ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ----------------------

Khampheo KHAMCHALUEN SỬ DỤNG BỀN VỮNG TÀI NGUYÊN NƯỚC SÔNG MÊ CÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC

THÁI NGUYÊN - 2018

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ----------------------

Khampheo KHAMCHALUEN SỬ DỤNG BỀN VỮNG TÀI NGUYÊN NƯỚC SÔNG MÊ CÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO

Ngành: Địa lý học Mã số: 8 31 05 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS VŨ NHƯ VÂN

THÁI NGUYÊN - 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu

và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực, chưa

từng được công bố trong bất kỳ một công trình của các tác giả nào khác.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2018

Tác giả luận văn

Khampheo KHAMCHALUEN

i

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy - TS. Vũ Như Vân, đã tận

tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Sau đại học, Khoa

Địa lí, các thầy cô giáo giảng dạy ở trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái

Nguyên đã tận tình giảng dạy, góp nhiều ý kiến quý báu cho tôi trong quá

trình học tập, nghiên cứu khoa học và làm luận văn.

Chân thành cảm ơn những tình cảm quý báu của những người thân,

đồng nghiệp đã cổ vũ, động viên, góp ý và tiếp thêm động lực để tôi hoàn

thành luận văn này.

Mặc dù có nhiều cố gắng, nhưng do thời gian có hạn và năng lực bản

thân còn nhiều hạn chế trong kinh nghiệm nghiên cứu, nên luận văn không

tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp, chỉ bảo

của các thầy, cô giáo và các bạn đồng nghiệp.

Thái Nguyên, tháng 6 năm 2018

Tác giả luận văn

Khampheo KHAMCHALUEN

ii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................... i

LỜI CẢM ƠN .............................................................................................. ii

MỤC LỤC .................................................................................................. iii

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT ....................................... iv

DANH MỤC CÁC BẢNG ............................................................................ v

DANH MỤC CÁC HÌNH ............................................................................. v

MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 1

2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................... 2

3. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................. 2

4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu ................................................................. 2

5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu ................................................. 2

6. Khái lược lịch sử nghiên cứu .................................................................. 4

7. Cấu trúc của luận văn ............................................................................. 6

8. Từ khóa: Sử dụng bền vững nước sông Mê Công trên đất Lào ............... 6

NỘI DUNG ................................................................................................. 7

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN SỬ DỤNG BỀN VỮNG

TÀI NGUYÊN NƯỚC ................................................................................ 7

1.1. Nhận thức chung về tài nguyên nước và phát triển bền vững ............... 7

1.1.1. Nội hàm khái niệm Tài nguyên nước ................................................ 7

1.1.2. Chiến lược sử dụng bền vững tài nguyên nước xuyên biên giới

trong một thế giới biến đổi.............................................................. 13

1.2. Hợp tác quốc tế trong sử dụng tài nguyên nước trên các dòng sông

quốc tế ............................................................................................ 18

1.2.1. Nhận thức chung về nội hàm Hợp tác quốc tế ................................ 18

1.2.2. Hợp tác quốc tế sử dụng nước các lưu vực sông ............................. 20

1.3. Các văn bản quan trọng về sử dụng nguồn tài nguyên nước .............. 21

iii

1.3.1. Công ước về Luật sử dụng các nguồn nước liên quốc gia ............... 21

1.3.2. Khuyến nghị của IUCN về nguyên tắc chia sẻ công bằng trong

quản lí nước xuyên biên giới .......................................................... 22

1.4. Sông Mê Công - lợi ích quốc gia - dân tộc Lào, mối quan tâm

chung của các nước trong khu vực .................................................. 25

1.4.1. Tầm quan trọng của sông Mê Công đối với 6 quốc gia trong lưu vực .. 25

1.4.2. Lợi ích quốc - dân tộc của CHDCND Lào ...................................... 27

1.4.3. Sự quan tâm chung của các quốc gia GMS ..................................... 28

1.4.4. Mối quan tâm chung giữa của các định chế quốc tế, các tổ chức

quốc tế và các quốc gia ngoài vùng................................................. 31

Tiểu kết chương 1 .................................................................................... 36

Chương 2: ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG BỀN VỮNG TÀI

NGUYÊN NƯỚC SÔNG MÊ KÔNG CỦA CHDCND LÀO ...................... 37

2.1. Đánh giá khái quát về điều kiện tự nhiên - xã hội CHDCND Lào...... 37

2.1.1. Đánh giá về điều kiện tự nhiên và môi trương tự nhiên .................. 37

2.1.2. Cư dân, văn hóa, xã hội .................................................................. 41

2.2. Thực trạng phát triển kinh tế ............................................................. 43

2.2.1. Đánh giá chung .............................................................................. 43

2.2.2. Về hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế ........................................... 45

2.3. Tình hình sử dụng tài nguyên nước sông Mê Công............................ 52

2.3.1. Sự dung nguồn nước trong sản xuất nông nghiệp và thủy sản ........ 52

2.3.1. Sự dụng nguồn nước trong hoạt động giao thông, du lịch ............... 53

2.4. Sự phát triển phát triển thủy điện của CHDCND Lào - Mô hình

khát vọng Cô-oet xuất khẩu thủy điện............................................. 56

2.4.1. Tiềm năng phát triển thủy điện ....................................................... 56

2.3.2. Những dự án thủy điện đang hoạt động .......................................... 57

2.4.3. Những dự án đang hoạt động: Dự án Nậm Ngừm ........................... 59

2.4.4. Một số dự án đang triển khai .......................................................... 61

iv

Tiểu kết chương 2 .................................................................................... 64

Chương 3: NHỮNG DỰ ÁN SỬ DỤNG NƯỚC MÊ CÔNG TRÊN

LÃNH THỔ CHDCND LÀO VÀ ĐỊNH HƯỚNG SỬ DỤNG CÔNG

BẰNG NGUỒN NƯỚC SÔNG MÊ CÔNG ............................................... 66

3.1. Xây dựng thủy điện ........................................................................... 66

3.1.1. Dự án Xayyabury ........................................................................... 66

3.1.2. Dự án Pak Beng .............................................................................. 68

3.2. Dự án Khai thông giao thông trên sông Mê Công .............................. 70

3.3. Những dư luận trái chiều về các dự án khai thác nước sông Mê

Công trên đất Lào ............................................................................. 72

3.4. Chiến lược sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê Công ................. 77

3.4.1. Hội nghị sử dụng bền vững nguồn nước GMS nhìn từ thể từ

ĐBSCL Việt Nam ............................................................................. 77

3.4.2. Những khuyến nghị của các nhà khoa học thế giới về sử dụng

bền vững nguồn nước sông Mê Công ............................................... 81

3.5. Quan hệ Việt - Lào / Lào Việt trong sử dụng bền vững nguồn

nước sông Mê Kông ......................................................................... 83

3.5.1. Quân hệ đặc biệt Việt - Lào / Lào - Việt ......................................... 83

3.5.2. Tăng cường hợp tác kế nối trong sử dụng công bằng và bền

vững tài nguyên nước sông Mê Công ............................................... 85

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .................................................................... 90

TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 93

PHỤ LỤC .....................................................................................................

v

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT

STT Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

1 ADB

Ngân hàng phát triển Châu Á

2 ASEAN

Hiệp hội các nước Đông Nam Á

3 CHDCND Lào Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào

4 ĐBSCL

Đồng bằng sông cửu Long

5 ĐNA

Đông Nam Á

Báo cáo đánh giá tác động môi trường

6

ETA

Hành lang kinh tế Đông- Tây

7

EWEC

Quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp

8 GAP

Tổng sản phẩm trong nước

9 GDP

Tiểu vùng Mê Công mở rộng

10 GMS

Sáng kiến hạ nguồn sông Mê Công

11 LMI

Ủy hội Mê Công

12 MRC

13 NSEC

Hành lang kinh tế Bắc - Nam

14 Nxb GD

Nhà xuất bản Gáo Dục

15 Nxb KHXH Nhà xuất bản Khoa học xã hội

Viện trợ phát triển chính thức

16 ODA

Các mục tiêu phát triển bền vững

17 SDG

Báo cáo đánh giá môi trường của Ủy hội sông Mê Công

18 SEA

Hành lang kinh tế phía Nam

19 SEC

Khu kinh tế đặc biệt

20 SEZs

Toàn cầu hóa

21 TCH

22 USAID

Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ

iv

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Các bậc thang thuỷ điện trên sông Lan Thương (Trung Quốc) ..... 31

Bảng 1.2. Tỉ lệ diện tích lưu vực và lưu lượng nước sông Mê Công ............. 33

Bảng 2.2. Các DA đập chính trên sông Mê Công trên lãnh thổ Lào .............. 62

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 2.1. Bản đồ lưu vực sông Mê Công ....................................................... 39

Hình 2. 2. Sơ đồ dòng chảy sông Mê Công - Lan Thương ............................. 40

Hình 2.3. Sơ đồ các DA thủy điện Mê Công thuộc Lào ................................. 59

v

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Sông Mê Công trong tiếng Thái nghĩa là “Dòng sông mẹ”, bắt nguồn từ

cao nguyên Vân Nam (Trung Quốc), chảy qua Lào, Myanma, Thái Lan,

Campuchia và đổ ra biển Đông. Cũng như bao dòng sông khác mang trong

mình những đặc điểm riêng về điều kiện tự nhiên, sự đa dạng về thuỷ sinh vật,

nguồn thuỷ sản dồi dào, bồi tụ phù sa màu mỡ cho các đồng bằng, đảm bảo an

ninh lương thực cho các quốc gia trong khu vực. Đồng thời đây cũng là tài sản

văn hoá - xã hội - kinh tế vô giá của các quốc gia ven sông cùng chia sẻ.

Trong khuôn khổ hợp tác các quốc gia thuộc Tiểu vùng sông Mê Công

mở rộng (GMS) việc sử dụng hợp lí nguồn tài nguyên nước có tầm quan trọng

chiến lược đối với từng quốc gia và các quốc gia có lợi ích chung, trong đó,

nước CHDCND Lào có vai trò đặc biệt đối với phát triển kinh tế - xã hội

(KTXH) bền vững cũng như tác động trực tiếp tới ĐBSCL của Việt Nam

(ĐBSCL). Tại Hội nghị GMS6 các quốc gia trong khu vực khẳng định tên gọi

“Mê Công”, mang ý nghĩa là “mẹ của nước”, dòng sông Mê Công hùng vĩ đã

gắn kết chặt chẽ và là không gian sinh tồn chung của chúng ta

Tuy nhiên, việc khai thác nguồn nước Mê Công đang đặt ra không ít

thách thức trong phát triển KTXH và môi trường sinh thái đối với các quốc

gia Đông Nam Á (ĐNA) bán đảo, nhất là vấn đề xây dựng đập thuỷ điện trên

dòng sông này. Câu hỏi này đặt ra cho các quốc gia cùng sử dụng chung

nguồn nước sông Mê Công sau khi mà Chính phủ Lào dự kiến sẽ xây dựng

đập thuỷ điện lớn đầu tiên trên dòng chính hạ lưu sông Mê Công - Thuỷ điện

Xayyaburi. Việc xây dựng thuỷ điện trên dòng chính sông Mê Công sẽ tác

động như thế nào đối với hạ lưu các quốc gia trong khu vực ĐNA và các quốc

gia vùng hạ lưu cần hợp tác như thế nào trong việc sử dụng, khai thác hợp lí

các nguồn lợi đặc biệt nguồn nước mà sông Mê Công mang lại.

Nhận thức được tính thời sự và cấp thiết nêu trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài:

"SỬ DỤNG BỀN VỮNG TÀI NGUYÊN NƯỚC SÔNG MÊ CÔNG TRÊN LÃNH

THỔ CỦA NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO".

1

2. Mục tiêu nghiên cứu

Nguyên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về sử dụng bền vững,

đánh giá tiềm năng và thực trạng sử dụng nguồn nước sông Mê Công, đặc biệt

là các DA thủy điện và DA khai phá dòng chảy trên sông Mê Công, trên cơ sở

đó đề xuất các giải pháp sử dụng hợp lý và bền vững nguồn tài nguyên nước

sông Mê Công trên lãnh thổ nước Lào có tính tới lợi ích của các nước láng

giềng, đặc biệt là Việt Nam

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tổng quát cơ sơ lý luận và thực tiễn về sử dụng bền vững tài nguyên

nước sông trong khuôn khổ hợp tác và kết nối thuộc GMS..

- Phân tích tiềm năng và thực trạng sử dụng tài nguyên nước sông Mê

Công trên lãnh thổ nước Lào, tập trung chủ yếu và các DA khai thác thủy điện.

- Nguyên cứu các dự án, đề xuất các giải pháp sử dụng hợp lý nguồn

nước đặc biệt là các DA thủy điện và DA khai phá dòng chảy trên sông Mê

Công thuộc lãnh thổ Lào.

4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu

Về lí luận: nhận thức cơ bản về vai trò của tài nguyên nước đối với phát

triển bền vững; về thực tiễn đánh giá việc sử dụng bền vững nguồn nước

sông Mê Công có liên quan đến các DA thủy điện và DA khai phá dòng chảy

Mê Công trên lãnh thổ Lào.

Về Thời gian: Những sự kiện, thông tin tư liệu trong những năm đầu

thế kỉ XXI.

Về không gian lãnh thổ: Chủ yếu là lãnh thổ nước CHDCND Lào, có

tính tới sự iên quan tới các nước thuộc SMS: Lào, Mianma, Thái Lan,

Campuchia, Việt Nam, Trung Quốc.

5. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu

5.1. Quan điểm nghiên cứu

Quan điểm lịch sử - viễn cảnh: Vận dụng trong nghiên cứu sự vận động

phát triển theo thời gian của sự vật hiện tượng, giúp người nghiên cứu hiểu rõ

hơn xu hướng vận động của nó trong tương lai.

2

Quan điểm hệ thống: trong nghiên cứu địa lý nói chung và địa lý kinh

tế - xã hội nói riêng thì việc vận dụng quan điểm tổng hợp có ý nghĩa rất quan

trọng. Vì vậy, khi nghiên cứu tài nguyên nước hạ nguồn sông Mê Công: vì

mục tiêu hợp tác phát triển cùng có lợi phải xét trên nhiều yếu tố: kinh tế,

chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường.

Quan điểm lãnh thổ: Thực chất là quan điểm không gian trong Địa lý

học. Tất cả nghiên cứu về vấn đề Địa lí nhưng không thể tách rời khỏi không

gian Địa lí tương ứng.

Quan điểm địa - kinh tế/địa - chính trị: Là cơ sở cho mọi định hướng

phát triển kinh tế không chỉ ở Việt Nam mà còn cho các quốc gia. Các vấn đề

kinh tế có liên quan tới cả vấn đề chính trị, nó là hai mặt có quan hệ với nhau,

tác động hỗ trợ lẫn nhau.

Quan điểm hợp tác cùng có lợi:

Về mặt kinh tế, đó là tốc độ tăng trưởng, hiệu quả và sự ổn định của nền

kinh tế. Về chính trị- xã hội: Giữ vững môi trường hoà bình, hợp tác trong

khuôn khổ Hiến chương ASEAN hướng tới Cộng đồng hoà bình, ổn định và

thịnh vượng. Dưới góc độ xã hội, phải chú trọng đến việc xoá đói giảm

nghèo, bình đẳng giữa các quốc gia, cộng đồng dân tộc trong khu vực hạ

nguồn. Về môi trường: Giữ gìn tính đa dạng sinh học, bảo vệ tài nguyên thiên

nhiên, ngăn chặn sự ô nhiễm và xuống cấp của môi trường.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp thu thập tài liệu: Thu thập nguồn tài liệu của cơ quan lưu

trữ, tài liệu xuất bản, tạp chí Đông Nam Á, tài liệu chuyên ngành và tài liệu

trên Internet. Những tài liệu và số liệu thống kê là cơ sở đánh giá vấn đề

khách quan. Phương pháp thống kê: Trên cơ sở những số liệu tài liệu đã thu

thập cần phải sử dụng phương pháp thống kê để hệ thống các số liệu phục vụ

cho nghiên cứu. Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh: Điều cần thiết và

quan trọng trong nghiên cứu là người nghiên cứu phải đưa ra nhận định đánh

3

giá của mình về vấn đề nghiên cứu. Phương pháp trên được thể hiện ở việc

đánh giá tiềm năng, cơ hội và thách thức vì mục tiêu phát triển bền vững tài

nguyên nước sông Mê Công. Đồng thời đưa ra những nhận định và triển vọng

phát triển bền vững trong tương lai. Phương pháp bản đồ, biểu đồ: Khai thác

các thông tin từ các bản đồ, biểu đồ cũng như thể hiện các kết quả nghiên cứu

trên bản đồ, giúp cụ thể hoá các dữ liệu đưa ra làm tăng tính trực quan, sát

thực, tăng độ tin cậy của công trình.

6. Khái lược lịch sử nghiên cứu

Về sử dụng nguồn tài nguyên nước sông Mê Công đã có rất nhiều công

trình nghiên cứu như: Phạm Đức Dương (2007) với tác phẩm Có một vùng văn

hoá Mê Công, Nxb KHXH, Hà Nội. Tác giả tập trung nghiên cứu, phân tích hệ

sinh thái tự nhiên và bức tranh văn hoá đa dạng các nước sử dụng chung nguồn

nước sông Mê Công trong bối cảnh Đông Nam Á lục địa. Về ĐNA đã có nhiều

tài liệu quan trọng của các tác giả Trần Khánh, (2006), Những vấn đề kinh tế

chính trị ĐNA thập niên đầu thế kỉ XXI, Nxb KHXH; Vũ Dương Minh (chủ

biên), (2007), ĐNA truyền thống và hội nhập, Nxb TG [11, 14].

Các nhà địa lý Việt Nam đã quan tâm đến khu vực Đông Nam Á nói

chung và Đông Nam Á lục địa nói riêng trong các giáo trình: Địa lý kinh tế xã

hội Việt Nam; Giáo trình Địa lý kinh tế xã hội Việt Nam của Lê Thông (chủ

biên), Nguyễn Viết Thịnh và Đỗ Minh Đức, Nxb GD Hà Nội. Có giá trị cho

nghiên cứu sông Mê Công là Địa lý Đông Nam Á của Phan Huy Xu, 1988,

Nxb Giáo Dục [21,22,24].

Những thông tin tư liệu mới nhất có thể sử dụng để cập nhật tình hình

tài nguyên nước lưu vực sông Mê Công là Báo cáo đánh giá môi trường chiến

lược về thuỷ điện trên dòng chính sông Mê Công, tháng 10/2010; Hiệp định

phát triển bền vững lưu vực sông Mê Công (1997); Báo cáo đánh giá tác

động đến môi trường (ETA) dự án thuỷ điện Xayaburi [1, 2,3,5,6,17,26,27].

Trong những năm gần đây diễn ra nhiều sự kiện kinh tế, chính trị và xã

hội nổi bật trong khu vực. Xuất phát từ lợi ích quốc gia, nhu cầu phát triển

4

kinh tế đã có hàng loạt các dự án, công trình thuỷ điện đã và đang được xây

dựng trên dòng chính sông Mê Công đặt các nước sử dụng chung nguồn nước

sông Mê Công trước những khó khăn, thách thức không chỉ về môi trường,

kinh tế mà còn ẩn chứa những bất ổn về chính trị. Vì vậy, các nước sử dụng

chung nguồn nước sông Mê Công cần phải tăng cường hợp tác hơn nữa để

đưa ra những giải pháp cho thực tiễn và định hướng chiến lược cho tương lai.

Đặc biệt 3 / 2018 là năm tổ chức Hội nghị thượng đỉnh Hợp tác Tiểu

vùng Mê Công mở rộng (SOM-GMS-6 tại Hà Nội) 3 / 2018 và Hội nghị Cấp

cao Ủy hội Mê Công quốc tế MRC tại Xiêm Riệp, Camphuchia 4 / 2018.

Đáng chú ý là tinh thần Hội nghị thượng đỉnh của Uỷ hội Mê Công được tổ

chức lần đầu tiên tại Thái Lan năm 2015 thể hiện quyết tâm phát triển bền

vững lưu vực. Hoà cùng xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá và tiến tới xây

dựng Cộng đồng ASEAN năm 2015 tạo ra cơ hội lớn cho hợp tác Mê Công.

Nhiều nguồn tài liệu có giá trị khoa học và thực tiễn sử dụng nguồn

nước sông Mê Công cho sự phát triển bền vững được thể hiện trong các tư

liệu có độ chính xác cao. Đó là Báo cáo đánh giá môi trường chiến lược của

thuỷ điện dòng chính Mê Công 10/2010 [1]. Báo cáo đánh giá hiện trạng lưu

vực Mê Công 2010 [2]. Ngày nước thế giới - 23/3/20180 [3]. Công ước của

Liên Hợp Quốc (LHQ) về Luật sử dụng các nguồn nước quốc tế / Chia sẻ:

Quản lí nguồn nước xuyên biên giới [4].

Những kiến thức cơ bản về địa lí thủy văn, đánh giá tài nguyên nước,

môi trương KTXH và sinh thái nhân văn (STNV) của các nước trong khu vực

và đặc biệt là Lào được phân tích trên cơ sở sử dụng các nguồn nghiên cứu có

độ tin cây cao. Đó là: Địa lí thủy văn [8]. Dòng chảy sông ngòi Việt Nam [15].

Dòng sông hợp tác và phát triển.[16]. Sông và Tiểu vùng Mê Công: Tiềm

năng hợp tác và phát triển quốc tế. [16]; Đánh giá tài nguyên nước [18].

Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi có sử dụng một số nguồn tư liệu

truy cập từ các websites của CHDND Lào: www.iucn.org/asia/Mê Công_/

5

www.mrcMê Công.org/Lào../Lao Statistical Bureau Yearbook 2016 /

www.worldwater. org.2018 / quản lí nước xuyên biên giới (IUCN).

www.iucn.org/asia/Mê Công_dialogues/ www.mrcMê

Công.org./http://Lao Statistical Bureau Yearbook 2016

/www.worldwater.org.2018 / Sử dụng hợp lí tài nguyên nước để phát triển bền

vững/Ngày nước thế giới 23/3/2018/ [26].

Tuy nhiên, theo chúng tôi, các nguồn tài liệu nói trên vẫn có ngược điểm

chung là nặng về nhận định, phê phán, đề xuất giải pháp. Rất thiếu các nguồn tài

liệu về sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê Kông trên lãnh thổ Lào. Ngoài

nguồn Niên giám thông kề về Nông nghiệp năm 2015 [26], chúng tôi không tiếp

cận được các tài liệu nghiên cứu, các phát biểu, đề xuất chủ kiến của các cơ quan

nhà nước Lào. Rất tiếc nước bạn Lào hiện chưa có Luật về tài nguyên nước,

thiếu các công trình nghiên cứu độc lập của các nhà quản lí, các nhà khoa học

của Lào.

Trong tình hình nói trên, đề tài của chúng tôi cần được coi là bước đầu tìm

hiểu và kiến giải một số vấn đề thực tiễn sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê

Công, không chỉ vì mục đích phát kinh tế xã hội bền vững của đất nước Lào,

đồng thời đáp ứng nguyện vọng của các nước trong cộng đồng ASEAN, đặc biệt

là mối quan hệ Việt Nam - Lào / Lào - Việt Nam.

7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung chính của luận văn được trình

bày trong 3 chương

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về sử dụng bền vững tài nguyên nước

Chương 2: Đánh giá tiềm năng và hiện trạng sử dụng bền vững tài

nguyên nước sông Mê Công của CHDCND LÀO

Chương 3: Những DA sử dụng nước Mê Công và đề xuất trên lãnh thổ

CHDCND LÀO

8. Từ khóa: Sử dụng bền vững nước sông Mê Công trên đất Lào

6

NỘI DUNG

Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN SỬ DỤNG BỀN VỮNG

TÀI NGUYÊN NƯỚC

1.1. Nhận thức chung về tài nguyên nước và phát triển bền vững

1.1.1. Nội hàm khái niệm Tài nguyên nước

1.1.1.1. Tài nguyên nước là nguồn nước mà con người sử dụng hoặc có thể sử

dụng vào những mục đích khác nhau. Nước được dùng trong các hoạt

động nông nghiệp, công nghiệp, dân dụng, giải trí và môi trường. Hầu hết các

hoạt động trên đều cần nước ngọt. 97% nước trên Trái Đất là nước muối, chỉ

3% còn lại là nước ngọt nhưng gần hơn 2/3 lượng nước này tồn tại ở

dạng sông băng và các mũ băng ở các cực. Phần còn lại không đóng băng

được tìm thấy chủ yếu ở dạng nước ngầm và chỉ một tỉ lệ nhỏ trên mặt đất và

trong không khí [18].

Nước ngọt là nguồn tài nguyên tái tạo, tuy vậy mà việc cung cấp nước

ngọt và sạch trên thế giới đang từng bước giảm đi. Nhu cầu nước đã vượt

cung ở một vài nơi trên thế giới, trong khi dân số thế giới vẫn đang tiếp tục

tăng khiến cho nhu cầu nước càng tăng. Sự nhận thức về tầm quan trọng của

việc bảo vệ nguồn nước cho nhu cầu hệ sinh thái chỉ mới được lên tiếng gần

đây. Trong suốt thế kỉ 20, hơn một nửa các vùng đất ngập nước trên thế giới

đã bị biến mất cùng với các môi trường hỗ trợ có giá trị của chúng. Các hệ

sinh thái nước ngọt mang đậm tính đa dạng sinh học hiện đang suy giảm

nhanh hơn các hệ sinh thái biển và đất liền. Chương trình khung trong định vị

các nguồn tài nguyên nước cho các đối tượng sử dụng nước được gọi là quyền

về nước (water rights).

Nước mặt là nước trong sông, hồ hoặc nước ngọt trong vùng đất ngập

nước. Nước mặt được bổ sung một cách tự nhiên bởi giáng thủy và chúng mất

đi khi chảy vào đại dương, bốc hơi và thấm xuống đất [28]. Lượng giáng thủy

7

này được thu hồi bởi các lưu vực, tổng lượng nước trong hệ thống này tại một

thời điểm cũng tùy thuộc vào một số yếu tố khác. Các yếu tố này được coi

như khả năng chứa của các hồ, vùng đất ngập nước và các hồ chứa nhân tạo,

độ thấm của đất bên dưới các thể chứa nước này, các đặc điểm của dòng chảy

mặn trong lưu vực, thời lượng giáng thủy và tốc độ bốc hơi địa phương. Các

hoạt động của con người có thể tác động lớn hoặc đôi khi phá vỡ các yếu tố

này. Con người thường tăng khả năng trữ nước bằng cách xây dựng các bể

chứa và giảm trữ nước bằng cách tháo khô các vùng đất ngập nước. Con

người cũng làm tăng lưu lượng và vận tốc của dòng chảy mặt ở các khu vực

lát đường và dẫn nước bằng các kênh.

Tổng lượng nước tại một thời điểm là vấn đề cần quan tâm. Một số chủ

thể sử dụng nước có nhu cầu nước theo vụ. Ví dụ, trong mùa hè cần rất nhiều

nước để phục vụ cho nông nghiệp hoặc phát điện nhưng trong mùa mưa thì

không cần nước, vì vậy để cung cấp nước tốt cho mùa hè thì cần một hệ thống

trữ nước trong suốt năm và xả nước trong một khoảng thời gian ngắn. Các

chủ thể sử dụng nước khác có nhu cầu dùng nước thường xuyên như nhà máy

điện cần nguồn nước để làm lạnh. Để cung cấp nước cho các nhà máy điện,

hệ thống nước mặt chỉ cần đủ trong các bể chứa khi dòng chảy trung bình nhỏ

hơn nhu cầu nước của nhà máy [28].

Trên suốt dòng sông, lượng nước chảy về hạ nguồn thường bao gồm

hai dạng là dòng chảy trên mặt và chảy thành dòng ngầm trong các đá bị nứt

nẻ (không phải nước ngầm) dưới các con sông. Đối với một số thung lũng

lớn, yếu tố không quan sát được này có thể có lưu lượng lớn hơn rất nhiều so

với dòng chảy mặt. Dòng chảy ngầm thường hình thành một bề mặt động lực

học giữa nước mặt và nước ngầm. Nó nhận nước từ nguồn nước ngầm

khi tầng ngậm nước đã được bổ cấp đầy đủ và bổ sung nước vào tầng nước

ngầm khi nước ngầm cạn kiệt. Dạng dòng chảy này phổ biến ở các khu vực

karst do ở đây có rất nhiều hố sụt và dòng sông ngầm.

8

Nước ngầm là một dạng nước dưới đất, là nước ngọt được chứa trong

các lỗ rỗng của đất hoặc đá. Nó cũng có thể là nước chứa trong các tầng ngậm

nước bên dưới mực nước ngầm. Đôi khi người ta còn phân biệt nước ngầm

nông, nước ngầm sâu và nước chôn vùi. Nước ngầm cũng có những đặc điểm

giống như nước mặt như: nguồn vào (bổ cấp), nguồn ra và bồn chứa. Sự khác

biệt chủ yếu với nước mặt là do tốc độ luân chuyển chậm (dòng thấm rất

chậm so với nước mặt), khả năng giữ nước ngầm nhìn chung lớn hơn nước

mặt khi so sánh về lượng nước đầu vào. Sự khác biệt này làm cho con người

sử dụng nó một cách vô tội vạ trong một thời gian dài mà không cần dự trữ.

Đó là quan niệm sai lầm, khi mà nguồn nước khai thác vượt quá lượng bổ cấp

sẽ dẫn tới cạn kiệt tầng chứa nước và không thể phục hồi.

Nguồn cung cho nước ngầm là nước mặt thấm vào tầng chứa, các nguồn

thoát tự nhiên như suối và thấm vào các đại dương. Nguồn nước ngầm có khả

năng bị nhiễm mặn cách tự nhiên hoặc do tác động của con người khi khai thác

quá mức các tầng chứa nước cận biên mặn/ngọt. Ở các vùng ven biển, con

người sử dụng nguồn nước ngầm có thể khiến nước thấm vào đại dương từ

nước dự trữ gây ra hiện tượng muối hóa đất. Con người cũng có thể làm cạn

kiệt nguồn nước bởi các hoạt động làm ô nhiễm nó. Con người có thể bổ sung

cho nguồn nước này bằng cách xây dựng các bể chứa hoặc bổ cấp nhân tạo.

Tuy nhiên, hiện nay chúng ta đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng

nghiêm trọng liên quan đến nguồn nước trên phạm vi toàn cầu mà nguyên nhân

chính là do suy giảm hệ sinh thái, ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu.

Chủ đề Ngày Nước thế giới năm 2018 được Chương trình Môi trường

Liên Hợp quốc lựa chọn là “Nước với Thiên nhiên” với mong muốn tìm kiếm

các giải pháp dựa vào tự nhiên để giải quyết, ứng phó kịp thời với những

thách thức về nguồn nước. [1.2.4.28].

Hiện nay, có khoảng 2,1 tỉ người không được tiếp cận các dịch vụ về

nước uống bảo đảm an toàn. Đến năm 2050, dân số thế giới sẽ tăng khoảng 2

9

tỉ người và nhu cầu về nước toàn cầu có thể lên tới 30% so với hiện nay.

Nông nghiệp hiện sử dụng khoảng 70% lượng nước toàn cầu, chủ yếu là để

tưới tiêu - con số này sẽ tăng lên ở các vùng có áp lực nước cao và mật độ dân

số cao. Ngành công nghiệp chiếm 20% tổng nhu cầu sử dụng nước, chủ yếu là

dùng trong ngành công nghiệp năng lượng và sản xuất. 10% còn lại sử dụng

cho sinh hoạt - tỉ lệ sử dụng nước uống chỉ nhỏ hơn 1%. Ngày nay, khoảng

1,9 tỉ người sống trong các khu vực khan hiếm nước. Đến năm 2050, con số

này có thể tăng lên khoảng 3 tỉ người.

Trên phạm toàn cầu, hơn 80% lượng nước thải do xã hội tạo ra trở lại

môi trường tự nhiên mà không cần xử lý hoặc được đem đi tái sử dụng.

Dự kiến số người có nguy cơ bị ảnh hưởng bởi lũ lụt tăng từ 1,2 tỉ tại

thời điểm này lên khoảng 1,6 tỉ năm 2050 - chiếm gần 20% dân số thế giới.

Ngày nay, khoảng 1,8 tỉ người bị ảnh hưởng bởi sự suy thoái đất và sa mạc

hoá. Ít nhất 65% diện tích đất bị mất hoặc ở trạng thái thoái hoá. Khoảng 64-

71% diện tích đất ngập nước tự nhiên đã biến mất từ năm 1900 do các hoạt

động của con người. xói mòn đất trồng trọt mang đi từ 25 đến 40 tỉ tấn đất

mặt hàng năm, điều này gây ảnh hưởng và làm giảm đáng kể sản lượng cây

trồng cũng như khả năng hấp thụ nước, carbon và chất dinh dưỡng của đất.

Dòng chảy tràn, dòng chảy lũ cũng chứa một lượng lớn nitơ và phốt pho,

cũng là một đóng góp chính cho ô nhiễm nguồn nước.

1.1.1.2. Tài nguyên nước dưới góc nhìn phát triển bền vững

Thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào

năm 1980 trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội

Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội

dung rất đơn giản: "Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới

phát triển kinh tế mà còn phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và

sự tác động đến môi trường sinh thái học". Khái niệm này được phổ biến rộng

rãi vào năm 1987 nhờ Báo cáo Brundtland (còn gọi là Báo cáo Our Common

10

Future) của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới - WCED (nay là Ủy

ban Brundtland). Báo cáo này ghi rõ: Phát triển bền vững là "sự phát triển có

thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến

những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai..." . Nói cách khác,

phát triển bền vững phải bảo đảm có sự phát triển kinh tế hiệu quả, xã hội

công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Để đạt được điều này, tất cả

các thành phần kinh tế - xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội... phải bắt

tay nhau thực hiện nhằm mục đích dung hòa 3 lĩnh vực chính: kinh tế - xã

hội - môi trường. Sau đó, năm 1992, tại Rio de Janeiro, các đại biểu tham gia

Hội nghị về Môi trường và Phát triển của Liên hiệp quốc đã xác nhận lại khái

niệm này, và đã gửi đi một thông điệp rõ ràng tới tất cả các cấp của các chính

phủ về sự cấp bách trong việc đẩy mạnh sự hòa hợp kinh tế, phát triển xã hội

cùng với bảo vệ môi trường.

Năm 2002, Hội nghị thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững (còn

gọi là Hội nghị Rio +10 hay Hội nghị thượng đỉnh Johannesburg) nhóm họp

tại Johannesburg, Cộng hòa Nam Phi với sự tham gia của các nhà lãnh đạo

cũng như các chuyên gia về kinh tế, xã hội và môi trường của gần 200 quốc

gia đã tổng kết lại kế hoạch hành động về phát triển bền vững 10 năm qua và

đưa ra các quyết sách liên quan tới các vấn đề nước, năng lượng, sức

khỏe, nông nghiệp và sự đa dạng sinh thái.

Theo Tổ chức ngân hàng phát triển châu Á (ADB): "Phát triển bền

vững là một loại hình phát triển mới, lồng ghép quá trình sản xuất với bảo tồn

tài nguyên và nâng cao chất lượng môi trường. Phát triển bền vững cần phải

đáp ứng các nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không phương hại đến khả năng

của chúng ta đáp ứng các nhu cầu của thế hệ trong tương lai".

Nước - nguồn tài nguyên thiết yếu cho cuộc sống của con người, sự

phát triển bền vững của mọi quốc gia và là ưu tiên hàng đầu để phát triển

bền vững.

11

Phát triển bền vững không phải là một khái niệm mới, mà thực ra đã

được sử dụng trong quản lý các tài nguyên có khả năng tái tạo. Con người

hoàn toàn có khả năng làm cho phát triển được bền vững, đảm bảo tài nguyên

đáp ứng được những nhu cầu hiện tại của mình mà không gây phương hại đến

việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai, đồng thời giảm thiểu tổn hại

tới hệ thống kinh tế - xã hội và môi trường.

Nước là yếu tố cơ bản không thể thiếu trong việc duy trì sự sống và mọi

hoạt động của con người trên hành tinh. Việc đáp ứng nhu cầu về nước đảm

bảo cả về chất lượng và số lượng là một điều kiện tiên quyết để phát triển bền

vững. Kể từ đầu thế kỉ 20, lượng nước tiêu thụ toàn cầu tăng 7 lần, chủ yếu do

sự gia tăng dân số và nhu cầu về nước của từng cá nhân. Cùng với sự gia tăng

dân số và khát vọng cải thiện cuộc sống của mỗi quốc gia và của từng cá nhân

thì nhu cầu về nước ngày càng gia tăng là điều tất yếu. Vì vậy, trên thực tế việc

đảm bảo cấp nước đáp ứng về chất lượng cho toàn bộ dân số toàn cầu và bảo

tồn các hệ sinh thái vẫn còn là một mục tiêu xa vời. Do sự biến đổi về nhiệt độ

và lượng mưa, hiện nay nhiều nơi đã thường xuyên không có đủ nước để đáp

ứng nhu cầu. Vì thế, trong thế kỉ 21, thiếu nước sẽ là một vấn đề nghiêm trọng

nhất trong các vấn đề về nước, đe doạ quá trình phát triển bền vững.

Theo đánh giá của nhiều cơ quan nghiên cứu về tài nguyên nước, hiện

tại có khoảng 1/3 số quốc gia trên thế giới bị thiếu nước và đến 2025 con số

này sẽ là 2/3 với khoảng 35% dân số thế giới sẽ rơi vào tình cảnh thiếu nước

nghiêm trọng. Ở một số quốc gia, lượng nước cho mỗi đầu người đang bị

giảm đáng kể. Hội nghị về nước của Liên hợp quốc vào năm 1997 đã thống

nhất “Tất cả mọi người, không phân biệt tuổi tác, địa vị kinh tế, xã hội đều có

quyền tiếp cận nước uống với số lượng và chất lượng đảm bảo cho các nhu

cầu cơ bản của mình”, theo đó, tiếp cận với nước uống là quyền cơ bản của

con người. Tuy nhiên, cho đến nay, số người thiếu nước uống sạch an toàn

vẫn đang không ngừng gia tăng. Vì vậy, mối lo về nước không phải của riêng

một quốc gia nào.

12

Nước đang trở thành tâm điểm tại nhiều diễn đàn lớn thế giới. Tại Hội

nghị Thượng đỉnh về môi trường tại Johannesburg, Nam Phi, nước được xếp ở

vị trí cao nhất trong số 5 ưu tiên để phát triển bền vững (WEHAB), đó là: Nước-

W; Năng lượng-E; Sức khoẻ-H; Nông nghiệp-A; và Đa dạng sinh học-B.

Việt Nam luôn khẳng định “nước là tài nguyên đặc biệt quan trọng, là

thành phần thiết yếu của sự sống và môi trường, quyết định sự tồn tại, phát

triển bền vững của đất nước” và vì vậy, Chính phủ Việt Nam luôn nỗ lực

tăng cường và kiện toàn, thể chế, chính sách trong lĩnh vực tài nguyên nước,

đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia có chung nguồn nước với Việt Nam cũng

như hợp tác và tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế, các quốc gia trên

thế giới và khu vực để quản lý, bảo vệ hiệu quả tài nguyên nước nhằm góp

phần vào tiến trình phát triển bền vững của đất nước cũng như của thế giới và

khu vực.

1.1.2. Chiến lược sử dụng bền vững tài nguyên nước xuyên biên giới trong

một thế giới biến đổi

1.1.2.1. Tính cấp bách trong sử dụng nguồn nước xuyên biên giới

Nhu cầu về nước ngày càng tăng, tại nhiều quốc gia trên thế giới tài

nguyên nước đã bị khai thác quá mức, vượt quá khả năng của nguồn nước.

Hơn nữa, do tác động của biến đổi khí hậu, tình trạng khan hiếm nước càng

thêm trầm trọng hơn. Do đó, vấn đề cạnh tranh về nước đang ngày càng trở

nên căng thẳng giữa các quốc gia, khu vực, đô thị, nông thôn, hoặc giữa các

ngành nghề, lĩnh vực hoạt động khác nhau. Điều đó khiến cho nước đang dần

trở thành một trong những vấn đề chính trị tại nhiều quốc gia trên thế giới.

Theo Giám đốc UNESCO Koichiro Matsuura, trong tình trạng thiếu

nước gia tăng như hiện nay, vấn đề quản lý hiệu quả tài nguyên nước trở nên

quan trọng hơn bao giờ hết và việc đấu tranh với cái nghèo còn tùy thuộc vào

khả năng chúng ta đầu tư vào lĩnh vực tài nguyên nước [3,17,18,28].

Nhằm hạn chế nhu cầu cũng như chống thất thoát nước, đồng thời tăng

cường quản lý tài nguyên nước, nhiều chính sách đã được áp dụng. Luật pháp

13

về bảo vệ và quản lý tài nguyên nước đã được ban hành tại nhiều quốc gia.

Song, trên thực tế, những cải cách, đổi mới này vẫn chưa thực sự có hiệu quả,

công việc thường chỉ giới hạn trong ngành nước. Vì vậy, muốn thực sự có

hiệu lực, các quyết định cho vấn đề nước cần thiết có sự tham gia của lãnh

đạo của tất cả các ngành, trong đó có các ngành nông nghiệp, năng lượng,

thương mại và tài chính, bởi tất cả các ngành này đều ảnh hưởng quyết định

đến quản lý tài nguyên nước. Ngoài ra, sự cộng tác, phối hợp giữa khối nhà

nước với khối tư nhân.

Cả thế giới đang hướng tới hoàn thành được các mục tiêu thiên niên kỉ

về nước.Tuy nhiên, kỳ vọng để đạt được các mục tiêu thiên niên kỉ này là

không mấy hiện thực. Thực tế cho thấy, việc tiếp cận được với những dịch vụ

cơ bản liên quan đến nước như nước uống an toàn, vệ sinh… vẫn là một vấn

đề khó khăn đối với các nước đang phát triển. Theo ước tính, đến năm 2030

vẫn còn khoảng 5 tỉ người (chiếm 67% số dân thế giới) chưa được tiếp cận

với các điều kiện vệ sinh về nước. Vì vậy, để đạt được những mục tiêu Liên

hiệp quốc đề ra, đòi hỏi những nỗ lực hiện tại phải được tăng lên gấp bội.

Mặt khác, giữa nước và nghèo đói có mối liên hệ khăng khít với nhau -

số người có mức sống dưới 1,25 USD, gần như trùng với số người thiếu nước

uống sạch an toàn. Tình trạng này ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của con

người. Hầu hết 80% bệnh tật ở các nước đang phát triển đều liên quan đến

nước. Theo thống kê của WHO, mỗi ngày có khoảng 5.000 trẻ em, hay cứ sau

17 giây lại có 1 trẻ chết vì bệnh tả. Nếu như được tăng cường về cấp nước,

điều kiện vệ sinh và quản lý tài nguyên nước thì cả thế giới tránh được 1/10

bệnh tật.

Nhu cầu về nước chưa bao giờ cao như hiện nay. Khai thác nước sạch

đã tăng gấp 3 lần trong vòng 50 năm qua. Diện tích đất tưới cũng tăng gấp đôi

trong chừng ấy năm và hiện tượng này liên quan mật thiết với sự gia tăng dân

số. Dân số thế giới hiện nay là 6,6 tỉ người và mỗi năm tăng thêm 80 triệu

14

người. Điều đó có nghĩa, nhu cầu về nước sạch mỗi năm tăng thêm khoảng 64

tỉ mét khối. Đáng tiếc là 90% số dân trong số 3 tỉ người dự kiến tăng thêm

vào năm 2050 lại tập trung ở các nước đang phát triển, nơi mà ngay từ bây

giờ đã đang chịu cảnh khan hiếm nước.

Gia tăng dân số đồng nghĩa với gia tăng nhu cầu lương thực và tất

nhiên nhu cầu về nước cũng tăng. Cho đến nay, nông nghiệp vẫn là đối tượng

tiêu thụ nhiều nước nhất, chiếm tới 70% lượng nước tiêu thụ (so với 20%

dành cho công nghiệp và 10% dùng trong sinh hoạt đời sống). Nếu không có

quy hoạch sử dụng hợp lý, nhu cầu nước cho nông nghiệp trên toàn thế giới sẽ

tăng lên từ 70% đến 90% vào năm 2050, mặc dù sử dụng tài nguyên nước của

một số nước hiện đã chạm đến mức giới hạn. Đồng thời, những thay đổi về lối

sống và thói quen ăn uống đã diễn ra trong nhiều năm gần đây, nhất là gia

tăng tỉ lệ mức tiêu thụ thịt và các sản phẩm bơ sữa tại những nước vừa giàu

lên đã tác động rất lớn đến tài nguyên nước.

Để sản xuất 1 kg ngũ cốc cần từ 800 đến 4000 lít nước, trong khi đó để

có được 01 kg thịt bò phải tốn từ 2000 đến 16000 lít nước. Nếu vào thời điểm

năm 1985, một người Trung Quốc tiêu thụ 20 kg thịt thì vào năm 2009 con số

này đã là 50 kg. Điều đó có nghĩa, Trung Quốc cần có thêm 390 km3 nước.

Để giúp so sánh, năm 2002, lượng thịt tiêu thụ tính theo đầu người tại Thụy

Điển và tại Mỹ tương ứng là 76kg và 125 kg.

Sản xuất nhiên liệu sinh học tăng nhanh trong những năm qua đã gây

những tác động đáng kể đến nhu cầu về nước. Sản lượng ethanol năm 2008 là

77 tỉ lít, gấp 3 lần giai đoạn từ 2000 đến 2007 và dự kiến sẽ đạt 127 tỉ lít vào

năm 2017. Mỹ và Brazil là các nhà sản xuất hàng đầu, đáp ứng 77% nhu cầu

của toàn thế giới. Năm 2007, 23% sản lượng ngô ở Mỹ và 54% mía đường

của Brazil là dành để sản xuất ethanol. Trong năm 2008, 47% lượng dầu thực

vật sản xuất tại Cộng đồng Châu Âu (EU) được dùng làm nhiên liệu diesel

sinh học. Tuy vậy, mặc dù việc gia tăng sử dụng cây trồng cho nhiên liệu sinh

15

học, nhưng tỉ lệ so với tổng sản lượng vẫn còn nhỏ. Trong năm 2008, ước tính

thị phần về ethanol trên thị trường nhiên liệu vận tải của Mỹ, Brazil và EU

tương ứng là 4.5%, 40% và 2.2%. Với khả năng giúp làm giảm bớt sự lệ

thuộc vào năng lượng chất đốt, xem ra với công nghệ hiện tại, nhiên liệu sinh

học đang đặt lên môi trường và đa dạng sinh học một áp lực không tương

ứng. Vấn đề chính là phải cần một lượng lớn nước và phân bón để gieo trồng.

Để làm ra 01 lít nhiên liệu sinh học phải cần từ 1000 đến 4000 lít nước.

Trong khi đó, nhu cầu về năng lượng đang tăng nhanh, đồng nghĩa với

tăng nhu cầu về nước. Nhu cầu năng lượng toàn cầu dự kiến tăng lên khoảng

55% vào năm 2030 và chỉ riêng Trung Quốc và Ấn Độ đã chiếm tới 45%

lượng tăng này. Sản xuất điện từ nguồn thủy điện dự kiến tăng trung bình

hàng năm ở mức 1.7% từ năm 2004 đến 2030, gia tăng tổng thể là 60%. Tuy

bị chỉ trích là nguyên nhân gây ảnh hưởng nặng nề đến môi trường và khiến

nhiều người dân bị mất chỗ ở, nhưng với nhiều người các đập thủy điện vẫn

được xem là một giải pháp nhằm đáp ứng các nhu cầu năng lượng hiện nay.

Bên cạnh các áp lực gia tăng nhu cầu về nước nêu trên, sự ấm lên toàn

cầu sẽ làm cho chu trình thủy văn trở nên biến động mạnh hơn như thay đổi

về chế độ mưa và bốc hơi. Mặc dù chưa xác định được cụ thể những ảnh

hưởng nào của hiện tượng này tác động đến tài nguyên nước, nhưng tình

trạng thiếu nước chắc chắn sẽ tác động trở lại đến chất lượng nước và tần suất

các hiện tượng cực đoan như hạn hán, lũ lụt.

1.1.2.2. Tiếp cận chiến lược kinh tế nước xuyên biên giới

Theo ước tính, đến năm 2030 sẽ có 47% dân số thế giới sinh sống tại các

vùng chịu căng thẳng về nước. Chỉ tính riêng ở Châu Phi, do biến đổi khí hậu,

số người chịu cảnh thiếu nước nhiều hơn vào năm 2020 là từ 75 đến 250 triệu

người. Khan hiếm nước ở một số vùng khô hạn và bán khô hạn sẽ tác động lớn

tới sự di cư; khoảng 24 triệu đến 700 triệu người dân mất chỗ ở [3, 26].

16

Theo đánh giá chung, đầu tư vào lĩnh vực tài nguyên nước là rất quan

trọng đối với tất cả các quốc gia, kể cả với những nước nghèo. Sự phồn thịnh

trong tương lai của các nước đang phát triển một phần phụ thuộc vào mức độ

đầu tư mà họ dành cho ngành nước. Phát triển tài nguyên nước là nội dung

chính yếu trong quá trình phát triển KTXH.

Đầu tư vào ngành nước có thể được lợi theo nhiều cách. Mỗi một đô la

đầu tư vào nước sạch và vệ sinh ước tính sẽ thu lợi được từ 3 đến 34 đô la.

Thực tế cho thấy, nơi nào đầu tư kém thì tổng sản lượng quốc nội có thể bị

mất tới 10%. Tại lục địa châu Phi, tổn thất kinh tế do thiếu nước uống sạch và

điều kiện vệ sinh cơ bản ước tính 28.4 tỉ đô la mỗi năm - khoảng 5% GDP.

Đầu tư vào cơ sở hạ tầng vệ sinh cũng sẽ mang lại nhiều lợi ích cho

môi trường. Hiện nay, hơn 80% chất thải tại các nước đang phát triển được

thải trực tiếp ra môi trường không qua xử lý, gây ô nhiễm sông, hồ và các

vùng duyên hải. Ước tính, tổng chi phí để thay thế những hệ thống cấp nước

và cơ sở hạ tầng vệ sinh cũ tại các nước công nghiệp hàng năm có thể lên tới

200 tỉ đô la.

Nước là vấn đề cốt yếu nhất đối với các nước đang phát triển. Tuy

nhiên, cho đến nay, tỉ lệ đầu tư vào cơ sở hạ tầng và tăng cường năng lực cho

ngành nước từ nguồn ngân sách nhà nước và nguồn vốn ODA là không thỏa

đáng. Hỗ trợ phát triển quốc tế cho toàn ngành nước đang ngày càng giảm sút

và vẫn chỉ duy trì ở mức 5% tổng nguồn tài trợ.

Đứng trước thực trạng gia tăng nạn thiếu nước, nhiều quốc gia đã bắt

đầu tiến hành lồng ghép các chiến lược quản lý tài nguyên nước vào các kế

hoạch phát triển của mình. Tại Zămbia chính sách mới về quản lý tổng hợp tài

nguyên nước dự định sẽ thực hiện quản lý tổng hợp tài nguyên nước ở tất cả

các ngành. Qua đó, nhiều nhà tài trợ đã liên kết các đầu tư liên quan đến nước

trong gói hỗ trợ của họ cho Zămbia [28].

Dự án Anatolia -Tây Nam Thổ Nhĩ Kỳ (GAP) là một dự án phát triển

kinh tế xã hội đa ngành được thiết kế nhằm tăng thêm thu nhập ở khu vực

17

kém phát triển với tổng kinh phí dự tính khoảng 32 tỉ đô la. Kể từ khi mở

rộng hệ thống tưới, thu nhập đầu người đã tăng gấp 3 lần. Điện khí hóa nông

thôn và tỉ lệ được tiếp cận với điện đạt 90%, tỉ lệ xóa mù tăng, giảm tỉ lệ tử

vong ở trẻ em, khởi động kinh doanh tăng và chế độ sở hữu đất đai công bằng

hơn được mở ra đối với đất canh tác. Số dân thành thị được phục vụ nước

tăng gấp 4 lần. Nhờ đó, khu vực này không còn là một khu vực kinh tế kém

phát triển nữa.

Nước Úc cũng thay đổi các chính sách của họ với một loạt biện pháp

mới. Tại những thành phố chính đã áp dụng quy định hạn chế dùng nước đối

với một số hoạt động như tưới vườn, rửa xe, nước cho bể bơi, v.v… Tại

Sydney, năm 2008, đã áp dụng hình thức cấp nước hai chế độ - một cho nước

uống và một dành cho các sử dụng khác được lấy từ nguồn nước tái sử dụng.

Việc xử lý nước thải cũng có thể giúp tăng thêm lượng nước có thể sử

dụng được. Một số nước đã tiến hành việc dùng lại nước thải đã qua xử lý cho

sản xuất nông nghiệp. Song, việc sử dụng nước thải đô thị trong nông nghiệp

vẫn chưa nhiều, trừ một số quốc gia nghèo tài nguyên nước, như ở Dải Gaza

(Lãnh thổ Palestin: 40%), ở Israel (15%) và ở Ai Cập (16%).

Ngọt hóa nước biển (tách muối) cũng là một quy trình khác được sử

dụng tại các vùng khô hạn. Quy trình được áp dụng để lấy nước uống và nước

sử dụng trong ngành công nghiệp tại những quốc gia đã sử dụng đến cận tài

nguyên nước của mình như Arập Xêut, Israel [3].

1.2. Hợp tác quốc tế trong sử dụng tài nguyên nước trên các dòng sông

quốc tế

1.2.1. Nhận thức chung về nội hàm Hợp tác quốc tế

Về bản chất, có thể coi hội nhập quốc tế chính là một hình thức phát

triển cao của hợp tác quốc tế. Hợp tác quốc tế là quá trình các nước giao lưu

hoặc hành động cùng nhau để đạt được một mục tiêu, lợi ích nào đó. Có thể

18

chia hợp tác quốc tế thành ba mức độ cơ bản, là: 1- Trao đổi, tham vấn; 2-

Phối hợp chính sách, triển khai hoạt động phối hợp và thực hiện các dự án

chung; 3- Xây dựng, áp dụng luật lệ, chuẩn mực chung.

Mức độ thứ 3 là điểm trùng giữa hợp tác quốc tế và hội nhập quốc tế.

Nói rộng ra, hội nhập quốc tế bao hàm việc chấp nhận, tham gia xây dựng và

thực hiện các chuẩn mực quốc tế, bao gồm: các thể chế, luật lệ, tập quán,

nguyên tắc và tiêu chuẩn chung được chấp nhận rộng rãi. Các chuẩn mực này

có thể được hình thành từ quá trình hợp tác quốc tế, thông qua những hiệp

định, thỏa thuận giữa các nhà nước hoặc các chuẩn mực, tập quán được đặt ra

bởi các tổ chức, hiệp hội phi chính phủ được những tổ chức, cá nhân trên thế

giới chấp nhận rộng rãi.

Về mục tiêu, hội nhập quốc tế cũng như các hình thức hợp tác quốc tế

khác đều vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Các nước tham gia quá trình này cơ bản

vì thấy có lợi cho đất nước. Do đó, việc tham gia phải dựa theo một số tiêu

chí với mức độ và lộ trình phù hợp.

Về hình thức, hội nhập quốc tế bao gồm các hoạt động: 1-Thúc đẩy

quan hệ song phương dựa trên các chuẩn mực quốc tế chung; 2- Gia nhập các

tổ chức quốc tế, các cơ chế hợp tác quốc tế; 3- Xây dựng các luật lệ và chuẩn

mực; 4- Thực hiện các luật lệ, chuẩn mực, các hoạt động chung ở phạm vi

quốc tế và quốc gia.

Về lĩnh vực hội nhập, quá trình hội nhập diễn ra trong mọi lĩnh vực, từ

chính trị, kinh tế, quốc phòng - an ninh, đến các lĩnh vực khác. Hội nhập trên

các lĩnh vực này có mối liên hệ hữu cơ mật thiết, đan xen, tác động qua lại lẫn

nhau. Thông thường, kinh tế thường là lĩnh vực đi đầu và là cơ sở vững chắc

cho hội nhập trong các lĩnh vực khác. Đồng thời, hội nhập trong các lĩnh vực

khác cũng tạo ra một môi trường thuận lợi cho hội nhập kinh tế.

19

1.2.2. Hợp tác quốc tế sử dụng nước các lưu vực sông

Cho đến nay, các cách ứng xử trên các dòng sông quốc tế vẫn chỉ theo

những trường hợp cụ thể, dựa vào các hiệp ước và thỏa thuận giữa các quốc

gia hữu quan là chính. Trên thế giới hiện có 261 lưu vực dòng chảy quốc tế,

chiếm 45% diện tích đất toàn cầu và là nơi sinh sống của trên 40% dân số thế

giới. Trong vấn đề sử dụng tài nguyên nước trên các dòng sông quốc tế, hai

công ước được xem là cơ sở cho các chuẩn mực ứng xử công bằng: Quy định

Helsinki năm 1967 về việc sử dụng nước trên các dòng sông quốc tế. Cho đến

nay quy định Helsinki chỉ mới được sử dụng một lần trong bản tuyên bố năm

1975 của Ủy ban sông Mê Công [4].

Công ước Liên Hiệp Quốc năm 1997 về việc “sử dụng không vì mục

đích giao thông của các dòng chảy quốc tế”. Công ước này nhấn mạnh đến

việc sử dụng “công bằng và hợp lý” các dòng sông quốc tế. Có ba nước là

Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ và Pháp đã không ký vào Công ước này. Các công

ước này ra đời để hạn chế những sử dụng lạm quyền của nhiều quốc gia nằm

ở thượng nguồn các dòng sông quốc tế khi xây dựng những công trình thủy

nông hay thủy điện, không đếm xỉa đến quyền lợi của các nước ven sông nằm

ở hạ lưu. Họ đã dựa vào những học thuyết không còn phù hợp với nền văn

minh nhân loại trong thời đại mới. Các học thuyết ấy gồm:

Học thuyết Harmon về chủ quyền tuyệt đối. Nó cho phép quốc gia ở

thượng nguồn quyền tự do làm bất kỳ điều gì họ muốn. Học thuyết này được

Mỹ sử dụng vào đầu thế kỉ 20 trong việc phân chia nguồn nước với Mexico

nhưng ngày nay bị tất cả các quốc gia phản đối.

Học thuyết toàn vẹn tuyệt đối của dòng sông: cấm tất cả các tác động

lên dòng sông, vì quá khắt khe nên học thuyết này ít được sử dụng.

Học thuyết chủ quyền lãnh thổ hạn chế: được sử dụng rộng rãi.

Học thuyết tài sản chung: xem dòng sông là tài sản chung của tất cả các

quốc gia ven sông.

20

Học thuyết quyền hạn tương liên: nhấn mạnh đến việc sử dụng có hiệu

quả tài nguyên nước là quan trọng hơn quyền sở hữu tài nguyên này.

Người ta kết luận rằng muốn tránh tranh chấp và xung đột, các cách ứng xử

phải dựa theo các nguyên tắc sau:

- Nhiệm vụ của các quốc gia là phải hợp tác và thương lượng để đạt

đến thỏa thuận;

- Nghiêm cấm những hành động có khả năng gây hại cho các quốc gia

ven sông khác;

- Nhiệm vụ tham khảo ý kiến trước hành động,

- Tuân thủ nguyên tắc sử dụng công bằng và hợp lý các dòng chảy

quốc tế. Trường hợp của việc sử dụng không công bằng các nguồn nước ở

Trung Đông là những thí dụ điển hình của việc các quốc gia ở thượng

nguồn tìm cách chiếm đoạt tài nguyên nước quốc tế mà không có thương

lượng và thỏa thuận [4].

1.3. Các văn bản quan trọng về sử dụng nguồn tài nguyên nước

1.3.1. Công ước về Luật sử dụng các nguồn nước liên quốc gia

Công ước về Luật sử dụng các nguồn nước liên quốc gia cho các mục

đích phi giao thông thủy được Đại hội đồng Liên Hợp quốc khóa 41 thông

qua ngày 21/5/1997 bao gồm 7 phần và 37 điều. Công ước này áp dụng cho

việc sử dụng các nguồn nước liên quốc gia cho các mục đích phi giao thông

thủy và các biện pháp bảo vệ, bảo tồn và quản lý có liên quan đến việc sử

dụng các nguồn nước liên quốc gia. [4].

Đây là Công ước toàn cầu đầu tiên điều chỉnh khá toàn diện quan hệ

giữa các quốc gia trong việc sử dụng các nguồn nước liên quốc gia với mục

đích bảo đảm việc sử dụng nguồn nước liên quốc gia một cách công bằng,

hợp lý giữa thượng lưu và hạ lưu, việc thực hiện nghĩa vụ không gây hại đáng

kể đối với các quốc gia liên quan theo các nguyên tắc và chuẩn mực chung

21

của quốc tế. Các quy định của Công ước có tính áp dụng bắt buộc đối với các

quốc gia là thành viên. Trong trường hợp có một hay một số quốc gia ven

nguồn nước không tham gia Công ước thì có thể sử dụng các nguyên tắc, biện

pháp của Công ước làm cơ sở để đàm phán, đấu tranh hay thỏa thuận giải

quyết các vấn đề phát sinh đối với nguồn nước liên quốc gia.

Theo các chuyên gia tài nguyên nước: Việc gia nhập Công ước về cơ

bản sẽ không làm thay đổi các quyền, nghĩa vụ của các quốc gia trong việc

khai thác, sử dụng, bảo vệ nguồn nước đối với các nguồn nước liên quốc gia

thuộc phạm vi lưu vực sông Mê Công.

Tuy nhiên, vấn đề cần quan tâm hiện nay là khi các quốc gia có chung

nguồn nước với Việt Nam vẫn chưa tham gia Công ước thì các quy định của

Công ước chưa thể được áp dụng để giải quyết các vấn đề phát sinh trong

khai thác, sử dụng, bảo vệ nguồn nước giữa Việt Nam với các nước có chung

nguồn nước. Trong khi đó, thời gian gần đây, các quốc gia ở thượng nguồn có

chung nguồn nước với Việt Nam đều tăng cường khai thác lợi ích từ nguồn

nước liên quốc gia cho phát triển KTXH và các xung đột lợi ích giữa các quốc

gia thượng nguồn với hạ nguồn trong việc khai thác, sử dụng nguồn nước liên

quốc gia ngày càng rõ nét, đang làm hạn chế khả năng các quốc gia trong khu

vực cùng tham gia Công ước. Chính vì vậy, Việt Nam cũng cần phải có kế

hoạch, lộ trình cụ thể sẵn sàng thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình, nhất

là đối với những quy định về tham vấn trước, ứng phó, khắc phục sự cố và

giải quyết tranh chấp, bồi thường thiệt hại theo quy định của Công ước.

1.3.2. Khuyến nghị của IUCN về nguyên tắc chia sẻ công bằng trong quản

lí nước xuyên biên giới

Là dòng sông xuyên biên giới, việc sử dụng nguồn tài nguyên nước của

dòng sông này phải được quan lí nước xuyên biên giới theo khuyến nghị của

IUCN với 6 thông điệp sau đây [28]:

22

1.3.2.1. Các khung pháp lý cho hợp tác xuyên biên giới

Các định chế pháp luật quốc tế là cơ sở để quản lý nước xuyên biên

giới Các khuôn khổ pháp lý và thể chế liên quốc gia là xương sống của các hệ

thống quản lý hợp tác. Các khuôn khổ pháp lý và thể chế tuy không thể ngăn

ngừa tất cả các tranh chấp nhưng là những chỗ dựa quan trọng trong việc xác

định “luật chơi” và như vậy nó đảm bảo tăng cường an ninh pháp lý và giảm

khả năng tranh chấp nước giữa các quốc gia cùng chia sẻ.

Các định chế quốc tế cần phải được cụ thể hóa đến cấp quốc gia và địa

phương Luật nước quốc tế cần phải được cụ thể hóa ở cấp quốc gia thành các

quyền và nghĩa vụ cho các cá nhân và các tổ chức tại các quốc gia. Điều này

có thể đạt được thông qua các luật nước và quá trình quản lý tài nguyên nước

của các quốc gia và các địa phương. Quốc gia có quyền sử dụng tài nguyên

nước của mình, nhưng có nghĩa vụ tránh không gây tổn hại cho các quốc gia

khác ‘Sử dụng công bằng’ là một trong những quy chế thông lệ quan trọng

nhất đối với việc chia sẻ tài nguyên nước. Nó dựa trên quan điểm về sự bình

đẳng về quyền, kêu gọi cân bằng tất cả các lợi ích hợp lý chứ không chỉ là

chia sẻ bình quân về tài nguyên nước. Các cơ chế giải quyết xung đột là yếu

tố quan trọng của mọi định chế pháp lý Nhằm giúp luật nước quốc tế đạt được

hiệu quả khi đi vào thực tiễn, các quốc gia cần phải nhất trí về các cách thức

giải quyết tranh chấp một cách hòa bình và các công cụ pháp lý có hiệu lực để

giải quyết những trường hợp không thể hòa giải.

1.3.2.2. Các thể chế cho quản lý lưu vực sông xuyên biên giới

Các thể chế đưa ra các “luật chơi” chính thức và cả không chính thức

Các thể chế tổ chức quản lý nước xuyên biên giới có thể thúc đẩy các cơ hội

và giải quyết các vấn đề do nguồn nước xuyên biên giới tạo ra. Thể chế có thể

là không chính thức như sự đồng thuận về một vấn đề hoặc các thỏa thuận bất

thành văn nhưng đang thực thi, hoặc là rất chính thức, bao hàm trong các tổ

23

chức quản lý lưu vực sông hoặc các điều ước có ràng buộc về mặt pháp lý.

Không có tổ chức quản lý nước xuyên biên giới hoàn hảo Các tổ chức xuyên

biên giới có rất nhiều chức năng, từ thu thập dữ liệu và chia sẻ thông tin tới

giải quyết các nhiệm vụ cụ thể như xây một con đập cho tới việc quản lý

chung về các vấn đề nước trong khuôn khổ lưu vực sông mà họ quản lý. Chức

năng và mục tiêu sẽ quyết định quy mô của tổ chức. Các thể chế xuyên biên

giới cần phải có sự linh hoạt để thích ứng Việc điều chỉnh các Hiệp định và

thay đổi các tổ chức chính thức là không dễ, do đó chúng cần phải được thiết

kế để có thể giải quyết được những biến động không lường trước về thông tin,

hoàn cảnh và các ưu tiên có thể xảy ra trong tương lai. Thách thức này chỉ có

thể được giải quyết bằng việc xây dựng khả năng linh hoạt cho tổ chức. Bảo

đảm nguồn lực về con người và tài chính thích hợp là một thách thức lâu dài

Một số tổ chức có thể gắn kết trực tiếp nguồn tài chính của họ với việc phát

triển và vận hành các tài sản kinh tế như các con đập; một số khác thì khó

khăn hơn. Duy trì một quy mô thích hợp kết hợp nâng cao năng lực con người

là vấn đề phức tạp khi mà bối cảnh điều kiện, kiến thức và các ưu tiên thay

đổi rất nhanh chóng.

1.3.2.3. Thực hiện quản lý hợp tác nước xuyên biên giới

Việc thực hiện không chỉ đơn thuần là tuyên bố các nguyên tắc và quy

định. Nhìn chung, việc thực hiện các thỏa thuận quốc tế được xác định là các

hoạt động mà các bên liên quan thực hiện để hoàn thành các nghĩa vụ và để

đạt được những mục tiêu và mục đích của điều ước quốc tế, ví dụ như chuyển

hóa các thỏa thuận thành luật quốc gia, thành lập các tổ chức phù hợp và thực

thi tuân thủ. Quản trị là yêu cầu tiên quyết để thực hiện quản lý nước xuyên

biên giới Để thực hiện hiệu quả đòi hỏi cam kết thực sự của các chính phủ và

các bên liên quan và một sự cân bằng khó khăn giữa theo đuổi tinh thần và

các nghĩa vụ cụ thể của các thỏa thuận quốc tế trong khi vẫn phải phát triển

24

các phương thức hoạt động và thích ứng với hoàn cảnh thay đổi. Quá trình

thực hiện cần được hướng dẫn bởi kiến thức và sự tham gia Kiến thức và sự

tham gia sẽ xây dựng niềm tin, quyền sở hữu và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các

bên tham gia - các giá trị này không thể bị phóng đại. Chúng giúp xác định

các mục tiêu, tăng cường hiệu quả, xóa bỏ các xung đột và duy trì sự hợp tác

quản lý nước xuyên biên giới. Quản lý thích ứng cho phép sự linh hoạt trong

quản lý nguồn nước xuyên biên giới Các quá trình quản lý thích ứng - liên

quan đến việc trao đổi thông tin, rà soát và đánh giá lại một cách liên tục - có

ý nghĩa quan trọng trong việc quản lý nước xuyên biên giới trong bối

1.4. Sông Mê Công - lợi ích quốc gia - dân tộc Lào, mối quan tâm chung

của các nước trong khu vực

1.4.1. Tầm quan trọng của sông Mê Công đối với 6 quốc gia trong lưu vực

Do sức ép của phát triển kinh tế, thiếu sự đồng thuận về lựa chọn chiến

lược phát triển bền vững, các nước trong lưu vực đã và đang khai thác triệt để

các nguồn lợi từ hệ thống sông Mê Công nhằm phục vụ các ưu tiên phát triển

của mình. Hoạt động phát triển kinh tế thiếu bền vững đã làm hình thái của

sông Mê Kông thay đổi mạnh mẽ, đặc biệt sau những năm 1980. Theo đó,

hàng ngàn hồ chứa, đập dâng, trạm bơm đã được xây dựng trên các dòng

nhánh để sản xuất thủy điện, lấy nước phục vụ tưới tiêu và các nhu cầu khác

của phát triển kinh tế. Phía thượng nguồn dòng chính, Trung Quốc đã và đang

xây dựng 8 đập thủy điện với quy mô công suất lớn. Ở hạ nguồn, 12 đập thủy

điện bậc thang cũng đang được đệ trình xây dựng, chưa kể các dự án chuyển

nước từ sông Mê Kông về vùng Đông Bắc phục vụ cho sản xuất nông nghiệp

của Thái Lan đã được bàn luận đến trong nhiều năm qua. Việt Nam cũng phát

triển tối đa hệ thống thủy lợi nhằm đáp ứng nhu cầu về nguồn nước cho hoạt

động sản xuất nông nghiệp, thủy sản, định cư và giao thông thủy. Tất cả

những kiến tạo đó đã, đang và sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến sông Mê Công và

các hệ sinh thái trong lưu vực về nguồn nước, phù sa và sự sinh tồn của các

loài thủy sản.

25

ĐBSCL được đánh giá là vùng sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ các

hoạt động phát triển kinh tế thiếu bền vững ở thượng nguồn. Cùng với tác

động của biến đổi khí hậu, chiến lược phát triển trên hệ thống sông Mê Kông

của các quốc gia trong lưu vực sẽ đặt ĐBSCL trước một thách thức lớn trong

việc duy trì nguồn nước, phù sa và nguồn lợi thủy sản nhằm đảm bảo duy trì

hệ sinh thái đất ngập nước, năng xuất sản xuất nông nghiệp và sinh kế của

hơn 18 triệu người sinh sống trong vùng.

Nhận thức được tầm quan trọng của dòng Mê Công đối với tương lai

phát triển của khu vực, năm 1995, Việt Nam cùng Campuchia, Lào và Thái

Lan đã ký kết Hiệp định Mê Kông về hợp tác phát triển bền vững lưu vực

sông Mê Kông. Các nguyên tắc cơ bản của Hiệp định này là các đề xuất phát

triển trên dòng chính sông Mê Công của các quốc gia thành viên phải được

thông qua cơ chế tham vấn, thông báo trước và minh bạch thông tin. Theo đó,

chính phủ các quốc gia trong lưu vực phải hợp tác chặt chẽ với nhau, cùng đối

thoại, trao đổi với các bên liên quan trong nội bộ mỗi nước như chính quyền

và nhân dân địa phương để tìm tiếng nói chung cho các quyết định phát triển.

Trong bối cảnh đó, với vai trò là một bên tham gia quan trọng, các tổ chức xã

hội dân sự Việt Nam nói chung và ở khu vực ĐBSCL nói riêng cần được

cung cấp thông tin, tăng cường hiểu biết, thực hiện các đánh giá độc lập để có

thể tham gia mạnh mẽ hơn đối với các chiến lược, kế hoạch phát triển trên hệ

thống sông Mê Kông, nhằm góp phần bảo vệ lợi ích cộng đồng, quốc gia và

sự phát triển hài hòa trong lưu vực. Đây là những lý do chính mà PanNature

tổ chức Hội thảo tập huấn “Chiến lược phát triển trên hệ thống sông Mê

Công: Bối cảnh, tác động và các chính sách thích ứng” [24,26].

Hội thảo được tổ chức trong hai ngày 22 - 23 tháng 6 năm 2012 tại thành

phố Cần Thơ. Với những người Lào có học hiểu biết, họ thấy được tiềm năng

thiên nhiên phong phú của đất nước Lào, giới lãnh đạo thế hệ mới ở Lào nuôi

tham vọng khai thác tiềm năng thuỷ điện con sông Mê Công để mong sao biến

xứ Lào thành “Bình Điện Đông Nam Á/ the battery of Southeast Asia”.

26

Những ai có theo dõi các bước khai thác thủy điện của Lào sẽ nhận ra

ngay rằng không phải Tổng thống, Thủ tướng hay Ngoại trưởng Lào, nhưng

là một tên tuổi khác, Viraphonh Viravong, nổi bật là trí tuệ của đất nước Lào.

Viraphonh Viravong trong suốt hơn ba thập niên qua đã có những nỗ lực bền

bỉ và kiên định với giấc mơ canh tân, biến đất nước Lào trở thành một xứ

“Kuwait về thủy điện của Đông Nam Á” [23].

1.4.2. Lợi ích quốc - dân tộc của CHDCND Lào

Là nước đang phát triển ở giai đoạn đầu, CHDCND Lào rất cần thiết

phải phát triển đột phá từ khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt

là nguồn tài nguyên nước sông Mê Công trên lãnh thổ của Lào. Điều đó cũng

dễ hiểu, vì Lào là nước không có biển, nhưng lại chiếm 25% diện tích lưu vực

và 35% tông diện tích dòng chay phát sinh từ bên ngoài và phát sinh trên lãnh

thổ chủ yếu là nước mặt, nước ngầm liên quan tới điều tiết của nước mặt dòng.

Dựa vào nguồn tài nguyên nước đó, lợi ích quốc gia dân trộc Lào khao

khát trở thành quốc gia xuất khẩu năng lượng thủy điện. Trong giai đoạn 2010

- 2010, Lào đã triển khai 11 DA thủy điện với tổng công suất 1.773 W, trong

đó có các DA lớn thuỷ điện Xayabury (1285 W) và Pak Beng (1230 W).

Việc triển khai các DA thủy điện nói trên gây tranh cãi khá gay gắt với

các nước láng giềng Thái Lan, Campuchia, Việt Nam. Đây không còn là tranh

luận mà vấn đề thực tế. Với Campuchia, lưu lượng nước Biển Hồ giảm mạnh,

khiến đời sống dân cư sông trên hồ gặp nhiều khó khăn, trong đó cư dân có

nguồn gốc từ Việt Nam. ĐBSCL Việt Nam đang đứng trước nguy cơ sạt lở,

mất hẳn mùa lũ hiền hòa, cạn kiệt nguồn thủy sinh quí giá, hiện tượng xâm

nhập mặc ngày càng nghiêm trọng. Cho dù ngoài nguyên nhân do biến đổi khi

hậu toàn cầu mà Việt Nam là một trong 5 quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề,

thì nguyên nhân suy giảm dòng chảy liên quan tới nước sông Mê Công là sự

thật. Trước tình hình đó, MRC vào cuộc, nhưng cũng chỉ ở mức khuyến nghị,

chứ không thể đi xa hơn (!?)

27

Đã đến lức các quốc gia thành viên GMS, trong đó có Lào phải tính tới

sự chia sẻ hài hòa lợi ích quốc gia dân tộc với lợi ích của các nước láng giềng,

đặc biệt là Campuchia và ĐBCL Việt Nam.

1.4.3. Sự quan tâm chung của các quốc gia GMS

Tại tiểu vùng GMS, sông Mê Công-Lan Thương là con sông dài thứ 12

trên thế giới và thứ 7 ở châu Á. Với chiều dài khoảng 4.350 km, sông bắt

nguồn từ vùng núi cao tỉnh Thanh Hải (Trung Quốc) rồi đến Myanmar, Lào,

Thái Lan, Campuchia và Việt Nam. Thủ tướng cho rằng, tên gọi “Mê Công”,

mang ý nghĩa là “mẹ của nước”, dòng sông Mê Công hùng vĩ đã gắn kết chặt

chẽ và là không gian sinh tồn chung của chúng ta.[1,2,23].

Lưu lượng nước sông Mê Công hàng năm là 475 tỉ m3 đứng hàng thứ 8

thế giới với hơn 100 chi lưu và phụ lưu lớn nhỏ đổ vào dòng Mê Công. Đây là

địa bàn cư trú của 320 triệu dân với nền văn hoá đa dạng, đa sắc tộc. Lưu vực

sông Mê Công khuôn khổ hợp tác các quốc gia Đông Nam Á, có tên gọi là

Tiểu vùng Mê Công mở rộng ( tiếng Anh là GMS).

GMS giàu tài nguyên thiên nhiên, văn hoá và nhân văn, nhưng nhìn

chung đây còn là vùng nghèo, chậm phát triển ở khu vực Đông Nam Á, cơ sở

hạ tầng yếu kém, từng bị các cuộc chiến tranh kéo dài tàn phá, trình độ phát

triển rất chênh lệch giữa các quốc gia và các địa phương.

Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc cho rằng, trong lịch sử phát

triển của nhân loại và của mỗi quốc gia - dân tộc, các dòng sông luôn có ý

nghĩa đặc biệt. Những dòng sông lớn ở khu vực như sông Trường Giang, sông

Hằng, sông Mê Công-Lan Thương, sông Hồng, sông Ayeyawady, sông Chao

Phraya là những dòng chảy mang đến sinh kế cho người dân, gắn kết văn hoá,

thúc đẩy giao lưu và giao thương giữa các cộng đồng và khu vực.

Thủ tướng nhấn mạnh, các dòng sông khu vực và sông Mê Công-Lan

Thương là mạch nguồn gắn kết, là sợi dây kết nối bền chặt đến muôn đời của

các quốc gia, người dân 6 nước tiểu vùng, đòi hỏi các nước phải cùng nhau nỗ

28

lực gìn giữ hòa bình, hợp tác phát triển nhằm đưa tiểu vùng trở thành một khu

vực hội nhập, phát triển bền vững và thịnh vượng. Đây cũng là chủ đề của

Hội nghị Thượng đỉnh GMS-6 nhân dịp kỉ niệm 25 năm thành lập cơ chế hợp

tác này.

Thủ tướng cũng chia sẻ về ấn tượng khi dự triển lãm ảnh 25 năm hợp

tác GMS chiều nay, tại đó, “chúng ta đã chứng kiến những bức tranh phát

triển sống động của người dân trên khắp khu vực”. Sự cần cù, chịu khó, sáng

tạo, nỗ lực vươn lên không ngừng của người dân các nước GMS, hoà cùng

với sức sống vĩ đại của dòng sông Mê Công-Lan Thương là động lực phát

triển to lớn của tất cả chúng ta.

Trách nhiệm của các Chính phủ là làm sao để kiến tạo được môi trường

phát triển, phát huy được nguồn lực to lớn đưa quốc gia vào con đường phát

triển bền vững, Thủ tướng nêu rõ.

Bằng sự nỗ lực của các nước thành viên và sự hỗ trợ của ADB, GMS

đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Từ năm 1992 đến 2006, tổng xuất

khẩu của các nước thành viên GMS tăng 4 lần so với trước. Năm 2005 nội

tiểu vùng đã tăng 15 lần so với năm 1992, đầu tư nước ngoài tăng từ 3 tỉ USD

lên 7 tỉ USD. Số khách du lịch nước ngoài vào tiểu vùng tăng từ 10 triệu

(1995) lên 22 triệu (2006) [16].

Hợp tác phát triển cơ sở hạ tầng giao thông được coi là lĩnh vực ưu tiên

hàng đầu và tập trung vào 3 hành lang kinh tế chủ yếu.

Thứ nhất: Hành lang kinh tế Đông - Tây (EWEC), dài 1450 km, đầu

cầu phía đông tính từ thành phố cảng Đà nẵng, Thừa Thiên - Huế, Quảng

Trị(Việt Nam) qua Savanakhet (Lào), Thái Lan và kết thúc tại đầu phía tây tại

thành phố cảng Mawlamyine (Mianmar). Năm 2007, với việc khánh thành

cây cầu quốc tế thứ hai qua sông Mê Công, giao thông đường bộ của EWEC

đã thông suốt và EWEC thực sự trở thành hành lang đi vào hoạt động trong

khuôn khổ GMS.

29

Thứ hai: Hành lang kinh tế Bắc - Nam (NSEC), gồm 3 tuyến dọc theo

trục Bắc - Nam là Côn Minh - Chiềng Mai - Băng Cốc / Côn Minh - Hà Nội -

Hải Phòng/ Nam Ninh - Hà Nội. NSEC hoàn thành năm 2020.

Thứ ba: Hành lang kinh tế phía Nam(SEC), gồm 3 tuyến đường nối

Nam Thái Lan qua Campuchia với Việt Nam. Theo quy hoạch dự kiến SEC đi

vào hoạt động từ năm 2012 - 2020.

Nhìn tổng thể, các nước trong khu vực chịu sự ràng buộc bởi một hệ

thống các mối quan hệ không gian lưu vực.

Hội nghị GMS các nhà lãnh đạo đã đối thoại với Diễn đàn thanh niên;

gặp gỡ thành viên Diễn đàn kinh doanh đầu tư GMS.

Trong lịch sử phát triển của nhân loại và của mỗi quốc gia - dân tộc,

các dòng sông luôn có ý nghĩa đặc biệt. Những dòng sông lớn ở khu vực như

sông Trường Giang, sông Hằng, sông Mê Công - Lan Thương, sông Hồng,

sông Ayeyawady, sông Chao Phraya là những dòng chảy mang đến sinh kế

cho người dân, gắn kết văn hoá, thúc đẩy giao lưu văn hóa, chính trị và giao

thương giữa các cộng đồng và khu vực.

Các dòng sông khu vực và sông Mê Công-Lan Thương là mạch nguồn

gắn kết, là sợi dây kết nối bền chặt đến muôn đời của các quốc gia, người dân

6 nước tiểu vùng, đòi hỏi các nước phải cùng nhau nỗ lực gìn giữ hòa bình,

hợp tác phát triển nhằm đưa tiểu vùng trở thành một khu vực hội nhập, phát

triển bền vững và thịnh vượng.

Tại Diễn đàn, các nước GMS đã thể hiện tầm nhìn, ưu tiên phát triển

của mỗi nước cũng như đối với toàn khu vực, chia sẻ với các nhà đầu tư, đối

tác phát triển về các tiềm năng hợp tác kinh tế, kết nối các nhà đầu tư, doanh

nghiệp và Chính phủ của các nước. Trách nhiệm của các Chính phủ là làm

sao để kiến tạo được môi trường phát triển, phát huy được nguồn lực to lớn

đưa quốc gia vào con đường phát triển bền vững [16].

30

1.4.4. Mối quan tâm chung giữa của các định chế quốc tế, các tổ chức quốc

tế và các quốc gia ngoài vùng

1.4.4.1. Các định chế tài chính quốc tế, đặc biệt là ADB

Đối với những sông lớn, kể cả sông quốc gia và quốc tế, khi khai thác

các lợi ích, thường xuất hiện những khác biệt, thậm chí xung đột giữa vùng

đầu nguồn và cuối nguồn, giữa yêu cầu bảo vệ môi sinh và xây dựng công

trình, giữa các mục tiêu dùng nước (tưới tiêu, phát điện, giảm nhẹ lũ lụt và

hạn hán...). Vì vậy, sự hợp tác của các quốc gia ven sông là rất quan trọng vì

mục tiêu phát triển về kinh tế và bền vững về môi trường của lưu vực. Vì là

sông lớn trên thế giới với những giá trị về môi trường tự nhiên và đa dạng

sinh học, cũng là nơi có sản lượng hàng hoá lớn góp phần giữ gìn an ninh

lương thực thế giới, nên sông Mê Công được các nước và các tổ chức quốc tế

rất quan tâm.

Bảng 1.1. Các bậc thang thuỷ điện trên sông Lan Thương (Trung Quốc)

Công suất lắp Dung tích hồ Chiều cao Tên nhà máy Ghi chú máy (MW) (tỉ m3) đập (m)

Đã xong 130 750 0.51 Gonggugiao

Đã xong 292 4200 14.55 Tiểu Loan

Đang làm 126 1250 0.92 Mã Loan

Đã xong 110 1350 0.96 Da Chao San

Dự kiến 254 5000 22.40 Nuo Zha Du

Đã xong 118 1500 1.04 Cảnh Hồng

Dự kiến 150 Gan Lan Ba

Dự kiến 600 Meng Song

Nguồn: [25]

31

Từ 1957, bắt đầu thực hiện hợp tác giữa bốn quốc gia Campuchia, Lào,

Thái Lan và Việt Nam nhằm phối hợp nghiên cứu lưu vực Hạ Mê Công. Năm

1955, Hiệp định hợp tác phát triển bền vững lưu vực sông Mê Công được kí

kết, Uỷ hội Mê Công (Mê Công River Commission - MRC) được thành lập.

MRC đã làm được nhiều việc, tiến hành nhiều khảo sát, nghiên cứu dòng

chảy, xã hội, môi trường, dự thảo quy hoạch sử dụng nước, giảm nhẹ lũ,... và

ban hành một số thoả thuận về đảm bảo dòng chảy cùng với những qui định

thủ tục tham khảo lẫn nhau khi tiến hành các dự án.

Tuy nhiên, những thảo luận kéo dài về phát triển thuỷ điện và gìn giữ

môi trường, duy trì dòng chảy xuống hạ du ngày càng trở nên khó khăn.

Trung Quốc và Myanmar không tham gia MRC. Một khi triển khai nhiều DS

thủy điện trên sông Lan Thương, Trung Quốc sẽ tác động mạnh tới nhiều mặt

trong sử dụng nguồn nước Mê Công. (Bảng 1.1 /1.2).

Có thể nói thế giới rất quan tâm đến sông Mê Công. Cho đến nay, hoạt

động của Uỷ hội tuy có bốn thành viên chính, nhưng có rất đông các nước tài

trợ, trong đó có Mỹ, Nhật Bản, các nước Châu Âu, các tổ chức tài chính quốc

tế, đặc biệt là ADB. Những nước này cung cấp kinh phí nhiều cho các dự án ở

sông Mê Công, các chuyên gia quốc tế đến làm việc về sông Mê Công rất

nhiều. Điều đó thể hiện mối quan tâm quốc tế. Bên cạnh đó, theo quy định

của Hiệp định Chiang Rai thì tổng thư ký của Ban thư ký MRC phải là người

ngoài bốn nước thành viên, nhằm đảm bảo tính khách quan. Chức vụ này

trong mấy khoá gần đây đều là người của các nước Châu Âu, hiện nay là một

người Anh. Rõ ràng, Mỹ đã thể hiện sự quan tâm lớn đến Mê Công. Điều này

đưa vấn đề hợp tác ở sông Mê Công lên một tầm mới, đó là hợp tác tổng thể

hơn, giữa các nước ở hạ nguồn và Trung Quốc ở thượng nguồn.

1.4.2.2. Sự quan tâm của Mỹ qua Sáng kiến Hạ nguồn sông Mê Công

Ngoại trưởng Hoa Kì Hillary Clinton công bố chính thức lần đầu tiên

tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN tháng 7/2009 tại Puket, Thái Lan về LMI.

Mục đích của sáng kiến là đẩy mạnh hợp tác, trợ giúp về môi trường, y tế,

32

giáo dục và cơ sở hạ tầng của Hoa Kỳ đối với các nước thuộc khu vực hạ

nguồn sông Mê Công (gồm Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam). Mục

tiêu địa chính trị của sáng kiến này, đồng thời là một trong những trọng tâm

trong chính sách “Trở lại Đông Nam Á” của Hoa Kỳ, là nhằm cân bằng ảnh

hưởng chiến lược bên ngoài đối với khu vực Đông Nam Á.

Ngày 14 tháng 9 năm 2012 tại Manila - Philippin, sáu quốc gia thành

viên tiểu vùng Mê - Công mở rộng (GMS) kỉ niệm 20 năm hợp tác kinh tế,

khu vực này một thời từng đầy những xung đột nay trở thành một hình mẫu

Châu Á tăng trưởng, xoá đói giảm nghèo và hợp tác khu vực.

Bảng 1.2. Tỉ lệ diện tích lưu vực và lưu lượng nước sông Mê Công

Tỉ lệ % Lãnh thổ Tỉ lệ % lượng nước diện tích

21 Trung Quốc 16 Thượng nguồn 3 Mianma 2

25 Lào 35

23 Thái Lan 18

Hạ Nguồn Campuchia 20 18

8 Việt Nam 11

Toàn lưu vực 100 100

Nguồn: [25]

Ông Stephen Groff, phó Chủ tịch Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB)

phụ trách khu vực Đông Á, Đông Nam Á và Thái Bình Dương cho biết:

“Chương trình GMS biến đổi một tiểu vùng từng bị cô lập một thời thành một

hình mẫu hội nhập kinh tế. Nếu các quốc gia trong GMS tiếp tục tăng cường

hợp tác, thì tương lai sẽ là một tiểu vùng hội nhập, thịnh vượng và hài hoà tại

tâm điểm của châu lục năng động nhất thế giới”.

Trải qua hai thập kỉ, Chương trình GMS đã đầu tư khoảng 15 tỉ USD

vào các dự án về đường xá, sân bay và đường sắt, điện, cơ sở hạ tầng du lịch

33

và phòng tránh dịch bệnh lây truyền của tiểu vùng, với tổng số tiền đóng góp

của ADB lên tới hơn 5 tỉ USD.

Tại SOM - GMS-6 vào tháng 3 / 2018 vừa qua, lãnh đạo các quốc gia

thành viên đã thông qua một kế hoạch chiến lược mới cho thập kỉ tiếp theo.

Kế hoạch này sẽ phát huy những thành tựu về cơ sở hạ tầng trong khi chú

trọng hơn nữa vào các vấn đề thể chế, chính sách và pháp lý để giải phóng

tiềm năng to lớn của khu vực về thương mại và đầu tư, đồng thời giúp tăng

trưởng toàn diện hơn và bền vững hơn về môi trường khi phải đối mặt với vấn

đề gia tăng khoảng cách trong phát triển về thịnh vượng.

