Sự chấp nhận của cộng đồng đối với việc hiến, ghép mô, bộ phận cơ thể người sau 7 năm triển khai luật
lượt xem 2
download
Bài viết Sự chấp nhận của cộng đồng đối với việc hiến, ghép mô, bộ phận cơ thể người sau 7 năm triển khai luật mô tả sự chấp nhận của cộng đồng đối với việc hiến ghép mô, BPCT người và chỉ ra các yếu tố nhân khẩu, xã hội nào là yếu tố có liên quan/ảnh hưởng.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sự chấp nhận của cộng đồng đối với việc hiến, ghép mô, bộ phận cơ thể người sau 7 năm triển khai luật
- Sè 20/2017 SỰ CHẤP NHẬN CỦA CỘNG ĐỒNG ĐỐI VỚI VIỆC HIẾN, GHÉP MÔ, BỘ PHẬN CƠ THỂ NGƯỜI SAU 7 NĂM TRIỂN KHAI LUẬT Phan Hồng Vân41, Vũ Thị Minh Hạnh42, Vũ Thị Mai Anh43, Vũ Mạnh Cường44 TÓM TẮT Ghép mô, bộ phận cơ thể người (BPCT) là phương pháp điều trị hiệu quả nhất cứu sống các bệnh nhân hỏng mô, BPCT không hồi phục, tuy nhiên khó khăn lớn nhất của ngành ghép mô, BPCT người ở Việt Nam cũng như trên thế giới hiện nay là tình trạng thiếu nguồn cung cấp mô, BPCT. Nghiên cứu cắt ngang với phương pháp định lượng, phỏng vấn 1.200 người dân trong cộng đồng tại 4 tỉnh/thành và 315 sinh viên của 3 trường đại học Y, Dược tại các vùng, miền khác nhau trong cả nước nhằm tìm hiểu sự chấp nhận của cộng đồng với việc hiến ghép mô, BPCT. Mặc dù tỷ lệ người dân đồng ý với chủ trương vận động hiến mô là 66%, hiến BPCT là 61% nhưng chỉ có 40% chấp nhận cho người thân hiến mô và 37,6% hiến BPCT sau khi chết. Nhóm sinh viên Y có tỉ lệ chấp nhận ở tất cả các mức độ hiến đều cao hơn so với nhóm người dân. Tỉ lệ chấp nhận bản thân đăng ký hiến sau khi chết ở các mức độ trong cộng đồng còn thấp: với mô là 28,6% (nhóm người dân) và 69% (nhóm sinh viên Y), với BPCT là 28% (nhóm người dân) và 70% (nhóm sinh viên Y). Các yếu tố có ảnh hưởng đến việc chấp nhận đăng ký hiến của người dân là trình độ học vấn, địa bàn sống ở tỉnh/thành nào, khu vực sống thành thị hay nông thôn, tôn giáo. Với sinh viên Y, không có sự khác biệt về việc bản thân chấp nhận đăng ký hiến sau khi chết giữa các nhóm. Đây cũng là nhóm đối tượng có nhiều tiềm năng cần chú trọng đến trong quá trình thực hiện hoạt động tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao sự chấp nhận của cộng đồng đối với việc hiến mô, BPCT. Từ khóa: sự chấp nhận, hiến ghép mô, bộ phận cơ thể người ABSTRACT Transplantation of human tissues and organs is the most effective treatment for patients with tissue damage, irreversible body parts, however the biggest difficulty of human tissue and organs transplan- tation in Vietnam and the world is the lack of supplies of human tissues and organs. A cross-sectional studywas conducted with 1,200 community people in four provinces and 315 students in three different medicine and pharmacycolleges in different parts of the country to understand the acceptance of the community with the donation and transplantation of organs and tissues.Although 66% of respondents 41 Trưởng phòng Quản lý Khoa học - Đào tạo - Hợp tác quốc tế, Viện Chiến lược và Chính sách Y tế 42 Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Y tế 43 Phó Trưởng khoa Xã hội học Y tế - Viện Chiến lược và Chính sách Y tế 44 Khoa Xã hội học Y tế - Viện Chiến lược và Chính sách Y tế 89
- VAI TRÒ CỦA ĐÁNH GIÁ CÔNG NGHỆ Y TẾ TRONG XÂY DỰNG GÓI DỊCH VỤ Y TẾ CƠ BẢN agreeingabout the tissue donation and 61% of respondents agreeing with body parts donation, only 40% and 37.6% of respondents agreed that they accepted their relatives to donate the tissues and body parts after they had died. Medical students had higher rates of acceptability at all levels of donation than those of the general population. The rate of acceptance about body donation after dying was low: 28.6% (general population) and 69% (medical students) for donation of tissues, 28% (general population) and 70% (medical students) for donation of body parts. Factors that affect the acceptance of people's registration were the education level, the area of residence in the province, the urban or rural living area, and religion. With medical students, there was no difference in the rate of acceptance about donation after dying. This medical student group was also a potential group that needs to be emphasized in the process of carrying out propaganda and education activities to promote community acceptance of donation of tissues and organs. Key words: acceptance, tissue transplantation, human body parts 1. ĐẶT VẤN ĐỀ nhưng không đáng kể và chỉ đáp ứng một phần Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể rất nhỏ so với nhu cầu điều trị bệnh. (BPCT) người và hiến lấy xác (gọi tắt là Luật Sau 7 năm triển khai Luật HGMT với nhiều HGMT) được ban hành và có hiệu lực từ tháng biện pháp, các kênh can thiệp khác nhau, năm 7/2007 là cơ sở pháp lý để tuyên truyền, cung cấp 2015 Viện Chiến lược và Chính sách Y tế kiến thức cho người dân nhằm thay đổi thái độ, (CL&CSYT) đã tiến hành điều tra xã hội học để chuyển đổi hành vi đối việc hiến ghép mô, BPCT tìm hiểu nhận thức, thái độ, sự chấp nhận của người. Cho đến nay, việc ghép mô, BPCT người cộng đồng hiện nay và các yếu tố ảnh hưởng đối vẫn là phương pháp điều trị hiệu quả nhất cứu với việc hiến ghép mô, BPCT. Các kết quả nghiên sống các bệnh nhân hỏng mô, BPCT không hồi cứu nhằm góp phần cung cấp bằng chứng khoa phục. Hàng năm, trên toàn thế giới ước tính có học và thực tiễn giúp cho việc định hướng các hàng triệu người đã được ghép mô, BPCT người. giải pháp can thiệp để nâng cao kiến thức, thay Tại Việt Nam, mỗi năm có hàng chục ngàn người đổi thái độ, hành vi, tăng sự chấp nhận và tham bệnh có nhu cầu ghép các mô, BPCT để điều trị, gia của cộng đồng với việc hiến ghép mô, BPCT nhưng nguồn mô, BPCT người cung cấp cho việc người ở Việt Nam. Bài báo này trình bày một ghép này chỉ đáp ứng được một phần rất nhỏ nhu phần kết quả của nghiên cứu “Đánh giá thực cầu của người bệnh. Cũng tương tự như các nước, trạng và đề xuất giải pháp tăng cường hoạt động nhu cầu bệnh nhân cần được ghép mô, BPCT hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người ở Việt người ngày càng tăng theo thời gian nhưng nguồn Nam”, mô tả sự chấp nhận của cộng đồng đối với cung cấp mô, BPCT người không đáp ứng được. việc hiến ghép mô, BPCT người và chỉ ra các yếu Nguyên nhân chính gây ra tình trạng này là do sự tố nhân khẩu, xã hội nào là yếu tố có liên chấp nhận và tham gia của cộng đồng đối với việc quan/ảnh hưởng. hiến tặng mô, BPCT còn thấp. Nguồn cung chủ yếu hiện nay vẫn là người thân cho nhau tạng 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU sống (thận). Nguồn cung từ bệnh nhân chết não Nghiên cứu mô tả cắt ngang, thông tin thu thập tuy đã xuất hiện sau khi ban hành Luật HGMT bằng phương pháp định lượng sử dụng phiếu hỏi 90
- Sè 20/2017 bán cấu trúc trên hai quần thể nghiên cứu là người 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU dân trong cộng đồng từ 18 tuổi trở lên ở Bắc 3.1. Sự chấp nhận với việc hiến ghép mô, Ninh, Ninh Bình, Huế và Cần Thơ và sinh viên BPCT Y năm 3 và 4 của Trường Đại học Y Hà Nội, Đại học Y Dược Huế và Đại học Y Dược Cần Thơ. Sự chấp nhận của cộng đồng với việc hiến, ghép mô, BPCT người được đánh giá dựa vào các Công thức tính cỡ mẫu: mức độ chấp nhận tăng dần: từ sự chấp nhận với p (1-p) chủ trương vận động cộng đồng hiến; chấp nhận n = Z (1-α/2) . x DE 2 d2 người thân hiến sau khi chết; chấp nhận bản thân hiến sau khi chết; chấp nhận người thân hiến khi Trong đó p: tỷ lệ người dân chấp nhận hiến sống; chấp nhận bản thân hiến khi sống. ghép mô, BPCT, giả thiết p = 0,4 (theo kết quả nghiên cứu về Nhận thức, thái độ và sự chấp Chấp nhận chủ trương vận động nhân dân nhận của cộng đồng đối với việc hiến tặng mô, hiến mô, BPCT: Tỉ lệ của người dân đồng ý với tạng, đặc biệt là giác mạc của Viện CL&CSYT chủ trương vận động hiến mô là 66%, hiến BPCT tiến hành năm 2005, tỉ lệ chấp nhận bản thân là 61%. Tỉ lệ không đồng ý với vận động hiến mô hiến mô, BPCT sau khi chết là 43,5%). và hiến BPCT đều là 11%. Còn lại là tỉ lệ do dự, cảm thấy khó trả lời. Tỉ lệ sinh viên Y đồng ý với Với quần thể người dân trong cộng đồng: Số chủ trương vận động hiến mô rất cao 91%, hiến người được chọn điều tra thực tế là 1.200 người BPCT là 83% cao hơn rất nhiều so với người dân. (300 người/tỉnh). Áp dụng kỹ thuật chọn mẫu Không có ai không đồng ý với chủ trương này. Tỉ nhiều giai đoạn, mỗi tỉnh chọn chủ đích 1 lệ do dự thấp với chủ trương vận động hiến mô phường và 2 xã với tiêu chí có các nhóm dân cư là 6%, BPCT là 14%. Tỉ lệ còn lưỡng lự chấp đa dạng. Tại mỗi xã/phường chọn 100 hộ gia nhận chủ trương hiến mô và BPCT đều là 3%. đình theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống. Tại mỗi hộ gia đình phỏng vấn 1 người trong hộ gia Chấp nhận cho người thân hiến sau khi đình từ 18 tuổi trở lên, ưu tiên chọn chủ hộ hoặc chết: Tỉ lệ người dân trong cộng đồng chấp nhận người có ảnh hưởng/vai trò quyết định chính cho người thân hiến mô, BPCT sau khi chết cao trong gia đình. gần gấp ba lần so với tỉ lệ đồng ý hiến khi sống.Tỉ lệ chấp nhận hiến mô là 40%, BPCT là 37,6%.Tỉ Với đối tượng là sinh viên các trường đại học lệ này ở sinh viên Y cao gấp đôi ở người dân với Y: Tổng cỡ mẫu điều tra sinh viên là 315 người. tỷ lệ chấp nhận hiến mô và BPCT lần lượt là 77% Áp dụng kỹ thuật chọn mẫu nhiều giai đoạn. và 81% (xem hình 1). Chọn chủ đích 3 trường đại học Y, Dược tại 3 miền. Tại mỗi trường đại học chọn 105 em sinh Vẫn còn một tỉ lệ lớn hơn 50% người dân viên đang theo học chuyên ngành y năm thứ ba, trong cộng đồng và 20% trong sinh viên Y không thứ tư theo phương pháp ngẫu nhiên hệ thống. chấp nhận cho người thân hiến mô, BPCT sau khi chết. Lý do được đưa ra nhiều nhất là việc hiến Phân tích số liệu: Để tìm hiểu mối liên quan sau khi chết là trái với đạo đức truyền thống, tâm giữa biến phụ thuộc chấp nhận về hiến ghép mô, linh, chiếm tỉ lệ 80% trong người dân và 41% BPCT người với một số yếu tố nhân khẩu học, trong sinh viên Y. Lý do sợ dư luận xã hội và kinh tế, xã hội, số liệu được phân tích theo mô không phù hợp với giáo lý tôn giáo chiếm tỉ lệ hình hồi quy đa biến (Logistic regression) với đáng kể trong cộng đồng người dân là 36% và mục đích loại bỏ yếu tố nhiễu và xếp loại các yếu 25% tương ứng. Trong sinh viên Y không ai cảm tố ảnh hưởng. 91
- VAI TRÒ CỦA ĐÁNH GIÁ CÔNG NGHỆ Y TẾ TRONG XÂY DỰNG GÓI DỊCH VỤ Y TẾ CƠ BẢN thấy việc hiến sau khi chết của người thân là Có một tỉ lệ hơn 70% người dân và 30% sinh không phù hợp với giáo lý hay sợ dư luận xã hội. viên Y không chấp nhận việc bản thân hiến mô, Nhưng với việc hiến BPCT có 13% sinh viên Y BPCT sau khi chết. Lý do được cả người dân và lấy lý do không đồng ý do sợ dư luận xã hội và sinh viên Y đưa ra nhiều nhất là sợ người thân 27% sinh viên Y cho rằng do không phù hợp với không đồng ý, ở người dân là 77%, ở sinh viên là giáo lý tôn giáo. Vẫn có một tỉ lệ không đồng ý 57% với mô và 68% với BPCT. Lý do trái với nhưng không có lý do rõ ràng. Tỉ lệ này ở sinh truyền thống, tâm linh ở người dân cũng chiếm tỉ viên cao hơn người dân và đối với việc hiến lệ cao 57%-58%, trong khi tỉ lệ đưa ra lý do này BPCT cao hơn hiến mô. ở sinh viên chỉ chiếm 21% (mô), 25% (BPCT). Chấp nhận bản thân hiến sau khi chết: Tỉ lệ Lý do sợ dư luận xã hội và không phù hợp giáo người dân trong cộng đồng chấp nhận bản thân lý tôn giáo là 2 lý do được người dân đề cập đến hiến mô, BPCT sau khi chết cao hơn hai lần so với tỷ lệ lần lượt là 30% và 27%. Với sinh viên với tỉ lệ đồng ý hiến khi sống. Tỉ lệ chấp nhận Y, lý do sợ dư luận chiếm tỷ lệ rất thấp (
- Sè 20/2017 hưởng đến gia đình chiếm 68% trong cộng đồng, Trong nhóm người dân, tỉ lệ không đồng ý với cả nhưng ở sinh viên Y chỉ chiếm 37%. Vẫn có một hiến mô và BPCT đều là 74%. Trong nhóm sinh tỉ lệ 13% người dân sợ dư luận xã hội, trong khi viên Y, tỉ lệ không đồng ý với mô là 24%, với đó tỉ lệ này ở sinh viên là 0%. BPCT là 31%. Lý do được viện đến nhiều nhất là Chấp nhận cho bản thân hiến khi sống: do sức khỏe không bảo đảm, tỉ lệ này ở người dân Trong cộng đồng người dân cũng như sinh viên là 77% và ở sinh viên Y là 64%. Lý do tiếp theo Y, tỉ lệ chấp nhận bản thân hiến mô, BPCT khi là sợ người thân không đồng ý, ở người dân là sống đều rất thấp, thấp hơn cả tỉ lệ đồng ý cho 70% và sinh viên Y là 62,5%. Tiếp đến là các lý người thân hiến. Trong nhóm người dân, tỉ lệ này do: sợ ảnh hưởng đến sức khỏe sau khi hiến (65% với mô là 12,7%, với BPCT là 10,6%. Tỉ lệ này người dân; 47% sinh viên Y), ảnh hưởng đến gia trong sinh viên cao hơn hẳn, với mô là 36,7% và đình (55%; 24%). Lý do sợ dư luận xã hội vẫn với BPCT là 17,9% (xem hình 2). Tỉ lệ không tồn tại với tỉ lệ thấp 12% ở người dân và 1,4% ở chấp nhận để bản thân hiến mô, BPCT là rất cao. sinh viên Y. ĐÝ Bản thân hiến BPCT 17.88 10.61 ĐÝ Bản thân hiến mô 36.75 12.69 ĐÝ Người thân hiến BPCT 28.81 17.99 ĐÝ Người thân hiến mô 49.01 18.99 0 10 20 30 40 50 60 Sinh viên Y Người dân Hình 2: So sánh tỉ lệ chấp nhận hiến khi sống giữa người dân trong cộng đồng và sinh viên Y khoa 3.2. Các yếu tố nhân khẩu, kinh tế, xã hội có Các yếu tố liên quan/ảnh hưởng đến chấp liên quan/ảnh hưởng đến sự chấp nhận của nhận chủ trương vận động nhân dân hiến tặng người dân mô, BPCT: Khi xem xét các yếu tố nhân khẩu, kinh tế, xã Trong nhóm người dân: Khi đưa các biến số hội nào có liên quan đến sự