ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ----------------------
Khampheo KHAMCHALUEN SỬ DỤNG BỀN VỮNG TÀI NGUYÊN NƯỚC SÔNG MÊ CÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC
THÁI NGUYÊN - 2018
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ----------------------
Khampheo KHAMCHALUEN SỬ DỤNG BỀN VỮNG TÀI NGUYÊN NƯỚC SÔNG MÊ CÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
Ngành: Địa lý học Mã số: 8 31 05 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS VŨ NHƯ VÂN
THÁI NGUYÊN - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu
và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực, chưa
từng được công bố trong bất kỳ một công trình của các tác giả nào khác.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2018
Tác giả luận văn
Khampheo KHAMCHALUEN
i
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy - TS. Vũ Như Vân, đã tận
tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Sau đại học, Khoa
Địa lí, các thầy cô giáo giảng dạy ở trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái
Nguyên đã tận tình giảng dạy, góp nhiều ý kiến quý báu cho tôi trong quá
trình học tập, nghiên cứu khoa học và làm luận văn.
Chân thành cảm ơn những tình cảm quý báu của những người thân,
đồng nghiệp đã cổ vũ, động viên, góp ý và tiếp thêm động lực để tôi hoàn
thành luận văn này.
Mặc dù có nhiều cố gắng, nhưng do thời gian có hạn và năng lực bản
thân còn nhiều hạn chế trong kinh nghiệm nghiên cứu, nên luận văn không
tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp, chỉ bảo
của các thầy, cô giáo và các bạn đồng nghiệp.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2018
Tác giả luận văn
Khampheo KHAMCHALUEN
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................. ii
MỤC LỤC .................................................................................................. iii
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT ....................................... iv
DANH MỤC CÁC BẢNG ............................................................................ v
DANH MỤC CÁC HÌNH ............................................................................. v
MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................... 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................. 2
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu ................................................................. 2
5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu ................................................. 2
6. Khái lược lịch sử nghiên cứu .................................................................. 4
7. Cấu trúc của luận văn ............................................................................. 6
8. Từ khóa: Sử dụng bền vững nước sông Mê Công trên đất Lào ............... 6
NỘI DUNG ................................................................................................. 7
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN SỬ DỤNG BỀN VỮNG
TÀI NGUYÊN NƯỚC ................................................................................ 7
1.1. Nhận thức chung về tài nguyên nước và phát triển bền vững ............... 7
1.1.1. Nội hàm khái niệm Tài nguyên nước ................................................ 7
1.1.2. Chiến lược sử dụng bền vững tài nguyên nước xuyên biên giới
trong một thế giới biến đổi.............................................................. 13
1.2. Hợp tác quốc tế trong sử dụng tài nguyên nước trên các dòng sông
quốc tế ............................................................................................ 18
1.2.1. Nhận thức chung về nội hàm Hợp tác quốc tế ................................ 18
1.2.2. Hợp tác quốc tế sử dụng nước các lưu vực sông ............................. 20
1.3. Các văn bản quan trọng về sử dụng nguồn tài nguyên nước .............. 21
iii
1.3.1. Công ước về Luật sử dụng các nguồn nước liên quốc gia ............... 21
1.3.2. Khuyến nghị của IUCN về nguyên tắc chia sẻ công bằng trong
quản lí nước xuyên biên giới .......................................................... 22
1.4. Sông Mê Công - lợi ích quốc gia - dân tộc Lào, mối quan tâm
chung của các nước trong khu vực .................................................. 25
1.4.1. Tầm quan trọng của sông Mê Công đối với 6 quốc gia trong lưu vực .. 25
1.4.2. Lợi ích quốc - dân tộc của CHDCND Lào ...................................... 27
1.4.3. Sự quan tâm chung của các quốc gia GMS ..................................... 28
1.4.4. Mối quan tâm chung giữa của các định chế quốc tế, các tổ chức
quốc tế và các quốc gia ngoài vùng................................................. 31
Tiểu kết chương 1 .................................................................................... 36
Chương 2: ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG BỀN VỮNG TÀI
NGUYÊN NƯỚC SÔNG MÊ KÔNG CỦA CHDCND LÀO ...................... 37
2.1. Đánh giá khái quát về điều kiện tự nhiên - xã hội CHDCND Lào...... 37
2.1.1. Đánh giá về điều kiện tự nhiên và môi trương tự nhiên .................. 37
2.1.2. Cư dân, văn hóa, xã hội .................................................................. 41
2.2. Thực trạng phát triển kinh tế ............................................................. 43
2.2.1. Đánh giá chung .............................................................................. 43
2.2.2. Về hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế ........................................... 45
2.3. Tình hình sử dụng tài nguyên nước sông Mê Công............................ 52
2.3.1. Sự dung nguồn nước trong sản xuất nông nghiệp và thủy sản ........ 52
2.3.1. Sự dụng nguồn nước trong hoạt động giao thông, du lịch ............... 53
2.4. Sự phát triển phát triển thủy điện của CHDCND Lào - Mô hình
khát vọng Cô-oet xuất khẩu thủy điện............................................. 56
2.4.1. Tiềm năng phát triển thủy điện ....................................................... 56
2.3.2. Những dự án thủy điện đang hoạt động .......................................... 57
2.4.3. Những dự án đang hoạt động: Dự án Nậm Ngừm ........................... 59
2.4.4. Một số dự án đang triển khai .......................................................... 61
iv
Tiểu kết chương 2 .................................................................................... 64
Chương 3: NHỮNG DỰ ÁN SỬ DỤNG NƯỚC MÊ CÔNG TRÊN
LÃNH THỔ CHDCND LÀO VÀ ĐỊNH HƯỚNG SỬ DỤNG CÔNG
BẰNG NGUỒN NƯỚC SÔNG MÊ CÔNG ............................................... 66
3.1. Xây dựng thủy điện ........................................................................... 66
3.1.1. Dự án Xayyabury ........................................................................... 66
3.1.2. Dự án Pak Beng .............................................................................. 68
3.2. Dự án Khai thông giao thông trên sông Mê Công .............................. 70
3.3. Những dư luận trái chiều về các dự án khai thác nước sông Mê
Công trên đất Lào ............................................................................. 72
3.4. Chiến lược sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê Công ................. 77
3.4.1. Hội nghị sử dụng bền vững nguồn nước GMS nhìn từ thể từ
ĐBSCL Việt Nam ............................................................................. 77
3.4.2. Những khuyến nghị của các nhà khoa học thế giới về sử dụng
bền vững nguồn nước sông Mê Công ............................................... 81
3.5. Quan hệ Việt - Lào / Lào Việt trong sử dụng bền vững nguồn
nước sông Mê Kông ......................................................................... 83
3.5.1. Quân hệ đặc biệt Việt - Lào / Lào - Việt ......................................... 83
3.5.2. Tăng cường hợp tác kế nối trong sử dụng công bằng và bền
vững tài nguyên nước sông Mê Công ............................................... 85
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .................................................................... 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 93
PHỤ LỤC .....................................................................................................
v
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
STT Chữ viết tắt
Chữ viết đầy đủ
1 ADB
Ngân hàng phát triển Châu Á
2 ASEAN
Hiệp hội các nước Đông Nam Á
3 CHDCND Lào Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào
4 ĐBSCL
Đồng bằng sông cửu Long
5 ĐNA
Đông Nam Á
Báo cáo đánh giá tác động môi trường
6
ETA
Hành lang kinh tế Đông- Tây
7
EWEC
Quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp
8 GAP
Tổng sản phẩm trong nước
9 GDP
Tiểu vùng Mê Công mở rộng
10 GMS
Sáng kiến hạ nguồn sông Mê Công
11 LMI
Ủy hội Mê Công
12 MRC
13 NSEC
Hành lang kinh tế Bắc - Nam
14 Nxb GD
Nhà xuất bản Gáo Dục
15 Nxb KHXH Nhà xuất bản Khoa học xã hội
Viện trợ phát triển chính thức
16 ODA
Các mục tiêu phát triển bền vững
17 SDG
Báo cáo đánh giá môi trường của Ủy hội sông Mê Công
18 SEA
Hành lang kinh tế phía Nam
19 SEC
Khu kinh tế đặc biệt
20 SEZs
Toàn cầu hóa
21 TCH
22 USAID
Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Các bậc thang thuỷ điện trên sông Lan Thương (Trung Quốc) ..... 31
Bảng 1.2. Tỉ lệ diện tích lưu vực và lưu lượng nước sông Mê Công ............. 33
Bảng 2.2. Các DA đập chính trên sông Mê Công trên lãnh thổ Lào .............. 62
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.1. Bản đồ lưu vực sông Mê Công ....................................................... 39
Hình 2. 2. Sơ đồ dòng chảy sông Mê Công - Lan Thương ............................. 40
Hình 2.3. Sơ đồ các DA thủy điện Mê Công thuộc Lào ................................. 59
v
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sông Mê Công trong tiếng Thái nghĩa là “Dòng sông mẹ”, bắt nguồn từ
cao nguyên Vân Nam (Trung Quốc), chảy qua Lào, Myanma, Thái Lan,
Campuchia và đổ ra biển Đông. Cũng như bao dòng sông khác mang trong
mình những đặc điểm riêng về điều kiện tự nhiên, sự đa dạng về thuỷ sinh vật,
nguồn thuỷ sản dồi dào, bồi tụ phù sa màu mỡ cho các đồng bằng, đảm bảo an
ninh lương thực cho các quốc gia trong khu vực. Đồng thời đây cũng là tài sản
văn hoá - xã hội - kinh tế vô giá của các quốc gia ven sông cùng chia sẻ.
Trong khuôn khổ hợp tác các quốc gia thuộc Tiểu vùng sông Mê Công
mở rộng (GMS) việc sử dụng hợp lí nguồn tài nguyên nước có tầm quan trọng
chiến lược đối với từng quốc gia và các quốc gia có lợi ích chung, trong đó,
nước CHDCND Lào có vai trò đặc biệt đối với phát triển kinh tế - xã hội
(KTXH) bền vững cũng như tác động trực tiếp tới ĐBSCL của Việt Nam
(ĐBSCL). Tại Hội nghị GMS6 các quốc gia trong khu vực khẳng định tên gọi
“Mê Công”, mang ý nghĩa là “mẹ của nước”, dòng sông Mê Công hùng vĩ đã
gắn kết chặt chẽ và là không gian sinh tồn chung của chúng ta
Tuy nhiên, việc khai thác nguồn nước Mê Công đang đặt ra không ít
thách thức trong phát triển KTXH và môi trường sinh thái đối với các quốc
gia Đông Nam Á (ĐNA) bán đảo, nhất là vấn đề xây dựng đập thuỷ điện trên
dòng sông này. Câu hỏi này đặt ra cho các quốc gia cùng sử dụng chung
nguồn nước sông Mê Công sau khi mà Chính phủ Lào dự kiến sẽ xây dựng
đập thuỷ điện lớn đầu tiên trên dòng chính hạ lưu sông Mê Công - Thuỷ điện
Xayyaburi. Việc xây dựng thuỷ điện trên dòng chính sông Mê Công sẽ tác
động như thế nào đối với hạ lưu các quốc gia trong khu vực ĐNA và các quốc
gia vùng hạ lưu cần hợp tác như thế nào trong việc sử dụng, khai thác hợp lí
các nguồn lợi đặc biệt nguồn nước mà sông Mê Công mang lại.
Nhận thức được tính thời sự và cấp thiết nêu trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài:
"SỬ DỤNG BỀN VỮNG TÀI NGUYÊN NƯỚC SÔNG MÊ CÔNG TRÊN LÃNH
THỔ CỦA NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO".
1
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nguyên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về sử dụng bền vững,
đánh giá tiềm năng và thực trạng sử dụng nguồn nước sông Mê Công, đặc biệt
là các DA thủy điện và DA khai phá dòng chảy trên sông Mê Công, trên cơ sở
đó đề xuất các giải pháp sử dụng hợp lý và bền vững nguồn tài nguyên nước
sông Mê Công trên lãnh thổ nước Lào có tính tới lợi ích của các nước láng
giềng, đặc biệt là Việt Nam
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quát cơ sơ lý luận và thực tiễn về sử dụng bền vững tài nguyên
nước sông trong khuôn khổ hợp tác và kết nối thuộc GMS..
- Phân tích tiềm năng và thực trạng sử dụng tài nguyên nước sông Mê
Công trên lãnh thổ nước Lào, tập trung chủ yếu và các DA khai thác thủy điện.
- Nguyên cứu các dự án, đề xuất các giải pháp sử dụng hợp lý nguồn
nước đặc biệt là các DA thủy điện và DA khai phá dòng chảy trên sông Mê
Công thuộc lãnh thổ Lào.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Về lí luận: nhận thức cơ bản về vai trò của tài nguyên nước đối với phát
triển bền vững; về thực tiễn đánh giá việc sử dụng bền vững nguồn nước
sông Mê Công có liên quan đến các DA thủy điện và DA khai phá dòng chảy
Mê Công trên lãnh thổ Lào.
Về Thời gian: Những sự kiện, thông tin tư liệu trong những năm đầu
thế kỉ XXI.
Về không gian lãnh thổ: Chủ yếu là lãnh thổ nước CHDCND Lào, có
tính tới sự iên quan tới các nước thuộc SMS: Lào, Mianma, Thái Lan,
Campuchia, Việt Nam, Trung Quốc.
5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu
5.1. Quan điểm nghiên cứu
Quan điểm lịch sử - viễn cảnh: Vận dụng trong nghiên cứu sự vận động
phát triển theo thời gian của sự vật hiện tượng, giúp người nghiên cứu hiểu rõ
hơn xu hướng vận động của nó trong tương lai.
2
Quan điểm hệ thống: trong nghiên cứu địa lý nói chung và địa lý kinh
tế - xã hội nói riêng thì việc vận dụng quan điểm tổng hợp có ý nghĩa rất quan
trọng. Vì vậy, khi nghiên cứu tài nguyên nước hạ nguồn sông Mê Công: vì
mục tiêu hợp tác phát triển cùng có lợi phải xét trên nhiều yếu tố: kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường.
Quan điểm lãnh thổ: Thực chất là quan điểm không gian trong Địa lý
học. Tất cả nghiên cứu về vấn đề Địa lí nhưng không thể tách rời khỏi không
gian Địa lí tương ứng.
Quan điểm địa - kinh tế/địa - chính trị: Là cơ sở cho mọi định hướng
phát triển kinh tế không chỉ ở Việt Nam mà còn cho các quốc gia. Các vấn đề
kinh tế có liên quan tới cả vấn đề chính trị, nó là hai mặt có quan hệ với nhau,
tác động hỗ trợ lẫn nhau.
Quan điểm hợp tác cùng có lợi:
Về mặt kinh tế, đó là tốc độ tăng trưởng, hiệu quả và sự ổn định của nền
kinh tế. Về chính trị- xã hội: Giữ vững môi trường hoà bình, hợp tác trong
khuôn khổ Hiến chương ASEAN hướng tới Cộng đồng hoà bình, ổn định và
thịnh vượng. Dưới góc độ xã hội, phải chú trọng đến việc xoá đói giảm
nghèo, bình đẳng giữa các quốc gia, cộng đồng dân tộc trong khu vực hạ
nguồn. Về môi trường: Giữ gìn tính đa dạng sinh học, bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên, ngăn chặn sự ô nhiễm và xuống cấp của môi trường.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập tài liệu: Thu thập nguồn tài liệu của cơ quan lưu
trữ, tài liệu xuất bản, tạp chí Đông Nam Á, tài liệu chuyên ngành và tài liệu
trên Internet. Những tài liệu và số liệu thống kê là cơ sở đánh giá vấn đề
khách quan. Phương pháp thống kê: Trên cơ sở những số liệu tài liệu đã thu
thập cần phải sử dụng phương pháp thống kê để hệ thống các số liệu phục vụ
cho nghiên cứu. Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh: Điều cần thiết và
quan trọng trong nghiên cứu là người nghiên cứu phải đưa ra nhận định đánh
3
giá của mình về vấn đề nghiên cứu. Phương pháp trên được thể hiện ở việc
đánh giá tiềm năng, cơ hội và thách thức vì mục tiêu phát triển bền vững tài
nguyên nước sông Mê Công. Đồng thời đưa ra những nhận định và triển vọng
phát triển bền vững trong tương lai. Phương pháp bản đồ, biểu đồ: Khai thác
các thông tin từ các bản đồ, biểu đồ cũng như thể hiện các kết quả nghiên cứu
trên bản đồ, giúp cụ thể hoá các dữ liệu đưa ra làm tăng tính trực quan, sát
thực, tăng độ tin cậy của công trình.
6. Khái lược lịch sử nghiên cứu
Về sử dụng nguồn tài nguyên nước sông Mê Công đã có rất nhiều công
trình nghiên cứu như: Phạm Đức Dương (2007) với tác phẩm Có một vùng văn
hoá Mê Công, Nxb KHXH, Hà Nội. Tác giả tập trung nghiên cứu, phân tích hệ
sinh thái tự nhiên và bức tranh văn hoá đa dạng các nước sử dụng chung nguồn
nước sông Mê Công trong bối cảnh Đông Nam Á lục địa. Về ĐNA đã có nhiều
tài liệu quan trọng của các tác giả Trần Khánh, (2006), Những vấn đề kinh tế
chính trị ĐNA thập niên đầu thế kỉ XXI, Nxb KHXH; Vũ Dương Minh (chủ
biên), (2007), ĐNA truyền thống và hội nhập, Nxb TG [11, 14].
Các nhà địa lý Việt Nam đã quan tâm đến khu vực Đông Nam Á nói
chung và Đông Nam Á lục địa nói riêng trong các giáo trình: Địa lý kinh tế xã
hội Việt Nam; Giáo trình Địa lý kinh tế xã hội Việt Nam của Lê Thông (chủ
biên), Nguyễn Viết Thịnh và Đỗ Minh Đức, Nxb GD Hà Nội. Có giá trị cho
nghiên cứu sông Mê Công là Địa lý Đông Nam Á của Phan Huy Xu, 1988,
Nxb Giáo Dục [21,22,24].
Những thông tin tư liệu mới nhất có thể sử dụng để cập nhật tình hình
tài nguyên nước lưu vực sông Mê Công là Báo cáo đánh giá môi trường chiến
lược về thuỷ điện trên dòng chính sông Mê Công, tháng 10/2010; Hiệp định
phát triển bền vững lưu vực sông Mê Công (1997); Báo cáo đánh giá tác
động đến môi trường (ETA) dự án thuỷ điện Xayaburi [1, 2,3,5,6,17,26,27].
Trong những năm gần đây diễn ra nhiều sự kiện kinh tế, chính trị và xã
hội nổi bật trong khu vực. Xuất phát từ lợi ích quốc gia, nhu cầu phát triển
4
kinh tế đã có hàng loạt các dự án, công trình thuỷ điện đã và đang được xây
dựng trên dòng chính sông Mê Công đặt các nước sử dụng chung nguồn nước
sông Mê Công trước những khó khăn, thách thức không chỉ về môi trường,
kinh tế mà còn ẩn chứa những bất ổn về chính trị. Vì vậy, các nước sử dụng
chung nguồn nước sông Mê Công cần phải tăng cường hợp tác hơn nữa để
đưa ra những giải pháp cho thực tiễn và định hướng chiến lược cho tương lai.
Đặc biệt 3 / 2018 là năm tổ chức Hội nghị thượng đỉnh Hợp tác Tiểu
vùng Mê Công mở rộng (SOM-GMS-6 tại Hà Nội) 3 / 2018 và Hội nghị Cấp
cao Ủy hội Mê Công quốc tế MRC tại Xiêm Riệp, Camphuchia 4 / 2018.
Đáng chú ý là tinh thần Hội nghị thượng đỉnh của Uỷ hội Mê Công được tổ
chức lần đầu tiên tại Thái Lan năm 2015 thể hiện quyết tâm phát triển bền
vững lưu vực. Hoà cùng xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá và tiến tới xây
dựng Cộng đồng ASEAN năm 2015 tạo ra cơ hội lớn cho hợp tác Mê Công.
Nhiều nguồn tài liệu có giá trị khoa học và thực tiễn sử dụng nguồn
nước sông Mê Công cho sự phát triển bền vững được thể hiện trong các tư
liệu có độ chính xác cao. Đó là Báo cáo đánh giá môi trường chiến lược của
thuỷ điện dòng chính Mê Công 10/2010 [1]. Báo cáo đánh giá hiện trạng lưu
vực Mê Công 2010 [2]. Ngày nước thế giới - 23/3/20180 [3]. Công ước của
Liên Hợp Quốc (LHQ) về Luật sử dụng các nguồn nước quốc tế / Chia sẻ:
Quản lí nguồn nước xuyên biên giới [4].
Những kiến thức cơ bản về địa lí thủy văn, đánh giá tài nguyên nước,
môi trương KTXH và sinh thái nhân văn (STNV) của các nước trong khu vực
và đặc biệt là Lào được phân tích trên cơ sở sử dụng các nguồn nghiên cứu có
độ tin cây cao. Đó là: Địa lí thủy văn [8]. Dòng chảy sông ngòi Việt Nam [15].
Dòng sông hợp tác và phát triển.[16]. Sông và Tiểu vùng Mê Công: Tiềm
năng hợp tác và phát triển quốc tế. [16]; Đánh giá tài nguyên nước [18].
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi có sử dụng một số nguồn tư liệu
truy cập từ các websites của CHDND Lào: www.iucn.org/asia/Mê Công_/
5
www.mrcMê Công.org/Lào../Lao Statistical Bureau Yearbook 2016 /
www.worldwater. org.2018 / quản lí nước xuyên biên giới (IUCN).
www.iucn.org/asia/Mê Công_dialogues/ www.mrcMê
Công.org./http://Lao Statistical Bureau Yearbook 2016
/www.worldwater.org.2018 / Sử dụng hợp lí tài nguyên nước để phát triển bền
vững/Ngày nước thế giới 23/3/2018/ [26].
Tuy nhiên, theo chúng tôi, các nguồn tài liệu nói trên vẫn có ngược điểm
chung là nặng về nhận định, phê phán, đề xuất giải pháp. Rất thiếu các nguồn tài
liệu về sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê Kông trên lãnh thổ Lào. Ngoài
nguồn Niên giám thông kề về Nông nghiệp năm 2015 [26], chúng tôi không tiếp
cận được các tài liệu nghiên cứu, các phát biểu, đề xuất chủ kiến của các cơ quan
nhà nước Lào. Rất tiếc nước bạn Lào hiện chưa có Luật về tài nguyên nước,
thiếu các công trình nghiên cứu độc lập của các nhà quản lí, các nhà khoa học
của Lào.
Trong tình hình nói trên, đề tài của chúng tôi cần được coi là bước đầu tìm
hiểu và kiến giải một số vấn đề thực tiễn sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê
Công, không chỉ vì mục đích phát kinh tế xã hội bền vững của đất nước Lào,
đồng thời đáp ứng nguyện vọng của các nước trong cộng đồng ASEAN, đặc biệt
là mối quan hệ Việt Nam - Lào / Lào - Việt Nam.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung chính của luận văn được trình
bày trong 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về sử dụng bền vững tài nguyên nước
Chương 2: Đánh giá tiềm năng và hiện trạng sử dụng bền vững tài
nguyên nước sông Mê Công của CHDCND LÀO
Chương 3: Những DA sử dụng nước Mê Công và đề xuất trên lãnh thổ
CHDCND LÀO
8. Từ khóa: Sử dụng bền vững nước sông Mê Công trên đất Lào
6
NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN SỬ DỤNG BỀN VỮNG
TÀI NGUYÊN NƯỚC
1.1. Nhận thức chung về tài nguyên nước và phát triển bền vững
1.1.1. Nội hàm khái niệm Tài nguyên nước
1.1.1.1. Tài nguyên nước là nguồn nước mà con người sử dụng hoặc có thể sử
dụng vào những mục đích khác nhau. Nước được dùng trong các hoạt
động nông nghiệp, công nghiệp, dân dụng, giải trí và môi trường. Hầu hết các
hoạt động trên đều cần nước ngọt. 97% nước trên Trái Đất là nước muối, chỉ
3% còn lại là nước ngọt nhưng gần hơn 2/3 lượng nước này tồn tại ở
dạng sông băng và các mũ băng ở các cực. Phần còn lại không đóng băng
được tìm thấy chủ yếu ở dạng nước ngầm và chỉ một tỉ lệ nhỏ trên mặt đất và
trong không khí [18].
Nước ngọt là nguồn tài nguyên tái tạo, tuy vậy mà việc cung cấp nước
ngọt và sạch trên thế giới đang từng bước giảm đi. Nhu cầu nước đã vượt
cung ở một vài nơi trên thế giới, trong khi dân số thế giới vẫn đang tiếp tục
tăng khiến cho nhu cầu nước càng tăng. Sự nhận thức về tầm quan trọng của
việc bảo vệ nguồn nước cho nhu cầu hệ sinh thái chỉ mới được lên tiếng gần
đây. Trong suốt thế kỉ 20, hơn một nửa các vùng đất ngập nước trên thế giới
đã bị biến mất cùng với các môi trường hỗ trợ có giá trị của chúng. Các hệ
sinh thái nước ngọt mang đậm tính đa dạng sinh học hiện đang suy giảm
nhanh hơn các hệ sinh thái biển và đất liền. Chương trình khung trong định vị
các nguồn tài nguyên nước cho các đối tượng sử dụng nước được gọi là quyền
về nước (water rights).
Nước mặt là nước trong sông, hồ hoặc nước ngọt trong vùng đất ngập
nước. Nước mặt được bổ sung một cách tự nhiên bởi giáng thủy và chúng mất
đi khi chảy vào đại dương, bốc hơi và thấm xuống đất [28]. Lượng giáng thủy
7
này được thu hồi bởi các lưu vực, tổng lượng nước trong hệ thống này tại một
thời điểm cũng tùy thuộc vào một số yếu tố khác. Các yếu tố này được coi
như khả năng chứa của các hồ, vùng đất ngập nước và các hồ chứa nhân tạo,
độ thấm của đất bên dưới các thể chứa nước này, các đặc điểm của dòng chảy
mặn trong lưu vực, thời lượng giáng thủy và tốc độ bốc hơi địa phương. Các
hoạt động của con người có thể tác động lớn hoặc đôi khi phá vỡ các yếu tố
này. Con người thường tăng khả năng trữ nước bằng cách xây dựng các bể
chứa và giảm trữ nước bằng cách tháo khô các vùng đất ngập nước. Con
người cũng làm tăng lưu lượng và vận tốc của dòng chảy mặt ở các khu vực
lát đường và dẫn nước bằng các kênh.
Tổng lượng nước tại một thời điểm là vấn đề cần quan tâm. Một số chủ
thể sử dụng nước có nhu cầu nước theo vụ. Ví dụ, trong mùa hè cần rất nhiều
nước để phục vụ cho nông nghiệp hoặc phát điện nhưng trong mùa mưa thì
không cần nước, vì vậy để cung cấp nước tốt cho mùa hè thì cần một hệ thống
trữ nước trong suốt năm và xả nước trong một khoảng thời gian ngắn. Các
chủ thể sử dụng nước khác có nhu cầu dùng nước thường xuyên như nhà máy
điện cần nguồn nước để làm lạnh. Để cung cấp nước cho các nhà máy điện,
hệ thống nước mặt chỉ cần đủ trong các bể chứa khi dòng chảy trung bình nhỏ
hơn nhu cầu nước của nhà máy [28].
Trên suốt dòng sông, lượng nước chảy về hạ nguồn thường bao gồm
hai dạng là dòng chảy trên mặt và chảy thành dòng ngầm trong các đá bị nứt
nẻ (không phải nước ngầm) dưới các con sông. Đối với một số thung lũng
lớn, yếu tố không quan sát được này có thể có lưu lượng lớn hơn rất nhiều so
với dòng chảy mặt. Dòng chảy ngầm thường hình thành một bề mặt động lực
học giữa nước mặt và nước ngầm. Nó nhận nước từ nguồn nước ngầm
khi tầng ngậm nước đã được bổ cấp đầy đủ và bổ sung nước vào tầng nước
ngầm khi nước ngầm cạn kiệt. Dạng dòng chảy này phổ biến ở các khu vực
karst do ở đây có rất nhiều hố sụt và dòng sông ngầm.
8
Nước ngầm là một dạng nước dưới đất, là nước ngọt được chứa trong
các lỗ rỗng của đất hoặc đá. Nó cũng có thể là nước chứa trong các tầng ngậm
nước bên dưới mực nước ngầm. Đôi khi người ta còn phân biệt nước ngầm
nông, nước ngầm sâu và nước chôn vùi. Nước ngầm cũng có những đặc điểm
giống như nước mặt như: nguồn vào (bổ cấp), nguồn ra và bồn chứa. Sự khác
biệt chủ yếu với nước mặt là do tốc độ luân chuyển chậm (dòng thấm rất
chậm so với nước mặt), khả năng giữ nước ngầm nhìn chung lớn hơn nước
mặt khi so sánh về lượng nước đầu vào. Sự khác biệt này làm cho con người
sử dụng nó một cách vô tội vạ trong một thời gian dài mà không cần dự trữ.
Đó là quan niệm sai lầm, khi mà nguồn nước khai thác vượt quá lượng bổ cấp
sẽ dẫn tới cạn kiệt tầng chứa nước và không thể phục hồi.
Nguồn cung cho nước ngầm là nước mặt thấm vào tầng chứa, các nguồn
thoát tự nhiên như suối và thấm vào các đại dương. Nguồn nước ngầm có khả
năng bị nhiễm mặn cách tự nhiên hoặc do tác động của con người khi khai thác
quá mức các tầng chứa nước cận biên mặn/ngọt. Ở các vùng ven biển, con
người sử dụng nguồn nước ngầm có thể khiến nước thấm vào đại dương từ
nước dự trữ gây ra hiện tượng muối hóa đất. Con người cũng có thể làm cạn
kiệt nguồn nước bởi các hoạt động làm ô nhiễm nó. Con người có thể bổ sung
cho nguồn nước này bằng cách xây dựng các bể chứa hoặc bổ cấp nhân tạo.
Tuy nhiên, hiện nay chúng ta đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng
nghiêm trọng liên quan đến nguồn nước trên phạm vi toàn cầu mà nguyên nhân
chính là do suy giảm hệ sinh thái, ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu.
Chủ đề Ngày Nước thế giới năm 2018 được Chương trình Môi trường
Liên Hợp quốc lựa chọn là “Nước với Thiên nhiên” với mong muốn tìm kiếm
các giải pháp dựa vào tự nhiên để giải quyết, ứng phó kịp thời với những
thách thức về nguồn nước. [1.2.4.28].
Hiện nay, có khoảng 2,1 tỉ người không được tiếp cận các dịch vụ về
nước uống bảo đảm an toàn. Đến năm 2050, dân số thế giới sẽ tăng khoảng 2
9
tỉ người và nhu cầu về nước toàn cầu có thể lên tới 30% so với hiện nay.
Nông nghiệp hiện sử dụng khoảng 70% lượng nước toàn cầu, chủ yếu là để
tưới tiêu - con số này sẽ tăng lên ở các vùng có áp lực nước cao và mật độ dân
số cao. Ngành công nghiệp chiếm 20% tổng nhu cầu sử dụng nước, chủ yếu là
dùng trong ngành công nghiệp năng lượng và sản xuất. 10% còn lại sử dụng
cho sinh hoạt - tỉ lệ sử dụng nước uống chỉ nhỏ hơn 1%. Ngày nay, khoảng
1,9 tỉ người sống trong các khu vực khan hiếm nước. Đến năm 2050, con số
này có thể tăng lên khoảng 3 tỉ người.
Trên phạm toàn cầu, hơn 80% lượng nước thải do xã hội tạo ra trở lại
môi trường tự nhiên mà không cần xử lý hoặc được đem đi tái sử dụng.
Dự kiến số người có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi lũ lụt tăng từ 1,2 tỉ tại
thời điểm này lên khoảng 1,6 tỉ năm 2050 - chiếm gần 20% dân số thế giới.
Ngày nay, khoảng 1,8 tỉ người bị ảnh hưởng bởi sự suy thoái đất và sa mạc
hoá. Ít nhất 65% diện tích đất bị mất hoặc ở trạng thái thoái hoá. Khoảng 64-
71% diện tích đất ngập nước tự nhiên đã biến mất từ năm 1900 do các hoạt
động của con người. xói mòn đất trồng trọt mang đi từ 25 đến 40 tỉ tấn đất
mặt hàng năm, điều này gây ảnh hưởng và làm giảm đáng kể sản lượng cây
trồng cũng như khả năng hấp thụ nước, carbon và chất dinh dưỡng của đất.
Dòng chảy tràn, dòng chảy lũ cũng chứa một lượng lớn nitơ và phốt pho,
cũng là một đóng góp chính cho ô nhiễm nguồn nước.
1.1.1.2. Tài nguyên nước dưới góc nhìn phát triển bền vững
Thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào
năm 1980 trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội
Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội
dung rất đơn giản: "Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới
phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và
sự tác động đến môi trường sinh thái học". Khái niệm này được phổ biến rộng
rãi vào năm 1987 nhờ Báo cáo Brundtland (còn gọi là Báo cáo Our Common
10
Future) của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới - WCED (nay là Ủy
ban Brundtland). Báo cáo này ghi rõ: Phát triển bền vững là "sự phát triển có
thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến
những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai..." . Nói cách khác,
phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội
công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được điều này, tất cả
các thành phần kinh tế - xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội... phải bắt
tay nhau thực hiện nhằm mục đích dung hòa 3 lĩnh vực chính: kinh tế - xã
hội - môi trường. Sau đó, năm 1992, tại Rio de Janeiro, các đại biểu tham gia
Hội nghị về Môi trường và Phát triển của Liên hiệp quốc đã xác nhận lại khái
niệm này, và đã gửi đi một thông điệp rõ ràng tới tất cả các cấp của các chính
phủ về sự cấp bách trong việc đẩy mạnh sự hòa hợp kinh tế, phát triển xã hội
cùng với bảo vệ môi trường.
Năm 2002, Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững (còn
gọi là Hội nghị Rio +10 hay Hội nghị thượng đỉnh Johannesburg) nhóm họp
tại Johannesburg, Cộng hòa Nam Phi với sự tham gia của các nhà lãnh đạo
cũng như các chuyên gia về kinh tế, xã hội và môi trường của gần 200 quốc
gia đã tổng kết lại kế hoạch hành động về phát triển bền vững 10 năm qua và
đưa ra các quyết sách liên quan tới các vấn đề nước, năng lượng, sức
khỏe, nông nghiệp và sự đa dạng sinh thái.
Theo Tổ chức ngân hàng phát triển châu Á (ADB): "Phát triển bền
vững là một loại hình phát triển mới, lồng ghép quá trình sản xuất với bảo tồn
tài nguyên và nâng cao chất lượng môi trường. Phát triển bền vững cần phải
đáp ứng các nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không phương hại đến khả năng
của chúng ta đáp ứng các nhu cầu của thế hệ trong tương lai".
Nước - nguồn tài nguyên thiết yếu cho cuộc sống của con người, sự
phát triển bền vững của mọi quốc gia và là ưu tiên hàng đầu để phát triển
bền vững.
11
Phát triển bền vững không phải là một khái niệm mới, mà thực ra đã
được sử dụng trong quản lý các tài nguyên có khả năng tái tạo. Con người
hoàn toàn có khả năng làm cho phát triển được bền vững, đảm bảo tài nguyên
đáp ứng được những nhu cầu hiện tại của mình mà không gây phương hại đến
việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai, đồng thời giảm thiểu tổn hại
tới hệ thống kinh tế - xã hội và môi trường.
Nước là yếu tố cơ bản không thể thiếu trong việc duy trì sự sống và mọi
hoạt động của con người trên hành tinh. Việc đáp ứng nhu cầu về nước đảm
bảo cả về chất lượng và số lượng là một điều kiện tiên quyết để phát triển bền
vững. Kể từ đầu thế kỉ 20, lượng nước tiêu thụ toàn cầu tăng 7 lần, chủ yếu do
sự gia tăng dân số và nhu cầu về nước của từng cá nhân. Cùng với sự gia tăng
dân số và khát vọng cải thiện cuộc sống của mỗi quốc gia và của từng cá nhân
thì nhu cầu về nước ngày càng gia tăng là điều tất yếu. Vì vậy, trên thực tế việc
đảm bảo cấp nước đáp ứng về chất lượng cho toàn bộ dân số toàn cầu và bảo
tồn các hệ sinh thái vẫn còn là một mục tiêu xa vời. Do sự biến đổi về nhiệt độ
và lượng mưa, hiện nay nhiều nơi đã thường xuyên không có đủ nước để đáp
ứng nhu cầu. Vì thế, trong thế kỉ 21, thiếu nước sẽ là một vấn đề nghiêm trọng
nhất trong các vấn đề về nước, đe doạ quá trình phát triển bền vững.
Theo đánh giá của nhiều cơ quan nghiên cứu về tài nguyên nước, hiện
tại có khoảng 1/3 số quốc gia trên thế giới bị thiếu nước và đến 2025 con số
này sẽ là 2/3 với khoảng 35% dân số thế giới sẽ rơi vào tình cảnh thiếu nước
nghiêm trọng. Ở một số quốc gia, lượng nước cho mỗi đầu người đang bị
giảm đáng kể. Hội nghị về nước của Liên hợp quốc vào năm 1997 đã thống
nhất “Tất cả mọi người, không phân biệt tuổi tác, địa vị kinh tế, xã hội đều có
quyền tiếp cận nước uống với số lượng và chất lượng đảm bảo cho các nhu
cầu cơ bản của mình”, theo đó, tiếp cận với nước uống là quyền cơ bản của
con người. Tuy nhiên, cho đến nay, số người thiếu nước uống sạch an toàn
vẫn đang không ngừng gia tăng. Vì vậy, mối lo về nước không phải của riêng
một quốc gia nào.
12
Nước đang trở thành tâm điểm tại nhiều diễn đàn lớn thế giới. Tại Hội
nghị Thượng đỉnh về môi trường tại Johannesburg, Nam Phi, nước được xếp ở
vị trí cao nhất trong số 5 ưu tiên để phát triển bền vững (WEHAB), đó là: Nước-
W; Năng lượng-E; Sức khoẻ-H; Nông nghiệp-A; và Đa dạng sinh học-B.
Việt Nam luôn khẳng định “nước là tài nguyên đặc biệt quan trọng, là
thành phần thiết yếu của sự sống và môi trường, quyết định sự tồn tại, phát
triển bền vững của đất nước” và vì vậy, Chính phủ Việt Nam luôn nỗ lực
tăng cường và kiện toàn, thể chế, chính sách trong lĩnh vực tài nguyên nước,
đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia có chung nguồn nước với Việt Nam cũng
như hợp tác và tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, các quốc gia trên
thế giới và khu vực để quản lý, bảo vệ hiệu quả tài nguyên nước nhằm góp
phần vào tiến trình phát triển bền vững của đất nước cũng như của thế giới và
khu vực.
1.1.2. Chiến lược sử dụng bền vững tài nguyên nước xuyên biên giới trong
một thế giới biến đổi
1.1.2.1. Tính cấp bách trong sử dụng nguồn nước xuyên biên giới
Nhu cầu về nước ngày càng tăng, tại nhiều quốc gia trên thế giới tài
nguyên nước đã bị khai thác quá mức, vượt quá khả năng của nguồn nước.
Hơn nữa, do tác động của biến đổi khí hậu, tình trạng khan hiếm nước càng
thêm trầm trọng hơn. Do đó, vấn đề cạnh tranh về nước đang ngày càng trở
nên căng thẳng giữa các quốc gia, khu vực, đô thị, nông thôn, hoặc giữa các
ngành nghề, lĩnh vực hoạt động khác nhau. Điều đó khiến cho nước đang dần
trở thành một trong những vấn đề chính trị tại nhiều quốc gia trên thế giới.
Theo Giám đốc UNESCO Koichiro Matsuura, trong tình trạng thiếu
nước gia tăng như hiện nay, vấn đề quản lý hiệu quả tài nguyên nước trở nên
quan trọng hơn bao giờ hết và việc đấu tranh với cái nghèo còn tùy thuộc vào
khả năng chúng ta đầu tư vào lĩnh vực tài nguyên nước [3,17,18,28].
Nhằm hạn chế nhu cầu cũng như chống thất thoát nước, đồng thời tăng
cường quản lý tài nguyên nước, nhiều chính sách đã được áp dụng. Luật pháp
13
về bảo vệ và quản lý tài nguyên nước đã được ban hành tại nhiều quốc gia.
Song, trên thực tế, những cải cách, đổi mới này vẫn chưa thực sự có hiệu quả,
công việc thường chỉ giới hạn trong ngành nước. Vì vậy, muốn thực sự có
hiệu lực, các quyết định cho vấn đề nước cần thiết có sự tham gia của lãnh
đạo của tất cả các ngành, trong đó có các ngành nông nghiệp, năng lượng,
thương mại và tài chính, bởi tất cả các ngành này đều ảnh hưởng quyết định
đến quản lý tài nguyên nước. Ngoài ra, sự cộng tác, phối hợp giữa khối nhà
nước với khối tư nhân.
Cả thế giới đang hướng tới hoàn thành được các mục tiêu thiên niên kỉ
về nước.Tuy nhiên, kỳ vọng để đạt được các mục tiêu thiên niên kỉ này là
không mấy hiện thực. Thực tế cho thấy, việc tiếp cận được với những dịch vụ
cơ bản liên quan đến nước như nước uống an toàn, vệ sinh… vẫn là một vấn
đề khó khăn đối với các nước đang phát triển. Theo ước tính, đến năm 2030
vẫn còn khoảng 5 tỉ người (chiếm 67% số dân thế giới) chưa được tiếp cận
với các điều kiện vệ sinh về nước. Vì vậy, để đạt được những mục tiêu Liên
hiệp quốc đề ra, đòi hỏi những nỗ lực hiện tại phải được tăng lên gấp bội.
Mặt khác, giữa nước và nghèo đói có mối liên hệ khăng khít với nhau -
số người có mức sống dưới 1,25 USD, gần như trùng với số người thiếu nước
uống sạch an toàn. Tình trạng này ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của con
người. Hầu hết 80% bệnh tật ở các nước đang phát triển đều liên quan đến
nước. Theo thống kê của WHO, mỗi ngày có khoảng 5.000 trẻ em, hay cứ sau
17 giây lại có 1 trẻ chết vì bệnh tả. Nếu như được tăng cường về cấp nước,
điều kiện vệ sinh và quản lý tài nguyên nước thì cả thế giới tránh được 1/10
bệnh tật.
Nhu cầu về nước chưa bao giờ cao như hiện nay. Khai thác nước sạch
đã tăng gấp 3 lần trong vòng 50 năm qua. Diện tích đất tưới cũng tăng gấp đôi
trong chừng ấy năm và hiện tượng này liên quan mật thiết với sự gia tăng dân
số. Dân số thế giới hiện nay là 6,6 tỉ người và mỗi năm tăng thêm 80 triệu
14
người. Điều đó có nghĩa, nhu cầu về nước sạch mỗi năm tăng thêm khoảng 64
tỉ mét khối. Đáng tiếc là 90% số dân trong số 3 tỉ người dự kiến tăng thêm
vào năm 2050 lại tập trung ở các nước đang phát triển, nơi mà ngay từ bây
giờ đã đang chịu cảnh khan hiếm nước.
Gia tăng dân số đồng nghĩa với gia tăng nhu cầu lương thực và tất
nhiên nhu cầu về nước cũng tăng. Cho đến nay, nông nghiệp vẫn là đối tượng
tiêu thụ nhiều nước nhất, chiếm tới 70% lượng nước tiêu thụ (so với 20%
dành cho công nghiệp và 10% dùng trong sinh hoạt đời sống). Nếu không có
quy hoạch sử dụng hợp lý, nhu cầu nước cho nông nghiệp trên toàn thế giới sẽ
tăng lên từ 70% đến 90% vào năm 2050, mặc dù sử dụng tài nguyên nước của
một số nước hiện đã chạm đến mức giới hạn. Đồng thời, những thay đổi về lối
sống và thói quen ăn uống đã diễn ra trong nhiều năm gần đây, nhất là gia
tăng tỉ lệ mức tiêu thụ thịt và các sản phẩm bơ sữa tại những nước vừa giàu
lên đã tác động rất lớn đến tài nguyên nước.
Để sản xuất 1 kg ngũ cốc cần từ 800 đến 4000 lít nước, trong khi đó để
có được 01 kg thịt bò phải tốn từ 2000 đến 16000 lít nước. Nếu vào thời điểm
năm 1985, một người Trung Quốc tiêu thụ 20 kg thịt thì vào năm 2009 con số
này đã là 50 kg. Điều đó có nghĩa, Trung Quốc cần có thêm 390 km3 nước.
Để giúp so sánh, năm 2002, lượng thịt tiêu thụ tính theo đầu người tại Thụy
Điển và tại Mỹ tương ứng là 76kg và 125 kg.
Sản xuất nhiên liệu sinh học tăng nhanh trong những năm qua đã gây
những tác động đáng kể đến nhu cầu về nước. Sản lượng ethanol năm 2008 là
77 tỉ lít, gấp 3 lần giai đoạn từ 2000 đến 2007 và dự kiến sẽ đạt 127 tỉ lít vào
năm 2017. Mỹ và Brazil là các nhà sản xuất hàng đầu, đáp ứng 77% nhu cầu
của toàn thế giới. Năm 2007, 23% sản lượng ngô ở Mỹ và 54% mía đường
của Brazil là dành để sản xuất ethanol. Trong năm 2008, 47% lượng dầu thực
vật sản xuất tại Cộng đồng Châu Âu (EU) được dùng làm nhiên liệu diesel
sinh học. Tuy vậy, mặc dù việc gia tăng sử dụng cây trồng cho nhiên liệu sinh
15
học, nhưng tỉ lệ so với tổng sản lượng vẫn còn nhỏ. Trong năm 2008, ước tính
thị phần về ethanol trên thị trường nhiên liệu vận tải của Mỹ, Brazil và EU
tương ứng là 4.5%, 40% và 2.2%. Với khả năng giúp làm giảm bớt sự lệ
thuộc vào năng lượng chất đốt, xem ra với công nghệ hiện tại, nhiên liệu sinh
học đang đặt lên môi trường và đa dạng sinh học một áp lực không tương
ứng. Vấn đề chính là phải cần một lượng lớn nước và phân bón để gieo trồng.
Để làm ra 01 lít nhiên liệu sinh học phải cần từ 1000 đến 4000 lít nước.
Trong khi đó, nhu cầu về năng lượng đang tăng nhanh, đồng nghĩa với
tăng nhu cầu về nước. Nhu cầu năng lượng toàn cầu dự kiến tăng lên khoảng
55% vào năm 2030 và chỉ riêng Trung Quốc và Ấn Độ đã chiếm tới 45%
lượng tăng này. Sản xuất điện từ nguồn thủy điện dự kiến tăng trung bình
hàng năm ở mức 1.7% từ năm 2004 đến 2030, gia tăng tổng thể là 60%. Tuy
bị chỉ trích là nguyên nhân gây ảnh hưởng nặng nề đến môi trường và khiến
nhiều người dân bị mất chỗ ở, nhưng với nhiều người các đập thủy điện vẫn
được xem là một giải pháp nhằm đáp ứng các nhu cầu năng lượng hiện nay.
Bên cạnh các áp lực gia tăng nhu cầu về nước nêu trên, sự ấm lên toàn
cầu sẽ làm cho chu trình thủy văn trở nên biến động mạnh hơn như thay đổi
về chế độ mưa và bốc hơi. Mặc dù chưa xác định được cụ thể những ảnh
hưởng nào của hiện tượng này tác động đến tài nguyên nước, nhưng tình
trạng thiếu nước chắc chắn sẽ tác động trở lại đến chất lượng nước và tần suất
các hiện tượng cực đoan như hạn hán, lũ lụt.
1.1.2.2. Tiếp cận chiến lược kinh tế nước xuyên biên giới
Theo ước tính, đến năm 2030 sẽ có 47% dân số thế giới sinh sống tại các
vùng chịu căng thẳng về nước. Chỉ tính riêng ở Châu Phi, do biến đổi khí hậu,
số người chịu cảnh thiếu nước nhiều hơn vào năm 2020 là từ 75 đến 250 triệu
người. Khan hiếm nước ở một số vùng khô hạn và bán khô hạn sẽ tác động lớn
tới sự di cư; khoảng 24 triệu đến 700 triệu người dân mất chỗ ở [3, 26].
16
Theo đánh giá chung, đầu tư vào lĩnh vực tài nguyên nước là rất quan
trọng đối với tất cả các quốc gia, kể cả với những nước nghèo. Sự phồn thịnh
trong tương lai của các nước đang phát triển một phần phụ thuộc vào mức độ
đầu tư mà họ dành cho ngành nước. Phát triển tài nguyên nước là nội dung
chính yếu trong quá trình phát triển KTXH.
Đầu tư vào ngành nước có thể được lợi theo nhiều cách. Mỗi một đô la
đầu tư vào nước sạch và vệ sinh ước tính sẽ thu lợi được từ 3 đến 34 đô la.
Thực tế cho thấy, nơi nào đầu tư kém thì tổng sản lượng quốc nội có thể bị
mất tới 10%. Tại lục địa châu Phi, tổn thất kinh tế do thiếu nước uống sạch và
điều kiện vệ sinh cơ bản ước tính 28.4 tỉ đô la mỗi năm - khoảng 5% GDP.
Đầu tư vào cơ sở hạ tầng vệ sinh cũng sẽ mang lại nhiều lợi ích cho
môi trường. Hiện nay, hơn 80% chất thải tại các nước đang phát triển được
thải trực tiếp ra môi trường không qua xử lý, gây ô nhiễm sông, hồ và các
vùng duyên hải. Ước tính, tổng chi phí để thay thế những hệ thống cấp nước
và cơ sở hạ tầng vệ sinh cũ tại các nước công nghiệp hàng năm có thể lên tới
200 tỉ đô la.
Nước là vấn đề cốt yếu nhất đối với các nước đang phát triển. Tuy
nhiên, cho đến nay, tỉ lệ đầu tư vào cơ sở hạ tầng và tăng cường năng lực cho
ngành nước từ nguồn ngân sách nhà nước và nguồn vốn ODA là không thỏa
đáng. Hỗ trợ phát triển quốc tế cho toàn ngành nước đang ngày càng giảm sút
và vẫn chỉ duy trì ở mức 5% tổng nguồn tài trợ.
Đứng trước thực trạng gia tăng nạn thiếu nước, nhiều quốc gia đã bắt
đầu tiến hành lồng ghép các chiến lược quản lý tài nguyên nước vào các kế
hoạch phát triển của mình. Tại Zămbia chính sách mới về quản lý tổng hợp tài
nguyên nước dự định sẽ thực hiện quản lý tổng hợp tài nguyên nước ở tất cả
các ngành. Qua đó, nhiều nhà tài trợ đã liên kết các đầu tư liên quan đến nước
trong gói hỗ trợ của họ cho Zămbia [28].
Dự án Anatolia -Tây Nam Thổ Nhĩ Kỳ (GAP) là một dự án phát triển
kinh tế xã hội đa ngành được thiết kế nhằm tăng thêm thu nhập ở khu vực
17
kém phát triển với tổng kinh phí dự tính khoảng 32 tỉ đô la. Kể từ khi mở
rộng hệ thống tưới, thu nhập đầu người đã tăng gấp 3 lần. Điện khí hóa nông
thôn và tỉ lệ được tiếp cận với điện đạt 90%, tỉ lệ xóa mù tăng, giảm tỉ lệ tử
vong ở trẻ em, khởi động kinh doanh tăng và chế độ sở hữu đất đai công bằng
hơn được mở ra đối với đất canh tác. Số dân thành thị được phục vụ nước
tăng gấp 4 lần. Nhờ đó, khu vực này không còn là một khu vực kinh tế kém
phát triển nữa.
Nước Úc cũng thay đổi các chính sách của họ với một loạt biện pháp
mới. Tại những thành phố chính đã áp dụng quy định hạn chế dùng nước đối
với một số hoạt động như tưới vườn, rửa xe, nước cho bể bơi, v.v… Tại
Sydney, năm 2008, đã áp dụng hình thức cấp nước hai chế độ - một cho nước
uống và một dành cho các sử dụng khác được lấy từ nguồn nước tái sử dụng.
Việc xử lý nước thải cũng có thể giúp tăng thêm lượng nước có thể sử
dụng được. Một số nước đã tiến hành việc dùng lại nước thải đã qua xử lý cho
sản xuất nông nghiệp. Song, việc sử dụng nước thải đô thị trong nông nghiệp
vẫn chưa nhiều, trừ một số quốc gia nghèo tài nguyên nước, như ở Dải Gaza
(Lãnh thổ Palestin: 40%), ở Israel (15%) và ở Ai Cập (16%).
Ngọt hóa nước biển (tách muối) cũng là một quy trình khác được sử
dụng tại các vùng khô hạn. Quy trình được áp dụng để lấy nước uống và nước
sử dụng trong ngành công nghiệp tại những quốc gia đã sử dụng đến cận tài
nguyên nước của mình như Arập Xêut, Israel [3].
1.2. Hợp tác quốc tế trong sử dụng tài nguyên nước trên các dòng sông
quốc tế
1.2.1. Nhận thức chung về nội hàm Hợp tác quốc tế
Về bản chất, có thể coi hội nhập quốc tế chính là một hình thức phát
triển cao của hợp tác quốc tế. Hợp tác quốc tế là quá trình các nước giao lưu
hoặc hành động cùng nhau để đạt được một mục tiêu, lợi ích nào đó. Có thể
18
chia hợp tác quốc tế thành ba mức độ cơ bản, là: 1- Trao đổi, tham vấn; 2-
Phối hợp chính sách, triển khai hoạt động phối hợp và thực hiện các dự án
chung; 3- Xây dựng, áp dụng luật lệ, chuẩn mực chung.
Mức độ thứ 3 là điểm trùng giữa hợp tác quốc tế và hội nhập quốc tế.
Nói rộng ra, hội nhập quốc tế bao hàm việc chấp nhận, tham gia xây dựng và
thực hiện các chuẩn mực quốc tế, bao gồm: các thể chế, luật lệ, tập quán,
nguyên tắc và tiêu chuẩn chung được chấp nhận rộng rãi. Các chuẩn mực này
có thể được hình thành từ quá trình hợp tác quốc tế, thông qua những hiệp
định, thỏa thuận giữa các nhà nước hoặc các chuẩn mực, tập quán được đặt ra
bởi các tổ chức, hiệp hội phi chính phủ được những tổ chức, cá nhân trên thế
giới chấp nhận rộng rãi.
Về mục tiêu, hội nhập quốc tế cũng như các hình thức hợp tác quốc tế
khác đều vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Các nước tham gia quá trình này cơ bản
vì thấy có lợi cho đất nước. Do đó, việc tham gia phải dựa theo một số tiêu
chí với mức độ và lộ trình phù hợp.
Về hình thức, hội nhập quốc tế bao gồm các hoạt động: 1-Thúc đẩy
quan hệ song phương dựa trên các chuẩn mực quốc tế chung; 2- Gia nhập các
tổ chức quốc tế, các cơ chế hợp tác quốc tế; 3- Xây dựng các luật lệ và chuẩn
mực; 4- Thực hiện các luật lệ, chuẩn mực, các hoạt động chung ở phạm vi
quốc tế và quốc gia.
Về lĩnh vực hội nhập, quá trình hội nhập diễn ra trong mọi lĩnh vực, từ
chính trị, kinh tế, quốc phòng - an ninh, đến các lĩnh vực khác. Hội nhập trên
các lĩnh vực này có mối liên hệ hữu cơ mật thiết, đan xen, tác động qua lại lẫn
nhau. Thông thường, kinh tế thường là lĩnh vực đi đầu và là cơ sở vững chắc
cho hội nhập trong các lĩnh vực khác. Đồng thời, hội nhập trong các lĩnh vực
khác cũng tạo ra một môi trường thuận lợi cho hội nhập kinh tế.
19
1.2.2. Hợp tác quốc tế sử dụng nước các lưu vực sông
Cho đến nay, các cách ứng xử trên các dòng sông quốc tế vẫn chỉ theo
những trường hợp cụ thể, dựa vào các hiệp ước và thỏa thuận giữa các quốc
gia hữu quan là chính. Trên thế giới hiện có 261 lưu vực dòng chảy quốc tế,
chiếm 45% diện tích đất toàn cầu và là nơi sinh sống của trên 40% dân số thế
giới. Trong vấn đề sử dụng tài nguyên nước trên các dòng sông quốc tế, hai
công ước được xem là cơ sở cho các chuẩn mực ứng xử công bằng: Quy định
Helsinki năm 1967 về việc sử dụng nước trên các dòng sông quốc tế. Cho đến
nay quy định Helsinki chỉ mới được sử dụng một lần trong bản tuyên bố năm
1975 của Ủy ban sông Mê Công [4].
Công ước Liên Hiệp Quốc năm 1997 về việc “sử dụng không vì mục
đích giao thông của các dòng chảy quốc tế”. Công ước này nhấn mạnh đến
việc sử dụng “công bằng và hợp lý” các dòng sông quốc tế. Có ba nước là
Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ và Pháp đã không ký vào Công ước này. Các công
ước này ra đời để hạn chế những sử dụng lạm quyền của nhiều quốc gia nằm
ở thượng nguồn các dòng sông quốc tế khi xây dựng những công trình thủy
nông hay thủy điện, không đếm xỉa đến quyền lợi của các nước ven sông nằm
ở hạ lưu. Họ đã dựa vào những học thuyết không còn phù hợp với nền văn
minh nhân loại trong thời đại mới. Các học thuyết ấy gồm:
Học thuyết Harmon về chủ quyền tuyệt đối. Nó cho phép quốc gia ở
thượng nguồn quyền tự do làm bất kỳ điều gì họ muốn. Học thuyết này được
Mỹ sử dụng vào đầu thế kỉ 20 trong việc phân chia nguồn nước với Mexico
nhưng ngày nay bị tất cả các quốc gia phản đối.
Học thuyết toàn vẹn tuyệt đối của dòng sông: cấm tất cả các tác động
lên dòng sông, vì quá khắt khe nên học thuyết này ít được sử dụng.
Học thuyết chủ quyền lãnh thổ hạn chế: được sử dụng rộng rãi.
Học thuyết tài sản chung: xem dòng sông là tài sản chung của tất cả các
quốc gia ven sông.
20
Học thuyết quyền hạn tương liên: nhấn mạnh đến việc sử dụng có hiệu
quả tài nguyên nước là quan trọng hơn quyền sở hữu tài nguyên này.
Người ta kết luận rằng muốn tránh tranh chấp và xung đột, các cách ứng xử
phải dựa theo các nguyên tắc sau:
- Nhiệm vụ của các quốc gia là phải hợp tác và thương lượng để đạt
đến thỏa thuận;
- Nghiêm cấm những hành động có khả năng gây hại cho các quốc gia
ven sông khác;
- Nhiệm vụ tham khảo ý kiến trước hành động,
- Tuân thủ nguyên tắc sử dụng công bằng và hợp lý các dòng chảy
quốc tế. Trường hợp của việc sử dụng không công bằng các nguồn nước ở
Trung Đông là những thí dụ điển hình của việc các quốc gia ở thượng
nguồn tìm cách chiếm đoạt tài nguyên nước quốc tế mà không có thương
lượng và thỏa thuận [4].
1.3. Các văn bản quan trọng về sử dụng nguồn tài nguyên nước
1.3.1. Công ước về Luật sử dụng các nguồn nước liên quốc gia
Công ước về Luật sử dụng các nguồn nước liên quốc gia cho các mục
đích phi giao thông thủy được Đại hội đồng Liên Hợp quốc khóa 41 thông
qua ngày 21/5/1997 bao gồm 7 phần và 37 điều. Công ước này áp dụng cho
việc sử dụng các nguồn nước liên quốc gia cho các mục đích phi giao thông
thủy và các biện pháp bảo vệ, bảo tồn và quản lý có liên quan đến việc sử
dụng các nguồn nước liên quốc gia. [4].
Đây là Công ước toàn cầu đầu tiên điều chỉnh khá toàn diện quan hệ
giữa các quốc gia trong việc sử dụng các nguồn nước liên quốc gia với mục
đích bảo đảm việc sử dụng nguồn nước liên quốc gia một cách công bằng,
hợp lý giữa thượng lưu và hạ lưu, việc thực hiện nghĩa vụ không gây hại đáng
kể đối với các quốc gia liên quan theo các nguyên tắc và chuẩn mực chung
21
của quốc tế. Các quy định của Công ước có tính áp dụng bắt buộc đối với các
quốc gia là thành viên. Trong trường hợp có một hay một số quốc gia ven
nguồn nước không tham gia Công ước thì có thể sử dụng các nguyên tắc, biện
pháp của Công ước làm cơ sở để đàm phán, đấu tranh hay thỏa thuận giải
quyết các vấn đề phát sinh đối với nguồn nước liên quốc gia.
Theo các chuyên gia tài nguyên nước: Việc gia nhập Công ước về cơ
bản sẽ không làm thay đổi các quyền, nghĩa vụ của các quốc gia trong việc
khai thác, sử dụng, bảo vệ nguồn nước đối với các nguồn nước liên quốc gia
thuộc phạm vi lưu vực sông Mê Công.
Tuy nhiên, vấn đề cần quan tâm hiện nay là khi các quốc gia có chung
nguồn nước với Việt Nam vẫn chưa tham gia Công ước thì các quy định của
Công ước chưa thể được áp dụng để giải quyết các vấn đề phát sinh trong
khai thác, sử dụng, bảo vệ nguồn nước giữa Việt Nam với các nước có chung
nguồn nước. Trong khi đó, thời gian gần đây, các quốc gia ở thượng nguồn có
chung nguồn nước với Việt Nam đều tăng cường khai thác lợi ích từ nguồn
nước liên quốc gia cho phát triển KTXH và các xung đột lợi ích giữa các quốc
gia thượng nguồn với hạ nguồn trong việc khai thác, sử dụng nguồn nước liên
quốc gia ngày càng rõ nét, đang làm hạn chế khả năng các quốc gia trong khu
vực cùng tham gia Công ước. Chính vì vậy, Việt Nam cũng cần phải có kế
hoạch, lộ trình cụ thể sẵn sàng thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình, nhất
là đối với những quy định về tham vấn trước, ứng phó, khắc phục sự cố và
giải quyết tranh chấp, bồi thường thiệt hại theo quy định của Công ước.
1.3.2. Khuyến nghị của IUCN về nguyên tắc chia sẻ công bằng trong quản
lí nước xuyên biên giới
Là dòng sông xuyên biên giới, việc sử dụng nguồn tài nguyên nước của
dòng sông này phải được quan lí nước xuyên biên giới theo khuyến nghị của
IUCN với 6 thông điệp sau đây [28]:
22
1.3.2.1. Các khung pháp lý cho hợp tác xuyên biên giới
Các định chế pháp luật quốc tế là cơ sở để quản lý nước xuyên biên
giới Các khuôn khổ pháp lý và thể chế liên quốc gia là xương sống của các hệ
thống quản lý hợp tác. Các khuôn khổ pháp lý và thể chế tuy không thể ngăn
ngừa tất cả các tranh chấp nhưng là những chỗ dựa quan trọng trong việc xác
định “luật chơi” và như vậy nó đảm bảo tăng cường an ninh pháp lý và giảm
khả năng tranh chấp nước giữa các quốc gia cùng chia sẻ.
Các định chế quốc tế cần phải được cụ thể hóa đến cấp quốc gia và địa
phương Luật nước quốc tế cần phải được cụ thể hóa ở cấp quốc gia thành các
quyền và nghĩa vụ cho các cá nhân và các tổ chức tại các quốc gia. Điều này
có thể đạt được thông qua các luật nước và quá trình quản lý tài nguyên nước
của các quốc gia và các địa phương. Quốc gia có quyền sử dụng tài nguyên
nước của mình, nhưng có nghĩa vụ tránh không gây tổn hại cho các quốc gia
khác ‘Sử dụng công bằng’ là một trong những quy chế thông lệ quan trọng
nhất đối với việc chia sẻ tài nguyên nước. Nó dựa trên quan điểm về sự bình
đẳng về quyền, kêu gọi cân bằng tất cả các lợi ích hợp lý chứ không chỉ là
chia sẻ bình quân về tài nguyên nước. Các cơ chế giải quyết xung đột là yếu
tố quan trọng của mọi định chế pháp lý Nhằm giúp luật nước quốc tế đạt được
hiệu quả khi đi vào thực tiễn, các quốc gia cần phải nhất trí về các cách thức
giải quyết tranh chấp một cách hòa bình và các công cụ pháp lý có hiệu lực để
giải quyết những trường hợp không thể hòa giải.
1.3.2.2. Các thể chế cho quản lý lưu vực sông xuyên biên giới
Các thể chế đưa ra các “luật chơi” chính thức và cả không chính thức
Các thể chế tổ chức quản lý nước xuyên biên giới có thể thúc đẩy các cơ hội
và giải quyết các vấn đề do nguồn nước xuyên biên giới tạo ra. Thể chế có thể
là không chính thức như sự đồng thuận về một vấn đề hoặc các thỏa thuận bất
thành văn nhưng đang thực thi, hoặc là rất chính thức, bao hàm trong các tổ
23
chức quản lý lưu vực sông hoặc các điều ước có ràng buộc về mặt pháp lý.
Không có tổ chức quản lý nước xuyên biên giới hoàn hảo Các tổ chức xuyên
biên giới có rất nhiều chức năng, từ thu thập dữ liệu và chia sẻ thông tin tới
giải quyết các nhiệm vụ cụ thể như xây một con đập cho tới việc quản lý
chung về các vấn đề nước trong khuôn khổ lưu vực sông mà họ quản lý. Chức
năng và mục tiêu sẽ quyết định quy mô của tổ chức. Các thể chế xuyên biên
giới cần phải có sự linh hoạt để thích ứng Việc điều chỉnh các Hiệp định và
thay đổi các tổ chức chính thức là không dễ, do đó chúng cần phải được thiết
kế để có thể giải quyết được những biến động không lường trước về thông tin,
hoàn cảnh và các ưu tiên có thể xảy ra trong tương lai. Thách thức này chỉ có
thể được giải quyết bằng việc xây dựng khả năng linh hoạt cho tổ chức. Bảo
đảm nguồn lực về con người và tài chính thích hợp là một thách thức lâu dài
Một số tổ chức có thể gắn kết trực tiếp nguồn tài chính của họ với việc phát
triển và vận hành các tài sản kinh tế như các con đập; một số khác thì khó
khăn hơn. Duy trì một quy mô thích hợp kết hợp nâng cao năng lực con người
là vấn đề phức tạp khi mà bối cảnh điều kiện, kiến thức và các ưu tiên thay
đổi rất nhanh chóng.
1.3.2.3. Thực hiện quản lý hợp tác nước xuyên biên giới
Việc thực hiện không chỉ đơn thuần là tuyên bố các nguyên tắc và quy
định. Nhìn chung, việc thực hiện các thỏa thuận quốc tế được xác định là các
hoạt động mà các bên liên quan thực hiện để hoàn thành các nghĩa vụ và để
đạt được những mục tiêu và mục đích của điều ước quốc tế, ví dụ như chuyển
hóa các thỏa thuận thành luật quốc gia, thành lập các tổ chức phù hợp và thực
thi tuân thủ. Quản trị là yêu cầu tiên quyết để thực hiện quản lý nước xuyên
biên giới Để thực hiện hiệu quả đòi hỏi cam kết thực sự của các chính phủ và
các bên liên quan và một sự cân bằng khó khăn giữa theo đuổi tinh thần và
các nghĩa vụ cụ thể của các thỏa thuận quốc tế trong khi vẫn phải phát triển
24
các phương thức hoạt động và thích ứng với hoàn cảnh thay đổi. Quá trình
thực hiện cần được hướng dẫn bởi kiến thức và sự tham gia Kiến thức và sự
tham gia sẽ xây dựng niềm tin, quyền sở hữu và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các
bên tham gia - các giá trị này không thể bị phóng đại. Chúng giúp xác định
các mục tiêu, tăng cường hiệu quả, xóa bỏ các xung đột và duy trì sự hợp tác
quản lý nước xuyên biên giới. Quản lý thích ứng cho phép sự linh hoạt trong
quản lý nguồn nước xuyên biên giới Các quá trình quản lý thích ứng - liên
quan đến việc trao đổi thông tin, rà soát và đánh giá lại một cách liên tục - có
ý nghĩa quan trọng trong việc quản lý nước xuyên biên giới trong bối
1.4. Sông Mê Công - lợi ích quốc gia - dân tộc Lào, mối quan tâm chung
của các nước trong khu vực
1.4.1. Tầm quan trọng của sông Mê Công đối với 6 quốc gia trong lưu vực
Do sức ép của phát triển kinh tế, thiếu sự đồng thuận về lựa chọn chiến
lược phát triển bền vững, các nước trong lưu vực đã và đang khai thác triệt để
các nguồn lợi từ hệ thống sông Mê Công nhằm phục vụ các ưu tiên phát triển
của mình. Hoạt động phát triển kinh tế thiếu bền vững đã làm hình thái của
sông Mê Kông thay đổi mạnh mẽ, đặc biệt sau những năm 1980. Theo đó,
hàng ngàn hồ chứa, đập dâng, trạm bơm đã được xây dựng trên các dòng
nhánh để sản xuất thủy điện, lấy nước phục vụ tưới tiêu và các nhu cầu khác
của phát triển kinh tế. Phía thượng nguồn dòng chính, Trung Quốc đã và đang
xây dựng 8 đập thủy điện với quy mô công suất lớn. Ở hạ nguồn, 12 đập thủy
điện bậc thang cũng đang được đệ trình xây dựng, chưa kể các dự án chuyển
nước từ sông Mê Kông về vùng Đông Bắc phục vụ cho sản xuất nông nghiệp
của Thái Lan đã được bàn luận đến trong nhiều năm qua. Việt Nam cũng phát
triển tối đa hệ thống thủy lợi nhằm đáp ứng nhu cầu về nguồn nước cho hoạt
động sản xuất nông nghiệp, thủy sản, định cư và giao thông thủy. Tất cả
những kiến tạo đó đã, đang và sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến sông Mê Công và
các hệ sinh thái trong lưu vực về nguồn nước, phù sa và sự sinh tồn của các
loài thủy sản.
25
ĐBSCL được đánh giá là vùng sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ các
hoạt động phát triển kinh tế thiếu bền vững ở thượng nguồn. Cùng với tác
động của biến đổi khí hậu, chiến lược phát triển trên hệ thống sông Mê Kông
của các quốc gia trong lưu vực sẽ đặt ĐBSCL trước một thách thức lớn trong
việc duy trì nguồn nước, phù sa và nguồn lợi thủy sản nhằm đảm bảo duy trì
hệ sinh thái đất ngập nước, năng xuất sản xuất nông nghiệp và sinh kế của
hơn 18 triệu người sinh sống trong vùng.
Nhận thức được tầm quan trọng của dòng Mê Công đối với tương lai
phát triển của khu vực, năm 1995, Việt Nam cùng Campuchia, Lào và Thái
Lan đã ký kết Hiệp định Mê Kông về hợp tác phát triển bền vững lưu vực
sông Mê Kông. Các nguyên tắc cơ bản của Hiệp định này là các đề xuất phát
triển trên dòng chính sông Mê Công của các quốc gia thành viên phải được
thông qua cơ chế tham vấn, thông báo trước và minh bạch thông tin. Theo đó,
chính phủ các quốc gia trong lưu vực phải hợp tác chặt chẽ với nhau, cùng đối
thoại, trao đổi với các bên liên quan trong nội bộ mỗi nước như chính quyền
và nhân dân địa phương để tìm tiếng nói chung cho các quyết định phát triển.
Trong bối cảnh đó, với vai trò là một bên tham gia quan trọng, các tổ chức xã
hội dân sự Việt Nam nói chung và ở khu vực ĐBSCL nói riêng cần được
cung cấp thông tin, tăng cường hiểu biết, thực hiện các đánh giá độc lập để có
thể tham gia mạnh mẽ hơn đối với các chiến lược, kế hoạch phát triển trên hệ
thống sông Mê Kông, nhằm góp phần bảo vệ lợi ích cộng đồng, quốc gia và
sự phát triển hài hòa trong lưu vực. Đây là những lý do chính mà PanNature
tổ chức Hội thảo tập huấn “Chiến lược phát triển trên hệ thống sông Mê
Công: Bối cảnh, tác động và các chính sách thích ứng” [24,26].
Hội thảo được tổ chức trong hai ngày 22 - 23 tháng 6 năm 2012 tại thành
phố Cần Thơ. Với những người Lào có học hiểu biết, họ thấy được tiềm năng
thiên nhiên phong phú của đất nước Lào, giới lãnh đạo thế hệ mới ở Lào nuôi
tham vọng khai thác tiềm năng thuỷ điện con sông Mê Công để mong sao biến
xứ Lào thành “Bình Điện Đông Nam Á/ the battery of Southeast Asia”.
26
Những ai có theo dõi các bước khai thác thủy điện của Lào sẽ nhận ra
ngay rằng không phải Tổng thống, Thủ tướng hay Ngoại trưởng Lào, nhưng
là một tên tuổi khác, Viraphonh Viravong, nổi bật là trí tuệ của đất nước Lào.
Viraphonh Viravong trong suốt hơn ba thập niên qua đã có những nỗ lực bền
bỉ và kiên định với giấc mơ canh tân, biến đất nước Lào trở thành một xứ
“Kuwait về thủy điện của Đông Nam Á” [23].
1.4.2. Lợi ích quốc - dân tộc của CHDCND Lào
Là nước đang phát triển ở giai đoạn đầu, CHDCND Lào rất cần thiết
phải phát triển đột phá từ khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt
là nguồn tài nguyên nước sông Mê Công trên lãnh thổ của Lào. Điều đó cũng
dễ hiểu, vì Lào là nước không có biển, nhưng lại chiếm 25% diện tích lưu vực
và 35% tông diện tích dòng chay phát sinh từ bên ngoài và phát sinh trên lãnh
thổ chủ yếu là nước mặt, nước ngầm liên quan tới điều tiết của nước mặt dòng.
Dựa vào nguồn tài nguyên nước đó, lợi ích quốc gia dân trộc Lào khao
khát trở thành quốc gia xuất khẩu năng lượng thủy điện. Trong giai đoạn 2010
- 2010, Lào đã triển khai 11 DA thủy điện với tổng công suất 1.773 W, trong
đó có các DA lớn thuỷ điện Xayabury (1285 W) và Pak Beng (1230 W).
Việc triển khai các DA thủy điện nói trên gây tranh cãi khá gay gắt với
các nước láng giềng Thái Lan, Campuchia, Việt Nam. Đây không còn là tranh
luận mà vấn đề thực tế. Với Campuchia, lưu lượng nước Biển Hồ giảm mạnh,
khiến đời sống dân cư sông trên hồ gặp nhiều khó khăn, trong đó cư dân có
nguồn gốc từ Việt Nam. ĐBSCL Việt Nam đang đứng trước nguy cơ sạt lở,
mất hẳn mùa lũ hiền hòa, cạn kiệt nguồn thủy sinh quí giá, hiện tượng xâm
nhập mặc ngày càng nghiêm trọng. Cho dù ngoài nguyên nhân do biến đổi khi
hậu toàn cầu mà Việt Nam là một trong 5 quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề,
thì nguyên nhân suy giảm dòng chảy liên quan tới nước sông Mê Công là sự
thật. Trước tình hình đó, MRC vào cuộc, nhưng cũng chỉ ở mức khuyến nghị,
chứ không thể đi xa hơn (!?)
27
Đã đến lức các quốc gia thành viên GMS, trong đó có Lào phải tính tới
sự chia sẻ hài hòa lợi ích quốc gia dân tộc với lợi ích của các nước láng giềng,
đặc biệt là Campuchia và ĐBCL Việt Nam.
1.4.3. Sự quan tâm chung của các quốc gia GMS
Tại tiểu vùng GMS, sông Mê Công-Lan Thương là con sông dài thứ 12
trên thế giới và thứ 7 ở châu Á. Với chiều dài khoảng 4.350 km, sông bắt
nguồn từ vùng núi cao tỉnh Thanh Hải (Trung Quốc) rồi đến Myanmar, Lào,
Thái Lan, Campuchia và Việt Nam. Thủ tướng cho rằng, tên gọi “Mê Công”,
mang ý nghĩa là “mẹ của nước”, dòng sông Mê Công hùng vĩ đã gắn kết chặt
chẽ và là không gian sinh tồn chung của chúng ta.[1,2,23].
Lưu lượng nước sông Mê Công hàng năm là 475 tỉ m3 đứng hàng thứ 8
thế giới với hơn 100 chi lưu và phụ lưu lớn nhỏ đổ vào dòng Mê Công. Đây là
địa bàn cư trú của 320 triệu dân với nền văn hoá đa dạng, đa sắc tộc. Lưu vực
sông Mê Công khuôn khổ hợp tác các quốc gia Đông Nam Á, có tên gọi là
Tiểu vùng Mê Công mở rộng ( tiếng Anh là GMS).
GMS giàu tài nguyên thiên nhiên, văn hoá và nhân văn, nhưng nhìn
chung đây còn là vùng nghèo, chậm phát triển ở khu vực Đông Nam Á, cơ sở
hạ tầng yếu kém, từng bị các cuộc chiến tranh kéo dài tàn phá, trình độ phát
triển rất chênh lệch giữa các quốc gia và các địa phương.
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc cho rằng, trong lịch sử phát
triển của nhân loại và của mỗi quốc gia - dân tộc, các dòng sông luôn có ý
nghĩa đặc biệt. Những dòng sông lớn ở khu vực như sông Trường Giang, sông
Hằng, sông Mê Công-Lan Thương, sông Hồng, sông Ayeyawady, sông Chao
Phraya là những dòng chảy mang đến sinh kế cho người dân, gắn kết văn hoá,
thúc đẩy giao lưu và giao thương giữa các cộng đồng và khu vực.
Thủ tướng nhấn mạnh, các dòng sông khu vực và sông Mê Công-Lan
Thương là mạch nguồn gắn kết, là sợi dây kết nối bền chặt đến muôn đời của
các quốc gia, người dân 6 nước tiểu vùng, đòi hỏi các nước phải cùng nhau nỗ
28
lực gìn giữ hòa bình, hợp tác phát triển nhằm đưa tiểu vùng trở thành một khu
vực hội nhập, phát triển bền vững và thịnh vượng. Đây cũng là chủ đề của
Hội nghị Thượng đỉnh GMS-6 nhân dịp kỉ niệm 25 năm thành lập cơ chế hợp
tác này.
Thủ tướng cũng chia sẻ về ấn tượng khi dự triển lãm ảnh 25 năm hợp
tác GMS chiều nay, tại đó, “chúng ta đã chứng kiến những bức tranh phát
triển sống động của người dân trên khắp khu vực”. Sự cần cù, chịu khó, sáng
tạo, nỗ lực vươn lên không ngừng của người dân các nước GMS, hoà cùng
với sức sống vĩ đại của dòng sông Mê Công-Lan Thương là động lực phát
triển to lớn của tất cả chúng ta.
Trách nhiệm của các Chính phủ là làm sao để kiến tạo được môi trường
phát triển, phát huy được nguồn lực to lớn đưa quốc gia vào con đường phát
triển bền vững, Thủ tướng nêu rõ.
Bằng sự nỗ lực của các nước thành viên và sự hỗ trợ của ADB, GMS
đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Từ năm 1992 đến 2006, tổng xuất
khẩu của các nước thành viên GMS tăng 4 lần so với trước. Năm 2005 nội
tiểu vùng đã tăng 15 lần so với năm 1992, đầu tư nước ngoài tăng từ 3 tỉ USD
lên 7 tỉ USD. Số khách du lịch nước ngoài vào tiểu vùng tăng từ 10 triệu
(1995) lên 22 triệu (2006) [16].
Hợp tác phát triển cơ sở hạ tầng giao thông được coi là lĩnh vực ưu tiên
hàng đầu và tập trung vào 3 hành lang kinh tế chủ yếu.
Thứ nhất: Hành lang kinh tế Đông - Tây (EWEC), dài 1450 km, đầu
cầu phía đông tính từ thành phố cảng Đà nẵng, Thừa Thiên - Huế, Quảng
Trị(Việt Nam) qua Savanakhet (Lào), Thái Lan và kết thúc tại đầu phía tây tại
thành phố cảng Mawlamyine (Mianmar). Năm 2007, với việc khánh thành
cây cầu quốc tế thứ hai qua sông Mê Công, giao thông đường bộ của EWEC
đã thông suốt và EWEC thực sự trở thành hành lang đi vào hoạt động trong
khuôn khổ GMS.
29
Thứ hai: Hành lang kinh tế Bắc - Nam (NSEC), gồm 3 tuyến dọc theo
trục Bắc - Nam là Côn Minh - Chiềng Mai - Băng Cốc / Côn Minh - Hà Nội -
Hải Phòng/ Nam Ninh - Hà Nội. NSEC hoàn thành năm 2020.
Thứ ba: Hành lang kinh tế phía Nam(SEC), gồm 3 tuyến đường nối
Nam Thái Lan qua Campuchia với Việt Nam. Theo quy hoạch dự kiến SEC đi
vào hoạt động từ năm 2012 - 2020.
Nhìn tổng thể, các nước trong khu vực chịu sự ràng buộc bởi một hệ
thống các mối quan hệ không gian lưu vực.
Hội nghị GMS các nhà lãnh đạo đã đối thoại với Diễn đàn thanh niên;
gặp gỡ thành viên Diễn đàn kinh doanh đầu tư GMS.
Trong lịch sử phát triển của nhân loại và của mỗi quốc gia - dân tộc,
các dòng sông luôn có ý nghĩa đặc biệt. Những dòng sông lớn ở khu vực như
sông Trường Giang, sông Hằng, sông Mê Công - Lan Thương, sông Hồng,
sông Ayeyawady, sông Chao Phraya là những dòng chảy mang đến sinh kế
cho người dân, gắn kết văn hoá, thúc đẩy giao lưu văn hóa, chính trị và giao
thương giữa các cộng đồng và khu vực.
Các dòng sông khu vực và sông Mê Công-Lan Thương là mạch nguồn
gắn kết, là sợi dây kết nối bền chặt đến muôn đời của các quốc gia, người dân
6 nước tiểu vùng, đòi hỏi các nước phải cùng nhau nỗ lực gìn giữ hòa bình,
hợp tác phát triển nhằm đưa tiểu vùng trở thành một khu vực hội nhập, phát
triển bền vững và thịnh vượng.
Tại Diễn đàn, các nước GMS đã thể hiện tầm nhìn, ưu tiên phát triển
của mỗi nước cũng như đối với toàn khu vực, chia sẻ với các nhà đầu tư, đối
tác phát triển về các tiềm năng hợp tác kinh tế, kết nối các nhà đầu tư, doanh
nghiệp và Chính phủ của các nước. Trách nhiệm của các Chính phủ là làm
sao để kiến tạo được môi trường phát triển, phát huy được nguồn lực to lớn
đưa quốc gia vào con đường phát triển bền vững [16].
30
1.4.4. Mối quan tâm chung giữa của các định chế quốc tế, các tổ chức quốc
tế và các quốc gia ngoài vùng
1.4.4.1. Các định chế tài chính quốc tế, đặc biệt là ADB
Đối với những sông lớn, kể cả sông quốc gia và quốc tế, khi khai thác
các lợi ích, thường xuất hiện những khác biệt, thậm chí xung đột giữa vùng
đầu nguồn và cuối nguồn, giữa yêu cầu bảo vệ môi sinh và xây dựng công
trình, giữa các mục tiêu dùng nước (tưới tiêu, phát điện, giảm nhẹ lũ lụt và
hạn hán...). Vì vậy, sự hợp tác của các quốc gia ven sông là rất quan trọng vì
mục tiêu phát triển về kinh tế và bền vững về môi trường của lưu vực. Vì là
sông lớn trên thế giới với những giá trị về môi trường tự nhiên và đa dạng
sinh học, cũng là nơi có sản lượng hàng hoá lớn góp phần giữ gìn an ninh
lương thực thế giới, nên sông Mê Công được các nước và các tổ chức quốc tế
rất quan tâm.
Bảng 1.1. Các bậc thang thuỷ điện trên sông Lan Thương (Trung Quốc)
Công suất lắp Dung tích hồ Chiều cao Tên nhà máy Ghi chú máy (MW) (tỉ m3) đập (m)
Đã xong 130 750 0.51 Gonggugiao
Đã xong 292 4200 14.55 Tiểu Loan
Đang làm 126 1250 0.92 Mã Loan
Đã xong 110 1350 0.96 Da Chao San
Dự kiến 254 5000 22.40 Nuo Zha Du
Đã xong 118 1500 1.04 Cảnh Hồng
Dự kiến 150 Gan Lan Ba
Dự kiến 600 Meng Song
Nguồn: [25]
31
Từ 1957, bắt đầu thực hiện hợp tác giữa bốn quốc gia Campuchia, Lào,
Thái Lan và Việt Nam nhằm phối hợp nghiên cứu lưu vực Hạ Mê Công. Năm
1955, Hiệp định hợp tác phát triển bền vững lưu vực sông Mê Công được kí
kết, Uỷ hội Mê Công (Mê Công River Commission - MRC) được thành lập.
MRC đã làm được nhiều việc, tiến hành nhiều khảo sát, nghiên cứu dòng
chảy, xã hội, môi trường, dự thảo quy hoạch sử dụng nước, giảm nhẹ lũ,... và
ban hành một số thoả thuận về đảm bảo dòng chảy cùng với những qui định
thủ tục tham khảo lẫn nhau khi tiến hành các dự án.
Tuy nhiên, những thảo luận kéo dài về phát triển thuỷ điện và gìn giữ
môi trường, duy trì dòng chảy xuống hạ du ngày càng trở nên khó khăn.
Trung Quốc và Myanmar không tham gia MRC. Một khi triển khai nhiều DS
thủy điện trên sông Lan Thương, Trung Quốc sẽ tác động mạnh tới nhiều mặt
trong sử dụng nguồn nước Mê Công. (Bảng 1.1 /1.2).
Có thể nói thế giới rất quan tâm đến sông Mê Công. Cho đến nay, hoạt
động của Uỷ hội tuy có bốn thành viên chính, nhưng có rất đông các nước tài
trợ, trong đó có Mỹ, Nhật Bản, các nước Châu Âu, các tổ chức tài chính quốc
tế, đặc biệt là ADB. Những nước này cung cấp kinh phí nhiều cho các dự án ở
sông Mê Công, các chuyên gia quốc tế đến làm việc về sông Mê Công rất
nhiều. Điều đó thể hiện mối quan tâm quốc tế. Bên cạnh đó, theo quy định
của Hiệp định Chiang Rai thì tổng thư ký của Ban thư ký MRC phải là người
ngoài bốn nước thành viên, nhằm đảm bảo tính khách quan. Chức vụ này
trong mấy khoá gần đây đều là người của các nước Châu Âu, hiện nay là một
người Anh. Rõ ràng, Mỹ đã thể hiện sự quan tâm lớn đến Mê Công. Điều này
đưa vấn đề hợp tác ở sông Mê Công lên một tầm mới, đó là hợp tác tổng thể
hơn, giữa các nước ở hạ nguồn và Trung Quốc ở thượng nguồn.
1.4.2.2. Sự quan tâm của Mỹ qua Sáng kiến Hạ nguồn sông Mê Công
Ngoại trưởng Hoa Kì Hillary Clinton công bố chính thức lần đầu tiên
tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN tháng 7/2009 tại Puket, Thái Lan về LMI.
Mục đích của sáng kiến là đẩy mạnh hợp tác, trợ giúp về môi trường, y tế,
32
giáo dục và cơ sở hạ tầng của Hoa Kỳ đối với các nước thuộc khu vực hạ
nguồn sông Mê Công (gồm Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam). Mục
tiêu địa chính trị của sáng kiến này, đồng thời là một trong những trọng tâm
trong chính sách “Trở lại Đông Nam Á” của Hoa Kỳ, là nhằm cân bằng ảnh
hưởng chiến lược bên ngoài đối với khu vực Đông Nam Á.
Ngày 14 tháng 9 năm 2012 tại Manila - Philippin, sáu quốc gia thành
viên tiểu vùng Mê - Công mở rộng (GMS) kỉ niệm 20 năm hợp tác kinh tế,
khu vực này một thời từng đầy những xung đột nay trở thành một hình mẫu
Châu Á tăng trưởng, xoá đói giảm nghèo và hợp tác khu vực.
Bảng 1.2. Tỉ lệ diện tích lưu vực và lưu lượng nước sông Mê Công
Tỉ lệ % Lãnh thổ Tỉ lệ % lượng nước diện tích
21 Trung Quốc 16 Thượng nguồn 3 Mianma 2
25 Lào 35
23 Thái Lan 18
Hạ Nguồn Campuchia 20 18
8 Việt Nam 11
Toàn lưu vực 100 100
Nguồn: [25]
Ông Stephen Groff, phó Chủ tịch Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB)
phụ trách khu vực Đông Á, Đông Nam Á và Thái Bình Dương cho biết:
“Chương trình GMS biến đổi một tiểu vùng từng bị cô lập một thời thành một
hình mẫu hội nhập kinh tế. Nếu các quốc gia trong GMS tiếp tục tăng cường
hợp tác, thì tương lai sẽ là một tiểu vùng hội nhập, thịnh vượng và hài hoà tại
tâm điểm của châu lục năng động nhất thế giới”.
Trải qua hai thập kỉ, Chương trình GMS đã đầu tư khoảng 15 tỉ USD
vào các dự án về đường xá, sân bay và đường sắt, điện, cơ sở hạ tầng du lịch
33
và phòng tránh dịch bệnh lây truyền của tiểu vùng, với tổng số tiền đóng góp
của ADB lên tới hơn 5 tỉ USD.
Tại SOM - GMS-6 vào tháng 3 / 2018 vừa qua, lãnh đạo các quốc gia
thành viên đã thông qua một kế hoạch chiến lược mới cho thập kỉ tiếp theo.
Kế hoạch này sẽ phát huy những thành tựu về cơ sở hạ tầng trong khi chú
trọng hơn nữa vào các vấn đề thể chế, chính sách và pháp lý để giải phóng
tiềm năng to lớn của khu vực về thương mại và đầu tư, đồng thời giúp tăng
trưởng toàn diện hơn và bền vững hơn về môi trường khi phải đối mặt với vấn
đề gia tăng khoảng cách trong phát triển về thịnh vượng.
Các quốc gia thành viên GMS6 là Campuchia, CHDCND Lào,
Myanmar, Thái Lan, Việt Nam, và CHND Trung Hoa (tập trung vào các tỉnh
Vân Nam và Khu tự trị Quảng Tây). Ngoài ra, Nhật Bản cũng quan tâm đến
sông Mê Công từ lâu. Nhật Bản vẫn tiếp tục có quan tâm hợp tác ở cấp Mê
Công - Nhật Bản. Đặc biệt Chiến lược Tokyo 2012, được coi là cú hích để
hợp tác Mê Công - Nhật Bản bước vào giai đoạn mới, dựa trên ba trụ cột
gồm: tăng cường kết nối giao thông trong khu vực Mê Công thu hẹp khoảng
cách phát triển trong lưu vực/đảm bảo an ninh con người và môi trường bền
vững. Sở dĩ có mối quan tâm lớn của các nước ngoài khu vực là do:
Thứ nhất, Mê Công là con sông lớn thứ 11 trên thế giới, là sông lớn
nhất Đông Nam Á. Ở đây có nhiều nguồn lợi, không chỉ mang tính khu vực
mà còn vượt ra ngoài phạm vi rộng hơn. Và người ta đang lo ngại, chẳng hạn
như Đồng bằng sông Cửu Long là nơi cung cấp lúa hàng hoá lớn nhất thế
giới. Và các biến động như hiện nay thì an ninh lương thực có nguy cơ bị đe
doạ, trên phạm vi toàn cầu. Như vậy, nguồn cung lương thực chắc chắn sẽ ảnh
hưởng chung đến các nước trên thế giới.
Thứ hai, là về môi trường, nếu một dòng sông chết do xây dựng các
đập thuỷ điện trên dòng chính của sông đi thì sẽ không phải là thiệt hại riêng
của một nước nào. Thực ra vấn đề này đã được đặt ra từ lâu, nhất là ở thượng
34
nguồn, phía Trung Quốc. Trung Quốc đã bắt tay vào xây dựng các công trình
thuỷ điện trên thượng nguồn từ rất lâu rồi, khoảng 20 năm nay. Từ đó đến nay
đã có rất nhiều ý kiến cảnh báo và phản đối. Tuy nhiên, phía Trung Quốc vẫn
đang triển khai khẩn trương. Theo kế hoạch, Trung Quốc sẽ xây 14 đập thuỷ
điện ở thượng nguồn sông Mê Công, hiện đã hoàn thành bốn, trong đó có hai
đập lớn là Tiểu Loan và Cảnh Hồng. Hiện Trung Quốc đang thi công tiếp bốn
đập và chuẩn bị cho các đập còn lại [Bảng 1.1].
35
Tiểu kết chương 1
Nước sông Mê Công là nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng đối với
các nước trong lưu vực, đặc biệt các quốc gia hạ nguồn: Lào, Thái Lan,
Camphuchia, Lao, ĐBBCL Việt Nam. Vì mục tiêu sử dụng bền vũng nguồn
tài nguyên nước sông Mê Công, các quốc gia trong khu vực cần thiết phải
nghiên cứu Chiến lược sử dụng nguồn nước trên cơ sở chia sẻ công bằng lợi
tích hài hòa trong quản lí nguồn nước xuyên biên giới theo các Công ước
quốc tế, Khuyến nghị của IUCN, đặc biệt là tinh thần Hội nghị SOM GMS-6
và Hội nghị Thượng đỉnh MRC quốc tế vừa qua tổ chức tại Hà Nội - Việt
Nam, Xiêm Riệp - Campuchia. Trong sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê
Công phải tôn trọng lợi ích quốc ga dân tộc của CHDCND Lào, có tính tới sự
quan tâm của các quốc gia và Tổ chức quốc tế, trong đó có ADB. Lưu vực
sông Mê Công là không gian sống của chúng ta. Lợi ích sử dụng sông Mê
Công phải dựa trên cơ sở chia sẻ hài hòa, kết nối, kiến tạo mô hình hợp tác và
phát triển.
36
Chương 2
ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG BỀN VỮNG TÀI NGUYÊN
NƯỚC SÔNG MÊ KÔNG CỦA CHDCND LÀO
2.1. Đánh giá khái quát về điều kiện tự nhiên - xã hội CHDCND Lào
2.1.1. Đánh giá về điều kiện tự nhiên và môi trương tự nhiên
Lào là quốc gia nội lục duy nhất tại Đông Nam Á [28], hầu hết lãnh thổ
nắm giữa vĩ độ 14° và 23° Bắc, và kinh độ 100° và 108° Đông. Lào có cảnh
quan rừng rậm, hầu hết là các dãy núi gồ ghề, đỉnh núi cao nhất là Phou
Bia cao 2.818 m, cùng một số đồng bằng và cao nguyên. Sông Mê Công tạo
thành một đoạn dài biên giới phía tây với Thái Lan, còn dãy Trường Sơn tạo
thành hầu hết biên giới phía đông với Việt Nam, dãy núi Luangprabang tạo
thành biên giới tây bắc với các vùng cao Thái Lan. Có hai cao nguyên là
Xiangkhoang tại phía bắc và Bolaven tại phía nam. Lào có khí hậu nhiệt đới,
chịu ảnh hưởng của gió mùa. Lào có thể được phân thành ba khu vực địa lý:
bắc, trung và nam.
Mùa mưa riêng biệt và kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11, tiếp đến là mùa
khô kéo dài từ tháng 12 đến tháng 4. Theo truyền thống địa phương, một năm
có ba mùa là mùa mưa, mùa lạnh và mùa nóng, do hai tháng cuối của mùa
khô nóng hơn đáng kể so với bốn tháng trước đó. Thủ đô của Lào
là Vientiane, các thành thị lớn khác là Luang Prabang, Savannakhet và Pakse.
(Phụ lục 1).
Nổi lên trên nền địa lí tự nhiên của đất nước Lào là sông Mê Công.
Người lao đặt tên sông này là sông Mẹ / Mẹ sông. Hầu như toàn bộ lãnh thổ n
ước Lào năm trong lưu vực sông Mê Công [Hình 2.1 / 2.2]. [Phục lục 1].
37
Trong một công bố gần đây, các nhà khoa học cùng với Ủy ban sông
Mê Công (MRC) đã có nhiều câu trả lời về giá trị kinh tế do dòng sông dài
thứ 12 thế giới này đem lại. Theo đó, chỉ riêng giá trị thủy sản được đánh bắt
từ hạ lưu sông Mekong đã lên tới 17 tỷ USD một năm, góp 3% vào tổng GDP
của nhóm các nước Việt Nam, Campuchia, Lào, và Thái Lan. Bản tin thủy
sản của MRC đã đưa ra ước tính này dựa vào số liệu đánh bắt cá hàng năm
khoảng 4,4 triệu tấn.
Nếu so với tổng giá trị đánh bắt thủy sản toàn cầu của năm 2015 là 130
tỷ USD, thì sông Mê Công đang chiếm tới 13%.
Theo báo cáo này, Việt Nam đang thu về 5,74 tỷ USD từ thủy sản trên
sông Mekong, tương đương 3,1% GDP cả nước. Thái Lan thì nhận được 6,72
tỷ USD, tương đương 1,8% GDP nước này.
Đối với các nền kinh tế nhỏ, đóng góp của sông Mê Công càng trở nên
quan trọng. Đối với Lào, việc đánh bắt thủy sản được dự đoán sẽ mang về
1,51 tỷ USD, chiếm khoảng 12,8% GDP.
Có một yếu tố đáng chú ý là sự phát triển mạnh mẽ của ngành nuôi
trồng thủy sản tại lưu vực sông Mê Công, nhanh gấp 3 lần so với tốc độ tăng
trưởng bình quân toàn cầu của ngành này. Theo dự kiến, ngành thủy sản tại
Mê Công sẽ mang lại nguồn thu 5,8 tỷ USD trong năm 2015, so với mức 4,8
tỷ của năm 2010.
Nhìn chung, sản lượng cá đến từ hoạt động nuôi thủy sản toàn cầu được
dự báo sẽ vượt qua sản lượng đánh bắt vào năm 2023. Điều đó không chỉ giúp
tái định hướng cho ngành công nghiệp thủy sản mà còn góp phần cải thiện
cuộc sống của hàng triệu ngư dân và nông dân.
38
Hình 2.1. Bản đồ lưu vực sông Mê Công Nguồn: [8]
39
Hình 2.2. Sơ đồ dòng chảy sông Mê Công - Lan Thương Nguồn: [28]
40
2.1.2. Cư dân, văn hóa, xã hội
Dân số Lào ước tính đạt 7.5 triệu người vào năm 2016, phân bổ không
đều trên lãnh thổ. Hầu hết dân chúng sống tại các thung lũng của sông Mê
Công và các chi lưu của nó. Thủ đô Vientiane có 740 nghìn cư dân vào năm
2008. Mật độ dân số Lào đạt 27/km2. Cư dân Lào thường được phân chia theo
độ cao, gần tương ứng với dân tộc [14].
Hơn một nửa dân số (60%) là người Lào, chiếm phần lớn cư dân vùng
thấp, họ là dân tộc chiếm ưu thế về chính trị và văn hoá tại Lào. Người Lào
thuộc nhóm ngôn ngữ Thái, họ bắt đầu di cư từ Trung Quốc về phía nam vào
thiên niên kỉ 1. 10% dân số là các nhóm vùng thấp khác, họ cùng với người
Lào hợp thành Lào Loum. Tại vùng núi miền trung và miền nam, các bộ lạc
Môn-Khmer gọi chung là Lào Theung, hay Lào vùng giữa, chiếm ưu thế. Họ
từng là cư dân bản địa tại miền bắc Lào. Một số người Việt, Hoa và Thái vẫn
ở lại, đặc biệt là tại các đô thị, song nhiều người dời đi khi Lào độc lập vào
cuối thập niên 1940, nhiều người trong số họ tái định cư tại Việt Nam, Hồng
Kông hay sang Pháp. Lào Theung chiếm khoảng 30% dân số. Các dân tộc
vùng cao như H'Mông, Dao, Shan, và một số dân tộc Tạng-Miến sống trong
các khu vực cô lập tại Lào trong thời gian dài. Các bộ lạc vùng đồi núi có
nguồn gốc hỗn hợp về dân tộc/văn hoá-ngôn ngữ tại miền bắc Lào bao gồm
người Lua và người Khơ Mú, họ là dân tộc bản địa của Lào. Các dân tộc này
được gọi chung là Lào Soung hay Lào vùng cao. Người Lào Soung chiếm
khoảng 10% dân số.
Ngôn ngữ chính thức và chi phối tại Lào là tiếng Lào, đây là một ngôn
ngữ có thanh điệu thuộc nhóm ngôn ngữ Thái. Tuy nhiên, chỉ hơn một nửa
dân chúng nói tiếng Lào bản ngữ, phần còn lại nói các dân tộc thiểu số, đặc
biệt là ở nông thôn. Chữ cái Lào tiến triển trong khoảng giữa thế kỉ XIII và
XIV, bắt nguồn từ chữ viết Khmer cổ và tương đồng với chữ Thái Lan. Ngoài
ra, còn có các ngôn ngữ thiểu số như Khơ Mú và Mông, đặc biệt là tại vùng
giữa và vùng cao.
41
67% người Lào là tín đồ Phật giáo Thượng toạ bộ, 1,5% là tín đồ Cơ
Đốc giáo, và 31,5% theo các tôn giáo khác hoặc không xác định[48] theo điều
tra nhân khẩu năm 2005. Phật giáo từ lâu đã là một thế lực xã hội quan trọng
tại Lào. Phật giáo Thượng toạ bộ tồn tại hoà bình với thuyết đa thần địa
phương từ khi được truyền bá đến.
Tuổi thọ dự tính khi sinh của nam giới Lào là 60,85 năm, còn của nữ
giới là 64,76 năm tính đến 2012. Tuổi thọ triển vọng khoẻ mạnh là 54 năm
vào năm 2007. Năm 2008, 43% dân số không được tiếp cận nguồn nước vệ
sinh, song con số này giảm còn 33% vào năm 2010.
Tỉ lệ biết chữ của người thành niên tại Lào vượt quá hai phần ba. Tỉ lệ
biết chữ của nam giới cao hơn của nữ giới. Tỉ lệ biết chữ đạt 73% theo ước
tính vào năm 2010. Năm 2004, tỉ lệ nhập học tiểu học đạt 84%. Đại học Quốc
gia Lào là đại học công lập, thành lập vào năm 1996.
Phật giáo Thượng toạ bộ có ảnh hưởng chi phối trong văn hoá Lào,
được phản ánh trên khắp đất nước từ ngôn ngữ trong chùa và trong mỹ thuật,
văn học, nghệ thuật trình diễn. Nhiều yếu tố trong văn hoá Lào có trước khi
Phật giáo truyền đến, chẳng hạn như âm nhạc Lào do nhạc cụ dân tộc là khèn
chi phối, nó có nguồn gốc từ thời tiền sử. Tiếng khèn theo truyền thống đi
kèm với người hát theo phong cách dân gian lam. Trong các phong
cách lam, lam saravane có lẽ được phổ biến nhất.
Gạo nếp là một loại lương thực đặc trưng và có ảnh hưởng văn hoá và
tôn giáo đối với người Lào. Gạo nếp thường được ưa chuộng hơn gạo nhài, và
trồng lúa nếp được cho là bắt nguồn tại Lào. Tồn tại nhiều truyền thống và
nghi lễ liên quan đến sản xuất lúa trong các môi trường khác nhau và trong
nhiều dân tộc. Chẳng hạn, các nông dân Khơ Mú tại Luang Prabang trồng loại
lúa Khao Kam với số lượng nhỏ gần lều để tưởng nhớ cha mẹ đã mất, hoặc tại
góc ruộng để thể hiện cha mẹ vẫn sống.
42
Sinh là một loại trang phục truyền thống mà nữ giới Lào mặc trong sinh
hoạt thường nhật. Đây là một loại váy lụa dệt tay, có thể nhận diện nữ giới
mặc nó theo nhiều cách, chẳng hạn như khu vực xuất thân.
Đa thê là một tội tại Lào theo pháp luật, song hình phạt ở mức thấp, và
đa thê vẫn phổ biến trong người H'Mông.
2.2. Thực trạng phát triển kinh tế
2.2.1. Đánh giá chung
Kinh tế Lào phụ thuộc nhiều vào đầu tư và thương mại với các nước
láng giềng. Năm 2009, dù Lào về chính thức vẫn là nhà nước cộng sản, song
chính quyền Obama tuyên bố Lào không còn là nước Marx-Lenin và bỏ lệnh
cấm các công ti Lào nhận tài chính từ Ngân hàng Xuất nhập khẩu Hoa Kỳ
(Ex-Im Bank) Năm 2011, Sở Giao dịch Chứng khoán Lào bắt đầu giao dịch.
Năm 2016, Trung Quốc là nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất vào kinh tế Lào,
tính luỹ kế họ đã đầu tư 5,395 tỉ USD trong giai đoạn 1989-2014, xếp thứ nhì
và thứ ba trong giai đoạn này là Thái Lan (4,489 tỉ USD) và Việt Nam (3,108
tỉ USD).
Nông nghiệp tự cấp vẫn chiếm đến một nửa GDP và tạo 80% số việc
làm. Chỉ có 4,01% diện tích lãnh thổ là đất canh tác, và chỉ 0,34% diện tích
lãnh thổ được sử dụng làm đất trồng trọt lâu dài, đây là tỉ lệ thấp nhất
trong Tiểu vùng Sông Mê Công Mở rộng. Lúa chi phối nông nghiệp Lào do
khoảng 80% diện tích đất canh tác dành cho trồng lúa. Khoảng 77% nông hộ
Lào tự cung cấp gạo.[36] Sản lượng lúa tăng 5% mỗi năm từ năm 1990 đến
năm 2005 nhờ cải tiến về giống và cải cách kinh tế và Lào lần đầu đạt được
cân bằng ròng về xuất nhập khẩu gạo vào năm 1999 Lào có lẽ có nhiều giống
gạo nhất trong Tiểu vùng Sông Mê Công Mở rộng.
Từ năm 1995, chính phủ Lào làm việc cùng Viện Nghiên cứu Lúa
Quốc tế tại Philippines nhằm thu thập các mẫu hạt của hàng nghìn giống lúa
tại Lào. Kinh tế Lào nhận được viện trợ phát triển từ IMF, ADB, và các
43
nguồn quốc tế khác, cũng như đầu tư trực tiếp nước ngoài về phát triển xã hội
(Phụ lục 2),
Công nghiệp thuỷ điện và khai mỏ (đáng chú ý nhất là đồng và vàng).
Du lịch là ngành tăng trưởng nhanh chóng. Phát triển kinh tế tại Lào bị cản
trở do chảy máu chất xám.
Lào giàu tài nguyên thiên nhiên, song phải nhập khẩu dầu khí. Luyện
kim là một ngành quan trọng, và chính phủ hy vọng thu hút đầu tư nước ngoài
để phát triển các mỏ than, vàng, bô xít, thiếc, đồng và kim loại có giá trị khác.
Ngoài ra, nguồn tài nguyên nước phong phú và địa hình núi non cho phép Lào
sản xuất và xuất khẩu thuỷ điện với số lượng lớn. Lào xuất khẩu điện sang
Thái Lan và Việt Nam.
Ngành du lịch Lào tăng trưởng nhanh chóng, đạt gần 4,7 triệu du khách
quốc tế trong năm 2015, đông nhất là khách Thái Lan (2,32 triệu), Việt Nam
(1,19 triệu) và Trung Quốc (0,51 triệu). Du lịch đóng góp 679,1 triệu USD cho
GDP vào năm 2010, dự tính tăng lên 1,5857 tỉ USD vào năm 2020. Năm 2010,
1/10,9 số công việc là trong lĩnh vực du lịch. Thu nhập xuất khẩu từ du khách
quốc tế và hàng hoá du lịch dự kiến tăng lên 484,2 triệu USD vào năm 2020,
chiếm 12,5% xuất khẩu. Luang Prabang với văn hoá Phật giáo và kiến trúc
thuộc địa, cùng tổ hợp đền cổ Khmer Wat Phu là các di sản thế giới
UNESCO, Cánh đồng Chum cũng được đề cử.
Các sân bay chính của Lào là sân bay quốc tế Wattay tại Vientiane
và sân bay quốc tế Luang Prabang, sân bay quốc tế Pakse cũng có một vài
đường bay quốc tế. Hãng hàng không quốc gia của Lào là Lao Airlines. Các
hãng hàng không khác có đường bay đến Lào là Bangkok Airways, Vietnam
Airlines, AirAsia, Thai Airways International, China Eastern Airlines vàSilk
Air. Phần lớn nước Lào thiếu cơ sở hạ tầng đẩy đủ. Lào chỉ có một đoạn
đường sắt ngắn nối Vientiane với Thái Lan qua cầu Hữu nghị Thái-Lào. Các
tuyến đường bộ liên kết các trung tâm đô thị lớn, đặc biệt là Đường 13, được
44
nâng cấp trung thời gian qua, song các làng nằm xa các đường chính chỉ có
thể tiếp cận bằng đường mòn. Điện thoại di động trở nên phổ biến tại các
trung tâm đô thị. Trong nhiều khu vực nông thôn, ít nhất cũng có điện năng
cục bộ. Xe Songthaew được sử dụng để vận chuyển đường dài và địa phương.
2.2.2. Về hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế
ADB khuyến nghị Lào cải cách để đẩy mạnh tăng trưởng Ngày
12/3/2015, tại cuộc họp báo được tổ chức nhân chuyến thăm Lào, Chủ tịch
ADB Takehiko Nakao nhấn mạnh Lào cần cải cách để cải thiện môi trường
kinh doanh, đa dạng hóa nền kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô để thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Chủ tịch ADB Takehiko nhấn mạnh rằng Lào đang thu hút
được nhiều vốn đầu tư của tư nhân, việc cải cách có ý nghĩa quan trọng để
phát triển khu vực tư nhân như một động lực của tăng trưởng kinh tế. Cải
cách cần thiết để đơn giản hóa các quy định về kinh doanh thông qua hệ
thống thuế rõ ràng và khả năng tiếp cận dễ dàng tới các nguồn tài chính. Môi
trường kinh doanh thuận lợi sẽ hỗ trợ cho sự phát triển của Đối tác - Công -
Tư (PPPs) như một công cụ cung cấp tài chính và kiến thức chuyên môn
nhằm phát triển cơ sở hạ tầng như đường sá, sân bay, các dịch vụ đô thị. Với
vị trí chiến lược nằm ở trung tâm Tiểu vùng Mê Kông mở rộng (GMS) Lào
là nước duy nhất có chung biên giới với năm nước GMS, đó là điều kiện lý
tưởng để có thể hưởng lợi từ hợp tác khu vực, đặc biệt là dọc theo các tuyên
hành lang kinh tế GMS (Bắc - Nam, Đông - Tây và phía Nam). Tuy nhiên,
ông Nakao nói rằng, thách thức chính đối với Lào là phải làm sao để hưởng
lợi tốt nhất từ quá trình hội nhập, thu hút được đầu tư, tạo việc làm trong
nước chứ không chỉ được sử dụng như một điểm trung chuyển thương mại
giữa các nước láng giềng.
ADB nhận định kinh tế Lào tăng trưởng tốt trong 2 năm tới Ngày 24/3,
ADB đã công bố báo cáo Viễn cảnh phát triển châu Á 2015 (Asian
Development Outlook) trong đó đánh giá: tính đến năm 2014, Lào vẫn duy trì
45
tốc độ tăng trưởng GDP trên 7% trong 9 năm liên tiếp dù thắt chặt tài chính
và nhu cầu thế giới về khoáng sản thấp hơn khiến tốc độ giảm từ 7,9% năm
2013 xuống 7,4%. Dịch vụ tăng trưởng 9% do mở rộng bán buôn bán lẻ dịch
vụ công và giao thông vận tải tăng trưởng vững. Công nghiệp tăng 8,5% do
đầu tư trực tiếp nước ngoài xây dựng thủy điện, phát triển thương mại và nhà
ở, xây dựng nhà máy tại các khu kinh tế đặc biệt. Nông nghiệp tăng 2,9%, sử
dụng 70% lao động và chỉ chiếm 25% GDP.
Đặc khu kinh tế trở thành động lực chính trong tăng trưởng kinh tế Đặc
khu kinh tế và khu kinh tế đặc biệt (SEZs) đã trở thành động lực chính trong
tăng trưởng đối với các ngành công nghiệp và dịch vụ ở Lào, đặt nền tảng cho
việc đa dạng hóa nền kinh tế của đất nước trong tương lai. Việc phát triển
SEZs là một phần trong các chính sách của Chính phủ nhằm đẩy nhanh tăng
trưởng kinh tế, tạo cơ hội việc làm cho người dân thông qua quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thông qua công nghiệp hóa, Chính phủ sẽ đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng dần tỉ trọng của ngành công nghiệp và
dịch vụ, đồng thời giảm tỉ trọng của ngành nông - lâm. Hiện nay, trong các
SEZs, ngành công nghiệp chiếm 28%, dịch vụ chiếm 44% trong tổng số các
hoạt động kinh tế. Trong khi đó, trong nền kinh tế chung của Lào, nông
nghiệp vẫn chiếm tỉ trọng lớn nhất. Tính đến thời điểm hiện nay, Chính phủ
đã đầu tư trên 8,8 triệu USD để tạo điều kiện phát triển SEZs nhằm thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Trong thời gian 12 năm qua, có khoảng 198 doanh nghiệp
đã được cấp giấy phép đầu tư vào SEZs với tổng giá trị đầu tư lên đến 6 tỉ
USD. Trong đó, trên 1 tỉ USD đã được giải ngân vào các hoạt động phát triển.
Trong số các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào SEZs, Trung Quốc là nước
đứng đầu. SEZs có ý nghĩa quan trọng trong việc đẩy nhanh quá trình đô thị
hóa ở các vùng xa xôi hẻo lánh của Lào, tăng trưởng kinh tế, góp phần tạo
công ăn việc làm và thu nhập cho người dân Lào. Hiện nay Lào có 02 đặc khu
kinh tế và 08 khu kinh tế đặc biệt với tổng diện tích trên 13.600 ha. Sơ kết 06
tháng đầu năm tài khóa của ngành năng lượng và mỏ.
46
Theo báo cáo sơ kết 06 tháng đầu năm tài khóa của Bộ Năng lượng và
mỏ ngày 13/3/2015, giá trị sản lượng của hai lĩnh vực năng lượng và mỏ tối
thiểu sẽ đạt 8,53 nghìn tỉ Kíp (1,06 tỉ USD) trong 06 tháng đầu năm tài khóa
2014-15. 8,53 nghìn tỉ Kíp sẽ đạt 47% kế hoạch năm, trong đó, khoảng 5,87
nghìn tỉ Kíp là của lĩnh vực mỏ, đạt khoảng 50,4% kế hoạch năm. Sản lượng
đồng thỏi đạt khoảng 21.900 tấn, quặng đồng khoảng 76.000 tấn, thạch cao
khoảng 160.800 tấn.
Kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm khai thác mỏ ước đạt 6,1 nghìn tỉ
Kíp (763,6 triệu USD), khoảng 40,8% kế hoạch năm. Báo cáo cũng cho biết,
tính đến tháng 9/2014, có 69 doanh nghiệp đang hoạt động với 107 dự án khai
thác mỏ. Trong lĩnh vực năng lượng, giá trị sản lượng trong nước ước đạt 6,4
tỉ Kwh, khoảng 41% kế hoạch năm. Tổng sản lượng điện sẽ khoảng 7,7 tỉ
Kwh, với giá trị khoảng 3,45 nghìn tỉ Kíp (431,3 triệu USD).
Nhập khẩu điện sẽ vào khoảng 687,2 triệu Kwh, trị giá 35,5 triệu USD;
xuất khẩu điện khoảng 5,6 tỉ Kwh, trị giá 242,2 triệu USD. Hiện nay Lào có
27 nhà máy điện với tổng công suất lắp đặt khoảng 3.304 MW, trong đó, 11
nhà máy với công suất lắp đặt 405 MW thuộc Công ty điện lực Lào; 16 nhà
máy khác với công suất lắp đặt 2.899 MW do các doanh nghiệp độc lập vận
hành. Giá trị sản lượng của ngành năng lượng và mỏ trong Quý 1, năm tài
khóa 2014-15 đã bị sụt giảm, chỉ đạt 4,22 nghìn tỉ Kíp (khoảng 527,71 triệu
USD) giảm 16% so với cùng kỳ năm tài khóa 2013-14; Lĩnh vực năng lượng
giảm 11% và mỏ giảm 17% so cùng kỳ. Sự sụt giảm trên là do nhà máy thủy
điện Nam Theun 2 điều chỉnh sản lượng từ 40% tổng sản lượng toàn ngành
xuống 39% để dự trữ nước cho Quý sau; sự sụt giảm của lĩnh vực mỏ là do
ngừng sản xuất của một số mỏ vàng, ngừng sản xuất than và giá quặng kim
loại thế giới giảm.
Ngày 19/5/2015, tại Viêng Chăn, ADB đã tổ chức lễ công bố kết quả
nghiên cứu: “Hai Thập kỉ Tăng Bất bình đẳng và Giảm nghèo ở Lào”. Các
47
nhà kinh tế đã bày tỏ sự lo ngại về tình trạng tăng bất bình đẳng ở Lào vì nó
có thể hủy hoại tính bền vững của sự tăng trưởng trong tương lai ở Lào.
Nghiên cứu đã tính toán và so sánh các thước đo về bất bình đẳng, sử dụng
các số liệu điều tra hộ gia đình trong giai đoạn 20 năm, cũng như các số liệu
điều tra mới nhất từ Điều tra về Chi tiêu và Tiêu dùng năm 2013 - 14 của Lào.
Kết quả nghiên cứu cho thấy bất bình đẳng đã tăng lên trong cả nước và giữa
nông thôn và thành thị. Hệ số GINI về bất bình đẳng chi tiêu đã tăng từ 0,311
giai đoạn 1992 - 1993 đã tăng lên 0,364 trong giai đoạn 2012 - 2013, một mức
tăng lớn về mặt thống kê. Trong khi đó, tỉ lệ nghèo tuyệt đối trong thời gian
tương ứng đã giảm từ 46% xuống 23%. Phát biểu tại lễ công bố nghiên cứu,
Giám đốc Quốc gia ADB tại Lào Sandra Nicoll nói, bất bình đẳng tăng lên là
một vấn đề đáng quan ngại vì nó có thể đe dọa sự gắn kết xã hội, tăng trưởng
bền vững trong tương lai, đồng thời nó cũng có thể hạn chế khả năng tiếp tục
giảm nghèo.
Đầu tư bùng nổ tại thủ đô Viêng Chăn Theo báo cáo ngày 6/5/2015 của
Sở Kế hoạch và Đầu tư Thủ đô Viêng Chăn, giá trị đầu tư trong nước và nước
ngoài 6 tháng đầu năm tài khóa 2014 - 15 đã tăng mạnh hơn nhiều so với dự
kiến. Trong thời gian 6 tháng, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt trên 9,72 nghìn tỉ
Kíp với 154 dự án. Báo cáo cho biết, với con số 9,72 nghìn tỉ Kíp, thủ đô
Viêng Chăn gần như đã đạt mục tiêu đề ra của cả năm là 12 nghìn tỉ Kíp.
Trong số 154 dự án, bao gồm 149 dự án đầu tư tổng hợp, trị giá 9,74 nghìn tỉ
Kíp, 5 dự án còn lại là tô nhượng đất trị giá 180,24 tỉ Kíp. Các dự án tô
nhượng đất cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước, chủ yếu là trong các lĩnh
vực xây dựng sân Golf, khách sạn 5 sao, trung tâm mua sắm, bãi đỗ xe, văn
phòng và căn hộ.
Theo Kế hoạch Phát triển Kinh tế - xã hội của Viêng Chăn, tổng vốn
đầu tư năm tài khóa 2014 - 15 khoảng 14,7 nghìn tỉ Kíp, trong đó đầu tư của
nhà nước khoảng 134 tỉ Kíp, đầu tư trực tiếp trong và ngoài nước 12 nghìn tỉ
48
Kíp, viện trợ không hoàn lại và vốn vay từ các tổ chức quốc tế khoảng 700 tỉ
Kíp, vốn vay ngân hàng khoảng 1,86 nghìn tỉ Kíp. Vấn đề đập Don Sahong
phải đưa lên cấp chính phủ Bốn nước thành viên của Ủy ban Sông Mê Kông
(MRC) bao gồm Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam đã thống nhất rằng
quyết định về tham vấn trước liên quan đến Dự án Thủy điện Don Sahong
phải đưa lên cấp chính phủ, MRC công bố thông qua trang Website của Ủy
ban này. Việc quyết định phải chuyển lên các chính phủ xem xét vì Hội đồng
MRC không thể đi đến thống nhất về cách tiến hành như thế nào với dự án
này. Vấn đề đã được đưa lên Hội đồng MRC sau phiên họp đặc biệt ngày
28/1/2015 khi Ủy ban Hỗn hợp MRC không đạt được thỏa thuận. Hội đồng
MRC là cơ quan quyền lực cao nhất của Ủy ban, bao gồm các Bộ trưởng Tài
nguyên nước và Môi trường của bốn nước thành viên. Sau khi thảo luận và
cân nhắc, Hội đồng MRC thông báo rằng vẫn còn những quan điểm khác
nhau giữa các nước về quá trình tham vấn trước đã kết thúc hay chưa, nên
phải đưa lên các chính phủ quyết định. Điều 35 của Hiệp định Mê Kông 1995
quy định, trong trường hợp Ủy ban không thể giải quyết một bất đồng hay
tranh chấp, vấn đề phải được đưa lên các chính phủ “để giải quyết vấn đề
bằng đàm phán thông qua các kênh ngoại giao …”. Nếu các chính phủ thấy
cần thiết hoặc có lợi có thể sử dụng phương cách điều đình thông qua thỏa
thuận chung phù hợp với các nguyên tắc luật quốc tế. Tham vấn trước 6 tháng
chính thức bắt đầu từ ngày 25/7/2014.
Trong quá trình tham vấn trước, các nước thành viên đã thảo luận và
đánh giá những rủi ro và lợi ích của dự án có tiềm năng phát điện với công
suất 260MW, nằm trên một trong các dòng của sông Mê Kông ở khu vực
Siphandone, Nam Lào. Theo MRC, các nước thành viên tham vấn đã bày tỏ
hàng loạt những quan ngại của họ về dự án kiến nghị và yêu cầu gia hạn tham
vấn trước để có thời gian thu thập thông tin bổ sung. Lào kiến nghị kết thúc
quá trình tham vấn trước, tuyến bố rằng họ đã cân nhắc và giải quyết những lo
49
ngại chính đáng của các nước thành viên khác phù hợp với các Thủ tục quy
định về Thông báo trước, Tham vấn trước và Hiệp định (PNPCA) của Hiệp
định Mê Kông 1995.
Lào cam kết tiếp tục hợp tác với MRC và đảm bảo phát triển bền vững
dự án. Sau khi vấn đề được đưa lên chính phủ các nước, họ có thể chuyển
quyết định của mình lên Hội đồng MRC để tiến hành các thủ tục tiếp theo,
hoặc nếu cần thiết, họ có thể thực hiện quyết định của mình. Buôn lậu gỗ sang
Việt Nam vẫn tiếp tục Theo truyền thông Việt Nam đưa tin ngày 4/6/2015,
ngày càng nhiều gỗ buôn lậu qua biên giới từ Lào và Camphuchia sang địa
bàn biên giới phía Nam Việt Nam. VietNamNet Online trích dẫn tin từ cơ
quan chống buôn lậu cho biết, các nhà chức trách phát hiện nhiều chuyến gỗ
lậu nhập khẩu trái phép từ hai nước nêu trên. Buôn lậu đang trở nên thịnh
hành trong thời gian gần đây khi mùa mưa đến đến gần.
Các địa bàn dọc theo biên giới Tây Nam Việt Nam, từ Đắc Lắc đến Kiên
Giang và tỉnh Kon Tum trở thành các “điểm nóng” buôn lậu gỗ. Kon Tum có
chung đường biên giới với tỉnh Attapeu, Nam Lào và trong khi Đắc Lắc đến
Kiên Giang là các tỉnh có chung đường biên giới với Camphuchia. Khi các
điểm nóng này bị kiểm tra, những kẻ buôn lậu lại di chuyển bãi chứa sang các
vị trí khác. Qua nhiều vụ buôn lậu bị phát hiện cho thấy, việc buôn bán gỗ trái
phép rất khó chấm dứt vì lợi nhuận cao. Giám đốc Sở Nông Lam tỉnh Attapeu
Khenthong Sisouvong cho biết, tình trạng đốn hạ gỗ trái phép vẫn đang là một
vấn đề quan ngại lớn ở tỉnh. Theo CITES (Hiệp ước về Buôn bán Quốc tế các
Loài Động Thực vật có Nguy cơ Tuyệt chủng), đầu năm nay Việt Nam đã công
bố ngừng cấp giấy phép nhập khẩu gỗ trắc từ Thái Lan và Campuchia từ
1/01/2015. Đối với gỗ trắc từ Lào, CITES Việt Nam chỉ cho phép nhập nếu các
nhà nhập khẩu có thể trình giấy tờ do CITES Lào cung cấp chứng minh nguồn
gốc hợp pháp. 400 tỉ kíp nghiên cứu dự án năng lượng mặt trời.
Ngày 10/6, tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ông Robert Khoonsrivong, Chủ
tịch của Công ty Quản lý vốn Ngôi sao Thái Bình Dương (PSCM) và ông
50
Bonthavy Sisouphanthong, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ký biên
bản ghi nhớ để tiến hành nghiên cứu khả thi cho dự án năng lượng mặt trời
trên diện tích 50 ha tại huyện Xaythany, thủ đô Viêng Chăn. PSCM sẽ chi 400
tỉ kíp (hơn 49 triệu USD) để triển khai công tác nghiên cứu trong 12 tháng.
Theo khảo sát sơ bộ, dự án có thể sản xuất 20 MW năng lượng mặt trời và
bán cho điện lực Lào. Tác động tới môi trường sẽ ít do người dân vẫn có thể
trồng trọt và chăn nuôi trong khu vực triển khai dự án.
Tổ máy số một tại Nhà máy nhiệt điện Hongsa đã phát điện Ngày
01/6/2015, Tổ máy số một tại nhà máy nhiệt điện Hongsa, tỉnh Xayaboury đã
chính thức bắt đầu sản xuất điện. Khởi công xây dựng từ năm 2010 với tổng
vốn đầu tư 3.7 tỉ USD, liên doanh giữa Công ty TNHH Banpu Power Ltd,
Công ty TNHH sản xuất điện Ratchabury Ltd. và Công ty Lao Holding State
Interprise. Chính phủ Lào cấp nhượng quyền phát điện trong thời hạn 25 năm
từ 2016-2041 cho công ty điện Hongsa. Dự án có tổng công suất dự kiến 1.878
MW, trong đó 1.473 MW được bán cho Công ty Điện lực Thái Lan và 100MW
được bán cho công ty Điện lực Lào. Theo dự kiến, tổ máy số hai sẽ sản xuất
điện vào tháng 11/2015 và tổ máy số 3 sẽ đưa vào hoạt động tháng 3/2016. Đây
là dự án nhiệt điện đầu tiên được xây dựng tại Lào, chính phủ Lào tin tưởng dự
án sẽ mang lại lợi nhuận cao cũng như công việc và thu nhập ổn định cho
người dân.
Tiến độ xây dựng đường giao thông tỉnh Chăm pa sắc Dự án xây
dựng đường giao thông tại tỉnh Chăm pa sắc với tổng chiều dài 42 km có
điểm nối từ cầu Lào Nhật đến điểm cuối là Cửa khẩu quốc tế Vangtao-
Songmek (Lào-Thái Lan), sử dụng vốn của công ty tư nhân đã hoàn thành
70% tiến độ và dự kiến đưa vào sử dụng trong năm 2016. Dự án có tổng
mức đầu tư 30 triệu USD (240 tỉ Kíp) do Công ty xây dựng Cầu đường
Douangdy làm chủ đầu tư, theo hình thức hợp đồng BOT. Kế hoạch xây 4
cây cầu với chiều dài 250m và chiều rộng 16m trên tuyến đường này cũng
đã được triển khai. Sau khi đưa vào sử dụng, công trình do Công ty quản lý
51
và vận hành trong thời hạn 45 năm. Dự án này nằm trong kế hoạch nâng
cấp, cải tạo hạ tầng giao thông, xây dựng cầu đường của tỉnh Chăm pa sắc
để chuẩn bị cho tiến trình hội nhập và kết nối khu vực, hướng tới hình
thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN cuối năm 2015.
2.3. Tình hình sử dụng tài nguyên nước sông Mê Công
2.3.1. Sự dung nguồn nước trong sản xuất nông nghiệp và thủy sản
Sông Mê Công cung cấp nguồn nước vô tận tưới mát cho những cánh
đồng, là nguồn phù sa bồi đắp năm này sang năm khác. Dòng sông cũng đặc
biệt giàu có bởi hàng trăm loài thủy sản, trong đó có những loài cá khổng lồ,
quý hiếm. Được biết, cá tra dầu sống ở hạ lưu sông MMê Công thuộc địa
phận Lào, Campuchia, Thái Lan và đầu nguồn sông Cửu Long của Việt Nam.
Chúng được coi là đối thủ tranh chấp với loài cá đuối rất hung dữ ở dòng sông
này. Một con cá đuối khi đạt độ cực thịnh có thể dài tới 5m tuy chỉ nặng
30kg. Chúng dài là nhờ ở cái đuôi vô cùng nguy hiểm. Trên dòng Mê Công
còn một loại cá nữa vô cùng nổi tiếng, đã trở nên thương hiệu của dòng sông
này. Đó là cá chép Xiêm (còn gọi là cá chép Thái Lan). Khi trưởng thành, cá
chép Xiêm có chiều dài toàn thân chừng 1,5m, nặng trên dưới 50kg. Nhưng
người ta cho rằng, trước đây đã có người bắt được một con chép Xiêm nặng
tới 300kg và dài tới 3m. Thân hình đen trũi, thịt lại rất thơm ngon, cá chép
Xiêm bị đánh bắt một cách dữ dội nên số lượng suy giảm nhanh chóng. Cũng
trên khúc sông chảy qua Thái Lan, còn một loại cá nữa cũng rất nổi tiếng là cá
vồ cờ (người Thái gọi là cá Pla Thepa). Con to nhất có thể đạt tới 200kg và
chiều dài toàn thân lên tới 2,5m. Trong một công bố gần đây, các nhà khoa
học cùng với Ủy ban sông Mê Công đã có nhiều câu trả lời về giá trị kinh tế
do dòng sông dài thứ 12 thế giới này đem lại . Theo đó, chỉ riêng giá trị thủy
sản được đánh bắt từ hạ lưu sông Mê Công đã lên tới 17 tỷ USD một năm,
góp 3% vào tổng GDP của nhóm các nước Việt Nam, Campuchia, Lào, và
Thái Lan.
52
Riêng đối với Lào, việc đánh bắt thủy sản được dự đoán sẽ mang về 1,51
tỷ USD, chiếm khoảng 12,8% GDP. Đánh bắt và nuôi trồng thủy sản cũng khá
phát triển theo các vùng, đặc biệt là tại các tỉnh Trung Lào (Bảng 2.1).
Bảng 2.1. Đánh bắt và nuôi trông thủy sản theo các vùng của Lào năm 2015
Đơn vị: Tấn
Các vùng Đánh bắt Nuôi trồng
Thượng Lào 18.817 13.803
Trung Lào 40.910 65.193
Hạ Lào 10.898 16.969
Cả nước 62.635 95.965
Nnguồn. [32} Cục Thống kê Nông nghiệp Lào, năm 2016
Để phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp, Lào rất quan tấm toiws
điều tiết nguồn nước sông Mê Công, xây dựng. các hồ, chứa nước, xây dựng
hệ thống kênh mương, hồ điều tiết nước cho các vùng nông nghiệp trù p;hú,
đặc biệt tại các tỉnh Trung Lào.
Số liệu thống kê của Bộ Nông nghiệp và Thủy sản Lào cho biết, tổng
diện tích tưới nước năm 2015 đạt 472 756 ha, trong đó, diện tích tưới nước và
mùa mưa đạt 293 536 ha, vào mùa khô đạt 180 220 ha. Để chủ động sử dụng
nguồn nước sông Mê Công, trên toàn lãnh thổ Lào đã xây dựng 301 hồ trữ
nước với tổng diện tích 20.163 ha [32].
Nhờ chủ động điều tiets các nguồn nước sông, hồ, hệ thống kênh
mương, năm 2015, cả nước đã chủ động sản xuất lương thực trên diện tích
gieo trông là 984,932 ha, trong đó, diện tích thu hoạch là 965 152 ha, đạt
98,178%. Đây là thành tựu quan trọng trong sử dụng nguồn nước cho sản xuất
lương thực, đáp ứng nhu cầu tự túc lương thực và bước đầu tham gia xuất
khẩu sản phẩm nông nghiệp.
2.3.1. Sự dụng nguồn nước trong hoạt động giao thông, du lịch
Về mặt giao thông đường thủy theo sông Mê Công, Sông Mê Công
được coi là trục giao thông đường thủy quan trọng và triển vọng của Lào.
53
Theo nghiên cứu của Ủy hội Sông Mê Kông, chi phí vận tải thấp hơn có thể
bù đắp được quãng đường chênh lệch giữa đường thủy và đường bộ. Nghiên
cứu cho thấy chi phí để vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ từ Tư Mao đến
Chiang Kong là 39,47USD/tấn, trong khi vận chuyển bằng đường thủy chỉ tốn
23,22 USD. Cụ thể, trao đổi thương mại giữa Thái Lan với Trung Quốc, Lào
và Myanmar trên sông Mê Kông ước tính đạt đến 15,9 tỷ Bath, qua đường cao
tốc R3A ước tính khoảng 19 tỷ Bath vào năm ngoái. Điều này cho thấy tuyến
đường thủy trên sông Mê Kông vẫn chỉ là lựa chọn phụ so với những con
đường bộ thuận tiện. Trên sông Mê Công đã xây dựng một số câu hỏi trực
tiếp với vùng đông bắc Thái Lan, Trong sô đồ phát triển kết nối khu vực, sông
Mê Công được coi là trục giao thông kết nôi thủy bộ trong khuôn khổ
Chương trình hợp tác sông Mê Công mở rộng. Hai thách thức lớn đối với
Chương trình này là Tham vọng DA khai thông giao thông trên lãnh thổ Lào
và sự không rõ ràng về biên giới đường thủy giũa Thái Lan và Lào. Về giá trị
phát triển kinh tế du lịch, tham quan du ngoạn theo sông Mê Công, các thành
phố, thắng cảnh của đất nước Lào đều gắn với dòng sông và giá rét tâm linh
sông nước. Người Lào coi Lễ hội Té nước là ngày tết lớn nhất trong năm. Các
sản phẩm du lịch sông nước đều gắn với các địa danh nổi tiêng như Vạn
Tượng, Triệu Voi - Lào là quốc gia vẫn giữ được nhiều nét văn hóa cổ xưa.
Mà cụ thể, khi đặt chân tới vùng đất này, bạn sẽ cảm nhận ngay được - một
đất nước yên bình, sống chậm và hiền hòa.
Con người Lào rất thân thiện và dễ mến, họ nói tiếng Việt cũng khá tốt
nên bạn không cần quá lo lắng cho chuyến du lịch Lào.
Du lịch Lào khá đơn giản và thuận tiện, các thủ tục xuất nhập cảnh
người và xe không phức tạp, thường chỉ cần hộ chiếu (cho người) và giấy
phép liên vận Việt - Lào (dành cho xe) là có thể du lịch Lào bằng xe máy
hoặc oto được rồi.
Du lịch Lào đặc biệt ở chỗ bạn vừa có thể tham quan chùa chiền, cầu
nguyện, thờ cũng xin may mắn, sức khỏe, tài lộc, cảm nhận về cuộc sống bình
54
yên của con người nơi đây cũng như tìm hiểu thêm về văn hóa của một quốc
gia khác không phải Việt Nam. Nơi đầu tiên bạn có thể đến là thủ đô
Vientiane. Đây có lẽ là thủ đô duy nhất trên thế giới mà không có những tòa
nhà cao chọc trời hay đường phố xe cộ tập nập qua lại, còi xe inh ỏi... Viêng
Chăn quả thực rât yên bình. Yên bình theo đúng nghĩa đen. Từ không khí của
toàn thủ đô cho đến con người. Họ là những con người sống rất chậm rãi,
nhưng lại mến khách và hiền hậu, thật thà. Không có còi xe hay xô bồ của
cuộc sống như những thủ đô khác. Tại đây, có nhiều điểm tham quan như
Chùa Mee, chùa Sisaket, vườn Phật hay tựng đài chiến thắng Patuxay nằm
giữa trung tâm thành phố. Tham quan chợ Sáng để hiểu thêm về cuộc sống
của con người nơi đây và mua các món quà lưu niệm. Thưởng thức các món
ăn tại Phố Fa Ngum hay Setthathirath. Di chuyển đến Vang Viêng - thị trấn
nhỏ nằm trên đường đi từ thủ đô Viên Chăn đến cố đô Luang Prabang. Nơi
bạn có thể tìm thấy một vài trò chơi lạ dưới nước như chèo kayak, nhảy begee
hay tubing.... Đến với Luang Prabang - thủ đô cũ của lào, bạn có thể tham
quan cả hệ thống cá chùa chiền cổ như Wat Xieng Thong, Wat Aham, Wat
Sene, Wat Visunarath... Mỗi sáng sớm thức dậy, bạn còn có thể bắt gặp
những đoàn tăng sư lên đường khất thực trên những con đường nhỏ của cố đô.
Về chiều, hãy đến đỉnh Wat Tham Phousi để ngắm hoàng hôn trên sông
Mekong và ngắm toàn thành phố Luang Prabang lúc chiều tà. Về chiều và tối
hãy ghé qua chợ đêm Luang Prabang và thưởng thúc các món ăn ở đây. Các
món ăn được bày ra các mâm và các chậu nhỏ nhìn như kiểu buffet, thực khách
tự chọn đồ ăn và lượng ăn phù hợp, sau đó, người bán sẽ tính tiền giúp bạn. Di
chuyển đến cánh đồng chum ở Xiêng Khoảng, bạn sẽ được nhìn thấy cảnh
tượng vừa huyền bí nhưng cũng rất thú vị. Hàng ngàn chiếc chum ở đây được
chôn một cách bí ẩn. Và nếu may mắn, du lịch Lào vào mùa lễ hội té nước
tháng 4, lễ hội That Luang vào tháng 12 bạn còn được tham gia vào lễ hội cùng
người dân bản địa cầu may mắn và nhiều sức khỏe. Với rất nhiều điều thú vị
như vậy, Lào chẳng phải là quốc gia buồn như bạn vẫn nghĩ. Hãy cứ đi và cảm
nhận, bạn sẽ thấy nơi đây đáng mong chờ hơn những gì bạn nghĩ.
55
2.4. Sự phát triển phát triển thủy điện của CHDCND Lào - Mô hình khát
vọng Cô-oet xuất khẩu thủy điện
2.4.1. Tiềm năng phát triển thủy điện
Dòng sông Mê Kông bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng nối liền 6
quốc gia Trung Quốc, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam.
Với khoảng 4.800km chiều dài, con sông quốc tế này tạo ra nhiều sinh cảnh
độc đáo, các hệ sinh thái giàu có và nhiều vùng châu thổ phì nhiêu. Cho đến
cuối thế kỉ 20, sông Mê Công vẫn còn giữ được nhiều nét nguyên vẹn do chưa
bị ngăn đập trên phần lớn dòng chảy. Tuy nhiên, lưu vực sông Mê Công trong
thời gian gần đây trở nên ngày càng sôi động với nhiều diễn biến phát triển
nóng gây không ít tranh cãi. Dòng sông quốc tế này đang chứng kiến xu thế
cạnh tranh với tâm điểm là việc sử dụng nguồn nước của mỗi quốc gia phục
vụ nhu cầu phát triển của riêng mình đi đôi với những thách thức tiềm tàng
cho các quốc gia khác.
Sự sôi động của lưu vực sông Mê Công bắt đầu từ những năm cuối thế kỉ
20. Các nền kinh tế mới nổi trong khu vực và một Trung Quốc đang trỗi dậy
đứng trước cơn khát năng lượng phục vụ nhu cầu tăng trưởng nóng. Thủy điện
trở thành tâm điểm của các chiến lược đầu tư mới của cả chính phủ và khu vực
tư nhân. Bên cạnh đó, gia tăng dân số trong lưu vực và biến động giá cả lương
thực trong những năm gần đây đã thúc đẩy các quốc gia đầu tư mạnh mẽ hơn
cho cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển và mở rộng sản xuất nông nghiệp.
Ở phía hạ nguồn, Lào là quốc gia đầu tiên trong 4 thành viên của Ủy
hội sông Mê Kông quốc tế thông báo kế hoạch xây đập thủy điện dòng chính.
Dự án đập Xayabury được Chính phủ Lào thông báo lên Ủy hội sông Mê
Công quốc tế vào tháng 9/2010 đã vấp phải nhiều phản đối từ nhiều phía do lo
ngại về tác động tiềm tàng lên con người và hệ sinh thái. Mới đây, Lào tiếp
tục thông báo kế hoạch triển khai tiếp hai dự án thủy điện trên dòng chính
sông Mê Công là đập Don Sahong và đập Pak Beng. Trong những tuyên bố
56
của mình, Chính phủ Lào không dấu giếm tham vọng biến quốc gia này
nguồn cung năng lượng cho khu vực.
Bên cạnh thủy điện, các quốc gia trong lưu vực cũng đang có các kế
hoạch sử dụng nước sông Mê Công trên quy mô lớn. Lào dự định tăng diện
tích tưới tiêu vào mùa khô từ 100.000 hecta/năm lên 300.000 hecta/năm trong
vòng 20 năm tới. Các hoạt động kinh tế khác khai thác lợi thế của sông Mê
Kông bao gồm phát triển nuôi trồng thủy sản, giao thông thủy, quản lý lũ lụt
và du lịch.
Diễn biến phát triển lưu vực sông Mê Kông trong thời gian vừa qua cho
thấy đây không đơn thuần là bài toán đánh đổi giữa lợi ích kinh tế và môi
trường - xã hội. Ngoại trừ Trung Quốc ở phía thượng nguồn, Lào đang nổi lên
là quốc gia có vị thế địa chính trị đặc biệt, có tính then chốt đối với toàn cục
phát triển lưu vực. Trong chuỗi domino 12 con đập trên dòng chính (và cả các
dự án chuyển nước phục vụ nông nghiệp), một khi con đập đầu tiên được xây
dựng sẽ kích hoạt toàn bộ các dự án khác.
2.3.2. Những dự án thủy điện đang hoạt động
Lào đang triển khai xây dựng thủy điện Don Sahong Các hoạt động xây
dựng đập thủy điện Don Sahong tại Nam Lào đang được triển khai, bất chấp
sự phản đối và lời đề nghị thực hiện tham vấn đối với dự án từ các quốc gia
láng giềng. Đây là thông tin được Tổ chức Sông ngòi Quốc tế (IR) khẳng định
sau chuyến khảo sát đầu tháng 6 vừa qua dự kiến xây dựng đập.
Điều này đã chứng tỏ mối lo ngại rằng Don Sahong sẽ theo đuổi “chiến
thuật” từng áp dụng với đập Xayyaburi là có cơ sở. Nghĩa là công việc xây
dựng đập sẽ được tiến hành trước khi các quốc gia láng giềng có cơ hội thông
qua quy trình tham vấn, trước khi các nghiên cứu về tác động được hoàn
thành và trước khi các tác động xuyên biên giới được nhận thức đầy đủ. Theo
57
thông tin từ IR, tại khu vực dự án, một cây cấu nối đất liền với đảo Don
Sadam đang được xây dựng. Cây cầu này sẽ mở đường cho các hoạt động xây
dựng tiếp theo trên Kênh Hou Sahong. Từ tháng 11/2013 người dân Don
Sahong đã được thông báo rằng họ sẽ bị tái định cư để nhà đầu tư làm đường
vào đập. Tuy nhiên đến nay người dân cũng chưa được biết họ sẽ bị di dời về
đâu và cũng chưa được bồi thường hoặc hỗ trợ sinh kế từ khi bị cấm đánh bắt
cá tại khu vực khơi luồng di cư của cá trên kênh Hou Xang Pheuak.
Cây cấu nối đất liền với đảo Don Sadam đang được xây dựng (Ảnh: IR)
Trong khi đó, ngay sau khi Lào có thông báo về kế hoạch xây dựng thủy điện
Don Sahong, Việt Nam, Campuchia và Thái Lan đã tuyên bố rằng dự án Don
Sahong phải trải qua quá trình tham vấn trước theo yêu cầu của Hiệp định Mê
Kông năm 1995. Tuyên bố này đã sau đó được khẳng định lại tại cuộc họp
đặc biệt của MRC hồi tháng 1/2014. Tại Hội nghị thượng đỉnh Mê Kông lần
thứ 2 tại TPHCM tháng 4/2014, Việt Nam và Campuchia cũng đã kêu gọi Lào
dừng tất cả các hoạt động xây dựng đập trên dòng chính Mê Kông trong 10
năm đến khi các nghiên cứu về tác động của thủy điện dòng chính hoàn thành.
Tuy nhiên, đề nghị này đã bị Lào bỏ qua. Đầu tháng 5/2014 Thượng
nghị viện Campuchia cũng đã gửi thư đến các nhà lãnh đạo các quốc gia Mê
Kông kêu gọi dừng xây dựng Xayaburi và Don Sahong, đồng thời kêu gọi
Thái Lan hủy hợp đồng mua điện từ đập Xayaburi. Chương trình nghị sự cuộc
họp cấp Hội đồng Ủy hội sông Mê Kông lần thứ 20 vào 26/6 tới đây tại Thái
Lan dự kiến sẽ bàn về việc Don Sahong có phải thực hiện quy trình tham vấn
trước hay không. Tại đây, nếu bốn quốc gia không đạt được thỏa thuận, quyết
định sẽ được chuyển lên bàn nghị sự ở cấp cao hơn.
Đến nay, thủy điện Nậm Ngừm vẫn là công trình thủy điện lớn nhất ở Lào.
58
Hình 2.3. Sơ đồ các DA thủy điện Mê Công thuộc Lào
Nguồn: [28]
2.4.3. Những dự án đang hoạt động: Dự án Nậm Ngừm
Nậm Ngừm là một dòng sông lớn ở Bắc và Trung Lào và là phụ lưu cấp
1 quan trọng của sông Mê Kông. Nậm Ngừm dài 354 km, bắt nguồn từ vùng
núi phía Bắc tỉnh Xiêng Khoảng, chảy về phương Nam qua tỉnh Viêng Chăn,
và nhập vào sông Mê Kông tại phía Nam thành phố Vientiane. Lưu vực sông
này là nơi sính sống của khoảng 1 triệu người dân các bộ tộc Lào. Vào thập
niên 1980, Lào đã xây dựng một công trình thủy điện trên Nậm Ngừm tại
đoạn chảy qua tỉnh Viêng Chăn. Giữa thập niên 1990 lại xây đập chuyển dòng
59
Nậm Song để đổi hướng sông Nậm Song về bổ sung nước cho hồ chứa nước
Nậm Ngừm vào mùa Lào cũng đang xây và có kế hoạch xây 4 công trình thủy
điện khác trên dòng sông này. Từ khi hoàn thành việc xây dựng hồ chứa nước
của công trình thủy điện Nậm Ngừm, nơi đây trở thành một điểm thu hút
khách du lịch. Tự do hóa và quốc tế hóa kinh tế từ đầu thập niên 1990 đã cho
phép Lào thu hút được các dự án đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực du lịch ở
Nâm Ngừm, trong đó phải kể đến Dansavanh Nam Ngum Resort.
Nậm Ngừm là một dòng sông lớn ở Bắc và Trung Lào và là một chi lưu
quan trọng của Mê Kông. Nậm Ngừm dài 354 km, bắt nguồn từ vùng núi phía
Bắc tỉnh Xiêng Khoảng, chảy về phương Nam qua tỉnh Viêng Chăn, và nhập
vào Mê Kông tại phía Nam thành phố Vientiane. Lưu vực sông này là nơi
sính sống của khoảng 1 triệu người dân các bộ tộc Lào. Vào thập niên 1980,
Lào đã xây dựng một công trình thủy điện trên Nậm Ngừm tại đoạn chảy qua
tỉnh Viêng Chăn. Giữa thập niên 1990 lại xây đập chuyển dòng Nậm Song để
đổi hướng sông Nậm Song về bổ sung nước cho hồ chứa nước Nậm Ngừm
vào mùa khô. Đến nay, thủy điện Nậm Ngừm vẫn là công trình thủy điện lớn
nhất ở Lào. Lào cũng đang xây và có kế hoạch xây 4 thủy điện khác trên dòng
sông này.
Sau khi nhận được chỉ đạo từ Bộ Năng lượng và Mỏ của Lào về việc xả
nước nhằm ứng cứu tình trạng khô hạn phía hạ nguồn sông Mê Công, đặc biệt
là các tỉnh ĐBSCL của Việt Nam, từ ngày 23/3, Nhà máy thủy điện Nặm
Ngừm 1, một trong bốn đập thủy điện của Lào đã tiến hành xả nước cứu hạn.
Theo kế hoạch, trong năm 2016, Nhà máy thủy điện Nặm Ngừm 1 của
Lào có 12 tháng xả nước trung bình từ trên 260 m3/s đến trên 392 m3/s. Tuy
nhiên, do yêu cầu cấp bách của việc cứu hạn phía hạ nguồn sông Mê Công,
trong đó có Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam, Nhà máy thủy điện
Nặm Ngừm 1 được lệnh tăng lượng xả từ 392,44 m3/s lên 400,54 m3/s, và dự
kiến trong khoảng hai tháng tới mức xả sẽ đạt khoảng 460 m3/s. Theo phóng
60
viên TTXVN tại Lào, Nhà máy thủy điện Nặm Ngừm 1 là một trong bốn nhà
máy thủy điện của Lào đã tiến hành xả nước từ ngày 23/3, cùng với các nhà
máy thủy điện Nặm U, Nặm Khan và Nặm Thơ với tổng mức xả 1.136 m3/s.
Từ khi hoàn thành việc xây dựng hồ chứa nước của công trình thủy
điện Nậm Ngừm, nơi đây trở thành một điểm thu hút khách du lịch. Tự do
hóa và quốc tế hóa kinh tế từ đầu thập niên 1990 đã cho phép Lào thu hút
được các dự án đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực du lịch ở Nâm Ngừm, trong
đó phải kể đến Dansavanh Nam Ngum Resort. Một điểm du lịch hấp dẫn khác
là ở đoạn sông chảy qua Vang Viêng, thường được liên kết với khu du lịch
sông Nậm Song.
2.4.4. Một số dự án đang triển khai
Chính phủ Lào luôn mong muốn trở thành “bình ắc quy của khu vực
Đông Nam Á” vì nếu làm được như vậy, Lào có điều kiện để phát triển nền
kinh tế của Lào. Để đạt được mục tiêu này, Lào có kế hoạch xây dựng khoảng
70 đập thủy điện trên cả dòng chính lẫn dòng nhánh của sông Mê Công.
Thống kê của cơ quan Tham tán Kinh tế - Văn hóa Việt Nam tại Lào cho
thấy, Việt Nam hiện xếp thứ 3 trong số 38 nước và vùng lãnh thổ có đầu tư vào
Lào (tính tới tháng 5/2010), gồm 216 dự án đã được cấp phép, với tổng vốn
đăng ký 2,413 tỉ USD. Các doanh nghiệp của tỉnh Bình Định đã có nhiều dự án
đầu tư vào Lào từ rất sớm và đạt được hiệu quả bước đầu nhất định. Số lượng
dự án và vốn đầu tư đến từ Việt Nam đã tăng nhanh trong vài năm gần đây.
Đặc biệt, trong hai năm 2008 và 2009, Việt Nam đã vươn lên dẫn đầu về đầu tư
nước ngoài vào Lào (cả về số dự án và số vốn cam kết đầu tư). Hiện 16/17 tỉnh
của Lào đã có nhà đầu tư Việt Nam triển khai dự án trong các lĩnh vực công
nghiệp, nông - lâm nghiệp, dịch vụ, du lịch, khách sạn, tài chính, ngân hàng,
bảo hiểm.
61
Bảng 2.2. Các DA đập chính trên sông Mê Công trên lãnh thổ Lào
Công Chiều Dung ích Diện tích Chiều dài Dự án suất cao đập hoạt động hồ chứa đập (triệu m3) (km2) (Wh) (m)
1.230 Pak Beng 76 943 442 87
Luang Prabang 1.040 68 1106 734 90
Xayyabury 1.285 32 810 225 32
Pak Lay (1) 1320 35 630 384 108
Pak Lay (2) 1320 35 630 384 108
Pakkham 700 38 1144 106 81
Pakchom 1079 1200 55 12 84
Ban Koum 1872 53 780 - 133
Lat Sua 686 276 13400 0 13
Stung Treng 980 22 10884 70 210
Sambor 2600 56 18,ô2 465 620
Nguồn: [28]
Tuy vậy, bên cạnh những dự án đang triển khai khá tốt, như thủy điện
Sekaman 3, thủy điện Nậm Sam, thủy điện Nậm Ngừng 4 hay trồng cao su
với hàng vạn ha ở khu vực Nam Lào…, không ít nhà đầu tư đến từ Việt Nam
đang phải đối mặt với hàng loạt khó khăn, như thiếu thông tin, thiếu nhân lực
để triển khai dự án, hay việc phải cần nhiều thời gian để giải quyết các thủ
tục. Theo tính toán, nhân lực sử dụng trong dự án khai thác quặng sắt, nhà
máy phôi thép tại Xiêng Khoảng cần 2.000 lao động; dự án muối tại
Savanakhet cần 2.000 người. Tuy nhiên, để có được nhân sự ngay tại chỗ, đáp
ứng nhu cầu của nhà đầu tư là không đơn giản.
Ngoài khó khăn về nhân lực, những khó khăn chính mà DN Việt Nam
đầu tư vào Lào còn phải đối mặt gồm: thiếu thông tin, thủ tục đăng ký sử
dụng lao động nước ngoài không rõ ràng, mất nhiều thời gian; cấp phép đầu
62
tư còn chậm, các thủ tục xuất nhập cảnh vật tư cho các dự án vẫn còn khó
khăn; thời gian cấp hợp đồng thuê đất số lượng lớn kéo dài; điều kiện cơ sở
hạ tầng chưa được cải thiện (khu vực Thượng Lào)
Tuy vậy, việc chậm triển khai dự án mà trách nhiệm từ phía nhà đầu tư
cũng là một thực tế cần nhắc tới. Ông Hoàng Cung Thọ Nhân, Chủ tịch Hội
DN Việt Nam hợp tác và đầu tư tại Lào cho hay, việc đầu tư của các DN Việt
Nam lớn, có tiềm lực tài chính diễn ra với tiến độ nhanh, trong khi ở nhiều
DN khác có phần chậm hơn. Điều này khiến đầu tư của Việt Nam sang Lào
những năm gần đây rất sôi động ở nhiều lĩnh vực, với nhiều dự án đa dạng,
nhưng kết quả thu được lại chưa như mong đợi.
Ngoài ra, khủng hoảng kinh tế năm 2008, chuyển đổi mô hình kinh tế từ
DN nhà nước sang công ty TNHH một thành viên cũng khiến tiến độ triển khai
một số dự án đầu tư tại Lào bị chậm lại. Những khó khăn trên đã làm ảnh
hưởng tới kim ngạch thương mại song phương giữa hai nước. Tính đến hết
tháng 6/2010, kim ngạch buôn bán giữa hai bên mới đạt hơn 212 triệu USD,
trong khi mục tiêu đặt ra cho cả năm là 1 tỉ USD. “Phải có bước đột phá về
chính sách, thì mới có thể thúc đẩy đầu tư của Việt Nam sang Lào” là nhận xét
của nhiều DN Việt Nam đang hoạt động tại Lào. Thậm chí, một số đơn vị cho
rằng, DN Việt Nam đã bỏ lỡ không ít cơ hội để gia tăng sự có mặt của mình tại
Lào trong lĩnh vực thương mại. Ông Dương Đình Bảng, đại diện Tập đoàn tư
nhân Việt Phương cho biết, cả Viêng Chăn không có một chợ nào giới thiệu
hàng Việt Nam, trong khi ở một số nước khác (Trung Quốc), có tới 2 chợ...
“Từng có những vị trí đẹp ở thành phố lớn đã được dành cho DN Việt Nam
làm trung tâm thương mại, tuy nhiên, đã 2 - 3 năm trôi qua, mà DN Việt Nam
vẫn chưa triển khai được dự án, khiến hàng Việt Nam chưa có nhiều cơ hội đến
với người dân Lào. Đó là chưa kể, hàng Việt Nam chưa tự tin cạnh tranh với
hàng Thái Lan và hàng Trung Quốc; hay tâm lý cho rằng, thị trường Lào không
lớn, nên không dốc sức để phát triển, thâm nhập”, ông Bảng phân tích.
63
Từ năm 1994, Công ty Dược - Trang thiết bị y tế Bình Định là doanh
nghiệp đầu tiên của tỉnh tiến hành đầu tư vào tỉnh Champasak - Lào trong lĩnh
vực sản xuất dược phẩm, tổng mức đầu tư 2 triệu USD. Hiện nay, nhà máy
đang hoạt động sản xuất rất hiệu quả, các sản phẩm do nhà máy sản xuất
không chỉ tiêu thụ tại Champasak mà còn được phân phối đến các tỉnh
Sekong, Attapu và cả nước bạn Lào.
Trước thành công đó, năm 2006 Công ty Bidina đầu tư dự án trồng cây
cao su lấy gỗ và xây dựng Nhà máy chế biến mũ cao su tại tỉnh Sekong với
tổng vốn đầu tư thực hiện trên 120 tỉ đồng và Công ty Cao su Hữu nghị Lào -
Việt cũng thực hiện dự án trồng cây cao su và xây dựng Nhà máy chế biến mũ
cao su tại Sekong với mức đầu tư 10 triệu USD. Hai dự án này đang được triển
khai khá hiệu quả. Đồng thời, một số doanh nghiệp khác của tỉnh cũng đang
trong quá trình xin phép đầu tư vào các tỉnh Nam Lào. Điều này cho thấy, Lào
đang là địa chỉ thu hút đầu tư của các doanh nghiệp tỉnh Bình Định nói chung
và cả nước nói riêng. Tuy nhiên, cũng như các doanh nghiệp khác đang đầu tư
tại Lào, các doanh nghiệp của tỉnh cũng gặp khó khăn về nguồn lao động tại
chỗ trong khi chính quyền sở tại lại hạn chế số lượng lao động Việt Nam sang
làm việc và áp dụng thuế suất thuế thu nhập cá nhân rất cao; việc tiếp cận, cập
nhật các cơ chế chính sách vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế…
Tiểu kết chương 2
Sông Mê Công có tiềm năng rất phong phú từ dòng chính đến các dòng
nhánh trên lưu vực trong việc cung cấp nước, năng lượng cho phát triển kinh
tế đặc biệt là thủy điện (với tổng công suất ước tính khoảng 53.000MW, trong
đó các nước hạ lưu khoảng 30.000MW bao gồm chủ yếu Lào, Camphuchia và
Việt Nam, và phần thượng lưu vực sông Mê Công có tiềm năng ước tính đạt
23.000 MW, chủ yếu ở Trung Quốc). Để sử dụng bền nguồn nước sông Mê
Công đối với phát triển kinh tế của Lào, nguồn tài nguyên này trên đất Lào
cần được đánh giá về tiềm năng cũng như hiện trạng trên quan điểm tổng hợp,
64
bao gồm địa lí tự nhiên,kinh tế, xã hội, nhân văn. Thông qua đánh giá chung
các DA đang và sẽ triển khai với nhiều điều kiện thuận lợi cũng như khó
khăn, chúng ta hiểu được bên cạnh những thế mạnh về tiềm năng thủy điện ở
lưu vực sông Mê Công, cũng còn có rất nhiều vấn đề cần được quan tâm
nghiên cứu để không những đảm bảo phát huy hết tiềm năng thủy điện mà
còn đảm bảo sự công bằng về mặt sử dụng nguồn nước giữa các nước trong
lưu vực và vấn đề môi trường sinh thái trên toàn lưu vực. Mục tiêu cuối cùng
của chương này là là nổi bật ước mơ cũng như tham vọng biến nước Lào trở
thành Cô-owet (Kuwait) thủy điện theo tinh thần sử dụng công bằng, chia sẻ
và quản lí tài nguyên nước xuyên biến giới.
65
Chương 3
NHỮNG DỰ ÁN SỬ DỤNG NƯỚC MÊ CÔNG TRÊN LÃNH THỔ
CHDCND LÀO VÀ ĐỊNH HƯỚNG SỬ DỤNG CÔNG BẰNG
NGUỒN NƯỚC SÔNG MÊ CÔNG
3.1. Xây dựng thủy điện
3.1.1. Dự án Xayyabury
Đó là thông tin từ Ban thư ký Ủy hội sông Mê Công (MRC), ngày 8/11.
Dự án thủy điện Pak Beng dự định xây trên dòng chính sông Mê Công tại tỉnh
Oudomxay, phía bắc nước Lào, công suất lắp đặt 912 MW với lưu lượng
dòng xả theo thiết kế hơn 5.700m3/giây. Đây là dự án thủy điện thứ ba trên
dòng chính sông Mê Công thuộc lãnh thổ Lào, sau thủy điện Xayaburi và Don
Sahong. Thông cáo cho biết Ủy ban sông Mê Công Lào đã nộp cho Ban thư
ký MRC một báo cáo mô tả chi tiết về quy hoạch thủy điện của Lào, trong đó
có dự án thủy điện Pak Beng. Báo cáo này được Ban thư ký xem xét trong
vòng một tháng và sẽ trình lên Ủy ban liên hợp MRC. Lào sẽ nhận sự tư vấn,
hỗ trợ kĩ thuật của Ban Thư ký MRC, bản thân các nước thành viên sẽ xem
xét các khía cạnh kỹ thuật của dự án, đánh giá tác động của dự án đối với môi
trường và sinh kế tới cộng đồng ven sông và đề xuất các biện pháp để giải
quyết. Việc tham vấn trước là thủ tục bắt buộc đối với các quốc gia trong lưu
vực khi thực hiện các dự án trên dòng chính sông Mê Công. Quá trình tham
vấn có thể kéo dài đến 6 tháng hoặc hơn, trước khi tiến hành thỏa thuận các
điều kiện bắt buộc đối với từng dự án.
Trước đó, 2 DA thủy điện Xayyaburi và Don Sahong của Lào, nằm trên
dòng chính sông Mê Công cũng đã được trình lên Hội đồng MRC, nhưng vấp
phải phản đối kịch liệt của các nước và quá trình tham vấn vẫn không đạt
được nhất trí chung. Riêng với đập Xayyaburi, quá trình tham vấn cũng đã
buộc chủ đầu tư phải đầu tư thêm 400 triệu USD để thiết kế lại bậc thang di
chuyển cho cá và điều tiết phù sa. Ông Phạm Tuấn Phan, Giám đốc điều hành
66
Ban thư ký Ủy hội sông Mê Công (MRC) cho biết: "Chúng tôi đã có được bài
học từ hai trường hợp trước đó, hiện nay Ban thư ký đã sẵn sàng để hỗ trợ các
nước thành viên xem xét dự án, đánh giá các khía cạnh kỹ thuật và đi đến kết
luận một cách toàn diện và có ý nghĩa nhất".
MRC cùng với Ủy ban sông Mê Công quốc gia sẽ tạo điều kiện cho quá
trình tham vấn quốc gia và khu vực để lấy ý kiến của công chúng về dự án này.
Về mối nguy hại của những dự án thủy điện trên dòng chính sông Mê Công,
trao đổi với Đất Việt, GS.TS Vũ Trọng Hồng, Chủ tịch Hội Thủy lợi Việt Nam,
nguyên Thứ trưởng Bộ NN-PTNT cho rằng, "trong tương lai dòng Mê Công sẽ
chết", bởi điều nguy hiểm nhất khi các nước xây dựng thủy điện, đó là vào mùa
kiệt, các nước có thủy điện sẽ tích nước lại để vận hành thủy điện trong khi
quốc gia ở dưới hạ lưu sông Mê Công n hư Việt Nam lại cần xả.
Hiện nay, lưu lượng dòng chảy ở ĐBSCL khoảng 6.000m3/s, đó là dòng
chảy sinh thái, rửa trôi tất cả những chất độc, đẩy mặn ra biển. Thế nhưng, sau
này, khi Lào làm xong thủy điện, đến mùa kiệt sẽ chỉ còn vài trăm m3/s, coi như
sông Mê Công thành dòng sông chết, trong khi lưu lượng tối thiểu chúng ta cần
ở là 2.000m3/s. Trong khi, TS Dương Văn Ni, khoa Môi trường và Tài nguyên
thiên nhiên (Đại học Cần Thơ) nhấn mạnh: "Ủy hội sông Mê Công chỉ là ủy hội
nhằm hỗ trợ các nước trong lưu vực hiểu nhau, giúp đỡ nhau trong việc cùng sử
dụng dòng Mê Công. Nói cách khác, Ủy hội giống như bên trung gian giúp cho
các nước sử dụng dòng Mê Công một cách bền vững chứ không có cơ sở ràng
buộc pháp lý nào. Nếu 11 thủy điện được xây dựng trên dòng chính Mê Công
cộng với biến đổi khí hậu thì dòng sông Mê Công nói chung và ĐBSCL nói
riêng sẽ "gặp đại nạn". Nói rõ hơn, GS Vũ Trọng Hồng cũng nhấn mạnh: "MRC
không có thẩm quyền về mặt pháp lý để chống lại việc xây dựng thủy điện của
một nước thành viên. Thay vào đó, Ủy hội chỉ có tính chất là một tổ chức quốc
tế, nơi các nước tự cam kết ngồi với nhau để cùng chia sẻ, sử dụng dòng Mê
Công, hỗ trợ nhau về thông tin, kinh nghiệm sử dụng dòng sông".
67
3.1.2. Dự án Pak Beng
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà - Chủ tịch Ủy ban
sông Mê Kông Việt Nam vừa có chuyến thăm và làm việc với Bộ trưởng Bộ Tài
nguyên và Môi trường, Chủ tịch MRC quốc gia Lào Sommad Pholsena để trao
đổi về quá trình tham vấn trước đối với dự án thủy điện Pắc Beng. Theo thông
tin từ Bộ Tài nguyên và Môi trường, Đoàn Việt Nam đã trao đổi trên tinh thần
chân tình, cởi mở, tin cậy với các bạn Lào về quá trình tham vấn dự án thủy điện
Pak Beng với mục tiêu giúp bạn Lào đánh giá tác động toàn diện của công trình
thủy này đối với người dân Lào, thượng nguồn cũng như hạ du, bao gồm
ĐBSCL Việt Nam. Từ đó có những biện pháp giảm thiểu tác động tối ưu nhằm
sử dụng hiệu quả và bền vững nguồn tài nguyên nước lưu vực sông Mê Kông,
tăng cường tình đoàn kết đặc biệt, hữu nghị và truyền thống giữa hai nước.
Đại diện MRC Việt Nam đã báo cáo hai Bộ trưởng nội dung tham vấn
trước cũng như những đề xuất của phía Việt Nam liên quan đến dữ liệu sử
dụng, các giải pháp bảo đảm dòng chảy, phù sa bùn cát, giao thông thủy,
đường di chuyển của cá, chất lượng nước, tác động xuyên biên giới, an toàn
công trình. Đại diện Bộ Năng lượng và Mỏ của Lào đã nêu các giải pháp đang
được thực hiện nhằm hoàn thiện hơn nữa báo cáo, cũng như để giải quyết
những vấn đề các bên liên quan còn quan ngại như hạ thấp chiều cao của đập,
hạ thấp cửa xả phục vụ xả phù sa lơ lửng, phù sa đáy hồ. Đồng thời mời Công
ty Snowy Mountains Engineering Corporation (SMEC) của Australia vào
nghiên cứu bổ sung về số liệu cá di cư và thiết kế đường cá đi; thuê công ty
giám sát của Pháp tham gia giám sát an toàn công trình bên cạnh sự giám sát
của chủ đầu tư.
Bộ trưởng Trần Hồng Hà khẳng định, Việt Nam hoan nghênh các bộ,
ngành liên quan của Lào đã hợp tác, cung cấp thông tin cho các bên trong quá
trình tham vấn trước đối với dự án thuỷ điện này trên tinh thần cầu thị, lắng
nghe ý kiến của các chuyên gia quốc tế, các nhà khoa học và các khuyến nghị
68
của Ủy hội sông Mê Công quốc tế. Từ đó có những giải pháp kịp thời như
bổ sung các nghiên cứu, đánh giá môi trường, động đất, đánh giá tác động
xuyên biên giới và tích cực tham vấn với sự tham gia của nhiều bên đối với
dự án. Ông Trần Hồng Hà cũng đề nghị phía Lào bổ sung số liệu, áp dụng
các phương pháp khoa học tiên tiến phục vụ việc dự báo, đánh giá chính xác
tác động của công trình, bảo đảm công trình vận hành an toàn cũng như để
điều tiết nước một cách phù hợp, bảo đảm lợi ích hài hoà giữa các ngành
kinh tế của Lào, cũng như việc chia sẻ hiệu quả tài nguyên nước giữa các
nước trong lưu vực, giữ vững các lợi ích về kinh tế, xã hội và văn hoá của
dòng sông Mê Công.
Theo thông tin từ Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ trưởng Sommad
Pholsena Lào đánh giá cao các nhận xét, đề nghị của phía Việt Nam và coi đây
là những thông tin quan trọng để phía Lào hoàn thiện báo cáo về dự án thuỷ điện
Pak Beng. Phía Lào khẳng định sẽ phối hợp với các thành viên khác trong Ủy
hội sông Mê Công quốc tế và Ban thư ký Ủy hội trong việc tiếp tục hoàn thiện
báo cáo, xem xét ý kiến của các bên liên quan một cách có trách nhiệm nhằm
bảo đảm hài hoà lợi ích của các nước ven sông theo Hiệp định Mê Kông 1995.
Hai bộ trưởng nhất trí sẽ phối hợp cùng với các nước thành viên khác
của Ủy hội và Ban thư ký Ủy hội sông Mê Kông thông qua một Tuyên bố
chung về Tham vấn trước đối với dự án thuỷ điện Pắc Beng để thống nhất các
giải pháp nhằm giảm thiểu tác động của công trình đối với các quốc gia ven
sông, đảm bảo hài hoà các lợi ích về kinh tế, xã hội và môi trường của các bên
và sự phát triển bền vững lưu vực sông Mê Công. Hai Bộ trưởng cũng nhất trí
cho rằng các nước trong Ủy hội sông Mê Công và cơ chế hợp tác Mê Công -
Lan Thương cần sớm xây dựng cơ chế pháp lí và kỹ thuật để giám sát chung
và chia sẻ thông tin, vận hành, điều tiết các hồ thuỷ điện trong khuôn khổ Ủy
hội và cơ chế hợp tác Mê Công - Lan Thương.
Chuyên gia lo lắng: Dự án thủy điện Pak Beng cách Thủ đô Viên Chăn
hơn 600km về phía thượng lưu, cách biên giới Việt Nam 1.933km.
69
Công trình này có công suất thiết kế 912MW, điện lượng 4,765 GWh
chủ yếu xuất khẩu sang Thái Lan (90%). Đây là công trình đầu tiên trong
chuỗi 11 bậc thang thủy diện dòng chính dự kiến được xây dựng trong vùng
hạ lưu lưu vực sông Mê Kông và là công trình thứ 3 được đề xuất xây dựng
sau Xayabuly và Đôn-sa-hông. Chủ đầu tư là Công ti sản xuất năng lượng
quốc tế Datang của Trung Quốc.
Tại hội thảo do Uỷ ban sông Mê Công Việt Nam tổ chức cách đây chưa
lâu, nhiều chuyên gia khi xem xét tác động ở các khía cạnh thủy văn-thủy lực,
phù sa bùn cát, thủy sản-hệ sinh thái, chất lượng nước, kinh tế xã hội, giao
thông thủy, an toàn đập đều có thể thấy chủ đầu tư dự án chỉ ưu tiên phát điện
kinh doanh, xem nhẹ các vấn đề bảo tồn hệ sinh thái, môi trường. Trong số 11
công trình thủy điện của Lào và Campuchia trên dòng Mê Công dự kiến làm
thì mỗi công trình có một chủ đầu tư khác nhau làm, mỗi chủ đầu tư lại làm
theo các tiêu chuẩn khác nhau, mạnh ai nấy làm, không đồng nhất. Các
chuyên gia cho rằng cần đặt ra về hậu quả của chuyện này về vai trò của Ủy
hội Mê Công.
3.2. Dự án Khai thông giao thông trên sông Mê Công
Nguy cơ về môi trường chỉ là một trong số những vấn đề đáng quan
ngại của dự án khai thông đường thủy trên sông Mê Công đang được các
nước Trung Quốc, Thái Lan, Lào và Myanmar triển khai vì vẫn còn nhiều vấn
đề đặt ra đằng sau mục tiêu của dự án này. Ngoài vấn đề môi trường, quan
ngại với dự án này còn là chiến lược của Trung Quốc nhằm sử dụng dòng
sông như một cửa ngõ giao thông đưa hàng hóa tới Đông Nam Á. Với lợi thế
có đường biên giới với Lào, Myanmar và bắc Thái Lan, chính phủ Trung
Quốc đã nhìn thấy tiềm năng tứ giác kinh tế của khu vực nên đã và đang nỗ
lực biến dòng Mê Công trở thành tuyến đường thương mại lớn từ năm 1992,
lấy cảng Tư Mao ở tỉnh Vân Nam làm điểm khởi đầu.
Trung Quốc đã tạo ra các công cụ pháp lí và động cơ mang tính quốc tế
để xúc tiến kế hoạch này. Tháng 4/2001, Trung Quốc, Myanmar, Lào và Thái
70
Lan đã ký Hiệp định giao thông thủy thương mại. Và chỉ vài tháng sau đó,
bốn quốc gia này đã thành lập Ủy ban Điều phối giao thông thủy thương mại
(JCCCN) để thúc đẩy quá trình xây dựng thủy lộ cho các thương thuyền.
Theo chủ trương của Trung Quốc, JCCCN đã bắt đầu triển khai giai đoạn khai
thông tuyến đường thủy từ khoảng một thập kỉ trước.
Tại cuộc họp ở Myanmar hồi năm ngoái, JCCCN tiếp tục thực hiện giai
đoạn thứ hai, yêu cầu các nước kéo dài con đường thủy này đến Luang
Prabang (Lào) và xa hơn nữa. Tại khu vực Khon Pi Luang thuộc biên giới
Thái Lan và Lào, kế hoạch này đã vấp phải sự phản đối kịch liệt của người
dân địa phương và các nhà hoạt động môi trường. Để chuẩn bị cho giai đoạn
thứ hai của dự án, công ty tư vấn CCCC Second Harbor của Trung Quốc đang
tiến hành khảo sát khu vực sông. Dự kiến sau khi quá trình khảo sát hoàn
thành vào tháng 11, Thái Lan sẽ giúp công ty này đánh giá ảnh hưởng môi
trường và xã hội của dự án vào tháng 12. Vấn đề thứ hai đặt ra liên quan đến
tính kết nối địa lý của khu vực. Nếu so sánh với các tuyến đường vận tải đã
có, sông Mê Công không phải là đường tắt để trao đổi hàng hóa giữa Trung
Quốc, Lào và Thái Lan. Cụ thể, đường sông dài 590 km từ cảng Tư Mao (Vân
Nam, Trung Quốc) qua Huay Xay (Lào) đến Chiang Kong (Thái Lan) trong
khi tuyến đường bộ chỉ vào khoảng 450 km. Tương tự như vậy, khoảng cách
đường thủy từ cảng Tư Mao tới Luang Prabang dài 890km trong khi đường
bộ chỉ dài 510km.
Tuyến đường thủy Mê Công từ Tư Mao tới Vientiane dài khoảng
1380km trong khi đường bộ chỉ khoảng 890 km. Mặc dầu vậy, theo nghiên
cứu của Ủy hội Sông Mê Công, chi phí vận tải thấp hơn có thể bù đắp được
quãng đường chênh lệch giữa đường thủy và đường bộ. Nghiên cứu cho thấy
chi phí để vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ từ Tư Mao đến Chiang Kong
là 39,47USD/tấn, trong khi vận chuyển bằng đường thủy chỉ tốn 23,22 USD.
Các tuyến đường bộ giữa các thành phố của Trung Quốc với Lào và Thái Lan
đã được cải thiện. Mặc dù vậy, Trung Quốc cũng như một số quốc gia trong
71
khu vực sông Mê Công vẫn duy trì quan điểm sông Mê Công cần được phát
triển như một con đường vận chuyển thay thế và hỗ trợ cho các tuyến đường
đã có.
Vấn đề đáng lưu tâm liên quan đến giá trị kinh tế của việc phát triển
dòng sông. Cụ thể, trao đổi thương mại giữa Thái Lan với Trung Quốc, Lào
và Myanmar trên sông Mê Công ước tính đạt đến 15,9 tỉ Bath, qua đường cao
tốc R3A ước tính khoảng 19 tỉ Bath vào năm ngoái. Điều này cho thấy tuyến
đường thủy trên sông Mê Công vẫn chỉ là lựa chọn phụ so với những con
đường bộ thuận tiện. Cuối cùng, ảnh hưởng của dự án phát triển trên sông Mê
Công tới biên giới các quốc gia cũng là vấn đề cần phải được xem xét.
Các nhà chức trách đã lên tiếng bày tỏ quan ngại tại các cuộc họp của
JCCCN rằng việc thông tuyến đường thủy trên sông Mê Công sẽ làm thay đổi
biên giới Thái Lan và Lào. Các quan chức Thái Lan cũng một mực cho rằng
việc thông tuyến đường thủy này không thể thực hiện nếu 1000 km dòng chảy
sông Mê Công không được phân chia một cách rõ ràng. Tuy dự án này vẫn
còn đang ở những giai đoạn khởi đầu, nhưng Trung Quốc đã gửi tín hiệu
khẳng định quyết tâm thực hiện thành công dự án này.
3.3. Những dư luận trái chiều về các dự án khai thác nước sông Mê Công
trên đất Lào
Ủy ban sông Mê Công được thành lập từ năm 1995, nhưng những
nguyên tắc hợp tác để cùng nhau khai thác con sông Mê Công đã hình thành
từ năm 1957, khi bốn nước là Việt Nam (lúc đó là Việt Nam Cộng hòa, miền
Nam Việt Nam) cùng ba Vương quốc láng giềng là Thái Lan, Lào và
Campuchia, dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc đã cùng nhau thỏa thuận là
sẽ hợp tác để khai thác chung con sông này. Hiện nay của Ủy ban Sông Mê
Công có ghi rằng sứ mạng của Ủy ban sông Mê Công là thúc đẩy và hợp tác
nhằm phát triển bền vững nguồn nước và những nguồn lợi liên quan tới nước,
cho lợi ích chung của các quốc gia thành viên. Bổn phận của Ủy ban Sông Mê
72
Công là một tổ chức liên chính phủ đóng vai trò trong việc giải quyết những
tác động môi trường xuyên biên giới.
Tuy nhiên theo Liên minh cứu Sông Mê Công, một tổ chức phi chính
phủ đấu tranh chống việc xây đập thủy điện trên dòng Mê Công, Ủy ban Sông
Mê Công đã thất bại trong những nhiệm vụ do chính họ đề ra. Nói về nhận
định của Liên minh cứu Sông Mê Công rằng Ủy ban Sông Mê Công đã thất
bại trong việc phát triển bền vững con sông này, Tiến sĩ Dương Văn Ni, một
chuyên gia về sông Mê Công, từ Cần thơ cho chúng tôi biết: “Bắt đầu khoản
một thập niên trở lại đây, khi các quốc gia này phát triển với một cường độ rất
nhanh, Ủy ban này bộc lộ điểm yếu, ít nhất là nó không giúp cho các chính
phủ của những quốc gia (thành viên) ở hạ nguồn đồng thuận ở những điểm
căn bản mà đã được đưa ra trước khi thành lập Ủy ban sông Mê Công này.”
Ông dẫn chứng ví dụ về đập nước Xayaburi mà nước Lào bắt đầu xây vào
năm 2012, khi đó Thủ tướng Việt Nam là ông Nguyễn Tấn Dũng đã đề nghị
Vientiane dời thời gian xây dựng để nghiên cứu thêm tác động của nó nhưng
không thành công, và Ủy ban Sông Mê Công đã không giúp gì được trong
việc điều hòa lợi ích giữa Lào và hai nước ở hạ du là Campuchia và Việt
Nam, nơi hứng chịu nhiều tác động xấu của con đập này.
Dòng Mê Công huyền thoại bắt nguồn từ Trung Quốc, chảy qua Lào,
Myanmar, Thái Lan, Campuchia rồi đổ về biển Đông qua Việt Nam nay đã
khác nhiều so với hình dạng nguyên sơ của nó. Dòng sông đang hằn lên dấu
vết của con người với những tham vọng khai phá thiên nhiên, phục vụ phát
triển kinh tế và công nghiệp hóa. Dưới đây là bản lược dịch bài bình luận
Hydropower Dams on the Mê Công: Old Dreams, New Dangers (Tạm dịch:
Đập thủy điện trên sông Mê Kông: Giấc mộng cũ, Nguy cơ mới) của ông
Richard P. Cronin - Giám đốc Chương trình Đông Nam Á và Dự án Chính
sách Mê Công thuộc Trung tâm Stimson.
Sông Mê Công hiện đang đứng bên bờ vực của một thảm họa kép do
chính con người tạo ra. Với giấc mộng khai phá nguồn tài nguyên giá trị trong
73
rừng, từ các mỏ khoáng sản và dưới lòng sông… vì mục đích kinh tế, con
người đã từng bước làm thay đổi hình thái, dòng chảy và tính đa dạng của các
hệ sinh thái lưu vực sông. Thậm chí, những hoạt động như phá rừng, sử dụng
nước ngầm thiếu bền vững và nhất là việc xây nhiều đập lớn… còn gây tác
động nhanh hơn so với các hiện tượng như nóng lên toàn cầu, nước biển dâng
hay hiện tượng thời tiết khắc nghiệt. Liên quan đến việc khai thác nguồn lợi
từ dòng sông Mê Công, có thể thấy một tham vọng lớn từ Trung Quốc - quốc
gia có mục tiêu khai thác triệt để tiềm năng thủy điện ở thượng nguồn Mê
Công, bất kể quyền lợi và sự quan ngại của các quốc gia phía hạ nguồn. Họ
coi Mê Công là dòng sông quốc gia và nghiễm nhiên coi các thông tin về kế
hoạch phát triển liên quan đến Mê Công, hoạt động vận hành đập và thậm chí
là cả mực nước hồ chứa là bí mật quốc gia và chính điều này đang khiến các
nước hạ nguồn phải trả giá. Sinh kế và cuộc sống của hàng chục triệu người
dân, chủ yếu ở Thái Lan, Campuchia và Việt Nam, vốn sống phụ thuộc vào
những nguồn lợi từ sông Mê Kông đang bị chuỗi đập mà Trung Quốc xây tại
tỉnh Vân Nam đe dọa.
Hệ thống hồ chứa của chuỗi đập được biết có thể chứa ít nhất một nửa
lưu lượng nước trung bình hàng năm của vùng thượng nguồn. Như vậy là
ngoài việc làm thay đổi đáng kể mô hình thủy văn của sông Mê Công thông
qua việc giữ lại khoảng 80% dòng chảy phù sa giàu dinh dưỡng bắt nguồn từ
Trung Quốc, chuỗi đập này còn làm giảm độ màu mỡ của đất ở vùng hạ lưu
vực, đồng thời tạo điều kiện cho nước biển xâm nhập vào khu vực ĐBSCL
của Việt Nam.
Không chỉ Trung Quốc mà trong vài thập niên trở lại đây, Việt Nam,
Campuchia và Lào cũng đã xây dựng đập trên cả dòng nhánh và dòng chính
sông Mê Công. Do đó, những lời cảnh báo đối với Trung Quốc cũng chẳng
giúp gì trong việc ngăn cản Trung Quốc tiếp tục theo đuổi mục tiêu của
mình. Thậm chí gần đây, mũi nhọn chỉ trích có vẻ đang nghiêng sang Lào khi
nước này đề xuất xây 12 con đập trên dòng chính phía hạ nguồn Mê Công và
74
thực tế đang tiến hành xây con đập đầu tiên là Xayyaburi và khả năng tiếp
theo sẽ là Don Sahong.
Dòng Mê Công rõ ràng đang mắc kẹt giữa những tham vọng của con
người. Vẫn biết nếu muốn phát triển thì phải chấp nhận đánh đổi, song cái giá
của sự đánh đổi có thể sẽ thấp hơn nhiều nếu các bên cùng hợp tác và thỏa
hiệp để quản lý bền vững nguồn tài nguyên nước lưu vực sông. Hoạt động
thúc đẩy và phối hợp quản lý nguồn nước phía hạ nguồn lâu nay đều do Ủy
hội Sông Mê Công (MRC) đứng ra làm đầu mối. Thế nhưng những khác biệt
về chính trị và quan điểm cùng với những khó khăn trong việc sẻ chia và phát
triển nguồn tài nguyên chung đã khiến vai trò của MRC trở nên mờ nhạt. Đập
Xayyaburi ở phía bắc Lào là thử nghiệm đầu tiên chứng minh Quy trình
Thông báo, Tham vấn trước và Thỏa thuận (PNPCA) của MRC hoàn toàn thất
bại. Hơn hai năm trước, tại một cuộc họp của MRC, Việt Nam và Campuchia
đã bày tỏ thái độ không tán thành việc triển khai dự án đập Xayyaburi vì lo
ngại những tác động nghiêm trọng tới nghề cá, phù sa và sinh kế được nêu
trong bản Đánh giá Môi trường Chiến lược (SEA) công bố hồi tháng 10/2010.
Mặc dù một tháng sau đó, Chính phủ Lào đã đồng ý tạm hoãn xây Xayyaburi
để nghiên cứu sâu hơn nhưng không vì thế mà các công đoạn chuẩn bị xây
con đập này bị gián đoạn. Bỏ qua mọi mũi dùi công kích từ các nước bạn, xã
hội dân sự và cộng đồng địa phương cư trú dọc sông Mê Công, tháng
11/2012, Lào tuyên bố dự án sẽ tiếp tục khởi công. Động thái của Lào đã
chứng minh sự thất bại của PNPCA, từ đó khiến dư luận phải đặt dấu hỏi về
vai trò của MRC trong việc thúc đẩy và phối hợp các nước thành viên quản lí
nguồn tài nguyên nước phía hạ nguồn.
Ngoài MRC còn có một cơ chế hợp tác khác do Ngân hàng Phát triển
Châu Á (ADB) khởi xướng năm 1992 mang tên Tiểu vùng Sông Mê Công
Mở rộng (GMS). Đáng tiếc là cơ chế này lại chỉ thiên về các hoạt động hợp
tác phát triển kinh tế, không tham gia điều chỉnh việc hợp tác quản lý lưu vực
sông. Những bất đồng ngày càng tăng liên quan tới vấn đề xây đập trên dòng
75
chính hạ nguồn sông Mê Công đang tạo ra những mối chia rẽ mới trong khu
vực, đồng thời đe dọa sáng kiến chia sẻ dòng sông vì tương lai chung. Trong
tình hình hiện tại, nếu MRC không thể điều phối quy trình đánh giá PNPCA
có ý nghĩa hơn đối với hai dự án đập của Lào là Don Sahong và Pak Beng, và
nếu Lào không thể cho các nước hạ nguồn khác thấy được trách nhiệm của
mình thì căng thẳng sẽ còn tiếp tục gia tăng. Một giải pháp được đề xuất để
xóa bỏ tình trạng chia rẽ giữa các quốc gia trong lưu vực là thiết lập một bộ
tiêu chuẩn có thể gọi tên là “Tiêu chuẩn Mê Công” quy định rõ mức độ tác
động xuyên biên giới cao nhất có thể chấp nhận từ các đập dòng chính.
Bộ Tiêu chuẩn này được xây dựng trên cơ sở sẵn có trong Hiệp định
Mê Công 1995, theo đó thì mọi thay đổi trên dòng chính của sông không
được gây ảnh hưởng tới dòng chảy tự nhiên nhỏ nhất trong mùa khô cũng như
không chuyển dòng chảy vào Biển hồ Tonle Sap trong mùa mưa. Mục tiêu
chủ yếu của bộ Tiêu chuẩn trên là nhằm đảm bảo quá trình phát triển thủy
điện hạ nguồn Mê Kông diễn ra thuận lợi và có sự phối hợp nhịp nhàng giữa
các bên liên quan, vừa tối đa hóa được lợi ích, vừa giảm thiểu rủi ro.
Cũng cần lưu ý rằng điều kiện tiên quyết để quá trình phát triển thủy
điện trở nên khả thi, liên kết và bền vững hơn là phải xây dựng được lưới điện
cho vùng hạ lưu vực Mê Công. Bởi lẽ, khi hình thành lưới điện xuyên quốc
gia, các nước bị ảnh hưởng bởi câu chuyện xây đập ở Lào hay Campuchia sẽ
có tiếng nói thực sự trong việc đồng ý hay phản đối xây đập và khi xảy ra tình
trạng thiếu điện cục bộ hay trên toàn khu vực, các nước sẽ có thể phối hợp
giải quyết để không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của nhau. Và trên hết,
muốn quản lí và phát triển bền vững nguồn tài nguyên nước lưu vực sông bất
kể thông qua MRC, GMS hay bộ Tiêu chuẩn Mê Công, các quốc gia thành
viên cần phải thể hiện ý chí và quyết tâm mạnh mẽ, đồng thời sẵn sàng hợp
tác, thỏa hiệp trong việc chia sẻ dòng sông vì tương lai chung.
76
3.4. Chiến lược sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê Công
3.4.1. Hội nghị sử dụng bền vững nguồn nước GMS nhìn từ thể từ ĐBSCL
Việt Nam
Một trong những tranh luận mạnh mẽ nhất là tác động của thủy điện
đến các khu vực ven sông, cụ thể là Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL),
vùng đang chịu hạn hán và xâm nhập mặn nghiêm trọng từ đầu năm 2016. Ở
Việt Nam nói riêng, tình trạng thiếu nước và ngập mặn tại ĐBSCL gần đây là
ví dụ tiêu biểu cho mâu thuẫn lợi ích giữa các quốc gia thượng nguồn và hạ
nguồn. Hội thảo Sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê Công đã đem lại
một cuộc thảo luận đa chiều, đa góc độ và kết hợp đa dạng các đối tượng liên
quan theo góc nhìn quốc gia và tầm nhìn khu vực về: các vấn đề và mâu thuẫn
lợi ích trong việc xây dựng đập thủy điện trên sông Mê Công, môi trường và
biến đổi khí hậu tại lưu vực sông Mê Công, các tình huống và khả năng phát
triển cho lưu vực sông Mê Công : Tác động và hậu quả đến sinh kế của các
cộng đồng ven sông liên quan.
Mê Công là con sông có chiều dài đứng thứ 12 trên thế giới và đứng
thứ 7 trong khu vực châu Á, đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế
xã hội của các nước gồm: Trung Quốc, Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia
và Việt Nam. Trong vòng 60 năm qua, hệ thống sông Mê Công từ cao nguyên
Tây Tạng đến ven biển Đông của ĐBSCL đã kinh qua rất nhiều biến động do
các hoạt động kinh tế của con người: rừng của vùng Vân Nam bị mất trên
75%, rừng quanh Biển Hồ mất trên 20%; nhiều đập thủy điện, trạm bơm thủy
lợi phục vụ nông nghiệp, công nghiệp, dân sinh được xây dựng tràn lan dọc
sông Mê Công từ Vân Nam (Trung Quốc), Myanmar, Lào, Thái Lan,
Campuchia, Việt Nam... Những hoạt động này cùng với những hoạt động
“nhân tai” khác đã làm cho khí hậu trái đất biến đổi và làm dòng nước sông
Mê Kông ngày càng thay đổi không lường trước được, trong đó vùng bị ảnh
hưởng nặng nề nhất chính là ĐBSCL. Trước hoàn cảnh này, việc sử dụng
77
nguồn nước sông Mê Kông sao cho đạt hiệu quả tối ưu trong vùng ĐBSCL để
bảo đảm được an ninh lương thực quốc gia và nâng cao lợi tức của nông dân
một cách bền vững là nhu cầu cấp thiết hiện nay.
Hiện trạng nguồn nước ở ĐBSCL hằng năm, ĐBSCL nhận được một
lượng nước lớn từ thượng lưu, trước khi chảy ra biển Đông. Tuy nhiên, châu
thổ sông Mê Kông cũng được đánh giá là 1 trong 3 châu thổ lớn của thế giới
bị đe doạ nghiêm trọng bởi biến đổi khí hậu. Ngoài ra, theo dự báo vào năm
2100, ĐBSCL sẽ bị ngập khoảng 1/3 diện tích nếu mực nước biển dâng lên
khoảng 1 m. ĐBSCL phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nước của sông Mê
Kông, chính vì thế khi các đập thủy điện ở thượng nguồn được xây dựng đã
làm thay đổi về chế độ dòng chảy cũng như làm giảm đi lượng phù sa, gây
thiệt hại rất lớn đến nguồn thủy sản ở ĐBSCL. Đặc biệt, ĐBSCL với hai trụ
cột kinh tế lớn là sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản, sự thay đổi
đó đã làm cho hệ sinh thái của vùng biến đổi, sinh kế người dân gặp nhiều
khó khăn và gây ra những tác hại dây chuyền khác từ tổn thất về kinh tế - xã
hội và môi trường.
Với lượng nước quá ít từ thượng nguồn cao nguyên Tây Tạng, hàng
năm khi băng tan, chảy vào hệ thống sông Mê Kông hiện nay, trước khi
nước ngọt đến được ĐBSCL thì phải qua những dòng chảy bao gồm: qua ít
nhất 4 trong 11 đập thủy điện lớn của vùng Vân Nam (Trung Quốc) đang
vận hành; qua 2 đập thủy điện của Lào đang vận hành và sẽ xây thêm 2 đập
lớn nữa với hàng trăm trạm bơm trên các phụ lưu; xuống đến vùng khô hạn
phía đông bắc của Thái Lan (nơi mà Thái Lan đã chuyển dòng nước Mê
Kông vào hàng ngàn trạm bơm thủy lợi khác); chảy qua vùng Biển Hồ của
Campuchia rồi mới về tới Việt Nam. Lưu lượng dòng sông Mê Kông bắt đầu
thay đổi lớn từ sau năm 1978, khi dòng chảy đo tại Kratie (bắt đầu vào vùng
hạ lưu của Campuchia và ĐBSCL) trong mùa mưa lũ là 77.000 m3/s, giảm
xuống 34.000 m3/s.
78
Trạm Khí tượng thủy văn An Giang theo dõi mực nước sông Tiền tại
Tân Châu từ năm 1904 đã xác định truyền thuyết của cư dân vùng ĐBSCL từ
xa xưa là “năm Thìn bão lụt” (hễ đến năm Thìn là có ngập lụt). Đặc biệt là
năm 2016, trong những tháng mùa khô, hiện tượng El Nino kết hợp dòng
chảy giảm mạnh, hạn hán xảy ra khắp nơi trong toàn hệ thống sông Mê Kông
(trong đó nặng nề nhất là ở Thái Lan và Việt Nam), nước mặn xâm nhập vào
sâu trong đất liền vùng ĐBSCL.
Vấn đề sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê Công Trong bối cành
nước ngọt ngày càng giảm dần không thể đảo ngược được, chúng ta cần phải
thay đổi tập quán sử dụng lãng phí nguồn nước với nguyên tắc cơ bản là sử
dụng có lợi nhưng không lãng phí nước ngọt, không làm gia tăng tình trạng
biến đổi khí hậu. Theo đó, trong khu vực công nghiệp và dịch vụ, sự tiết kiệm
nước ngọt cần phải được thực hiện bằng những quy trình xử lý nước thải để
tái sử dụng lại trong công nghiệp và sinh hoạt vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi
trường. Tại các vùng nước mặn, từ xưa ông bà ta đã có tập quán tiết kiệm
nước ngọt (tắm trước cho sạch bằng nước mặn, xong rồi lấy vài gáo nước
ngọt xối lên thân mình để “rửa mặn”…). Trong khu vực nông nghiệp, chúng
ta cần kêu gọi sự hiểu biết và tự giác của người sản xuất và người tiêu dùng
trong khuôn khổ chính sách sử dụng nước phù hợp nhất trong tình hình nước
ngọt ngày càng khan hiếm như hiện nay. Sản xuất nông nghiệp phải có lời,
phải tính chi phí nước ngọt vào giá thành sản phẩm, có chính sách cân đối
giữa trồng lúa vừa đủ bảo đảm an ninh lương thực, vừa tiết kiệm nước, vừa có
dư diện tích đất để chuyển sang những cây trồng, vật nuôi có giá trị cao hơn.
Cụ thể, đối với vùng ngọt: chúng ta không thể tiếp tục sử dụng nước
ngọt như trong thời kỳ thiếu thốn lương thực của những năm 70-80 của thế kỉ
trước để sản xuất lúa bằng mọi giá. Lúc thiếu gạo, chính sách an ninh lương
thực đã huy động mọi nguồn lực để sản xuất lúa, kể cả phá rừng làm ruộng
lúa… nhưng giá luôn thấp khi bán ra thị trường vì chất lượng sản phẩm không
79
đạt chuẩn quốc tế. Do đó, để nâng cao năng suất và chất lượng lúa, chúng ta
cần phải áp dụng các kỹ thuật trồng lúa tiết kiệm nguồn nước đang ngày càng
khan hiếm như hiện nay. Các kỹ thuật có thể áp dụng bao gồm: tưới nước
luân phiên, áp dụng kỹ thuật sạ khô lúa hè thu sớm, luân canh lúa và tôm,
chuyển vùng đê bao 3 vụ lúa để trồng 2 vụ lúa Đông Xuân và Hè Thu để đất
nghỉ vụ Thu Đông nhằm lấy nước mưa cùng nước phù sa, chuyển vùng đê
bao 3 vụ lúa thành vùng cây ăn trái (xoài, bưởi, sầu riêng, măng cụt, chôm
chôm, nhãn, thanh long...). Tại vùng nhiễm mặn: chúng ta nên từ bỏ chính
sách ngọt hóa để trồng lúa mà chỉ giữ lại một vụ lúa đặc sản loại trung mùa để
trồng chính vụ mùa mưa, cần xóa bỏ các diện tích trồng lúa bấp bênh để
chuyển sang vùng nuôi tôm sinh thái, tôm quảng canh, hoặc tôm bán thâm
canh, trồng rừng ngập mặn kết hợp nuôi tôm, cá…
Trong những thập kỉ tới, ĐBSCL sẽ phải đối phó với thách thức toàn
cầu về biến đổi khí hậu và thách thức khu vực về việc sử dụng nguồn nước
sông Mê Kông trên thượng nguồn. Những thách thức này không tác động
riêng lẻ mà kết hợp liên hoàn gây ra những tác hại nghiêm trọng cả về kinh tế
và môi trường đối với ĐBSCL. Vì thế, nên chăng chúng ta cần có một số giải
pháp cơ bản như:
Một là, cần phải đổi mới tư duy sản xuất của nông dân: nhiều đời qua,
người nông dân đã quen với tập quán trồng lúa phải có đầy đủ nước, bón nhiều
phân đạm và thuốc bảo vệ thực vật nhằm đạt năng suất cao nhưng chất lượng
hạt gạo làm ra lại thấp. Do vậy, người dân cần phải đổi mới phương pháp sản
xuất bằng cách từ bỏ tập quán canh tác cũ để áp dụng các tiến bộ của kỹ thuật
nông nghiệp mới. Người nông dân cần phải tham gia tích cực trong các hợp tác
xã nông nghiệp kiểu mới để có dịp học hỏi và thực hiện chặt chẽ những quy
trình sản xuất theo kỹ thuật hữu hiệu, ít nhất trong các khâu sau đây: điều khiển
đất trồng (cày sâu, bừa trộn nhiều phân hữu cơ để đất giữ nước và dinh dưỡng
hữu hiệu); bón phân cân đối: bón phân nền (bón lót) gồm phân hữu cơ và NPK
80
và vôi cùng phân vi lượng (nếu cần). Đây là kỹ thuật căn bản nhất cho cây
trồng mạnh khỏe có sức chống lại nhiều loại sâu bệnh hại.
Hai là, cần tổ chức lại sản xuất một cách hợp lí: trồng lúa ngắn ngày
năng suất cao thích hợp cho hướng sản xuất thích nghi với môi trường,
chuyển đổi cơ cấu cây trồng/vật nuôi phù hợp với điều kiện thực tiễn sản
xuất. Riêng ở ĐBSCL, cần tập trung gieo sạ lúa ở khu vực không bị ảnh
hưởng bởi mặn như An Giang, Đồng Tháp nhưng phải có sự kết hợp với biện
pháp sử dụng tiết kiệm nguồn nước. Những vùng nước ngọt vẫn có thể trồng
lúa, cây ăn trái; vùng bị nhiễm mặn, lợ nên chuyển sang canh tác theo mô
hình lúa - tôm…
Ba là, tăng cường hợp tác, trao đổi quốc tế để có các nghiên cứu
chuyên sâu, nhằm xây dựng định hướng, đề xuất các giải pháp giữ sử dụng
nước phù hợp và hiệu quả cho vùng, bao gồm cả các giải pháp công trình và
giải pháp phi công trình như xây dựng hệ thống thủy lợi thích hợp cho vùng
tôm - lúa; tiến hành dồn điền đổi thửa hoặc tích tụ ruộng đất để quy hoạch lại
mương tưới, mương tiêu riêng biệt cho mỗi ruộng lúa - tôm, tôm sinh thái,
tôm bán thâm canh và tôm thâm canh; xây dựng hệ thống đê bao và trồng
thâm canh rau màu ở những nơi thích hợp...
3.4.2. Những khuyến nghị của các nhà khoa học thế giới về sử dụng bền
vững nguồn nước sông Mê Công
Chương trình trong khuôn khổ các buổi tọa đàm về văn hóa sông Mê
Công do Tổ chức Hữu nghị nhân dân mạng lưới bờ sông Mê Công, nhóm
nghiên cứu Những đứa con của Thiên nhiên và Khoa Nhân học cùng các đối
tác tổ chức. Đây cũng là dịp để các nhà nghiên cứu cùng chia sẻ và thảo luận
về những vấn đề vấn đề phát triển, bảo tồn các giá trị ở lưu vực sông Mê
Công tiến tới hình thành mạng lưới thế hệ mới những học giả chuyên nghiệp
về sông Mê Công. Sông Mê Công là con sông quốc tế đó là dòng chảy quốc tế
vì chảy qua lãnh thổ của sáu nước, hơn ½ con sông nằm ở cao nguyên Vân
81
Nam và đi xuống cho đến vùng hạ nguồn ở Việt Nam. Nó khởi đầu từ Tây
Tạng xuống Trung Quốc, chảy qua biên giới của Myanmar, của Lào, của Thái
Lan, của Campuchia và đến Việt Nam qua ĐBSCL rồi đổ vào Biển Đông.
Như vậy, nó là con sông quốc tế, và nếu để ứng phó việc sử dụng nguồn nước
của con sông quốc tế thì thế giới đã đưa ra học thuyết gọi là hạn chế về chủ
quyền. Sông Mê Công là con sông rất quan trọng, nó còn có tên gọi khác là
con sông Cái - sông Mẹ, là con sông có hệ sinh thái lớn thứ hai trên thế giới
và nó chảy qua 6 quốc gia: Trung Quốc, Campuchia,Thái Lan, Myanma và
Việt Nam. Hơn 65 triệu dân sống gần như phụ thuộc vào nguồn nước
và nguồn tài nguyên của con sông này. Chính vì vậy cho nên Chính phủ Lào
phải xem xét kỹ lưỡng trước khi quyết định việc xây dựng các con đập thuỷ
điện. Sông Mê Công được xem là nguồn sống của người dân vùng Tongle
Sap (sông nước ngọt - hồ lớn). Ở hai bên dòng sông, nhiều ngôi chùa tạo nên
một cảnh quan đẹp trong không gian của Phật giáo Nam Tông và sông Mê
Công còn được gọi là dòng sông “Phật giáo”.
Dòng Mê Công đối diện với những thách thức, sông Mê Công mang lại
nguồn sống cho người dân ở hai bên bờ sông và những cảnh đẹp mà con sông
này mang lại, đó chính là những làng mạc trù phú lâu đời mà sông chảy qua,
chứa đựng những giá trí văn hóa lớn. Tuy nhiên, vấn đề sinh thái của dòng
sông đang đặt những dấu hỏi vì sự khai thác do con người gây nên, nhất là
việc người dân ở các vùng cao đang di cư đến hai bên dòng sông để sinh sống
dễ dàng hơn cũng đặt lên dòng Mê Công những sức ép đáng kể, hay đối diện
với giảm sút về đa dạng sinh học. Việc các nguồn nước đang ít dần đi cũng
giống lên hồi chuông cho các nước đang khai thác dòng Mê Công. Dòng Mê
Công được đặt trong 3 chữ “S” - Stress (chính là đối diện với nguồn nước bị
mất nước, thay đổi, sức khỏe của dòng sông đang bị suy giảm, nước không
còn nhiều) - Scarcity (càng ngày nguồn nước càng khan hiếm, do đó nguồn
nước trở thành nguồn ninh của quốc gia) - Security (an ninh nước. Nếu nguồn
nước bị chặn thì các quốc gia khác sẽ khó khăn do mất nước).
82
Đây là vấn đề nguồn sống cho các nước vùng Đông Nam Á, trước sự
sụt giảm về nguồn nước của dòng Mê Công do các đập thủy điện tạo ra, trong
đó có Trung Quốc là nước có đập nước lớn thứ 2 sau Mỹ, dòng sông không
trôi chảy một cách suôn sẽ hay đi vào văn thơ nữa bởi các con đập thủy điện.
Đặc biệt, sông Mê Công là con sông có loại cá heo nước ngọt Irrawaddy, loài
động vật đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng cao. Theo nhận định thì thì có
khoảng hơn 100 con cá heo nước ngọt còn tồn tại, nhưng thống kê vào năm
2011 Quỹ Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (WWF) nhận định chỉ còn khoảng 85
con cá heo sông Irrawaddy sống tại Cambodia. WWF cho rằng hành vi sử
dụng lưới quét là nguyên nhân chính khiến số lượng cá heo Irrawaddy giảm
mạnh. Ngoài ra số lượng cá heo sông Mê Công còn giảm do tỉ lệ chết cao của
cá heo con, sự suy giảm chất lượng môi trường sống.
Những kiến nghị cho sự phát triển bền vững của dòng sông, việc Trung
Quốc chuẩn bị xây thêm 3 đập nước cuối cùng trên dòng Mê Công và chưa có
một hiệp định cụ thể nào đối với các nước còn lại của dòng Mê Công chính là
một thách thức cho các quốc gia. Việc đập Xayabouri của Lào sẽ có những
tác động nguy hại, nhất là đối với Việt Nam bởi sự xâm thực của nước mặn
vào sâu vào trong nội địa Việt Nam. Bản thân việc xây dựng những con đập
nếu không thỏa mãn được các tiêu chuẩn về môi trường thì có thể gây ra
những hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến người dân sống trên
khu vực của đập nước.
3.5. Quan hệ Việt - Lào / Lào Việt trong sử dụng bền vững nguồn nước
sông Mê Kông
3.5.1. Quân hệ đặc biệt Việt - Lào / Lào - Việt
Nhận lời mời của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Bounnhang
Vorachit, sáng 12-6, Chủ tịch nước Trần Đại Quang và phu nhân cùng Đoàn
đại biểu cấp cao Việt Nam đã đến Thủ đô Vientiane bắt đầu chuyến thăm cấp
nhà nước tại nước CHDCND Lào. Hội đàm tại Phủ Chủ tịch ở Thủ đô
Vientiane, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Cộng hòa DCND Lào Bounnhang
83
Vorachith nhấn mạnh việc Chủ tịch nước Trần Đại Quang chọn Lào là nước
đến thăm đầu tiên sau khi đảm nhận cương vị mới đã thể hiện sự coi trọng của
Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam cũng như của cá nhân Chủ tịch nước
Trần Đại Quang với mối quan hệ đặc biệt có một không hai trên thế giới giữa
Việt Nam và Lào. Chủ tịch nước Trần Đại Quang cảm ơn Tổng Bí thư, Chủ
tịch nước Cộng hòa DCND Lào Bounnhang Vorachith đã dành cho đoàn sự
đón tiếp chu đáo, ấm áp và thắm tình hữu nghị; đồng thời bày tỏ vui mừng về
những thành tựu to lớn, quan trọng mà Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào anh
em đã đạt được, tin tưởng nhân dân Lào sẽ thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ
và mục tiêu mà Đại hội X Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã đề ra, đưa đất
nước tiếp tục vững bước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa. Hai bên
bày tỏ vui mừng về mối quan hệ hợp tác toàn diện trong thời gian qua không
ngừng được củng cố và phát triển trên tất cả các lĩnh vực; khẳng định sẽ tiếp
tục dành ưu tiên cao nhất và làm hết sức mình vun đắp cho mối quan hệ hữu
nghị truyền thống và đoàn kết đặc biệt Việt Nam-Lào; coi đây là quy luật phát
triển, có ý nghĩa sống còn và là một trong những nhân tố quyết định bảo đảm
thắng lợi của sự nghiệp cách mạng mỗi nước. Hai bên cho rằng tình hình quốc
tế, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp đan xen, nhất trí hai nước cần chú
trọng hơn nữa việc theo dõi tình hình, trao đổi, giúp đỡ nhau bảo đảm an ninh,
ổn định của mỗi nước. Hai bên cũng khẳng định tiếp tục phối hợp chặt chẽ tại
các diễn đàn quốc tế và khu vực, củng cố đoàn kết ASEAN, nâng cao vai trò
trung tâm của ASEAN trong cấu trúc an ninh khu vực; nhấn mạnh tầm quan
trọng của việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn ở Biển Đông; nhất
trí cùng các nước ASEAN thúc đẩy giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông
bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế; cùng các bên thực hiện
đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và
sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) nhằm giữ gìn hòa bình,
ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Hai bên nhất trí tiếp
84
tục tăng cường phối hợp chặt chẽ với nhau và với các nước, các tổ chức quốc
tế trong quản lí, sử dụng bền vững và có hiệu quả nguồn nước sông Mê Kông.
3.5.2. Tăng cường hợp tác kế nối trong sử dụng công bằng và bền vững tài
nguyên nước sông Mê Công
Ngày 05/4/2018, tại Siêm Riệp, Cam-pu-chia đã diễn ra Hội nghị Cấp
cao lần thứ ba của Uỷ hội sông Mê Công quốc tế. Thủ tướng Chính phủ
Nguyễn Xuân Phúc đã dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam tham dự và phát biểu
tại Hội nghị. Với chủ đề "Tăng cường nỗ lực chung và mở rộng quan hệ đối
tác nhằm đạt các Mục tiêu phát triển bền vững trên lưu vực sông Mê Công",
Hội nghị có sự tham gia của các Thủ tướng của bốn nước thành viên Ủy hội là
Cam-pu-chia, Lào, Thái Lan và Việt Nam. Cùng tham dự Hội nghị có Bộ
trưởng Bộ Tài nguyên nước Trung Quốc và Bộ trưởng Môi trường Mi-an-ma
là hai nước đối tác đối thoại của Ủy hội, cùng nhiều đại diện của các đối tác
phát triển khác.
Hội nghị đã tập trung rà soát tình hình hợp tác trong khuôn khổ Ủy
hội, thực hiện các cam kết đưa ra tại Hội nghị cấp cao lần thứ hai từ năm 2014
tại Thành phố Hồ Chí Minh và xác định các lĩnh vực ưu tiên trong giai đoạn
tiếp theo. Các ý kiến phát biểu tại Hội nghị thống nhất cho rằng Ủy hội sông
Mê Công quốc tế (MRC) đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng như: Thông
qua và triển khai Chiến lược phát triển lưu vực dựa trên quản lý tổng hợp tài
nguyên nước giai đoạn 2016-2020; hoàn thành nghiên cứu về Quản lý và Phát
triển bền vững sông Mê Công, góp phần tạo căn cứ khoa học cho việc ra các
quyết định quan trọng liên quan đến các hoạt động phát triển lưu vực của các
quốc gia ven sông; cải tổ bộ máy Ban Thư ký của Ủy hội theo hướng gọn nhẹ,
hiệu quả; thống nhất công thức đóng góp niên liễm hàng năm của các quốc
gia thành viên theo hướng đều nhau và hướng đến mục tiêu Ủy hội tự chủ về
tài chính vào năm 2030; mở rộng hợp tác với các đối tác đối thoại, các đối tác
phát triển, các tổ chức lưu vực sông quốc tế và đặc biệt là ASEAN…
85
Về định hướng hợp tác trong thời gian tới, các nhà lãnh đạo khẳng định
cam kết và quyết tâm thúc đẩy tiến trình hợp tác Mê Công mạnh mẽ hơn nữa
nhằm tranh thủ các cơ hội phát triển và vượt qua các thách thức, triển khai các
nỗ lực chung nhằm thúc đẩy việc thực hiện Chiến lược phát triển lưu vực; áp
dụng bộ các thủ tục của Ủy hội về sử dụng bền vững, hợp lý và công bằng
nguồn tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan khác của sông Mê Công,
nhất trí Ủy hội cần phát huy vai trò hơn nữa trong việc định hướng hợp tác và
đề ra các biện pháp cụ thể nhằm đạt được các Mục tiêu phát triển bền vững
trong khu vực; tăng cường hợp tác với các cơ chế trong và ngoài khu vực như
ASEAN, Hợp tác Mê Công - Lan Thương, Hợp tác tiểu vùng Mê Công mở
rộng (GMS) và các tổ chức quản lý lưu vực sông quốc tế khác. Phát biểu tại
Hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc khẳng định
việc khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên nước và các tài nguyên khác có
liên quan trên lưu vực sông Mê Công là cơ hội, nhưng cũng là thách thức và
trách nhiệm của tất cả các quốc gia trong khu vực.
Thủ tướng bày tỏ sự nhất trí cao với chủ đề của Hội nghị cấp cao lần
này là "Tăng cường nỗ lực chung và mở rộng quan hệ đối tác nhằm đạt các
Mục tiêu phát triển bền vững trên lưu vực sông Mê Công". Đây là dịp để
chúng ta đề ra những định hướng lớn, các lĩnh vực hợp tác ưu tiên, mở rộng
sự hợp tác trong và ngoài Ủy hội MRC nhằm sử dụng công bằng, hợp lý và
bền vững tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan trong lưu vực sông Mê
Công, góp phần thực hiện thành công các Mục tiêu phát triển bền vững SDG
2030 của Liên hợp quốc ở mỗi quốc gia thành viên và trong cả khu vực.
“Kể từ Hội nghị Cấp cao MRC lần 2 tại Thành phố Hồ Chí Minh năm
2014, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, khẳng định mà trị lâu
dài của Hiệp định Mê Công năm 1995 và vai trò của Ủy hội sông Mê Công
quốc tế là cơ chế hợp tác khu vực duy nhất có chức năng xây dựng khung
pháp lý và các quy định kỹ thuật cụ thể nhằm thúc đẩy việc khai thác, bảo vệ,
86
quản lý bền vững nguồn nước sông Mê Công... Những kết quả tích cực đó đã
thể hiện rõ nét, hiệu quả thực tế của Hiệp định Mê Công 1995, thúc đẩy gắn
kết, điều phối vùng và đẩy mạnh quan hệ với các đối tác, các cơ chế hợp tác
có liên quan trong khu vực” .
Thủ tướng Việt Nam cũng hoan nghênh và đánh giá cao các nỗ lực hợp
tác, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm của cơ chế Hợp tác Mê Công - Lan
Thương (MLC), vừa họp cấp cao tháng 01/2018; cơ chế Tiểu vùng Mê Công
mở rộng (GMS), vừa họp cấp cao 3/2018. Các cơ chế này sẽ giúp củng cố
quan hệ láng giềng hữu nghị giữa 6 quốc gia Mê Công và thúc đẩy hợp tác
quản lý sử dụng hiệu quả, bảo đảm an ninh nguồn nước. Đồng thời ghi nhận
sự hỗ trợ quý báu từ các Đối tác phát triển của Ủy hội MRC và mong muốn
tiếp tục nhận được sự hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật để giúp Ủy hội MRC triển
khai các lĩnh vực hợp tác ưu tiên trong giai đoạn tới, đồng thời tiến tới tự chủ
về tài chính vào năm 2030.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho biết: Sông Mê Công là con đường
giao thông thủy có ý nghĩa đặc biệt trong thúc đẩy thương mại quốc tế, du
lịch, kết nối tiểu vùng và là nguồn sinh kế của 65 triệu cư dân hạ lưu vực.
Cùng với đó là nguồn tài nguyên nước, phù sa và sự đa dạng sinh học, đứng
thứ 2 thế giới chỉ sau sông A-ma-dôn, là tài sản chung vô giá của các quốc gia
trong lưu vực, là nguồn lực to lớn cho xoá đói nghèo, phát triển kinh tế, giao
thương, giảm bất bình đẳng, kết nối vùng...
Hiện nay, lưu vực sông Mê Công phải đối mặt với những thách thức
lớn như: sự gia tăng nhanh dân số; khai thác thiếu bền vững tài nguyên nước,
đất và rừng; các thách thức của biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan, thiên tai
bất thường. Hậu quả là nguồn tài nguyên nước Mê Công đang bị suy kiệt cả
về số lượng và chất lượng, lượng phù sa và chất dinh dưỡng bị suy giảm hệ
sinh thái và môi trường bị suy thoái nghiêm trọng. Các dấu hiệu tiêu cực đó
thể hiện rõ rệt và trầm trọng hơn ở các quốc gia hạ lưu Mê Công, nhất là vùng
87
đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam. Nơi đang thường xuyện phải đối
mặt với các đợt hạn hán kéo dài, xâm nhập mặn sạt lở, bờ sông bờ biển và sụt
lún đất... đe dọa sinh kế của hơn 20 triệu người dân.
Quan tâm hàng đầu của Chính phủ Việt Nam hiện nay là ứng phó với
các tác động tiêu cực đối với vùng Đồng bằng sông Cửu Long do biến đổi khí
hậu, các hiện tượng khí hậu cực đoan và hoạt động của con người. “Cần phải
có những hành động thiết thực, kịp thời để Đồng bằng Sông Cửu Long là vựa
lúa, vựa cá của cả khu vực trong hàng trăm năm qua tiếp tục phát triển và là
nguồn cung gạo lớn cho bảo đảm an ninh lương thực khu vực”.
Ủy hội MRC trong thời gian tới sẽ tập trung cho sử dụng công bằng,
hợp lý và bền vững tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan trong lưu vực
sông Mê Công như: tăng cường việc thực hiện đầy đủ và hiệu quả Hiệp định
Mê Công năm 1995 và vai trò giám sát, điều phối của Ủy hội trong triển khai
thực hiện các cam kết của các quốc gia thành viên, xây dựng khung quy
hoạch phát triển lưu vực nhằm hài hòa quy hoạch tài nguyên nước của các
quốc gia và thúc đẩy việc triển khai các dự án hợp tác chung; tăng cường chia
sẻ thông tin số liệu trong lưu vực sông Mê Công và đẩy mạnh các hoạt động
điều phối, hợp tác với các nước đối tác đối thoại, đối tác phát triển và các tổ
chức quản lý lưu vực sông xuyên biên giới khác nhằm huy động nguồn lực,
tiếp thu kinh nghiệm quản lý và công nghệ kỹ thuật hiện đại trong triển khai
các sáng kiến hợp tác tiểu vùng. Trong đó, chú trọng hợp tác với cơ chế Hợp
tác Mê Công - Lan Thương (MLC), Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS) và
các cơ chế khác như Ủy hội sông Mít-xi-xi-pi, Ủy hội sông Đa-nuýp và tìm
hiểu kinh nghiệm về điều phối thực hiện các điều ước quốc tế về sử dụng
nguồn nước xuyên biên giới và các hồ quốc tế.
“Chúng ta hãy cùng nhau đoàn kết, hợp tác để sông Mê Công mãi là
dòng chảy của hòa bình, là kết nối sinh tồn bền vững, thịnh vượng đến muôn
đời của các quốc gia, người dân trong khu vực” - Thủ tướng Nguyễn Xuân
Phúc kêu gọi.
88
Hội nghị đã nhất trí thông qua Tuyên bố chung Siêm Riệp ghi nhận các
thành quả của Ủy hội đạt được, chỉ ra những thách thức và cơ hội mới đối với
lưu vực sông Mê Công, khẳng định tầm quan trọng của hợp tác Mê Công và việc
tăng cường hiệu quả thực hiện Hiệp định Mê Công 1995, đồng thời xác định các
hoạt động ưu tiên trong thời gian 4 năm tới cũng như định hướng lâu dài cho hợp
tác trong khuôn khổ MRC. Từ đó, Tuyên bố đề ra các lĩnh vực hoạt động ưu tiên
của Uỷ hội thời gian tới gồm có việc tận dụng tốt các cơ hội phát triển và xử lý
các thách thức thông qua một tiến trình chung của cả lưu vực, có tính tổng thể,
bao trùm và đa ngành, thực hiện các khuyến nghị chính của báo cáo Nghiên cứu
chung về quản lý và phát triển bền vững sông Mê Công, bao gồm tác động của
các dự án thuỷ điện dòng chính, thực hiện đầy đủ các thủ tục của Ủy hội nhằm
sử dụng nguồn nước một cách bền vững, công bằng và hợp lí; tăng cường mạng
giám sát và các hoạt động cảnh báo, dự báo thiên tai; mở rộng quan hệ đối tác
với các sáng kiến, tổ chức trên lưu vực và thế giới và tăng cường sự tham gia của
cộng đồng trong các hoạt động của Ủy hội.
Tiểu kết Chương 3
Trong sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê Công trên lãnh thổ Lào
nổi lên ba DA lớn: Thủy điện Xayyabery, Thủy điện PakBeng và DA Khai
thông dòng chảy Mê Công để phát triển đường thủy (theo đề xuất và đầu tư từ
phía Trung Quốc. Cả ba DA này đề gây tranh cãi với nhiều ý kiến trái chiều
của các chuyên gia MRC cũng như nhiều định chế và một số nước quan tâm
(Mỹ, Nhật, EU, ADB). Vấn đề đặt ra là CHDCND Lào cần nghiên cứu chiến
lược sử dụng nguồn nước sông Mê Công theo tinh thần Hội nghị GMS6 và
Hội nghị MCR tại Xiêm Riệp - Camphia. Điều mới mẻ trong nghiên chương
này là trên tinh thần quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt - Lào / Lào - Việt. Nhà
nước cần tăng cường hợp tác hợp lí và bền vũng nguồn tài nguyên nước Mê
Công trên lãnh thổ của minh một cách công bàng chia sẻ hài hòa theo khuyên
nghị quản lí chia sẻ công bằng, hài hòa dòng sông xuyên biên giới. Mục đích
cuối cùng là, bằng việc phát triển sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê
Công, nước Lào thực hiện mơ nước Kuwait xuất khẩu thủy điện.
89
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
1. Nước sông Mê Công là nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng đối với
các nước trong lưu vực, đặc biệt các quốc gia hạ nguồn như Lào, Thái Lan,
Camphuchia, ĐBBCL Việt Nam. Ví mục tiêu sử dụng bền vũng nguồn tài
nguyên nước sông Mê Công, các quốc gia trong khu vực cần thiết phải nghiên
cứu Chiến lược sử dụng nguồn nước trên cơ sở chia sẻ công bằng lợi tích hài
hòa trong quản lí nguồn nước xuyên biên giới theo các Công ước quốc tế,
Khuyến nghị của IUCN, đặc biệt là tinh thần Hội nghị GMS 6 và Hội nghị
MRC vừa qua tổ chức tại Hà Nội - Việt Nam / Xiêm Riệp - Campuchia.
2. Sông Mê Công có tiềm năng lớn - từ dòng chính đến các dòng nhánh
trên lưu vực - trong việc cung cấp nước, năng lượng cho phát triển kinh tế đặc
biệt là thủy điện. Để sử dụng bền nguồn nước sông Mê Công đối với phát
triển kinh tế của Lào, nguồn tài nguyên này trên đất Lào cần được đánh giá về
tiềm năng cũng như hiện trạng trên quan điểm tổng hợp, bao gồm địa lí tự
nhiên, kinh tế, xã hội, nhân văn. Thông qua đánh giá chung các DA đang và
sẽ triển khai với nhiều điều kiện thuận lợi cũng như khó khăn, chúng ta hiểu
được tham vọng biến nước Lào trở thành nước Cô-owet (Kuwait) thủy điện
theo tinh thần sử dụng công bằng, chia sẻ và quản lí tài nguyên nước xuyên
biến giới.
3. Trong sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê Công trên lãnh thổ
Lào nổi lên ba DA lớn: Thủy điện Xayyabury, Thủy điện Pak Beng và DA
Khai thông dòng chảy Mê Công để phát triển đường thủy (theo đề xuất và đầu
tư từ phía Trung Quốc. Cả ba DA này đề gây tranh cãi với nhiều ý kiến trái
chiều của các nước hạ nguồn cũng như MRC, nhiều định chế và một số nước
quan tâm (Mỹ, Nhật, EU, ADB). Vấn đề đạt ra là CHDCND Lào cần nghiên
cứu chiến lược sử dụng nguồn nước sông Mê Công theo tinh thần Hội nghị
90
GMS6 và Hội nghị MRC vừa qua. Điều mới mẻ trong chương này là trên tinh
thần quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt - Lào / Lào -Việt sự cần thiết tăng cường
hợp tác hợp tác trong sử dụng một cách công bằng, chia sẻ hài hòa lợi ích
bằng việc phát triển sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê Công, nước Lào
thực hiện giấc mơ Mô hình Lào là Kuwait xuất khẩu thủy điện.
4. Với nội dung nói trên, chúng tôi cho rằng luận văn đã hiện thực hóa
được 3 mục tiêu đề ra ban đấu. Đó là “Nguyên cứu những vấn đề lý luận và
thực tiễn về sử dụng bền vững, đánh giá tiềm năng và thực trạng sử dụng
nguồn nước sông Mê Công, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp sử dụng hợp lí
và bền vững nguồn tài nguyên nước sông Mê Công trên lãnh thổ nước Lào có
tính tới lợi ích chung của các nước láng giềng, đặc biệt là Việt Nam”. Tuy
nhiên, chúng tôi nhận thấy một khó khăn nhược điểm trong triển khai nghiên
cứu đề tài, đó là sự thiếu tư liệu nghiên cứu cơ bản về Lào, những vấn đề tế nhị
trong triển khai đề xuất vấn đề có tính tới nhiều bên thuộc GMS-6, các định
chế, các tổ chức và một số nước ít nhiều có lợi ích liên quan tới nguồn nước
Mê Công.
2. Kiến nghị
1. Uỷ hội sông Mê Công quốc tế cũng như các Ủy hội sông Mê Công
quốc gia cần nghiên cứu và xem xét các dự án thuỷ điện phía thượng lưu, đặc
biệt là qui trình vận hành, cũng như DA khai thông dòng chảy Mê Công một
cách cẩn trọng.
2. Nhà nước CHDCND Lào cần nghiên cứu ban hành Luật tài nguyên
nước sông Mê Công trên lãnh thổ Lào, tiến hành nghiên cứu đánh giá tác
động môi trương của 3 DA quan trọng: trên dòng chính sông Mê Công
(Xayyabury, Pak bang, Khai thông dòng chảy Mê Công. Đồng thời cần
nghiên cứu một số kinh nghiệm thành công, thất bại cũng như vấn đề xây
91
dựng điện vừa và nhỏ, cũng như DA khai thông dòng chảy sông Hồng của
Việt Nam để vận dụng trong điều kiện của Lào
3. Nội dung sử dụng bền vững nguồn nước xuyên biên giới trên đất Lào
cần được phổ biến rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng và đua
vào chương trình giáo dục phổ thông của CHDCND Lào. Đây có thể được coi
là thành tựu quan trọng để Lào giải quyết được tự túc lương thực và bắt đầu
tham gia thị trường xuất khẩu gạo./.
92
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo đánh giá môi trường chiến lược của thuỷ điện dòng chính Mê
Công 10/2010. Báo cáo đánh giá ....
2. Báo cáo đánh giá hiện trạng lưu vực Mê Công 2010.
http://www.google.com/báo cáo đánh giá ...
3. Cục Quản lí tài nguyên nước, 23/3/2018 - Ngày nước thế giới.
4. Công ước của Liên Hợp Quốc (LHQ) về luật sử dụng các nguồn nước
quốc tế.
5. Công ước quốc tế về nguồn nước, http://www.google.com/.
6. Hội nghiên cứu khoa học Đông Nam Á (2001). Việt Nam và Hợp tác
Tiểu vùng Mê Công
7. Hợp tác Mĩ và các nước hạ nguồn Mê Công (LMI). http://www.google.
com./LMI - Chương trình hợp tác Mĩ và các quốc gia hạ nguồn Mê Công.
8. Khamphao Onthvvan (2017). Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào mãi mãi
xanh tươi đời đời bền vững. http://chinhphu.org.vn/khamphao
Onthavan.
9. Nguyễn Hữu Khải, Nguyễn Văn Tuấn (2001). Địa lí thủy văn, Nxb
ĐHQG Hà Nội, 2001,194 tr.
10. Trần Tiễn Khanh 2004), Cái chết của một dòng sông: Sông Cửu Long
và các khai thác thượng nguồn của Trung Hoa. http//www.vn
baolut.com
11. Trần Khánh (chủ biên) (2006), Những vấn đề chính trị kinh tế Đông
Nam Á thập niên đầu thế kỉ XXI, Nxb KHXH.
12. Vũ Tự Lập (2000). Địa lí tự nhiên Việt Nam. Nxb GD, Hà Nội
13. Đặng Duy Lợi (2010) . Địa lí tự nhiên Việt Nam. NXB ĐHP, Hà Nội
14. Vũ Dương Minh (chủ biên) (2007), Đông Nam Á truyền thống và hội
nhập, Nxb TG, 2007.
15. Niên giám thống kê 2017. NXB Thống kê, Hà Nội, 2017
93
16. Nguyễn Viết Phổ (1984). Dòng chảy sông ngòi Việt Nam, Nxb KHKT HN.
17. Nguyễn Xuân Phúc (2018) Mê Công: Dòng sông hợp tác và phát triển.
https://chinhphu,org.vn
18. Nguyễn Trần Quế -Kiều Văn Trung (2001). Sông và Tiểu vùng Mê
Công: Tiềm năng hợp tác và phát triển quốc tế. Nxb KHKT, Hà Nội
19. Nguyễn Thanh Sơn (2009). Đánh giá tài nguyên nước Việt Nam. Mxb
Giáo Dục, Hà Nội
20. Lê Bá Thảo (2001), Những công trình nghiên cứu Địa lí tiêu biểu. Nxb
Giao Dục, Hà Nội.
21. Nguyễn Viết Thịnh, Đỗ Thị Minh Đức (2003). Giáo trình Địa lí kinh tế
- xã hội Việt Nam, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
22. Lê Thông (chủ biên) & nnk, (2010). Địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam.
NXB GD, Hà Nội, 2010.
23. Lương Văn Tự (2004). Kiến thức cơ bản về hội nhập kinh tế quốc tế,
NXB Bộ Thương mại, Hà Nội.
24. Phan Huy Xu, 1998. Địa lí các nước Đông Nam Á, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
25. Việt Nam và Hợp tác phát triển Tiểu vùng Mê Công mở rộng. Nxb Thế
giới, Hà Nội, 2000
26. Nguyễn Thái Đuy, 2013. Hợp tác cùng có lợi trong việc sử dụng tài
nguyên nước của các quốc gia vùng hạ nguồn sông Mê Công.
27. Hiệp định PTBV lưu vực Mê Công (1997), Nxb Hà Nội.
28. Báo cáo đánh giá tác động đến môi trường DA thủy điện Xayabury.
Websites:
29. www.iucn.org/asia/Mê Công_dialogues.
30. www.mrcMê Công.org/ Lào
31. http://Lao Statistical Bureau Yearbook 2016
32. www.worldwater.org.2018 /Sử dụng hợp lí tài nguyên nước để phát
triển bền vững/Ngày nước thế giới 23/3/2018/…
94
PHỤ LỤC
1, Đặc trưng có bản về môi trường tự nhiên trên lãnh thổ Lào qua các số
liệu thống kê quốc gia (Bảng 2.1)
Bảng 2.1. Số liệu về địa lí tự nhiên cơ bản của CHDCND Lào
a. Sông
Chảy qua Độ dài (km) Sông
Lào 1.898 Mê Công
Phongsaly-Luangprabang 448 Nam Ou
Xiengkhuang-Vientiane 354 Nậm Ngừm
Nam Xebanghieng Savannakhet 338
Luangnamtha-Bokeo 325 Nam Tha
Saravane-Sekong-Attapeu 320 Nam Xekong
Khammuane-Savannakhet 239 Nam Sebangfai
Oudomxay 215 Nam Beng
Saravane-Champasack 192 Nam Xedone
Nam Xekhanong Savannakhet 115
Nam Kading (Nam Theun) Borikhamxay 103
Nam Khane Huaphanh-Luangprabang 90
Nguồn: Ủy hội sông Mê Công. Dẫn lại từ Cục Thống kê Lào, công khai tại [30]
b. Núi
Tỉnh Độ cao (m) Núi
Xiengkhuang 2.820 Phu bia
Xiengkhuang 2.690 Phu xao
Xiengkhuang 2.620 Phu xamxum
Huaphanh 2.452 Phu huat
Luangprabang 2.257 Phu soy
Xiengkhuang 2.218 Phu sane
Luangprabang 2.079 Phu laopy
Núi Tỉnh Độ cao (m)
Phu pane Huaphanh 2.079
Phu khaomieng Xayabury 2.007
Phu sanchanhta Luangprabang 1.972
Phu nameo Oudomxay 1.937
Phu phakhao Luangprabang 1.870
Phu doychy Phongsaly 1.842
Phu leb Xiengkhuang 1 761
Phu sang Vientiane 1.666
Phu chaputao Luangnamtha 1.588
Phu phiengbolavenh Champasack 1 284
Phu khaokhuai Vientiane 1.026
Nguồn: Bộ Quốc phòng Lào. Dẫn lại từ Cục Thống kê Lào, công khai tại [30]
c. Khí hậu
Diễn biến nhiệt độ trong năm tại thủ đô Viêng Chăn.
Lượng mưa hàng năm (mm) đo được tại một số trạm khí tượng
Năm Luangprabang Savannakhet Pakse Thủ đô Viêng Chăn
1 486.7 1 499.8 1 557.8 2 598.4 2000
1 795.0 1 659.0 1 919.9 2 348.6 2001
1 601.8 1 846.7 1 982.0 2 478.0 2002
1 399.0 1 481.0 1 492.3 2 029.1 2003
1 472.7 1 629.6 396.7 1 977.9 2004
1 435.0 1 667.8 1 768.2 1 956.1 2005
1 205.6 1 930.3 1 398.7 2 694.5 2006
1 295.0 1 667.5 1 444.7 1 967.5 2007
1 708.7 2 201.6 1 565.7 1 907.6 2008
1 259.4 1 482.8 1 565.7 2 209.6 2009
Nguồn: Cục Khí tượng và Thủy văn Lào. Dẫn lại từ Cục Thống kê Lào
d. Độ ẩm (%) cao nhất và thấp nhất trong các năm đo được tại một số
trạm khí tượng.
Thủ đô
Năm Luangprabang ' Viêng ' Savannakhet ' Pakse '
Chăn
Thấp Cao Thấp Thấp Cao Thấp Cao nhất Cao nhất nhất nhất nhất nhất nhất nhất
51 92 54 90 54 87 55 2000 95
51 92 55 87 54 87 52 2001 95
55 92 55 93 58 84 52 2002 96
75 91 72 95 75 87 70 2003 96
54.5 91.5 53.7 55.3 94 86 52 2004 96
95.5 55.3 89.6 53.9 93.7 58.1 85.9 55.3 2005
57 92 54 94 58 87 54 2006 95
52 91 52 92 51 88 52 2007 97
56 92 58 96 59 87 56 2008 96
90 2009 95 50.7 55.3 96.1 59.3 87.8 54.4
Nguồn: Cục Khí tượng và Thủy văn Lào [24]
2. Số liệu về kinh tế -xã hội cơ bản của CHDCND Lào
a. Dân số và Nhân khẩu năm 2015
Đơn vị: Hàng ngàn Unit: Th. Persons
Số lượng/ No.Population
Name of
Tên tỉnh
Provinces
TT
toàn bộ/ Total Nữ/ Female
Toàn quốc
Whole country
6,492
3,237
01 Thủ Đô Viêng Chăn Vientiane Capita
821
412
02 Phông sa ly
Phongsaly
178
87
03 Luổng năm tha
Luangnamtha
176
88
04 U đôm xay
Oudomxay
308
153
05 Bo kẹo
Bokeo
179
89
06 Luổng pha bang
Luangprabang
432
213
07 Hủa phăn
Huaphanh
289
142
08 Xay nha bu ly
Xayabury
381
186
09 Xiêng khuổng
Xiengkhuang
245
120
10 Viêng chăn
Vientiane
419
208
11 Bo li khăm xay
Borikhamxay
274
135
112 Khăm muôn
Khammuane
392
197
113 Sa văn na khệt
Savannakhet
970
489
114 Sa la văn
Saravane
397
201
115 Xê kong
Sekong
113
56
116 Chăm pa sắc
Champasack
694
349
117 Ắt ta pư
Attapeu
139
70
118 Xay sôm bun
Xaysomboon
85
41
Source: Lao Statistics Bureau, Ministry of Planning and Investment [31]
b. Tổng sản phẩm quốc nội
(Tỉ kíp) (Bill. Kip)
Năm
Các hoạt động chính
Acitivity
2015
2016
Nông nghiệp
Agricultural
20,622 22,275
Trồng trọt
Agricultural cropping
13,755 15,072
Chăn nuôi
Livestock & livestock products
2,598
2,808
Rừng
Forestry & logging
1,498
1,444
Nghề cá
Fishing
2,771
2,951
Công nghiệp
Industry
32,471 37,180
Khai thác và thu hoạch
Mining & Quarrying
7,967
8,391
Ngành chế biến thực phẩm Manufacture of Food Products
1,943
2,020
Sản xuất đồ uống và thuốc
Manufacture of Beverages &
1,737
1,829
lá
Tobacco
Dệt may sản xuất công
Manufacture of Textiles, Clothing,
nghiệp, quần áo, giày dép
Footwear & Leather
1,538
1,586
và phụ kiện Da
Goods
Năm
Các hoạt động chính
Acitivity
2015
2016
Các ngành chế biến khác Other Manufacturing
4,385
4,612
Điện năng
Electricity
7,963
11,220
Nước và xử lý chất thải Water Supply; Sewerage, Waste
323
338
Management & Remediation Activities
Xây dựng
Construction
6,614
7,184
Dịch vụ
Services
51,789 54,914
Bán buôn, bán lẻ, sửa chữa
Wholesale & Retail Trade;
xe
Repair of Motor Vehicles &
14,172 14,814
Motorcycles
Vận tải và kho bãi
Transportation & Storage
1,596
1,750
Dịch vụ lưu trú và thực
Accommodation & Food
3,631
3,629
phẩm
Service Activities
Thông tin và truyền thông
Information & Communications
2,021
2,105
Tài chính và Bảo hiểm
Financial & Insurance Activities
2,918
3,175
c. Sản xuất nông nghiệp
Sản xuất (Tấn)/Năm TT Loại Sản xuất 2015 2016
3,357,640 3,428,000 01 Lúa mùa
520,000 504,000 02 Lúa chiêm
224,360 216,800 03 Lúa nương
1,516,250 1,552,360 04 Ngô
2,767,190 2,797,185 05 khoai
62,010 63,200 06 Lạc
1,683,405 1,690,900 07 Rau
63,040 66,800 08 Thuốc lá
1,910 2,530 09 Bông
2,018,655 2,019,000 10 Mía
135,925 136,600 11 Cafê
6,295 7,300 12 Chè
d. Sản xuất Công nghiệp và Thủ công
Năm TT Tên Sản xuất Đơn vị 2015 2016
01 Dịch vụ Giết thú mổ thịt 37,901.00 37,590.00 Tấn
02 Bánh mì, Bánh kẹo 98,744.00 106,051.00 Tấn
Nghìn lít 331,990.00 344,274.00 03 Nước mắm
Tấn 100,432.00 125,052.00 04 Phở, mì tôm
Nghìn Tấn 351.00 363.98 05 Muối
Tấn 15,270.00 15,667.00 06 Mắm cá
Nghìn Tấn 304.15 326.96 07 Nước đá
08 Nước uống Nghìn lit 2,202.99 2,381.43
Nghìn lít 181.98 196.72 09 Rượu
Nghìn lít ber 5,164.56 5,599.09 10 Beer
Tấn 61,833.00 73,559.00 11 Cafe
Triệu gói 2,185.57 2,218.94 12 Thuốc lá
Tấn 280,734.00 284,911.00 13 Bột sắn
Tấn 102,500.00 139,700.00 14 Gạo
Tấn 16,532.00 17,144.00 15 Đường
1000m3 241.00 0 01 Gỗ xẻ
Nghìn tấm 1,532.00 0 02 Gỗ ép
Nghìn chiếc 8,582.55 9,075.18 01 Vải vóc
Nghìn chiếc 23,995.55 21,589.80 02 Váy
Nghìn viên 315,190.48 345,589.43 01 Gạch
Nghìn tấn 3,098.81 3,397.68 02 Xi măng
Nghìn tấm 95,079.94 97,285.58 03 Ngói
Source: Lao Statistics Bureau, Ministry of Planning and Investment [31] Ghi chú: Dấu cách đơn vị tính [, / .] giữ nguyên như tại tư liệu nguồn.