carolina Veiga Silva (2014). Factor asociated with osteopenia and

osteoporosis in women under going bone mineral density test. Revista

Brasileira De Reumatologia, 2255- 5021, 224-227.

16. Anitha Oocmen, Ibrahim Alzahrani (2014). Prevalence of osteoporosis

and factor asociated with osteoporosis in women above 40 year in the

Northern Part of Saudi Arabia. International Journal of Research in

Medical Scineces, 2-1, 274-278.

17. Arnaud CD, Sanchez SD (2015). The role of calcium in osteoporosis.

Annualreview, 1990-10, 397-414.

18. Asomaning Kofi, (2006). The asssociation between body mass index

and and bone mineral density examinatuon. Journal of women’ health,

15-9, 1028-1033.

19. Bahrami A, (2018). Genetic and epigenetic factor influencing vitamin

D status. Juonal cell Physiol, 28, 4033-4043.

20. Basavilvazo-Rodríguez MA,( 2010). Usefulness of a clinical

questionnaire for screening osteopenia and osteoporosis in post-

menopausal women. Rev Med inst Mex Seguro soc, 48, 67-70.

21. Baccaro LF, (2013). Factor asociated with fragility fractures in women

over 50 year old age : a population- based huosehold survey. Rev Bar

Ginecol Ossstet, 35, 497-502.

22. Ben Sedrine W, (2001). Evaluation of the simple calculated

osteoporosis risk estimation (SCORE) in a sample of white women

from Belgium. Juonal Site ,34, 356-364.

23. Brenneman SK, Lacroix AZ, Buist DS, Chen YT, Abbott TA

(2001) : “ Evaluation of decision rules to identify postmenopausal

women for intervention related to osteoporosis. NCBI, 45, 257-286.

24. Cadarette SM, (2001). Evaluation of decision rules for referring women

for bone densitometry by dual-energy x-ray absorptiometry. JAMA, 56,

210-219.

25. Chen SJ, Chen YJ, Cheng CH, (2016). Comparisons of Different Screening

Tools for Identifying Fracture/Osteoporosis Risk Among Community-

Dwelling Older People. Medical Batimore , 95-20, 335-352.

26. Cherian KE, (2018). Evaluation of Different Screening Tools for

Predicting Femoral Neck Osteoporosis in Rural South

Indian Postmenopausal Women. Journal of clinicar densitometry.

27. Cortet B, Guyot MH, Solau E(2000). Fractor influencing bone loss in

rheumatoid arthritis : a longitudial study. Clinical and experimental

rheumatology 2000 , 18, 683-690.

28. Crandall CJ (2015). Risk Assessment Tools for Osteoporosis

Screening in Postmenopausal Women: A Systematic Review. Curr

Osteoporos Rep , 13, 287-301.

29. Disnesh K Dahanwal, Elaine Dennnison, Nick C Harvey,(2011).

Epidemiology of hip fracture: “ Worldwide geographic variation ”.

Indian Journal of othopaedics, 45-1, 15-22

30. Dubrovsky AM, Lim MJ, Lane NE (2018). Osteoporosis in rheumatic

diseases : anti- rheumatic drug and the skeleton”. NCBI, 10, 223-401.

31. El-Heis MA, Al- Kamil EA, Al-Shatnawi TN, (2017). Factor asociated

with osteoporosis among a sample of Jordanian women referred for in. .

WHO EMRO, 10, 1-10

32. Heidi D, Nelson, Elizabeth M, (2016). Screening for osteoporosis ; an

update for the US preventive services task force. Clinal Guidelines

page 103

33. Horner K, Devlin H, Harvey L (2002). Detecting patients with low

skeletal bone mass. NCBI .

34. John A, Kanis, Borgstrom F, (2004). Assessment of fracture risk.

International osteoporosis foundation and national osteoporosis

foundation 2004. Page 312-324

35. Joo PW ,Van Den Bergh, Tineke ACM, (2010). Assessment

of Individual fracture risk : FRAX and Beyond. Curr osteoporos rep

page 133-137.

36. Kanis JA, Hans. D, Cooper. C, (2011). Interpretation and use of FRAX

in clinical practice. Osteoporros Int ,22, 2395-2341.

37. Karkucak M, (2008). Performance of simple calculated osteoporosis

risk estimation in a sample of women with suspected osteoporosis in

the Turkish population. NCBI , 637-653

38. Ke D, Fu X, Xue Y,(2018). Il-17 regulates the autophagic

activity of osteoclast precursors through rankl-jnk1 singnaling during

osteclasttogenesis in vitro”. Biochem Biophys Res Commun, 18, 458-462.

39. Kharroubi A, Saba E, Ghannam I, Darwish H (2017) . Evaluation of

the validity of osteoporosis and fracture risk assessment tools (IOF One

Minute Test, SCORE, and FRAX) in postmenopausal Palestinian

women. Arch Osteoporos, 12, 298-301.

40. Lydick E, Cook K, Turpin J, Melton M, Stine R, Byrnes C (1998).

Development and validation of a simple questionnaire to facilitate

identification of women likely to have low bone density. The American

Juonal of Managed Care, 4-1, 37-48.

41. Mauck KF, Cuddihy MT, (2005) . Use of clinical prediction rules in

detecting osteoporosis in a population-based sample of postmenopausal

women” . NCBI ,129, 413-420

42. Meir Mamor MD, Volker Alt MD, Loren Latta PE PhD,Joseph Lane

MD (2015). Osteoporotic fracture care: are we closer to gold standards.

Orthop Trauma ,29,167-174.

43. Nayak S, Roberts MS, Greenspan SL( 2015). Cost-effectiveness of

different screening strategies for osteoporosis in postmenopausal

women. NIH ,36,150-182

44. Nguyen D, Henrik G, Jacqueline R, John A and Tuan V Nguyen

(2007): “ Residual lifetime risk of fractue in women and men. Juornal

of bone and mineral research, 22-6, 781-783.

45. Rusel Burge, Bess Dason – Hughes, Daniel H Solomon, ( 2007).

Incedence and Economic Burden of osteoporosis – Ralated fracture in

the United States 2005 – 2025. Journal of Bone and mineral research ,

22-3, 465-475.

46. Russell AS, Morrison RT(2001): “An assessment of the new "SCORE"

index as a predictor of osteoporosis in women”. NCBI.

47. Sedrine WB, Chevallier T, Zegels B, Kvasz A, (2002) . Development

and assessment of the Osteoporosis Index of Risk (OSIRIS) to

facilitate selection of women for bone densitometry. Gynecol

Endocrinol , 16, 245-250.

48. Strom O, Borgstrom F, Kanis J.A, et al. (2011). Osteoporosis: Burden,

health care provision and opportunities in the EU. A report prepared in

collaboration with the International Osteoporosis Foundation (IOF) and

the European Federation of Pharmaceutical Industry Associations

(EFPIA)”. Arch Osteoporos, 6, 59-155.

49. Suman VB, Khalid Perwez, Jeganathan PS, Subbalakshmi NK, Sheila

R Pai, Shaila MD (2013). Risk factor associated with osteoporosis- a

population based study using p- dexa technique. International Journal

of Scientiffic and research publication, 3-2, Page 413

50. Suzanne M, Cadarette, Susan B, Kreiger n, Warren J, Issac MC,

Gerrada A, Darlington, Jack V (2000). Devolopment and validation of

the osteoporosis rick assessment instru to facilitate selection of women

for bone densitometry. Canadia medical association or its licensor,

16-29, 1289-1293.

51. Tarek Fawzy , Jayakumay Muttappallymyalil, Jayadevan Sreedharan

(2017). Association between body mas index and bone mineral

dentisity in patients refered for dual energy X-Ray absorptionmetry.

Sage- Hindawi Acess to Research Juornal of Osteoporos, 2011, 1-4.

52. Tae keun Yoo, Sung Kean Kim, Deok Won Kim, (2013). Osteoporosis

risk prediction for bone mineral density assessment of posmenopual

women using machine learning. Yonsei medical Juornal, 54-2013, 1322.

53. Ungar WJ1, Josse R, Lee S, (2000).The Canadian SCORE

questionnaire: optimizing the use of technology for low bone density

assessment. Simple Calculated Osteoporosis Risk Estimate. NCBI.

54. Wang N, Agrawal A, Jorgensen NR, (2018) .P2X7 receptor regulates

osteoclast function and bone los in a mouse model of osteoporosis. NCBI.

55. Wayne Samson PH.d (2002). Alcohol and other factor afffecting

osteoporosis Risk in Women. Alcohol Research & Health, 26-4, 292-298.

56. Yoong yang , Bing Qiang Wang, Qi Fi, (2013). Validatino of an

osteoporosis self-asssessment tool to indentiffy primary osteoporosis

and new osteoporotic vertebral fracture in posmennopausal Chinese

women in Beijing. Biomed Central, 14, 3-8

58. Yoo TK, Kim SK, Kim DW, (2013). Osteoporosis risk prediction for

bone mineral density assessment of postmenopausal women using

machine learning. Department of Medical Engineering. NCBI.

PHỤ LỤC

Số phiếu……..

BỆNH ÁN NGHIÊN CỨU

I. THÔNG TIN CÁ NHÂN

1. Mã số nghiên cứu……………………………………………………............

2. Họ và tên…………………………………………………………….............

3. Tuổi:…………………………........................................................................

4. Nơi ở hiện tại: Số nhà…………. thôn/phố………………………….............

Xã/phường…………Quận/Huyện…………Tỉnh/ thành phố…………...........

5. Trình độ học vấn:……………………………………………………............

6. Điện thoại:…………………………………………………………...............

II. HỎI BỆNH

1. Lý do đi khám

………………………………………………..................................................

2. Tiền sử điều trị thuốc loãng xương

Từ trước đến giờ bác đã bao giờ điều trị loãng xương chưa?

A.Có B. Chưa

3. Tiền sử gãy xương:

- Bác có bị gãy xương bao giờ không?

A.Có B.Không

- Nếu có thì gãy xương ở

Vị trí nào ……………………………………………………………......

Tuổi nào ………………………………………………………………...

- Bác có được chẩn đoán gãy lún đốt sống thắt lưng bao giờ không ?

A. Có. Vị trí nào………………………………….....................

B. Không

( Nếu hiện tại có chụp X quang thì cập nhật luôn kết quả)

Lí do gãy:

A. Tự nhiên hoặc sau một chấn thương nhẹ (bước hụt, ho..)

B. Tai nạn giao thông hoặc sinh hoạt

C. Khác: ………………………………………………...................

4. Tiền sử gia đình:

- Trong gia đình họ hàng có ai bị gãy xương dễ dàng không?

A. Có B. Không.

- Gãy khi …………..tuổi

- Lí do gãy:

A. Do tai nạn giao thông

B. Do tai nạn sinh hoạt

C. Tự nhiên hoặc sau chấn thương nhẹ (bước hụt)

D. Khác (ghi rõ lí do ……………………………..)

- Quan hệ của mình với người gãy xương:...............................................

5. Tiền sử dùng thuốc

Bác có dùng thuốc Estrogen bao giờ không ?

A. Có B. Không

Nếu có : Tên thuốc .............liều .....mg/ngày, trong bao lâu ....................

6. Tiền sử bị bệnh viêm khớp dạng thấp

Bác có được chẩn đoán bệnh viêm khớp dạng thấp không?

A. Có B. Không

Nếu có bao nhiêu năm:....................

Đang dùng Corticoid loại..................................... Liều.............................

7. Bà đã mãn kinh hay cắt buồng trứng?

A. Mãn kinh Thời gian?:....................

B. Cắt buồng trứng Thời gian?:....................

C. Chưa mãn kinh

III. KẾT QUẢ ĐO MẬT ĐỘ XƯƠNG

Chiều cao:……..cm Cân nặng:………kg BMI: .................

Kết quả MĐX:

CXĐ CSTL

Region BMD (g/cm2) T-score Region BMD (g/cm2) T-score

Neck L1

Trock L2

Inter L3

Total L4

Ward’s Total

IV. PHÂN TẦNG NGUY CƠ LOÃNG XƯƠNG DỰA VÀO CHỈ SỐ

SCORE

Chỉ số SCORE............

- Nguy cơ cao:

- Nguy cơ trung bình:

- Nguy cơ thấp: