intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sử dụng các chế phẩm hormon trong sinh sản nhân tạo cá

Chia sẻ: Danh Tuong Vi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:5

92
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hiện nay có nhiều loại chế phẩm hormon được sử dụng trong sinh sản nhân tạo cá. Tuy nhiên, có thể chia thành 3 nhóm chế phẩm hormon chính được sử dụng trong sinh sản nhân tạo cá, đó là: các loại kích dục tố, hormon gây phóng thích kích dục tố (GnRH) và hormon steroid. Bài tổng quan này nhằm tổng kết thực tiễn và cập nhật những tiến bộ việc sử dụng các chế phẩm hormon trong sinh sản nhân tạo cá ở trong nước và trên thế giới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sử dụng các chế phẩm hormon trong sinh sản nhân tạo cá

Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn<br /> <br /> Soá 3/2012<br /> <br /> VAÁN ÑEÀ TRAO ÑOÅI<br /> <br /> SỬ DỤNG CÁC CHẾ PHẨM HORMON<br /> TRONG SINH SẢN NHÂN TẠO CÁ<br /> THE USE OF HORMONES IN FISH REPRODUCTION<br /> Phạm Quốc Hùng1<br /> Ngày nhận bài: 29/6/2012; Ngày phản biện thông qua: 30/7/2012; Ngày duyệt đăng: 12/9/2012<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Hiện nay có nhiều loại chế phẩm hormon được sử dụng trong sinh sản nhân tạo cá. Tuy nhiên, có thể chia thành 3<br /> nhóm chế phẩm hormon chính được sử dụng trong sinh sản nhân tạo cá, đó là: (1) các loại kích dục tố, (2) hormon gây<br /> phóng thích kích dục tố (GnRH) và (3) hormon steroid. Bài tổng quan này nhằm tổng kết thực tiễn và cập nhật những tiến<br /> bộ việc sử dụng các chế phẩm hormon trong sinh sản nhân tạo cá ở trong nước và trên thế giới.<br /> Từ khóa: hormon, sinh sản cá, kích dục tố<br /> <br /> ABSTRACT<br /> Up to now, there are many hormone products used in fish reproduction, but they can be formed as three types of<br /> hormone commonly used in fish reproduction: (1) Pituitary gonadotropines, (2) Brain Gonadotropin-Releasing Hormone<br /> (GnRH) and (3) Gonad steroid hormones. This article aims to review and update the practical use of those hormones in<br /> fish reproduction in Vietnam and the world as well.<br /> Key words: hormon, fish reproduction, gonadotropin<br /> <br /> I. MỞ ĐẦU<br /> Trong nuôi trồng thủy sản (NTTS), việc sử<br /> dụng hormon là rất cần thiết, không chỉ áp dụng cho<br /> những loài không sinh sản trong điều kiện nuôi nhốt,<br /> mà còn cho cả những đối tượng có thể đẻ tự nhiên<br /> trong điều kiện nhân tạo nhằm đạt được tối đa sức<br /> sinh sản thực tế cũng như hạn chế cá đẻ rải rác, khó<br /> quản lý. Ở một số loài cá khi quá trình tích lũy noãn<br /> hoàng kết thúc, tuyến sinh dục không tiếp tục phát<br /> triển để đạt đến trạng thái thành thục và đẻ trứng,<br /> buồng trứng sau đó bị thoái hóa và có thể chết trước<br /> mùa sinh sản. Vì vậy dùng hormon kích thích cho<br /> đẻ có thể hạn chế tỷ lệ tử vong. Một số loài có sự<br /> lệch pha về độ thành thục giữa các cá thể và giới<br /> tính nên dùng hormon có thể thúc đẻ để thu được<br /> sản phẩm sinh dục đồng thời trong điều kiện thụ<br /> tinh nhân tạo là cần thiết. Ngoài ra, việc phát triển<br /> các chương trình nghiên cứu chọn gen đòi hỏi thụ<br /> tinh nhân tạo và việc sử dụng hormon để kích thích<br /> là cần thiết nhằm thu sản phẩm sinh dục đúng thời<br /> gian yêu cầu. Vì vậy, việc sử dụng hormon trong<br /> 1<br /> <br /> sinh sản nhân tạo đóng vai trò then chốt cho công<br /> tác quản lý đàn cá bố mẹ, thậm chí đối với những<br /> loài hoàn toàn đã được thuần hoá [18].<br /> II. NỘI DUNG<br /> 1. Sử dụng các loại kích dục tố (KDT)<br /> Tuyến yên và dịch chiết tuyến yên<br /> Tuyến yên và dịch chiết tuyến yên đã được sử<br /> dụng để kích thích cá đẻ trứng lần đầu tiên vào cuối<br /> năm 1930 tại Brazil. Một tuyến yên có thể tiêm cho<br /> một con với trọng lượng như nhau đối với cá đực và<br /> tỷ lệ này là 1,5:1 đối với cá cái. Tuy nhiên, phương<br /> pháp này không phải lúc nào cũng thành công vì<br /> sự khác nhau về kích thước và hàm lượng KDT có<br /> trong tuyến yên của cá có cùng trọng lượng. Tuyến<br /> yên thường được nghiền và chia thành 2 hay 4 liều<br /> và tiêm cách nhau khoảng vài giờ hoặc vài ngày.<br /> Gần đây việc sử dụng phương pháp này đã được<br /> chuẩn hóa thành liều sơ bộ (10 - 20%) và liều quyết<br /> định sau đó 12 - 24 giờ. Liều lượng tiêm có hiệu<br /> quả là trong khoảng 2 - 10mg tuyến yên/kg cá nhận.<br /> <br /> TS. Phạm Quốc Hùng: Khoa Nuôi trồng Thủy sản - Trường Đại học Nha Trang<br /> <br /> 184 ❖ TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG<br /> <br /> Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn<br /> Sử dụng tuyến yên cá Chép với liều từ 7-10mg/kg<br /> cá có thể kích thích cá Leo (Wallago attu) sinh sản,<br /> trong đó 10mg/kg cho hiệu quả cao nhất với sức<br /> sinh sản đạt 120.952 trứng/kg, tỉ lệ thụ tinh đạt 89%<br /> và tỉ lệ nở đạt 94% [6]. Tuyến yên đôi khi được dùng<br /> kết hợp với HCG với liều lượng 250 IU/kg + 6mg<br /> tuyến yên/kg [26].<br /> Nhằm nâng cao hiệu quả và tính đồng nhất<br /> trong sử dụng, các nhà khoa học đã nghiên cứu để<br /> có thể làm tinh khiết hoàn toàn hoặc một phần KDT<br /> trong tuyến yên bằng cách chiết xuất dịch từ tuyến<br /> yên. Hiện nay trên thị trường có nhiều loại dịch chiết<br /> từ tuyến yên, trong đó phổ biến nhất như dịch chiết<br /> từ tuyến yên cá Hồi (Salmon Pituitary Extract: SPE)<br /> và dịch chiết từ tuyến yên cá Chép (Carp Pituitary<br /> Extract: CPE). Dịch chiết tuyến yên đã được chứng<br /> minh là có hiệu quả hơn so với tuyến yên. Tuy<br /> nhiên, chúng vẫn còn tiềm ẩn những nguy cơ như<br /> truyền mầm bệnh và tính đặc hiệu giữa các loài cá<br /> với nhau là khác nhau [13].<br /> Kích dục tố màng đệm nhau thai (HCG)<br /> Mặc dù các loại KDT tinh khiết chiết xuất từ<br /> tuyến yên của cá đã được chuẩn hóa tính hiệu<br /> nghiệm và có mặt trên thị trường, nhưng chi phí<br /> cho các hormon này trong sinh sản nhân tạo vẫn<br /> còn cao và chưa được sử dụng rộng rãi. Vì vậy đầu<br /> những năm 1970, các nhà khoa học bắt đầu thử<br /> nghiệm với các loại KDT chiết xuất từ tuyến yên của<br /> động vật có vú như KDT từ huyết thanh ngựa chửa<br /> (PMSG) hay KDT màng đệm nhau thai chiết xuất từ<br /> nước tiểu của phụ nữ có thai (HCG). So với KDT ở<br /> động vật có vú và PMSG, HCG là loại KDT được<br /> sử dụng phổ biến nhất trong sinh sản nhân tạo cá<br /> vì HCG đã được chuẩn hóa theo tiêu chuẩn đơn vị<br /> quốc tế (IU) và hoạt tính sinh học của nó giống với<br /> LH của cá [9].<br /> HCG thường được tiêm một lần duy nhất với<br /> liều lượng dao động 100 - 4000 IU/kg trọng lượng<br /> thân tuỳ theo loài. Hiệu quả của HCG cho một lần<br /> tiêm có lẽ do HCG có thời gian tồn tại trong máu<br /> lâu hơn. Điều này không có nghĩa là do HCG khác<br /> loại đối với cá nên tồn tại lâu, vì trên thực tế, ở<br /> người, HCG cũng tồn tại lâu trong hệ tuần hoàn<br /> so với KDT tuyến yên như FSH và LH. Ở cá Giò<br /> (Rachycentron canadum) người ta chỉ cần tiêm một<br /> liều thấp (275 IU/kg) là đủ để kích thích cá rụng<br /> trứng đối với các noãn bào đã kết thúc thời kỳ tích<br /> lũy chất noãn hoàng [12]. Đối với cá Macquaria<br /> novemaculeata tiêm một liều với 500 IU/kg cũng<br /> cho hiệu quả rụng trứng kể cả cá nuôi hoặc cá<br /> đánh bắt ngoài tự nhiên [10]. Cá Hồng (Lutjanus<br /> argentimaculatus) có thể đẻ sau một lần tiêm nhưng<br /> <br /> Soá 3/2012<br /> ở liều cao hơn (1500 IU/kg) [16]. Đối với cá đực,<br /> khi sử dụng HCG, liều có thể thấp hơn 2 - 4 lần so<br /> với cá cái. Tính chất tồn tại lâu trong hệ tuần hoàn<br /> và kéo dài thời gian kích thích sự thành thục cũng<br /> đã được ứng dụng ở cá chình Nhật Bản (Anguilla<br /> japonica) sau khi tiêm một liều HCG [22]. Trên một<br /> số loài cá Chép, HCG thường được dùng ở liều<br /> 1500 - 2000 IU/kg cá bố mẹ với thời gian hiệu ứng<br /> bình quân khoảng 5 - 6 giờ. Ở một số loài cá Mú<br /> (Epinephelus spp), liều HCG dùng dao động trong<br /> khoảng 500-1000 IU/kg và thường được tiêm 2 - 3<br /> lần với thời gian hiệu ứng 12 - 24 giờ [19]. Đối với<br /> cá Lóc bông (Channa micropeltes), HCG có thể tiêm<br /> 2.000 - 3.000 IU/kg cho cá đực và 500 IU/kg cho<br /> cá cái và tiêm cá đực trước khi tiêm cá cái [9]. Tuy<br /> nhiên nếu cá cái được tiêm 1000 IU/kg sẽ cho sức<br /> sinh sản tốt hơn so với liều 1500 IU/kg [7]. HCG có<br /> khả năng kích thích sinh sản cá Leo với liều lượng<br /> từ 2.000 - 5.000 UI/kg [6]. Một trong những ưu điểm<br /> của HCG là nó ảnh hưởng nhanh hơn vì tác động<br /> trực tiếp lên tuyến sinh dục, kích thích thành thục,<br /> rụng và đẻ trứng.<br /> 2. GnRH-A và chất kháng Dopamin<br /> GnRH-A được sử dụng rộng rãi trong sinh sản<br /> nhân tạo vì các loại GnRH-A làm tăng hiệu quả<br /> đáng kể so với các GnRH tự nhiên. Nghiên cứu đầu<br /> tiên trên cá cái cho thấy GnRH tự nhiên và GnRHA có hiệu quả trong việc kích thích sự phát triển<br /> buồng trứng, thành thục và rụng trứng ở liều lượng<br /> 1 - 15mg GnRH/kg cá bố mẹ, hoặc 1 - 100mg<br /> GnRH-A/kg. Một số loài cá không thành thục trong<br /> điều kiện nuôi nhốt vẫn có thể tổng hợp và tiết<br /> KDT nội sinh nếu được tiêm GnRH tự nhiên hoặc<br /> GnRH-A với liều lượng thích hợp.<br /> Mặc dù việc sử dụng GnRH tự nhiên có tác<br /> động nhanh chóng làm tăng KDT trong máu ở nhiều<br /> loài cá, nhưng thời gian GnRH tự nhiên tồn tại trong<br /> máu lại khá ngắn. Các GnRH tự nhiên chỉ tồn tại<br /> trong máu khoảng 5 phút, trong khi đó các GnRH-A<br /> có thể tồn tại khoảng 20 phút [18]. Do đó, khi tiêm<br /> các GnRH-A có khả năng kéo dài thời gian kích thích<br /> tuyến yên tiết KDT khoảng 24 - 72 giờ tùy thuộc<br /> vào loài và nhiệt độ môi trường nước. Các GnRH tự<br /> nhiên khi tiêm vào sẽ bị phân giải rất nhanh do các<br /> enzyme endopeptidase có mặt trong tuyến yên, gan<br /> và thận của cá. Các enzyme này thường phá vỡ cấu<br /> trúc của phân tử GnRH tự nhiên, đặt biệt ở các vị trí<br /> amino acid thứ 5 - 6 và thứ 9 - 10 làm cho phân tử<br /> nhỏ hơn và trở nên không còn hoạt tính.<br /> Bằng cách thay thế các vị trí amino acid thứ 6<br /> của GnRH tự nhiên bằng một dextrorotatory (D) aa<br /> <br /> TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG ❖ 185<br /> <br /> Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn<br /> <br /> Soá 3/2012<br /> <br /> và vị trí thứ 10 bằng nhóm ethylamide, người ta có<br /> thể tổng hợp được một GnRH-A và có thể chống<br /> lại sự phân giải của enzym. Do đó, GnRH-A tồn tại<br /> trong máu lâu hơn và kéo dài hoạt tính trong việc<br /> kích thích phóng thích KDT từ tuyến yên so với các<br /> GnRH tự nhiên. Do chúng được thay thế các aa tại<br /> một số vị trí trong cấu trúc nên các GnRH-A được<br /> tăng cường ái lực liên kết với các thụ thể GnRH<br /> của tuyến yên. Sự kết hợp giữa việc tăng cường ái<br /> lực với các thụ thể GnRH và khả năng đề kháng lại<br /> các enzyme phân hủy đã làm cho các GnRH-A tăng<br /> hiệu quả trong khoảng 30-100 lần so với GnRH [13].<br /> Vì tính hiệu quả của nó nên các GnRH-A đã được<br /> sử dụng rộng rãi và nhanh chóng thay thế các loại<br /> hormon khác trong sinh sản nhân tạo.<br /> Các GnRH-A được sử dụng khá phổ biến hiện<br /> nay là [D-Ala6,Pro9,Net]-mGnRH ở động vật có vú<br /> và [D-Arg6,Pro9,NEt]-sGnRH ở cá Hồi. Hai loại này<br /> có cùng chức năng trên cá Sparus auratus, trong<br /> khi đó [D-Arg6,Pro9,NEt]-sGnRH có hoạt tính mạnh<br /> <br /> hơn ở cá Hồi vân (Oncorhynchus mykiss) [14] và cá<br /> Vàng [23]. Do [D-Ala6,Pro9,Net]-mGnRH được tổng<br /> hợp bằng các kỹ thuật tiên tiến trong y khoa nên<br /> được sử dụng phổ biến rộng rãi và rẻ hơn so với<br /> [D-Arg6, Pro9, NEt]-sGnRH. Do vậy, [D-Ala6, Pro9, Net]mGnRH là hormon được sử dụng nhiều trong nghiên<br /> cứu và sinh sản nhân tạo. Việc sử dụng các GnRH-A<br /> trong NTTS đã làm thay đổi đáng kể trong công tác<br /> quản lý đàn cá bố mẹ và sinh sản nhân tạo và việc sử<br /> dụng GnRH-A được xem như là một công cụ rất hiệu<br /> quả và không thể thiếu đối với các trại sản xuất giống<br /> nhân tạo. GnRH-A cũng có thể được tổng hợp ở dạng<br /> viên nén và cấy dưới da của cá bố mẹ. Phương pháp<br /> này cho thấy một số ưu điểm như kéo dài thời gian<br /> kích thích, rẻ tiền và hạn chế stress cho cá. Bên cạnh<br /> đó, một số công trình đã thực hiện vào đầu những năm<br /> 1990 cho thấy tiềm năng của việc sử dụng GnRH-A<br /> thông qua cho ăn, mặc dù kết quả cho thấy nhiều hứa<br /> hẹn nhưng phương pháp này vẫn chưa được nghiên<br /> cứu đầy đủ và ứng dụng trong sinh sản nhân tạo.<br /> <br /> Bảng 1. Một số loại GnRH-A được dùng hiện nay trong sinh sản nhân tạo<br /> 1<br /> <br /> 2<br /> <br /> 3<br /> <br /> 4<br /> <br /> 7<br /> <br /> 8<br /> <br /> mGnRH-A<br /> <br /> pGlu<br /> <br /> His<br /> <br /> Trp<br /> <br /> Ser<br /> <br /> Tyr<br /> <br /> D-Ala<br /> <br /> Leu<br /> <br /> Arg<br /> <br /> Pro- NHC2H5<br /> <br /> sGnRH-A<br /> <br /> pGlu<br /> <br /> His<br /> <br /> Trp<br /> <br /> Ser<br /> <br /> Tyr<br /> <br /> D-Arg<br /> <br /> Trp<br /> <br /> Leu<br /> <br /> Pro-NHC2H5<br /> <br /> cGnRH-A<br /> <br /> pGlu<br /> <br /> His<br /> <br /> Trp<br /> <br /> Ser<br /> <br /> His<br /> <br /> D-Arg<br /> <br /> Trp<br /> <br /> Tyr<br /> <br /> Pro-GlyNH2<br /> <br /> Buserelin<br /> <br /> pGlu<br /> <br /> His<br /> <br /> Trp<br /> <br /> Ser<br /> <br /> Tyr<br /> <br /> D-Ser<br /> <br /> Leu<br /> <br /> Arg<br /> <br /> Pro-NHC2H5<br /> <br /> Các chất kháng Dopamin thường được sử dụng<br /> kết hợp với GnRH-A trong sinh sản nhân tạo. Trong<br /> sinh sản nhân tạo, sử dụng kết hợp GnRH-A và<br /> chất kháng dopamin, tiêm GnRH-A bằng hai lần và<br /> các chất kháng dopamin (domperidone, pimozide,<br /> reserpine và metoclopramide) được tiêm một lần<br /> ở lần đầu cùng với GnRH-A. Việc tiêm chất kháng<br /> <br /> 5<br /> <br /> 6<br /> <br /> 9<br /> <br /> dopamin ở thời điểm này nhằm loại bỏ sự ức chế<br /> lên các KDT và tăng cường hiệu quả ảnh hưởng cho<br /> lần tiêm thứ 2 lên quá trình tiết KDT. Sự ức chế của<br /> dopamin được chứng minh trên các loài cá họ Chép<br /> và cá Trê phi nhưng lại không thấy trên hầu hết các<br /> loài cá biển có giá trị kinh tế. Cường độ ảnh hưởng<br /> ức chế của dopamin thay đổi theo chu kỳ sinh sản.<br /> <br /> Bảng 2. Các GnRH-A và chất kháng dopamin áp dụng trên một số loài cá nuôi<br /> Tên loài<br /> <br /> Liều sử dụng<br /> <br /> Tài liệu tham khảo<br /> <br /> Cá Hồng (L. argentimaculatus)<br /> <br /> 100 mg A/kg<br /> <br /> [15]<br /> <br /> Cá Vàng (Carassius auratus)<br /> <br /> 100 μg A,T + 10 mg PIM/kg<br /> <br /> [25]<br /> <br /> Cá Giò (Rachycentron. Canadum)<br /> <br /> 20 mg A/kg<br /> <br /> [20]<br /> <br /> Cá Măng (Chanos chanos)<br /> <br /> 10-16 và 100 μg R/kg<br /> <br /> [21]<br /> <br /> Cá Vược (Dicentrarchus labrax)<br /> <br /> 10 μg A/kg<br /> <br /> [8]<br /> <br /> Cá Chẽm (Lates calcarifer)<br /> <br /> 20 μg A/kg<br /> <br /> [17]<br /> <br /> Cá Hồi vân (Oncorhynchus mykiss)<br /> <br /> 50 μg T /kg<br /> <br /> [11]<br /> <br /> Cá Dìa công (Siganus guttatus)<br /> <br /> 10 μg A/kg<br /> <br /> [24]<br /> <br /> Ghi chú: A: D-Ala6 Pro9NEt-mGnRH; L: D-Lys6-sGnRH; R: D-Arg6 Pro9NEt-sGnRH; T: D-Trp6-mGnRH; PIM: Pimozide; DOM: Domeridone;<br /> MET: Metoclopramide.<br /> <br /> 186 ❖ TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG<br /> <br /> Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn<br /> 3. Các loại hormon steroid<br /> Đầu những năm 1950, các hormon steroid ngoại<br /> sinh đã được chứng minh là có khả năng gây chín<br /> và rụng trứng trên nhiều loài cá. Một trong số đó là<br /> cá Chạch (Misgurnus fossilis) đã chín và rụng trứng<br /> khi được tiêm Methyltestosterone và Progesteron<br /> ngoại sinh. Sau đó hàng loạt các công trình tiếp<br /> theo nghiên cứu sử dụng các loại hormon steroid<br /> ngoại sinh khác như Desoxycorticosteron (DOC),<br /> Hydrocotison cho cá Nheo mang túi (Heteropneustes<br /> fossilis), Oxyprogesteron cho cá Mè trắng (H. molitrix),<br /> Hydroxyprogesteron cho cá Trê phi (Clarias<br /> gariepinus),<br /> Cortexolon<br /> cho<br /> cá<br /> Chép,<br /> Desoxycorticosteron Acetat (DOCA) cho cá Trê<br /> phi. Tuy nhiên cho đến nay việc ứng dụng hormon<br /> steroid trong sinh sản nhân tạo các loài cá nuôi trên<br /> thế giới vẫn còn hạn chế. Ở nước ta, hầu hết các<br /> công trình nghiên cứu cũng như sử dụng hormon<br /> steroid trong sinh sản nhân tạo chủ yếu trên các loài<br /> cá nước ngọt như cá Chép, Trê phi, Bống tượng,<br /> Mè hoa, Mè trắng và Mrigal của các tác giả Nguyễn<br /> Tường Anh, Phạm Văn Khánh và Thái Thanh Bình<br /> <br /> Soá 3/2012<br /> vào những năm 1997 - 1998. Tuy nhiên các kết quả<br /> trên đều chưa được công bố rộng rãi cũng như chưa<br /> được ứng dụng nhiều trong sản xuất giống, đặc biệt<br /> trên các loài cá biển. Các hormon steroid mà nhóm<br /> tác giả trên sử dụng chủ yếu là P, 17P và 17,20bP.<br /> Gần đây, một số công trình nghiên cứu sử dụng<br /> các hormon steroid nhóm C21 (chủ yếu là 17P và<br /> 17,20P) đã được thử nghiệm cho đẻ thành công<br /> trên cá Tra và cá Hú [1], cá Mè Vinh và He Vàng<br /> [2], cá Trắm Cỏ [3], cá Trôi Ấn độ Labeo rohita [4]<br /> và cá Chép [5]. Kết quả thu được đầy hứa hẹn từ<br /> các công trình nghiên cứu nêu trên đã cho thấy tiềm<br /> năng rất lớn của các hormon steroid trong sản xuất<br /> giống nhân tạo. Tuy nhiên có thể nói những nghiên<br /> cứu trên chỉ mới dừng lại ở mức độ thử nghiệm quy<br /> mô nhỏ mà chưa được ứng dụng trong sản xuất<br /> giống quy mô lớn. Vì vậy chúng tôi cho rằng cần<br /> phải có những công trình nghiên cứu trên quy mô<br /> sản xuất, so sánh hiệu quả kinh tế của hormon<br /> steroid với các loại hormon khác và hoạt tính sinh<br /> học của chúng mới có thể đưa hormon steroid áp<br /> dụng trong sản xuất giống.<br /> <br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> Tiếng Việt<br /> 1.<br /> <br /> Nguyễn Tường Anh, Nguyễn Thị Ngọc Duyên và Nguyễn Hà Thanh Phong, 2005. Kích thích cá Tra và cá Hú đẻ: Dùng 17a,<br /> 20b-dihydroxy-4-pregnen-3-one trong liều quyết định. Tạp chí Thủy sản số 12, 2005.<br /> <br /> 2.<br /> <br /> Nguyễn Tường Anh và Phan Văn Kỳ, 2004. Dùng 17a, 20b-dihydroxy-4-pregnen-3-one kích thích cá Mè Vinh và cá He vàng<br /> đẻ. Hội thảo toàn quốc về nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ trong NTTS, Vũng Tàu 22-23/12/2004, 323-329.<br /> <br /> 3.<br /> <br /> Lê Văn Dân, Nguyễn Tường Anh, Võ Văn Phú, 2007. Kích thích chín và rụng trứng cá Trắm cỏ (Ctenopharyngodon idellus)<br /> bằng 17a, 20b-dihydroxy-4-pregnen-3-one (17,20P) như liều quyết định. Tạp chí Nông nghiệp và PTNT, số 99 (2007), 36-39.<br /> <br /> 4.<br /> <br /> Lê Văn Dân, Nguyễn Tường Anh, Võ Văn Phú, 2007. Tác dụng của Progesteron (P), 17a,20b-dihydroxy-4-pregnen-3-one<br /> (17,20P) và Desoxycorticosteron Acetat (DOCA) lên sự chín và rụng trứng in vivo của cá Trôi Ấn độ (Labeo rohita). Tạp chí<br /> Phát triển Khoa học và Công nghệ, ĐH Quốc Gia Tp HCM, Số 4 (2007): 67-74.<br /> <br /> 5.<br /> <br /> Nguyễn Thị Yến Linh, Diệp Hồng Phước, Nguyễn Tường Anh. 2006. Thí nghiệm kích thích cá Chép (Cyprinus carpio) sinh<br /> sản bằng Domperidon và 17a, 20b-dihydroxy-4-pregnen-3-one (17,20P), Tạp Chí Khoa Học Trường Đại học Cần Thơ. Số<br /> đặc biệt chuyên đề Thủy sản 4/2006 tr. 201-206.<br /> <br /> 6.<br /> <br /> Dương Nhật Long và Nguyễn Hoàng Thanh, 2008. Kết quả bước đầu về sinh sản nhân tạo cá Leo (Wallago attu Schneider)<br /> Tạp chí Khoa học 2008 (2): 76-81, Trường Đại học Cần Thơ.<br /> <br /> 7.<br /> <br /> Bùi Minh Tâm, Nguyễn Thanh Phương và Dương Nhựt Long, 2008. Ảnh hưởng của liều lượng và phương pháp tiêm HCG<br /> đến sinh sản bán nhân tạo cá lóc bông (Channa micropeltes). Tạp chí Khoa học 2008 (2): 76-81, Trường Đại học Cần Thơ.<br /> Tiếng Anh<br /> <br /> 8.<br /> <br /> Alvarino, J.R., Zanuy, S., Prat, F., Carrillo, M., Mananos, E., 1992. Stimulation of ovulation and steroid secretion by LHRHa<br /> injection in the sea bass (Dicentrarchus labrax): effect of time of day. Aquaculture 102, 177–186.<br /> <br /> 9.<br /> <br /> Ayson, F.G., 1991. Induced spawning of rabbitfish, Siganus guttatus Bloch. using human chorionic gonadotropin (HCG).<br /> Aquaculture 95, 133–137.<br /> <br /> TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG ❖ 187<br /> <br /> Taïp chí Khoa hoïc - Coâng ngheä Thuûy saûn<br /> <br /> Soá 3/2012<br /> <br /> 10. Battaglene, C., Selosse, M., 1996. Hormone-induced ovulation and spawning of captive and wild broodfish of the<br /> catadromous Australian bass, Macquaria novemaculeata Steindachner, (Percichthyidae). Aqua. Res. 27, 191–204.<br /> 11. Breton, B., Weil, C., Sambroni, E., Zohar, Y., 1990. Effects of acute versus sustained administration of GnRHa on GtH release<br /> and ovulation in the rainbow trout, Oncorhyncus mykiss. Aquaculture 91, 371–383.<br /> 12. Caylor, E., Biesiot, M., Franks, S., 1994. Culture of cobia (R. canadum) cryopreservation of sperm and induced spawning.<br /> Aquaculture 125, 81–92.