chấp nhận của cộng nhân khẩu kinh tế - xã hội vào mô hình hồi quy đồng với việc hiến ghép mô, BPCT người, chúng đa biến, cụ thể ở đây là tỉnh, thành thị/nông thôn, tôi tập trung phân tích vào ba biến đầu ra là chấp giới, tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, tôn giáo, nhận chủ trương vận động cộng đồng hiến tặng kinh tế hộ gia đình, kết quả cho thấy chỉ có biến mô, BPCT, chấp nhận người thân hiến sau khi tỉnh và trình độ học vấn là có liên quan/ảnh chết và chấp nhận bản thân hiến sau khi chết vì hưởng đến sự chấp nhận của người dân với chủ mục tiêu của chúng ta là tìm ra các yếu tố ảnh trương vận động cộng đồng hiến ghép mô, BPCT, hưởng đến việc chấp nhận hiến sau khi chết để trong đó biến tỉnh có ảnh hưởng mạnh nhất. Theo có các giải pháp phù hợp. đó, người dân ở Ninh Bình và Cần Thơ có mức 93
- VAI TRÒ CỦA ĐÁNH GIÁ CÔNG NGHỆ Y TẾ TRONG XÂY DỰNG GÓI DỊCH VỤ Y TẾ CƠ BẢN độ chấp nhận chủ trương này cao gấp đôi so với của người dân với chủ trương vận động cộng Bắc Ninh và Huế (P
- Sè 20/2017 Các yếu tố liên quan/ảnh hưởng đến việc cao nhất (từ cao đẳng trở lên). Ở nhóm này, mức chấp nhận đồng ý cho người thân đăng ký hiến độ chấp nhận cao gấp hơn hai lần so với nhóm tặng mô, BPCT sau khi chết: tiểu học (P
- VAI TRÒ CỦA ĐÁNH GIÁ CÔNG NGHỆ Y TẾ TRONG XÂY DỰNG GÓI DỊCH VỤ Y TẾ CƠ BẢN Các yếu tố liên quan/ảnh hưởng đến chấp nhận có mức độ chấp nhận cao hơn gấp 3,65 lần so với bản thân đăng ký hiến tặng mô, BPCT sau khi chết: nhóm tiểu học (P
- Sè 20/2017 4. BÀN LUẬN so sánh với tỉ lệ đồng tình trong các cộng đồng 4.1. Sự chấp nhận của cộng đồng với hiến ghép nhập cư ở Tây Ban Nha thì tỉ lệ của Việt Nam mô, BPCT người: cũng tương tự. Ở mức độ chấp nhận thấp nhất đó là ủng hộ Tỉ lệ chấp nhận người thân hiến sau khi chết chủ trương vận động cộng đồng hiến mô, BPCT với mô là 40% (nhóm người dân) và 77% (nhóm thì số người ủng hộ khá cao với mô là 66% (nhóm sinh viên Y), với BPCT là 37,6% (nhóm người người dân) và 91% (nhóm sinh viên Y); với dân) và 81% (nhóm sinh viên Y). Đáng chú ý là BPCT là 61% (nhóm người dân) và 83% (nhóm còn một tỉ lệ lớn không chấp nhận người thân sinh viên Y). Tỉ lệ không đồng ý với chủ trương đăng ký hiến sau khi chết - 50% (nhóm người này ở nhóm người dân vẫn còn 11%, còn trong dân) và 20% (nhóm sinh viên Y). Tỉ lệ chấp nhận nhóm sinh viên Y thì là 0%. bản thân đăng ký hiến sau khi chết với mô là 28,6% (nhóm người dân) và 69% (nhóm sinh So sánh với các nghiên cứu khác về tỉ lệ ủng viên Y), với BPCT là 28% (nhóm người dân) và hộ chủ trương vận động cộng đồng hiến ghép mô, 70% (nhóm sinh viên Y). Tỉ lệ người không chấp BPCT, cuộc điều tra năm 2005 của Viện nhận rất cao - 70% (nhóm người dân) và 30% CL&CSYT với cỡ mẫu 1.800 người đại diện hộ (nhóm sinh viên Y). So sánh các tỉ lệ này ở cuộc gia đình tại 3 thành phố lớn Hà Nội, Đà Nẵng, TP điều tra tương tự của Viện CL&CSYT năm 2005 Hồ Chí Minh cho thấy tỉ lệ ủng hộ chủ trương này cho thấy trong nhóm người dân tỉ lệ chấp nhận trong người dân là 70% [16]. Như vậy sau 10 người thân hiến sau chết (50,5%) và tỉ lệ chấp năm, trong đó có 7 năm đã có Luật HGMT mà tỉ nhận bản thân hiến sau khi chết (43,5%) đều cao lệ ủng hộ chủ trương này trong người dân không hơn cuộc điều tra 2015 này [16]. So sánh tỉ lệ những không tăng mà còn giảm nhẹ. Việc so sánh chấp nhận hiến sau khi chết với kết quả cuộc điều tỉ lệ này của hai cuộc điều tra cũng chỉ có ý nghĩa tra năm 1998 có 64% người trả lời đồng ý để tương đối vì cách chọn mẫu khác nhau. Nếu như người thân hiến mô, BPCT sau khi chết và 66% ở điều tra năm 2005 đối tượng được hỏi là người sẽ hiến mô, BPCT của chính họ sau khi chết, 21% dân tại 3 thành phố lớn nhất trong cả nước, thì đến 22% sẽ hiến đa mô, BPCT có thể thấy tỉ lệ trong cuộc điều tra năm 2015, người trả lời lại chấp nhận việc hiến sau khi chết trong nhóm được chọn ở 4 tỉnh/thành gần với các trung tâm người dân ở nghiên cứu này (28% - 40%) còn ghép tạng. Người dân ở các thành phố lớn chắc thấp hơn nhiều so với cuộc điều tra đã tiến hành chắn được tiếp cận với thông tin khoa học sớm 18 năm trước [7]. Tỉ lệ chấp nhận ở nghiên cứu hơn, đầy đủ hơn so với người dân ở các tỉnh lẻ. 2015 này còn thấp hơn so với kết quả điều tra qua Tuy nhiên tỉ lệ này lại tương tự ở một số cộng điện thoại năm 1985 tại Mỹ về thái độ và hành vi đồng ở Tây Ban Nha - một quốc gia có kỹ thuật của cộng đồng với việc hiến tạng (N đại diện cấy ghép mô, BPCT hàng đầu và có tỉ lệ hiến trên quốc gia = 2.056 người) có tỉ lệ chấp nhận của một triệu dân cao nhất thế giới. Điều tra cộng cộng đồng đồng ý hiến sau khi chết xung quanh đồng cư dân Đức sống ở đông nam Tây Ban Nha 50% [13]. Điều tra cắt ngang hộ gia đình tại (11/2005-4/2006) với cỡ mẫu = 227 cho thấy chỉ Maryland, Mỹ năm 2001 qua điện thoại đánh giá có 64% người trả lời tán thành với việc hiến mô, các yếu tố ảnh hưởng đến sự sẵn sàng hiến tạng tạng [1]; điều tra cộng đồng cư dân Anh và Ái khi sống và khi chết (N= 385) cho thấy 66% sẵn Nhĩ Lan sống ở đông nam Tây Ban Nha (N = sàng hiến một tạng sau khi chết, nhưng chỉ có 1611) cho thấy 72% tán thành với việc hiến, 8% 47% đã xác định rõ bản thân là người hiến sau phản đối và 20% chưa quyết định [2]. Như vậy, khi chết trong bằng lái xe của họ [3]. Như vậy, 97
- VAI TRÒ CỦA ĐÁNH GIÁ CÔNG NGHỆ Y TẾ TRONG XÂY DỰNG GÓI DỊCH VỤ Y TẾ CƠ BẢN kinh nghiệm ở Mỹ cho thấy sau một thời gian là 19% (nhóm người dân) và 49% (nhóm sinh tương đối dài (hơn 15 năm) tỉ lệ người chấp nhận viên Y), với BPCT là 18% (nhóm người dân) và hiến mô, tạng chỉ tăng thêm khoảng 10%. Điều 29% (nhóm sinh viên Y). Tỉ lệ không đồng ý ở tra tân binh Thụy Sĩ trong giai đoạn 1989–98 (n nhóm người dân là 55% và nhóm sinh viên là = 7272) cho thấy thái độ của các tân binh với việc 23% (với mô) và 29% (với BPCT). Tỉ lệ chấp hiến mô đã không thay đổi một cách có ý nghĩa nhận người thân hiến khi sống của điều tra năm trong phạm vi 10 năm của thời kỳ điều tra. Có 2005 là 15,7%. Ở mức độ cao nhất là chấp nhận 61% người trả lời sẽ hiến các BPCT của họ trong bản thân hiến khi còn sống thì tỉ lệ này chỉ còn trường hợp chết não; 13% sẽ từ chối; và 26% rất thấp với mô là 12,7% (nhóm người dân) và không có ý kiến gì [15]. Điều này cho thấy việc 36,7% (nhóm sinh viên Y), với BPCT là 10,6% khó khăn trong vận động tuyên truyền để tăng (nhóm người dân) và 17,9% (nhóm sinh viên Y). cường sự tham gia của cộng đồng với việc hiến. Trong khi đó tỉ lệ không đồng ý lại rất cao với Các cuộc điều tra cộng đồng trên đều chỉ ra tỉ lệ nhóm người dân là 74% và nhóm sinh viên Y là chấp nhận hiến mô, tạng của cộng đồng sau khi 24% (với mô) và 31% (với BPCT). Tỉ lệ chấp chết là trên 60% [5]. So sánh với kết quả điều tra nhận bản thân hiến khi sống ở điều tra năm 2005 2015 này cho thấy nhóm người dân tỉ lệ chấp là 13,1%. nhận chỉ bằng một nửa (29%) và qua 3 cuộc điều So sánh với tỉ lệ chấp nhận hiến khi còn sống tra 1998, 2005 và 2015 cho thấy tỉ lệ chấp nhận của một nghiên cứu trên 434 sinh viên đại học hiến ở các mức độ không hề tăng lên trong nhóm Trung Quốc được chọn ngẫu nhiên về kiến thức người dân mà còn giảm nhẹ. Cần xem xét lại và thái độ đối với việc hiến mô, BPCT khi sống công tác giáo dục, tuyên truyền, vận động người và phân tích các tác động đến việc làm quyết định dân để có thể tăng tỉ lệ chấp nhận hiến sau khi của họ cho thấy 49,8% người trả lời sẵn sàng hiến chết trong cộng đồng. tạng của mình khi sống [17]. Đây thực sự là một Nghiên cứu ở các đối tượng là sinh viên Y tỉ lệ chấp nhận rất cao. So với kết quả của nghiên khoa, những người được trang bị kiến thức, hiểu cứu này trong nhóm người dân, tỷ lệ này cao gấp biết về hiến ghép mô, BPCT nhiều hơn các đối 4 lần và cũng cao hơn nhiều ở nhóm sinh viên tượng khác trong cộng đồng cho thấy tỉ lệ chấp (36,7% với mô và 17,9% với BPCT). Các kết quả nhận có cao hơn tỉ lệ trong các cộng đồng khác. điều tra cho thấy sau 10 năm, trong đó có 7 năm Nghiên cứu tại Thổ Nhĩ Kỳ về nhận thức và thái Luật HGMT được ban hành và triển khai thì sự độ của các sinh viên kỹ thuật y tế, nha, điều chấp nhận của cộng đồng với hiến ghép mô, dưỡng, y khoa về việc hiến mô, BPCT cho thấy: BPCT người chưa có một sự chuyển biến tích cực chỉ có 65,5% người trả lời sẵn sàng hiến mô, nào. Sự chấp nhận của nhóm người dân với các BPCT sau khi chết; 9% không sẵn sàng và 25,5% mức độ hiến không hề tăng lên mà thậm chí còn còn phân vân về việc hiến mô, BPCT. Trong số giảm nhẹ. Chỉ có nhóm sinh viên Y là tỉ lệ chấp những sinh viên trả lời sẵn sàng hiến thì chỉ có nhận ở tất cả các mức độ hiến đều cao hơn hẳn 6% đang mang một thẻ hiến đã ký tên [6]. Tỉ lệ nhóm người dân. chấp nhận này còn thấp hơn một chút so với kết 4.2. Về các yếu tố liên quan/ảnh hưởng: quả điều tra sinh viên Y của nghiên cứu này (70%). Đây là nhóm đối tượng tiềm năng cho Yếu tố ảnh hưởng đến việc người dân ủng hộ việc hiến mô, BPCT sau khi chết. chủ trương vận động cộng đồng hiến mô, BPCT trong nghiên cứu này cho thấy chỉ có hai yếu tố Ở mức độ cao là chấp nhận người thân hiến ảnh hưởng là yếu tố địa bàn sống ở tỉnh/thành nào khi sống, tỉ lệ chấp nhận giảm thấp hẳn, với mô 98
- Sè 20/2017 (Bắc Ninh và Huế có mức độ ủng hộ chủ trương Đà Nẵng, Hồ Chí Minh cũng đã chỉ ra yếu tố thấp hơn hẳn) và yếu tố trình độ học vấn (nhóm trình độ học vấn là yếu tố ảnh hưởng mạnh nhất từ cao đẳng trở lên có mức ủng hộ cao hơn hẳn (nhóm trình độ học vấn càng cao có mức độ chấp các nhóm khác). Trong nhóm sinh viên Y, yếu tố nhận việc người thân và bản thân hiến mô, BPCT giới cũng có ảnh hưởng, nữ sinh viên Y có mức sau khi chết càng cao). Các yếu tố khác cũng có độ ủng hộ chủ trương này cao hơn nhiều so với ảnh hưởng là yếu tố mức sống hộ gia đình (nhóm nam sinh viên Y. Tuy nhiên, cuộc điều tra tương trung bình, nhóm khá giả có mức độ chấp nhận tự của Viện CL&CSYT năm 2005 lại chỉ ra ngoài người thân hiến cao hơn nhóm nghèo); yếu tố địa yếu tố trình độ học vấn (nhóm có trình độ học bàn (nhóm dân Đà Nẵng có mức độ chấp nhận vấn càng cao có mức độ ủng hộ chủ trương vận bản thân hiến mô, BPCT khi chết cao hơn Hà Nội động hiến mô, BPCT càng cao), yếu tố tôn giáo và thành phố Hồ Chí Minh). Nghiên cứu tại TP cũng có ảnh hưởng (nhóm Thiên chúa giáo có Hồ Chí Minh năm 1998 cũng cho kết quả tương mức độ ủng hộ chủ trương này thấp nhất vì theo tự. Có mối liên quan có ý nghĩa giữa việc chấp quan điểm của người dân Thiên chúa giáo thì đây nhận hiến mô, BPCT của người trả lời và trình độ là việc làm tốt nhưng nên tuyên truyền để người học vấn. Người có trình độ học vấn cao hơn thì dân hiểu và tự nguyện tham gia chứ không nên mức độ chấp nhận hiến cũng cao hơn [7]. Như vận động) [16]. vậy, các cuộc điều tra ở các giai đoạn khác nhau Về các yếu tố ảnh hưởng đến việc chấp nhận 1998, 2005, 2015 đều chỉ ra yếu tố trình độ học người thân và bản thân đăng ký hiến sau khi chết, vấn là yếu tố ảnh hưởng bất biến đến sự chấp kết quả từ nghiên cứu này cho thấy có 4 yếu tố nhận hiến của cộng đồng. ảnh hưởng là địa bàn sống ở tỉnh/thành nào (Ninh Các nghiên cứu tại các nước phát triển cũng Bình có mức độ chấp nhận hiến cao hơn hẳn so cho thấy trình độ học vấn có liên quan mật thiết với Bắc Ninh và Huế); khu vực sống ở thành thị đến việc chấp nhận hiến mô, BPCT. Một số các hay nông thôn (người dân ở thành thị có mức độ nghiên cứu tại Cộng đồng chung châu Âu đã chỉ chấp nhận hiến thấp hơn người dân nông thôn); ra người có trình độ học vấn cao hơn, trẻ tuổi hơn trình độ học vấn (học vấn càng cao thì mức chấp có mức độ sẵn sàng hiến mô, tạng của họ và đồng nhận càng cao); tôn giáo (người theo đạo Hòa hảo ý cho người thân hiến cao hơn [14]. có mức chấp nhận hiến thấp hơn hẳn các nhóm Thực tế cho thấy khi có kiến thức và hiểu biết khác). Kết quả nghiên cứu này rất phù hợp với về hiến ghép mô, tạng thì cộng đồng sẽ dễ dàng thực tế khi mà số người đăng ký hiến và đã hiến chấp nhận việc hiến hơn. Vì vậy, các nhân viên y giác mạc ở Ninh Bình, đặc biệt là huyện Kim Sơn tế làm việc trực tiếp trong lĩnh vực này hoặc được chiếm tỉ lệ rất cao. Trong số 45.000 người đăng cung cấp kiến thức trong lĩnh vực này đều có tỉ ký hiến giác mạc khi qua đời của cả nước thì lệ chấp nhận việc hiến rất cao. Các nghiên cứu huyện đã tuyên truyền, vận động được 10.189 tiến hành trên các đối tượng là nhân viên y tế người. Hiện cả nước đã có 323 người đã hiến giác thường xuyên tiếp xúc với bệnh nhân và việc hiến mạc, riêng huyện Kim Sơn có 222 người/229 ghép mô, BPCT đều có tỉ lệ sẵn sàng đồng ý hiến người của tỉnh Ninh Bình đã hiến tặng 438 giác cao. Cuộc điều tra tại hai bệnh viện ở Tây Ban mạc thành công [9]. Nha, hai bệnh viện ở Hà Lan và một ở Anh với So sánh với các kết quả nghiên cứu trước đây tất cả nhân viên khoa hồi sức cấp cứu cho thấy: ở Việt Nam, nghiên cứu tương tự của Viện có 95% số người trả lời ủng hộ việc hiến và 82% CL&CSYT năm 2005 tại ba thành phố Hà Nội, sẵn sàng hiến một mô, BPCT của chính mình [4]. 99
- VAI TRÒ CỦA ĐÁNH GIÁ CÔNG NGHỆ Y TẾ TRONG XÂY DỰNG GÓI DỊCH VỤ Y TẾ CƠ BẢN Một nghiên cứu tại Mỹ về thái độ của các sinh với việc hiến khi chết và hiến khi sống khác nhau viên Y khoa cho thấy các sinh viên này luôn có giữa nam và nữ. Nam giới có xu hướng đồng ý thái độ tích cực cao với việc hiến mô, tạng và sẵn với hiến khi chết, trong khi nữ giới lại đồng tình sàng hiến mô, BPCT. Các sinh viên sẵn sàng hiến với việc hiến khi sống. Cả hai đối tượng này đều với mục đích cứu giúp người khác hơn là mục rất quan tâm về các thông tin liên quan đến việc đích giúp phát triển khoa học. Họ chấp nhận việc hiến khi sống và sau khi chết. bản thân sẵn sàng hiến các mô, BPCT nhiều hơn Như vậy, yếu tố ảnh hưởng quan trọng nhất là việc người thân hiến sau khi chết. Mặc dù sinh đến sự chấp nhận hiến của cộng đồng là trình độ viên sẵn sàng hiến tất các bộ phận, nhưng BPCT học vấn. mà họ sẵn sàng hiến nhiều nhất sau khi chết là thận [12]. Ở Việt Nam hiện nay mặc dù số người 5. KẾT LUẬN đăng ký hiến giác mạc và hiến tạng chết não 5.1. Sự chấp nhận của cộng đồng với hiến ghép chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong dân cư, nhưng số mô, BPCT người các bác sĩ, nhân viên y tế trực tiếp đăng ký hiến chết não lại chiếm tỉ lệ đáng kể trong tổng số - Tỉ lệ ủng hộ chủ trương vận động cộng đồng người đăng ký hiến. Trong số người đăng ký hiến hiến mô, BPCT với mô là 66% (nhóm người giác mạc cho đến nay là khoảng 45.000 người dân) và 91% (nhóm sinh viên Y); với BPCT trên 15 tỉnh, thành trong cả nước, có 406 cán bộ là 61% (nhóm người dân) và 83% (nhóm sinh Bệnh viện Mắt Trung ương đăng ký hiến [8], [9]. viên Y). Hiện nay số người đăng ký hiến tạng sau khi chết - Tỉ lệ chấp nhận người thân đăng ký hiến sau não ở nước ta là khoảng 8000 người, thì riêng khi chết với mô là 40% (nhóm người dân) và Viện Huyết học – Truyền máu Trung ương đã có 77% (nhóm sinh viên Y), với BPCT là 37,6% 465 bác sĩ, nhân viên y tế đăng ký hiến [10],[11]. (nhóm người dân) và 81% (nhóm sinh viên Y). Trong nghiên cứu này chỉ ra có sự khác biệt - Tỉ lệ chấp nhận bản thân đăng ký hiến sau khi về giới trong cộng đồng sinh viên Y với việc chấp chết với mô là 28,6% (nhóm người dân) và nhận ủng hộ chủ trương vận động hiến (nữ có 69% (nhóm sinh viên Y), với BPCT là 28% mức độ chấp nhận cao hơn hẳn nam). Một số (nhóm người dân) và 70% (nhóm sinh viên Y). nghiên cứu trong lĩnh vực này trong cộng đồng - Tỉ lệ chấp nhận người thân hiến khi sống với học sinh, sinh viên ở các nước khác cũng chỉ ra mô là 19% (nhóm người dân) và 49% (nhóm có sự khác biệt về giới với việc chấp nhận hiến sinh viên Y), với BPCT là 18% (nhóm người mô, tạng. Nghiên cứu về thái độ với hiến mô, dân) và 29% (nhóm sinh viên Y). tạng của sinh viên Trung Quốc lục địa và hải ngoại đã chỉ ra có một số yếu tố khác ảnh hưởng - Tỉ lệ chấp nhận bản thân hiến khi còn sống đến sự chấp nhận hiến như yếu tố giới và những với mô là 12,7% (nhóm người dân) và 36,7% người hiến máu. Nữ hiến nhiều hơn nam với OR (nhóm sinh viên Y), với BPCT là 10,6% = 2,24 và những người hiến máu có thái độ tích (nhóm người dân) và 17,9% (nhóm sinh viên cực hơn một cách có ý nghĩa với việc hiến tạng Y). khi chết (OR = 1,91) [5]. Một nghiên cứu thử - Tỉ lệ chấp nhận hiến mô, BPCT ở các mức độ nghiệm can thiệp có đối chứng được thực hiện tại trong cộng đồng người dân ở nước ta còn khá Mỹ với nhóm can thiệp 8 trường học và nhóm thấp, chỉ bằng một nửa so với các cộng đồng chứng 8 trường học, đối tượng là các học sinh hai khác trên thế giới và không thay đổi sau nhiều năm cuối PTTH (17–18 tuổi) đã cho thấy thái độ 100
- Sè 20/2017 năm kể cả khi có Luật HGMT ban hành. Cộng 6. KHUYẾN NGHỊ đồng sinh viên Y có tỉ lệ chấp nhận hiến cao - Cộng đồng sinh viên Y là cộng đồng có tỉ lệ hơn nhiều so với cộng đồng dân cư nói chung. chấp nhận hiến cao hơn nhiều so với cộng 5.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự chấp đồng dân cư, là nhóm đối tượng có nhiều tiềm nhận hiến năng. Việc giáo dục tuyên truyền nên bắt đầu - Trong nhóm người dân các yếu tố có ảnh từ các trường đào tạo nhân viên y tế, sau đó hưởng đến việc chấp nhận đăng ký hiến là mở rộng đưa vào các trường phổ thông và trình độ học vấn, địa bàn sống ở tỉnh/thành đại học. nào, khu vực sống thành thị hay nông thôn, - Cần có các chiến dịch tuyên truyền, giáo dục tôn giáo. lâu dài trên phạm vi toàn quốc với sự tham gia - Trong nhóm sinh viên Y, yếu tố giới tính và của toàn xã hội, tập trung vào các nhóm cộng học tại trường Đại học Y nào là những yếu tố đồng có tỉ lệ chấp nhận cao như người dân ảnh hưởng đến sự chấp nhận chủ trương vận nông thôn, theo đạo Phật, đạo Thiên Chúa để động cộng đồng hiến. Việc chấp nhận đăng ký củng cố và nâng cao sự chấp nhận của cộng hiến sau khi chết không có sự khác biệt giữa đồng với việc hiến ghép mô, BPCT người./. các nhóm sinh viên Y. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. A. Ríos, L. Martínez-Alarcón et al. (2009), “German citizens in southeastern Spain: a study of attitude to- ward organ donation”, Clinical Transplantation, 24(3), pp. 349 - 357. 2. A. Ríos, P. Cascales et al. (2007), “Emigration from the British Isles to Southeastern Spain: A Study of At- titudes Toward Organ Donation”, American Journal of Transplantation, 7(8), pp. 2020-2030. 3. Boulware LE, Ratner LE, et al. (2002), "Determinants of willingness to donate living related and cadaveric organs: identifying opportunities for intervention", Transplantation, 73(10), pp. 1683-1691. 4. C.Wight, B.Cohen et al. (1998), “Hospital attitudes: preliminary findings from donor action pilot projects”, Transplant International, 11(0), pp. S397-S399. 5. Chen JX, Zhang TM,et al. (2006), "Current knowledge and attitudes about organ donation and transplan- tation among Chinese university students", Transplantation Proceedings, 38(9), pp. 2761-2765. 6. Fugen Goz, Mustafa Goz, Medıne Erkan (2006), “Knowledge and attitudes of medical, nursing, dentistry and health technician students towards organ donation: a pilot study”, Journal of Clinical Nursing, 15(11), pp. 1371-1375. 7. Hai TB, Eastlund T, Chien LA, Duc PT, Giang TH, Hoa NT, Viet PH, Trung DQ (1999), "Willingness to donate organs and tissues in Vietnam", Journal of Transplant Coordination,9(1), pp. 57-63. 8. http://nongnghiep.vn/hon-400-bac-si-tinh-nguyen-hien-giac-mac-post1585.html ngày 10/10/2007 9. http://vov.vn/suc-khoe/hien-tang-giac-mac-mon-qua-vo-gia-cho-nguoi-benh-569624.vov ngày 11/10/2017 101
- VAI TRÒ CỦA ĐÁNH GIÁ CÔNG NGHỆ Y TẾ TRONG XÂY DỰNG GÓI DỊCH VỤ Y TẾ CƠ BẢN 10. https://news.zing.vn/gan-500-bac-si-can-bo-y-te-dang-ky-hien-tang-post774579.html ngày 25/8/2017 11. https://www.baomoi.com/hon-8-000-nguoi-dang-ky-hien-tang-sau-khi-qua-doi/c/22708000.epi ngày 8/7/2017 12. Iva Topic, Tihana Brkljacic, Gordan Grahovac (2006), “Survey of medical students about attitudes toward organ donation”, Dialysis & Transplantation, 35(9), pp. 571-574. 13. Manninen DL, Evans RW.(1985), "Public attitudes and behavior regarding organ donation", Journal of the American Medical Association, 253(21), pp. 3111-3115. 14. Mossialos E, Costa-Font J, Rudisill C. (2008), "Does organ donation legislation affect individuals' willing- ness to donate their own or their relative's organs? Evidence from European Union survey data", BMC Health Services Research, 27(8), pp. 48. 15. Thomas Gross, Sebastiano Martinoli et al. (2001), “Attitudes and Behavior of Young European Adults To- wards the Donation of Organs – a Call for Better Information”, American Journal of Transplantation, 1(1), pp. 74-81. 16. Viện Chiến lược và Chính sách Y tế (2006), Nhận thức, thái độ và sự chấp nhận của cộng đồng với việc hiến ghép mô, tạng người, đặc biệt là giác mạc 17. Zhang L, Li Y, et al. (2007), "Knowledge and willingness toward living organ donation: a survey of three universities in changsha, hunan province, china.", Transplantation Proceedings, 39(5), pp. 1303-1309. 102
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đánh giá hoạt động hành nghề y tư nhân trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, năm 2008
6 p | 90 | 12
-
Tiêm gonadotrophins chuẩn bị nội mạc tử cung
11 p | 104 | 7
-
Gốc tự do- thủ phạm lão hóa hay thuốc trường sinh?
3 p | 127 | 5
-
Kiến thức, thái độ, hành vi về tầm soát lệch bội ở quý I thai kỳ bằng Combined test của thai phụ tại Cần Thơ
5 p | 44 | 5
-
Các Thái Độ Trước sự Hóa Già
9 p | 67 | 3
-
Tìm hiểu trình độ nhận thức, thái độ và sự chấp nhận của cộng đồng đối với việc hiến tặng giác mạc
8 p | 27 | 3
-
An toàn người bệnh góc nhìn mới từ an toàn-I sang an toàn-II
26 p | 51 | 3
-
Kết quả thử nghiệm nước thải và sự chấp nhận của người sử dụng đối với mô hình nhà tiêu nổi dội nước bằng composite
8 p | 48 | 3
-
Phá thai bằng thuốc: Khả năng chấp nhận của phụ nữ tại TP. Hồ Chí Minh
4 p | 57 | 3
-
Đặc san Thông tin Điều dưỡng Nhãn khoa: Số 12/2019
32 p | 33 | 2
-
Sự chấp nhận của cộng đồng đối với dịch vụ tư vấn, khám sức khỏe tiền hôn nhân
14 p | 8 | 2
-
Đánh giá hiệu lực, tính an toàn và sự chấp nhận của cộng đồng của hương xua diệt muỗi Nimpe trong phòng chống muỗi truyền sốt rét tại xã Pa Ủ, huyện Mường Tè, Lai Châu
7 p | 4 | 2
-
Kiến thức, thực hành về an toàn thực phẩm của người sản xuất rượu Bàu Đá thuộc xã Nhơn Lộc, tỉnh Bình Định
6 p | 33 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn