intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Một số phương pháp về dạy tác phẩm ký hiện đại Việt Nam (trong chương trình Ngữ văn 12 ban cơ bản)

Chia sẻ: Lê Văn Nguyên | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:61

182
lượt xem
19
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm đề tài "Một số phương pháp về dạy tác phẩm ký hiện đại Việt Nam (trong chương trình Ngữ văn 12 ban cơ bản)" nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới, ngành giáo dục đã có những bước tiến khả quan trong cải cách giáo dục, đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy ở các cấp phù hợp với mục tiêu giáo dục, đào tạo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Một số phương pháp về dạy tác phẩm ký hiện đại Việt Nam (trong chương trình Ngữ văn 12 ban cơ bản)

Người viết: Trương Thị Chanh                                             Giáo viên: Trường THPT Trực <br /> Ninh<br /> THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN<br /> 1; Tên sáng kiến<br /> ­ Một số  phương pháp về  dạy tác phẩm ký hiện đại Việt Nam (trong  <br /> chương trình Ngữ văn 12 ban cơ bản)<br /> 2; Lĩnh vực áp dụng sáng kiến môn Ngữ văn<br /> 3; Thời gian áp dụng sáng kiến trong học kỳ I năm học 2015 – 2016<br /> 4; Tác giả<br /> ­ Họ và tên: Trương Thị Chanh<br /> ­ Ngày tháng năm sinh: 05/11/1979<br /> ­ Hộ khẩu thường trú: Trực Đạo – Trực Ninh – Nam Định<br /> ­ Trình độ chuyên môn: Cử nhân Ngữ văn<br /> ­ Đơn vị công tác: Trường THPT Trực Ninh<br /> ­ Chức vụ hiện nay: Giáo viên<br /> ­ Điện thoại: 01694865589<br /> 5; Đồng tác giả: Không<br /> 6; Đơn vị áp dụng sáng kiến<br /> ­ Tên đơn vị: Trường THPT Trực Ninh<br /> ­ Địa chỉ: Thị trấn Cát Thành – Huyện Trực Ninh – Tỉnh Nam Định<br /> ­ Điện thoại: 03503883099<br /> <br /> <br /> <br /> <br />                                                  1<br /> Người viết: Trương Thị Chanh                                             Giáo viên: Trường THPT Trực <br /> Ninh<br /> <br /> <br />    Đề  tài:  Một số  phương pháp về  việc giảng dạy tác phẩm kí hiện đại <br /> Việt Nam (chương trình Ngữ văn 12, ban cơ bản)<br /> A; Lý do chọn đề tài<br /> B; Thực trạng trước khi chọn đề tài<br /> I; Thuận lợi<br /> II; Khó khăn<br /> C; Nội dung đề tài<br /> I; Cơ sở lý luận<br /> II; Nội dung và phương pháp thực hiện<br /> 1; Nội dung<br /> 1.1; Khái quát về thể kí<br /> 1.2; Những đặc điểm cơ bản của kí Hoàng Phủ Ngọc Tường<br /> 1.3; Những đặc điểm cơ bản của tùy bút (kí) Nguyễn Tuân<br /> 2; Một số  phương pháp về  việc giảng dạy tác phẩm kí hiện đại Việt <br /> Nam (Chương trình Ngữ văn 12, ban cơ bản)<br /> 2.1; Về phương pháp<br /> 2.1.1; Dạy học tác phẩm theo đặc trưng thể loại<br /> 2.1.2; Rèn luyện phương pháp đọc – hiểu cho học sinh<br /> 2.1.3; Sử dụng phương pháp bản đồ tư duy<br /> 2.2; Giáo án tiết dạy thực nghiệm<br /> D; Hiệu quả do sáng kiến đem lại<br /> E; Kết luận<br /> G; Cam kết không sao chép và vi phạm bản quyền<br /> <br /> <br />                                                  2<br /> Người viết: Trương Thị Chanh                                             Giáo viên: Trường THPT Trực <br /> Ninh<br /> Tư liệu tham khảo  <br /> <br /> <br /> <br /> <br /> A; LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI<br /> ­ Để đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới, ngành giáo <br /> dục đã có những bước tiến khả  quan trong cải cách giáo dục, đổi mới nội  <br /> dung, phương pháp giảng dạy  ở  các cấp phù hợp với mục tiêu giáo dục, đào <br /> tạo. Thông qua các hội nghị  chuyên đề  môn Ngữ  văn được Sở  giáo dục , nhà  <br /> trường tổ  chức hàng năm, chúng tôi đã trao đổi, rút kinh nghiệm về  đổi mới <br /> phương pháp dạy học. Nghị quyết hội nghị trung  ương 8 khóa XI nêu rõ: “Tiếp <br /> tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại, phát huy  <br /> tích cực, chủ  động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ  năng của người học,  <br /> khắc phục lối truyền thụ  áp đặt một chiều, ghi nhớ  máy móc. Tập trung dạy <br /> cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật  <br /> và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực, chuyển từ  học chủ  yếu trên <br /> lớp sang tổ  chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động ngoại khóa, <br /> nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông <br /> trong dạy học”.<br />   Một trong những bài học khó của chương trình Ngữ  văn ở  trường phổ  thông <br /> là: Các văn bản học như  thơ ca, truyện ngắn, kịch và kí, trong khuôn khổ  hạn <br /> hẹp, sách giáo khoa không thể trích toàn bộ văn bản văn học mà có chỗ đã lược  <br /> bỏ  (hoặc mỗi tác giả  chỉ  học một tác phẩm), phần chú thích nhiều khi không <br /> đầy đủ, điều đó gây khó khăn cho học sinh khi tiếp cận văn bản văn học  ấy  <br /> (hoặc phong cách sáng tác của tác giả ấy), nhất là đối với thể loại kí nói chung,  <br /> kí hiện đại nói riêng. Trong bài viết này, tôi xin nêu ra một số ý kiến cùng trao  <br /> <br />                                                  3<br /> Người viết: Trương Thị Chanh                                             Giáo viên: Trường THPT Trực <br /> Ninh<br /> đổi với đồng nghiệp về  “Một số  phương pháp dạy tác phẩm ký hiện đại <br /> Việt Nam” trong chương trình Ngữ văn 12 (ban cơ bản)<br /> B; THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI CHỌN ĐỀ TÀI<br /> I; Thuận lợi<br /> ­ Trong sách giáo khoa ngữ  văn 12 (ban cơ  bản), có 2 tác phẩm chính khóa  <br /> thuộc thể loại ký, đó là: “Người lái đò Sông Đà” của tác giả Nguyễn Tuân, “Ai  <br /> đã đặt tên cho dòng sông” của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường. Thông thường <br /> ta vẫn gọi “Người lái đò Sông Đà” của tác giả Nguyễn Tuân là tùy bút, “Ai đã  <br /> đặt tên cho dòng sông” của tác giả  Hoàng Phủ  Ngọc Tường là bút kí. Do vậy <br /> thể  loại kí dùng để  chỉ  chung cho cả  tùy bút và bút kí. Đây là 2 tác phẩm hay  <br /> trong chương trình, hơn nữa thể loại này các em học sinh đã được học ở lớp 11 <br /> “Thượng kinh kí sự” của Lê Hữu Trác, đọc thêm “Vũ trung tùy bút” của Phạm <br /> Đình Hổ. Vì vậy khi tiếp cận với 2 tác phẩm thuộc thể  loại này, các em học  <br /> sinh gặp nhiều thuận lợi trong việc đọc hiểu tác phẩm hơn.<br /> II; Khó khăn<br /> ­ Thực trạng cho thấy nhu cầu xã hội hiện nay, trào lưu học sinh dự thi vào các <br /> trường đại học thường chọn các môn tự  nhiên như  Toán, Lý, Hóa, Sinh (như <br /> học sinh các lớp 12A1,2,3,4 của trường THPT Trực Ninh) nên với môn Ngữ <br /> văn, các em không chú ý đầu tư học tập, không có hứng thú học tập. Vì lý do đó  <br /> thầy cô cũng mất đi niềm say mê truyền đạt kiến thức cho học sinh. Trong các <br /> tác phẩm là truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ thì việc truyền đạt tương đối thoải <br /> mái và các thầy cô cũng có những cảm hứng để  truyền đạt, bởi vì những thể <br /> loại này “chất văn” “chất thơ” phong phú, đã làm cho thầy cô ít nhiều làm tốt  <br /> được công việc của mình. Nhưng riêng đối với tác phẩm văn học viết theo thể <br /> loại kí thì ngược lại. Vì lẽ việc giảng dạy ký đòi hỏi người dạy phải bám chắc <br /> đặc điểm cơ  bản của thể  loại kí, đó là tính xác thực. Tác phẩm kí thường <br /> <br />                                                  4<br /> Người viết: Trương Thị Chanh                                             Giáo viên: Trường THPT Trực <br /> Ninh<br /> không hư  cấu mà tác giả  chỉ  lựa chọn ngay những sự  việc, những con người  <br /> vốn đã có giá trị  nổi bật trong cuộc sống để  phóng bút. Nếu thầy cô chỉ  thỏa <br /> mãn với kiến thức có sẵn trong bài văn thì khó mà giảng hay được, dẫn đến giờ <br /> học bài kí muôn thuở  vẫn khô khan, học sinh khó tiếp nhận được văn bản. Vì  <br /> thế, chúng ta có thể  nói rằng: Giảng dạy một tác phẩm kí là sự  khó khăn, <br /> vất vả, công phu đối với giáo viên.<br /> ­ Cả 2 tác phẩm “Người lái đò Sông Đà” và “Ai đã đặt tên cho dòng sông” là 2 <br /> tác phẩm kí dài, sách giáo khoa đã lược bớt nội dung ở một số đoạn văn, điều <br /> đó lại gây khó cho học sinh khi tiếp cận văn bản. Thời lượng số tiết dạy chính <br /> khóa cho 2 tác phẩm này ít (4 tiết), một số  học sinh chưa quen phương pháp <br /> học mới, nhất là việc tự học, làm việc theo nhóm, thảo luận, thuyết trình, tìm  <br /> tư  liệu  ở  các nguồn, báo chí, intơnet…, một số  học sinh còn thụ  động, thiếu <br /> nhiệt tình, ỷ lại vào các thầy cô…<br /> ­ Từ thuận lợi và khó khăn trên, tôi mạnh dạn đưa ra một vài phương pháp về <br /> việc dạy tác phẩm kí hiện đại Việt Nam trong chương trình Ngữ văn lớp 12, <br /> ban cơ  bản, mà cụ  thể  là 2 tác phẩm “Người lái đò Sông Đà” của tác giả <br /> Nguyễn Tuân, “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của tác giả  Hoàng Phủ  Ngọc <br /> Tường.<br /> C; NỘI DUNG ĐỀ TÀI<br /> I; Cơ sở lý luận<br />   Nghị quyết số 40/2000/QH 10, ngày 09 tháng 12 năm 2000 của Quốc hội khóa  <br /> X đổi mới về  chương trình giáo dục phổ  thông đã khẳng định, mục tiêu của <br /> chương   trình   đổi   mới   giáo   dục   phổ   thông   lần   này   là   “xây   dựng   nội   dung <br /> chương trình, phương pháp giáo dục, sách giáo khoa phổ thông mới, nhằm nâng <br /> cao chất lượng giáo dục toàn diện thế  hệ  trẻ,  đáp  ứng nhu cầu phát triển <br /> nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với  <br /> <br />                                                  5<br /> Người viết: Trương Thị Chanh                                             Giáo viên: Trường THPT Trực <br /> Ninh<br /> thực tiễn và truyền thống Việt Nam, tiếp cận trình độ phổ thông các nước phát  <br /> triển trong khu vực và trên thế  giới” . Văn bản đồng thời yêu cầu “đổi mới  <br /> chương trình giáo dục phổ thông phải quán triệt mục tiêu, yêu cầu về nội dung,  <br /> phương pháp giáo dục của các bậc học, cấp học quy định trong luật giáo dục, <br /> nhằm khắc phục những hạn chế của chương trình, sách giáo khoa; tăng cường <br /> thực tiễn, kỹ năng thực hành, năng lực tự học, coi trọng kiến thức xã hội nhân <br /> văn; bổ  sung những thành tựu khoa học công nghệ  hiện đại, phù hợp với khả <br /> năng tiếp thu của học sinh. Bảo đảm sự  thống nhất kế  thừa và phát triển của  <br /> chương trình giáo dục”. Xét thấy việc đổi mới nội dung, chương trình sách giáo <br /> khoa, phương pháp dạy và học, phải thực hiện đông bộ với việc nâng cấp, đổi <br /> mới trang thiết bị  dạy học, đánh giá, thi cấp, đổi mới trang thiết bị  dạy học,  <br /> đánh giá thi cử. Đứng trước yêu cầu trên, là một giáo viên môn Ngữ văn, tôi có <br /> những suy nghĩ là làm sao để  giờ  học phải   thực sự  hấp dẫn, học sinh nắm  <br /> vững bài học, thỏa mãn nhu cầu tình cảm, tâm hồn, phát triển trí tuệ học sinh,  <br /> biết cảm thụ được cái hay, cái đẹp, giá trị của mỗi tác phẩm văn học. Trên cơ <br /> sở  đó, tôi xin đưa ra một số ý kiến để  cùng chia sẻ, bàn bạc, trao đổi về  việc <br /> dạy tác phẩm kí hiện đại Việt Nam trong chương trình Ngữ  văn 12 (ban cơ <br /> bản), mà cụ  thể  là 2 tái phẩm; đọc hiểu văn bản chính khóa: “Người lái đò <br /> Sông Đà” của nhà văn Nguyễn Tuân và “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của nhà <br /> văn Hoàng Phủ Ngọc Tường.<br /> II; Nội dung và những phương pháp về  việc giảng dạy kí hiện đại Việt <br /> Nam trong chương trình Ngữ văn 12 (ban cơ bản)<br /> 1; Nội dung<br /> 1.1; Khái quát về thể kí<br /> <br /> <br /> <br /> <br />                                                  6<br /> Người viết: Trương Thị Chanh                                             Giáo viên: Trường THPT Trực <br /> Ninh<br />   Kí là một loại văn xuôi tự sự, có nguồn gốc từ kí lịch sử, dùng để ghi chép về <br /> con người, sự  vật, phong cảnh…kí bao gồm nhiều thể  như: Bút kí, hồi kí, du <br /> kí, phóng sự, kí sự, nhật kí, tùy bút…<br />   Trong văn học cổ phương Đông, thể kí vốn có mặt từ thời kỳ tiền Tần và về <br /> sau phân thành 2 nhánh: có kí của sử và kí của truyện. Trong một thời gian khá <br /> dài thì kí là tiền thân của tiểu thuyết, có khi tên gọi kí cũng dùng cho tiểu  <br /> thuyết hay một câu chuyện có kịch tính như Tây du kí, Tây sương kí…<br />      Trong nền văn học Việt Nam, kí có từ  rất lâu đời, nhưng phải đến thế  kỉ <br /> XVII, đặc biệt là từ thế kỷ XIX, khi đời sống các dân tộc ngày càng phát triển  <br /> nâng cao, khi kỹ  nghệ  in  ấn và báo chí phát triển, khi văn học cũng đã thâm <br /> nhập vào các lĩnh vực hoạt động tinh thần khác của xã hội và nhà văn có ý thức <br /> tham gia vào các cuộc đấu tranh xã hội, kí mới thực sự phát triển và là thể loại <br /> phức tạp nhất trong văn xuôi tự sự thời trung đại.<br /> Kí có những đặc trưng cơ bản sau:<br /> ­ Kí viết về cuộc đời thực tại, viết về người thật, việc thật, kí đòi hỏi sự trung <br /> thực, chính xác. Người viết kí thường quan tâm, tôn trọng những sự kiện xã hội  <br /> lịch sử, những vấn đề  nóng bỏng đang đặt ra trong đời sống. Người viết kí <br /> miêu tả thực tại tinh thần của sử học. Mẫu hình tác giả kí gần gũi với nhà sử <br /> học. Tác giả kí coi trọng việc thuật lại có ngọn ngành, có thời gian, địa điểm, <br /> hành động và không bao giờ quên miêu tả khung cảnh gợi không khí.<br /> ­ Tác giả  kí khéo sử  dụng tài liệu đời sống kết hợp với tư  tưởng, cảm thụ,  <br /> nhận xét, đánh giá. Tất nhiên đan xen vào mạch tự  sự  con có những đoạn thể <br /> hiện suy tưởng nhận xét chân thực, tường minh của nhà văn trước sự việc. cái <br /> thú vị của kí là những ý riêng, suy nghĩ riêng của tác giả được đan cài với việc  <br /> tái hiện đối tượng.  Vì vậy sức hấp dẫn của kí là khả năng tái hiện sự thật một  <br /> cách sinh động của tác giả. Kí chấp nhận sự hư cấu, do đó phải dựa vào những  <br /> <br />                                                  7<br /> Người viết: Trương Thị Chanh                                             Giáo viên: Trường THPT Trực <br /> Ninh<br /> liên tưởng, tưởng tượng bất ngờ, tài hoa của tác giả khi phản ánh sự vật, cuộc  <br /> sống. Điều đó làm nên cái đẹp của tác phẩm kí.<br /> ­ Nổi bật lên trong tác phẩm kí chính là chất chủ  quan, chất trữ  tình sâu đậm  <br /> của cái tôi tác giả. Cho nên sức hấp dẫn của kí còn phụ thuộc vào sức hấp dẫn <br /> của cái tôi ấy (thường là những cái tôi phong phú, uyên bác, tài hoa, độc đáo…)<br /> 1.2; Những đặc điểm cơ bản của kí Hoàng Phủ Ngọc Tường<br /> ­ Kí Hoàng Phủ  Ngọc Tường bộc lộ  một trí tuệ  sắc sảo, uyên bác: Nhà văn <br /> hiểu tường tận những gì mà mình viết. Kí Hoàng Phủ Ngọc Tường giàu lượng  <br /> thông tin, đọc tác phẩm của ông, người đọc được tiếp xúc với một kho kiến  <br /> thức phong phú. Nhà văn hiểu sâu sắc về văn hóa, triết học, lịch sử, địa lý, âm <br /> nhạc, điện ảnh, văn chương nghệ thuật…<br /> ­ Kí Hoàng Phủ  Ngọc Tường thiên về  tùy bút. Đọc những trang kí của Hoàng  <br /> Phủ  Ngọc Tường cảm nhận về  thể kí có sự  thay đổi thú vị. Thể  loại chuyên <br /> ghi chép các sự  kiện xác thực qua ngòi bút Hoàng Phủ  Ngọc Tường lại thấm  <br /> đẫm chất trầm tư, trữ tình như: “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, “Hoa trái quanh <br /> tôi”…chính là sản phẩm của một phong cách kí độc đáo, với những trang viết <br /> vừa trí tuệ, vừa nặng trĩu trầm tư.<br /> ­ Kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường có chất tự do, tản mạn. Sự kiện đôi khi chỉ là <br /> cái cớ để nhà văn bộc lộ những cảm xúc, suy nghĩ chủ quan của mình. Cách tổ <br /> chức văn bản mang tính nghệ thuật cao, văn phong giàu chất thơ, hình ảnh gợi <br /> cảm. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là một trong những bút kí mang đậm dấu <br /> ấn phong cách Hoàng Phủ Ngọc Tường.<br /> ­ Xuyên suốt các tác phẩm kí của Hoàng Phủ  Ngọc Tường là lòng yêu quê  <br /> hương đất nước, là tâm huyết với tinh hoa dân tộc. Ông luôn gắn cái đẹp, gắn  <br /> nghệ thuật với những truyền thống văn hóa dân tộc. Những mẩu kí của Hoàng  <br /> Phủ  Ngọc Tường, dù viết về  vùng nào, dù viết về  những năm tháng chiến  <br /> <br />                                                  8<br /> Người viết: Trương Thị Chanh                                             Giáo viên: Trường THPT Trực <br /> Ninh<br /> tranh hay cuộc sống đương đại, đều lấp lánh niềm tự  hào về  những nét đẹp <br /> của quê hương đất nước. Viết về vùng đất Mũi, nhà văn truyền cho người đọc <br /> niềm vui sướng tự  hào về  “món quà tặng của biển cả  dành cho đất nước ta” <br /> (Rừng nước mặn). Viết về  Lạng Sơn bằng những con chữ lóng lánh tài hoa, <br /> nhà văn thổi vào người đọc hương thơm nhẹ  nhàng quyến rũ của cây hồi “nó  <br /> thân thiết và mơ  hồ  như  một kỉ  niệm” (Rừng hồi). Viết về  Huế, Hoàng Phủ <br /> Ngọc Tường lại đưa người đọc về  vùng đất cố  đô trầm mặc, thơ  mộng với <br /> những khu vườn xanh, thiên nhiên xanh, dòng sông xanh (Ai đã đặt tên cho dòng  <br /> sông?).<br /> 1.3; Những đặc điểm cơ bản của tùy bút (kí) Nguyễn Tuân <br /> ­ “Người lái đò Sông Đà” mang đặc điểm phong cách nghệ  thuật của Nguyễn  <br /> Tuân. Nguyễn Tuân là người đã đóng dấu “cái tôi độc tấu” của ông lên thể loại <br /> tùy bút. Ông là nhà văn đem đến cho tùy bút những phẩm chất nghệ thuật mới  <br /> theo cách nói vui vui của ông: Tùy bút là tùy vào bút mà viết, tùy bút của ông có  <br /> những đặc điểm in đậm cá tính sáng tạo và phong cách nghệ thuật của ông. Vì <br /> vậy, khi giảng dạy tác phẩm, thầy cô giáo cần lưu ý một số  đặc điểm sau về <br /> tùy bút của nhà văn:<br /> + Tùy bút của Nguyễn Tuân có nhiều yếu tố  truyện. Nguyễn Tuân bén duyên <br /> với truyện trước, sau đó mới gặp gỡ  với tùy bút. Vì vậy truyện ngắn của ông <br /> xen chất tùy bút và tùy bút lại pha chất truyện ngắn. Tùy bút của ông thường  <br /> phát huy sức mạnh của trí tưởng tượng, liên tưởng, so sánh để  dựng cảnh, <br /> dựng truyện, có mô tả  tâm lý, khắc họa tính cách nhân vật  ở  một chừng mực  <br /> nhất định.<br /> + Tùy bút của Nguyễn Tuân rất đậm chất kí. Ghi chép sự thật và thông tin thời <br /> sự, chính xác, đó là nét riêng của tùy bút Nguyễn Tuân. Cũng do quan niệm đi, <br /> sống và viết, xê dịch nên tùy bút của ông pha chút du kí, kí sự  hay phóng sự <br /> <br />                                                  9<br /> Người viết: Trương Thị Chanh                                             Giáo viên: Trường THPT Trực <br /> Ninh<br /> điều tra. Chính nét riêng này khiến tùy bút của ông có lượng thông tin đáng tin  <br /> cậy và có nhiều giá trị tư liệu.<br /> + Tùy bút của Nguyễn Tuân giàu tính trữ tình. Những trang tùy bút của Nguyễn <br /> Tuân giàu tính cảm xúc, lắng thấm những cảm nghĩ của ông, thông qua cái “tôi” <br /> chủ quan của ông mà phản ánh hiện thực cuộc sống.<br /> + Tùy bút của Nguyễn Tuân đúng nghĩa tự  do về  phép tắc. Tùy bút là một tác  <br /> phẩm tự sự  có kết cấu lỏng lẻo, nhưng không buông tuồng dễ  dãi. Ở  tùy bút <br /> của Nguyễn Tuân, mạch văn cứ  theo dòng suy nghĩ mà tràn chảy miên man từ <br /> truyện nọ tạt sang truyện kia. Nhà văn cứ  theo hứng bút, cứ  nhởn nhơ  theo trí  <br /> nhớ bông lông, theo năng lực cảm thụ cái đẹp rất tài hoa nghệ sĩ của mình mà <br /> liên tưởng so sánh, tạo những bước nhảy vọt bất ngờ của ý tứ, của hình ảnh, <br /> nhưng không chệch ra ngoài vẻ đẹp độc đáo của nghệ thuật.<br /> + Tùy bút của Nguyễn Tuân có phẩm chất văn chương qua sự tìm tòi sáng tạo  <br /> về cách diễn ý, tả cảnh, đặt câu, dùng từ. Văn tùy bút của Nguyễn Tuân là cả <br /> một kho tu từ đầy ắp và thú vị những ví von, ẩn dụ, hoán dụ, tượng trưng. Nhà <br /> văn tả cảnh theo sự thay đổi cảm giác rất tinh tế “Bờ sông hoang dại như một <br /> bờ tiền sử…hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích thuở xưa” (Người lái đò Sông <br /> Đà). Câu văn tùy bút của Nguyễn Tuân có kiến trúc đa dạng, giàu nhạc tính.<br /> + Tùy bút của Nguyễn Tuân là sự  kết tinh tài hoa và uyên bác, khi tập trung  <br /> miêu tả con Sông Đà bằng sự huy động vốn liếng tri thức chuyên môn cực kỳ <br /> giàu có của nhiều ngành văn hóa nghệ thuật khác nhau (sử học, địa lí học, quân  <br /> sự, tri thức về  võ thuật, nghệ  thuật văn chương, hội họa, điêu khắc âm nhạc, <br /> điện  ảnh…). Và một khi đã miêu tả  thì ông tả  đến cùng sự  vật hiện tượng,  <br /> đúng là tả đến “Sơn cùng thủy tận”, uống rượu cả cấn “Dĩ tận vi độ”.<br /> * Những đặc trưng cơ  bản trên đây của các tác phẩm kí sẽ  là điểm tựa cho <br /> thầy cô giáo trong việc giảng dạy tác phẩm kí hiện đại Việt Nam. <br /> <br />                                                  10<br /> Người viết: Trương Thị Chanh                                             Giáo viên: Trường THPT Trực <br /> Ninh<br /> 2; Một số  phương pháp về  việc giảng dạy kí hiện đại Việt Nam trong <br /> chương trình Ngữ  văn 12  (ban cơ  bản) qua 2 tác phẩm “Người lái đò Sông <br /> Đà” của nhà văn Nguyễn Tuân và “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của tác giả <br /> Hoàng Phủ Ngọc Tường.<br /> 2.1; Về phương pháp<br />   Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh là những bạn đọc còn hạn chế  về  vốn <br /> sống, kinh nghiệm thực tế nhưng lại có khả năng rung động và có cảm xúc đặc <br /> biệt với tác phẩm văn học. Vì vậy vai trò của thầy cô giáo là phải bổ sung, bồi <br /> dưỡng vốn sống, phát triển các năng lực cảm thụ  cho học sinh và hướng dẫn  <br /> họ  đến với tác phẩm văn học một cách đúng nhất, gần nhất. Để  làm được <br /> nhiệm vụ  cao quý và nặng nề  này, thầy cô giáo cần có những phương pháp  <br /> thích hợp, đồng thời phải biết cách sử  dụng phối hợp các phương pháp phân <br /> tích tác phẩm một cách nhuần nhuyễn nhất, nhằm giúp học sinh vừa nắm bắt <br /> tri thức, vừa nắm bắt phương pháp học tập nghiên cứu.<br /> 2.1.1; Dạy học tác phẩm theo đặc trưng thể loại.<br />   Chú ý đến đặc trưng của thể loại vừa là một yêu cầu vừa là một nguyên tắc <br /> của quá trình phân tích và giảng dạy tác phẩm văn học. Với thể  loại kí, việc <br /> tìm hiểu đặc trưng thể loại lại càng có ý nghĩa quan trọng hơn. Nắm vững và  <br /> bám sát vào đặc trưng của thể kí, người đọc sẽ khám phá được cái hay, cái đẹp <br /> của tác phẩm. Qua thực tế giảng dạy, tôi rút ra một số kinh nghiệm cơ bản khi  <br /> dạy 2 tác phẩm “Người lái đò Sông Đà” của nhà văn Nguyễn Tuân và “Ai đã <br /> đặt tên cho dòng sông” của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường như sau:<br /> 2.1.1.1; Cho học sinh phát hiện ra nét tương đồng và khác biệt của đối <br /> tượng được tác giả phản ánh trong 2 tác phẩm kí so với đối tượng tương  <br /> <br /> <br /> <br /> <br />                                                  11<br /> Người viết: Trương Thị Chanh                                             Giáo viên: Trường THPT Trực <br /> Ninh<br /> tự có thật ở ngoài đời. Vì kí viết về sự thật, người thật, việc thật nên đòi hỏi  <br /> phải chính xác, trung thực. Việc này là rất cần thiết.<br /> ­ Sông Đà và sông Hương khi đi vào 2 tác phẩm của Nguyễn Tuân và Hoàng <br /> Phủ  Ngọc Tường đã trở  thành đối tượng thẩm mỹ  của nhà văn. Con sông Đà <br /> nếu chỉ  được Nguyễn Tuân ghi chép bằng những số  liệu đơn thuần như  một  <br /> nhà địa lý (tên khai sinh, độ dài…) thì cái phần hồn hung bạo và thơ mộng của <br /> nó sẽ  không được phát hiện. Dòng sông Hương của xứ  Huế  thơ  mộng cũng  <br /> vậy. Nếu Hoàng Phủ  Ngọc Tường chỉ  ghi lại các khúc đoạn trong dòng chảy <br /> của nó từ thượng nguồn về với Huế không thôi thì sẽ không có gì hấp dẫn, mà  <br /> cái hấp dẫn chính là  ở  chỗ  tác giả  tưởng tượng sông Hương như  một con <br /> người có số phận, có tâm hồn (cô gái Digan) có hành động cụ thể dưới những <br /> điểm nhìn khám phá khác nhau. Khi thì sông Hương như một cô gái mang trong <br /> mình tình yêu tha thiết với thành phố  Huế, khi lại là một người mẹ  sản sinh  <br /> cho xứ Huế những giá trị văn hóa truyền thống cùng âm nhạc, thi ca, khi lại là <br /> một nhận chứng của lịch sử đầy oai hùng hiển hách.<br /> 2.1.1.2; Học sinh phát hiện và đánh giá óc quan sát, trí liên tưởng, tưởng  <br /> tượng năng lực sử dụng ngôn ngữ của 2 nhà văn. <br />   Sức hấp dẫn của kí chính là ở  khả  năng tái hiện sự  thật một cách sinh động <br /> của tác giả. Nếu chỉ  đơn thuần là ghi chép thì tác phẩm kí hết sức khô khan <br /> không gây được  ấn tượng với người đọc.  Ở  đây Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ <br /> Ngọc  Tường   đều  rất   “tài   hoa”,  luôn  nhìn  cuộc  sống,  sự  vật,  con  người   ở <br /> phương diện, góc độ văn hóa thẩm mỹ, nên phát hiện ra nhiều vẻ đẹp của hiện  <br /> thực cuộc sống. Đồng thời cả  2 nhà văn cũng rất “uyên bác”: hiểu biết sâu  <br /> rộng nhiều lĩnh vực, nhiều ngành và có thể  cung cấp, đóng góp, lí giải những <br /> kiến thức đó cho người khác.<br /> ­ Với tác phẩm “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân<br /> <br />                                                  12<br /> Người viết: Trương Thị Chanh                                             Giáo viên: Trường THPT Trực <br /> Ninh<br /> + Khi khám phá vẻ đẹp hung bạo của con sông, Nguyễn Tuân đã vận dụng tri  <br /> thức của nhiều ngành để  miêu tả  tính cách của con sông mà ông gọi là “loài <br /> thủy quái khổng lồ” là “kẻ  thù số  một” của con người. Nhà văn đã huy động <br /> vốn kiến thức của điện  ảnh, hội họa, kiến trúc, điêu khắc, thậm chí cả  lĩnh <br /> vực quân sự, võ thuật, thể  thao để  miêu tả  thác nước, hút nước và những hòn <br /> đá, tảng đá trên sông Đà mà nó đã bày sẵn những thạch trận trên sông nước để <br /> chờ “ăn chết cái thuyền nào qua đấy”.<br />   Như vậy, nhờ vào khả năng sử  dụng ngôn ngữ liên ngành và trí tưởng tượng <br /> tài hoa của tác giả, học sinh vừa hiểu được đặc điểm thực của sông Đà, vừa bị <br /> cuốn hút vào tài năng miêu tả của Nguyễn Tuân.<br /> + Khi khám phá vẻ  thơ  mộng, trữ  tình của con sông, lại cần phát hiện ra sự <br /> thay đổi, di chuyển điểm nhìn và cách miêu tả. Dòng sông  ấy được  chiêm <br /> ngưỡng từ trên cao nhìn xuống. Hình dáng con sông Đà được ví như  một “sợi  <br /> dây thừng ngoằn ngoèo” và dễ thương, đáng yêu biết bao, qua phép so sánh liên <br /> tưởng độc đáo “sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ  tình”. Đó là cái  <br /> dáng mềm mại nên thơ  như  một người phụ  nữ  kiều diễm  đang làm duyên <br /> trước trùng điệp thiên nhiên Tây Bắc…sông Đà không còn là kẻ  thù của con <br /> người nữa mà đã là một “cố  nhân, tình nhân” đầy nỗi niềm lâu ngày gặp lại. <br /> Cảm nhận sông Đà ở vẻ đẹp trữ tình, nhà văn còn quan sát nước sông Đà thay  <br /> đổi theo mùa, của bờ bãi hoang sơ, của mặt nước lặng yên như tờ, hay của đàn <br /> hươu thơ ngộ ngẩng đầu ngốn búp cỏ non.<br /> + Với hình tượng ông lái đò: Nhân vật này không được khắc họa thành số phận  <br /> như  trong tác phẩm tự sự. Thực ra đó chỉ  là một khoảnh khắc trên sông nước  <br /> để  qua đó Nguyễn Tuân tôn vinh con người lao động trong thời kỳ  mới – thời <br /> kỳ miền Bắc xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Để chứng minh tài nghệ của ông đò, <br /> tác giả đã hư cấu một cuộc vượt thác sông Đà có một không hai để thấy được  <br /> <br />                                                  13<br /> Người viết: Trương Thị Chanh                                             Giáo viên: Trường THPT Trực <br /> Ninh<br /> “tay lái ra hoa” của một người nghệ sĩ có tâm hồn cao thượng, một phong thái <br /> ung dung tự tại, một trí thông minh lão luyện và lòng dũng cảm được tôi luyện <br /> trong lao động và chiến đấu. Viết ông lái đò cũng là cách Nguyễn Tuân tôn vinh <br /> vẻ  đẹp của con người lao động bình thường, giản dị  nhưng phi thường trong  <br /> nghề nghiệp, đó là chất “vàng mười” mà Nguyễn Tuân suốt đời đi tìm cái đẹp <br /> đó.<br /> ­ Với tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường <br /> Ở Hoàng Phủ Ngọc Tường, ông huy động nguồn tri thức phong phú thuộc các <br /> lĩnh vực địa lí, lịch sử, văn hóa để xây dựng một hình tượng sông Hương.<br /> + Vẻ  đẹp thiên nhiên của sông Hương là kết quả  của những tri thức địa lí và  <br /> khả năng quan sát sắc sảo của người trần thuật.<br /> •  Ở thượng nguồn: Sông Hương mang vẻ  đẹp hùng vĩ “chảy rầm rộ…”, sông <br /> Hương “phóng khoáng và man dại” như một con người có “bản lĩnh gan dạ…”<br /> • Ra khỏi đại ngàn, sông Hương chuyển dòng, sông Hương giấu kín cuộc hành <br /> trình gian truân giữa lòng Trường Sơn, nhà văn đã sử dụng biện pháp nhân hóa  <br /> để biến sông Hương từ một cô gái Digan thành “người gái đẹp nằm mơ màng <br /> giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại…”<br /> • Ra khỏi vùng núi, sông Hương trở nên dịu dàng “uốn mình theo những đường  <br /> cong thật mềm”… “dòng sông mềm như tấm lụa…” ở chặng này, sông Hương <br /> trở thành “người mẹ phù sa” mang “vẻ đẹp dịu dàng và trí tuệ”.<br /> • Giữa lòng thành phố Huế, dòng sông trở nên tĩnh lặng, trôi thật chậm in bóng  <br /> cầu Tràng Tiền trông “nhỏ  nhắn như  những vành trăng non” “uốn một cánh <br /> cung rất nhẹ”. Dòng sông như “vui tươi hẳn lên” và đặc biệt chậm rãi, êm dịu <br /> mềm mại…dòng sông như “một tiếng vâng không nói ra của tình yêu”.<br /> • Trước khi rời khỏi thành phố thân yêu, sông Hương lưu luyến mà nhà văn đã <br /> ví sự  “dùng dằng” của sông Hương như  nàng Kiều “chí tình trở  lại tìm Kim  <br /> <br />                                                  14<br /> Người viết: Trương Thị Chanh                                             Giáo viên: Trường THPT Trực <br /> Ninh<br /> Trọng của nó, để nói một lời thề trước khi về biển cả”. Đây đúng là một phát <br /> hiện, một liên tưởng thú vị, độc đáo và đậm màu sắc văn chương của tác giả <br /> về dòng sông thân thương của xứ Huế.<br /> + Từ góc nhìn văn hóa: <br />    Vẻ  đẹp văn hóa của sông Hương là kết quả  của những tri thức văn hóa về <br /> một thành phố, từng là cố  đô. Sông Hương tự  bản thân nó đã mang những <br /> phẩm chất văn hóa độc đáo. Nhà văn có sự  liên tưởng độc đáo khi cho rằng  <br /> toàn bộ  nền âm nhạc cổ  điển Huế  được sinh thành trên mặt nước dòng sông <br /> này. Và hơn hết dòng sông thi ca và âm nhạc  ấy là nguồn cảm hứng bất tận  <br /> của nghệ thuật. Sông Hương không bao giờ tự lặp lại trong cảm hứng của các  <br /> nghệ sĩ.<br /> + Từ góc nhìn lịch sử:<br />   Vẻ đẹp lịch sử của sông Hương là kết quả của những tri thức về lịch sử, sông  <br /> Hương gắn với lịch sử anh hùng của xứ Huế, của đất nước…sông Hương gắn  <br /> với dòng sông thiêng Linh Giang oai hùng một thuở, gắn với thế kỷ XVIII với  <br /> người anh hùng áo vải Quang Trung, gắn với cách mạng tháng Tám hào hùng bi <br /> tráng, gắn với Mậu Thân rung chuyển cả miền Nam. Sông Hương là một minh  <br /> chứng của lịch sử từ thời cổ đại, qua trung đại đến hiện đại.<br /> * Thế  đấy, sông Hương của Hoàng Phủ  Ngọc Tường không đơn thuần chỉ  là  <br /> một dòng chảy của quê hương, nó còn là dòng sông của lịch sử, của văn hóa, <br /> của tình yêu Huế và con người nơi đây.<br /> 2.1.1.3; Học sinh phát hiện được đặc điểm của “cái tôi” tác giả trong mỗi  <br /> bài kí.<br />    Nổi bật lên trong tác phẩm kí chính là tính chủ  quan, chất trữ  tình sâu đậm <br /> của cái tôi tác giả. Cho nên sức hấp dẫn của kí còn phụ thuộc vào sức hấp dẫn <br /> của cái tôi ấy (thường là những cái tôi phong phú, uyên bác, tài hoa, độc đáo)<br /> <br />                                                  15<br /> Người viết: Trương Thị Chanh                                             Giáo viên: Trường THPT Trực <br /> Ninh<br /> ­ “Cái tôi” của Nguyễn Tuân trong “Người lái đò sông Đà”.<br />   Sở dĩ Nguyễn Tuân tìm đến và thành công với thể tùy bút, bởi vì nó là thể văn  <br /> phóng túng, tự  do, đáp  ứng được cá tính “ngông” trên trang viết của Nguyễn <br /> Tuân. Là nhà văn có phong cách nghệ  thuật đặc sắc Nguyễn Tuân hấp dẫn <br /> người đọc bởi “cái tôi” độc đáo, sự  tài hoa, uyên bác, giác quan sắc nhọn, tinh  <br /> tế, nghệ  thuật sử  dụng ngôn từ  điêu luyện, giàu hình  ảnh, cảm xúc. Sức hấp <br /> dẫn của ngòi bút Nguyễn Tuân trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là ở sự <br /> độc đáo, sự giàu có về chữ nghĩa, sự công phu trong quan sát và lựa chọn ngôn <br /> từ…<br /> + Đó là một cái tôi tài hoa: Luôn nhình cuộc sống, sự vật, con người  ở phương  <br /> diện, góc độ văn hóa thẩm mỹ nên phát hiện ra nhiều vẻ đẹp hùng vĩ và mỹ lệ <br /> của thiên nhiên, đất nước. Với đôi mắt của nhà văn suốt đời “duy mĩ”, Nguyễn  <br /> Tuân đã nhìn sông Đà  ở  góc độ  thẩm mỹ  để  phát hiện ra vẻ  đẹp trữ  tình của  <br /> con sông: Sông Đà được ông ví như một người con gái đẹp kiều diễm với “áng <br /> tóc mun ngàn ngàn vạn vạn sải” với màu sắc của nước sông Đà thay đổi theo <br /> mùa, sông Đà gợi cảm, sông Đà “hoang dại như  một bờ  tiền sử, bờ sông hồn  <br /> nhiên như  một nỗi niềm cổ  tích tuổi xưa”. Không chỉ  nhìn cảnh vật  ở  điểm  <br /> nhìn văn hóa thẩm mỹ, Nguyễn Tuân còn nhìn người lái đò ở góc độ nghệ sĩ để <br /> phát hiện ra tài năng trong nghệ  thuật vượt thác leo ghềnh, khi đã nắm chắc <br /> được “binh pháp” của thần sông, thần đá “thuộc lòng các luồng sinh tử” của  <br /> các con thác dữ  nên chủ  động trong mọi tình huống, có thể  lái con thuyền vút  <br /> vút qua hàng trăm ghềnh đá ngổn ngang hiểm hóc và Nguyễn Tuân đã gọi đó là <br /> “tay lái ra hoa” của một người nghệ sĩ có tâm hồn cao thượng, một phong thái <br /> ung dung, tự tại, một trí thông minh lão luyện và lòng dũng cảm được tôi luyện  <br /> trong lao động và chiến đấu.<br /> <br /> <br /> <br />                                                  16<br /> Người viết: Trương Thị Chanh                                             Giáo viên: Trường THPT Trực <br /> Ninh<br /> + Ở Nguyễn Tuân còn là một cái tôi “uyên bác”: “Uyên bác” là sự hiểu biết sâu  <br /> rộng nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghệ  thuật và có thể  cung cấp, đóng góp, lý <br /> giải những kiến thức đó cho người khác.<br /> • Trong tác phẩm ông hay vận dụng những tri thức của rất nhiều ngành nghệ <br /> thuật, thậm chí cả những ngành không liên quan gì đến nghệ thuật để miêu tả,  <br /> khám phá hiện thực. Nó có tác dụng làm cho người đọc nhìn nhận hiện thực ở <br /> nhiều góc độ  và cung cấp cho người đọc một lượng thông tin hết sức phong  <br /> phú ngoài văn chương.<br /> • Chẳng hạn, ông mô tả cái hút nước khủng khiếp của sông Đà bằng kỹ thuật  <br /> phim  ảnh “tôi sợ  hãi mà nghĩ đến một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn  <br /> truyền cảm giác lạ cho khán giả…” nhà văn còn sử dụng tri thức của quân sự,  <br /> võ thuật để miêu tả nước, đá ở sông Đà: Nào là cửa sinh, của tử, đánh khuýp vu <br /> hồi, đánh du kích, phục kích, đánh giáp lá cà, nào là đòn tỉa, đòn âm, đá trái, thúc <br /> gối, túm thắt lưng…<br /> • Ngoài ra nhà văn còn vận dụng những tri thức của nhiều bộ  môn khoa học  <br /> trong tác phẩm của mình, một vốn văn hóa phong phú, lịch lãm hiếm thấy, làm <br /> cho bài tùy bút của ông có giá trị văn hóa cao. Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” <br /> đã giúp người đọc hiểu được rất nhiều điều bổ  ích về  lịch sử, địa lí sông Đà, <br /> về lịch sử cách mạng xung quanh con sông này, về địa hình địa thế  của nó, về <br /> những con thác đủ  loại, về  các tài nguyên đất nước vùng sông Đà, về  những  <br /> bài thơ của Nguyễn Quang Bích, Tản Đà…về con sông miền Tây của Tổ quốc <br /> này.<br /> * Ở “Người lái đò sông Đà”, lâu nay người ta chỉ quen thấy một cái tôi tài hoa, <br /> uyên bác. Nhưng rõ ràng thông qua cái tôi  ấy, người đọc còn nhận thấy được  <br /> tác phẩm còn là cảm hứng ngợi ca đầy say mê của một con người yêu tha thiết <br /> <br /> <br /> <br />                                                  17<br /> Người viết: Trương Thị Chanh                                             Giáo viên: Trường THPT Trực <br /> Ninh<br /> vẻ  đẹp của thiên nhiên, đất nước, con người như  Nguyễn Tuân – suốt đời đi <br /> tìm cái đẹp, cái đẹp của một cây bút tài hoa độc đáo...<br /> ­ “Cái tôi” trong “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” của Hoàng Phủ Ngọc Tường <br /> + Cái tôi say mê kiếm tìm cái đẹp, dạt dào cảm xúc và luôn gắn bó với thiên  <br /> nhiên.<br /> • Trong kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”, cái tôi tác giả gắn kết, hòa nhập thật  <br /> sự với sông nước, trời mây, cây cỏ, ngàn thông. Những trang kí của Hoàng Phủ <br /> Ngọc Tường mang đến cho người đọc những miền không gian xanh thắm,  ẩn <br /> chìm những viết trầm tích văn hóa từ thiên nhiên. Sự  hòa nhập với thiên nhiên <br /> khiến nhà văn đã viết lên những trang văn vừa giàu lượng thông tin, vừa mượt <br /> mà, đẹp như một bài thơ.<br /> • Thiên nhiên trong kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường chính là phiên bản tâm hồn <br /> của nhà văn. Sông Hương trong thơ ông không chỉ là biểu tượng của thiên nhiên <br /> thuần khiết mà còn lấp lánh chất nhân văn của một triết lí sống. Cái tôi có lúc  <br /> thoát hẳn sự ràng buộc của bản thể để hoà nhập vào sông nước.<br /> • Cảm xúc vô cùng phong phú, có khi nó được bộc lộ  trực tiếp với các trạng <br /> thái nội tâm: vừa thích thú, vừa lãng đãng, miên man trong vẻ  đẹp của dòng <br /> sông đang đổi sắc không ngừng “sớm xanh, trưa vàng, chiều tím” hay cái điệu <br /> chảy “như  một điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế” trong trăm nghìn ánh <br /> hoa đăng…có khi cảm xúc yêu thương da diết với xứ Huế lại được bộc lộ dán <br /> tiếp trong cuộc hành trình lặng lẽ với rất nhiều những tìm kiếm và phát hiện: <br /> ngỡ ngàng nhận ra điểm tương đồng giữa con sông và con người ở “nỗi vương  <br /> vấn và chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”, đồng thời cùng hoài niệm đến khắc <br /> khoải khi phát hiện ra một sắc màu xưa cũ của chiếc áo cưới ở Huế ngày xưa, <br /> rất  xưa “màu áo lục điều…”<br /> <br /> <br /> <br />                                                  18<br /> Người viết: Trương Thị Chanh                                             Giáo viên: Trường THPT Trực <br /> Ninh<br /> • Rõ ràng Hoàng Phủ  Ngọc Tường đã đem tình yêu đằm thắm lắng sâu và  <br /> những cảm xúc sôi nổi say sưa phổ  vào trang viết để  rồi mỗi dòng văn như <br /> một nốt nhạc, bản đàn để tôn vinh vẻ đẹp của sông Hương.<br /> + Cái tôi yêu quê hương đất nước hướng về cội nguồn: “Ai đã đặt tên cho dòng  <br /> sông?” là một bài ca, ca ngợi sông Hương gắn với thiên nhiên văn hóa và con <br /> người xứ  Huế. Bằng tấm lòng yêu thương gắn bó với quê hương đất nước,  <br /> Hoàng Phủ Ngọc Tường đã trân trọng, tự hào về bề dày lịch sử, bề dày văn hóa <br /> và tâm hòn con người  ở  vùng đất cố  đô. Phải yêu sông Hương lắm, nhà văn <br /> mới xem sông Hương như một cô gái thùy mị mà đa tài, như: “một tài nữ đánh <br /> đàn lúc đêm khuya”. Phải yêu sông Hương lắm nhà văn mới nhìn thấy dòng <br /> sông như  một cô gái đa tình, kín đáo và một chút lẳng lơ, duyên dáng chung <br /> tình. Phải yêu dòng sông này lắm nhà văn mới cứ băn khoăn trăn trở “Ai đã đặt <br /> tên cho dòng sông?”, và để  trả  lời cho câu hỏi này Hoàng Phủ  Ngọc Tường <br /> mượn một câu chuyện huyền thoại đẹp khép lại trang kí, tô đậm thêm vẻ  đẹp <br /> lấp lánh của dòng sông Hương, đồng thời bộc lộ  cái tôi nồng cháy suy tư  “có <br /> nhiều cách trả lời câu hỏi ấy. Trong đó tôi thích nhất một huyền thoại kể rằng  <br /> vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương, con người hai bên bờ  đã nấu  <br /> nước trăm loài hoa đổ  xuống lòng sông, để  làm nước thơm tho mãi…”, “Ai đã  <br /> đặt tên cho dòng sông?”câu hỏi bâng khuâng khơi gợi sự kiếm tìm cái đẹp tiềm  <br /> ẩn trong sông Hương và thiên nhiên, con người xứ Huế.<br /> • Hoàng Phủ Ngọc Tường miêu tả sông Hương và không gian Huế với tình yêu  <br /> nồng thắm, với trái tim thi sĩ đa cảm, đồng thời bằng con mắt của một thi sĩ <br /> tinh tường. Nhà thơ Ra­xun Ham­đa­tốp đã từng bình luận: “Nếu nhà thơ không <br /> tham gia vào việc hoàn thành thế  giới, thì thế  giới đã không được đẹp đẽ  như <br /> thế này”. Bằng những trang viết tài hoa, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã góp phần  <br /> tạo nên một thế giới đẹp và thơ.<br /> <br />                                                  19<br /> Người viết: Trương Thị Chanh                                             Giáo viên: Trường THPT Trực <br /> Ninh<br /> + Một cái tôi tài hoa uyên bác<br />   Hoàng Phủ Ngọc Tường tỏ ra am hiểu tường tận những gì mình viết. Với xứ <br /> Huế  dường như  nhà văn hiểu sâu sắc những cành cây ngọn cỏ, tường tận từ <br /> tên đất, tên làng. Với sông Hương, nhà văn thông thuộc từng khúc sông, từng <br /> dòng nước, chỗ  ghềnh thác cuộn xoáy, chỗ  phẳng lặng như  mặt hồ  yên tĩnh.  <br /> Nhà văn am hiểu sâu sắc về  văn hóa Huế, nền âm nhạc cổ  điển hay những  <br /> trang thơ về  sông Hương. Vốn kiến thức uyên bác ở  nhiều lĩnh vực, đó là kết  <br /> quả  của một chuyến đi và một trí nhớ  “phi thường”. Bằng những hiểu biết  <br /> phong phú, nhà văn cung cấp cho người đọc một lượng thông tin lớn về địa lý, <br /> dòng chảy của sông Hương, về  lịch sử, về  văn hóa, về  văn học nghệ  thuật.  <br /> Bằng những con chữ  lóng lánh tài hoa Hoàng Phủ  Ngọc Tường đã góp phần <br /> làm nổi bật dòng sông, thiên nhiên cũng như  con người Huế. Cái tôi  ấy thật <br /> giàu tình cảm, say mê cái đẹp của cảnh cũng như  con người xứ  Huế: Tất cả <br /> những phát hiện về  vẻ  đẹp của sông Hương, xét đến cùng bắt nguồn từ  tình  <br /> cảm thiết tha đến đắm say của tác giả đối với cảnh và con người xứ Huế. Nếu <br /> không có tình yêu với xứ Huế thì không thể có những trang văn hay và đẹp đến  <br /> thế về xứ Huế.<br /> * Như  vậy, những dòng sông quê hương chảy về  trong tâm tưởng ta qua ngòi  <br /> bút và tâm hồn nhà văn, giúp ta yêu hơn những dòng sông đất Việt. Điều mà <br /> chúng ta thấy sở  dĩ họ  có những điển chung trong việc mang  đến hai hình <br /> tượng nghệ thuật đặc sắc ấy là: Cả hai nhà văn đều là người có tài, rất mực tài  <br /> hoa uyên bác. Đều là những con người có tâm, là những trí thức giàu lòng yêu <br /> nước và tinh thần dân tộc. Đều là những nhà văn có phong cách nghệ thuật độc <br /> đáo, do đó tìm đến với những thể tùy bút, bút kí như một sự thỏa mãn với tình <br /> yêu lớn, mà chỉ  có những thể  loại  ấy mới chuyên chở  được tình yêu của họ.  <br /> Tuy nhiên, mỗi nhà văn lại có ý thức cá nhân sâu sắc, có cá tính sáng tạo riêng, <br /> <br />                                                  20<br /> Người viết: Trương Thị Chanh                                             Giáo viên: Trường THPT Trực <br /> Ninh<br /> Nguyễn Tuân thiên về  lối duy mỹ, cảm giác mạnh, Hoàng Phủ  Ngọc Tường  <br /> thiên về  tự  sự  trữ  tình, cảm xúc nồng nàn yêu thương. Đó cũng chính là quy <br /> luật tất yếu của sáng tạo nghệ thuật.<br /> * Phải xuất phát từ  đặc trưng thể  loại, đó là một nguyên tắc cơ  bản của quá <br /> trình cảm thụ  và bình giá tác phẩm văn chương. Điều mà chắc chắn ai cũng <br /> biết. Hơn nữa với thể loại bút kí, chất trữ tình bao giờ cũng chiếm ưu thế của <br /> người viết, nên khi dạy tác phẩm kí thầy cô giáo phải tạo được tình huống <br /> nhiều hơn để  khơi gợi cho học sinh sự  đồng điệu, ngưỡng vọng trước cái tôi  <br /> giàu cảm xúc, tinh tế, chân thành của người nghệ sĩ. Những tình cảm cao đẹp  <br /> đối với quê hương xứ  sở  chắc chắn sẽ  có điêu kiện nảy sinh, góp phần vào <br /> việc hoàn thiện nhân cách học sinh và học sinh cũng có điều kiện hơn để  rèn  <br /> luyện tư duy văn học theo đặc trưng thể loại.<br /> 2.1.2; Rèn luyện phương pháp đọc hiểu cho học sinh<br />    Môn Ngữ  văn được coi là môn học công cụ, môn học bắt buộc  ở  cả  3 cấp  <br /> học, hướng tới việc hình thành phát triển năng lực đọc, viết tiếng Việt (năng  <br /> lực tiếp nhận và xử  lý thông tin, năng lực cảm thụ  thẩm mỹ, năng lực trình  <br /> bày, năng lực tạo lập các loại văn bản cần thiết trong cuộc sống). Dạy học đọc <br /> hiểu là một trong những nội dung cơ  bản của đổi mới phương pháp dạy học  <br /> Ngữ văn trong tiếp nhận văn bản. Nếu như trước đây chúng ta coi phân tích tác  <br /> phẩm hay giảng văn là một phương pháp đặc thù của dạy văn, thì hiện nay đã  <br /> có những  thay đổi trong cách tiếp cận này. Hướng  dẫn học sinh  đọc hiểu  <br /> không có nghĩa là nhằm cảm thụ một chiều cho học sinh những cảm nhận của  <br /> giáo viên về văn bản được học mà hướng dẫn cung cấp cho học sinh cách đọc, <br /> cách tiếp cận, khám phá những vấn đề về nội dung và nghệ thuật của văn bản,  <br /> từ đó hình thành cho học sinh năng lực tự đọc một cách tích cực, chủ động, có <br /> sắc thái cá nhân. Hoạt động đọc hiểu của học sinh cần được thực hiện theo  <br /> <br />                                                  21<br /> Người viết: Trương Thị Chanh                                             Giáo viên: Trường THPT Trực <br /> Ninh<br /> một trình tự từ dễ đến khó, từ thấp đến cao, từ đọc đúng, đọc thông, đến đọc  <br /> hiểu, từ đọc tái hiện sang đọc sáng tạo. Khi hình thành năng lực đọc hiểu của  <br /> học sinh cũng chính là hình thành năng lực cảm thụ  thẩm mỹ, khơi gợi liên  <br /> tưởng, tưởng tượng và tư duy. <br />   Trong quá trình đọc hiểu học sinh cần thực hiện các nội dung cơ bản sau:<br /> ­ Huy động vốn kiến thức và kinh nghiệm của bản thân – là những hiểu biết  <br /> về chủ đề hay hiểu biết về các vấn đề văn hóa xã hội có liên quan đến chủ đề,  <br /> thể loại của văn bản.<br /> ­ Thể hiện những hiểu biết về văn bản<br /> + Tìm kiếm thông tin, đọc lướt để tìm ý chính, đọc kỹ tìm các chi tiết<br /> + Giải thích, cắt nghĩa, phân loại, so sánh, phân tích, kết nối, tổng hợp…thông  <br /> tin để tạo nên hiểu biết chung về văn bản.<br /> + Phản hồi và đánh giá thông tin trong văn bản <br /> ­ Vận dụng những hiểu biết về văn bản đã đọc hiểu vào việc đọc các loại văn <br /> bản khác nhau, sẵn sang thực hiện các nhiệm vụ  học tập, các nhiệm vụ  trong <br /> đời sống yêu cầu dùng đến hoạt động đọc hiểu.<br /> + Đọc các văn bản khác (ngoài chương trình, sách giáo khoa) có cùng đề  tài/ <br /> chủ  đề  hoặc hình thức để  thực hiện củng cố  hiểu biết và rèn luyện kỹ  năng <br /> đọc hiểu.<br /> + Trình bày những giải pháp để  giải quyết một vấn đề  cụ  thể  từ  việc vận  <br /> dụng những hiểu biết về văn bản đã đọc hiểu.<br /> ­ Đọc tác phẩm “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân<br />    Học sinh cần làm nổi bật được: <br /> + Đề tài: Viết về dòng sông quê hương Việt Nam<br /> + Thể  loại: Tùy bút (bút kí) có cấu trúc tự  do phóng túng, hầu như  không có <br /> luật lệ, quy phạm gì chặt chẽ, câu thúc bởi cốt truyện cụ  thể  nào…Tùy bút  <br /> <br />                                                  22<br /> Người viết: Trương Thị Chanh                                             Giáo viên: Trường THPT Trực <br /> Ninh<br /> mang tính chất chủ  quan, chất trữ  tình rất đậm, nhân vật chính là cái tôi của  <br /> nhà văn, bộc lộ cảm xúc suy tư và nhận thức đánh giá của mình về  con người  <br /> và cuộc sống hiện tại. Ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu chất thơ.<br /> + Cảm hứng sáng tạo<br /> • Nguyễn Tuân đề từ cho tác phẩm: <br /> “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”<br />                                                                            (Wladyslow  Broniewski)<br /> “Chúng thủy giai Đông tẩu<br /> Đà giang độc Bắc lưu”<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1