<br /> 13. Crim, L.W., Bettles, S., 1997. Use of GnRH analogues in fish culture. In: Fingerman, M., Nagabhushanam, R., Thompson,<br /> M.F. (Eds), Recent Advances in Marine Biotechnology, Vol. 1: Endocrinology and Reproduction. Oxford and IBH<br /> Publishing, New Delhi, pp. 369–382.<br /> 14. Crim, L.W., Nestor Jr., J.J., Wilson, C.E., 1988. Studies of the biological activity of LHRH analogs in the rainbow trout,<br /> landlocked salmon, and the winter flounder. Gen. Comp. Endocrinol. 71, 372–382.<br /> 15. Emata, C., 2002. Breeding and Seed Production of the Mangrove Red Snapper (Lutjanus argentimaculatus). Aquaculture<br /> Asia, Volume VII, No. 3 July – September 2002.<br /> 16. Emata, C., Eullaran, B., Bagarinao, U., 1994. Induced spawning and early life description of the mangrove red snapper,<br /> Lutjanus argentimaculatus. Aquaculture 121, 381–387.<br /> 17. Garcia, B., 1996. Bioactivity of stored luteinizing hormone-releasing analogue (LHRHa) in sea bass, Lates calcarifer Bloch.<br /> J. Appl. Ichthyol. 12, 91–93.<br /> 18. Gothilf, Y., Elizur, A., Zohar, Y., 1995. Three forms of gonadotropin-releasing hormones in gilthead seabream and striped<br /> bass: physiological and molecular studies. In: Goetz, R., Thomas, P. (Eds.), Proceedings of the 5th International Symposium<br /> on the Reproductive Physiology of Fish, Austin, TX, pp. 52-54.<br /> 19. Head, D., Watanabe, O., Ellis, C., Ellis, P., 1996. Hormone-induced multiple spawning of captive Nassau grouper broodstock.<br /> Prog. Fish-Cult. 58, 65–69.<br /> 20. Le X., 2005. Advances in the seed production of Cobia Rachycentron canadum in Vietnam. Aquaculture Asia, Vol. 10, No.<br /> 3, pp.1-50, July - September.<br /> 21. Marte, C., Sherwood, N.M., Crim, L.W., Harvey, B., 1987. Induced spawing of maturing milkfish Chanos chanos Forsskal.<br /> with gonadotropin-releasing hormone GnRHa administered in various ways. Aquaculture 60, 303–310.<br /> 22. Miura, T., Yamauchi, K., Nagahama, Y., Takahashi, H., 1991. Induction of spermatogenesis in male Japanese eel, Anguilla<br /> japonica, by a single injection of human chorionic gonadotropin. Zool. Sci. 8, 63–73.<br /> 23. Peter, R., Nahorniak, C., Sokolowska, M., Chang, J., Rivier, J., Vale, W., King, J., Millar, R., 1985. Structure-activity<br /> relationships of mammalian, chicken, and salmon gonadotropin releasing hormones in vivo in goldfish. Gen. Comp. Endocrinol.<br /> 58, 231–242.<br /> 24. Rachmansyah, Usman, Samuel Lante and Taufik Ahmad, 2007. Rabbitfish (Siganus guttatus) breeding and larval rearing trial.<br /> Aquaculture Asia Volume XII No. 3 July-September 2007.<br /> 25. Sokolowska, M., Peter, R., Nahorniak, C., Pan, C., Chang, J., Crim, L., Weil, C., 1984. Induction of ovulation in goldfish,<br /> Carassius auratus, by pimozide and analogues of LH-RH. Aquaculture 36, 71-83.<br /> 26. Thalathiah, S., Ahmad, O., Zaini, S., 1988. Induced spawning techniques practised at Batu Berendam, Melaka, Malaysia.<br /> Aquaculture 74, 23–33.<br /> <br /> 188 ❖ TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC NHA TRANG<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2