ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

HOÀNG THỊ THỦY

SỬ DỤNG DI SẢN VĂN HÓA CỐ ĐÔ HOA LƢ

TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ ĐỊA PHƢƠNG

Ở LỚP 10 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNH NINH BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

HOÀNG THỊ THỦY

SỬ DỤNG DI SẢN VĂN HÓA CỐ ĐÔ HOA LƢ

TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ ĐỊA PHƢƠNG

Ở LỚP 10 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNH NINH BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƢ PHẠM LỊCH SỬ

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP DẠY HỌC BỘ MÔN LỊCH SỬ

Mã số: 8.14.01.11

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TS. NGUYỄN THỊ CÔI

HÀ NỘI - 2020

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn tới tất cả các thầy cô trong tổ bộ

môn Phương pháp dạy học bộ môn lịch sử, cũng như các thầy cô dạy bộ môn của

trường Đại học Giáo dục đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt thời gian học tập cũng

như trong quá trình nghiên cứu.

Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến cô giáo GS.

TS. Nguyễn Thị Côi - người đã tận tình, chu đáo đầy trách nhiệm giúp đỡ, hướng

dẫn tác giả hoàn thành luận văn này.

Cảm ơn tập thể giáo viên và học sinh các trường trung học phổ thông Đinh

Tiên Hoàng, Nho Quan A, Gia Viễn C và đặc biệt là trường trung học phổ thông

Gia Viễn B – tỉnh Ninh Bình, đã tạo điều kiện cho tác giả điều tra thực tế và nhiệt

tình giúp đỡ tôi trong việc thực nghiệm sư phạm.

Trong quá trình thực hiện đề tài, không tránh khỏi những thiếu sót, tác giả

mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn đồng

nghiệp để luận văn hoàn thiện hơn.

Xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, 20 tháng 7 năm 2020

Tác giả

i

Hoàng Thị Thủy

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................ i

MỤC LỤC ................................................................................................................. ii

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT..................................................................... iv

DANH MỤC CÁC BẢNG ........................................................................................ v

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ, HÌNH ............................................................... vii

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

CHƢƠNG 1 VẤN ĐỀ SỬ DỤNG DI SẢN VĂN HÓA CỐ ĐÔ HOA LƢ

TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ ĐỊA PHƢƠNG Ở LỚP 10 TRUNG HỌC PHỔ

THÔNG TỈNH NINH BÌNH – LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ............................... 15

1.1. Cơ sở lí luận ....................................................................................................... 15

1.1.1. Quan niệm về sử dụng di sản văn hóa trong dạy học lịch sử địa phương ...... 15

1.1.2. Các loại di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư cần khai thác sử dụng trong dạy học

lịch sử địa phương ở lớp 10 trung học phổ thông tỉnh Ninh Bình ............................ 20

1.1.3. Cơ sở xuất phát ................................................................................................ 26

1.1.4. Giá trị của di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư ........................................................ 33

1.1.5. Vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư trong dạy học

lịch sử địa phương ..................................................................................................... 36

1.2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................................... 40

1.2.1. Khái quát về thực trạng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư ................................... 40

1.2.2. Thực trạng việc sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư trong dạy học lịch sử

địa phương tại tỉnh Ninh Bình ................................................................................... 42

1.2.3. Nhận xét chung ............................................................................................... 54

Tiểu kết chƣơng 1 .................................................................................................... 55

CHƢƠNG 2 HÌNH THỨC, BIỆN PHÁP SỬ DỤNG DI SẢN VĂN HÓA CỐ

ĐÔ HOA LƢ TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ ĐỊA PHƢƠNG Ở LỚP 10

TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNH NINH BÌNH ............................................... 56

2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung cơ bản của lịch sử địa phương trong chương trình lịch

ii

sử lớp 10 trung học phổ thông tỉnh Ninh Bình ......................................................... 56

2.1.1. Vị trí ................................................................................................................ 56

2.1.2. Mục tiêu .......................................................................................................... 56

2.1.3. Nội dung cơ bản .............................................................................................. 59

2.2. Yêu cầu khi lựa chọn hình thức, biện pháp sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa

Lư trong dạy học lịch sử địa phương lớp 10 trung học phổ thông tỉnh Ninh Bình .. 60

2.2.1. Lựa chọn hình thức, biện pháp sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư phải đáp

ứng được mục tiêu dạy học lịch sử địa phương nói riêng, môn lịch sử nói chung ........ 60

2.2.2. Hình thức, biện pháp lựa chọn phải phát huy tính tích cực học tập của học sinh .. 60

2.2.3. Lựa chọn hình thức, biện pháp phải vừa sức học sinh .................................... 61

2.2.4. Lựa chọn hình thức, biện pháp phải phù hợp với điều kiện của nhà trường và

địa phương ................................................................................................................. 61

2.3. Hình thức, biện pháp sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư trong dạy học lịch

sử địa phương ............................................................................................................ 62

2.3.1. Tổ chức hiệu quả các hoạt động dạy học nội khóa ......................................... 62

2.3.2. Tăng cường sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư để tổ chức các hoạt động

ngoại khóa ................................................................................................................. 85

2.3.3. Sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư trong kiểm tra, đánh giá kết quả học

tập lịch sử địa phương của học sinh .......................................................................... 94

2.4. Thực nghiệm sư phạm ...................................................................................... 101

2.4.1. Mục đích của thực nghiệm ............................................................................ 102

2.4.2. Nội dung và phương pháp thực nghiệm ........................................................ 102

2.4.3. Tiến trình thực nghiệm .................................................................................. 103

2.4.4. Kết quả thực nghiệm ..................................................................................... 103

Tiểu kết chƣơng 2 .................................................................................................. 109

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ....................................................................... 110

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 113

iii

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1 DHLS Dạy học lịch sử

3 DSVH Di sản văn hóa

4 ĐC Đối chứng

5 GDPT Giáo dục phổ thông

6 GV Giáo viên

7 HS Học sinh

8 LSĐP Lịch sử địa phương

9 NXB Nhà xuất bản

10 PPDH Phương pháp dạy học

11 SGK Sách giáo khoa

12 TN Thực nghiệm

13 TNKQ Trắc nghiệm khách quan

iv

14 THPT Trung học phổ thông

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1. Danh mục các loại di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư .................................... 24

Bảng 1.2. Mức độ thích môn Lịch sử của học sinh ................................................... 43

Bảng 1.3. Mức độ quan trọng của việc sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư ....... 43

trong dạy học lịch sử địa phương ở Ninh Bình ......................................................... 43

Bảng 1.4. Ý nghĩa của việc sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư trong dạy học lịch

sử địa phương ở Ninh Bình ....................................................................................... 43

Bảng 1.5. Các nguồn tài liệu giáo viên khai thác trong dạy học lịch sử địa phương 44

Bảng 1.6. Các loại di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư giáo viên cần khai thác trong dạy

học lịch sử địa phương .............................................................................................. 45

Bảng 1.7. Mức độ giáo viên tổ chức các hình thức dạy học lịch sử địa phương ...... 45

Bảng 1.8. Các biện pháp sư phạm giáo viên sử dụng trong bài học nội khóa .......... 45

Bảng 1.9. Các biện pháp sư phạm giáo viên sử dụng trong bài học tại di sản.......... 46

Bảng 1.10. Các biện pháp sư phạm giáo viên sử dụng trong hoạt động ngoại khóa 46

Bảng 1.11. Việc sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư trong kiểm tra, đánh giá kết

quả học tập của học sinh ........................................................................................... 47

Bảng 1.12. Thuận lợi của giáo viên trong việc sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư

trong dạy học lịch sử địa phương cho học sinh ở trường trung học phổ thông ........ 48

Bảng 1.13. Khó khăn của giáo viên trong việc sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư

trong dạy học lịch sử địa phương cho học sinh ở trường trung học phổ thông ........ 48

Bảng 1.14. Các mức độ thích môn Lịch sử của học sinh .......................................... 49

Bảng 1.15. Quan niệm của học sinh về di tích đặc trưng nhất của tỉnh Ninh Bình .. 50

Bảng 1.16. Hiểu biết của học sinh về kiến thức lịch sử địa phương ......................... 50

Bảng 1.17. Mức độ quan tâm của học sinh đến di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư trong

học tập lịch sử địa phương ........................................................................................ 51

Bảng 1.18. Nguồn tài liệu học sinh sử dụng trong việc học tập lịch sử địa phương 51

Bảng 1.19. Mức độ học sinh tham gia các hình thức dạy học lịch sử địa phương ... 52

Bảng 1.20. Các hình thức học sinh được tham gia kiểm tra, đánh giá kết quả học tập

v

lịch sử địa phương ..................................................................................................... 52

Bảng 1.21. Thuận lợi của học sinh khi giáo viên sử dụng di sản văn hóa trong dạy

học lịch sử địa phương .............................................................................................. 53

Bảng 1.22. Khó khăn của học sinh khi khi giáo viên sử dụng di sản văn hóa trong

dạy học lịch sử địa phương ....................................................................................... 54

Bảng 2.1. Liệt kê một số di sản văn hóa sử dụng trong bài học nội khóa ................ 63

Bảng 2.2. Phân công nhiệm vụ của từng thành viên trong nhóm dự án ................... 82

Bảng 2.3. Mẫu phiếu kiểm (dành cho mỗi học sinh) ................................................ 97

Bảng 2.4. Mẫu thang xếp hạng học sinh ................................................................... 98

Bảng 2.5. Thang đo đánh giá bài báo cáo dành cho nhóm ....................................... 99

Bảng 2.6. Thang đo đánh giá làm việc nhóm của học sinh....................................... 99

Bảng 2.7 Mẫu học sinh tự đánh giá ......................................................................... 100

Bảng 2.8. Phiếu học sinh tự đánh giá ...................................................................... 101

vi

Bảng 2.9. Thống kê điểm số bài kiểm tra lớp thực nghiệm và lớp đối chứng ........ 106

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ, HÌNH

Sơ đồ 1.1. Phân loại di sản văn hóa .......................................................................... 16

Biểu đồ 2.1. So sánh kết quả thực nghiệm .............................................................. 106

vii

Hình 2.1. Giáo viên tập trung học sinh trước cổng đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng .. 87 Hình 2.2. Đại diện nhóm 1 đóng vai hướng dẫn viên du lịch giới thiệu Ngọ môn quan (với 4 chữ “Bắc môn tỏa thược”) tại Cổng vào đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng ................................................................................................................................... 88 Hình 2.3. Đại diện nhóm 2 đóng vai hướng dẫn viên du lịch giới thiệu Long sàng trước Bái đường cho cả lớp và khách du lịch nước ngoài tại Cố đô Hoa Lư ........... 88 Hình 2.5. Học sinh tham gia tìm hiểu Long sàng ở Nghi môn ngoại - Bảo vật quốc gia tại Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng ..................................................................... 104 Hình 2.6. Học sinh tích cực tham gia hoạt động nhóm phần luyện tập .................. 104 “Ghép tranh di sản theo nhóm” ............................................................................... 105 Hình 2.4. Các nhóm học sinh thi tài năng ............................................................... 162

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

1.1. Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hóa đặt ra nhiều

thách thức cho các dân tộc phải có biện pháp lưu giữ các giá trị tốt đẹp về vật chất

và tinh thần của đời sống xã hội loài người và dân tộc. Ngoài ra, những tác động

tiêu cực của xã hội thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước khiến cho chúng

ta cần phải có được trạng thái cân bằng, sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và

hiện đại. Do đó, ở sách lược phát triển trong những năm gần đây của các địa

phương trong cả nước luôn quan tâm đến vấn đề: “Di sản văn hóa với hội nhập và

phát triển”.

Mặt khác, trong bối cảnh các nước tập trung vào việc hội nhập, phát triển kinh

tế hiện nay thì những giá trị văn hóa đang ngày dần bị mai một đi và không còn giữ

nguyên được bản chất ban đầu vốn có của nó. Trong Công ước Di sản Thế giới

được Tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) thông

qua ngày 21/11/1972 đã nhấn mạnh rằng di sản văn hóa đang ngày càng bị đe dọa

hủy diệt không chỉ bởi các nguyên nhân truyền thống mà còn bởi các điều kiện kinh

tế và xã hội làm trầm trọng thêm tình hình với những hiện tượng thậm chí còn ghê

gớm hơn cả sự phá hủy.

Đứng trước xu thế này, trong công văn số 73/HD-BGDĐT-BVHTTDL (năm

2013), Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch về

việc hướng dẫn sử dụng di sản văn hóa trong dạy học ở trường phổ thông, trung tâm

GDTX nhằm góp phần giáo dục toàn diện học sinh, giữ gìn và phát huy giá trị của

di sản văn hóa vì lợi ích của toàn xã hội và truyền thống tốt đẹp của cộng đồng các

dân tộc Việt Nam. Trong đó, Bộ đã chỉ rõ việc sử dụng nội dung dạy học di sản văn

hóa vào các môn học trong chương trình giáo dục phổ thông cả nội khóa và ngoại

khóa. Cho đến nay, giáo dục di sản luôn là nội dung được Bộ giáo dục và đào tạo

quan tâm chỉ đạo trong nhiệm vụ trọng tâm của các năm học ở trường phổ thông.

Đây cũng là nội dung không thể thiếu trong Chương trình giáo dục phổ thông tổng

thể (năm 2018) sẽ dần được áp dụng trong ngành giáo dục ở những năm tiếp theo.

1

1.2. Trong số các bộ môn mà học sinh được học ở trường trung học phổ thông

thì lịch sử có thể được coi là môn học có ưu thế và có nhiều ý nghĩa quan trọng

trong việc sử dụng di sản văn hóa, đặc biệt là các di sản văn hóa vật thể và phi vật

thể ở địa phương. Bởi vì, giáo dục lịch sử là một phương tiện hiệu quả để giáo dục

lòng yêu nước, làm cho mỗi con người có ý thức trách nhiệm đối với sự tồn tại và

phát triển xã hội, với chính quê hương của mình. Để từ đó, mỗi người cần phải có

hành động thiết thực với lịch sử, văn hóa nơi mình sinh sống và cao hơn cả là quyết

tâm bảo vệ được những giá trị linh thiêng đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh

rằng: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của

ta” [38; tr.38]. Bởi vậy, trong cuộc đời hoạt động của mình, Người đã khơi dậy lòng

yêu nước trong mỗi người dân Việt Nam, coi đó là “chìa khóa vàng” để xây dựng,

củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tổ chức, lãnh đạo họ thực hiện mục tiêu giành

độc lập, tự do cho Tổ quốc. Người viết trên báo “Việt Nam độc lập” (số ra ngày

1/2/1942): “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như

một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị người

ngoài xâm lấn” [28].

Không thể phủ nhận được rằng lịch sử địa phương là một bộ phận quan trọng

góp phần tạo nên lịch sử dân tộc, cho nên hiểu biết về lịch sử địa phương sẽ góp

phần hiểu sâu sắc hơn về lịch sử dân tộc. Bởi vậy, nếu giáo dục địa phương hiệu

quả sẽ bồi dưỡng tình yêu quê hương đất nước, ý thức trách nhiệm đối với xã hội.

Sử dụng di sản văn hóa vào dạy học lịch sử nói chung và lịch sử địa phương nói

riêng, đặc biệt là các di sản văn hóa ở nơi HS đang sinh sống sẽ khiến cho bài giảng

lịch sử được sinh động, gần gũi và lôi cuốn các em hơn.

1.3. Tuy nhiên, hiện nay có một thực tế đáng buồn là học sinh ngày càng xa

rời với các môn khoa học xã hội, đặc biệt là bộ môn lịch sử. Việc học sinh hiểu biết

lịch sử đất nước còn rất hạn chế, chứ chưa nói gì đến việc hiểu được lịch sử của địa

phương mình. Thực tế kết quả học sinh thi THPT quốc gia môn Lịch sử những năm

gần đây đã phần nào chứng minh điều đó.

Mặt khác, việc thực hiện công tác giảng dạy lịch sử địa phương ở các trường

hiện nay còn gặp nhiều khó khăn và hiệu quả đạt được chưa cao do xuất phát từ

nhiều phía như hạn chế về việc khai thác nguồn tư liệu địa phương, sự thiếu quyết

2

tâm đổi mới phương pháp và hình thức dạy học của giáo viên...

1.4. Tỉnh Ninh Bình được biết đến từ trong lịch sử là một vùng đất “địa linh

nhân kiệt”. Nơi đây còn được xem là địa phương “ngàn năm văn vật” với những di

tích lịch sử - văn hóa đã trở thành di sản văn hóa nổi tiếng. Trong đó, di tích lịch sử

- văn hóa Cố đô Hoa Lư là một di tích cấp quốc gia đặc biệt (là di tích có giá trị đặc

biệt tiêu biểu của quốc gia – Theo Luật Di sản văn hóa sửa đổi năm 2009) gắn liền

với một giai đoạn lịch sử đặc biệt của dân tộc ở giai đoạn đầu của thời kì phong

kiến độc lập, tự chủ (gồm các triều đại kế tiếp nhau Đinh, Tiền Lê, Lý từ thế kỉ X

đến thế kỉ XI). Bởi vậy, sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư là một giải pháp hiệu

quả nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học nội dung giáo dục địa phương nói

riêng và dạy học môn Lịch sử nói chung.

1.5. Mặt khác, di sản văn hóa với ý nghĩa và tầm quan trọng của nó vẫn tiếp

tục được chú trọng trong mạch nội dung của chương trình giáo dục phổ thông mới.

Vấn đề đặt ra là cần phải xác định được những hướng đi thích hợp, trên cơ sở các

giải pháp hữu hiệu đã thực hiện ở chương trình giáo dục phổ thông hiện hành để có

thể đạt được hiệu quả trong sử dụng di sản khi thực hiện chương trình phổ thông

sắp tới.

Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn vấn đề: “Sử dụng di sản văn

hóa Cố đô Hoa Lư trong dạy học lịch sử địa phương ở lớp 10 trung học phổ

thông tỉnh Ninh Bình” làm đề tài nghiên cứu luận văn.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Sử dụng di tích lịch sử - văn hóa, một loại phương tiện trực quan vô giá, một

nguồn tài liệu học tập quý hiếm trong dạy học các môn khoa học xã hội nói chung,

môn Lịch sử nói riêng là một trong những vấn đề thu hút được sự quan tâm của các

nhà nghiên cứu từ rất sớm. Trên cơ sở tìm hiểu có tính kế thừa các thành tựu đó,

chúng tôi sẽ vận dụng phù hợp để giải quyết những vấn đề nghiên cứu trong luận

văn của mình.

2.1. Tài liệu nước ngoài

- Vấn đề sử dụng phương tiện trực quan và tài liệu học tập nói chung, di sản

văn hóa trong đó có di tích lịch sử - văn hóa nói riêng từ lâu đã được các nhà lý

3

luận dạy học đề cập đến.

Trong phần 3 cuốn: “Phương pháp dạy học lịch sử ở các trường phổ thông”,

tập 2, NXB Mátxcơva, 1972, người dịch: Hoàng Trung, hiệu đính: Phan Ngọc Liên

(Lưu trữ trong Thư viện Đại học Sư phạm Hà Nội), tác giả AA.Vaghin đã khẳng

định nguồn tài liệu trực quan chiếm vai trò quan trọng trong việc dạy học lịch sử địa

phương ở trường phổ thông: “Bài học dựa trên cơ sở tài liệu lịch sử địa phương

thường được tiến hành bằng phương pháp trực quan (bằng cách tham quan viện

bảo tàng, các đài tưởng niệm và các nơi có di tích lịch sử)” [64; tr.297].

N.G.Đairi trong “Chuẩn bị giờ học Lịch sử như thế nào?”, NXB Giáo dục,

1973 đã nhìn nhận tài liệu trực quan như là một nguồn nhận thức khi ông cho rằng:

“Tính cụ thể và hình ảnh của sự kiện có một giá trị lớn lao, bởi vì chúng cho phép

hình dung lại quá khứ” [26; tr.25]. Tác giả đặc biệt chú ý đến tầm quan trọng của

việc gắn dạy học bộ môn với “thực tế trực tiếp bao quanh học sinh”. Tài liệu này

góp phần định hướng, giúp tìm ra các biện pháp sử dụng DSVH trong bài học lịch

sử nội khóa.

Trong giáo trình “Phương pháp dạy học lịch sử ở trường THPT”, tập 2, 1978,

Hoàng Trung dịch, lưu trữ tại Đại học Sư phạm Hà Nội, N.G.Đairi và các tác giả

A.T.Kinkunkin, A.G.Kôlôscốp, P.Karốpkin, P.C.Lâybengrúp đề cập đến vai trò, ý

nghĩa, cách phân loại, phương pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học lịch

sử và hình thức tổ chức dạy học lịch sử, các loại bài học lịch sử, trong đó có bài học

tại nơi sự kiện lịch sử đã xảy ra.

Tác giả I. Ia.Lecne (1982) trong: “Phát triển tư duy của học sinh trong dạy

học lịch sử", NXB Giáo dục Mátxcơva, Dịch: Trần Kim Văn, Đinh Ngọc Bảo, Phan

Huy Khánh, Nguyễn Thị Côi, Hiệu đính: Nguyễn Khoa, lưu trữ tại Đại học Sư

phạm Hà Nội, đã nhấn mạnh sử dụng các loại đồ dùng trực quan trong dạy học lịch

sử (như: hiện vật, tranh ảnh, tài liệu văn kiện hoặc di tích lịch sử...) là cơ sở quan

trọng giúp HS tái hiện, nhận thức chính xác lịch sử khách quan, tránh hiện đại hóa

lịch sử và tạo cảm hứng đặc biệt cho HS.

Tác giả M.N.Sácđacốp trong tác phẩm: “Tư duy học sinh”, NXB Giáo dục,

1982 khẳng định trong dạy học cần tăng cường nhận thức trực quan cho học sinh

bằng cách: “Có thể thực hiện nhiệm vụ này bằng cách tổ chức cho học sinh tri giác

4

các di tích lịch sử và các di sản văn hóa” [48; tr.53]. Như vậy, ngay từ rất sớm, các

nhà giáo dục học cũng đã chỉ ra vai trò quan trọng của các di tích lịch sử trong việc

giáo dục lịch sử. Được quan sát trực tiếp các di sản nói chung, di tích nổi tiếng cũng

là một cách thiết thực của việc vận dụng nguyên tắc trực quan trong dạy học.

Sách “Giáo dục học, tập 1” của VI.Savin, NXB Giáo dục, 1983 đã đề cập đến

nhiều vấn đề chung của giáo dục học. Trong đó, ông đặc biệt coi tham quan là một

hình thức dạy học quan trọng trong các hình thức tổ chức dạy học. Tài liệu này của

ông có ý nghĩa rất lớn đối với giáo viên trong việc lập kế hoạch tham quan khi ông

nhấn mạnh trước khi tổ chức tham quan cần phải xác định xem mình sẽ nghiên cứu

những chủ đề gì, cần vạch ra các nhiệm vụ gì cho buổi tham quan. Đó là những tư

liệu quý giá có ý nghĩa gợi mở giúp cho chúng tôi xác định các hình thức và biện

pháp sư phạm khi sử dụng di sản văn hóa trong dạy học lịch sử địa phương.

Trong cuốn “Lý luận dạy học và đời sống”, NXB Giáo dục, 1985, tác giả

LV.Dancôp đã chỉ rõ việc giáo dục trong nhà trường cần gắn bó với thực tiễn sinh

động của cuộc sống như các hoạt động thực nghiệm, thực tế, tham quan. Qua các

hoạt động này giúp học sinh “cảm thấy hài lòng vì lao động trí tuệ căng thẳng, sung

sướng vì hoàn thành được những bài tập khó, dường như các em đang tiến về phía

một cái gì mới mẻ mà mình phải nhận ra” [22; tr.95].

James H. Stronge (2013) trong “Những phẩm chất của người giáo viên hiệu

quả”, NXB Giáo dục Việt Nam, (người dịch: Lê Văn Canh) đã có những gợi ý cho

người giáo viên trong việc tổ chức đa dạng các hoạt động dạy học như học sinh

được tổ chức tranh luận, lập hồ sơ dữ liệu lịch sử, tham quan bảo tàng, tăng cường

hoạt động dựa vào Internet…

- Vấn đề nghiên cứu về di sản văn hóa luôn nhận được sự quan tâm của các

tác giả ở nhiều nước.

Đặc biệt, trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu đã

khai thác khía cạnh di sản văn hóa trước những thách thức của thế giới toàn cầu

hóa. Helaine Silverman và D.Ruggles Fairchild (2007) trong cuốn: “Cultural

Heritage and Human Rights” (Di sản văn hóa và nhân quyền), NXB Springer, New

York đã đề cập đến một khía cạnh chính trị sâu sắc của bảo tồn và quản lý di sản vì

nó liên quan đến quyền con người. Các tác giả khẳng định rằng bảo vệ di sản là cần

thiết cho việc bảo tồn bản sắc văn hóa. Việc trưng bày các di tích có thể là một

5

chiến lược để khẳng định bản sắc thiểu số trước áp lực của đa số.

Peter F.Biehl; Douglas C.Comer; Christopher Prescott và Hilary A.Soderland

trong cuốn sách xuất bản năm 2015: “Identity and Heritage – Contemporary

Challenges in a Globalized World” (Bản sắc và Di sản – Những thách thức đương

đại trong một thế giới toàn cầu hóa), NXB Springer, New York đã nhấn mạnh di

sản văn hóa là một khái niệm phổ biến, đặc biệt còn đề cập đến khái niệm di sản

xuyên quốc gia và quan tâm đến di sản thế giới ở những địa điểm xung đột hiện nay

như cuộc chiến đấu chống khủng bố đã ảnh hưởng như thế nào đến di sản ở

Pakistan.

2.2. Tài liệu trong nước

- Các công trình nghiên cứu về giáo dục học, lý luận dạy học đã đề cập đến

các vấn đề sử dụng đồ dùng trực quan nói chung, di sản văn hóa nói riêng trong dạy

học.

Giáo trình “Giáo dục học, tập 1”, NXB Giáo dục, 1987 của các tác giả Hà

Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt đã nhận định đồ dùng trực quan nếu được sử dụng khéo

léo sẽ giúp cho học sinh dễ hiểu bài, nhớ lâu kiến thức, phát triển năng lực tập

trung, óc quan sát và sự tò mò.

Công trình “Những vấn đề cơ bản giáo dục hiện đại”, NXB Giáo dục, 1998

của tác giả Thái Duy Tuyên đã khẳng định dạy học phải buộc học sinh động não,

tìm tòi trước những tình huống cuộc sống cụ thể. Tác giả còn chỉ rõ vai trò, phương

pháp sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học và nhấn mạnh sự đa dạng của các

hình thức tổ chức dạy học.

Đặng Thành Hưng trong cuốn: “Dạy học hiện đại – Lí luận, biện pháp, kĩ

thuật”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002 đã chỉ rõ bài học vừa được tiến hành ở

trên lớp vừa có thể tiến hành qua các giờ học ngoài lớp như học tham quan, học thí

nghiệm – thực hành, học xêmina ở thực địa.

Trong giáo trình “Lí luận dạy học”, NXB Giáo dục, 2002 của Nguyễn Văn Hộ

có đề cập đến các hình thức dạy học như: hình thức tự học ở nhà, hình thức tham

quan, hình thức thảo luận xêmina, hình thức dạy học theo nhóm, hình thức hoạt

động ngoại khóa trong dạy học. Ở mỗi hình thức, tác giả đề cập đến những đặc

điểm của từng hình thức, đặc biệt nhấn mạnh phần chuẩn bị của giáo viên và học

6

sinh cũng như quy trình thực hiện.

Các giáo trình “Phương pháp dạy học lịch sử”, NXB Giáo dục, xuất bản năm

1976 (tập 1), 1980 (tập 2), cuốn giáo trình xuất bản năm 1992 sửa chữa, bổ sung, tái

bản những năm sau đó do Phan Ngọc Liên, Trần Văn Trị chủ biên. Đặc biệt là giáo

trình “Phương pháp dạy học lịch sử” của Phan Ngọc Liên (chủ biên), Trịnh Đình

Tùng, Nguyễn Thị Côi do NXB Đại học Sư phạm xuất bản năm 2002, tái bản có

sửa chữa bổ sung năm 2009 cho đến nay đã đề cập đến nhiều vấn đề chung về

phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông. Trong đó, phần hệ thống phương

pháp dạy học đề cập đến phương pháp sử dụng trực quan nói chung, di tích lịch sử

nói riêng và các tài liệu học tập. Ở phần các hình thức tổ chức dạy học đề cập đến

bài học tại thực địa (di tích lịch sử), các hình thức ngoại khóa như tham quan di

tích, kể chuyện, đọc sách… Đây là nguồn tài liệu quý báu định hướng chúng tôi đề

xuất các hình thức, biện pháp sử dụng di sản văn hóa trong dạy học lịch sử nói

chung, lịch sử địa phương nói riêng ở tỉnh Ninh Bình.

Vũ Quang Hiển, Hoàng Thanh Tú trong giáo trình: “Phương pháp dạy môn

lịch sử ở trường trung học phổ thông”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014 đã

dành cả một chương nói về các hình thức tổ chức dạy học lịch sử ở trường trung học

phổ thông (Phần III. Chương 6) bao gồm dạy học lịch sử trên lớp, dạy học lịch sử

ngoài lớp và hoạt động ngoại khóa trong dạy học lịch sử. Trong đó, các tác giả nêu

rõ tiến trình thực hiện bài học lịch sử trên lớp, các hình thức dạy học lịch sử ngoài

lớp và ngoại khóa, phân tích rõ vị trí, ý nghĩa cũng như ưu, nhược điểm của một số

hình thức dạy học.

Trong cuốn “Các con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở

trường phổ thông”, NXB Đại học sư phạm, 2016 của Nguyễn Thị Côi đã đề cập đến

các hình thức tổ chức dạy học trong môn lịch sử. Theo đó, ngoài tiến hành dạy học

trên lớp là chủ yếu thì để nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử cần tăng cường kết hợp

các hình thức khác như tiến hành bài học tại thực địa, tổ chức tham quan học tập ở

nhà bảo tàng, nhà truyền thống, di tích lịch sử; tổ chức hoạt động ngoại khóa, thực

hành…

Trong cuốn “Dạy học phát triển năng lực môn Lịch sử trung học phổ thông”,

NXB Đại học Sư phạm, 2018 của Nghiêm Đình Vỳ (Tổng chủ biên), Trần Thị Vinh

7

(Chủ biên), Nguyễn Ngọc Cơ, Đào Tuấn Thành, Nguyễn Mạnh Hưởng, Nguyễn

Văn Ninh, các tác giả coi sử dụng di sản trong dạy học lịch sử là một trong những

phương pháp dạy học nhằm phát triển năng lực HS: “cần tạo điều kiện cho học sinh

tích cực tham gia các hoạt động học tập trực tiếp trải nghiệm với di sản, học sinh

phải được khám phá, khai thác các di sản có liên quan đến nội dung bài học, giúp

các em vừa có những hiểu biết về di sản, vừa hiểu sâu sắc hơn nội dung bài học”

[67, 26]. Ngoài ra, việc cuốn sách đề cập đến một số vấn đề chung về kiểm tra, đánh

giá năng lực môn lịch sử đã gợi mở giúp chúng tôi một số ý tưởng mới trong việc

kiểm tra, đánh giá học sinh trong quá trình sử dụng di sản văn hóa trong dạy học

lịch sử địa phương.

- Về vấn đề lịch sử địa phương và dạy học lịch sử địa phương cho đến nay đã

có nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.

Các cuốn giáo trình Lịch sử địa phương của Nguyễn Cảnh Minh, Phan Ngọc Liên

của Đại học Huế (1995), giáo trình đào tạo giáo viên trung học cơ sở hệ cao đẳng sư

phạm về Lịch sử địa phương của Nguyễn Cảnh Minh (chủ biên), Đỗ Hồng Thái (1999)

đã giúp giáo viên có cái nhìn khái quát chung về lịch sử địa phương, phương pháp

nghiên cứu và cách thức biên soạn, giảng dạy lịch sử địa phương. Trên cơ sở hiểu biết

chính xác những lý thuyết về lịch sử địa phương, chúng tôi có thể vận dụng để sử dụng

di sản văn hóa vào giảng dạy lĩnh vực này trong lịch sử nói chung.

Về nội dung lịch sử địa phương, ở nước ta đã được nghiên cứu từ thời phong

kiến, tuy nhiên mới chỉ ở việc ghi chép địa lý vùng, tiểu sử nhân vật, hay ghi chép

lại phong tục từng địa phương. Ở tỉnh Ninh Bình việc sử dụng tài liệu lịch sử địa

phương vào dạy học đã bước đầu được nghiên cứu và đưa vào sử dụng ở các trường

phổ thông. Năm 2009, với sự nỗ lực của cô giáo Vũ Thị Hồng Nga - chuyên viên bộ

môn lịch sử, cuốn tài liệu lịch sử địa phương phục vụ các tiết lịch sử địa phương

Ninh Bình đã ra đời.

- Các công trình nghiên cứu tổng quát về di sản văn hóa ở Việt Nam nói

chung, di sản văn hóa ở tỉnh Ninh Bình nói riêng có một số nghiên cứu sau:

Tập sách “Tìm trong truyền thống và di sản” [57] của tác giả Lưu Minh Trị

góp phần giới thiệu về giá trị lịch sử, văn hóa và di sản văn hóa. Nội dung chủ yếu

của bộ sách bao gồm: Giới thiệu tổng quan về lịch sử và văn hóa Việt Nam; truyền

8

thống và di sản văn hóa Hà Nội và các tỉnh, thành trong cả nước; các nhân vật lịch

sử, huyền thoại, giai thoại; bảo tồn, kế thừa và phát huy giá trị truyền thống và di

sản. Bộ sách này đã cho độc giả một số quan điểm về công tác bảo tồn các giá trị di

sản văn hóa hiện nay.

Trong nghiên cứu “Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản văn hóa dân

tộc” [66] của tác giả Hoàng Vinh đã đề cập đến những vấn đề lý luận liên quan đến

di sản văn hóa dân tộc; về vai trò, chức năng của di sản văn hóa đối với việc lựa

chọn mô hình phát triển văn hóa dân tộc. Tác giả tiến hành phân loại và bước đầu

mô tả thực trạng vốn di sản văn hóa dân tộc, làm nổi rõ những nguyên nhân đã và

đang gây nên sự xuống cấp vốn di sản văn hóa trong thời gian qua, từ đó đưa ra

những kiến nghị, biện pháp cụ thể để giữ gìn và phát huy di sản văn hóa.

Về di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư, tác giả xin đề cập một số tác phẩm: Sách Cố

đô Hoa Lư - lịch sử và danh thắng, NXB Thanh niên, 1998; các tác phẩm của

Nguyễn Văn Trò như: Danh thắng Ninh Bình (Sở Văn hóa Thông tin Ninh Bình,

1994), Cố đô Hoa Lư (NXB Văn hóa dân tộc, 2004), Di tích lịch sử - văn hóa về hai

triều Đinh - Tiền Lê ở Ninh Bình (NXB Văn hóa dân tộc, 2007); Phật giáo thời

Đinh và Tiền Lê trong công cuộc dựng nước và giữ nước, Viện nghiên cứu tôn giáo,

năm 2010; Ninh Bình toàn tỉnh địa chí khảo biên, Nguyễn Tử Mẫn, năm 2001; Di

sản văn hóa tiêu biểu Ninh Bình, Lưu Minh Trí chủ biên, năm 2010; Địa chí văn

hóa dân gian Ninh Bình, Trương Đình Tưởng biên soạn, năm 2004…

- Nghiên cứu về vấn đề sử dụng di sản văn hóa nói chung và di sản văn hóa

Cố đô Hoa Lư nói riêng trong dạy học có các tài liệu:

Tài liệu tập huấn “Sử dụng di sản trong dạy học ở trường phổ thông” của Bộ

Giáo dục và đào tạo, Bộ Văn hóa – Thể thao và du lịch (2013) đã đề cập đến một số

vấn đề chung như khái niệm, đặc điểm, phân loại, ý nghĩa của di sản đối với hoạt

động dạy học, giáo dục phổ thông, các hình thức tổ chức và phương pháp sử dụng

di sản trong dạy học, quản lí sử dụng di sản trong dạy học…

Ngoài ra, từ năm 1999 đến nay, đã có nhiều tác giả lựa chọn vấn đề sử dụng di

sản văn hóa địa phương vào dạy học lịch sử Việt Nam ở trường THPT làm đề tài

luận văn hoặc luận án nghiên cứu. Như:

Nguyễn Tiến Dũng (Luận văn Sử dụng tài liệu về di sản văn hóa vật thể ở địa

9

phương trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 Trung học phổ thông tỉnh Hải

Dương) [23]; Nguyễn Thị Duyên (Luận án Tổ chức dạy học lịch sử Việt Nam

(1919-2000) với di tích lịch sử tại địa phương ở trường trung học phổ thông tỉnh

Nghệ An) [24]; Bùi Thị Nhung (Luận văn Sử dụng di tích lịch sử quốc gia đặc biệt

ở địa phương trong dạy học lịch sử Việt Nam theo hướng phát triển năng lực cho

học sinh trung học phổ thông tỉnh Nam Định) [44]; Hồ Thị Hồng Thơm (2012), Sử

dụng tài liệu lịch sử địa phương trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 12 ở trường

trung học phổ thông tỉnh Thái Bình (Chương trình chuẩn) [53]; Lê Thị Thảo (2014),

Sử dụng di tích lịch sử - cách mạng ở địa phương trong dạy học Lịch sử Việt Nam từ

1945 đến 1954 lớp 12 trung học phổ thông tỉnh Tuyên Quang (chương trình chuẩn)

[52]. Riêng về các di sản văn hóa ở tỉnh Ninh Bình, đã có một nghiên cứu của

Nguyễn Thị Huyền Trang [56] tìm hiểu về di tích quốc gia đặc biệt Cố đô Hoa Lư,

tỉnh Ninh Bình nhưng mới khai thác ở cấp độ quản lý di tích văn hóa. Tuy nhiên,

các tác giả nói trên chủ yếu khai thác di sản văn hóa vào việc dạy học lịch sử địa

phương hoặc sử dụng di sản văn hóa các địa phương để dạy học một phần của lịch sử

Việt Nam. Hiện tại, chưa có nghiên cứu nào đi sâu khai thác hiệu quả nguồn tư liệu di

sản văn hóa Cố đô Hoa Lư vào dạy học lịch sử địa phương ở tỉnh Ninh Bình

(chương trình Lịch sử lớp 10 trung học phổ thông).