Các quốc gia thành viên GMS6 là Campuchia, CHDCND Lào,

Myanmar, Thái Lan, Việt Nam, và CHND Trung Hoa (tập trung vào các tỉnh

Vân Nam và Khu tự trị Quảng Tây). Ngoài ra, Nhật Bản cũng quan tâm đến

sông Mê Công từ lâu. Nhật Bản vẫn tiếp tục có quan tâm hợp tác ở cấp Mê

Công - Nhật Bản. Đặc biệt Chiến lược Tokyo 2012, được coi là cú hích để

hợp tác Mê Công - Nhật Bản bước vào giai đoạn mới, dựa trên ba trụ cột

gồm: tăng cường kết nối giao thông trong khu vực Mê Công thu hẹp khoảng

cách phát triển trong lưu vực/đảm bảo an ninh con người và môi trường bền

vững. Sở dĩ có mối quan tâm lớn của các nước ngoài khu vực là do:

Thứ nhất, Mê Công là con sông lớn thứ 11 trên thế giới, là sông lớn

nhất Đông Nam Á. Ở đây có nhiều nguồn lợi, không chỉ mang tính khu vực

mà còn vượt ra ngoài phạm vi rộng hơn. Và người ta đang lo ngại, chẳng hạn

như Đồng bằng sông Cửu Long là nơi cung cấp lúa hàng hoá lớn nhất thế

giới. Và các biến động như hiện nay thì an ninh lương thực có nguy cơ bị đe

doạ, trên phạm vi toàn cầu. Như vậy, nguồn cung lương thực chắc chắn sẽ ảnh

hưởng chung đến các nước trên thế giới.

Thứ hai, là về môi trường, nếu một dòng sông chết do xây dựng các

đập thuỷ điện trên dòng chính của sông đi thì sẽ không phải là thiệt hại riêng

của một nước nào. Thực ra vấn đề này đã được đặt ra từ lâu, nhất là ở thượng

34

nguồn, phía Trung Quốc. Trung Quốc đã bắt tay vào xây dựng các công trình

thuỷ điện trên thượng nguồn từ rất lâu rồi, khoảng 20 năm nay. Từ đó đến nay

đã có rất nhiều ý kiến cảnh báo và phản đối. Tuy nhiên, phía Trung Quốc vẫn

đang triển khai khẩn trương. Theo kế hoạch, Trung Quốc sẽ xây 14 đập thuỷ

điện ở thượng nguồn sông Mê Công, hiện đã hoàn thành bốn, trong đó có hai

đập lớn là Tiểu Loan và Cảnh Hồng. Hiện Trung Quốc đang thi công tiếp bốn

đập và chuẩn bị cho các đập còn lại [Bảng 1.1].

35

Tiểu kết chương 1

Nước sông Mê Công là nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng đối với

các nước trong lưu vực, đặc biệt các quốc gia hạ nguồn: Lào, Thái Lan,

Camphuchia, Lao, ĐBBCL Việt Nam. Vì mục tiêu sử dụng bền vũng nguồn

tài nguyên nước sông Mê Công, các quốc gia trong khu vực cần thiết phải

nghiên cứu Chiến lược sử dụng nguồn nước trên cơ sở chia sẻ công bằng lợi

tích hài hòa trong quản lí nguồn nước xuyên biên giới theo các Công ước

quốc tế, Khuyến nghị của IUCN, đặc biệt là tinh thần Hội nghị SOM GMS-6

và Hội nghị Thượng đỉnh MRC quốc tế vừa qua tổ chức tại Hà Nội - Việt

Nam, Xiêm Riệp - Campuchia. Trong sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê

Công phải tôn trọng lợi ích quốc ga dân tộc của CHDCND Lào, có tính tới sự

quan tâm của các quốc gia và Tổ chức quốc tế, trong đó có ADB. Lưu vực

sông Mê Công là không gian sống của chúng ta. Lợi ích sử dụng sông Mê

Công phải dựa trên cơ sở chia sẻ hài hòa, kết nối, kiến tạo mô hình hợp tác và

phát triển.

36

Chương 2

ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG SỬ DỤNG BỀN VỮNG TÀI NGUYÊN

NƯỚC SÔNG MÊ KÔNG CỦA CHDCND LÀO

2.1. Đánh giá khái quát về điều kiện tự nhiên - xã hội CHDCND Lào

2.1.1. Đánh giá về điều kiện tự nhiên và môi trương tự nhiên

Lào là quốc gia nội lục duy nhất tại Đông Nam Á [28], hầu hết lãnh thổ

nắm giữa vĩ độ 14° và 23° Bắc, và kinh độ 100° và 108° Đông. Lào có cảnh

quan rừng rậm, hầu hết là các dãy núi gồ ghề, đỉnh núi cao nhất là Phou

Bia cao 2.818 m, cùng một số đồng bằng và cao nguyên. Sông Mê Công tạo

thành một đoạn dài biên giới phía tây với Thái Lan, còn dãy Trường Sơn tạo

thành hầu hết biên giới phía đông với Việt Nam, dãy núi Luangprabang tạo

thành biên giới tây bắc với các vùng cao Thái Lan. Có hai cao nguyên là

Xiangkhoang tại phía bắc và Bolaven tại phía nam. Lào có khí hậu nhiệt đới,

chịu ảnh hưởng của gió mùa. Lào có thể được phân thành ba khu vực địa lý:

bắc, trung và nam.

Mùa mưa riêng biệt và kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11, tiếp đến là mùa

khô kéo dài từ tháng 12 đến tháng 4. Theo truyền thống địa phương, một năm

có ba mùa là mùa mưa, mùa lạnh và mùa nóng, do hai tháng cuối của mùa

khô nóng hơn đáng kể so với bốn tháng trước đó. Thủ đô của Lào

là Vientiane, các thành thị lớn khác là Luang Prabang, Savannakhet và Pakse.

(Phụ lục 1).

Nổi lên trên nền địa lí tự nhiên của đất nước Lào là sông Mê Công.

Người lao đặt tên sông này là sông Mẹ / Mẹ sông. Hầu như toàn bộ lãnh thổ n

ước Lào năm trong lưu vực sông Mê Công [Hình 2.1 / 2.2]. [Phục lục 1].

37

Trong một công bố gần đây, các nhà khoa học cùng với Ủy ban sông

Mê Công (MRC) đã có nhiều câu trả lời về giá trị kinh tế do dòng sông dài

thứ 12 thế giới này đem lại. Theo đó, chỉ riêng giá trị thủy sản được đánh bắt

từ hạ lưu sông Mekong đã lên tới 17 tỷ USD một năm, góp 3% vào tổng GDP

của nhóm các nước Việt Nam, Campuchia, Lào, và Thái Lan. Bản tin thủy

sản của MRC đã đưa ra ước tính này dựa vào số liệu đánh bắt cá hàng năm

khoảng 4,4 triệu tấn.

Nếu so với tổng giá trị đánh bắt thủy sản toàn cầu của năm 2015 là 130

tỷ USD, thì sông Mê Công đang chiếm tới 13%.

Theo báo cáo này, Việt Nam đang thu về 5,74 tỷ USD từ thủy sản trên

sông Mekong, tương đương 3,1% GDP cả nước. Thái Lan thì nhận được 6,72

tỷ USD, tương đương 1,8% GDP nước này.

Đối với các nền kinh tế nhỏ, đóng góp của sông Mê Công càng trở nên

quan trọng. Đối với Lào, việc đánh bắt thủy sản được dự đoán sẽ mang về

1,51 tỷ USD, chiếm khoảng 12,8% GDP.

Có một yếu tố đáng chú ý là sự phát triển mạnh mẽ của ngành nuôi

trồng thủy sản tại lưu vực sông Mê Công, nhanh gấp 3 lần so với tốc độ tăng

trưởng bình quân toàn cầu của ngành này. Theo dự kiến, ngành thủy sản tại

Mê Công sẽ mang lại nguồn thu 5,8 tỷ USD trong năm 2015, so với mức 4,8

tỷ của năm 2010.

Nhìn chung, sản lượng cá đến từ hoạt động nuôi thủy sản toàn cầu được

dự báo sẽ vượt qua sản lượng đánh bắt vào năm 2023. Điều đó không chỉ giúp

tái định hướng cho ngành công nghiệp thủy sản mà còn góp phần cải thiện

cuộc sống của hàng triệu ngư dân và nông dân.

38

Hình 2.1. Bản đồ lưu vực sông Mê Công Nguồn: [8]

39

Hình 2.2. Sơ đồ dòng chảy sông Mê Công - Lan Thương Nguồn: [28]

40

2.1.2. Cư dân, văn hóa, xã hội

Dân số Lào ước tính đạt 7.5 triệu người vào năm 2016, phân bổ không

đều trên lãnh thổ. Hầu hết dân chúng sống tại các thung lũng của sông Mê

Công và các chi lưu của nó. Thủ đô Vientiane có 740 nghìn cư dân vào năm

2008. Mật độ dân số Lào đạt 27/km2. Cư dân Lào thường được phân chia theo

độ cao, gần tương ứng với dân tộc [14].

Hơn một nửa dân số (60%) là người Lào, chiếm phần lớn cư dân vùng

thấp, họ là dân tộc chiếm ưu thế về chính trị và văn hoá tại Lào. Người Lào

thuộc nhóm ngôn ngữ Thái, họ bắt đầu di cư từ Trung Quốc về phía nam vào

thiên niên kỉ 1. 10% dân số là các nhóm vùng thấp khác, họ cùng với người

Lào hợp thành Lào Loum. Tại vùng núi miền trung và miền nam, các bộ lạc

Môn-Khmer gọi chung là Lào Theung, hay Lào vùng giữa, chiếm ưu thế. Họ

từng là cư dân bản địa tại miền bắc Lào. Một số người Việt, Hoa và Thái vẫn

ở lại, đặc biệt là tại các đô thị, song nhiều người dời đi khi Lào độc lập vào

cuối thập niên 1940, nhiều người trong số họ tái định cư tại Việt Nam, Hồng

Kông hay sang Pháp. Lào Theung chiếm khoảng 30% dân số. Các dân tộc

vùng cao như H'Mông, Dao, Shan, và một số dân tộc Tạng-Miến sống trong

các khu vực cô lập tại Lào trong thời gian dài. Các bộ lạc vùng đồi núi có

nguồn gốc hỗn hợp về dân tộc/văn hoá-ngôn ngữ tại miền bắc Lào bao gồm

người Lua và người Khơ Mú, họ là dân tộc bản địa của Lào. Các dân tộc này

được gọi chung là Lào Soung hay Lào vùng cao. Người Lào Soung chiếm

khoảng 10% dân số.

Ngôn ngữ chính thức và chi phối tại Lào là tiếng Lào, đây là một ngôn

ngữ có thanh điệu thuộc nhóm ngôn ngữ Thái. Tuy nhiên, chỉ hơn một nửa

dân chúng nói tiếng Lào bản ngữ, phần còn lại nói các dân tộc thiểu số, đặc

biệt là ở nông thôn. Chữ cái Lào tiến triển trong khoảng giữa thế kỉ XIII và

XIV, bắt nguồn từ chữ viết Khmer cổ và tương đồng với chữ Thái Lan. Ngoài

ra, còn có các ngôn ngữ thiểu số như Khơ Mú và Mông, đặc biệt là tại vùng

giữa và vùng cao.

41

67% người Lào là tín đồ Phật giáo Thượng toạ bộ, 1,5% là tín đồ Cơ

Đốc giáo, và 31,5% theo các tôn giáo khác hoặc không xác định[48] theo điều

tra nhân khẩu năm 2005. Phật giáo từ lâu đã là một thế lực xã hội quan trọng

tại Lào. Phật giáo Thượng toạ bộ tồn tại hoà bình với thuyết đa thần địa

phương từ khi được truyền bá đến.

Tuổi thọ dự tính khi sinh của nam giới Lào là 60,85 năm, còn của nữ

giới là 64,76 năm tính đến 2012. Tuổi thọ triển vọng khoẻ mạnh là 54 năm

vào năm 2007. Năm 2008, 43% dân số không được tiếp cận nguồn nước vệ

sinh, song con số này giảm còn 33% vào năm 2010.

Tỉ lệ biết chữ của người thành niên tại Lào vượt quá hai phần ba. Tỉ lệ

biết chữ của nam giới cao hơn của nữ giới. Tỉ lệ biết chữ đạt 73% theo ước

tính vào năm 2010. Năm 2004, tỉ lệ nhập học tiểu học đạt 84%. Đại học Quốc

gia Lào là đại học công lập, thành lập vào năm 1996.

Phật giáo Thượng toạ bộ có ảnh hưởng chi phối trong văn hoá Lào,

được phản ánh trên khắp đất nước từ ngôn ngữ trong chùa và trong mỹ thuật,

văn học, nghệ thuật trình diễn. Nhiều yếu tố trong văn hoá Lào có trước khi

Phật giáo truyền đến, chẳng hạn như âm nhạc Lào do nhạc cụ dân tộc là khèn

chi phối, nó có nguồn gốc từ thời tiền sử. Tiếng khèn theo truyền thống đi

kèm với người hát theo phong cách dân gian lam. Trong các phong

cách lam, lam saravane có lẽ được phổ biến nhất.

Gạo nếp là một loại lương thực đặc trưng và có ảnh hưởng văn hoá và

tôn giáo đối với người Lào. Gạo nếp thường được ưa chuộng hơn gạo nhài, và

trồng lúa nếp được cho là bắt nguồn tại Lào. Tồn tại nhiều truyền thống và

nghi lễ liên quan đến sản xuất lúa trong các môi trường khác nhau và trong

nhiều dân tộc. Chẳng hạn, các nông dân Khơ Mú tại Luang Prabang trồng loại

lúa Khao Kam với số lượng nhỏ gần lều để tưởng nhớ cha mẹ đã mất, hoặc tại

góc ruộng để thể hiện cha mẹ vẫn sống.

42

Sinh là một loại trang phục truyền thống mà nữ giới Lào mặc trong sinh

hoạt thường nhật. Đây là một loại váy lụa dệt tay, có thể nhận diện nữ giới

mặc nó theo nhiều cách, chẳng hạn như khu vực xuất thân.

Đa thê là một tội tại Lào theo pháp luật, song hình phạt ở mức thấp, và

đa thê vẫn phổ biến trong người H'Mông.

2.2. Thực trạng phát triển kinh tế

2.2.1. Đánh giá chung

Kinh tế Lào phụ thuộc nhiều vào đầu tư và thương mại với các nước

láng giềng. Năm 2009, dù Lào về chính thức vẫn là nhà nước cộng sản, song

chính quyền Obama tuyên bố Lào không còn là nước Marx-Lenin và bỏ lệnh

cấm các công ti Lào nhận tài chính từ Ngân hàng Xuất nhập khẩu Hoa Kỳ

(Ex-Im Bank) Năm 2011, Sở Giao dịch Chứng khoán Lào bắt đầu giao dịch.

Năm 2016, Trung Quốc là nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất vào kinh tế Lào,

tính luỹ kế họ đã đầu tư 5,395 tỉ USD trong giai đoạn 1989-2014, xếp thứ nhì

và thứ ba trong giai đoạn này là Thái Lan (4,489 tỉ USD) và Việt Nam (3,108

tỉ USD).

Nông nghiệp tự cấp vẫn chiếm đến một nửa GDP và tạo 80% số việc

làm. Chỉ có 4,01% diện tích lãnh thổ là đất canh tác, và chỉ 0,34% diện tích

lãnh thổ được sử dụng làm đất trồng trọt lâu dài, đây là tỉ lệ thấp nhất

trong Tiểu vùng Sông Mê Công Mở rộng. Lúa chi phối nông nghiệp Lào do

khoảng 80% diện tích đất canh tác dành cho trồng lúa. Khoảng 77% nông hộ

Lào tự cung cấp gạo.[36] Sản lượng lúa tăng 5% mỗi năm từ năm 1990 đến

năm 2005 nhờ cải tiến về giống và cải cách kinh tế và Lào lần đầu đạt được

cân bằng ròng về xuất nhập khẩu gạo vào năm 1999 Lào có lẽ có nhiều giống

gạo nhất trong Tiểu vùng Sông Mê Công Mở rộng.

Từ năm 1995, chính phủ Lào làm việc cùng Viện Nghiên cứu Lúa

Quốc tế tại Philippines nhằm thu thập các mẫu hạt của hàng nghìn giống lúa

tại Lào. Kinh tế Lào nhận được viện trợ phát triển từ IMF, ADB, và các

43

nguồn quốc tế khác, cũng như đầu tư trực tiếp nước ngoài về phát triển xã hội

(Phụ lục 2),

Công nghiệp thuỷ điện và khai mỏ (đáng chú ý nhất là đồng và vàng).

Du lịch là ngành tăng trưởng nhanh chóng. Phát triển kinh tế tại Lào bị cản

trở do chảy máu chất xám.

Lào giàu tài nguyên thiên nhiên, song phải nhập khẩu dầu khí. Luyện

kim là một ngành quan trọng, và chính phủ hy vọng thu hút đầu tư nước ngoài

để phát triển các mỏ than, vàng, bô xít, thiếc, đồng và kim loại có giá trị khác.

Ngoài ra, nguồn tài nguyên nước phong phú và địa hình núi non cho phép Lào

sản xuất và xuất khẩu thuỷ điện với số lượng lớn. Lào xuất khẩu điện sang

Thái Lan và Việt Nam.

Ngành du lịch Lào tăng trưởng nhanh chóng, đạt gần 4,7 triệu du khách

quốc tế trong năm 2015, đông nhất là khách Thái Lan (2,32 triệu), Việt Nam

(1,19 triệu) và Trung Quốc (0,51 triệu). Du lịch đóng góp 679,1 triệu USD cho

GDP vào năm 2010, dự tính tăng lên 1,5857 tỉ USD vào năm 2020. Năm 2010,

1/10,9 số công việc là trong lĩnh vực du lịch. Thu nhập xuất khẩu từ du khách

quốc tế và hàng hoá du lịch dự kiến tăng lên 484,2 triệu USD vào năm 2020,

chiếm 12,5% xuất khẩu. Luang Prabang với văn hoá Phật giáo và kiến trúc

thuộc địa, cùng tổ hợp đền cổ Khmer Wat Phu là các di sản thế giới

UNESCO, Cánh đồng Chum cũng được đề cử.

Các sân bay chính của Lào là sân bay quốc tế Wattay tại Vientiane

và sân bay quốc tế Luang Prabang, sân bay quốc tế Pakse cũng có một vài

đường bay quốc tế. Hãng hàng không quốc gia của Lào là Lao Airlines. Các

hãng hàng không khác có đường bay đến Lào là Bangkok Airways, Vietnam

Airlines, AirAsia, Thai Airways International, China Eastern Airlines vàSilk

Air. Phần lớn nước Lào thiếu cơ sở hạ tầng đẩy đủ. Lào chỉ có một đoạn

đường sắt ngắn nối Vientiane với Thái Lan qua cầu Hữu nghị Thái-Lào. Các

tuyến đường bộ liên kết các trung tâm đô thị lớn, đặc biệt là Đường 13, được

44

nâng cấp trung thời gian qua, song các làng nằm xa các đường chính chỉ có

thể tiếp cận bằng đường mòn. Điện thoại di động trở nên phổ biến tại các

trung tâm đô thị. Trong nhiều khu vực nông thôn, ít nhất cũng có điện năng

cục bộ. Xe Songthaew được sử dụng để vận chuyển đường dài và địa phương.

2.2.2. Về hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế

ADB khuyến nghị Lào cải cách để đẩy mạnh tăng trưởng Ngày

12/3/2015, tại cuộc họp báo được tổ chức nhân chuyến thăm Lào, Chủ tịch

ADB Takehiko Nakao nhấn mạnh Lào cần cải cách để cải thiện môi trường

kinh doanh, đa dạng hóa nền kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô để thúc đẩy tăng

trưởng kinh tế. Chủ tịch ADB Takehiko nhấn mạnh rằng Lào đang thu hút

được nhiều vốn đầu tư của tư nhân, việc cải cách có ý nghĩa quan trọng để

phát triển khu vực tư nhân như một động lực của tăng trưởng kinh tế. Cải

cách cần thiết để đơn giản hóa các quy định về kinh doanh thông qua hệ

thống thuế rõ ràng và khả năng tiếp cận dễ dàng tới các nguồn tài chính. Môi

trường kinh doanh thuận lợi sẽ hỗ trợ cho sự phát triển của Đối tác - Công -

Tư (PPPs) như một công cụ cung cấp tài chính và kiến thức chuyên môn

nhằm phát triển cơ sở hạ tầng như đường sá, sân bay, các dịch vụ đô thị. Với

vị trí chiến lược nằm ở trung tâm Tiểu vùng Mê Kông mở rộng (GMS) Lào

là nước duy nhất có chung biên giới với năm nước GMS, đó là điều kiện lý

tưởng để có thể hưởng lợi từ hợp tác khu vực, đặc biệt là dọc theo các tuyên

hành lang kinh tế GMS (Bắc - Nam, Đông - Tây và phía Nam). Tuy nhiên,

ông Nakao nói rằng, thách thức chính đối với Lào là phải làm sao để hưởng

lợi tốt nhất từ quá trình hội nhập, thu hút được đầu tư, tạo việc làm trong

nước chứ không chỉ được sử dụng như một điểm trung chuyển thương mại

giữa các nước láng giềng.

ADB nhận định kinh tế Lào tăng trưởng tốt trong 2 năm tới Ngày 24/3,

ADB đã công bố báo cáo Viễn cảnh phát triển châu Á 2015 (Asian

Development Outlook) trong đó đánh giá: tính đến năm 2014, Lào vẫn duy trì

45

tốc độ tăng trưởng GDP trên 7% trong 9 năm liên tiếp dù thắt chặt tài chính

và nhu cầu thế giới về khoáng sản thấp hơn khiến tốc độ giảm từ 7,9% năm

2013 xuống 7,4%. Dịch vụ tăng trưởng 9% do mở rộng bán buôn bán lẻ dịch

vụ công và giao thông vận tải tăng trưởng vững. Công nghiệp tăng 8,5% do

đầu tư trực tiếp nước ngoài xây dựng thủy điện, phát triển thương mại và nhà

ở, xây dựng nhà máy tại các khu kinh tế đặc biệt. Nông nghiệp tăng 2,9%, sử

dụng 70% lao động và chỉ chiếm 25% GDP.

Đặc khu kinh tế trở thành động lực chính trong tăng trưởng kinh tế Đặc

khu kinh tế và khu kinh tế đặc biệt (SEZs) đã trở thành động lực chính trong

tăng trưởng đối với các ngành công nghiệp và dịch vụ ở Lào, đặt nền tảng cho

việc đa dạng hóa nền kinh tế của đất nước trong tương lai. Việc phát triển

SEZs là một phần trong các chính sách của Chính phủ nhằm đẩy nhanh tăng

trưởng kinh tế, tạo cơ hội việc làm cho người dân thông qua quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thông qua công nghiệp hóa, Chính phủ sẽ đẩy

mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng dần tỉ trọng của ngành công nghiệp và

dịch vụ, đồng thời giảm tỉ trọng của ngành nông - lâm. Hiện nay, trong các

SEZs, ngành công nghiệp chiếm 28%, dịch vụ chiếm 44% trong tổng số các

hoạt động kinh tế. Trong khi đó, trong nền kinh tế chung của Lào, nông

nghiệp vẫn chiếm tỉ trọng lớn nhất. Tính đến thời điểm hiện nay, Chính phủ

đã đầu tư trên 8,8 triệu USD để tạo điều kiện phát triển SEZs nhằm thúc đẩy

tăng trưởng kinh tế. Trong thời gian 12 năm qua, có khoảng 198 doanh nghiệp

đã được cấp giấy phép đầu tư vào SEZs với tổng giá trị đầu tư lên đến 6 tỉ

USD. Trong đó, trên 1 tỉ USD đã được giải ngân vào các hoạt động phát triển.

Trong số các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào SEZs, Trung Quốc là nước

đứng đầu. SEZs có ý nghĩa quan trọng trong việc đẩy nhanh quá trình đô thị

hóa ở các vùng xa xôi hẻo lánh của Lào, tăng trưởng kinh tế, góp phần tạo

công ăn việc làm và thu nhập cho người dân Lào. Hiện nay Lào có 02 đặc khu

kinh tế và 08 khu kinh tế đặc biệt với tổng diện tích trên 13.600 ha. Sơ kết 06

tháng đầu năm tài khóa của ngành năng lượng và mỏ.

46

Theo báo cáo sơ kết 06 tháng đầu năm tài khóa của Bộ Năng lượng và

mỏ ngày 13/3/2015, giá trị sản lượng của hai lĩnh vực năng lượng và mỏ tối

thiểu sẽ đạt 8,53 nghìn tỉ Kíp (1,06 tỉ USD) trong 06 tháng đầu năm tài khóa

2014-15. 8,53 nghìn tỉ Kíp sẽ đạt 47% kế hoạch năm, trong đó, khoảng 5,87

nghìn tỉ Kíp là của lĩnh vực mỏ, đạt khoảng 50,4% kế hoạch năm. Sản lượng

đồng thỏi đạt khoảng 21.900 tấn, quặng đồng khoảng 76.000 tấn, thạch cao

khoảng 160.800 tấn.

Kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm khai thác mỏ ước đạt 6,1 nghìn tỉ

Kíp (763,6 triệu USD), khoảng 40,8% kế hoạch năm. Báo cáo cũng cho biết,

tính đến tháng 9/2014, có 69 doanh nghiệp đang hoạt động với 107 dự án khai

thác mỏ. Trong lĩnh vực năng lượng, giá trị sản lượng trong nước ước đạt 6,4

tỉ Kwh, khoảng 41% kế hoạch năm. Tổng sản lượng điện sẽ khoảng 7,7 tỉ

Kwh, với giá trị khoảng 3,45 nghìn tỉ Kíp (431,3 triệu USD).

Nhập khẩu điện sẽ vào khoảng 687,2 triệu Kwh, trị giá 35,5 triệu USD;

xuất khẩu điện khoảng 5,6 tỉ Kwh, trị giá 242,2 triệu USD. Hiện nay Lào có

27 nhà máy điện với tổng công suất lắp đặt khoảng 3.304 MW, trong đó, 11

nhà máy với công suất lắp đặt 405 MW thuộc Công ty điện lực Lào; 16 nhà

máy khác với công suất lắp đặt 2.899 MW do các doanh nghiệp độc lập vận

hành. Giá trị sản lượng của ngành năng lượng và mỏ trong Quý 1, năm tài

khóa 2014-15 đã bị sụt giảm, chỉ đạt 4,22 nghìn tỉ Kíp (khoảng 527,71 triệu

USD) giảm 16% so với cùng kỳ năm tài khóa 2013-14; Lĩnh vực năng lượng

giảm 11% và mỏ giảm 17% so cùng kỳ. Sự sụt giảm trên là do nhà máy thủy

điện Nam Theun 2 điều chỉnh sản lượng từ 40% tổng sản lượng toàn ngành

xuống 39% để dự trữ nước cho Quý sau; sự sụt giảm của lĩnh vực mỏ là do

ngừng sản xuất của một số mỏ vàng, ngừng sản xuất than và giá quặng kim

loại thế giới giảm.

Ngày 19/5/2015, tại Viêng Chăn, ADB đã tổ chức lễ công bố kết quả

nghiên cứu: “Hai Thập kỉ Tăng Bất bình đẳng và Giảm nghèo ở Lào”. Các

47

nhà kinh tế đã bày tỏ sự lo ngại về tình trạng tăng bất bình đẳng ở Lào vì nó

có thể hủy hoại tính bền vững của sự tăng trưởng trong tương lai ở Lào.

Nghiên cứu đã tính toán và so sánh các thước đo về bất bình đẳng, sử dụng

các số liệu điều tra hộ gia đình trong giai đoạn 20 năm, cũng như các số liệu

điều tra mới nhất từ Điều tra về Chi tiêu và Tiêu dùng năm 2013 - 14 của Lào.

Kết quả nghiên cứu cho thấy bất bình đẳng đã tăng lên trong cả nước và giữa

nông thôn và thành thị. Hệ số GINI về bất bình đẳng chi tiêu đã tăng từ 0,311

giai đoạn 1992 - 1993 đã tăng lên 0,364 trong giai đoạn 2012 - 2013, một mức

tăng lớn về mặt thống kê. Trong khi đó, tỉ lệ nghèo tuyệt đối trong thời gian

tương ứng đã giảm từ 46% xuống 23%. Phát biểu tại lễ công bố nghiên cứu,

Giám đốc Quốc gia ADB tại Lào Sandra Nicoll nói, bất bình đẳng tăng lên là

một vấn đề đáng quan ngại vì nó có thể đe dọa sự gắn kết xã hội, tăng trưởng

bền vững trong tương lai, đồng thời nó cũng có thể hạn chế khả năng tiếp tục

giảm nghèo.

Đầu tư bùng nổ tại thủ đô Viêng Chăn Theo báo cáo ngày 6/5/2015 của

Sở Kế hoạch và Đầu tư Thủ đô Viêng Chăn, giá trị đầu tư trong nước và nước

ngoài 6 tháng đầu năm tài khóa 2014 - 15 đã tăng mạnh hơn nhiều so với dự

kiến. Trong thời gian 6 tháng, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt trên 9,72 nghìn tỉ

Kíp với 154 dự án. Báo cáo cho biết, với con số 9,72 nghìn tỉ Kíp, thủ đô

Viêng Chăn gần như đã đạt mục tiêu đề ra của cả năm là 12 nghìn tỉ Kíp.

Trong số 154 dự án, bao gồm 149 dự án đầu tư tổng hợp, trị giá 9,74 nghìn tỉ

Kíp, 5 dự án còn lại là tô nhượng đất trị giá 180,24 tỉ Kíp. Các dự án tô

nhượng đất cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước, chủ yếu là trong các lĩnh

vực xây dựng sân Golf, khách sạn 5 sao, trung tâm mua sắm, bãi đỗ xe, văn

phòng và căn hộ.

Theo Kế hoạch Phát triển Kinh tế - xã hội của Viêng Chăn, tổng vốn

đầu tư năm tài khóa 2014 - 15 khoảng 14,7 nghìn tỉ Kíp, trong đó đầu tư của

nhà nước khoảng 134 tỉ Kíp, đầu tư trực tiếp trong và ngoài nước 12 nghìn tỉ

48

Kíp, viện trợ không hoàn lại và vốn vay từ các tổ chức quốc tế khoảng 700 tỉ

Kíp, vốn vay ngân hàng khoảng 1,86 nghìn tỉ Kíp. Vấn đề đập Don Sahong

phải đưa lên cấp chính phủ Bốn nước thành viên của Ủy ban Sông Mê Kông

(MRC) bao gồm Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam đã thống nhất rằng

quyết định về tham vấn trước liên quan đến Dự án Thủy điện Don Sahong

phải đưa lên cấp chính phủ, MRC công bố thông qua trang Website của Ủy

ban này. Việc quyết định phải chuyển lên các chính phủ xem xét vì Hội đồng

MRC không thể đi đến thống nhất về cách tiến hành như thế nào với dự án

này. Vấn đề đã được đưa lên Hội đồng MRC sau phiên họp đặc biệt ngày

28/1/2015 khi Ủy ban Hỗn hợp MRC không đạt được thỏa thuận. Hội đồng

MRC là cơ quan quyền lực cao nhất của Ủy ban, bao gồm các Bộ trưởng Tài

nguyên nước và Môi trường của bốn nước thành viên. Sau khi thảo luận và

cân nhắc, Hội đồng MRC thông báo rằng vẫn còn những quan điểm khác

nhau giữa các nước về quá trình tham vấn trước đã kết thúc hay chưa, nên

phải đưa lên các chính phủ quyết định. Điều 35 của Hiệp định Mê Kông 1995

quy định, trong trường hợp Ủy ban không thể giải quyết một bất đồng hay

tranh chấp, vấn đề phải được đưa lên các chính phủ “để giải quyết vấn đề

bằng đàm phán thông qua các kênh ngoại giao …”. Nếu các chính phủ thấy

cần thiết hoặc có lợi có thể sử dụng phương cách điều đình thông qua thỏa

thuận chung phù hợp với các nguyên tắc luật quốc tế. Tham vấn trước 6 tháng

chính thức bắt đầu từ ngày 25/7/2014.

Trong quá trình tham vấn trước, các nước thành viên đã thảo luận và

đánh giá những rủi ro và lợi ích của dự án có tiềm năng phát điện với công

suất 260MW, nằm trên một trong các dòng của sông Mê Kông ở khu vực

Siphandone, Nam Lào. Theo MRC, các nước thành viên tham vấn đã bày tỏ

hàng loạt những quan ngại của họ về dự án kiến nghị và yêu cầu gia hạn tham

vấn trước để có thời gian thu thập thông tin bổ sung. Lào kiến nghị kết thúc

quá trình tham vấn trước, tuyến bố rằng họ đã cân nhắc và giải quyết những lo

49

ngại chính đáng của các nước thành viên khác phù hợp với các Thủ tục quy

định về Thông báo trước, Tham vấn trước và Hiệp định (PNPCA) của Hiệp

định Mê Kông 1995.

Lào cam kết tiếp tục hợp tác với MRC và đảm bảo phát triển bền vững

dự án. Sau khi vấn đề được đưa lên chính phủ các nước, họ có thể chuyển

quyết định của mình lên Hội đồng MRC để tiến hành các thủ tục tiếp theo,

hoặc nếu cần thiết, họ có thể thực hiện quyết định của mình. Buôn lậu gỗ sang

Việt Nam vẫn tiếp tục Theo truyền thông Việt Nam đưa tin ngày 4/6/2015,

ngày càng nhiều gỗ buôn lậu qua biên giới từ Lào và Camphuchia sang địa

bàn biên giới phía Nam Việt Nam. VietNamNet Online trích dẫn tin từ cơ

quan chống buôn lậu cho biết, các nhà chức trách phát hiện nhiều chuyến gỗ

lậu nhập khẩu trái phép từ hai nước nêu trên. Buôn lậu đang trở nên thịnh

hành trong thời gian gần đây khi mùa mưa đến đến gần.

Các địa bàn dọc theo biên giới Tây Nam Việt Nam, từ Đắc Lắc đến Kiên

Giang và tỉnh Kon Tum trở thành các “điểm nóng” buôn lậu gỗ. Kon Tum có

chung đường biên giới với tỉnh Attapeu, Nam Lào và trong khi Đắc Lắc đến

Kiên Giang là các tỉnh có chung đường biên giới với Camphuchia. Khi các

điểm nóng này bị kiểm tra, những kẻ buôn lậu lại di chuyển bãi chứa sang các

vị trí khác. Qua nhiều vụ buôn lậu bị phát hiện cho thấy, việc buôn bán gỗ trái

phép rất khó chấm dứt vì lợi nhuận cao. Giám đốc Sở Nông Lam tỉnh Attapeu

Khenthong Sisouvong cho biết, tình trạng đốn hạ gỗ trái phép vẫn đang là một

vấn đề quan ngại lớn ở tỉnh. Theo CITES (Hiệp ước về Buôn bán Quốc tế các

Loài Động Thực vật có Nguy cơ Tuyệt chủng), đầu năm nay Việt Nam đã công

bố ngừng cấp giấy phép nhập khẩu gỗ trắc từ Thái Lan và Campuchia từ

1/01/2015. Đối với gỗ trắc từ Lào, CITES Việt Nam chỉ cho phép nhập nếu các

nhà nhập khẩu có thể trình giấy tờ do CITES Lào cung cấp chứng minh nguồn

gốc hợp pháp. 400 tỉ kíp nghiên cứu dự án năng lượng mặt trời.

Ngày 10/6, tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ông Robert Khoonsrivong, Chủ

tịch của Công ty Quản lý vốn Ngôi sao Thái Bình Dương (PSCM) và ông

50

Bonthavy Sisouphanthong, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ký biên

bản ghi nhớ để tiến hành nghiên cứu khả thi cho dự án năng lượng mặt trời

trên diện tích 50 ha tại huyện Xaythany, thủ đô Viêng Chăn. PSCM sẽ chi 400

tỉ kíp (hơn 49 triệu USD) để triển khai công tác nghiên cứu trong 12 tháng.

Theo khảo sát sơ bộ, dự án có thể sản xuất 20 MW năng lượng mặt trời và

bán cho điện lực Lào. Tác động tới môi trường sẽ ít do người dân vẫn có thể

trồng trọt và chăn nuôi trong khu vực triển khai dự án.

Tổ máy số một tại Nhà máy nhiệt điện Hongsa đã phát điện Ngày

01/6/2015, Tổ máy số một tại nhà máy nhiệt điện Hongsa, tỉnh Xayaboury đã

chính thức bắt đầu sản xuất điện. Khởi công xây dựng từ năm 2010 với tổng

vốn đầu tư 3.7 tỉ USD, liên doanh giữa Công ty TNHH Banpu Power Ltd,

Công ty TNHH sản xuất điện Ratchabury Ltd. và Công ty Lao Holding State

Interprise. Chính phủ Lào cấp nhượng quyền phát điện trong thời hạn 25 năm

từ 2016-2041 cho công ty điện Hongsa. Dự án có tổng công suất dự kiến 1.878

MW, trong đó 1.473 MW được bán cho Công ty Điện lực Thái Lan và 100MW

được bán cho công ty Điện lực Lào. Theo dự kiến, tổ máy số hai sẽ sản xuất

điện vào tháng 11/2015 và tổ máy số 3 sẽ đưa vào hoạt động tháng 3/2016. Đây

là dự án nhiệt điện đầu tiên được xây dựng tại Lào, chính phủ Lào tin tưởng dự

án sẽ mang lại lợi nhuận cao cũng như công việc và thu nhập ổn định cho

người dân.

Tiến độ xây dựng đường giao thông tỉnh Chăm pa sắc Dự án xây

dựng đường giao thông tại tỉnh Chăm pa sắc với tổng chiều dài 42 km có

điểm nối từ cầu Lào Nhật đến điểm cuối là Cửa khẩu quốc tế Vangtao-

Songmek (Lào-Thái Lan), sử dụng vốn của công ty tư nhân đã hoàn thành

70% tiến độ và dự kiến đưa vào sử dụng trong năm 2016. Dự án có tổng

mức đầu tư 30 triệu USD (240 tỉ Kíp) do Công ty xây dựng Cầu đường

Douangdy làm chủ đầu tư, theo hình thức hợp đồng BOT. Kế hoạch xây 4

cây cầu với chiều dài 250m và chiều rộng 16m trên tuyến đường này cũng

đã được triển khai. Sau khi đưa vào sử dụng, công trình do Công ty quản lý

51

và vận hành trong thời hạn 45 năm. Dự án này nằm trong kế hoạch nâng

cấp, cải tạo hạ tầng giao thông, xây dựng cầu đường của tỉnh Chăm pa sắc

để chuẩn bị cho tiến trình hội nhập và kết nối khu vực, hướng tới hình

thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN cuối năm 2015.

2.3. Tình hình sử dụng tài nguyên nước sông Mê Công

2.3.1. Sự dung nguồn nước trong sản xuất nông nghiệp và thủy sản

Sông Mê Công cung cấp nguồn nước vô tận tưới mát cho những cánh

đồng, là nguồn phù sa bồi đắp năm này sang năm khác. Dòng sông cũng đặc

biệt giàu có bởi hàng trăm loài thủy sản, trong đó có những loài cá khổng lồ,

quý hiếm. Được biết, cá tra dầu sống ở hạ lưu sông MMê Công thuộc địa

phận Lào, Campuchia, Thái Lan và đầu nguồn sông Cửu Long của Việt Nam.

Chúng được coi là đối thủ tranh chấp với loài cá đuối rất hung dữ ở dòng sông

này. Một con cá đuối khi đạt độ cực thịnh có thể dài tới 5m tuy chỉ nặng

30kg. Chúng dài là nhờ ở cái đuôi vô cùng nguy hiểm. Trên dòng Mê Công

còn một loại cá nữa vô cùng nổi tiếng, đã trở nên thương hiệu của dòng sông

này. Đó là cá chép Xiêm (còn gọi là cá chép Thái Lan). Khi trưởng thành, cá

chép Xiêm có chiều dài toàn thân chừng 1,5m, nặng trên dưới 50kg. Nhưng

người ta cho rằng, trước đây đã có người bắt được một con chép Xiêm nặng

tới 300kg và dài tới 3m. Thân hình đen trũi, thịt lại rất thơm ngon, cá chép

Xiêm bị đánh bắt một cách dữ dội nên số lượng suy giảm nhanh chóng. Cũng

trên khúc sông chảy qua Thái Lan, còn một loại cá nữa cũng rất nổi tiếng là cá

vồ cờ (người Thái gọi là cá Pla Thepa). Con to nhất có thể đạt tới 200kg và

chiều dài toàn thân lên tới 2,5m. Trong một công bố gần đây, các nhà khoa

học cùng với Ủy ban sông Mê Công đã có nhiều câu trả lời về giá trị kinh tế

do dòng sông dài thứ 12 thế giới này đem lại . Theo đó, chỉ riêng giá trị thủy

sản được đánh bắt từ hạ lưu sông Mê Công đã lên tới 17 tỷ USD một năm,

góp 3% vào tổng GDP của nhóm các nước Việt Nam, Campuchia, Lào, và

Thái Lan.

52

Riêng đối với Lào, việc đánh bắt thủy sản được dự đoán sẽ mang về 1,51

tỷ USD, chiếm khoảng 12,8% GDP. Đánh bắt và nuôi trồng thủy sản cũng khá

phát triển theo các vùng, đặc biệt là tại các tỉnh Trung Lào (Bảng 2.1).

Bảng 2.1. Đánh bắt và nuôi trông thủy sản theo các vùng của Lào năm 2015

Đơn vị: Tấn

Các vùng Đánh bắt Nuôi trồng

Thượng Lào 18.817 13.803

Trung Lào 40.910 65.193

Hạ Lào 10.898 16.969

Cả nước 62.635 95.965

Nnguồn. [32} Cục Thống kê Nông nghiệp Lào, năm 2016

Để phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp, Lào rất quan tấm toiws

điều tiết nguồn nước sông Mê Công, xây dựng. các hồ, chứa nước, xây dựng

hệ thống kênh mương, hồ điều tiết nước cho các vùng nông nghiệp trù p;hú,

đặc biệt tại các tỉnh Trung Lào.

Số liệu thống kê của Bộ Nông nghiệp và Thủy sản Lào cho biết, tổng

diện tích tưới nước năm 2015 đạt 472 756 ha, trong đó, diện tích tưới nước và

mùa mưa đạt 293 536 ha, vào mùa khô đạt 180 220 ha. Để chủ động sử dụng

nguồn nước sông Mê Công, trên toàn lãnh thổ Lào đã xây dựng 301 hồ trữ

nước với tổng diện tích 20.163 ha [32].

Nhờ chủ động điều tiets các nguồn nước sông, hồ, hệ thống kênh

mương, năm 2015, cả nước đã chủ động sản xuất lương thực trên diện tích

gieo trông là 984,932 ha, trong đó, diện tích thu hoạch là 965 152 ha, đạt

98,178%. Đây là thành tựu quan trọng trong sử dụng nguồn nước cho sản xuất

lương thực, đáp ứng nhu cầu tự túc lương thực và bước đầu tham gia xuất

khẩu sản phẩm nông nghiệp.

2.3.1. Sự dụng nguồn nước trong hoạt động giao thông, du lịch

Về mặt giao thông đường thủy theo sông Mê Công, Sông Mê Công

được coi là trục giao thông đường thủy quan trọng và triển vọng của Lào.

53

Theo nghiên cứu của Ủy hội Sông Mê Kông, chi phí vận tải thấp hơn có thể

bù đắp được quãng đường chênh lệch giữa đường thủy và đường bộ. Nghiên

cứu cho thấy chi phí để vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ từ Tư Mao đến

Chiang Kong là 39,47USD/tấn, trong khi vận chuyển bằng đường thủy chỉ tốn

23,22 USD. Cụ thể, trao đổi thương mại giữa Thái Lan với Trung Quốc, Lào

và Myanmar trên sông Mê Kông ước tính đạt đến 15,9 tỷ Bath, qua đường cao

tốc R3A ước tính khoảng 19 tỷ Bath vào năm ngoái. Điều này cho thấy tuyến

đường thủy trên sông Mê Kông vẫn chỉ là lựa chọn phụ so với những con

đường bộ thuận tiện. Trên sông Mê Công đã xây dựng một số câu hỏi trực

tiếp với vùng đông bắc Thái Lan, Trong sô đồ phát triển kết nối khu vực, sông

Mê Công được coi là trục giao thông kết nôi thủy bộ trong khuôn khổ

Chương trình hợp tác sông Mê Công mở rộng. Hai thách thức lớn đối với

Chương trình này là Tham vọng DA khai thông giao thông trên lãnh thổ Lào

và sự không rõ ràng về biên giới đường thủy giũa Thái Lan và Lào. Về giá trị

phát triển kinh tế du lịch, tham quan du ngoạn theo sông Mê Công, các thành

phố, thắng cảnh của đất nước Lào đều gắn với dòng sông và giá rét tâm linh

sông nước. Người Lào coi Lễ hội Té nước là ngày tết lớn nhất trong năm. Các

sản phẩm du lịch sông nước đều gắn với các địa danh nổi tiêng như Vạn

Tượng, Triệu Voi - Lào là quốc gia vẫn giữ được nhiều nét văn hóa cổ xưa.

Mà cụ thể, khi đặt chân tới vùng đất này, bạn sẽ cảm nhận ngay được - một

đất nước yên bình, sống chậm và hiền hòa.

Con người Lào rất thân thiện và dễ mến, họ nói tiếng Việt cũng khá tốt

nên bạn không cần quá lo lắng cho chuyến du lịch Lào.

Du lịch Lào khá đơn giản và thuận tiện, các thủ tục xuất nhập cảnh

người và xe không phức tạp, thường chỉ cần hộ chiếu (cho người) và giấy

phép liên vận Việt - Lào (dành cho xe) là có thể du lịch Lào bằng xe máy

hoặc oto được rồi.

Du lịch Lào đặc biệt ở chỗ bạn vừa có thể tham quan chùa chiền, cầu

nguyện, thờ cũng xin may mắn, sức khỏe, tài lộc, cảm nhận về cuộc sống bình

54

yên của con người nơi đây cũng như tìm hiểu thêm về văn hóa của một quốc

gia khác không phải Việt Nam. Nơi đầu tiên bạn có thể đến là thủ đô

Vientiane. Đây có lẽ là thủ đô duy nhất trên thế giới mà không có những tòa

nhà cao chọc trời hay đường phố xe cộ tập nập qua lại, còi xe inh ỏi... Viêng

Chăn quả thực rât yên bình. Yên bình theo đúng nghĩa đen. Từ không khí của

toàn thủ đô cho đến con người. Họ là những con người sống rất chậm rãi,

nhưng lại mến khách và hiền hậu, thật thà. Không có còi xe hay xô bồ của

cuộc sống như những thủ đô khác. Tại đây, có nhiều điểm tham quan như

Chùa Mee, chùa Sisaket, vườn Phật hay tựng đài chiến thắng Patuxay nằm

giữa trung tâm thành phố. Tham quan chợ Sáng để hiểu thêm về cuộc sống

của con người nơi đây và mua các món quà lưu niệm. Thưởng thức các món

ăn tại Phố Fa Ngum hay Setthathirath. Di chuyển đến Vang Viêng - thị trấn

nhỏ nằm trên đường đi từ thủ đô Viên Chăn đến cố đô Luang Prabang. Nơi

bạn có thể tìm thấy một vài trò chơi lạ dưới nước như chèo kayak, nhảy begee

hay tubing.... Đến với Luang Prabang - thủ đô cũ của lào, bạn có thể tham

quan cả hệ thống cá chùa chiền cổ như Wat Xieng Thong, Wat Aham, Wat

Sene, Wat Visunarath... Mỗi sáng sớm thức dậy, bạn còn có thể bắt gặp

những đoàn tăng sư lên đường khất thực trên những con đường nhỏ của cố đô.

Về chiều, hãy đến đỉnh Wat Tham Phousi để ngắm hoàng hôn trên sông

Mekong và ngắm toàn thành phố Luang Prabang lúc chiều tà. Về chiều và tối

hãy ghé qua chợ đêm Luang Prabang và thưởng thúc các món ăn ở đây. Các

món ăn được bày ra các mâm và các chậu nhỏ nhìn như kiểu buffet, thực khách

tự chọn đồ ăn và lượng ăn phù hợp, sau đó, người bán sẽ tính tiền giúp bạn. Di

chuyển đến cánh đồng chum ở Xiêng Khoảng, bạn sẽ được nhìn thấy cảnh

tượng vừa huyền bí nhưng cũng rất thú vị. Hàng ngàn chiếc chum ở đây được

chôn một cách bí ẩn. Và nếu may mắn, du lịch Lào vào mùa lễ hội té nước

tháng 4, lễ hội That Luang vào tháng 12 bạn còn được tham gia vào lễ hội cùng

người dân bản địa cầu may mắn và nhiều sức khỏe. Với rất nhiều điều thú vị

như vậy, Lào chẳng phải là quốc gia buồn như bạn vẫn nghĩ. Hãy cứ đi và cảm

nhận, bạn sẽ thấy nơi đây đáng mong chờ hơn những gì bạn nghĩ.

55

2.4. Sự phát triển phát triển thủy điện của CHDCND Lào - Mô hình khát

vọng Cô-oet xuất khẩu thủy điện

2.4.1. Tiềm năng phát triển thủy điện

Dòng sông Mê Kông bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng nối liền 6

quốc gia Trung Quốc, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam.

Với khoảng 4.800km chiều dài, con sông quốc tế này tạo ra nhiều sinh cảnh

độc đáo, các hệ sinh thái giàu có và nhiều vùng châu thổ phì nhiêu. Cho đến

cuối thế kỉ 20, sông Mê Công vẫn còn giữ được nhiều nét nguyên vẹn do chưa

bị ngăn đập trên phần lớn dòng chảy. Tuy nhiên, lưu vực sông Mê Công trong

thời gian gần đây trở nên ngày càng sôi động với nhiều diễn biến phát triển

nóng gây không ít tranh cãi. Dòng sông quốc tế này đang chứng kiến xu thế

cạnh tranh với tâm điểm là việc sử dụng nguồn nước của mỗi quốc gia phục

vụ nhu cầu phát triển của riêng mình đi đôi với những thách thức tiềm tàng

cho các quốc gia khác.

Sự sôi động của lưu vực sông Mê Công bắt đầu từ những năm cuối thế kỉ

20. Các nền kinh tế mới nổi trong khu vực và một Trung Quốc đang trỗi dậy

đứng trước cơn khát năng lượng phục vụ nhu cầu tăng trưởng nóng. Thủy điện

trở thành tâm điểm của các chiến lược đầu tư mới của cả chính phủ và khu vực

tư nhân. Bên cạnh đó, gia tăng dân số trong lưu vực và biến động giá cả lương

thực trong những năm gần đây đã thúc đẩy các quốc gia đầu tư mạnh mẽ hơn

cho cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển và mở rộng sản xuất nông nghiệp.

Ở phía hạ nguồn, Lào là quốc gia đầu tiên trong 4 thành viên của Ủy

hội sông Mê Kông quốc tế thông báo kế hoạch xây đập thủy điện dòng chính.

Dự án đập Xayabury được Chính phủ Lào thông báo lên Ủy hội sông Mê

Công quốc tế vào tháng 9/2010 đã vấp phải nhiều phản đối từ nhiều phía do lo

ngại về tác động tiềm tàng lên con người và hệ sinh thái. Mới đây, Lào tiếp

tục thông báo kế hoạch triển khai tiếp hai dự án thủy điện trên dòng chính

sông Mê Công là đập Don Sahong và đập Pak Beng. Trong những tuyên bố

56

của mình, Chính phủ Lào không dấu giếm tham vọng biến quốc gia này

nguồn cung năng lượng cho khu vực.

Bên cạnh thủy điện, các quốc gia trong lưu vực cũng đang có các kế

hoạch sử dụng nước sông Mê Công trên quy mô lớn. Lào dự định tăng diện

tích tưới tiêu vào mùa khô từ 100.000 hecta/năm lên 300.000 hecta/năm trong

vòng 20 năm tới. Các hoạt động kinh tế khác khai thác lợi thế của sông Mê

Kông bao gồm phát triển nuôi trồng thủy sản, giao thông thủy, quản lý lũ lụt

và du lịch.

Diễn biến phát triển lưu vực sông Mê Kông trong thời gian vừa qua cho

thấy đây không đơn thuần là bài toán đánh đổi giữa lợi ích kinh tế và môi

trường - xã hội. Ngoại trừ Trung Quốc ở phía thượng nguồn, Lào đang nổi lên

là quốc gia có vị thế địa chính trị đặc biệt, có tính then chốt đối với toàn cục

phát triển lưu vực. Trong chuỗi domino 12 con đập trên dòng chính (và cả các

dự án chuyển nước phục vụ nông nghiệp), một khi con đập đầu tiên được xây

dựng sẽ kích hoạt toàn bộ các dự án khác.

2.3.2. Những dự án thủy điện đang hoạt động

Lào đang triển khai xây dựng thủy điện Don Sahong Các hoạt động xây

dựng đập thủy điện Don Sahong tại Nam Lào đang được triển khai, bất chấp

sự phản đối và lời đề nghị thực hiện tham vấn đối với dự án từ các quốc gia

láng giềng. Đây là thông tin được Tổ chức Sông ngòi Quốc tế (IR) khẳng định

sau chuyến khảo sát đầu tháng 6 vừa qua dự kiến xây dựng đập.

Điều này đã chứng tỏ mối lo ngại rằng Don Sahong sẽ theo đuổi “chiến

thuật” từng áp dụng với đập Xayyaburi là có cơ sở. Nghĩa là công việc xây

dựng đập sẽ được tiến hành trước khi các quốc gia láng giềng có cơ hội thông

qua quy trình tham vấn, trước khi các nghiên cứu về tác động được hoàn

thành và trước khi các tác động xuyên biên giới được nhận thức đầy đủ. Theo

57

thông tin từ IR, tại khu vực dự án, một cây cấu nối đất liền với đảo Don

Sadam đang được xây dựng. Cây cầu này sẽ mở đường cho các hoạt động xây

dựng tiếp theo trên Kênh Hou Sahong. Từ tháng 11/2013 người dân Don

Sahong đã được thông báo rằng họ sẽ bị tái định cư để nhà đầu tư làm đường

vào đập. Tuy nhiên đến nay người dân cũng chưa được biết họ sẽ bị di dời về

đâu và cũng chưa được bồi thường hoặc hỗ trợ sinh kế từ khi bị cấm đánh bắt

cá tại khu vực khơi luồng di cư của cá trên kênh Hou Xang Pheuak.

Cây cấu nối đất liền với đảo Don Sadam đang được xây dựng (Ảnh: IR)

Trong khi đó, ngay sau khi Lào có thông báo về kế hoạch xây dựng thủy điện

Don Sahong, Việt Nam, Campuchia và Thái Lan đã tuyên bố rằng dự án Don

Sahong phải trải qua quá trình tham vấn trước theo yêu cầu của Hiệp định Mê

Kông năm 1995. Tuyên bố này đã sau đó được khẳng định lại tại cuộc họp

đặc biệt của MRC hồi tháng 1/2014. Tại Hội nghị thượng đỉnh Mê Kông lần

thứ 2 tại TPHCM tháng 4/2014, Việt Nam và Campuchia cũng đã kêu gọi Lào

dừng tất cả các hoạt động xây dựng đập trên dòng chính Mê Kông trong 10

năm đến khi các nghiên cứu về tác động của thủy điện dòng chính hoàn thành.

Tuy nhiên, đề nghị này đã bị Lào bỏ qua. Đầu tháng 5/2014 Thượng

nghị viện Campuchia cũng đã gửi thư đến các nhà lãnh đạo các quốc gia Mê

Kông kêu gọi dừng xây dựng Xayaburi và Don Sahong, đồng thời kêu gọi

Thái Lan hủy hợp đồng mua điện từ đập Xayaburi. Chương trình nghị sự cuộc

họp cấp Hội đồng Ủy hội sông Mê Kông lần thứ 20 vào 26/6 tới đây tại Thái

Lan dự kiến sẽ bàn về việc Don Sahong có phải thực hiện quy trình tham vấn

trước hay không. Tại đây, nếu bốn quốc gia không đạt được thỏa thuận, quyết

định sẽ được chuyển lên bàn nghị sự ở cấp cao hơn.

Đến nay, thủy điện Nậm Ngừm vẫn là công trình thủy điện lớn nhất ở Lào.

58

Hình 2.3. Sơ đồ các DA thủy điện Mê Công thuộc Lào

Nguồn: [28]

2.4.3. Những dự án đang hoạt động: Dự án Nậm Ngừm

Nậm Ngừm là một dòng sông lớn ở Bắc và Trung Lào và là phụ lưu cấp

1 quan trọng của sông Mê Kông. Nậm Ngừm dài 354 km, bắt nguồn từ vùng

núi phía Bắc tỉnh Xiêng Khoảng, chảy về phương Nam qua tỉnh Viêng Chăn,

và nhập vào sông Mê Kông tại phía Nam thành phố Vientiane. Lưu vực sông

này là nơi sính sống của khoảng 1 triệu người dân các bộ tộc Lào. Vào thập

niên 1980, Lào đã xây dựng một công trình thủy điện trên Nậm Ngừm tại

đoạn chảy qua tỉnh Viêng Chăn. Giữa thập niên 1990 lại xây đập chuyển dòng

59

Nậm Song để đổi hướng sông Nậm Song về bổ sung nước cho hồ chứa nước

Nậm Ngừm vào mùa Lào cũng đang xây và có kế hoạch xây 4 công trình thủy

điện khác trên dòng sông này. Từ khi hoàn thành việc xây dựng hồ chứa nước

của công trình thủy điện Nậm Ngừm, nơi đây trở thành một điểm thu hút

khách du lịch. Tự do hóa và quốc tế hóa kinh tế từ đầu thập niên 1990 đã cho

phép Lào thu hút được các dự án đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực du lịch ở

Nâm Ngừm, trong đó phải kể đến Dansavanh Nam Ngum Resort.

Nậm Ngừm là một dòng sông lớn ở Bắc và Trung Lào và là một chi lưu

quan trọng của Mê Kông. Nậm Ngừm dài 354 km, bắt nguồn từ vùng núi phía

Bắc tỉnh Xiêng Khoảng, chảy về phương Nam qua tỉnh Viêng Chăn, và nhập

vào Mê Kông tại phía Nam thành phố Vientiane. Lưu vực sông này là nơi

sính sống của khoảng 1 triệu người dân các bộ tộc Lào. Vào thập niên 1980,

Lào đã xây dựng một công trình thủy điện trên Nậm Ngừm tại đoạn chảy qua

tỉnh Viêng Chăn. Giữa thập niên 1990 lại xây đập chuyển dòng Nậm Song để

đổi hướng sông Nậm Song về bổ sung nước cho hồ chứa nước Nậm Ngừm

vào mùa khô. Đến nay, thủy điện Nậm Ngừm vẫn là công trình thủy điện lớn

nhất ở Lào. Lào cũng đang xây và có kế hoạch xây 4 thủy điện khác trên dòng

sông này.

Sau khi nhận được chỉ đạo từ Bộ Năng lượng và Mỏ của Lào về việc xả

nước nhằm ứng cứu tình trạng khô hạn phía hạ nguồn sông Mê Công, đặc biệt

là các tỉnh ĐBSCL của Việt Nam, từ ngày 23/3, Nhà máy thủy điện Nặm

Ngừm 1, một trong bốn đập thủy điện của Lào đã tiến hành xả nước cứu hạn.

Theo kế hoạch, trong năm 2016, Nhà máy thủy điện Nặm Ngừm 1 của

Lào có 12 tháng xả nước trung bình từ trên 260 m3/s đến trên 392 m3/s. Tuy

nhiên, do yêu cầu cấp bách của việc cứu hạn phía hạ nguồn sông Mê Công,

trong đó có Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam, Nhà máy thủy điện

Nặm Ngừm 1 được lệnh tăng lượng xả từ 392,44 m3/s lên 400,54 m3/s, và dự

kiến trong khoảng hai tháng tới mức xả sẽ đạt khoảng 460 m3/s. Theo phóng

60

viên TTXVN tại Lào, Nhà máy thủy điện Nặm Ngừm 1 là một trong bốn nhà

máy thủy điện của Lào đã tiến hành xả nước từ ngày 23/3, cùng với các nhà

máy thủy điện Nặm U, Nặm Khan và Nặm Thơ với tổng mức xả 1.136 m3/s.

Từ khi hoàn thành việc xây dựng hồ chứa nước của công trình thủy

điện Nậm Ngừm, nơi đây trở thành một điểm thu hút khách du lịch. Tự do

hóa và quốc tế hóa kinh tế từ đầu thập niên 1990 đã cho phép Lào thu hút

được các dự án đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực du lịch ở Nâm Ngừm, trong

đó phải kể đến Dansavanh Nam Ngum Resort. Một điểm du lịch hấp dẫn khác

là ở đoạn sông chảy qua Vang Viêng, thường được liên kết với khu du lịch

sông Nậm Song.

2.4.4. Một số dự án đang triển khai

Chính phủ Lào luôn mong muốn trở thành “bình ắc quy của khu vực

Đông Nam Á” vì nếu làm được như vậy, Lào có điều kiện để phát triển nền

kinh tế của Lào. Để đạt được mục tiêu này, Lào có kế hoạch xây dựng khoảng

70 đập thủy điện trên cả dòng chính lẫn dòng nhánh của sông Mê Công.

Thống kê của cơ quan Tham tán Kinh tế - Văn hóa Việt Nam tại Lào cho

thấy, Việt Nam hiện xếp thứ 3 trong số 38 nước và vùng lãnh thổ có đầu tư vào

Lào (tính tới tháng 5/2010), gồm 216 dự án đã được cấp phép, với tổng vốn

đăng ký 2,413 tỉ USD. Các doanh nghiệp của tỉnh Bình Định đã có nhiều dự án

đầu tư vào Lào từ rất sớm và đạt được hiệu quả bước đầu nhất định. Số lượng

dự án và vốn đầu tư đến từ Việt Nam đã tăng nhanh trong vài năm gần đây.

Đặc biệt, trong hai năm 2008 và 2009, Việt Nam đã vươn lên dẫn đầu về đầu tư

nước ngoài vào Lào (cả về số dự án và số vốn cam kết đầu tư). Hiện 16/17 tỉnh

của Lào đã có nhà đầu tư Việt Nam triển khai dự án trong các lĩnh vực công

nghiệp, nông - lâm nghiệp, dịch vụ, du lịch, khách sạn, tài chính, ngân hàng,

bảo hiểm.

61

Bảng 2.2. Các DA đập chính trên sông Mê Công trên lãnh thổ Lào

Công Chiều Dung ích Diện tích Chiều dài Dự án suất cao đập hoạt động hồ chứa đập (triệu m3) (km2) (Wh) (m)

1.230 Pak Beng 76 943 442 87

Luang Prabang 1.040 68 1106 734 90

Xayyabury 1.285 32 810 225 32

Pak Lay (1) 1320 35 630 384 108

Pak Lay (2) 1320 35 630 384 108

Pakkham 700 38 1144 106 81

Pakchom 1079 1200 55 12 84

Ban Koum 1872 53 780 - 133

Lat Sua 686 276 13400 0 13

Stung Treng 980 22 10884 70 210

Sambor 2600 56 18,ô2 465 620

Nguồn: [28]

Tuy vậy, bên cạnh những dự án đang triển khai khá tốt, như thủy điện

Sekaman 3, thủy điện Nậm Sam, thủy điện Nậm Ngừng 4 hay trồng cao su

với hàng vạn ha ở khu vực Nam Lào…, không ít nhà đầu tư đến từ Việt Nam

đang phải đối mặt với hàng loạt khó khăn, như thiếu thông tin, thiếu nhân lực

để triển khai dự án, hay việc phải cần nhiều thời gian để giải quyết các thủ

tục. Theo tính toán, nhân lực sử dụng trong dự án khai thác quặng sắt, nhà

máy phôi thép tại Xiêng Khoảng cần 2.000 lao động; dự án muối tại

Savanakhet cần 2.000 người. Tuy nhiên, để có được nhân sự ngay tại chỗ, đáp

ứng nhu cầu của nhà đầu tư là không đơn giản.

Ngoài khó khăn về nhân lực, những khó khăn chính mà DN Việt Nam

đầu tư vào Lào còn phải đối mặt gồm: thiếu thông tin, thủ tục đăng ký sử

dụng lao động nước ngoài không rõ ràng, mất nhiều thời gian; cấp phép đầu

62

tư còn chậm, các thủ tục xuất nhập cảnh vật tư cho các dự án vẫn còn khó

khăn; thời gian cấp hợp đồng thuê đất số lượng lớn kéo dài; điều kiện cơ sở

hạ tầng chưa được cải thiện (khu vực Thượng Lào)

Tuy vậy, việc chậm triển khai dự án mà trách nhiệm từ phía nhà đầu tư

cũng là một thực tế cần nhắc tới. Ông Hoàng Cung Thọ Nhân, Chủ tịch Hội

DN Việt Nam hợp tác và đầu tư tại Lào cho hay, việc đầu tư của các DN Việt

Nam lớn, có tiềm lực tài chính diễn ra với tiến độ nhanh, trong khi ở nhiều

DN khác có phần chậm hơn. Điều này khiến đầu tư của Việt Nam sang Lào

những năm gần đây rất sôi động ở nhiều lĩnh vực, với nhiều dự án đa dạng,

nhưng kết quả thu được lại chưa như mong đợi.

Ngoài ra, khủng hoảng kinh tế năm 2008, chuyển đổi mô hình kinh tế từ

DN nhà nước sang công ty TNHH một thành viên cũng khiến tiến độ triển khai

một số dự án đầu tư tại Lào bị chậm lại. Những khó khăn trên đã làm ảnh

hưởng tới kim ngạch thương mại song phương giữa hai nước. Tính đến hết

tháng 6/2010, kim ngạch buôn bán giữa hai bên mới đạt hơn 212 triệu USD,

trong khi mục tiêu đặt ra cho cả năm là 1 tỉ USD. “Phải có bước đột phá về

chính sách, thì mới có thể thúc đẩy đầu tư của Việt Nam sang Lào” là nhận xét

của nhiều DN Việt Nam đang hoạt động tại Lào. Thậm chí, một số đơn vị cho

rằng, DN Việt Nam đã bỏ lỡ không ít cơ hội để gia tăng sự có mặt của mình tại

Lào trong lĩnh vực thương mại. Ông Dương Đình Bảng, đại diện Tập đoàn tư

nhân Việt Phương cho biết, cả Viêng Chăn không có một chợ nào giới thiệu

hàng Việt Nam, trong khi ở một số nước khác (Trung Quốc), có tới 2 chợ...

“Từng có những vị trí đẹp ở thành phố lớn đã được dành cho DN Việt Nam

làm trung tâm thương mại, tuy nhiên, đã 2 - 3 năm trôi qua, mà DN Việt Nam

vẫn chưa triển khai được dự án, khiến hàng Việt Nam chưa có nhiều cơ hội đến

với người dân Lào. Đó là chưa kể, hàng Việt Nam chưa tự tin cạnh tranh với

hàng Thái Lan và hàng Trung Quốc; hay tâm lý cho rằng, thị trường Lào không

lớn, nên không dốc sức để phát triển, thâm nhập”, ông Bảng phân tích.

63

Từ năm 1994, Công ty Dược - Trang thiết bị y tế Bình Định là doanh

nghiệp đầu tiên của tỉnh tiến hành đầu tư vào tỉnh Champasak - Lào trong lĩnh

vực sản xuất dược phẩm, tổng mức đầu tư 2 triệu USD. Hiện nay, nhà máy

đang hoạt động sản xuất rất hiệu quả, các sản phẩm do nhà máy sản xuất

không chỉ tiêu thụ tại Champasak mà còn được phân phối đến các tỉnh

Sekong, Attapu và cả nước bạn Lào.

Trước thành công đó, năm 2006 Công ty Bidina đầu tư dự án trồng cây

cao su lấy gỗ và xây dựng Nhà máy chế biến mũ cao su tại tỉnh Sekong với

tổng vốn đầu tư thực hiện trên 120 tỉ đồng và Công ty Cao su Hữu nghị Lào -

Việt cũng thực hiện dự án trồng cây cao su và xây dựng Nhà máy chế biến mũ

cao su tại Sekong với mức đầu tư 10 triệu USD. Hai dự án này đang được triển

khai khá hiệu quả. Đồng thời, một số doanh nghiệp khác của tỉnh cũng đang

trong quá trình xin phép đầu tư vào các tỉnh Nam Lào. Điều này cho thấy, Lào

đang là địa chỉ thu hút đầu tư của các doanh nghiệp tỉnh Bình Định nói chung

và cả nước nói riêng. Tuy nhiên, cũng như các doanh nghiệp khác đang đầu tư

tại Lào, các doanh nghiệp của tỉnh cũng gặp khó khăn về nguồn lao động tại

chỗ trong khi chính quyền sở tại lại hạn chế số lượng lao động Việt Nam sang

làm việc và áp dụng thuế suất thuế thu nhập cá nhân rất cao; việc tiếp cận, cập

nhật các cơ chế chính sách vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế…

Tiểu kết chương 2

Sông Mê Công có tiềm năng rất phong phú từ dòng chính đến các dòng

nhánh trên lưu vực trong việc cung cấp nước, năng lượng cho phát triển kinh

tế đặc biệt là thủy điện (với tổng công suất ước tính khoảng 53.000MW, trong

đó các nước hạ lưu khoảng 30.000MW bao gồm chủ yếu Lào, Camphuchia và

Việt Nam, và phần thượng lưu vực sông Mê Công có tiềm năng ước tính đạt

23.000 MW, chủ yếu ở Trung Quốc). Để sử dụng bền nguồn nước sông Mê

Công đối với phát triển kinh tế của Lào, nguồn tài nguyên này trên đất Lào

cần được đánh giá về tiềm năng cũng như hiện trạng trên quan điểm tổng hợp,

64

bao gồm địa lí tự nhiên,kinh tế, xã hội, nhân văn. Thông qua đánh giá chung

các DA đang và sẽ triển khai với nhiều điều kiện thuận lợi cũng như khó

khăn, chúng ta hiểu được bên cạnh những thế mạnh về tiềm năng thủy điện ở

lưu vực sông Mê Công, cũng còn có rất nhiều vấn đề cần được quan tâm

nghiên cứu để không những đảm bảo phát huy hết tiềm năng thủy điện mà

còn đảm bảo sự công bằng về mặt sử dụng nguồn nước giữa các nước trong

lưu vực và vấn đề môi trường sinh thái trên toàn lưu vực. Mục tiêu cuối cùng

của chương này là là nổi bật ước mơ cũng như tham vọng biến nước Lào trở

thành Cô-owet (Kuwait) thủy điện theo tinh thần sử dụng công bằng, chia sẻ

và quản lí tài nguyên nước xuyên biến giới.

65

Chương 3

NHỮNG DỰ ÁN SỬ DỤNG NƯỚC MÊ CÔNG TRÊN LÃNH THỔ

CHDCND LÀO VÀ ĐỊNH HƯỚNG SỬ DỤNG CÔNG BẰNG

NGUỒN NƯỚC SÔNG MÊ CÔNG

3.1. Xây dựng thủy điện

3.1.1. Dự án Xayyabury

Đó là thông tin từ Ban thư ký Ủy hội sông Mê Công (MRC), ngày 8/11.

Dự án thủy điện Pak Beng dự định xây trên dòng chính sông Mê Công tại tỉnh

Oudomxay, phía bắc nước Lào, công suất lắp đặt 912 MW với lưu lượng

dòng xả theo thiết kế hơn 5.700m3/giây. Đây là dự án thủy điện thứ ba trên

dòng chính sông Mê Công thuộc lãnh thổ Lào, sau thủy điện Xayaburi và Don

Sahong. Thông cáo cho biết Ủy ban sông Mê Công Lào đã nộp cho Ban thư

ký MRC một báo cáo mô tả chi tiết về quy hoạch thủy điện của Lào, trong đó

có dự án thủy điện Pak Beng. Báo cáo này được Ban thư ký xem xét trong

vòng một tháng và sẽ trình lên Ủy ban liên hợp MRC. Lào sẽ nhận sự tư vấn,

hỗ trợ kĩ thuật của Ban Thư ký MRC, bản thân các nước thành viên sẽ xem

xét các khía cạnh kỹ thuật của dự án, đánh giá tác động của dự án đối với môi

trường và sinh kế tới cộng đồng ven sông và đề xuất các biện pháp để giải

quyết. Việc tham vấn trước là thủ tục bắt buộc đối với các quốc gia trong lưu

vực khi thực hiện các dự án trên dòng chính sông Mê Công. Quá trình tham

vấn có thể kéo dài đến 6 tháng hoặc hơn, trước khi tiến hành thỏa thuận các

điều kiện bắt buộc đối với từng dự án.

Trước đó, 2 DA thủy điện Xayyaburi và Don Sahong của Lào, nằm trên

dòng chính sông Mê Công cũng đã được trình lên Hội đồng MRC, nhưng vấp

phải phản đối kịch liệt của các nước và quá trình tham vấn vẫn không đạt

được nhất trí chung. Riêng với đập Xayyaburi, quá trình tham vấn cũng đã

buộc chủ đầu tư phải đầu tư thêm 400 triệu USD để thiết kế lại bậc thang di

chuyển cho cá và điều tiết phù sa. Ông Phạm Tuấn Phan, Giám đốc điều hành

66

Ban thư ký Ủy hội sông Mê Công (MRC) cho biết: "Chúng tôi đã có được bài

học từ hai trường hợp trước đó, hiện nay Ban thư ký đã sẵn sàng để hỗ trợ các

nước thành viên xem xét dự án, đánh giá các khía cạnh kỹ thuật và đi đến kết

luận một cách toàn diện và có ý nghĩa nhất".

MRC cùng với Ủy ban sông Mê Công quốc gia sẽ tạo điều kiện cho quá

trình tham vấn quốc gia và khu vực để lấy ý kiến của công chúng về dự án này.

Về mối nguy hại của những dự án thủy điện trên dòng chính sông Mê Công,

trao đổi với Đất Việt, GS.TS Vũ Trọng Hồng, Chủ tịch Hội Thủy lợi Việt Nam,

nguyên Thứ trưởng Bộ NN-PTNT cho rằng, "trong tương lai dòng Mê Công sẽ

chết", bởi điều nguy hiểm nhất khi các nước xây dựng thủy điện, đó là vào mùa

kiệt, các nước có thủy điện sẽ tích nước lại để vận hành thủy điện trong khi

quốc gia ở dưới hạ lưu sông Mê Công n hư Việt Nam lại cần xả.

Hiện nay, lưu lượng dòng chảy ở ĐBSCL khoảng 6.000m3/s, đó là dòng

chảy sinh thái, rửa trôi tất cả những chất độc, đẩy mặn ra biển. Thế nhưng, sau

này, khi Lào làm xong thủy điện, đến mùa kiệt sẽ chỉ còn vài trăm m3/s, coi như

sông Mê Công thành dòng sông chết, trong khi lưu lượng tối thiểu chúng ta cần

ở là 2.000m3/s. Trong khi, TS Dương Văn Ni, khoa Môi trường và Tài nguyên

thiên nhiên (Đại học Cần Thơ) nhấn mạnh: "Ủy hội sông Mê Công chỉ là ủy hội

nhằm hỗ trợ các nước trong lưu vực hiểu nhau, giúp đỡ nhau trong việc cùng sử

dụng dòng Mê Công. Nói cách khác, Ủy hội giống như bên trung gian giúp cho

các nước sử dụng dòng Mê Công một cách bền vững chứ không có cơ sở ràng

buộc pháp lý nào. Nếu 11 thủy điện được xây dựng trên dòng chính Mê Công

cộng với biến đổi khí hậu thì dòng sông Mê Công nói chung và ĐBSCL nói

riêng sẽ "gặp đại nạn". Nói rõ hơn, GS Vũ Trọng Hồng cũng nhấn mạnh: "MRC

không có thẩm quyền về mặt pháp lý để chống lại việc xây dựng thủy điện của

một nước thành viên. Thay vào đó, Ủy hội chỉ có tính chất là một tổ chức quốc

tế, nơi các nước tự cam kết ngồi với nhau để cùng chia sẻ, sử dụng dòng Mê

Công, hỗ trợ nhau về thông tin, kinh nghiệm sử dụng dòng sông".

67

3.1.2. Dự án Pak Beng

Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà - Chủ tịch Ủy ban

sông Mê Kông Việt Nam vừa có chuyến thăm và làm việc với Bộ trưởng Bộ Tài

nguyên và Môi trường, Chủ tịch MRC quốc gia Lào Sommad Pholsena để trao

đổi về quá trình tham vấn trước đối với dự án thủy điện Pắc Beng. Theo thông

tin từ Bộ Tài nguyên và Môi trường, Đoàn Việt Nam đã trao đổi trên tinh thần

chân tình, cởi mở, tin cậy với các bạn Lào về quá trình tham vấn dự án thủy điện

Pak Beng với mục tiêu giúp bạn Lào đánh giá tác động toàn diện của công trình

thủy này đối với người dân Lào, thượng nguồn cũng như hạ du, bao gồm

ĐBSCL Việt Nam. Từ đó có những biện pháp giảm thiểu tác động tối ưu nhằm

sử dụng hiệu quả và bền vững nguồn tài nguyên nước lưu vực sông Mê Kông,

tăng cường tình đoàn kết đặc biệt, hữu nghị và truyền thống giữa hai nước.

Đại diện MRC Việt Nam đã báo cáo hai Bộ trưởng nội dung tham vấn

trước cũng như những đề xuất của phía Việt Nam liên quan đến dữ liệu sử

dụng, các giải pháp bảo đảm dòng chảy, phù sa bùn cát, giao thông thủy,

đường di chuyển của cá, chất lượng nước, tác động xuyên biên giới, an toàn

công trình. Đại diện Bộ Năng lượng và Mỏ của Lào đã nêu các giải pháp đang

được thực hiện nhằm hoàn thiện hơn nữa báo cáo, cũng như để giải quyết

những vấn đề các bên liên quan còn quan ngại như hạ thấp chiều cao của đập,

hạ thấp cửa xả phục vụ xả phù sa lơ lửng, phù sa đáy hồ. Đồng thời mời Công

ty Snowy Mountains Engineering Corporation (SMEC) của Australia vào

nghiên cứu bổ sung về số liệu cá di cư và thiết kế đường cá đi; thuê công ty

giám sát của Pháp tham gia giám sát an toàn công trình bên cạnh sự giám sát

của chủ đầu tư.

Bộ trưởng Trần Hồng Hà khẳng định, Việt Nam hoan nghênh các bộ,

ngành liên quan của Lào đã hợp tác, cung cấp thông tin cho các bên trong quá

trình tham vấn trước đối với dự án thuỷ điện này trên tinh thần cầu thị, lắng

nghe ý kiến của các chuyên gia quốc tế, các nhà khoa học và các khuyến nghị

68

của Ủy hội sông Mê Công quốc tế. Từ đó có những giải pháp kịp thời như

bổ sung các nghiên cứu, đánh giá môi trường, động đất, đánh giá tác động

xuyên biên giới và tích cực tham vấn với sự tham gia của nhiều bên đối với

dự án. Ông Trần Hồng Hà cũng đề nghị phía Lào bổ sung số liệu, áp dụng

các phương pháp khoa học tiên tiến phục vụ việc dự báo, đánh giá chính xác

tác động của công trình, bảo đảm công trình vận hành an toàn cũng như để

điều tiết nước một cách phù hợp, bảo đảm lợi ích hài hoà giữa các ngành

kinh tế của Lào, cũng như việc chia sẻ hiệu quả tài nguyên nước giữa các

nước trong lưu vực, giữ vững các lợi ích về kinh tế, xã hội và văn hoá của

dòng sông Mê Công.

Theo thông tin từ Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ trưởng Sommad

Pholsena Lào đánh giá cao các nhận xét, đề nghị của phía Việt Nam và coi đây

là những thông tin quan trọng để phía Lào hoàn thiện báo cáo về dự án thuỷ điện

Pak Beng. Phía Lào khẳng định sẽ phối hợp với các thành viên khác trong Ủy

hội sông Mê Công quốc tế và Ban thư ký Ủy hội trong việc tiếp tục hoàn thiện

báo cáo, xem xét ý kiến của các bên liên quan một cách có trách nhiệm nhằm

bảo đảm hài hoà lợi ích của các nước ven sông theo Hiệp định Mê Kông 1995.

Hai bộ trưởng nhất trí sẽ phối hợp cùng với các nước thành viên khác

của Ủy hội và Ban thư ký Ủy hội sông Mê Kông thông qua một Tuyên bố

chung về Tham vấn trước đối với dự án thuỷ điện Pắc Beng để thống nhất các

giải pháp nhằm giảm thiểu tác động của công trình đối với các quốc gia ven

sông, đảm bảo hài hoà các lợi ích về kinh tế, xã hội và môi trường của các bên

và sự phát triển bền vững lưu vực sông Mê Công. Hai Bộ trưởng cũng nhất trí

cho rằng các nước trong Ủy hội sông Mê Công và cơ chế hợp tác Mê Công -

Lan Thương cần sớm xây dựng cơ chế pháp lí và kỹ thuật để giám sát chung

và chia sẻ thông tin, vận hành, điều tiết các hồ thuỷ điện trong khuôn khổ Ủy

hội và cơ chế hợp tác Mê Công - Lan Thương.

Chuyên gia lo lắng: Dự án thủy điện Pak Beng cách Thủ đô Viên Chăn

hơn 600km về phía thượng lưu, cách biên giới Việt Nam 1.933km.

69

Công trình này có công suất thiết kế 912MW, điện lượng 4,765 GWh

chủ yếu xuất khẩu sang Thái Lan (90%). Đây là công trình đầu tiên trong

chuỗi 11 bậc thang thủy diện dòng chính dự kiến được xây dựng trong vùng

hạ lưu lưu vực sông Mê Kông và là công trình thứ 3 được đề xuất xây dựng

sau Xayabuly và Đôn-sa-hông. Chủ đầu tư là Công ti sản xuất năng lượng

quốc tế Datang của Trung Quốc.

Tại hội thảo do Uỷ ban sông Mê Công Việt Nam tổ chức cách đây chưa

lâu, nhiều chuyên gia khi xem xét tác động ở các khía cạnh thủy văn-thủy lực,

phù sa bùn cát, thủy sản-hệ sinh thái, chất lượng nước, kinh tế xã hội, giao

thông thủy, an toàn đập đều có thể thấy chủ đầu tư dự án chỉ ưu tiên phát điện

kinh doanh, xem nhẹ các vấn đề bảo tồn hệ sinh thái, môi trường. Trong số 11

công trình thủy điện của Lào và Campuchia trên dòng Mê Công dự kiến làm

thì mỗi công trình có một chủ đầu tư khác nhau làm, mỗi chủ đầu tư lại làm

theo các tiêu chuẩn khác nhau, mạnh ai nấy làm, không đồng nhất. Các

chuyên gia cho rằng cần đặt ra về hậu quả của chuyện này về vai trò của Ủy

hội Mê Công.

3.2. Dự án Khai thông giao thông trên sông Mê Công

Nguy cơ về môi trường chỉ là một trong số những vấn đề đáng quan

ngại của dự án khai thông đường thủy trên sông Mê Công đang được các

nước Trung Quốc, Thái Lan, Lào và Myanmar triển khai vì vẫn còn nhiều vấn

đề đặt ra đằng sau mục tiêu của dự án này. Ngoài vấn đề môi trường, quan

ngại với dự án này còn là chiến lược của Trung Quốc nhằm sử dụng dòng

sông như một cửa ngõ giao thông đưa hàng hóa tới Đông Nam Á. Với lợi thế

có đường biên giới với Lào, Myanmar và bắc Thái Lan, chính phủ Trung

Quốc đã nhìn thấy tiềm năng tứ giác kinh tế của khu vực nên đã và đang nỗ

lực biến dòng Mê Công trở thành tuyến đường thương mại lớn từ năm 1992,

lấy cảng Tư Mao ở tỉnh Vân Nam làm điểm khởi đầu.

Trung Quốc đã tạo ra các công cụ pháp lí và động cơ mang tính quốc tế

để xúc tiến kế hoạch này. Tháng 4/2001, Trung Quốc, Myanmar, Lào và Thái

70

Lan đã ký Hiệp định giao thông thủy thương mại. Và chỉ vài tháng sau đó,

bốn quốc gia này đã thành lập Ủy ban Điều phối giao thông thủy thương mại

(JCCCN) để thúc đẩy quá trình xây dựng thủy lộ cho các thương thuyền.

Theo chủ trương của Trung Quốc, JCCCN đã bắt đầu triển khai giai đoạn khai

thông tuyến đường thủy từ khoảng một thập kỉ trước.

Tại cuộc họp ở Myanmar hồi năm ngoái, JCCCN tiếp tục thực hiện giai

đoạn thứ hai, yêu cầu các nước kéo dài con đường thủy này đến Luang

Prabang (Lào) và xa hơn nữa. Tại khu vực Khon Pi Luang thuộc biên giới

Thái Lan và Lào, kế hoạch này đã vấp phải sự phản đối kịch liệt của người

dân địa phương và các nhà hoạt động môi trường. Để chuẩn bị cho giai đoạn

thứ hai của dự án, công ty tư vấn CCCC Second Harbor của Trung Quốc đang

tiến hành khảo sát khu vực sông. Dự kiến sau khi quá trình khảo sát hoàn

thành vào tháng 11, Thái Lan sẽ giúp công ty này đánh giá ảnh hưởng môi

trường và xã hội của dự án vào tháng 12. Vấn đề thứ hai đặt ra liên quan đến

tính kết nối địa lý của khu vực. Nếu so sánh với các tuyến đường vận tải đã

có, sông Mê Công không phải là đường tắt để trao đổi hàng hóa giữa Trung

Quốc, Lào và Thái Lan. Cụ thể, đường sông dài 590 km từ cảng Tư Mao (Vân

Nam, Trung Quốc) qua Huay Xay (Lào) đến Chiang Kong (Thái Lan) trong

khi tuyến đường bộ chỉ vào khoảng 450 km. Tương tự như vậy, khoảng cách

đường thủy từ cảng Tư Mao tới Luang Prabang dài 890km trong khi đường

bộ chỉ dài 510km.

Tuyến đường thủy Mê Công từ Tư Mao tới Vientiane dài khoảng

1380km trong khi đường bộ chỉ khoảng 890 km. Mặc dầu vậy, theo nghiên

cứu của Ủy hội Sông Mê Công, chi phí vận tải thấp hơn có thể bù đắp được

quãng đường chênh lệch giữa đường thủy và đường bộ. Nghiên cứu cho thấy

chi phí để vận chuyển hàng hóa bằng đường bộ từ Tư Mao đến Chiang Kong

là 39,47USD/tấn, trong khi vận chuyển bằng đường thủy chỉ tốn 23,22 USD.

Các tuyến đường bộ giữa các thành phố của Trung Quốc với Lào và Thái Lan

đã được cải thiện. Mặc dù vậy, Trung Quốc cũng như một số quốc gia trong

71

khu vực sông Mê Công vẫn duy trì quan điểm sông Mê Công cần được phát

triển như một con đường vận chuyển thay thế và hỗ trợ cho các tuyến đường

đã có.

Vấn đề đáng lưu tâm liên quan đến giá trị kinh tế của việc phát triển

dòng sông. Cụ thể, trao đổi thương mại giữa Thái Lan với Trung Quốc, Lào

và Myanmar trên sông Mê Công ước tính đạt đến 15,9 tỉ Bath, qua đường cao

tốc R3A ước tính khoảng 19 tỉ Bath vào năm ngoái. Điều này cho thấy tuyến

đường thủy trên sông Mê Công vẫn chỉ là lựa chọn phụ so với những con

đường bộ thuận tiện. Cuối cùng, ảnh hưởng của dự án phát triển trên sông Mê

Công tới biên giới các quốc gia cũng là vấn đề cần phải được xem xét.

Các nhà chức trách đã lên tiếng bày tỏ quan ngại tại các cuộc họp của

JCCCN rằng việc thông tuyến đường thủy trên sông Mê Công sẽ làm thay đổi

biên giới Thái Lan và Lào. Các quan chức Thái Lan cũng một mực cho rằng

việc thông tuyến đường thủy này không thể thực hiện nếu 1000 km dòng chảy

sông Mê Công không được phân chia một cách rõ ràng. Tuy dự án này vẫn

còn đang ở những giai đoạn khởi đầu, nhưng Trung Quốc đã gửi tín hiệu

khẳng định quyết tâm thực hiện thành công dự án này.

3.3. Những dư luận trái chiều về các dự án khai thác nước sông Mê Công

trên đất Lào

Ủy ban sông Mê Công được thành lập từ năm 1995, nhưng những

nguyên tắc hợp tác để cùng nhau khai thác con sông Mê Công đã hình thành

từ năm 1957, khi bốn nước là Việt Nam (lúc đó là Việt Nam Cộng hòa, miền

Nam Việt Nam) cùng ba Vương quốc láng giềng là Thái Lan, Lào và

Campuchia, dưới sự bảo trợ của Liên Hiệp Quốc đã cùng nhau thỏa thuận là

sẽ hợp tác để khai thác chung con sông này. Hiện nay của Ủy ban Sông Mê

Công có ghi rằng sứ mạng của Ủy ban sông Mê Công là thúc đẩy và hợp tác

nhằm phát triển bền vững nguồn nước và những nguồn lợi liên quan tới nước,

cho lợi ích chung của các quốc gia thành viên. Bổn phận của Ủy ban Sông Mê

72

Công là một tổ chức liên chính phủ đóng vai trò trong việc giải quyết những

tác động môi trường xuyên biên giới.

Tuy nhiên theo Liên minh cứu Sông Mê Công, một tổ chức phi chính

phủ đấu tranh chống việc xây đập thủy điện trên dòng Mê Công, Ủy ban Sông

Mê Công đã thất bại trong những nhiệm vụ do chính họ đề ra. Nói về nhận

định của Liên minh cứu Sông Mê Công rằng Ủy ban Sông Mê Công đã thất

bại trong việc phát triển bền vững con sông này, Tiến sĩ Dương Văn Ni, một

chuyên gia về sông Mê Công, từ Cần thơ cho chúng tôi biết: “Bắt đầu khoản

một thập niên trở lại đây, khi các quốc gia này phát triển với một cường độ rất

nhanh, Ủy ban này bộc lộ điểm yếu, ít nhất là nó không giúp cho các chính

phủ của những quốc gia (thành viên) ở hạ nguồn đồng thuận ở những điểm

căn bản mà đã được đưa ra trước khi thành lập Ủy ban sông Mê Công này.”

Ông dẫn chứng ví dụ về đập nước Xayaburi mà nước Lào bắt đầu xây vào

năm 2012, khi đó Thủ tướng Việt Nam là ông Nguyễn Tấn Dũng đã đề nghị

Vientiane dời thời gian xây dựng để nghiên cứu thêm tác động của nó nhưng

không thành công, và Ủy ban Sông Mê Công đã không giúp gì được trong

việc điều hòa lợi ích giữa Lào và hai nước ở hạ du là Campuchia và Việt

Nam, nơi hứng chịu nhiều tác động xấu của con đập này.

Dòng Mê Công huyền thoại bắt nguồn từ Trung Quốc, chảy qua Lào,

Myanmar, Thái Lan, Campuchia rồi đổ về biển Đông qua Việt Nam nay đã

khác nhiều so với hình dạng nguyên sơ của nó. Dòng sông đang hằn lên dấu

vết của con người với những tham vọng khai phá thiên nhiên, phục vụ phát

triển kinh tế và công nghiệp hóa. Dưới đây là bản lược dịch bài bình luận

Hydropower Dams on the Mê Công: Old Dreams, New Dangers (Tạm dịch:

Đập thủy điện trên sông Mê Kông: Giấc mộng cũ, Nguy cơ mới) của ông

Richard P. Cronin - Giám đốc Chương trình Đông Nam Á và Dự án Chính

sách Mê Công thuộc Trung tâm Stimson.

Sông Mê Công hiện đang đứng bên bờ vực của một thảm họa kép do

chính con người tạo ra. Với giấc mộng khai phá nguồn tài nguyên giá trị trong

73

rừng, từ các mỏ khoáng sản và dưới lòng sông… vì mục đích kinh tế, con

người đã từng bước làm thay đổi hình thái, dòng chảy và tính đa dạng của các

hệ sinh thái lưu vực sông. Thậm chí, những hoạt động như phá rừng, sử dụng

nước ngầm thiếu bền vững và nhất là việc xây nhiều đập lớn… còn gây tác

động nhanh hơn so với các hiện tượng như nóng lên toàn cầu, nước biển dâng

hay hiện tượng thời tiết khắc nghiệt. Liên quan đến việc khai thác nguồn lợi

từ dòng sông Mê Công, có thể thấy một tham vọng lớn từ Trung Quốc - quốc

gia có mục tiêu khai thác triệt để tiềm năng thủy điện ở thượng nguồn Mê

Công, bất kể quyền lợi và sự quan ngại của các quốc gia phía hạ nguồn. Họ

coi Mê Công là dòng sông quốc gia và nghiễm nhiên coi các thông tin về kế

hoạch phát triển liên quan đến Mê Công, hoạt động vận hành đập và thậm chí

là cả mực nước hồ chứa là bí mật quốc gia và chính điều này đang khiến các

nước hạ nguồn phải trả giá. Sinh kế và cuộc sống của hàng chục triệu người

dân, chủ yếu ở Thái Lan, Campuchia và Việt Nam, vốn sống phụ thuộc vào

những nguồn lợi từ sông Mê Kông đang bị chuỗi đập mà Trung Quốc xây tại

tỉnh Vân Nam đe dọa.

Hệ thống hồ chứa của chuỗi đập được biết có thể chứa ít nhất một nửa

lưu lượng nước trung bình hàng năm của vùng thượng nguồn. Như vậy là

ngoài việc làm thay đổi đáng kể mô hình thủy văn của sông Mê Công thông

qua việc giữ lại khoảng 80% dòng chảy phù sa giàu dinh dưỡng bắt nguồn từ

Trung Quốc, chuỗi đập này còn làm giảm độ màu mỡ của đất ở vùng hạ lưu

vực, đồng thời tạo điều kiện cho nước biển xâm nhập vào khu vực ĐBSCL

của Việt Nam.

Không chỉ Trung Quốc mà trong vài thập niên trở lại đây, Việt Nam,

Campuchia và Lào cũng đã xây dựng đập trên cả dòng nhánh và dòng chính

sông Mê Công. Do đó, những lời cảnh báo đối với Trung Quốc cũng chẳng

giúp gì trong việc ngăn cản Trung Quốc tiếp tục theo đuổi mục tiêu của

mình. Thậm chí gần đây, mũi nhọn chỉ trích có vẻ đang nghiêng sang Lào khi

nước này đề xuất xây 12 con đập trên dòng chính phía hạ nguồn Mê Công và

74

thực tế đang tiến hành xây con đập đầu tiên là Xayyaburi và khả năng tiếp

theo sẽ là Don Sahong.

Dòng Mê Công rõ ràng đang mắc kẹt giữa những tham vọng của con

người. Vẫn biết nếu muốn phát triển thì phải chấp nhận đánh đổi, song cái giá

của sự đánh đổi có thể sẽ thấp hơn nhiều nếu các bên cùng hợp tác và thỏa

hiệp để quản lý bền vững nguồn tài nguyên nước lưu vực sông. Hoạt động

thúc đẩy và phối hợp quản lý nguồn nước phía hạ nguồn lâu nay đều do Ủy

hội Sông Mê Công (MRC) đứng ra làm đầu mối. Thế nhưng những khác biệt

về chính trị và quan điểm cùng với những khó khăn trong việc sẻ chia và phát

triển nguồn tài nguyên chung đã khiến vai trò của MRC trở nên mờ nhạt. Đập

Xayyaburi ở phía bắc Lào là thử nghiệm đầu tiên chứng minh Quy trình

Thông báo, Tham vấn trước và Thỏa thuận (PNPCA) của MRC hoàn toàn thất

bại. Hơn hai năm trước, tại một cuộc họp của MRC, Việt Nam và Campuchia

đã bày tỏ thái độ không tán thành việc triển khai dự án đập Xayyaburi vì lo

ngại những tác động nghiêm trọng tới nghề cá, phù sa và sinh kế được nêu

trong bản Đánh giá Môi trường Chiến lược (SEA) công bố hồi tháng 10/2010.

Mặc dù một tháng sau đó, Chính phủ Lào đã đồng ý tạm hoãn xây Xayyaburi

để nghiên cứu sâu hơn nhưng không vì thế mà các công đoạn chuẩn bị xây

con đập này bị gián đoạn. Bỏ qua mọi mũi dùi công kích từ các nước bạn, xã

hội dân sự và cộng đồng địa phương cư trú dọc sông Mê Công, tháng

11/2012, Lào tuyên bố dự án sẽ tiếp tục khởi công. Động thái của Lào đã

chứng minh sự thất bại của PNPCA, từ đó khiến dư luận phải đặt dấu hỏi về

vai trò của MRC trong việc thúc đẩy và phối hợp các nước thành viên quản lí

nguồn tài nguyên nước phía hạ nguồn.

Ngoài MRC còn có một cơ chế hợp tác khác do Ngân hàng Phát triển

Châu Á (ADB) khởi xướng năm 1992 mang tên Tiểu vùng Sông Mê Công

Mở rộng (GMS). Đáng tiếc là cơ chế này lại chỉ thiên về các hoạt động hợp

tác phát triển kinh tế, không tham gia điều chỉnh việc hợp tác quản lý lưu vực

sông. Những bất đồng ngày càng tăng liên quan tới vấn đề xây đập trên dòng

75

chính hạ nguồn sông Mê Công đang tạo ra những mối chia rẽ mới trong khu

vực, đồng thời đe dọa sáng kiến chia sẻ dòng sông vì tương lai chung. Trong

tình hình hiện tại, nếu MRC không thể điều phối quy trình đánh giá PNPCA

có ý nghĩa hơn đối với hai dự án đập của Lào là Don Sahong và Pak Beng, và

nếu Lào không thể cho các nước hạ nguồn khác thấy được trách nhiệm của

mình thì căng thẳng sẽ còn tiếp tục gia tăng. Một giải pháp được đề xuất để

xóa bỏ tình trạng chia rẽ giữa các quốc gia trong lưu vực là thiết lập một bộ

tiêu chuẩn có thể gọi tên là “Tiêu chuẩn Mê Công” quy định rõ mức độ tác

động xuyên biên giới cao nhất có thể chấp nhận từ các đập dòng chính.

Bộ Tiêu chuẩn này được xây dựng trên cơ sở sẵn có trong Hiệp định

Mê Công 1995, theo đó thì mọi thay đổi trên dòng chính của sông không

được gây ảnh hưởng tới dòng chảy tự nhiên nhỏ nhất trong mùa khô cũng như

không chuyển dòng chảy vào Biển hồ Tonle Sap trong mùa mưa. Mục tiêu

chủ yếu của bộ Tiêu chuẩn trên là nhằm đảm bảo quá trình phát triển thủy

điện hạ nguồn Mê Kông diễn ra thuận lợi và có sự phối hợp nhịp nhàng giữa

các bên liên quan, vừa tối đa hóa được lợi ích, vừa giảm thiểu rủi ro.

Cũng cần lưu ý rằng điều kiện tiên quyết để quá trình phát triển thủy

điện trở nên khả thi, liên kết và bền vững hơn là phải xây dựng được lưới điện

cho vùng hạ lưu vực Mê Công. Bởi lẽ, khi hình thành lưới điện xuyên quốc

gia, các nước bị ảnh hưởng bởi câu chuyện xây đập ở Lào hay Campuchia sẽ

có tiếng nói thực sự trong việc đồng ý hay phản đối xây đập và khi xảy ra tình

trạng thiếu điện cục bộ hay trên toàn khu vực, các nước sẽ có thể phối hợp

giải quyết để không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của nhau. Và trên hết,

muốn quản lí và phát triển bền vững nguồn tài nguyên nước lưu vực sông bất

kể thông qua MRC, GMS hay bộ Tiêu chuẩn Mê Công, các quốc gia thành

viên cần phải thể hiện ý chí và quyết tâm mạnh mẽ, đồng thời sẵn sàng hợp

tác, thỏa hiệp trong việc chia sẻ dòng sông vì tương lai chung.

76

3.4. Chiến lược sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê Công

3.4.1. Hội nghị sử dụng bền vững nguồn nước GMS nhìn từ thể từ ĐBSCL

Việt Nam

Một trong những tranh luận mạnh mẽ nhất là tác động của thủy điện

đến các khu vực ven sông, cụ thể là Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL),

vùng đang chịu hạn hán và xâm nhập mặn nghiêm trọng từ đầu năm 2016. Ở

Việt Nam nói riêng, tình trạng thiếu nước và ngập mặn tại ĐBSCL gần đây là

ví dụ tiêu biểu cho mâu thuẫn lợi ích giữa các quốc gia thượng nguồn và hạ

nguồn. Hội thảo Sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê Công đã đem lại

một cuộc thảo luận đa chiều, đa góc độ và kết hợp đa dạng các đối tượng liên

quan theo góc nhìn quốc gia và tầm nhìn khu vực về: các vấn đề và mâu thuẫn

lợi ích trong việc xây dựng đập thủy điện trên sông Mê Công, môi trường và

biến đổi khí hậu tại lưu vực sông Mê Công, các tình huống và khả năng phát

triển cho lưu vực sông Mê Công : Tác động và hậu quả đến sinh kế của các

cộng đồng ven sông liên quan.

Mê Công là con sông có chiều dài đứng thứ 12 trên thế giới và đứng

thứ 7 trong khu vực châu Á, đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế

xã hội của các nước gồm: Trung Quốc, Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia

và Việt Nam. Trong vòng 60 năm qua, hệ thống sông Mê Công từ cao nguyên

Tây Tạng đến ven biển Đông của ĐBSCL đã kinh qua rất nhiều biến động do

các hoạt động kinh tế của con người: rừng của vùng Vân Nam bị mất trên

75%, rừng quanh Biển Hồ mất trên 20%; nhiều đập thủy điện, trạm bơm thủy

lợi phục vụ nông nghiệp, công nghiệp, dân sinh được xây dựng tràn lan dọc

sông Mê Công từ Vân Nam (Trung Quốc), Myanmar, Lào, Thái Lan,

Campuchia, Việt Nam... Những hoạt động này cùng với những hoạt động

“nhân tai” khác đã làm cho khí hậu trái đất biến đổi và làm dòng nước sông

Mê Kông ngày càng thay đổi không lường trước được, trong đó vùng bị ảnh

hưởng nặng nề nhất chính là ĐBSCL. Trước hoàn cảnh này, việc sử dụng

77

nguồn nước sông Mê Kông sao cho đạt hiệu quả tối ưu trong vùng ĐBSCL để

bảo đảm được an ninh lương thực quốc gia và nâng cao lợi tức của nông dân

một cách bền vững là nhu cầu cấp thiết hiện nay.

Hiện trạng nguồn nước ở ĐBSCL hằng năm, ĐBSCL nhận được một

lượng nước lớn từ thượng lưu, trước khi chảy ra biển Đông. Tuy nhiên, châu

thổ sông Mê Kông cũng được đánh giá là 1 trong 3 châu thổ lớn của thế giới

bị đe doạ nghiêm trọng bởi biến đổi khí hậu. Ngoài ra, theo dự báo vào năm

2100, ĐBSCL sẽ bị ngập khoảng 1/3 diện tích nếu mực nước biển dâng lên

khoảng 1 m. ĐBSCL phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nước của sông Mê

Kông, chính vì thế khi các đập thủy điện ở thượng nguồn được xây dựng đã

làm thay đổi về chế độ dòng chảy cũng như làm giảm đi lượng phù sa, gây

thiệt hại rất lớn đến nguồn thủy sản ở ĐBSCL. Đặc biệt, ĐBSCL với hai trụ

cột kinh tế lớn là sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản, sự thay đổi

đó đã làm cho hệ sinh thái của vùng biến đổi, sinh kế người dân gặp nhiều

khó khăn và gây ra những tác hại dây chuyền khác từ tổn thất về kinh tế - xã

hội và môi trường.

Với lượng nước quá ít từ thượng nguồn cao nguyên Tây Tạng, hàng

năm khi băng tan, chảy vào hệ thống sông Mê Kông hiện nay, trước khi

nước ngọt đến được ĐBSCL thì phải qua những dòng chảy bao gồm: qua ít

nhất 4 trong 11 đập thủy điện lớn của vùng Vân Nam (Trung Quốc) đang

vận hành; qua 2 đập thủy điện của Lào đang vận hành và sẽ xây thêm 2 đập

lớn nữa với hàng trăm trạm bơm trên các phụ lưu; xuống đến vùng khô hạn

phía đông bắc của Thái Lan (nơi mà Thái Lan đã chuyển dòng nước Mê

Kông vào hàng ngàn trạm bơm thủy lợi khác); chảy qua vùng Biển Hồ của

Campuchia rồi mới về tới Việt Nam. Lưu lượng dòng sông Mê Kông bắt đầu

thay đổi lớn từ sau năm 1978, khi dòng chảy đo tại Kratie (bắt đầu vào vùng

hạ lưu của Campuchia và ĐBSCL) trong mùa mưa lũ là 77.000 m3/s, giảm

xuống 34.000 m3/s.

78

Trạm Khí tượng thủy văn An Giang theo dõi mực nước sông Tiền tại

Tân Châu từ năm 1904 đã xác định truyền thuyết của cư dân vùng ĐBSCL từ

xa xưa là “năm Thìn bão lụt” (hễ đến năm Thìn là có ngập lụt). Đặc biệt là

năm 2016, trong những tháng mùa khô, hiện tượng El Nino kết hợp dòng

chảy giảm mạnh, hạn hán xảy ra khắp nơi trong toàn hệ thống sông Mê Kông

(trong đó nặng nề nhất là ở Thái Lan và Việt Nam), nước mặn xâm nhập vào

sâu trong đất liền vùng ĐBSCL.

Vấn đề sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê Công Trong bối cành

nước ngọt ngày càng giảm dần không thể đảo ngược được, chúng ta cần phải

thay đổi tập quán sử dụng lãng phí nguồn nước với nguyên tắc cơ bản là sử

dụng có lợi nhưng không lãng phí nước ngọt, không làm gia tăng tình trạng

biến đổi khí hậu. Theo đó, trong khu vực công nghiệp và dịch vụ, sự tiết kiệm

nước ngọt cần phải được thực hiện bằng những quy trình xử lý nước thải để

tái sử dụng lại trong công nghiệp và sinh hoạt vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi

trường. Tại các vùng nước mặn, từ xưa ông bà ta đã có tập quán tiết kiệm

nước ngọt (tắm trước cho sạch bằng nước mặn, xong rồi lấy vài gáo nước

ngọt xối lên thân mình để “rửa mặn”…). Trong khu vực nông nghiệp, chúng

ta cần kêu gọi sự hiểu biết và tự giác của người sản xuất và người tiêu dùng

trong khuôn khổ chính sách sử dụng nước phù hợp nhất trong tình hình nước

ngọt ngày càng khan hiếm như hiện nay. Sản xuất nông nghiệp phải có lời,

phải tính chi phí nước ngọt vào giá thành sản phẩm, có chính sách cân đối

giữa trồng lúa vừa đủ bảo đảm an ninh lương thực, vừa tiết kiệm nước, vừa có

dư diện tích đất để chuyển sang những cây trồng, vật nuôi có giá trị cao hơn.

Cụ thể, đối với vùng ngọt: chúng ta không thể tiếp tục sử dụng nước

ngọt như trong thời kỳ thiếu thốn lương thực của những năm 70-80 của thế kỉ

trước để sản xuất lúa bằng mọi giá. Lúc thiếu gạo, chính sách an ninh lương

thực đã huy động mọi nguồn lực để sản xuất lúa, kể cả phá rừng làm ruộng

lúa… nhưng giá luôn thấp khi bán ra thị trường vì chất lượng sản phẩm không

79

đạt chuẩn quốc tế. Do đó, để nâng cao năng suất và chất lượng lúa, chúng ta

cần phải áp dụng các kỹ thuật trồng lúa tiết kiệm nguồn nước đang ngày càng

khan hiếm như hiện nay. Các kỹ thuật có thể áp dụng bao gồm: tưới nước

luân phiên, áp dụng kỹ thuật sạ khô lúa hè thu sớm, luân canh lúa và tôm,

chuyển vùng đê bao 3 vụ lúa để trồng 2 vụ lúa Đông Xuân và Hè Thu để đất

nghỉ vụ Thu Đông nhằm lấy nước mưa cùng nước phù sa, chuyển vùng đê

bao 3 vụ lúa thành vùng cây ăn trái (xoài, bưởi, sầu riêng, măng cụt, chôm

chôm, nhãn, thanh long...). Tại vùng nhiễm mặn: chúng ta nên từ bỏ chính

sách ngọt hóa để trồng lúa mà chỉ giữ lại một vụ lúa đặc sản loại trung mùa để

trồng chính vụ mùa mưa, cần xóa bỏ các diện tích trồng lúa bấp bênh để

chuyển sang vùng nuôi tôm sinh thái, tôm quảng canh, hoặc tôm bán thâm

canh, trồng rừng ngập mặn kết hợp nuôi tôm, cá…

Trong những thập kỉ tới, ĐBSCL sẽ phải đối phó với thách thức toàn

cầu về biến đổi khí hậu và thách thức khu vực về việc sử dụng nguồn nước

sông Mê Kông trên thượng nguồn. Những thách thức này không tác động

riêng lẻ mà kết hợp liên hoàn gây ra những tác hại nghiêm trọng cả về kinh tế

và môi trường đối với ĐBSCL. Vì thế, nên chăng chúng ta cần có một số giải

pháp cơ bản như:

Một là, cần phải đổi mới tư duy sản xuất của nông dân: nhiều đời qua,

người nông dân đã quen với tập quán trồng lúa phải có đầy đủ nước, bón nhiều

phân đạm và thuốc bảo vệ thực vật nhằm đạt năng suất cao nhưng chất lượng

hạt gạo làm ra lại thấp. Do vậy, người dân cần phải đổi mới phương pháp sản

xuất bằng cách từ bỏ tập quán canh tác cũ để áp dụng các tiến bộ của kỹ thuật

nông nghiệp mới. Người nông dân cần phải tham gia tích cực trong các hợp tác

xã nông nghiệp kiểu mới để có dịp học hỏi và thực hiện chặt chẽ những quy

trình sản xuất theo kỹ thuật hữu hiệu, ít nhất trong các khâu sau đây: điều khiển

đất trồng (cày sâu, bừa trộn nhiều phân hữu cơ để đất giữ nước và dinh dưỡng

hữu hiệu); bón phân cân đối: bón phân nền (bón lót) gồm phân hữu cơ và NPK

80

và vôi cùng phân vi lượng (nếu cần). Đây là kỹ thuật căn bản nhất cho cây

trồng mạnh khỏe có sức chống lại nhiều loại sâu bệnh hại.

Hai là, cần tổ chức lại sản xuất một cách hợp lí: trồng lúa ngắn ngày

năng suất cao thích hợp cho hướng sản xuất thích nghi với môi trường,

chuyển đổi cơ cấu cây trồng/vật nuôi phù hợp với điều kiện thực tiễn sản

xuất. Riêng ở ĐBSCL, cần tập trung gieo sạ lúa ở khu vực không bị ảnh

hưởng bởi mặn như An Giang, Đồng Tháp nhưng phải có sự kết hợp với biện

pháp sử dụng tiết kiệm nguồn nước. Những vùng nước ngọt vẫn có thể trồng

lúa, cây ăn trái; vùng bị nhiễm mặn, lợ nên chuyển sang canh tác theo mô

hình lúa - tôm…

Ba là, tăng cường hợp tác, trao đổi quốc tế để có các nghiên cứu

chuyên sâu, nhằm xây dựng định hướng, đề xuất các giải pháp giữ sử dụng

nước phù hợp và hiệu quả cho vùng, bao gồm cả các giải pháp công trình và

giải pháp phi công trình như xây dựng hệ thống thủy lợi thích hợp cho vùng

tôm - lúa; tiến hành dồn điền đổi thửa hoặc tích tụ ruộng đất để quy hoạch lại

mương tưới, mương tiêu riêng biệt cho mỗi ruộng lúa - tôm, tôm sinh thái,

tôm bán thâm canh và tôm thâm canh; xây dựng hệ thống đê bao và trồng

thâm canh rau màu ở những nơi thích hợp...

3.4.2. Những khuyến nghị của các nhà khoa học thế giới về sử dụng bền

vững nguồn nước sông Mê Công

Chương trình trong khuôn khổ các buổi tọa đàm về văn hóa sông Mê

Công do Tổ chức Hữu nghị nhân dân mạng lưới bờ sông Mê Công, nhóm

nghiên cứu Những đứa con của Thiên nhiên và Khoa Nhân học cùng các đối

tác tổ chức. Đây cũng là dịp để các nhà nghiên cứu cùng chia sẻ và thảo luận

về những vấn đề vấn đề phát triển, bảo tồn các giá trị ở lưu vực sông Mê

Công tiến tới hình thành mạng lưới thế hệ mới những học giả chuyên nghiệp

về sông Mê Công. Sông Mê Công là con sông quốc tế đó là dòng chảy quốc tế

vì chảy qua lãnh thổ của sáu nước, hơn ½ con sông nằm ở cao nguyên Vân

81

Nam và đi xuống cho đến vùng hạ nguồn ở Việt Nam. Nó khởi đầu từ Tây

Tạng xuống Trung Quốc, chảy qua biên giới của Myanmar, của Lào, của Thái

Lan, của Campuchia và đến Việt Nam qua ĐBSCL rồi đổ vào Biển Đông.

Như vậy, nó là con sông quốc tế, và nếu để ứng phó việc sử dụng nguồn nước

của con sông quốc tế thì thế giới đã đưa ra học thuyết gọi là hạn chế về chủ

quyền. Sông Mê Công là con sông rất quan trọng, nó còn có tên gọi khác là

con sông Cái - sông Mẹ, là con sông có hệ sinh thái lớn thứ hai trên thế giới

và nó chảy qua 6 quốc gia: Trung Quốc, Campuchia,Thái Lan, Myanma và

Việt Nam. Hơn 65 triệu dân sống gần như phụ thuộc vào nguồn nước

và nguồn tài nguyên của con sông này. Chính vì vậy cho nên Chính phủ Lào

phải xem xét kỹ lưỡng trước khi quyết định việc xây dựng các con đập thuỷ

điện. Sông Mê Công được xem là nguồn sống của người dân vùng Tongle

Sap (sông nước ngọt - hồ lớn). Ở hai bên dòng sông, nhiều ngôi chùa tạo nên

một cảnh quan đẹp trong không gian của Phật giáo Nam Tông và sông Mê

Công còn được gọi là dòng sông “Phật giáo”.

Dòng Mê Công đối diện với những thách thức, sông Mê Công mang lại

nguồn sống cho người dân ở hai bên bờ sông và những cảnh đẹp mà con sông

này mang lại, đó chính là những làng mạc trù phú lâu đời mà sông chảy qua,

chứa đựng những giá trí văn hóa lớn. Tuy nhiên, vấn đề sinh thái của dòng

sông đang đặt những dấu hỏi vì sự khai thác do con người gây nên, nhất là

việc người dân ở các vùng cao đang di cư đến hai bên dòng sông để sinh sống

dễ dàng hơn cũng đặt lên dòng Mê Công những sức ép đáng kể, hay đối diện

với giảm sút về đa dạng sinh học. Việc các nguồn nước đang ít dần đi cũng

giống lên hồi chuông cho các nước đang khai thác dòng Mê Công. Dòng Mê

Công được đặt trong 3 chữ “S” - Stress (chính là đối diện với nguồn nước bị

mất nước, thay đổi, sức khỏe của dòng sông đang bị suy giảm, nước không

còn nhiều) - Scarcity (càng ngày nguồn nước càng khan hiếm, do đó nguồn

nước trở thành nguồn ninh của quốc gia) - Security (an ninh nước. Nếu nguồn

nước bị chặn thì các quốc gia khác sẽ khó khăn do mất nước).

82

Đây là vấn đề nguồn sống cho các nước vùng Đông Nam Á, trước sự

sụt giảm về nguồn nước của dòng Mê Công do các đập thủy điện tạo ra, trong

đó có Trung Quốc là nước có đập nước lớn thứ 2 sau Mỹ, dòng sông không

trôi chảy một cách suôn sẽ hay đi vào văn thơ nữa bởi các con đập thủy điện.

Đặc biệt, sông Mê Công là con sông có loại cá heo nước ngọt Irrawaddy, loài

động vật đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng cao. Theo nhận định thì thì có

khoảng hơn 100 con cá heo nước ngọt còn tồn tại, nhưng thống kê vào năm

2011 Quỹ Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (WWF) nhận định chỉ còn khoảng 85

con cá heo sông Irrawaddy sống tại Cambodia. WWF cho rằng hành vi sử

dụng lưới quét là nguyên nhân chính khiến số lượng cá heo Irrawaddy giảm

mạnh. Ngoài ra số lượng cá heo sông Mê Công còn giảm do tỉ lệ chết cao của

cá heo con, sự suy giảm chất lượng môi trường sống.

Những kiến nghị cho sự phát triển bền vững của dòng sông, việc Trung

Quốc chuẩn bị xây thêm 3 đập nước cuối cùng trên dòng Mê Công và chưa có

một hiệp định cụ thể nào đối với các nước còn lại của dòng Mê Công chính là

một thách thức cho các quốc gia. Việc đập Xayabouri của Lào sẽ có những

tác động nguy hại, nhất là đối với Việt Nam bởi sự xâm thực của nước mặn

vào sâu vào trong nội địa Việt Nam. Bản thân việc xây dựng những con đập

nếu không thỏa mãn được các tiêu chuẩn về môi trường thì có thể gây ra

những hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến người dân sống trên

khu vực của đập nước.

3.5. Quan hệ Việt - Lào / Lào Việt trong sử dụng bền vững nguồn nước

sông Mê Kông

3.5.1. Quân hệ đặc biệt Việt - Lào / Lào - Việt

Nhận lời mời của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Lào Bounnhang

Vorachit, sáng 12-6, Chủ tịch nước Trần Đại Quang và phu nhân cùng Đoàn

đại biểu cấp cao Việt Nam đã đến Thủ đô Vientiane bắt đầu chuyến thăm cấp

nhà nước tại nước CHDCND Lào. Hội đàm tại Phủ Chủ tịch ở Thủ đô

Vientiane, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Cộng hòa DCND Lào Bounnhang

83

Vorachith nhấn mạnh việc Chủ tịch nước Trần Đại Quang chọn Lào là nước

đến thăm đầu tiên sau khi đảm nhận cương vị mới đã thể hiện sự coi trọng của

Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam cũng như của cá nhân Chủ tịch nước

Trần Đại Quang với mối quan hệ đặc biệt có một không hai trên thế giới giữa

Việt Nam và Lào. Chủ tịch nước Trần Đại Quang cảm ơn Tổng Bí thư, Chủ

tịch nước Cộng hòa DCND Lào Bounnhang Vorachith đã dành cho đoàn sự

đón tiếp chu đáo, ấm áp và thắm tình hữu nghị; đồng thời bày tỏ vui mừng về

những thành tựu to lớn, quan trọng mà Đảng, Nhà nước và nhân dân Lào anh

em đã đạt được, tin tưởng nhân dân Lào sẽ thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ

và mục tiêu mà Đại hội X Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã đề ra, đưa đất

nước tiếp tục vững bước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa. Hai bên

bày tỏ vui mừng về mối quan hệ hợp tác toàn diện trong thời gian qua không

ngừng được củng cố và phát triển trên tất cả các lĩnh vực; khẳng định sẽ tiếp

tục dành ưu tiên cao nhất và làm hết sức mình vun đắp cho mối quan hệ hữu

nghị truyền thống và đoàn kết đặc biệt Việt Nam-Lào; coi đây là quy luật phát

triển, có ý nghĩa sống còn và là một trong những nhân tố quyết định bảo đảm

thắng lợi của sự nghiệp cách mạng mỗi nước. Hai bên cho rằng tình hình quốc

tế, khu vực có nhiều diễn biến phức tạp đan xen, nhất trí hai nước cần chú

trọng hơn nữa việc theo dõi tình hình, trao đổi, giúp đỡ nhau bảo đảm an ninh,

ổn định của mỗi nước. Hai bên cũng khẳng định tiếp tục phối hợp chặt chẽ tại

các diễn đàn quốc tế và khu vực, củng cố đoàn kết ASEAN, nâng cao vai trò

trung tâm của ASEAN trong cấu trúc an ninh khu vực; nhấn mạnh tầm quan

trọng của việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn ở Biển Đông; nhất

trí cùng các nước ASEAN thúc đẩy giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông

bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế; cùng các bên thực hiện

đầy đủ và hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và

sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) nhằm giữ gìn hòa bình,

ổn định, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Hai bên nhất trí tiếp

84

tục tăng cường phối hợp chặt chẽ với nhau và với các nước, các tổ chức quốc

tế trong quản lí, sử dụng bền vững và có hiệu quả nguồn nước sông Mê Kông.

3.5.2. Tăng cường hợp tác kế nối trong sử dụng công bằng và bền vững tài

nguyên nước sông Mê Công

Ngày 05/4/2018, tại Siêm Riệp, Cam-pu-chia đã diễn ra Hội nghị Cấp

cao lần thứ ba của Uỷ hội sông Mê Công quốc tế. Thủ tướng Chính phủ

Nguyễn Xuân Phúc đã dẫn đầu đoàn đại biểu Việt Nam tham dự và phát biểu

tại Hội nghị. Với chủ đề "Tăng cường nỗ lực chung và mở rộng quan hệ đối

tác nhằm đạt các Mục tiêu phát triển bền vững trên lưu vực sông Mê Công",

Hội nghị có sự tham gia của các Thủ tướng của bốn nước thành viên Ủy hội là

Cam-pu-chia, Lào, Thái Lan và Việt Nam. Cùng tham dự Hội nghị có Bộ

trưởng Bộ Tài nguyên nước Trung Quốc và Bộ trưởng Môi trường Mi-an-ma

là hai nước đối tác đối thoại của Ủy hội, cùng nhiều đại diện của các đối tác

phát triển khác.

Hội nghị đã tập trung rà soát tình hình hợp tác trong khuôn khổ Ủy

hội, thực hiện các cam kết đưa ra tại Hội nghị cấp cao lần thứ hai từ năm 2014

tại Thành phố Hồ Chí Minh và xác định các lĩnh vực ưu tiên trong giai đoạn

tiếp theo. Các ý kiến phát biểu tại Hội nghị thống nhất cho rằng Ủy hội sông

Mê Công quốc tế (MRC) đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng như: Thông

qua và triển khai Chiến lược phát triển lưu vực dựa trên quản lý tổng hợp tài

nguyên nước giai đoạn 2016-2020; hoàn thành nghiên cứu về Quản lý và Phát

triển bền vững sông Mê Công, góp phần tạo căn cứ khoa học cho việc ra các

quyết định quan trọng liên quan đến các hoạt động phát triển lưu vực của các

quốc gia ven sông; cải tổ bộ máy Ban Thư ký của Ủy hội theo hướng gọn nhẹ,

hiệu quả; thống nhất công thức đóng góp niên liễm hàng năm của các quốc

gia thành viên theo hướng đều nhau và hướng đến mục tiêu Ủy hội tự chủ về

tài chính vào năm 2030; mở rộng hợp tác với các đối tác đối thoại, các đối tác

phát triển, các tổ chức lưu vực sông quốc tế và đặc biệt là ASEAN…

85

Về định hướng hợp tác trong thời gian tới, các nhà lãnh đạo khẳng định

cam kết và quyết tâm thúc đẩy tiến trình hợp tác Mê Công mạnh mẽ hơn nữa

nhằm tranh thủ các cơ hội phát triển và vượt qua các thách thức, triển khai các

nỗ lực chung nhằm thúc đẩy việc thực hiện Chiến lược phát triển lưu vực; áp

dụng bộ các thủ tục của Ủy hội về sử dụng bền vững, hợp lý và công bằng

nguồn tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan khác của sông Mê Công,

nhất trí Ủy hội cần phát huy vai trò hơn nữa trong việc định hướng hợp tác và

đề ra các biện pháp cụ thể nhằm đạt được các Mục tiêu phát triển bền vững

trong khu vực; tăng cường hợp tác với các cơ chế trong và ngoài khu vực như

ASEAN, Hợp tác Mê Công - Lan Thương, Hợp tác tiểu vùng Mê Công mở

rộng (GMS) và các tổ chức quản lý lưu vực sông quốc tế khác. Phát biểu tại

Hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc khẳng định

việc khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên nước và các tài nguyên khác có

liên quan trên lưu vực sông Mê Công là cơ hội, nhưng cũng là thách thức và

trách nhiệm của tất cả các quốc gia trong khu vực.

Thủ tướng bày tỏ sự nhất trí cao với chủ đề của Hội nghị cấp cao lần

này là "Tăng cường nỗ lực chung và mở rộng quan hệ đối tác nhằm đạt các

Mục tiêu phát triển bền vững trên lưu vực sông Mê Công". Đây là dịp để

chúng ta đề ra những định hướng lớn, các lĩnh vực hợp tác ưu tiên, mở rộng

sự hợp tác trong và ngoài Ủy hội MRC nhằm sử dụng công bằng, hợp lý và

bền vững tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan trong lưu vực sông Mê

Công, góp phần thực hiện thành công các Mục tiêu phát triển bền vững SDG

2030 của Liên hợp quốc ở mỗi quốc gia thành viên và trong cả khu vực.

“Kể từ Hội nghị Cấp cao MRC lần 2 tại Thành phố Hồ Chí Minh năm

2014, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, khẳng định mà trị lâu

dài của Hiệp định Mê Công năm 1995 và vai trò của Ủy hội sông Mê Công

quốc tế là cơ chế hợp tác khu vực duy nhất có chức năng xây dựng khung

pháp lý và các quy định kỹ thuật cụ thể nhằm thúc đẩy việc khai thác, bảo vệ,

86

quản lý bền vững nguồn nước sông Mê Công... Những kết quả tích cực đó đã

thể hiện rõ nét, hiệu quả thực tế của Hiệp định Mê Công 1995, thúc đẩy gắn

kết, điều phối vùng và đẩy mạnh quan hệ với các đối tác, các cơ chế hợp tác

có liên quan trong khu vực” .

Thủ tướng Việt Nam cũng hoan nghênh và đánh giá cao các nỗ lực hợp

tác, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm của cơ chế Hợp tác Mê Công - Lan

Thương (MLC), vừa họp cấp cao tháng 01/2018; cơ chế Tiểu vùng Mê Công

mở rộng (GMS), vừa họp cấp cao 3/2018. Các cơ chế này sẽ giúp củng cố

quan hệ láng giềng hữu nghị giữa 6 quốc gia Mê Công và thúc đẩy hợp tác

quản lý sử dụng hiệu quả, bảo đảm an ninh nguồn nước. Đồng thời ghi nhận

sự hỗ trợ quý báu từ các Đối tác phát triển của Ủy hội MRC và mong muốn

tiếp tục nhận được sự hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật để giúp Ủy hội MRC triển

khai các lĩnh vực hợp tác ưu tiên trong giai đoạn tới, đồng thời tiến tới tự chủ

về tài chính vào năm 2030.

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho biết: Sông Mê Công là con đường

giao thông thủy có ý nghĩa đặc biệt trong thúc đẩy thương mại quốc tế, du

lịch, kết nối tiểu vùng và là nguồn sinh kế của 65 triệu cư dân hạ lưu vực.

Cùng với đó là nguồn tài nguyên nước, phù sa và sự đa dạng sinh học, đứng

thứ 2 thế giới chỉ sau sông A-ma-dôn, là tài sản chung vô giá của các quốc gia

trong lưu vực, là nguồn lực to lớn cho xoá đói nghèo, phát triển kinh tế, giao

thương, giảm bất bình đẳng, kết nối vùng...

Hiện nay, lưu vực sông Mê Công phải đối mặt với những thách thức

lớn như: sự gia tăng nhanh dân số; khai thác thiếu bền vững tài nguyên nước,

đất và rừng; các thách thức của biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan, thiên tai

bất thường. Hậu quả là nguồn tài nguyên nước Mê Công đang bị suy kiệt cả

về số lượng và chất lượng, lượng phù sa và chất dinh dưỡng bị suy giảm hệ

sinh thái và môi trường bị suy thoái nghiêm trọng. Các dấu hiệu tiêu cực đó

thể hiện rõ rệt và trầm trọng hơn ở các quốc gia hạ lưu Mê Công, nhất là vùng

87

đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam. Nơi đang thường xuyện phải đối

mặt với các đợt hạn hán kéo dài, xâm nhập mặn sạt lở, bờ sông bờ biển và sụt

lún đất... đe dọa sinh kế của hơn 20 triệu người dân.

Quan tâm hàng đầu của Chính phủ Việt Nam hiện nay là ứng phó với

các tác động tiêu cực đối với vùng Đồng bằng sông Cửu Long do biến đổi khí

hậu, các hiện tượng khí hậu cực đoan và hoạt động của con người. “Cần phải

có những hành động thiết thực, kịp thời để Đồng bằng Sông Cửu Long là vựa

lúa, vựa cá của cả khu vực trong hàng trăm năm qua tiếp tục phát triển và là

nguồn cung gạo lớn cho bảo đảm an ninh lương thực khu vực”.

Ủy hội MRC trong thời gian tới sẽ tập trung cho sử dụng công bằng,

hợp lý và bền vững tài nguyên nước và các tài nguyên liên quan trong lưu vực

sông Mê Công như: tăng cường việc thực hiện đầy đủ và hiệu quả Hiệp định

Mê Công năm 1995 và vai trò giám sát, điều phối của Ủy hội trong triển khai

thực hiện các cam kết của các quốc gia thành viên, xây dựng khung quy

hoạch phát triển lưu vực nhằm hài hòa quy hoạch tài nguyên nước của các

quốc gia và thúc đẩy việc triển khai các dự án hợp tác chung; tăng cường chia

sẻ thông tin số liệu trong lưu vực sông Mê Công và đẩy mạnh các hoạt động

điều phối, hợp tác với các nước đối tác đối thoại, đối tác phát triển và các tổ

chức quản lý lưu vực sông xuyên biên giới khác nhằm huy động nguồn lực,

tiếp thu kinh nghiệm quản lý và công nghệ kỹ thuật hiện đại trong triển khai

các sáng kiến hợp tác tiểu vùng. Trong đó, chú trọng hợp tác với cơ chế Hợp

tác Mê Công - Lan Thương (MLC), Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS) và

các cơ chế khác như Ủy hội sông Mít-xi-xi-pi, Ủy hội sông Đa-nuýp và tìm

hiểu kinh nghiệm về điều phối thực hiện các điều ước quốc tế về sử dụng

nguồn nước xuyên biên giới và các hồ quốc tế.

“Chúng ta hãy cùng nhau đoàn kết, hợp tác để sông Mê Công mãi là

dòng chảy của hòa bình, là kết nối sinh tồn bền vững, thịnh vượng đến muôn

đời của các quốc gia, người dân trong khu vực” - Thủ tướng Nguyễn Xuân

Phúc kêu gọi.

88

Hội nghị đã nhất trí thông qua Tuyên bố chung Siêm Riệp ghi nhận các

thành quả của Ủy hội đạt được, chỉ ra những thách thức và cơ hội mới đối với

lưu vực sông Mê Công, khẳng định tầm quan trọng của hợp tác Mê Công và việc

tăng cường hiệu quả thực hiện Hiệp định Mê Công 1995, đồng thời xác định các

hoạt động ưu tiên trong thời gian 4 năm tới cũng như định hướng lâu dài cho hợp

tác trong khuôn khổ MRC. Từ đó, Tuyên bố đề ra các lĩnh vực hoạt động ưu tiên

của Uỷ hội thời gian tới gồm có việc tận dụng tốt các cơ hội phát triển và xử lý

các thách thức thông qua một tiến trình chung của cả lưu vực, có tính tổng thể,

bao trùm và đa ngành, thực hiện các khuyến nghị chính của báo cáo Nghiên cứu

chung về quản lý và phát triển bền vững sông Mê Công, bao gồm tác động của

các dự án thuỷ điện dòng chính, thực hiện đầy đủ các thủ tục của Ủy hội nhằm

sử dụng nguồn nước một cách bền vững, công bằng và hợp lí; tăng cường mạng

giám sát và các hoạt động cảnh báo, dự báo thiên tai; mở rộng quan hệ đối tác

với các sáng kiến, tổ chức trên lưu vực và thế giới và tăng cường sự tham gia của

cộng đồng trong các hoạt động của Ủy hội.

Tiểu kết Chương 3

Trong sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê Công trên lãnh thổ Lào

nổi lên ba DA lớn: Thủy điện Xayyabery, Thủy điện PakBeng và DA Khai

thông dòng chảy Mê Công để phát triển đường thủy (theo đề xuất và đầu tư từ

phía Trung Quốc. Cả ba DA này đề gây tranh cãi với nhiều ý kiến trái chiều

của các chuyên gia MRC cũng như nhiều định chế và một số nước quan tâm

(Mỹ, Nhật, EU, ADB). Vấn đề đặt ra là CHDCND Lào cần nghiên cứu chiến

lược sử dụng nguồn nước sông Mê Công theo tinh thần Hội nghị GMS6 và

Hội nghị MCR tại Xiêm Riệp - Camphia. Điều mới mẻ trong nghiên chương

này là trên tinh thần quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt - Lào / Lào - Việt. Nhà

nước cần tăng cường hợp tác hợp lí và bền vũng nguồn tài nguyên nước Mê

Công trên lãnh thổ của minh một cách công bàng chia sẻ hài hòa theo khuyên

nghị quản lí chia sẻ công bằng, hài hòa dòng sông xuyên biên giới. Mục đích

cuối cùng là, bằng việc phát triển sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê

Công, nước Lào thực hiện mơ nước Kuwait xuất khẩu thủy điện.

89

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận

1. Nước sông Mê Công là nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng đối với

các nước trong lưu vực, đặc biệt các quốc gia hạ nguồn như Lào, Thái Lan,

Camphuchia, ĐBBCL Việt Nam. Ví mục tiêu sử dụng bền vũng nguồn tài

nguyên nước sông Mê Công, các quốc gia trong khu vực cần thiết phải nghiên

cứu Chiến lược sử dụng nguồn nước trên cơ sở chia sẻ công bằng lợi tích hài

hòa trong quản lí nguồn nước xuyên biên giới theo các Công ước quốc tế,

Khuyến nghị của IUCN, đặc biệt là tinh thần Hội nghị GMS 6 và Hội nghị

MRC vừa qua tổ chức tại Hà Nội - Việt Nam / Xiêm Riệp - Campuchia.

2. Sông Mê Công có tiềm năng lớn - từ dòng chính đến các dòng nhánh

trên lưu vực - trong việc cung cấp nước, năng lượng cho phát triển kinh tế đặc

biệt là thủy điện. Để sử dụng bền nguồn nước sông Mê Công đối với phát

triển kinh tế của Lào, nguồn tài nguyên này trên đất Lào cần được đánh giá về

tiềm năng cũng như hiện trạng trên quan điểm tổng hợp, bao gồm địa lí tự

nhiên, kinh tế, xã hội, nhân văn. Thông qua đánh giá chung các DA đang và

sẽ triển khai với nhiều điều kiện thuận lợi cũng như khó khăn, chúng ta hiểu

được tham vọng biến nước Lào trở thành nước Cô-owet (Kuwait) thủy điện

theo tinh thần sử dụng công bằng, chia sẻ và quản lí tài nguyên nước xuyên

biến giới.

3. Trong sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê Công trên lãnh thổ

Lào nổi lên ba DA lớn: Thủy điện Xayyabury, Thủy điện Pak Beng và DA

Khai thông dòng chảy Mê Công để phát triển đường thủy (theo đề xuất và đầu

tư từ phía Trung Quốc. Cả ba DA này đề gây tranh cãi với nhiều ý kiến trái

chiều của các nước hạ nguồn cũng như MRC, nhiều định chế và một số nước

quan tâm (Mỹ, Nhật, EU, ADB). Vấn đề đạt ra là CHDCND Lào cần nghiên

cứu chiến lược sử dụng nguồn nước sông Mê Công theo tinh thần Hội nghị

90

GMS6 và Hội nghị MRC vừa qua. Điều mới mẻ trong chương này là trên tinh

thần quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt - Lào / Lào -Việt sự cần thiết tăng cường

hợp tác hợp tác trong sử dụng một cách công bằng, chia sẻ hài hòa lợi ích

bằng việc phát triển sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê Công, nước Lào

thực hiện giấc mơ Mô hình Lào là Kuwait xuất khẩu thủy điện.

4. Với nội dung nói trên, chúng tôi cho rằng luận văn đã hiện thực hóa

được 3 mục tiêu đề ra ban đấu. Đó là “Nguyên cứu những vấn đề lý luận và

thực tiễn về sử dụng bền vững, đánh giá tiềm năng và thực trạng sử dụng

nguồn nước sông Mê Công, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp sử dụng hợp lí

và bền vững nguồn tài nguyên nước sông Mê Công trên lãnh thổ nước Lào có

tính tới lợi ích chung của các nước láng giềng, đặc biệt là Việt Nam”. Tuy

nhiên, chúng tôi nhận thấy một khó khăn nhược điểm trong triển khai nghiên

cứu đề tài, đó là sự thiếu tư liệu nghiên cứu cơ bản về Lào, những vấn đề tế nhị

trong triển khai đề xuất vấn đề có tính tới nhiều bên thuộc GMS-6, các định

chế, các tổ chức và một số nước ít nhiều có lợi ích liên quan tới nguồn nước

Mê Công.

2. Kiến nghị

1. Uỷ hội sông Mê Công quốc tế cũng như các Ủy hội sông Mê Công

quốc gia cần nghiên cứu và xem xét các dự án thuỷ điện phía thượng lưu, đặc

biệt là qui trình vận hành, cũng như DA khai thông dòng chảy Mê Công một

cách cẩn trọng.

2. Nhà nước CHDCND Lào cần nghiên cứu ban hành Luật tài nguyên

nước sông Mê Công trên lãnh thổ Lào, tiến hành nghiên cứu đánh giá tác

động môi trương của 3 DA quan trọng: trên dòng chính sông Mê Công

(Xayyabury, Pak bang, Khai thông dòng chảy Mê Công. Đồng thời cần

nghiên cứu một số kinh nghiệm thành công, thất bại cũng như vấn đề xây

91

dựng điện vừa và nhỏ, cũng như DA khai thông dòng chảy sông Hồng của

Việt Nam để vận dụng trong điều kiện của Lào

3. Nội dung sử dụng bền vững nguồn nước xuyên biên giới trên đất Lào

cần được phổ biến rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng và đua

vào chương trình giáo dục phổ thông của CHDCND Lào. Đây có thể được coi

là thành tựu quan trọng để Lào giải quyết được tự túc lương thực và bắt đầu

tham gia thị trường xuất khẩu gạo./.

92

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo cáo đánh giá môi trường chiến lược của thuỷ điện dòng chính Mê

Công 10/2010. Báo cáo đánh giá ....

2. Báo cáo đánh giá hiện trạng lưu vực Mê Công 2010.

http://www.google.com/báo cáo đánh giá ...

3. Cục Quản lí tài nguyên nước, 23/3/2018 - Ngày nước thế giới.

4. Công ước của Liên Hợp Quốc (LHQ) về luật sử dụng các nguồn nước

quốc tế.

5. Công ước quốc tế về nguồn nước, http://www.google.com/.

6. Hội nghiên cứu khoa học Đông Nam Á (2001). Việt Nam và Hợp tác

Tiểu vùng Mê Công

7. Hợp tác Mĩ và các nước hạ nguồn Mê Công (LMI). http://www.google.

com./LMI - Chương trình hợp tác Mĩ và các quốc gia hạ nguồn Mê Công.

8. Khamphao Onthvvan (2017). Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào mãi mãi

xanh tươi đời đời bền vững. http://chinhphu.org.vn/khamphao

Onthavan.

9. Nguyễn Hữu Khải, Nguyễn Văn Tuấn (2001). Địa lí thủy văn, Nxb

ĐHQG Hà Nội, 2001,194 tr.

10. Trần Tiễn Khanh 2004), Cái chết của một dòng sông: Sông Cửu Long

và các khai thác thượng nguồn của Trung Hoa. http//www.vn

baolut.com

11. Trần Khánh (chủ biên) (2006), Những vấn đề chính trị kinh tế Đông

Nam Á thập niên đầu thế kỉ XXI, Nxb KHXH.

12. Vũ Tự Lập (2000). Địa lí tự nhiên Việt Nam. Nxb GD, Hà Nội

13. Đặng Duy Lợi (2010) . Địa lí tự nhiên Việt Nam. NXB ĐHP, Hà Nội

14. Vũ Dương Minh (chủ biên) (2007), Đông Nam Á truyền thống và hội

nhập, Nxb TG, 2007.

15. Niên giám thống kê 2017. NXB Thống kê, Hà Nội, 2017

93

16. Nguyễn Viết Phổ (1984). Dòng chảy sông ngòi Việt Nam, Nxb KHKT HN.

17. Nguyễn Xuân Phúc (2018) Mê Công: Dòng sông hợp tác và phát triển.

https://chinhphu,org.vn

18. Nguyễn Trần Quế -Kiều Văn Trung (2001). Sông và Tiểu vùng Mê

Công: Tiềm năng hợp tác và phát triển quốc tế. Nxb KHKT, Hà Nội

19. Nguyễn Thanh Sơn (2009). Đánh giá tài nguyên nước Việt Nam. Mxb

Giáo Dục, Hà Nội

20. Lê Bá Thảo (2001), Những công trình nghiên cứu Địa lí tiêu biểu. Nxb

Giao Dục, Hà Nội.

21. Nguyễn Viết Thịnh, Đỗ Thị Minh Đức (2003). Giáo trình Địa lí kinh tế

- xã hội Việt Nam, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

22. Lê Thông (chủ biên) & nnk, (2010). Địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam.

NXB GD, Hà Nội, 2010.

23. Lương Văn Tự (2004). Kiến thức cơ bản về hội nhập kinh tế quốc tế,

NXB Bộ Thương mại, Hà Nội.

24. Phan Huy Xu, 1998. Địa lí các nước Đông Nam Á, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

25. Việt Nam và Hợp tác phát triển Tiểu vùng Mê Công mở rộng. Nxb Thế

giới, Hà Nội, 2000

26. Nguyễn Thái Đuy, 2013. Hợp tác cùng có lợi trong việc sử dụng tài

nguyên nước của các quốc gia vùng hạ nguồn sông Mê Công.

27. Hiệp định PTBV lưu vực Mê Công (1997), Nxb Hà Nội.

28. Báo cáo đánh giá tác động đến môi trường DA thủy điện Xayabury.

Websites:

29. www.iucn.org/asia/Mê Công_dialogues.

30. www.mrcMê Công.org/ Lào

31. http://Lao Statistical Bureau Yearbook 2016

32. www.worldwater.org.2018 /Sử dụng hợp lí tài nguyên nước để phát

triển bền vững/Ngày nước thế giới 23/3/2018/…

94

PHỤ LỤC

1, Đặc trưng có bản về môi trường tự nhiên trên lãnh thổ Lào qua các số

liệu thống kê quốc gia (Bảng 2.1)

Bảng 2.1. Số liệu về địa lí tự nhiên cơ bản của CHDCND Lào

a. Sông

Chảy qua Độ dài (km) Sông

Lào 1.898 Mê Công

Phongsaly-Luangprabang 448 Nam Ou

Xiengkhuang-Vientiane 354 Nậm Ngừm

Nam Xebanghieng Savannakhet 338

Luangnamtha-Bokeo 325 Nam Tha

Saravane-Sekong-Attapeu 320 Nam Xekong

Khammuane-Savannakhet 239 Nam Sebangfai

Oudomxay 215 Nam Beng

Saravane-Champasack 192 Nam Xedone

Nam Xekhanong Savannakhet 115

Nam Kading (Nam Theun) Borikhamxay 103

Nam Khane Huaphanh-Luangprabang 90

Nguồn: Ủy hội sông Mê Công. Dẫn lại từ Cục Thống kê Lào, công khai tại [30]

b. Núi

Tỉnh Độ cao (m) Núi

Xiengkhuang 2.820 Phu bia

Xiengkhuang 2.690 Phu xao

Xiengkhuang 2.620 Phu xamxum

Huaphanh 2.452 Phu huat

Luangprabang 2.257 Phu soy

Xiengkhuang 2.218 Phu sane

Luangprabang 2.079 Phu laopy

Núi Tỉnh Độ cao (m)

Phu pane Huaphanh 2.079

Phu khaomieng Xayabury 2.007

Phu sanchanhta Luangprabang 1.972

Phu nameo Oudomxay 1.937

Phu phakhao Luangprabang 1.870

Phu doychy Phongsaly 1.842

Phu leb Xiengkhuang 1 761

Phu sang Vientiane 1.666

Phu chaputao Luangnamtha 1.588

Phu phiengbolavenh Champasack 1 284

Phu khaokhuai Vientiane 1.026

Nguồn: Bộ Quốc phòng Lào. Dẫn lại từ Cục Thống kê Lào, công khai tại [30]

c. Khí hậu

Diễn biến nhiệt độ trong năm tại thủ đô Viêng Chăn.

Lượng mưa hàng năm (mm) đo được tại một số trạm khí tượng

Năm Luangprabang Savannakhet Pakse Thủ đô Viêng Chăn

1 486.7 1 499.8 1 557.8 2 598.4 2000

1 795.0 1 659.0 1 919.9 2 348.6 2001

1 601.8 1 846.7 1 982.0 2 478.0 2002

1 399.0 1 481.0 1 492.3 2 029.1 2003

1 472.7 1 629.6 396.7 1 977.9 2004

1 435.0 1 667.8 1 768.2 1 956.1 2005

1 205.6 1 930.3 1 398.7 2 694.5 2006

1 295.0 1 667.5 1 444.7 1 967.5 2007

1 708.7 2 201.6 1 565.7 1 907.6 2008

1 259.4 1 482.8 1 565.7 2 209.6 2009

Nguồn: Cục Khí tượng và Thủy văn Lào. Dẫn lại từ Cục Thống kê Lào

d. Độ ẩm (%) cao nhất và thấp nhất trong các năm đo được tại một số

trạm khí tượng.

Thủ đô

Năm Luangprabang ' Viêng ' Savannakhet ' Pakse '

Chăn

Thấp Cao Thấp Thấp Cao Thấp Cao nhất Cao nhất nhất nhất nhất nhất nhất nhất

51 92 54 90 54 87 55 2000 95

51 92 55 87 54 87 52 2001 95

55 92 55 93 58 84 52 2002 96

75 91 72 95 75 87 70 2003 96

54.5 91.5 53.7 55.3 94 86 52 2004 96

95.5 55.3 89.6 53.9 93.7 58.1 85.9 55.3 2005

57 92 54 94 58 87 54 2006 95

52 91 52 92 51 88 52 2007 97

56 92 58 96 59 87 56 2008 96

90 2009 95 50.7 55.3 96.1 59.3 87.8 54.4

Nguồn: Cục Khí tượng và Thủy văn Lào [24]

2. Số liệu về kinh tế -xã hội cơ bản của CHDCND Lào

a. Dân số và Nhân khẩu năm 2015

Đơn vị: Hàng ngàn Unit: Th. Persons

Số lượng/ No.Population

Name of

Tên tỉnh

Provinces

TT

toàn bộ/ Total Nữ/ Female

Toàn quốc

Whole country

6,492

3,237

01 Thủ Đô Viêng Chăn Vientiane Capita

821

412

02 Phông sa ly

Phongsaly

178

87

03 Luổng năm tha

Luangnamtha

176

88

04 U đôm xay

Oudomxay

308

153

05 Bo kẹo

Bokeo

179

89

06 Luổng pha bang

Luangprabang

432

213

07 Hủa phăn

Huaphanh

289

142

08 Xay nha bu ly

Xayabury

381

186

09 Xiêng khuổng

Xiengkhuang

245

120

10 Viêng chăn

Vientiane

419

208

11 Bo li khăm xay

Borikhamxay

274

135

112 Khăm muôn

Khammuane

392

197

113 Sa văn na khệt

Savannakhet

970

489

114 Sa la văn

Saravane

397

201

115 Xê kong

Sekong

113

56

116 Chăm pa sắc

Champasack

694

349

117 Ắt ta pư

Attapeu

139

70

118 Xay sôm bun

Xaysomboon

85

41

Source: Lao Statistics Bureau, Ministry of Planning and Investment [31]

b. Tổng sản phẩm quốc nội

(Tỉ kíp) (Bill. Kip)

Năm

Các hoạt động chính

Acitivity

2015

2016

Nông nghiệp

Agricultural

20,622 22,275

Trồng trọt

Agricultural cropping

13,755 15,072

Chăn nuôi

Livestock & livestock products

2,598

2,808

Rừng

Forestry & logging

1,498

1,444

Nghề cá

Fishing

2,771

2,951

Công nghiệp

Industry

32,471 37,180

Khai thác và thu hoạch

Mining & Quarrying

7,967

8,391

Ngành chế biến thực phẩm Manufacture of Food Products

1,943

2,020

Sản xuất đồ uống và thuốc

Manufacture of Beverages &

1,737

1,829

Tobacco

Dệt may sản xuất công

Manufacture of Textiles, Clothing,

nghiệp, quần áo, giày dép

Footwear & Leather

1,538

1,586

và phụ kiện Da

Goods

Năm

Các hoạt động chính

Acitivity

2015

2016

Các ngành chế biến khác Other Manufacturing

4,385

4,612

Điện năng

Electricity

7,963

11,220

Nước và xử lý chất thải Water Supply; Sewerage, Waste

323

338

Management & Remediation Activities

Xây dựng

Construction

6,614

7,184

Dịch vụ

Services

51,789 54,914

Bán buôn, bán lẻ, sửa chữa

Wholesale & Retail Trade;

xe

Repair of Motor Vehicles &

14,172 14,814

Motorcycles

Vận tải và kho bãi

Transportation & Storage

1,596

1,750

Dịch vụ lưu trú và thực

Accommodation & Food

3,631

3,629

phẩm

Service Activities

Thông tin và truyền thông

Information & Communications

2,021

2,105

Tài chính và Bảo hiểm

Financial & Insurance Activities

2,918

3,175

c. Sản xuất nông nghiệp

Sản xuất (Tấn)/Năm TT Loại Sản xuất 2015 2016

3,357,640 3,428,000 01 Lúa mùa

520,000 504,000 02 Lúa chiêm

224,360 216,800 03 Lúa nương

1,516,250 1,552,360 04 Ngô

2,767,190 2,797,185 05 khoai

62,010 63,200 06 Lạc

1,683,405 1,690,900 07 Rau

63,040 66,800 08 Thuốc lá

1,910 2,530 09 Bông

2,018,655 2,019,000 10 Mía

135,925 136,600 11 Cafê

6,295 7,300 12 Chè

d. Sản xuất Công nghiệp và Thủ công

Năm TT Tên Sản xuất Đơn vị 2015 2016

01 Dịch vụ Giết thú mổ thịt 37,901.00 37,590.00 Tấn

02 Bánh mì, Bánh kẹo 98,744.00 106,051.00 Tấn

Nghìn lít 331,990.00 344,274.00 03 Nước mắm

Tấn 100,432.00 125,052.00 04 Phở, mì tôm

Nghìn Tấn 351.00 363.98 05 Muối

Tấn 15,270.00 15,667.00 06 Mắm cá

Nghìn Tấn 304.15 326.96 07 Nước đá

08 Nước uống Nghìn lit 2,202.99 2,381.43

Nghìn lít 181.98 196.72 09 Rượu

Nghìn lít ber 5,164.56 5,599.09 10 Beer

Tấn 61,833.00 73,559.00 11 Cafe

Triệu gói 2,185.57 2,218.94 12 Thuốc lá

Tấn 280,734.00 284,911.00 13 Bột sắn

Tấn 102,500.00 139,700.00 14 Gạo

Tấn 16,532.00 17,144.00 15 Đường

1000m3 241.00 0 01 Gỗ xẻ

Nghìn tấm 1,532.00 0 02 Gỗ ép

Nghìn chiếc 8,582.55 9,075.18 01 Vải vóc

Nghìn chiếc 23,995.55 21,589.80 02 Váy

Nghìn viên 315,190.48 345,589.43 01 Gạch

Nghìn tấn 3,098.81 3,397.68 02 Xi măng

Nghìn tấm 95,079.94 97,285.58 03 Ngói

Source: Lao Statistics Bureau, Ministry of Planning and Investment [31] Ghi chú: Dấu cách đơn vị tính [, / .] giữ nguyên như tại tư liệu nguồn.