Tóm lại, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến những vấn đề sau:

Thứ nhất, di sản văn hóa, trong đó có di tích lịch sử là nguồn tài sản vô giá của

loài người cần phải được nghiên cứu để bảo vệ, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa

hiện nay.

Thứ hai, di tích lịch sử là một trong những phương tiện trực quan, một nguồn

kiến thức có vai trò, ý nghĩa rất quan trọng trong dạy học lịch sử nói chung, lịch sử

địa phương nói riêng. Vì vậy, sử dụng phương tiện trực quan và di sản văn hóa là

thật sự cần thiết trong dạy học lịch sử nói chung, lịch sử địa phương nói riêng ở

trường phổ thông.

Thứ ba, các công trình trên đã chỉ ra những cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu sử

dụng di sản văn hóa trong dạy học lịch sử địa phương ở trường phổ thông. Đặc biệt,

các tài liệu ở trong nước đã đề cập đến hình thức và phương pháp góp phần định hướng

10

việc sử dụng di sản văn hóa trong bài học lịch sử dân tộc và lịch sử địa phương.

Thứ tư, các công trình về di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư đã giúp chúng tôi xác

định được nội dung lịch sử của các loại di sản phục vụ việc dạy học lịch sử địa phương.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu: Quá trình sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư

trong dạy học lịch sử địa phương lớp 10 trung học phổ thông tỉnh Ninh Bình, trong

đó tập trung vào các biện pháp sử dụng.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về lí luận dạy học Lịch sử: Đề tài không nghiên cứu về di sản văn hóa nói

chung, mà tập trung nghiên cứu việc sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư trong

dạy học lịch sử địa phương trong hoạt động nội khóa và ngoại khóa cho học sinh

lớp 10 trung học phổ thông tại tỉnh Ninh Bình.

- Phạm vi điều tra và thực nghiệm:

+ Điều tra: Tiến hành điều tra giáo viên và học sinh tại một số trường trung

học phổ thông thuộc tỉnh Ninh Bình theo vùng miền (thành phố - trung học phổ

thông Đinh Tiên Hoàng, nông thôn - trung học phổ thông Gia Viễn B, vùng sâu -

trung học phổ thông Nho Quan A và trung học phổ thông Gia Viễn C).

+ Thực nghiệm qua một bài học nội khóa ở lớp 10, trường trung học phổ

thông Gia Viễn B, tỉnh Ninh Bình.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng di sản văn hóa trong

dạy học lịch sử, đề tài xác định nội dung các di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư có thể

khai thác và đề xuất hình thức, biện pháp sử dụng trong dạy học lịch sử địa phương

lớp 10 trung học phổ thông tỉnh Ninh Bình.

4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Tìm hiểu cơ sở lí luận về việc sử dụng di sản văn hóa nói chung, di sản văn

hóa Cố đô Hoa Lư nói riêng trong dạy học lịch sử địa phương tại tỉnh Ninh Bình.

- Điều tra thực trạng việc sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư trong dạy học

11

lịch sử địa phương lớp 10 ở trường trung học phổ thông tỉnh Ninh Bình.

- Tìm hiểu các nguồn tư liệu về di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư để xác định nội

dung các di sản cần khai thác sử dụng trong dạy học lịch sử địa phương lớp 10 trung

học phổ thông tỉnh Ninh Bình.

- Tìm hiểu chương trình lịch sử lớp 10 trung học phổ thông, trong đó có

chương trình lịch sử địa phương hiện hành và chương trình giáo dục phổ thông năm

2018, xác định nội dung lịch sử cần sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư. Trên cơ

sở đó, đề xuất các hình thức và biện pháp sử dụng di sản văn hóa trong dạy học lịch

sử địa phương.

- Tiến hành thực nghiệm sư phạm để kiểm nghiệm tính khả thi của các biện

pháp đề xuất tại trường trung học phổ thông Gia Viễn B tỉnh Ninh Bình.

5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở phương pháp luận

Cơ sở phương pháp luận của luận văn là lí luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về

nhận thức, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng và Nhà nước về

công tác giáo dục và giáo dục lịch sử.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

- Các phương pháp nghiên cứu lí thuyết:

+ Sưu tầm, phân tích, tổng hợp, đánh giá các tài liệu Tâm lí học - Giáo dục

học - Lý luận và phương pháp dạy học lịch sử để phục vụ cho việc nghiên cứu cơ sở

lý luận của đề tài.

+ Nghiên cứu chương trình lịch sử địa phương và sách giáo khoa môn lịch sử

lớp 10 trung học phổ thông hiện hành và chương trình giáo dục phổ thông năm

2018 môn lịch sử.

- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Điều tra khảo sát, phát phiếu, phỏng

vấn, quan sát thực trạng việc sử dụng di sản văn hóa địa phương trong dạy học lịch

sử ở trường trung học phổ thông nói chung, di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư trong dạy

học lịch sử địa phương tỉnh Ninh Bình nói riêng.

- Soạn bài và tiến hành thực nghiệm sư phạm để đánh giá tính đúng đắn và khả

thi của các biện pháp đưa ra.

12

- Sử dụng toán học thống kê để xử lý kết quả của thực nghiệm sư phạm.

6. Giả thuyết khoa học

Việc sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư trong dạy học lịch sử địa phương ở

lớp 10 trung học phổ thông tỉnh Ninh Bình sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy học

bộ môn nếu xác định được nội dung di sản văn hóa cần khai thác và đề xuất được

hình thức, biện pháp tổ chức dạy học phù hợp với đối tượng học sinh, điều kiện nhà

trường.

7. Đóng góp mới của đề tài

Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần:

- Khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư

trong dạy học lịch sử Việt Nam nói chung, lịch sử địa phương nói riêng.

- Phác họa bức tranh về thực trạng sử dụng di sản văn hóa địa phương nói

chung, sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư trong dạy học lịch sử địa phương nói

riêng ở trường trung học phổ thông tỉnh Ninh Bình.

- Xác định được nội dung di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư cần khai thác, sử dụng

trong dạy học lịch sử địa phương chương trình lịch sử lớp 10 trung học phổ thông ở

tỉnh Ninh Bình.

- Đề xuất được hình thức, biện pháp sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư

trong dạy học lịch sử địa phương ở lớp 10 trung học phổ thông tỉnh Ninh Bình.

8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

8.1. Ý nghĩa khoa học

Kết quả nghiên cứu của luận văn làm phong phú thêm lí luận dạy học bộ môn

về việc sử dụng di sản văn hóa trong dạy học lịch sử địa phương ở trường phổ

thông.

8.2. Ý nghĩa thực tiễn

- Kết quả nghiên cứu của luận văn giúp bản thân và đồng nghiệp ở trường

trung học phổ thông biết vận dụng các biện pháp sử dụng di sản văn hóa vào thực

tiễn dạy học lịch sử, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục bộ môn.

- Đề tài có thể là tài liệu tham khảo cho các luận văn tốt nghiệp của sinh viên,

13

học viên cao học.

9. Cấu trúc của luận văn

Ngoài mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 2

chương:

Chương 1. Vấn đề sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư trong dạy học lịch sử

địa phương ở lớp 10 trung học phổ thông tỉnh Ninh Bình – Lý luận và thực tiễn.

Chương 2. Hình thức, biện pháp sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư trong

14

dạy học lịch sử địa phương ở lớp 10 trung học phổ thông tỉnh Ninh Bình.

CHƢƠNG 1

VẤN ĐỀ SỬ DỤNG DI SẢN VĂN HÓA CỐ ĐÔ HOA LƢ TRONG DẠY HỌC

LỊCH SỬ ĐỊA PHƢƠNG Ở LỚP 10 TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỈNH

NINH BÌNH – LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Cơ sở lí luận

1.1.1. Quan niệm về sử dụng di sản văn hóa trong dạy học lịch sử địa phương

1.1.1.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài

- Di sản:

Di sản là đề tài được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu quan tâm. Nhiều

công trình nghiên cứu có các mục đích khác nhau và tiếp cận ở nhiều góc nhìn, tuy

nhiên các công trình này có quan niệm tương đối thống nhất: di sản văn hóa dù nó

có tồn tại dưới dạng vật chất hay tinh thần đều là những thành quả sáng tạo của

nhân dân, có giá trị to lớn trong đời sống của nhân dân qua các thời kì lịch sử.

Theo từ điển Việt Anh: “Di sản là cái thời trước để lại; còn văn hoá là tổng

thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong

quá trình lịch sử” [65; tr.89].

- Di sản văn hóa:

Theo Điều 1 của Luật Di sản văn hóa đã được Quốc hội thông qua năm 2001

(Luật số 28/2001/QH10 của Quốc hội), có thể định nghĩa các khái niệm như sau:

Di sản văn hoá: “là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá,

khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác” [46].

Bộ Luật này cũng nhấn mạnh: “Di sản văn hoá Việt Nam là tài sản quý

giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và là một bộ phận của di sản văn hoá

nhân loại, có vai trò to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân

dân ta” [46].

Về phân loại, DSVH bao gồm di sản văn hoá vật thể và di sản văn hoá

15

phi vật thể:

Sơ đồ 1.1. Phân loại di sản văn hóa

Trong đó:

+ Di sản văn hóa vật thể: “là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá,

khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật,

bảo vật quốc gia” [46]. Như vậy, DSVH vật thể bao gồm di tích lịch sử - văn hoá,

danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. Cụ thể hơn:

Di tích lịch sử - văn hoá: “là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ

vật, bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa

học”;

Danh lam thắng cảnh: “là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết hợp

giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm mỹ,

khoa học”;

Di vật: “là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học”;

Cổ vật: “là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn

16

hoá, khoa học, có từ một trăm năm tuổi trở lên”;

Bảo vật quốc gia: “là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý hiếm

tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hoá, khoa học” [46].

Về phân loại các di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh thuộc DSVH

vật thể nói chung, căn cứ Điều 4, Điều 28 Luật di sản văn hoá (sửa đổi, bổ sung

năm 2009) và Điều 14 Nghị định số 92/2002/NĐ-CP ngày 11/11/2002 của Chính

phủ Việt Nam quy định chi tiết một số điều của Luật Di sản văn hoá, các di

tích được phân loại theo 4 cách: Di tích khảo cổ học, di tích lịch sử, di tích kiến trúc

nghệ thuật và danh lam thắng cảnh. Trong đó: Di tích khảo cổ là những địa điểm

khảo cổ có giá trị nổi bật đánh dấu các giai đoạn phát triển của các văn hoá khảo cổ;

Di tích lịch sử là công trình xây dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu

trong quá trình dựng nước và giữ nước; Công trình xây dựng, địa điểm gắn với thân

thế và sự nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân của đất nước; Công trình xây

dựng, địa điểm gắn với sự kiện lịch sử tiêu biểu của các thời kỳ cách mạng, kháng

chiến; Di tích kiến trúc nghệ thuật là quần thể các công trình kiến trúc hoặc công

trình kiến trúc đơn lẻ có giá trị tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật của một hoặc nhiều

giai đoạn lịch sử.

+ Về khái niệm Di sản văn hóa phi vật thể, theo Luật sửa đổi, bổ sung một số

điều của Luật di sản văn hóa (Luật số 32/2009/QH12 của Quốc hội), tại Khoản 1

Điều 4:“là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không

gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của

cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ

khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác” [46].

Theo Điều 4 Thông tư số 04/2010/TT – BVHTTDL quy định DSVH phi vật

thể bao gồm các loại hình: Tiếng nói, chữ viết của các dân tộc Việt Nam; Ngữ văn

dân gian (bao gồm sử thi, ca dao, dân ca, tục ngữ, hò, vè, câu đố, truyện cổ tích,

truyện trạng, truyện cười, truyện ngụ ngôn, hát ru và các biểu đạt khác được chuyển

tải bằng lời nói hoặc ghi chép bằng chữ viết); Nghệ thuật trình diễn dân gian (bao

gồm âm nhạc, múa, hát, sân khấu và các hình thức trình diễn dân gian khác); Tập

quán xã hội và tín ngưỡng (bao gồm luật tục, hương ước, chuẩn mực đạo đức, nghi

lễ và các phong tục khác); Lễ hội truyền thống; Nghề thủ công truyền thống; Tri

17

thức dân gian.

- Địa phương:

Để dạy học tốt LSĐP, trước hết chúng ta cần hiểu đúng khái niệm “Địa

phương”. Theo từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, NXB Đà Nẵng, Trung tâm từ

điển học, 2003, địa phương có nghĩa là vùng, khu vực trong quan hệ với những

vùng, khu vực khác trong nước hoặc trong quan hệ với trung ương, với cả nước.

Cho đến nay, có nhiều quan niệm về thuật ngữ này, tuy nhiên, dưới góc độ nghiên

cứu lịch sử, có thể hiểu theo hai nghĩa như sau theo cuốn Giáo trình Lịch sử địa

phương của Nguyễn Cảnh Minh (chủ biên): Theo nghĩa cụ thể, địa phương “là

những đơn vị hành chính của một quốc gia, đó là những tỉnh, thành phố, huyện, xã,

thôn, bản, làng, buôn, mường, ấp…” [40; tr.3]. Theo nghĩa khái quát trừu tượng, địa

phương “là những vùng đất, khu vực nhất định, được hình thành trong lịch sử, có

ranh giới tự nhiên (không giống như địa giới hành chính) để phân biệt với các vùng

đất khác” [40; tr.3].

Cũng theo Nguyễn Cảnh Minh, “địa phương có những mối liên hệ với cả nước

và là một bộ phận cấu thành của đất nước, đồng thời cũng có những nét riêng tạo

nên sắc thái riêng của vùng mình”. [39; tr.3].

Qua các cách hiểu như trên, có thể rút ra định nghĩa LSĐP chính là lịch sử của

làng, xã, huyện, tỉnh, thành phố hay khu vực, vùng miền... Ngoài ra, LSĐP còn bao

hàm ý nghĩa là lịch sử của các đơn vị sản xuất, chiến đấu, các trường học, cơ quan,

xí nghiệp, nhà máy…

1.1.1.2. Quan niệm về sử dụng di sản văn hóa nói chung, di sản văn hóa Cố đô Hoa

Lư nói riêng trong dạy học lịch sử địa phương

Theo từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, NXB Đà Nẵng, Trung tâm từ điển học,

2003, sử dụng có nghĩa là “đem dùng vào mục đích nào đó” [45; tr.876]. Vậy sử dụng

DSVH trong dạy học LSĐP được hiểu là dùng nguồn tư liệu về DSVH như một phương

tiện, công cụ để dạy học hiệu quả nội dung LSĐP trong chương trình GDPT.

- Về vấn đề sử dụng DSVH trong dạy học môn lịch sử nói chung, trong tài liệu

tập huấn của Bộ Giáo dục và đào tạo về Sử dụng di sản trong dạy học ở trường phổ

thông đã nêu rõ các quan niệm về phương pháp, hình thức và kiểm tra đánh giá khi

sử dụng DSVH trong dạy học môn lịch sử. Cụ thể là:

18

+ Về phương pháp: Sử dụng DSVH trong dạy học lịch sử đều phải tuân theo

phương pháp tích cực hướng tới hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức

của người học: “Các phương pháp tích cực có các dấu hiệu đặc trưng là: dạy và

học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của HS; dạy học chú trọng rèn luyện

phương pháp tự học, tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác” [13;

tr.52]. Một số hình thức tổ chức và phương pháp dạy học tạo điều kiện phát huy tính

tích cực học tập của HS là: Thứ nhất, việc sử dụng di sản trong dạy học bộ môn lịch

sử ở trường phổ thông trước hết phải thông qua các phương pháp truyền thống theo

tinh thần đổi mới phù hợp với từng môn học như trình bày miệng, sử dụng đồ dùng

trực quan, … Thứ hai, sử dụng các phương pháp và phương tiện dạy học hiện đại

như: dạy học nêu vấn đề, dạy học theo dự án, sử dụng công nghệ thông tin trong

dạy học.

+ Về hình thức: Đối với các hình thức dạy học khi sử dụng DSVH bao gồm:

Khai thác, sử dụng tài liệu về DSVH để tiến hành bài học ở trên lớp; Tiến hành bài

học tại nơi có di sản (hay thực địa, bảo tàng, phòng truyền thống…); Tổ chức tham

quan ngoại khóa – trải nghiệm di sản; Sử dụng di sản để tổ chức các hoạt động

ngoại khóa khác (tổ chức triển lãm, ra báo học tập; thi tìm hiểu về di sản ở địa

phương; tổ chức cho HS chăm sóc các DSVH ở địa phương…)

+ Về kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS: khi GV sử dụng DSVH để

kiểm tra, đánh giá vẫn đảm bảo những yêu cầu chung của công tác này. Đó là: Bảo

đảm tính khách quan, toàn diện, khoa học và trung thực; Căn cứ vào chuẩn kiến

thức, kĩ năng, thái độ của môn học/ hoạt động giáo dục ở từng lớp, vào mục tiêu

giáo dục di sản được xác định ở từng bài/ hoạt động; Phối hợp giữa đánh giá của

GV và tự đánh giá của HS; Kết hợp các hình thức đánh giá khác nhau (tự luận,

TNKQ, quan sát, sản phẩm…)

- Về vấn đề sử dụng DSVH trong dạy học LSĐP, ngoài việc lựa chọn nội

dung kiến thức được quy định trong chương trình của lớp học, cấp học phù hợp với

di sản, bài giảng cần được bổ sung nguồn tài liệu chính xác, tin cậy về địa phương.

Nội dung bài giảng tại di sản ở địa phương có thể do GV thiết kế theo tài liệu hướng

dẫn của Sở Giáo dục và Đào tạo hoặc do GV tự biên soạn. Tài liệu do GV tự biên

19

soạn cần tuân thủ các nguyên tắc: Một là, chọn những kiến thức cơ bản, tiêu biểu

của địa phương tương ứng với một nội dung kiến thức của bài học trong chương

trình, SGK chung làm nội dung cho các tiết học về địa phương. Hai là, việc dạy học

những tiết về địa phương trong chương trình ở trường phổ thông mang tính chất

tổng hợp toàn diện, không phải là dạy chuyên đề về một lĩnh vực nào đó của bộ

môn. Ba là, nguồn tài liệu cần dựa vào các bài viết, công trình của những cơ quan

có trách nhiệm như Sở văn hoá - thông tin, Ban Tuyên giáo tỉnh...

Như vậy, việc sử dụng DSVH trong dạy học LSĐP có tầm quan trọng đặc biệt

góp phần làm sinh động, cụ thể hóa nội dung bài học, qua đó khôi phục lại bức

tranh quá khứ đã diễn ra tại di sản một cách sống động, chân thực nhất.

- Sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư trong dạy học lịch sử địa phương:

Sử dụng DSVH Cố đô Hoa Lư trong dạy học LSĐP cũng tuân thủ những quan

niệm về DSVH trong dạy học lịch sử nói chung, LSĐP nói riêng. Đặc biệt cần thấu

đáo quan điểm coi nguồn tư liệu về DSVH Cố đô Hoa Lư như một phương tiện,

công cụ dùng để tiến hành bài học LSĐP.

Tuy nhiên, với một DSVH cụ thể là Cố đô Hoa Lư thì cần phải có những

nghiên cứu cụ thể, chuyên sâu về di sản này nhằm chỉ rõ những giá trị văn hóa tiêu

biểu của di tích Cố đô Hoa Lư để phục vụ cho việc dạy và học LSĐP. Nhất là trong

điều kiện nguồn tư liệu về di sản này rất phong phú nhưng chưa được chắt lọc, biên

soạn để đưa vào nội dung dạy học LSĐP ở tỉnh Ninh Bình. Ngoài ra, cần có các

định hướng về hình thức, biện pháp để khai thác, sử dụng DSVH này vào dạy học

một cách hiệu quả trong chương trình LSĐP nói riêng, bộ môn lịch sử ở trường phổ

thông nói chung. Điều đó càng khẳng định hơn nữa tính cấp thiết, vị trí quan trọng

của đề tài nghiên cứu mà chúng tôi đang đề cập là sử dụng DSVH Cố đô Hoa Lư

trong dạy học LSĐP ở lớp 10 trung học phổ thông tỉnh Ninh Bình.

1.1.2. Các loại di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư cần khai thác sử dụng trong dạy học

lịch sử địa phương ở lớp 10 trung học phổ thông tỉnh Ninh Bình

1.1.2.1. Khái quát về di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư

Cố đô Hoa Lư là một quần thể di tích quốc gia đặc biệt quan trọng của nước

ta, đồng thời là một trong 4 vùng lõi của quần thể di sản thế giới Tràng An (bên

cạnh 3 khu vực đặc biệt khác là Khu Tam Cốc – Bích Động, Khu sinh thái Tràng

20

An và Rừng đặc dụng Hoa Lư) đã được UNESCO công nhận vào năm 2014.

Hiện nay, khu di tích Cố đô Hoa Lư có diện tích quy hoạch 13,87 km² thuộc

tỉnh Ninh Bình, nằm trên địa bàn giáp ranh giới 2 huyện Hoa Lư, Gia Viễn và thành

phố Ninh Bình của tỉnh Ninh Bình. Kinh đô Hoa Lư xưa là vùng đất phù sa cổ ven

chân núi mà cho đến nay các nhà khảo cổ học đã chứng minh được nơi đây có dấu

tích của con người cư trú từ rất sớm. Đó là các phát hiện trầm tích có xương răng

động vật trên cạn thuộc sơ kỳ đồ đá cũ thuộc nền văn hóa Tràng An và nhiều hang

động có di chỉ cư trú của con người thuộc các thời kỳ văn hoá Hoà Bình, Bắc Sơn,

Đông Sơn và Đa Bút. Quần thể di sản thế giới Tràng An ở Hoa Lư hiện nay còn lưu

giữ nhiều di vật của người tiền sử từ 30.000 năm trước.

Hệ thống di tích ở trung tâm Cố đô Hoa Lư liên quan đến sự nghiệp của ba

triều đại nhà Đinh, nhà Tiền Lê và khởi đầu nhà Lý (từ năm 968 đến năm 1010,

bao gồm 6 vị vua Đinh Tiên Hoàng, Đinh Phế Đế, Lê Đại Hành, Lê Trung Tông,

Lê Long Đĩnh, Lý Thái Tổ). Hoa Lư là kinh đô đầu tiên của nhà nước phong kiến

Trung ương tập quyền ở Việt Nam với các dấu ấn lịch sử: thống nhất giang sơn,

đánh Tống - dẹp Chiêm và phát tích quá trình định đô ở Thăng Long. Các triều

Lý, Trần, Lê, Nguyễn sau đó dù không đóng đô ở Hoa Lư nữa nhưng vẫn cho tu bổ

và xây dựng thêm ở đây nhiều công trình kiến trúc như đền, lăng, đình, chùa, phủ…

Trong tài liệu lưu hành nội bộ tại Trung tâm bảo tồn di tích Cố đô Hoa Lư ghi

chép lại: “Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong loạn 12 sứ quân, lên ngôi hoàng đế và

đóng đô ở Hoa Lư, nơi đây trở thành trung tâm chính trị của nước Đại Cồ Việt”

[57; tr.11]. Từ năm 1010, khi Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long đến thời Trần,

vùng này thuộc lộ Trường Yên. Nhà Trần sử dụng thành Nam Trường Yên của cố

đô Hoa Lư để làm căn cứ địa kháng chiến chống Mông Nguyên. Vua Trần Thái

Tông xây dựng ở Hoa Lư hành cung Vũ Lâm, đền Trần thờ thần Quý Minh và chùa

A Nậu. Đầu thời Lê sơ, vùng cố đô Hoa Lư nhập vào Thanh Hóa, từ thời Lê Thánh

Tông lại tách ra, thuộc phủ Trường Yên, thừa tuyên Sơn Nam. Từ thời Lê trung

hưng đến thời Tây Sơn, vùng này thuộc phủ Trường Yên thuộc trấn Thanh Hoa

ngoại. Từ cuộc cải cách hành chính của vua Minh Mạng nhà Nguyễn năm 1831,

vùng này thuộc tỉnh Ninh Bình. Từ ngày 27 tháng 12 năm 1975, tỉnh Ninh Bình hợp

nhất với các tỉnh Nam Định và Hà Nam thành tỉnh Hà Nam Ninh rồi lại tái lập ngày

21

26 tháng 12 năm 1991, vùng cố đô Hoa Lư trở lại thuộc tỉnh Ninh Bình.

Ngày 29/4/2003, Thủ tướng chính phủ Việt Nam ra quyết định 82/2003/QĐ-

TTG về việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị lịch sử của khu di tích cố đô Hoa

Lư. Theo Quyết định này, toàn bộ khu di tích Cố đô Hoa Lư bao gồm: Vùng bảo

vệ đặc biệt có diện tích 3 km² gồm toàn bộ khu vực bên trong thành Hoa Lư, có các

di tích lịch sử: Đền Vua Đinh Tiên Hoàng, đền Vua Lê Đại Hành, lăng vua Đinh,

lăng vua Lê, đền thờ Công chúa Phất Kim, chùa Nhất Trụ, phủ Vườn Thiên, chùa

Kim Ngân, sông Sào Khê, một phần khu sinh thái Tràng An và các đoạn tường

thành, nền cung điện nằm dưới lòng đất... Vùng đệm có diện tích 10,87 km² gồm

cảnh quan hai bên sông Sào Khê và quần thể Tràng An, có các di tích lịch sử: động

Am Tiên, hang Quàn, hang Muối, đình Yên Trạch, chùa Bà Ngô, hang Luồn, hang

Sinh Dược, hang Địa Linh, hang Nấu Rượu,... [51].

Sau khi nhà Lý dời đô về Thăng Long, dân chúng ở bên ngoài kéo vào bên

trong kinh thành sinh sống. Vì vậy mà ngoại trừ khu trung tâm cung điện giới hạn

bởi ba cửa: Cửa Bắc, cửa Đông và cửa Nam thì rất nhiều các công trình kiến trúc

của Cố đô Hoa Lư hiện tại nằm rải rác trong khu dân cư. Hiện nay, khu di tích Cố

đô Hoa Lư còn lại là những di tích do hai triều Đinh - Lê xây dựng (Dấu tích kinh

thành, cung điện, các chùa cổ và đền thờ thần) và di tích do các triều đại sau xây

dựng (hệ thống lăng mộ, đền, đình thờ các danh nhân thời Đinh - Lê). Những di tích

này giúp các nhà nghiên cứu có thể tìm hiểu và hình dung, mô phỏng được hình

thức bố trí cung điện của kinh đô Hoa Lư xưa.

Ngày 10/5/2012, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã ký quyết định xếp

hạng di tích quốc gia đặc biệt đợt 2 cho 13 di tích trong đó có di tích lịch sử - kiến

trúc nghệ thuật Cố đô Hoa Lư, thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh

Bình (sau đây gọi tắt là di tích Cố đô Hoa Lư). Ngày 21 tháng 6 năm 2014, di tích

Cố đô Hoa Lư nằm trong Quần thể danh thắng Tràng An được UNESCO công nhận

là Di sản văn hóa và thiên nhiên của thế giới.

1.1.2.2. Danh mục các loại di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư cần khai thác sử dụng

Theo phân loại di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh của Luật di sản

văn hóa (sửa đổi, bổ sung năm 2009) (mục 1.1.1.1), khu di tích Cố đô Hoa Lư

thuộc địa phận xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình ngày nay thuộc loại

22

hình di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật.

Trong lịch sử, khu vực này từng là địa điểm đóng đô của 3 vương triều là

Đinh, Tiền Lê và Lý, gắn liền với thân thế và sự nghiệp của những anh hùng dân

tộc, danh nhân đất nước như Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lý Thái Tổ. Những

dấu tích lịch sử - văn hóa hiện còn tại khu vực di tích rất phong phú và đa dạng, bao

gồm hệ thống kiến trúc thờ tự, tường thành, hoàng thành, hang động và một số công

trình khác. Trong đó có một số công trình kiến trúc tiêu biểu như: Đền thờ vua Đinh

Tiên Hoàng, Đền thờ vua Lê Đại Hành, Chùa Nhất Trụ, Chùa và động Am Tiên,

Đình Yên Trạch… Các công trình kiến trúc ở đây không chỉ minh chứng cho một

thời kì lịch sử dân tộc ở thế kỉ X mà còn có giá trị tiêu biểu về kiến trúc, nghệ thuật

của nhiều giai đoạn lịch sử từ thế kỉ XVII và còn được lưu giữ đến ngày nay.

Ngoài những điểm di tích kể trên, hiện nay trong toàn khu di tích có gần 700

di vật, hiện vật khảo cổ học có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học, với niên đại chủ

yếu từ thế kỉ X. Tại khu vực đền Vua Lê Đại Hành, Trung tâm đã trưng bày các phế

tích khảo cổ thu được tại Hoa Lư phân theo từng giai đoạn lịch sử: Đinh - Lê, Lý và

Trần. Kết quả đợt khai quật của Viện Khảo cổ học năm 1997 tại khu vực đền vua

Lê Đại Hành đã hé mở phần nào diện mạo của kinh đô Hoa Lư xưa với thành quách

kiên cố, nhiều kiến trúc lớn và trang trí cầu kỳ mang đậm phong cách nghệ thuật

riêng của thời Đinh - Lê. Trong đợt khai quật nằm trong dự án nghiên cứu khảo cổ

học khu di tích Cố đô Hoa Lư năm 2009 - 2010, các nhà khảo cổ tập trung thám sát,

khai quật tại khu vực đồng Cây Khế phía Bắc đền Vua Lê Đại Hành. Kết quả là đã

làm phát lộ dấu tích của tường gạch xây bằng loại gạch Đại Việt quốc quân thành

chuyên, cùng nhiều loại hình vật liệu xây dựng và trang trí kiến trúc của thời Đinh -

Lê. Bên cạnh đó, công tác khảo cổ còn đưa lên khỏi lòng đất nhiều di vật quý giá

góp phần nghiên cứu một cách toàn diện về lịch sử, văn hoá của vùng đất Cố đô

23

Hoa Lư xưa.

Bảng 1.1. Danh mục các loại di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư

DSVH Loại hình Vật thể Di tích lịch - văn sử hóa

Di vật, cổ vật

vật Bảo quốc gia

văn Phi vật thể Ngữ dân gian

Tên di sản - Vùng bên trong thành Hoa Lư: Đền vua Đinh Tiên Hoàng, đền vua Lê Đại Hành, lăng vua Đinh, lăng vua Lê, đền thờ Công chúa Phát Kim, chùa Nhất Trụ… - Vùng đệm: Động Am Tiêm, hang Quàn, hang Muối, đình Yên Trạch, chùa Bà Ngô, hang Luồn, hang Sinh Dược, hang Địa Linh, hang Nấu Rượu, … - Cung điện dưới lòng đất : Gạch lát nền, gạch xây tường và trang trí xây dựng. - Tường thành thiên tạo : Núi Mã Yên, Núi Cột Cờ, Ghềnh Tháp, Sông Hoàng Long, Thành Đông, Thành Tây, Thành Nam. - Long sàng trước Nghi môn ngoại, Long sàng trước Bái đường (Đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng). - Cột kinh Phật (Chùa Nhất trụ). - Bộ Phủ Việt đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng. - Bộ Phủ Việt đền thờ Vua Lê Đại Hành. - Truyện kể dân gian : truyện Tiên thoại, Truyền thuyết và Cổ tích. - Ca dao, phương ngôn, tục ngữ. - Đồng dao. - Hát chèo và sân khấu chèo. - Trò chơi dân gian : đánh cờ người, kéo chữ Thái Bình.

hội Lễ hội Hoa Lư : Lễ rước nước ; Tế cửu khúc ; Tập trận cờ lau ; Kéo chữ. Nghệ thuật trình diễn dân gian Lễ truyền thống

Nội dung một số loại di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư tiêu biểu (Phụ lục 1.2)

1.1.2.3. Yêu cầu khi khai thác di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư trong dạy học lịch sử

địa phương tỉnh Ninh Bình

- Trước hết, phải đảm bảo mục tiêu của chương trình môn lịch sử và quan

điểm xây dựng, phát triển chương trình.

Mục tiêu của môn lịch sử ở trường phổ thông nhằm giúp cho HS có được

những kiến thức cơ bản, cần thiết về lịch sử dân tộc (trong đó có LSĐP), góp phần

hình thành ở HS thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước,

bồi dưỡng các năng lực tư duy, hành động, thái độ ứng xử đúng đắn trong đời sống

xã hội. Ngoài ra, khi khai thác DSVH Cố đô Hoa Lư trong dạy học LSĐP cần đảm

24

bảo các nguyên tắc như : tính khoa học (đúng đắn, chính xác theo quan điểm của

chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh) ; tuân thủ tính cơ bản (tập trung

những nội dung cốt lõi, có ý nghĩa nhất); tính dân tộc (phù hợp với điều kiện chính

trị, kinh tế - xã hội của đất nước, địa phương) và tính khả thi (phù hợp với thực tiễn

dạy học ở các nhà trường).

Xuất phát từ mục tiêu GDPT, mục tiêu từng cấp học, môn học cụ thể, GV xây

dựng mục tiêu cho từng bài học và lựa chọn di sản phải hướng vào thực hiện mục

tiêu đã được xác định đó. Chẳng hạn để giảng dạy về nội dung trong chương trình là

di tích lịch sử - văn hóa ở tỉnh Ninh Bình nhằm thực hiện mục tiêu giúp HS hiểu

biết về các khái niệm có liên quan và trình bày được một di tích tiêu biểu của địa

phương thì GV có thể lựa chọn di sản tiêu biểu nhất của tỉnh Ninh Bình là Cố đô

Hoa Lư để xây dựng mục tiêu bài học cụ thể, định hướng cho phương pháp và các

hoạt động học được tổ chức trong bài.

Trong khi xây dựng mục tiêu bài học LSĐP, GV cần căn cứ vào nội dung

LSĐP và nội dung lịch sử của DSVH thể hiện để xác định mục tiêu về các mặt kiến

thức, kỹ năng, thái độ, năng lực. Ví dụ HS có thêm hiểu biết về sự ra đời của di sản,

về cấu trúc loại hình di sản, về ý nghĩa và giá trị của di sản đối với đời sống tinh

thần, vật chất của người dân địa phương,…Từ đó, bồi dưỡng HS có thái độ tôn

trọng đối với di sản, có hành vi giữ gìn và chăm sóc di sản.

- Thứ hai, xác định nội dung lịch sử thể hiện qua di sản phải chính xác và

chuẩn bị các bước thực hiện một cách chu đáo :

+ GV xây dựng các nhiệm vụ học tập cần cụ thể, chi tiết giúp HS nhận biết rõ

yêu cầu phải thực hiện. Ví dụ : có thể yêu cầu HS tìm hiểu nguồn gốc hình thành

của di sản, khái quát sự phát triển của di sản qua thời gian, rút ra những hoạt động

của các em nhằm bảo vệ và phát triển di sản…

+ Hoạt động làm việc với di sản cần tiến hành theo những bước đi cụ thể…

GV nên chú ý một số công việc như : Công việc chuẩn bị ; Tiến hành hoạt động với

di sản ; Kết thúc hoạt động ; Đánh giá kết quả hoạt động.

- Thứ ba, phải tăng cường phát huy tính tích cực, chủ động của HS, tạo điều

kiện cho HS tự học, tự trải nghiệm, tham gia vào các hoạt động với di sản, từ các

hoạt động trong quá trình chuẩn bị như lập kế hoạch, phân công người thực hiện

25

việc cụ thể,… đến khi tiến hành thực hiện nhiệm vụ và báo cáo, đánh giá kết quả.

1.1.3. Cơ sở xuất phát

1.1.3.1. Mục tiêu bộ môn Lịch sử ở trường trung học phổ thông nói chung

Mục tiêu môn Lịch sử ở trường phổ thông nhằm giúp cho HS có được những

kiến thức cần thiết về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới, góp phần hình thành ở HS :

Về kiến thức : HS có được hiểu biết về

+ Sự kiện lịch sử tiêu biểu, những bước phát triển chủ yếu, những chuyển biến

quan trọng của lịch sử thế giới từ thời nguyên thủy đến nay. Chú trọng đến những

nội dung quan trọng nhất để hiểu biết về quá trình phát triển của lịch sử loài người,

những nền văn minh, những mô hình xã hội tiêu biểu, lịch sử các nước trong khu

vực và các sự kiện lịch sử thế giới có ảnh hưởng lớn, liên quan đến lịch sử nước ta.

+ Trình bày được quá trình phát triển của lịch sử dân tộc từ nguồn gốc đến

nay, trên cơ sở hiểu những sự kiện tiêu biểu của từng thời kì, những chuyển biến

lịch sử và sự phát triển hợp quy luật của lịch sử dân tộc trong sự phát triển chung

của thế giới.

+ Giải thích, đánh giá được một số nội dung cơ bản, cần thiết về nhận thức xã

hội như : kết cấu xã hội loài người, mối quan hệ giữa các yếu tố trong cơ cấu hệ

thống xã hội, vai trò to lớn của sản xuất (vật chất, tinh thần) trong tiến trình lịch sử,

vai trò của quần chúng nhân dân và cá nhân, nguyên nhân và động lực tạo ra các

chuyển biến lịch sử, quy luật vận động của lịch sử… Từ đó biết vận dụng kiến thức

lịch sử vào thực tế cuộc sống.

Về kĩ năng : Hình thành các kĩ năng cần thiết trong học tập bộ môn như: Làm

việc với SGK và các nguồn sử liệu ; Phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát, đánh

giá sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử.

Về thái độ : Bồi dưỡng cho HS tinh thần hăng hái, tính tích cực, hứng thú

tham gia các hoạt động học tập ; Có thái độ trân trọng đối với các di sản lịch sử

dựng nước và giữ nước của dân tộc ; Trân trọng nền văn hóa của các dân tộc trên

thế giới, có tinh thần quốc tế chân chính, vì hòa bình, tiến bộ xã hội ; Có niềm tin về

sự phát triển từ thấp đến cao, từ lạc hậu đến văn minh của lịch sử nhân loại và lịch

sử dân tộc.

Về năng lực, phẩm chất: Bồi dưỡng HS năng lực chung như phát hiện và giải

26

quyết các vấn đề trong học tập lịch sử; Hình thành năng lực tự học, tự làm giàu tri thức

lịch sử cho HS thông qua các nguồn sử liệu khác nhau; Năng lực suy nghĩ sáng tạo,

năng lực ngôn ngữ/giao tiếp, năng lực hợp tác. Phát triển các năng lực chuyên biệt như:

Tái hiện sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử; Xác định và giải quyết mối liên hệ, ảnh

hưởng, tác động giữa các sự kiện, hiện tượng lịch sử với nhau; Năng lực phân tích,

đánh giá các sự kiện, hiện tượng lịch sử. Qua đó, bồi dưỡng các em những phẩm chất

cần thiết nhất của người công dân yêu nước (thái độ tích cực trong việc thực hiện nghĩa

vụ, trách nhiệm đối với đất nước - cộng đồng ; yêu lao động ; sống nhân ái, có kỉ luật,

tôn trọng và làm theo luật pháp, đoàn kết dân tộc và quốc tế…)

Trong chương trình giáo dục THPT môn lịch sử, mục tiêu kiến thức của

chương trình lớp 10 là thông qua các mạch nội dung về lịch sử thế giới từ thời

nguyên thủy đến thời cận đại, lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XIX

và LSĐP để góp phần thực hiện mục tiêu chung của chương trình.

Như vậy, việc sử dụng DSVH Cố đô Hoa Lư trong dạy học LSĐP ở lớp 10

góp phần thực hiện các mục tiêu của chương trình Lịch sử THPT nói chung, chương

trình Lịch sử lớp 10 nói riêng về một giai đoạn lịch sử của dân tộc Việt Nam ở thế

kỉ X gắn với các triều đại kế tiếp nhau là Đinh, Tiền Lê và Lý.

1.1.3.2. Đặc điểm tâm lý nhận thức của học sinh lớp 10 trung học phổ thông

- Đặc điểm chung :

Ở lớp học này, HS đã ở vào độ tuổi thanh niên nên yêu cầu về nội dung, tính chất

học tập có khác nhiều so với độ tuổi thiếu niên. Ở cấp THPT, nội dung học phong phú

hơn và hoạt động học tập cũng đòi hỏi nhiều hơn tính năng động, sáng tạo và ý thức

của các em đối với việc học tập ngày càng phát triển. Việc học của HS bắt đầu gắn liền

với khuynh hướng nghề nghiệp : “Thái độ học tập có ý thức đã làm thúc đẩy sự phát

triển có tính chủ định của quá trình nhận thức và tăng năng lực điều khiển bản thân

của thanh niên học sinh trong hoạt động học tập” [29; tr.59].

Quá trình nhận thức ở lứa tuổi này đã phát triển tính tự giác có mục đích, có hệ

thống và toàn diện hơn trong hoạt động trí tuệ “Các em có khả năng tư duy lý luận, tư

duy trừu tượng một cách độc lập, sáng tạo trong những đối tượng quen biết đã học

hoặc chưa được học trong nhà trường” [29; tr.60]. Nhờ đó, HS có thể thực hiện các

27

thao tác tư duy phức tạp, dễ hiểu các khái niệm trừu tượng, các mối liên hệ nhân quả

giữa các sự kiện, hiện tượng lịch sử. Ở lứa tuổi này, các em thường có xu hướng độc

lập khám phá về cuộc sống xung quanh với mong muốn khẳng định mình.

Mặt khác, HS ở độ tuổi này thường chưa tiếp cận nhiều với thế giới bên ngoài,

nên tình cảm của các em khi sống trong gia đình gắn với xóm làng, quê hương cụ

thể của mình có ý nghĩa rất thiêng liêng. Cho nên, khi được học những bài lịch sử

về quê hương, gắn bó với cuộc sống hàng ngày sẽ tạo ra những xúc cảm, khơi dậy

trong các em lòng tự hào, thôi thúc các em cố gắng học tập phấn đấu để cống hiến

cho quê hương đất nước…

Nắm vững được đặc điểm tâm lí và nhận thức của HS ở lứa tuổi này, trong quá

trình dạy học GV cần khơi dậy trong các em lòng mong muốn tìm hiểu về lịch sử

văn hóa quê hương mình, niềm tự hào về nơi mình sinh sống, ước mơ sẽ góp sức

mình xây dựng quê hương giàu đẹp. Đồng thời qua đó tạo động cơ học tập cho HS

định hướng nghề nghiệp trong tương lai phù hợp với thực tế của địa phương và

trang bị cho các em những kiến thức, kĩ năng cơ bản trước khi bước vào đời.

- Đặc điểm riêng của địa phương :

Tâm lý nhận thức của học sinh lớp 10 THPT ở tỉnh Ninh Bình cũng mang

những đặc điểm chung như trên tuy nhiên cũng có những nét riêng do tính chất địa

phương, vùng miền quy định. Ninh Bình là một tỉnh nằm ở phía nam vùng đồng

bằng Bắc Bộ, có địa bàn chiến lược quan trọng từ trong lịch sử. Đây cũng là một

vùng đất văn hiến giàu truyền thống yêu nước và cách mạng gắn với cuộc khởi

nghĩa Hai Bà Trưng chống quân Hán, nhà Đinh dựng nước, nhà Trần chống quân

Mông - Nguyên … đến nghĩa quân Tây Sơn với phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn,

căn cứ cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Bởi vậy, con người Ninh

Bình khi lớn lên đều nhận thức được vị trí xứng đáng của tỉnh mình trong sự biến

đổi và phát triển của dân tộc. Lòng tự hào về truyền thống yêu nước và cách mạng

của quê hương là nhân tố quan trọng để giáo dục LSĐP cho HS ở tỉnh Ninh Bình.

Ninh Bình còn là vùng đất có địa hình tự nhiên rất đa dạng được chia thành 3

vùng rõ rệt : vùng núi bán sơn địa (Nho Quan, Tam Điệp), vùng chiêm trũng (Gia

Viễn, Hoa Lư) và vùng đồng bằng ven biển (Yên Mô, Yên Khánh, Kim Sơn). Điều

28

này quy định cơ cấu kinh tế đa dạng ở địa phương, bao gồm cả nông nghiệp, lâm

nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Đặc biệt, tiềm năng du lịch

to lớn với nhiều danh lam thắng cảnh phong phú như Tam Cốc - Bích Động, Tràng

An, vườn quốc gia Cúc Phương, cả tiềm năng độc đáo về lịch sử và nhân văn như

Khu di tích Cố đô Hoa Lư, quần thể nhà thờ đá Phát Diệm, phòng tuyến Tam

Điệp… Nhận thức được tiềm năng quan trọng của du lịch địa phương, HS ở đây có

động lực tìm hiểu, học tập và phấn đấu vươn lên góp phần phát triển kinh tế, xã hội

cũng như biến du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của địa phương.

1.1.3.3. Đặc điểm kiến thức lịch sử địa phương lớp 10 tỉnh Ninh Bình và quá trình

nhận thức lịch sử của học sinh lớp 10 trung học phổ thông

- Đặc điểm chung của kiến thức lịch sử:

Kiến thức môn lịch sử ở trường phổ thông là những cơ sở của khoa học lịch

sử. Đó là những hiểu biết cơ bản của con người về lịch sử hiện thực đã xảy ra trong

xã hội loài người và của dân tộc kể từ khi con người và xã hội loài người xuất hiện

cho đến nay được con người nhận thức lại, khôi phục, được khoa học xác nhận lại

tính chân thực và ghi chép trong những cuốn sách giáo khoa mới nhất. Khác với

kiến thức của các bộ môn khác, kiến thức lịch sử nói chung, kiến thức LSĐP nói

riêng có các đặc điểm: tính quá khứ, tính cụ thể, tính hệ thống, tính không lặp lại và

tính thống nhất giữa sử và luận.

+ Tất cả những sự kiện và hiện tượng lịch sử được đề cập đến trong các bài

học đều đã xảy ra nên nó mang tính quá khứ. Bởi vậy, người ta không thể trực tiếp

quan sát lịch sử quá khứ mà chỉ nhận thức một cách gián tiếp thông qua các nguồn

tài liệu được lưu lại (hiện vật, thành văn, hình ảnh).

+ Sự kiện lịch sử là sự kiện có thật cho nên nó mang tính cụ thể. Tính cụ thể

ấy chỉ cho người học làm thế nào phải dựng lại, khôi phục lại được bức tranh quá

khứ. DSVH trong đó có di tích lịch sử có những cổ vật, hiện vật, bảo vật ấy là

những cái minh chứng cụ thể giúp HS lĩnh hội được kiến thức cơ bản.

+ Tính hệ thống nghĩa là kiến thức lịch sử luôn có mối quan hệ chặt chẽ với

nhau, không rời rạc, không tự nhiên sinh ra và tự nhiên mất đi mà có liên quan với

các sự kiện, hiện tượng khác theo lịch đại và đồng đại. Đặc điểm này định hướng

quá trình dạy học cần lưu ý chọn các phương pháp giúp cho HS tìm ra mối liên hệ

29

bên trong của các sự vật, hiện tượng.

+ Khi học tập lịch sử HS chỉ được học một lần duy nhất trong một cấp học nên

nó còn mang tính không lặp lại. Điều này gây khó khăn nhất định cho HS ghi nhớ

kiến thức lịch sử. Đặc điểm này lưu ý phải chú ý dành thời gian thỏa đáng để củng

cố, luyện tập kiến thức cho HS, đề ra những biện pháp giúp HS nhớ lâu, nhớ bền

vững những kiến thức đã học. Nguồn sử liệu của DSVH có tác dụng rất tốt để góp

phần giúp HS ghi nhớ kiến thức.

+ Tính thống nhất giữa sử và luận có nghĩa là kiến thức lịch sử bao giờ cũng chia

làm 2 phần: Phần sử (thời gian, địa điểm, nhân vật, diễn biến, kết quả…), phần luận

(giải thích, đánh giá, nhận xét, bình luận…), thiếu một trong hai yếu tố này thì kiến

thức lịch sử trở nên vô nghĩa. Dạy học lịch sử do đặc trưng của nó cần phải dựng lại sự

kiện, mà dựng lại sự kiện chính là yếu tố “sử” trong dạy học. Nhưng việc dựng lại này

không phải là để đấy mà phải biết xem xét, phân tích, đánh giá để tìm ra những bài học

tiêu biểu cho hiện nay, tức là có yếu tố “luận”. Những di tích, di vật, hiện vật của

DSVH không chỉ giúp HS trực quan sinh động các sự kiện, hiện tượng lịch sử đã diễn

ra, mà còn giúp cho HS có cơ sở để tư duy, tức là để giải quyết phần luận.

- Đặc điểm riêng của kiến thức LSĐP:

Bên cạnh đảm bảo những đặc điểm của kiến thức lịch sử nói chung, kiến thức

LSĐP lớp 10 tỉnh Ninh Bình còn tuân thủ theo mục tiêu của chương trình LSĐP cấp

THPT tỉnh Ninh Bình, HS lớp 10 THPT được học tập những kiến thức lịch sử một

cách chuyên sâu về vùng đất, con người Ninh Bình và hiểu biết những di tích lịch

sử - văn hóa ở địa bàn tỉnh. Trên cơ sở đó, HS hình thành được kĩ năng nhận xét,

đánh giá một cách tổng hợp và liên hệ được những kiến thức LSĐP với lịch sử dân

tộc. Qua đó, chuyên đề LSĐP lớp 10 góp phần bồi dưỡng tình cảm yêu mến, tự hào

về địa phương mình, trân trọng những giá trị truyền thống tốt đẹp của quê hương,

nâng cao ý thức trách nhiệm của HS trong việc phát huy truyền thống tốt đẹp của

quê hương, đất nước. Ngoài ra, HS có ý thức trân trọng, giữ gìn và bảo tồn các

DSVH, di tích lịch sử ở địa phương.

- Quá trình nhận thức lịch sử của HS lớp 10 THPT :

Từ đặc trưng kiến thức lịch sử nói chung và đặc điểm kiến thức LSĐP lớp 10

30

tỉnh Ninh Bình nói riêng như trên thì con đường nhận thức lịch sử bao giờ cũng đi

từ tri giác sự kiện, hình dung tưởng tượng để có biểu tượng và trên cơ sở nhớ sự

kiện, HS phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp để hình thành khái niệm, nêu quy

luật và rút ra bài học lịch sử. Sử dụng DSVH Cố đô Hoa Lư trong dạy học LSĐP

lớp 10 tỉnh Ninh Bình cũng phải tuân thủ đặc trưng và con đường nhận thức lịch sử.

Tổ chức dạy học cho HS thông qua sự kiện, phải tạo được biểu tượng, hình thành

khái niệm để từ đó nêu lên được quy luật và rút ra bài học.

Ở năm học đầu tiên của cấp THPT, HS lớp 10 đã trưởng thành hơn về khả

năng nhận thức kiến thức nói chung, nhận thức lịch sử nói riêng. Khác với HS ở cấp

học dưới, quá trình nhận thức lịch sử của các em HS lớp 10 có thể diễn ra một cách

chủ động, nhanh chóng hơn khi được hỗ trợ bởi các phương tiện trực quan, công

nghệ. Ở lớp học này, GV có thể tổ chức HS tự học để lĩnh hội tốt kiến thức lịch sử

nếu như người thấy giáo có tâm huyết, say mê với nghề và sử dụng hiệu quả các

phương pháp dạy học mới góp phần nâng cao nhận thức lịch sử cho HS. Như vậy,

đặc điểm này chính là điều kiện thuận lợi để chúng tôi thực hiện nội dung đề tài sử

dụng DSVH Cố đô Hoa Lư trong dạy học LSĐP ở trường THPT.

1.1.3.4. Yêu cầu đổi mới giáo dục nói chung, phương pháp dạy học nói riêng

Nghị quyết số 29-NQ/TW của Trung ương Đảng, khóa XI về đổi mới căn bản,

toàn diện giáo dục và đào tạo đã nhấn mạnh giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu,

của Đảng, Nhà nước, của toàn dân và là một trong những kế sách được ưu tiên đi

trước tạo tiền đề, động lực thúc đẩy các lĩnh vực khác phát triển.

Một trong những điểm sáng của giai đoạn đầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo

dục và đào tạo là đã xây dựng chương trình GDPT tổng thể và các chương trình

môn học, hoạt động giáo dục đáp ứng mục tiêu chú trọng phát triển toàn diện phẩm

chất và năng lực người học, kết hợp dạy chữ, dạy người và dạy nghề. Chương trình

GDPT tổng thể chú trọng khắc phục những bất cập, hạn chế của chương trình giáo

dục hiện hành, như: Nội dung nặng về truyền thụ kiến thức, học sinh phải học và

ghi nhớ rất nhiều nhưng khả năng vận dụng vào đời sống rất hạn chế; sự kết nối

giữa chương trình các cấp học trong một môn học và giữa chương trình các môn

học chưa chặt chẽ; một số nội dung giáo dục bị trùng lặp, chồng chéo hoặc chưa

31

thật sự cần thiết đối với học sinh phổ thông... Theo đó, ở giai đoạn giáo dục định

hướng nghề nghiệp (cấp THPT 3 năm) tạo điều kiện cho HS tiếp cận nghề nghiệp

phù hợp với năng lực, nguyện vọng của các em. Cốt lõi của chương trình GDPT

tổng thể được xây dựng theo mô hình phát triển năng lực, thông qua những kiến

thức cơ bản, thiết thực, hiện đại và các phương pháp tích cực hóa hoạt động của

người học, giúp học sinh hình thành và phát triển những phẩm chất, năng lực mà

nhà trường, xã hội kỳ vọng.

Trong chương trình GDPT tổng thể, nội dung giáo dục của địa phương được

đặc biệt coi trọng nhất là ở cấp THPT có vị trí tương đương các môn học khác. “là

những vấn đề cơ bản hoặc thời sự về văn hóa, lịch sử, địa lí, kinh tế, xã hội, … của

địa phương bổ sung cho nội dung giáo dục bắt buộc chung thống nhất trong cả

nước, nhằm trang bị cho HS những hiểu biết về nơi sinh sống, bồi dưỡng cho HS

tình yêu quê hương, ý thức tìm hiểu và vận dụng những điều đã học để góp phần

giải quyết những vấn đề của quê hương” [5; tr.31].

Sử dụng DSVH (cả vật thể và phi vật thể) không chỉ có vị trí quan trọng trong

chương trình GDPT hiện hành mà còn chiếm một thời lượng không ít trong các

chuyên đề học tập của chương trình GDPT 2018. Đó là chuyên đề Hoạt động trải

nghiệm thực tế (ở cả 3 khối 10, 11, 12 với tổng thời lượng là 45 tiết), trong đó:

Chuyên đề 10.2: Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá ở Việt Nam (lớp 10 với

15 tiết); Chuyên đề 11.1: Lịch sử nghệ thuật truyền thống Việt Nam (lớp 11 với 15

tiết); Chuyên đề 12.1: Lịch sử tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam (lớp 12 với 15

tiết) [5; 81].

Về phương pháp giáo dục, chương trình GDPT tổng thể định hướng áp dụng

các phương pháp tích cực hoá hoạt động của HS, trong đó GV đóng vai trò tổ chức,

hướng dẫn hoạt động cho HS, tạo môi trường học tập thân thiện và những tình

huống có vấn đề để khuyến khích các em tích cực tham gia vào các hoạt động học

tập. Bên cạnh đó, về đánh giá kết quả giáo dục, CTPT nhằm mục tiêu là cung cấp

thông tin chính xác, kịp thời về mức độ đáp ứng yêu cầu của chương trình và sự tiến

bộ của HS để hướng dẫn hoạt động học tập, điều chỉnh các hoạt động dạy học, bảo

đảm sự tiến bộ của HS và nâng cao chất lượng giáo dục.

32

Như vậy, sử dụng DSVH Cố đô Hoa Lư trong dạy học LSĐP ở tỉnh Ninh Bình

là một vấn đề có ý nghĩa rất lớn đối với việc dạy học LSĐP và môn lịch sử ở

chương trình hiện nay nói riêng, đối với yêu cầu đổi mới giáo dục nói chung,

chương trình GDPT trong những năm tiếp theo.

1.1.4. Giá trị của di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư

1.1.4.1. Giá trị lịch sử

Khu di tích Cố đô Hoa Lư là quần thể các di tích được xếp hạng cấp Quốc gia

đặc biệt trên nhiều bình diện lịch sử, văn hoá, kiến trúc nghệ thuật, tôn giáo... nhưng

giá trị lịch sử của khu di tích này được đặt lên hàng đầu.

Trước hết, vùng đất Hoa Lư trước hết gắn với sự kiện lịch sử nổi tiếng của dân

tộc - Đinh Bộ Lĩnh “dẹp loạn 12 sứ quân”, thống nhất đất nước, lập nên nhà nước

Đại Cồ Việt – nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền đầu tiên của

dân tộc. Đến thăm Cố đô Hoa Lư ngày nay du khách sẽ thấy ở chính giữa đền Vua

Đinh có bức đại tự ghi ba chữ sơn son thiếp vàng lộng lẫy: “Chính thống thủy”

(Mở nền chính thống). Dưới góc nhìn của những nhà nghiên cứu lịch sử, Đinh Bộ

Lĩnh được coi là người mở đường của Nhà nước phong kiến Trung ương tập quyền

của Việt Nam.

Cố đô Hoa Lư còn lưu giữ lại những dấu ấn lịch sử của nhà Tiền Lê với công

cuộc “đánh Tống – dẹp Chiêm” dưới sự lãnh đạo của Lê Hoàn - ông vua sáng lập

triều Tiền Lê. Sử cũ kể lại rằng năm 979, Đinh Tiên Hoàng và con trai cả bị Đỗ

Thích đầu độc chết, vua mới Đinh Toàn lên ngôi còn nhỏ tuổi trong khi đất nước

đứng trước họa ngoại xâm Trung Quốc từ cả phía bắc và Chiêm Thành từ phía nam.

Trong lúc triều đình Hoa Lư rối loạn, Lê Hoàn đã được chọn làm vua và chỉ huy

cuộc kháng chiến bảo vệ đất nước. Địa thế phòng ngự của Hoa Lư được Lê Hoàn

tận dụng triệt để trong công cuộc bảo vệ chính quyền trung ương, đánh giặc Tống ở

mặt bắc và dẹp loạn Chiêm ở phía nam.

Trong điều kiện lịch sử của thế kỷ X, đất nước mới giành được độc lập tự chủ

sau đêm dài một ngàn năm Bắc thuộc, lại vừa trải qua mấy chục năm cát cứ liên

miên, nước nhà vừa được thống nhất, chính quyền phong kiến Trung ương tập

quyền còn non trẻ, nạn ngoại xâm vẫn luôn là hiểm họa thường trực của đất nước.

33

Vì vậy, Vua Đinh Tiên Hoàng và Vua Lê Đại Hành đã chọn vùng đất Hoa Lư hiểm

trở để định đô, cũng là để xây dựng một quân thành vô cùng kiên cố, bất khả xâm

phạm đối phó với thù trong giặc ngoài.

Năm 1010, để đặt nền tảng vững chắc và toàn diện cho sự hưng thịnh của quốc

gia phong kiến độc lập, Vua Lý Thái Tổ đã dời đô ra thành Đại La, sau đổi là Thăng

Long (thủ đô Hà Nội ngày nay). Tương truyền, sau khi Vua Lý Thái Tổ dời đô, để

tưởng nhớ công lao của các bậc Tiên đế đã có công dựng nước, giữ nước, triều Lý

đã cho xây dựng một ngôi đền quay hướng Bắc. Trải qua thăng trầm của lịch sử,

ngôi đền triều Lý xây dựng không còn nữa. Văn bia hiện lưu giữ tại di tích cho biết,

Hoằng Định năm thứ 9 (1606) ghi lại: “Đô nguyên soái tổng quốc chính Thượng

phụ Bình An Vương (tức chúa Trịnh Tùng) đã có công tu bổ, quan Đô đốc Bùi Thời

Trung cùng với dân bản địa đã tu sửa đền và quay về hướng Đông”. Bia Minh

Mệnh năm thứ 18 (1837) ghi lại: “Quan tỉnh là Trần Văn Trung phụng mệnh triều

đình trùng tu đền” [59; tr. 5]. Như vậy, đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng và đền thờ

Vua Lê Đại Hành là công trình kiến trúc được xây dựng và trùng tu kế tiếp nhau

qua nhiều thời đại, nhưng hiện nay hai ngôi đền này vẫn mang phong cách kiến trúc

thời Hậu Lê ở thế kỷ XVII.

Sau khi nhà Lý dời đô, Hoa Lư bên cạnh vai trò là cố đô còn tiếp tục giữ vai

trò là một căn cứ quân sự và trung tâm văn hoá của các triều đại nhà Trần, Hậu Lê,

nhà Mạc, Tây Sơn, góp phần to lớn vào các chiến thắng lớn của dân tộc trong thời

kì phong kiến. Tiêu biểu là thành Nam Tràng An của Cố đô được nhà Trần sử dụng

để làm cứ địa kháng chiến chống quân Mông Nguyên; đất Hoa Lư trở thành cứ địa

phòng ngự để đại phá quân Thanh ở triều đại Tây Sơn với các địa danh như phòng

tuyến Tam Điệp, đồn Gián Khẩu và chùa Bái Đính. Bên cạnh đó, khu vực Cố đô

Hoa Lư còn là nơi xây dựng các hành cung hay các điền trang, thái ấp của vua chúa

và quý tộc thời Trần ... Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân

tộc thời cận đại và hiện đại, vùng đất Cố đô Hoa Lư còn tiếp tục là nơi cất giấu vũ

khí, lương thực, in và phát truyền đơn cách mạng của nhân dân Ninh Bình trong

cuộc chiến tranh chống giặc. Trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của

đế quốc Mỹ, dãy núi Trường Yên, núi Địa là cơ sở của tỉnh uỷ Ninh Bình cũ, hang

34

Muối trở thành cơ sở của uỷ ban hành chính tỉnh...

Như vậy, với giá trị lịch sử to lớn, không thể thay thế, quần thể di tích Cố đô

Hoa Lư đã nhận được sự quan tâm của lãnh đạo Nhà nước và địa phương trong

công tác tu bổ, bảo tồn, xây dựng lại các di tích trong quần thể di tích này. Ngày

29/4/2003, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ra Quyết định 82/ 2003/ QĐ - TTg về

việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị lịch sử của khu di tích Cố đô Hoa Lư.

1.1.4.2. Giá trị văn hóa

Kinh đô Hoa Lư tồn tại trong khoảng thời gian không dài từ 968 – 1010, tuy

nhiên với ba triều đại phong kiến tập quyền kế tiếp nhau, Kinh đô Hoa Lư đã để lại

những DSVH vô cùng độc đáo. Đó là những bộ sưu tập những hiện vật, vật liệu

tham gia xây dựng các cung điện, trang trí tại các kiến trúc tôn giáo mang đậm nét

phong cách thời Đinh – Tiền Lê. Tất cả những hiện vật này là vật liệu tham gia xây

dựng kiến trúc, từ chất liệu, độ nung, trang trí mỹ thuật đã cho thấy trình độ văn

hóa, mỹ thuật thời Đinh – Tiền Lê đạt đến mức độ khá tinh xảo. Bên cạnh đó với

những văn tự Hán tạo trên mặt chính viên gạch minh chứng cho tinh thần thượng

võ, ý chí độc lập tự cường của dân tộc ta trong thế kỷ X. Đồng thời những giá trị về

lịch sử - văn hóa còn lại đến ngày nay cũng là minh chứng cho quy mô bề thế hoành

tráng và lộng lẫy của Kinh đô Hoa Lư xưa, là cơ sở để các nhà khoa học nghiên cứu

về tình tình kinh tế, văn hóa – xã hội của nước ta thời kỳ Đinh – Tiền Lê. Giá trị văn

hóa tiêu biểu nhất của khu di tích Cố đô Hoa Lư phải kể đến hai ngôi đền thờ vua

Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành với nghệ thuật độc đáo mang đậm dấu ấn của

kiến trúc nước ta từ thế kỉ XVII (Xem thêm Phụ lục 1.2).

Đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng và đền thờ Vua Lê Đại Hành tương đồng nhau

về kiến trúc nhưng kiến trúc đền thờ Vua Đinh được nâng cao lên thay thế bằng

ngưỡng cửa đá và các chân cột cổ bồng. Xuất phát từ quan niệm Vua Đinh là người

lập quốc mở nền chính sử hoàng đế đầu tiên, để tôn vinh ông thì ngôi đền thờ ông

được nâng cao, còn đền thờ Vua Lê phải thấp hơn vì ông là hậu thế. Chính vì vậy,

triều Nguyễn không phát động công đức xây dựng đền Vua Lê nên đền thờ Vua Lê

Đại Hành là ngôi đền có nhiều giá trị về kiến trúc nghệ thuật vì nó còn giữ nguyên,

bảo lưu nguyên trạng giá trị kiến trúc của thời hậu Lê.

Trải qua sự thăng trầm của lịch sử nhưng giá trị về kiến trúc nghệ thuật của hai

35

ngôi đền này vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay, tiêu biểu cho nghệ thuật điêu

khắc trên đá và gỗ ở thế kỉ XVII. Các lối đi, tường gạch đều in dấu vết của thời gian

với những lớp rêu phong cổ kính, trước cửa đền chính đặt long sàng bằng đá nguyên

khối với nhiều nét chạm khắc sinh động đạt đến mức tinh xảo. Trong khuôn viên

của khu di tích còn có nhà bia tưởng niệm Vua Lý Thái Tổ được xây dựng năm

2000 nhân dịp kỷ niệm 990 năm Hoa Lư - Thăng Long - Hà Nội tại bến thuyền rời

đô của Vua Lý Thái Tổ năm xưa.

Những giá trị lịch sử và văn hóa nói trên của DSVH Cố đô Hoa Lư có ý nghĩa

quan trọng giúp chúng tôi xác định chính xác, cụ thể những nội dung cần giảng dạy

khi sử dụng DSVH này vào dạy học LSĐP ở trường phổ thông.

1.1.5. Vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư trong dạy

học lịch sử địa phương

1.1.5.1. Vai trò

Di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư là một trong những khu du lịch trọng điểm của

tỉnh Ninh Bình, là địa chỉ đỏ trong chương trình giáo dục truyền thống đối với hệ

thống các cấp đào tạo trên địa bản tỉnh Ninh Bình. Việc sử dụng di sản vào dạy học

LSĐP có vai trò rất quan trọng:

Thứ nhất, cung cấp nguồn sử liệu vô cùng quan trọng được khai thác một cách

hệ thống, chuẩn xác về di sản Cố đô Hoa Lư. Nó giúp HS có được nguồn nhận thức

vô giá về di tích cũng như một nội dung học tập của LSĐP nói riêng, một giai đoạn

của lịch sử dân tộc ở thế kỉ X nói chung.

Thứ hai, việc sử dụng DSVH Cố đô Hoa Lư trong dạy học LSĐP là phương

tiện trực quan phong phú, đầy đủ về một di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu của tỉnh

Ninh Bình. Thông qua những hiện vật, di vật, công trình kiến trúc tiêu biểu đó giúp

HS có biểu tượng đúng, sinh động, đúng đắn, cụ thể về DSVH Cố đô Hoa Lư. Trên

cơ sở đó các em có thể hiểu đúng, nắm vững khái niệm lịch sử, hình thành quy luật

lịch sử, từ đó HS có thể nhớ lâu và hiểu sâu được các vấn đề lịch sử.

Thứ ba, sử dụng DSVH là một biện pháp thực hiện nguyên lý giáo dục của

Đảng ta “học đi đôi với hành”, lý thuyết gắn liền với thực tiễn. Mỗi HS phải hiểu

được lý thuyết, lý luận để ứng dụng kiến thức vào thực tiễn đời sống. Có như vậy

36

thì ngành giáo dục và đào tạo mới đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội

đất nước, đặc biệt là trước xu thế hội nhập quốc tế mạnh mẽ như hiện nay. Thông

qua các biện pháp tổ chức cho HS khai thác nguồn tư liệu sinh động tại di sản, học

tại môi trường thực địa khiến cho bài học lịch sử trở nên cuốn hút, HS hăng hái

tham gia hoạt động học và được phát triển các kĩ năng, năng lực bộ môn theo hướng

vận dụng kiến thức để giải quyết các vấn đề trong thực tiễn cuộc sống.

1.1.5.2. Ý nghĩa

Với vai trò quan trọng như vậy, sử dụng DSVH Cố đô Hoa Lư trong dạy học

LSĐP có ý nghĩa rất lớn về việc giáo dục toàn diện HS, phát triển nhận thức, bồi

dưỡng tình cảm, nâng cao năng lực và phẩm chất, đáp ứng yêu cầu phát huy bền

vững các giá trị của di tích góp phần xây dựng quê hương đất nước trong thời kì hội

nhập quốc tế hiện nay. Vì vậy, sử dụng DSVH Cố đô Hoa Lư trong dạy học ở

trường phổ thông có ý nghĩa đối với HS về nhiều mặt:

- Về kiến thức:

Góp phần đẩy mạnh, hướng dẫn, bồi dưỡng hoạt động nhận thức cho học sinh:

Các di sản văn hóa, dù là vật thật hay ảo (thể hiện qua tranh, ảnh, phim…) sử dụng

trong dạy học, giáo dục đều góp phần nâng cao tính trực quan giúp người học mở

rộng khả năng tiếp cận với đối tượng, hiện tượng liên quan đến bài học tồn tại trong

di sản.

Quá trình trực quan với di sản giúp có biểu tượng đúng, chân thực về kiến

thức lịch sử mà HS sẽ được học, từ đó các em hình thành được khái niệm, rút ra quy

luật lịch sử và hơn hết nữa là HS sẽ nhớ lâu, hiểu sâu kiến thức.

Ví dụ: Khi tiến hành bài học tại di sản Cố đô Hoa Lư, tiếp cận với di sản cụ

thể là Long sàng trước Bái đường vua Đinh, HS sử dụng các giác quan như mắt –

nhìn, tai – nghe để nghe được, thấy được, cảm nhận được và qua đó tiếp thu được

những kiến thức cần thiết từ di sản như kích thước, chất liệu, hình ảnh chạm khắc

trên bề mặt và xung quanh… Trên cơ sở đó, HS nhận thức được đây là một tác

phẩm mỹ thuật độc đáo với cách thức trang trí không giống bất cứ một long sàng

nào khác trong lịch sử kiến trúc nghệ thuật của nước ta. Với phương tiện trực quan

quý giá này, các em thấy được sự tài hoa và óc sáng tạo của những nghệ nhân điêu

khắc đá nước ta ở thế kỉ XVII đã tạo nên một bức tranh bằng đá với ý nghĩa sâu xa,

37

ẩn chứa nhiều thông điệp.

- Về kĩ năng:

+ Giúp HS phát triển kĩ năng học tập, tự chiếm lĩnh kiến thức: DSVH là

phương tiện quan trọng giúp HS rèn một số kĩ năng học tập như kĩ năng quan sát,

thu thập, xử lí thông tin, thảo luận nhóm, qua đó tự chiếm lĩnh kiến thức cần thiết

thu được trong quá trình tiếp cận với di sản; kĩ năng vận dụng kiến thức đã học để

giải thích những hiện tượng, sự vật có trong các DSVH.

+ HS được tiếp cận di sản đúng mục đích với sự hướng dẫn chi tiết mang tính

định hướng, kích thích tư duy của GV, sẽ phát triển khả năng quan sát, khả năng xử

lí thông tin, khả năng phân tích, tổng hợp và so sánh, qua đó phát triển trí tuệ của

các em.

+ Góp phần phát triển một số kĩ năng sống ở học sinh: Dạy học với di sản tạo

điều kiện phát triển một số kĩ năng sống như: Kĩ năng giao tiếp; Kĩ năng lắng nghe

tích cực; Kĩ năng trình bày suy nghĩ ý tưởng; Kĩ năng hợp tác; Kĩ năng đảm nhận

trách nhiệm; Kĩ năng đặt mục tiêu; Kĩ năng quản lí thời gian; Kĩ năng tìm kiếm và

xử lí thông tin.

Ví dụ, khi GV tổ chức hoạt động tham quan trải nghiệm tại di sản Cố đô Hoa

Lư, HS có cơ hội phỏng vấn, lắng nghe người phụ trách quản lí ở di tích hay hướng

dẫn viên di tích. Qua đó, các em có điều kiện phát triển kĩ năng giao tiếp và kĩ năng

lắng nghe tích cực.

- Về thái độ:

+ Kích thích hứng thú nhận thức của học sinh: Trong quá trình tiếp cận với

DSVH, các em được tìm hiểu, khám phá và trải nghiệm. Những điều tưởng như

quen thuộc sẽ trở nên hấp dẫn hơn, sống động hơn và HS sẽ có hứng thú với chúng,

từ đó các em sẽ có động cơ học tập đúng đắn, trở nên tích cực và phấn đấu tiếp nhận

kiến thức mới cũng như có thái độ và hành vi thân thiện, bảo vệ di sản tốt hơn.

+ Sử dụng DSVH có tác dụng bồi dưỡng thái độ học tập, giúp HS hăng hái,

tích cực, tự giác hơn trong học tập lịch sử.

- Về năng lực, phẩm chất:

+ Trên cơ sở đó từng bước phát triển các năng lực HS: Các năng lực chung

38

như năng lực giải quyết vấn đề, năng lực tự học, năng lực giao tiếp… và năng lực

chuyên môn như tìm hiểu lịch sử, nhận thức và tư duy lịch sử, vận dụng kiến thức,

kĩ năng đã học.

Ví dụ, khi tổ chức bài học tại di sản (địa điểm Nhà bia tưởng niệm vua Lý Thái

Tổ thuộc khu di tích Cố đô Hoa Lư), GV có thể cung cấp 3 nguồn tư liệu về: (1)

DSVH Cố đô Hoa Lư (lược đồ, tư liệu về vùng đất Hoa Lư), (2) Lược đồ, hình ảnh

về thành Thăng Long, (3) Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ. Sau đó, GV giao nhiệm

vụ cho HS hoạt động theo nhóm (hình thành 3 nhóm HS): Tìm hiểu các nguồn tư liệu

nói trên để: Giải thích lí do vì sao vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Đại La (Thăng

Long) và đánh giá vai trò của vua Lý Thái Tổ thông qua sự kiện này; Liên hệ với một

câu ca dao (DSVH phi vật thể) gắn với địa điểm vua Lý dời đô từ Hoa Lư; Liên hệ,

đánh giá vị trí của vùng đất Hoa Lư – Ninh Bình và mối quan hệ với Thăng Long –

Hà Nội trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hiện nay.

Để thực hiện được nhiệm vụ học tập này, HS phải nhận diện được các loại tư

liệu lịch sử, khai thác và sử dụng được tư liệu lịch sử trong quá trình hoạt động cá

nhân và nhóm để tái hiện và hiểu được nội dung sự kiện lịch sử vua Lý Thái Tổ dời

đô vào năm 1010. Qua đó, HS được phát huy năng lực tìm hiểu lịch sử và các năng

lực chung như năng lực tự học, giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác thông qua làm

việc nhóm.

Sau khi hết thời gian hoạt động nhóm, sản phẩm của HS chính là câu trả lời

nhiệm vụ học tập GV đã đưa ra. Khi HS giải thích và đánh giá được sự kiện vua Lý

Thái Tổ dời đô cũng chứng tỏ các em đã được bồi dưỡng năng lực nhận thức và tư

duy lịch sử. Để mở rộng kiến thức và phát triển thêm cho các em năng lực vận dụng

kiến thức, kĩ năng đã học vào những vấn đề thực tiễn cuộc sống, GV có thể đặt

thêm câu hỏi trong quá trình báo cáo, phản biện, bổ sung các sản phẩm hoạt động

nhóm, như: Liên hệ với một câu ca dao (DSVH phi vật thể) gắn với địa điểm vua

Lý dời đô từ Hoa Lư (chính là Nhà bia tưởng niệm vua Lý Thái Tổ - địa điểm nơi

HS đang học để giải thích được lịch sử xuất hiện của di tích này) và liên hệ, đánh

giá vị trí của vùng đất Hoa Lư – Ninh Bình và mối quan hệ với Thăng Long – Hà

Nội trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hiện nay.

+ Bồi dưỡng cho HS những tư tưởng, phẩm chất đạo đức đúng đắn như yêu

39

nước, chăm chỉ, có trách nhiệm.

Ẩn chứa trong DSVH là những giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học được lưu

truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác nên nó có khả năng tác động mạnh tới tình

cảm, đạo đức, tới việc hình thành nhân cách của HS. HS được hiểu biết về truyền

thống lịch sử của quê hương - nơi mình sinh ra và lớn lên, nơi mình đang sống có

những di tích lịch sử nào để tự hào và từ đó có trách nhiệm gìn giữ về truyền thống

của quê hương mình.

Di tích quốc gia đặc biệt Cố đô Hoa Lư là minh chứng sống cho thời kỳ lịch

sử của thế kỉ X, thông qua các hoạt động giáo dục truyền thống đã giáo dục các em

lòng biết ơn đối với các thế hệ cha ông đi trước, giúp các em HS hiểu hơn về những

giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong quá trình dựng nước và giữ nước, tạo

động lực để các em quyết tâm học tập, rèn luyện trở thành những công dân có ích

trong tương lai góp phần xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp hơn.

Như vậy, đối với ngành giáo dục của tỉnh Ninh Bình nói riêng và trong cả

nước nói chung di tích quốc gia đặc biệt Cố đô Hoa Lư có giá trị hết sức quan trọng

trong việc giáo dục truyền thống lịch sử của địa phương đối với thế hệ trẻ.

1.2. Cơ sở thực tiễn

1.2.1. Khái quát về thực trạng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư

1.2.1.1. Về lĩnh vực bảo tồn, trùng tu di tích

Công tác tu bổ, tôn tạo các di tích, đặc biệt trong thời gian gần đây, đã đạt

được những kết quả nhất định. Nguồn kinh phí do Chính phủ đầu tư chống xuống

cấp chủ yếu thông qua chương trình mục tiêu quốc gia, Bộ Văn hóa, thông tin và du

lịch hỗ trợ cùng nguồn vốn hàng năm của tỉnh Ninh Bình và nguồn vốn từ nhân dân

tham gia hoạt động xã hội hoá bảo vệ di tích ngày càng nhiều hơn. Hoạt động tu bổ

di tích tại Cố đô Hoa Lư đã từng bước đi vào nề nếp và tuân thủ chặt chẽ các quy

định của pháp luật, đạt tiêu chuẩn về kỹ, mỹ thuật. Kết quả thực hiện trong lĩnh vực

này đã góp phần vào việc ngăn chặn sự xuống cấp nghiêm trọng của một số công

trình trong khu di tích Cố đô Hoa Lư như Lăng mộ vua Đinh, Lăng mộ vua Lê.

Bên cạnh đó, việc bảo tồn di tích lịch sử - văn hóa này còn một số hạn chế như:

Hiện nay, chưa có chế độ bảo dưỡng thường xuyên cho di tích. Vì thế, những

hư hỏng nhỏ của di tích không được khắc phục ngay, mà phải chờ có dự án lớn.

40

Điều này vừa gây tốn kém cho ngân sách Nhà nước, vừa có hại cho di sản.

Còn thiếu sự hướng dẫn nghiệp vụ đối với việc bảo quản, tu bổ và phục hồi di

tích: Những nhà hảo tâm công đức cho việc tu sửa di tích trong thời gian qua là rất

đáng kể, tuy nhiên, do hạn chế về công tác tổ chức, cán bộ chuyên môn cộng với sự

tiếp nhận không có chọn lọc nên các cơ quan chuyên môn chưa kiểm soát được việc

tu bổ, tôn tạo di tích bằng các nguồn vốn ngoài ngân sách Nhà nước. Dẫn đến cá

biệt vẫn còn tình trạng tu bổ, tôn tạo một số hạng mục trong khu di tích một cách

tùy tiện, sử dụng những vật liệu không phù hợp trong quá trình tu bổ đã làm sai lệch

và giảm giá trị di tích.

Ngoài ra còn tồn tại tình trạng thiếu an ninh cho các hiện vật khảo cổ và di

tích lịch sử. Trong khu vực di tích Cố đô Hoa Lư có nhà trưng bày nhưng công tác

an ninh không đảm bảo, hệ thống bảo vệ hiện vật thiếu hiện đại còn ở mức đơn

giản. Hầu hết các hiện vật của Cố đô Hoa Lư được lưu giữ tại vị trí di tích gốc mà

không có biện pháp bảo vệ nghiêm ngặt.

1.2.1.2. Lĩnh vực phát huy giá trị di tích

Cho đến nay, tỉnh Ninh Bình đã tổ chức nhiều Hội thảo khoa học, xuất bản và

tái xuất bản nhiều cuốn sách có giá trị về Cố đô Hoa Lư, đây là những tài liệu quan

trọng khẳng định ý nghĩa và tầm vóc lịch sử của Kinh đô Hoa Lư trong sự nghiệp

đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Những nghiên cứu này có vai trò

rất lớn trong nghiên cứu khoa học và giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ hiện nay.

Bên cạnh đó, sự phát triển của du lịch tác động trực tiếp vào việc phục hồi và bảo

tồn các giá trị của di tích Cố đô Hoa Lư. Những năm gần đây, nhờ sự phát triển của

hoạt động du lịch, bạn bè trong nước và quốc tế biết đến Cố đô Hoa Lư nghìn năm tuổi.

Và cũng chính hoạt động này giúp bảo tồn, duy trì lâu bền những giá trị văn hóa có

nguy cơ bị phá hủy bởi thời gian hay sự lãng quên của người dân địa phương.

Tuy nhiên, lĩnh vực phát huy giá trị di tích còn gặp khó khăn ở một số vấn đề như:

Một là, công tác giáo dục lịch sử, truyền thống cách mạng thông qua di tích

còn nghèo về hình thức, chưa thực sự thu hút được sự yêu thích, tự nguyện tham gia

của thế hệ trẻ mà chủ yếu mới thực hiện chỉ vì trách nhiệm.

Hai là, hoạt động du lịch cũng có những ảnh hưởng không tích cực đối với

41

việc bảo vệ di sản. Có thể vô tình hay hữu ý chúng ta sẽ làm cho môi trường cảnh

quan của di tích bị vi phạm hoặc ảnh hưởng. Các hoạt động dịch vụ tại khu vực này

có thể vì mục đích kinh tế đơn thuần mà làm ảnh hưởng tới di sản, đặc biệt là với

các di tích gắn liền với yếu tố tâm linh. Khi những yếu tố thiêng, yếu tố tâm linh tại

di tích bị giảm sút thì sẽ ảnh hưởng không tốt đến việc phát huy hiệu quả của di tích.

Cho nên, do nhiều nguyên nhân mà DSVH Cố đô Hoa Lư mặc dù có tiềm

năng lớn nhưng vẫn phát triển chưa tương xứng. Từ đó đặt ra yêu cầu phải có

những phương hướng và giải pháp thúc đẩy Khu di tích phát triển mạnh mẽ, phù

hợp với yêu cầu chung về phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và cả nước.

Như vậy, việc sử dụng DSVH Cố đô Hoa Lư trong dạy học LSĐP là giải pháp

có ý nghĩa thiết thực trong việc cải thiện ý thức, trách nhiệm của một bộ phận không

nhỏ giới trẻ, giúp giáo dục truyền thống lịch sử của quê hương, đất nước cũng như

góp phần bảo tồn, phát huy giá trị của di tích.

1.2.2. Thực trạng việc sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư trong dạy học lịch

sử địa phương tại tỉnh Ninh Bình

1.2.2.1. Mục đích điều tra

Để tìm hiểu tình hình DHLS hiện nay và đặc biệt việc sử dụng DSVH Cố đô

Hoa Lư vào dạy học LSĐP ở trường THPT trong tỉnh Ninh Bình, chúng tôi đã tiến

hành điều tra khảo sát GV và HS tại một số trường THPT thuộc tỉnh Ninh Bình theo

vùng miền (thành phố - THPT Đinh Tiên Hoàng, nông thôn - THPT Gia Viễn B,

vùng sâu - GV ở trường THPT Nho Quan A, HS ở trường THPT Gia Viễn C).

1.2.2.2. Phương pháp điều tra

Thông qua các hình thức trao đổi, dự giờ của GV, tiếp xúc với HS, phát phiếu

điều tra theo mẫu đối với GV và HS (xem ở phần phụ lục), phân tích, nhận xét kết

quả đạt được.

1.2.2.3. Kết quả điều tra

Căn cứ vào kết quả điều tra 14 GV và 121 HS, chúng tôi có cơ sở để đánh

giá thực trạng của việc sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư trong dạy học lịch sử

địa phương tại tỉnh Ninh Bình, từ đó xác định nguyên nhân của những thực trạng

chưa tốt.

42

- Đối với giáo viên:

Thứ nhất, đánh giá của GV về mức độ hứng thú đối với môn Lịch sử nói

chung, LSĐP nói riêng của HS ở trường THPT. Thông qua câu hỏi: Theo thầy (cô),

HS có thích học tập Lịch sử không? Kết quả chúng tôi thu được như sau:

Bảng 1.2. Mức độ thích môn Lịch sử của học sinh

Rất thích Thích Không thích

14 GV 4 10 0

100% 28,6% 71,4% 0 %

Có thể thấy, qua đánh giá của GV thì hầu hết HS của các trường THPT đều có

hứng thú trong học tập môn Lịch sử. Đây là một tín hiệu đáng mừng trong bối cảnh

hiện nay và là động lực để GV tiến hành các biện pháp sư phạm nhằm nâng cao hơn

nữa chất lượng dạy học bộ môn.

Thứ hai, đánh giá của GV về tầm quan trọng của việc sử dụng DSVH Cố đô

Hoa Lư trong dạy học LSĐP ở tỉnh Ninh Bình. Với câu hỏi: Theo thầy (cô), việc sử

dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư trong dạy học lịch sử địa phương tỉnh Ninh Bình

cho học sinh:

Bảng 1.3. Mức độ quan trọng của việc sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư

trong dạy học lịch sử địa phương ở Ninh Bình

Rất cần thiết Cần thiết Không cần thiết

14 GV 11 3 0

100% 78,6% 21,4% 0 %

Tất cả 100% các thầy (cô) giáo tham gia khảo sát đều nhận thấy việc sử dụng

DSVH Cố đô Hoa Lư trong dạy học LSĐP ở Ninh Bình là yêu cầu cấp thiết, trong

đó có 78,6% thấy rất cần thiết và 21,4% thấy cần thiết. Có thể thấy, qua đánh giá

của GV thì hầu hết GV của các trường THPT ở Ninh Bình đều nhận thức được vị trí

của việc sử dụng DSVH Cố đô Hoa Lư trong dạy học LSĐP.

Thứ ba, về ý nghĩa của việc sử dụng DSVH trong dạy học LSĐP, với câu hỏi:

Theo thầy (cô), sử dụng di sản văn hóa trong dạy học lịch sử địa phương có tác

dụng gì?

Bảng 1.4. Ý nghĩa của việc sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư trong dạy học

43

lịch sử địa phương ở Ninh Bình

Tác dụng Kết quả Tỷ lệ

Góp phần bồi dưỡng nhận thức và trí tuệ cho HS 14 100%

Rèn luyện HS kĩ năng học tập, tự chiếm lĩnh kiến thức (kĩ năng 13 92,8%

quan sát, thu thập và xử lí thông tin, …)

Phát triển một số kĩ năng sống ở HS (kĩ năng giao tiếp, hợp tác, 13 92,8%

quản lí thời gian,…)

Kích thích hứng thú học tập cho HS 14 100%

Bồi dưỡng HS tình cảm, đạo đức, hình thành nhân cách HS 14 100%

Tạo điều kiện tổ chức quá trình hoạt động của GV và HS một 11 78,6 %

cách linh hoạt, hợp lí

Như vậy, đa số GV tham gia khảo sát đều khẳng định việc sử dụng DSVH

trong dạy học LSĐP có ý nghĩa rất lớn đối với việc hình thành kiến thức, phát triển

kĩ năng, bồi dưỡng thái độ của HS và có tác dụng định hướng cho việc tích cực hóa

các hoạt động dạy và học của GV và HS.

Thứ tư, về nguồn tài liệu DSVH, với câu hỏi: Thầy (cô) đã khai thác và sử

dụng nguồn tư liệu về di sản văn hóa địa phương nói chung, di sản Cố đô Hoa Lư

nói riêng từ những nguồn nào?

Bảng 1.5. Các nguồn tài liệu giáo viên khai thác trong dạy học lịch sử địa phương

Nguồn tư liệu Kết quả Tỷ lệ

Tài liệu giáo dục địa phương của Sở GD&ĐT 13 92,8%

Sách của các nhà nghiên cứu về LSĐP 6 42,8%

Nguồn tư liệu trên Internet 11 78,6 %

Kỷ yếu hội thảo khoa học 1 7,1%

Trung tâm bảo tồn di tích Cố đô Hoa Lư 5 35,7%

Kết quả là đa số GV sử dụng kênh thông tin chính là tài liệu giáo dục địa

phương của Sở GD&ĐT và tư liệu trên Internet. Điều này cho thấy nguồn tài liệu

GV khai thác trong giảng dạy chưa phong phú và mức độ chuyên sâu còn hạn chế.

Về việc khai thác các loại tư liệu DSVH Cố đô Hoa Lư, với câu hỏi: Thầy/ cô

đã sử dụng loại di sản Cố đô Hoa Lư nào dưới đây vào dạy học lịch sử địa

44

phương? Kết quả thu được là:

Bảng 1.6. Các loại di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư giáo viên cần khai thác trong dạy

học lịch sử địa phương

Kết quả Tỷ lệ

Tư liệu viết 64,3% 9

Hiện vật trực quan (di vật, cổ vật, công trình kiến 50% 7 trúc…)

Văn học dân gian (thơ ca, truyền miệng…) 14,3% 2

Tranh ảnh, video 85,7% 12

Như vậy, về các loại tư liệu DSVH, đa số các GV đều sử dụng nguồn tư liệu là

tranh ảnh, video và nguồn tư liệu viết. Còn lại các tư liệu khác như hiện vật trực

quan và tư liệu dân gian còn sử dụng hạn chế, đây là một trong những căn cứ để

đánh giá chất lượng dạy học LSĐP.

Thứ năm, về hình thức tổ chức dạy học LSĐP, với câu hỏi: Mức độ thầy (cô)

sử dụng các hình thức tổ chức dạy học lịch sử địa phương sau đây :

Bảng 1.7. Mức độ giáo viên tổ chức các hình thức dạy học lịch sử địa phương

Thường Thỉnh thoảng Hiếm khi Chưa bao

xuyên giờ

Nội khóa trên lớp 9 (64,3%) 5 (35,7%) 0 (0%) 0 (0%)

Tại di sản 0 (0%) 7 (50%) 5 (35,7%) 2 (14,3%)

Ngoại khóa 0 (0%) 9 (64,3%) 3 (21,4%) 2 (14,3%)

Dự án tham quan 1 (7,1% ) 11 (78,6 %) 2 (14,3%) 0 (0%)

học tập

Với hình thức dạy học LSĐP, có 64,3% GV thường xuyên sử dụng DSVH

trong dạy học ở trên lớp. Các hình thức còn lại ít được sử dụng với mức độ thỉnh

thoảng, hiếm khi, thậm chí có hình thức GV chưa bao giờ tổ chức giảng dạy tại di

sản và ngoại khóa (có 14,3% GV).

Thứ sáu, về biện pháp dạy học LSĐP, với bài học nội khóa, chúng tôi đưa ra

câu hỏi: Thầy (cô) đã sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư trong dạy học lịch sử

địa phương ở trên lớp thông qua các biện pháp:

Bảng 1.8. Các biện pháp sư phạm giáo viên sử dụng trong bài học nội khóa

45

Kết quả Tỷ lệ

10 71,4%

7 50%

1 7,1%

6 42,8%

Xác định kiến thức cơ bản và mục tiêu của bài học Vận dụng cấu trúc bài học mềm dẻo theo kiểu dạy học nêu vấn đề Sử dụng và kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học Tổ chức các hoạt động học tập và kết hợp nhuần nhuyễn, hợp lý chúng khi tiến hành bài học lịch sử Tổ chức hoạt động tự học của HS (ở trên lớp, ở nhà) 5 35,7%

Về hình thức bài học tại di sản, với câu hỏi: Thầy (cô) đã tổ chức dạy học bài

lịch sử địa phương tại di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư thông qua các biện pháp:

Bảng 1.9. Các biện pháp sư phạm giáo viên sử dụng trong bài học tại di sản

Kết quả Tỷ lệ

8 57,1%

6 42,8%

7 50%

4 28,6%

9 64,3% Tổng hợp và cung cấp nguồn tư liệu chính nhằm phục vụ cho bài học tại di sản Linh hoạt trong khâu khởi động quá trình nhận thức trong dạy học tại di sản Tổ chức HS đóng vai (hướng dẫn viên, khách du lịch...) Tổ chức hiệu quả hoạt động tự học tại di sản Hoạt động vận dụng gắn liền với ý thức bảo vệ và phát huy di sản

Trong hình thức hoạt động ngoại khóa, với câu hỏi: Thầy (cô) đã sử dụng di

sản văn hóa Cố đô Hoa Lư trong dạy học lịch sử địa phương thông qua tổ chức

những hoạt động ngoại khóa:

Bảng 1.10. Các biện pháp sư phạm giáo viên sử dụng trong hoạt động ngoại khóa

Kết quả 7 Tỷ lệ 50%

0 5 0% 35,7%

12 85,7%

9 64,3%

3 2 21,4% 14,3%

Tổ chức thi tìm hiểu kiến thức về di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư Tổ chức thi làm đồ dùng trực quan, mô hình lịch sử Tổ chức sân khấu hóa (đóng kịch, biểu diễn nghệ thuật có liên quan đến di sản) Hướng dẫn, tổ chức HS sưu tầm sách, tài liệu về lịch sử địa phương Hướng dẫn, tổ chức HS tham quan di tích lịch sử Cố đô Hoa Lư – Trải nghiệm di sản Tổ chức HS tham gia lễ hội Cố đô Hoa Lư Vận dụng tổng hợp các hình thức ngoại khóa để tổ chức dạ hội lịch sử Tăng cường hoạt động chăm sóc, bảo vệ di tích 4 28,6%

Kết quả khảo sát ở bảng 1.5, 1.6, 1.7 cho thấy những biện pháp sư phạm được

46

GV sử dụng trong các hình thức tổ chức dạy học LSĐP còn chưa đồng đều, mức độ

sử dụng các PPDH tích cực còn ít cho thấy quyết tâm đổi mới, làm phong phú các

hình thức dạy học LSĐP của GV còn hạn chế. Tuy vậy cũng đáng mừng khi hầu hết

các biện pháp sư phạm đều được GV đưa ra tổ chức dạy học.

Thứ bảy, về kiểm tra đánh giá, chúng tôi đưa ra câu hỏi: Thầy (cô) đã sử dụng

tài liệu di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư vào kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học

sinh thông qua:

Bảng 1.11. Việc sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư trong kiểm tra, đánh giá kết

quả học tập của học sinh

Kết quả 6 6 Tỷ lệ 42,8% 42,8%

9 8 4 64,3% 57,1% 28,6%

1 7,1% Kiểm tra miệng Sử dụng các câu hỏi trắc nghiệm khách quan, tự luận trong kiểm tra viết (15 phút, 1 tiết, học kì) Bài tập là sản phẩm học tập của học sinh (có tiêu chí đánh giá) Đánh giá qua hồ sơ học tập (vở ghi, sản phẩm học tập...) Đánh giá qua việc quan sát các hoạt động trên lớp (thái độ, hành vi, trả lời câu hỏi, hoạt động nhóm, mức độ hoàn thành việc được giao...) Sử dụng nhiều đối tượng tham gia đánh giá (Cá nhân – nhóm; Giáo viên – học sinh; Tự đánh giá của học sinh)

Kết quả trên cho thấy GV còn nặng về các hình thức kiểm tra đánh giá truyền

thống (kiểm tra định kì như kiểm tra miệng, kiểm tra viết…), còn hình thức đánh

giá khác ít được chú ý. Mặc dù vậy, điều đáng khích lệ là 64,3% GV đã tổ chức

đánh giá kết quả tự học của HS.

Thứ tám là, những thuận lợi của GV khi sử dụng DSVH trong dạy học LSĐP.

Chúng tôi đặt ra câu hỏi: Theo thầy (cô), việc sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư

47

trong dạy học lịch sử địa phương cho học sinh ở trường THPT có những thuận lợi:

Bảng 1.12. Thuận lợi của giáo viên trong việc sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa

Lư trong dạy học lịch sử địa phương cho học sinh ở trường trung học phổ thông

Kết quả Tỷ lệ

9 64,3%

3 9 21,4% 64,3%

5 35,7%

Thuận lợi của GV Bộ GD và Sở GD quan tâm (tổ chức tập huấn năm 2011, chỉ đạo xây dựng và thực hiện chương trình…) Cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu Học sinh hứng thú, hưởng ứng Có thể huy động xã hội hóa cho HS tham quan, học tập tại di sản Giáo viên được đào tạo, có trình độ ứng dụng CNTT tốt Học sinh có thể khai thác, ứng dụng tốt CNTT Tài nguyên mạng phong phú 6 6 6 42,8% 42,8% 42,8%

Kết quả cho thấy những thuận lợi chủ yếu là thuộc về yếu tố chủ quan, nhân tố

con người như sự quan tâm của ngành giáo dục (64,3% GV), HS hứng thú tham gia

(64,3%), năng lực GV và HS tương đối thuận lợi (chiếm 42,8% ý kiến). Còn lại yếu

tố cơ sở vật chất được đánh giá thấp nhất trong các thuận lợi (chỉ có 21,4% GV).

Thứ chín là đối với những khó khăn của GV, chúng tôi đặt ra câu hỏi: Theo

thầy (cô), những khó khăn khi sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư vào dạy học

lịch sử địa phương là:

Bảng 1.13. Khó khăn của giáo viên trong việc sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa

Lư trong dạy học lịch sử địa phương cho học sinh ở trường trung học phổ thông

Khó khăn của GV

Kết quả 6 10 Tỷ lệ 42,8% 71,4%

12 85,7%

9 64,3%

5 2 35,7% 14,3%

3 21,4%

Nguồn sử liệu còn hạn chế Thời lượng chương trình còn ít Dạy học trải nghiệm, tham quan học tập tại di sản khó khăn do thiếu kinh phí Dạy học lịch sử địa phương chưa được quan tâm đúng mức do không thi môn lịch sử Phải đầu tư, mất nhiều thời gian Trình độ công nghệ thông tin của GV còn hạn chế Khả năng khai thác công nghệ thông tin của học sinh còn hạn chế Cơ sở vật chất kĩ thuật chưa đáp ứng yêu cầu 6 42,8%

Điều đáng mừng là đa số các GV được hỏi đều không gặp khó khăn gì chủ

quan mà đều là những trở ngại mang tính khách quan như 71,4% GV cho rằng thời

lượng chương trình LSĐP còn quá ít, 85,7% GV có ý kiến việc dạy học trải

48

nghiệm, tham quan học tập tại di sản khó khăn do thiếu kinh phí và 64,3% GV

nhận thấy dạy học LSĐP hiện tại chưa được quan tâm đúng mức. Đó cũng là những

nguyên nhân dù khách quan nhưng rất lớn dẫn đến hạn chế hiệu quả của việc giảng

dạy LSĐP ở các trường THPT hiện nay.

- Về kết quả khảo sát học sinh:

Để tìm hiểu hứng thú, phương pháp học tập của HS đối với bộ môn và sự hiểu

biết về DSVH địa phương, chúng tôi đã tiến hành khảo sát 121 HS tại một số

trường THPT thuộc tỉnh Ninh Bình theo vùng miền: thành phố (THPT Đinh Tiên

Hoàng), nông thôn (THPT Gia Viễn B), vùng sâu (THPT Gia Viễn C), qua một số

câu hỏi:

Thứ nhất, Về mức độ yêu thích bộ môn Lịch sử của HS. Chúng tôi đã hỏi: “Em

có thích Lịch sử không?”. Kết quả là:

Bảng 1.14. Các mức độ thích môn Lịch sử của học sinh

Không thích 9 7,4% Rất thích 23 19% Thích 89 73,6%

121 HS 100% Kết quả điều tra cho thấy 92,6% số HS được hỏi yêu thích bộ môn Lịch sử,

trong đó có 19% rất thích, và 73,6% thích bộ môn Lịch sử. Như vậy đa số các em đã

nhận thức được đúng đắn vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của bộ môn lịch sử.

Chúng tôi đã tiến hành trao đổi với một số HS về vấn đề này và được biết: Những

em trả lời thích học môn Lịch sử bởi môn học này giúp em có được kiến thức bổ ích

về lịch sử dân tộc và thế giới, về truyền thống đấu tranh vẻ vang bất khuất của thế

hệ đi trước,… Thêm vào đó là các em thích những câu chuyện lịch sử qua lời kể của

giáo viên và qua những hoạt động học tập được tổ chức linh hoạt ở trường, lớp và

địa điểm lịch sử, giúp các em có cái nhìn sinh động, chân thực, kích thích sự tò mò

và tái hiện phần nào đó những gì cha ông ta ngày trước đã trải qua.

Trong số các em được điều tra có 7,4% HS không thích bộ môn Lịch sử vì

kiến thức môn Lịch sử nhiều sự kiện, khó nhớ; hình thức học tập chủ yếu là hoạt

động học tập nhàm chán, tẻ nhạt ở trên lớp. Vì vậy, theo chúng tôi khâu đột phá

mang tính chất nền tảng nhất thuộc về việc tổ chức các hình thức và biện pháp

giảng dạy của đội ngũ GV.

Thứ hai, về nhận thức của HS đối với DSVH địa phương: Với câu hỏi: Hãy kể

49

tên từ 3 đến 5 di tích lịch sử - văn hóa của tỉnh Ninh Bình mà em biết?

Kết quả như sau: có 119/121 HS trả lời, trong đó:

119 HS (98,3%) đều kể tên được từ 3 đến 5 di tích lịch sử - văn hóa của tỉnh

Ninh Bình.

Cá biệt có 17 HS (14,3%) cho rằng Cố đô Hoa Lư và Đền thờ vua Đinh - vua

Lê là hai di tích khác nhau.

Để tìm hiểu đánh giá của HS về vị trí của DSVH Cố đô Hoa Lư, chúng tôi có

câu hỏi: Theo em, di tích nào là đặc trưng nhất của tỉnh Ninh Bình?

Bảng 1.15. Quan niệm của học sinh về di tích đặc trưng nhất của tỉnh Ninh Bình

Cố đô Hoa Lư Chùa Bái Đính Khu du lịch sinh thái Tràng An Di tích khác Kết quả 90 19 10 0 Tỷ lệ 75,6% 16% 8,4% 0%

Như vậy có đến 75,64% HS đánh giá được vị trí, tính đặc trưng của DSVH Cố

đô Hoa Lư trong hệ thống DSVH địa phương của tỉnh Ninh Bình, đây là điều kiện

thuận lợi để tổ chức sử dụng DSVH này vào dạy học LSĐP ở tỉnh Ninh Bình.

Để đánh giá mức độ hiểu biết của các em về LSĐP, với 5 câu hỏi TNKQ về

kiến thức LSĐP, kết quả thu được là:

Bảng 1.16. Hiểu biết của học sinh về kiến thức lịch sử địa phương

Kết quả Yêu cầu nhận thức của HS về LSĐP Số lượng HS trả lời Đúng Sai

121 15 (12,4%) 106 (87,6%)

121 91 (75,2%) 30 (24,8%)

115 44 (38,3%) 71 (61,7%)

121 72 (59,5%) 51 (42,1%)

117 59 (50,4%) 58 (49,6%) Câu 1. Chỉ rõ được công lao lớn nhất của Đinh Bộ Lĩnh Câu 2. Nêu tên của kinh đô nhà nước quân chủ chuyên chế độc lập đầu tiên Câu 3. Chỉ ra tên của di tích chứng tỏ sự quan tâm đến luật pháp của nhà Đinh Câu 4. Nêu được tên danh nhân có công “Phá Tống, bình Chiêm” ở thế kỉ X Câu 5. Trình bày được tổ chức nhà nước quân chủ sơ khai thời Đinh - Tiền Lê

Trong 5 câu hỏi thì HS trả lời sai nhiều nhất ở các câu 1; 3 và 5, đó là việc

đánh giá sai công lao lớn nhất của anh hùng dân tộc Đinh Bộ Lĩnh (87,6% HS); có

50

61,7% HS chưa xác định được di tích có liên quan đến chính sách luật pháp của nhà

Đinh và có 49,6% HS trả lời sai về cơ cấu tổ chức nhà nước quân chủ sơ khai thời

Đinh - Tiền Lê. Điều đáng lo ngại là đây không chỉ là những kiến thức của LSĐP

mà còn là kiến thức lịch sử Việt Nam đã được học (Bài 17 – Lịch sử lớp 10).

Thứ ba là, đánh giá nhận thức của HS về tầm quan trọng của việc sử dụng

DSVH trong dạy học LSĐP, chúng tôi đã đưa ra câu hỏi: Mức độ cần thiết của việc

sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư trong dạy học lịch sử địa phương tỉnh Ninh

Bình cho học sinh:

Bảng 1.17. Mức độ quan tâm của học sinh đến di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư trong

học tập lịch sử địa phương

Không cần thiết 2 1,7% Rất cần thiết 65 55,6% Cần thiết 50 42,7%

Số HS trả lời 117 HS 96,7% Kết quả điều tra cho thấy 95% số HS được hỏi nhận thức được tầm quan trọng

của việc sử dụng DSVH Cố đô Hoa Lư trong dạy học LSĐP, trong đó có 55,6%

thấy rất cần thiết, và 42,7% thấy cần thiết. Như vậy đa số các em đã nhận thức được

đúng đắn vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của LSĐP.

Thứ tư, về nguồn tài liệu học tập. Với câu hỏi: Em đã được học tập về di sản

văn hóa Cố đô Hoa Lư thông qua nguồn tư liệu:

Bảng 1.18. Nguồn tài liệu học sinh sử dụng trong việc học tập lịch sử địa phương

Kết quả Tỷ lệ

94 77,7%

Tài liệu học lịch sử địa phương của Sở GD&ĐT Ninh Bình Sách của các nhà nghiên cứu về lịch sử địa phương Nguồn tư liệu trên Internet Nguồn tư liệu khác 40 84 9 33% 69,4% 7,4%

Như vậy, kết quả này cho thấy HS chủ yếu dựa vào 2 nguồn tài liệu chính là

Tài liệu học lịch sử địa phương của Sở GD&ĐT Ninh Bình (chiếm 77,7%) và

Nguồn tư liệu trên Internet (trong đó có nhiều nguồn tư liệu chưa chính thống và

chưa được kiểm định) (chiếm 69,4%). Số HS được tiếp cận với sách nghiên cứu, tư

liệu chính thống về LSĐP còn ít (chiếm 33%). Điều này ảnh hưởng không ít đến

khả năng tiếp cận kiến thức chân thực, chuẩn xác về DSVH và kết quả học tập

LSĐP của HS.

Thứ năm, về mức độ tham gia các hình thức dạy học LSĐP, với câu hỏi: Mức

51

độ em đã được học tập LSĐP thông qua các hình thức tổ chức dạy học:

Bảng 1.19. Mức độ học sinh tham gia các hình thức dạy học lịch sử địa phương

Thỉnh thoảng Hiếm khi

Thường xuyên 18 14,9%) 2 (1,6%) 65 (53,7%) 43 (35,6%) 33 (27,3%) 37 (30,6%) Chưa bao giờ 5 (4,1%) 39 (32,2%)

7 (5,8%) 47 (38,8%) 52 (43%) 15 (12,4%)

19 (15,7%) 46 (38%) 40 (33,1%) 16 (13,2%)

10 (8,3%) 15 (12,4%) 50 (41,3%) 46 (38%)

34 (28,1%) 3 (2,5%) 65 (53,7%) 46 (38%) 17 (14%) 42 (34,7%) 5 (4,1%) 30 (24,8%)

44 (36,4%) 46 (38%) 30 (24,8%) 1 (0,8%)

Nội khóa trên lớp Học tập tại di sản Ngoại khóa: - Tham gia cuộc thi, trò chơi lịch sử - Tham gia lễ hội/ tham quan di tích - Biểu diễn nghệ thuật (đóng kịch...) - Đọc sách - Chăm sóc di tích Tham quan học tập tại di sản (thực hiện nhiệm vụ học tập, về lớp báo cáo)

Kết quả cho thấy, HS thường xuyên được học tập thông qua hình thức đọc sách

(28,1%), nội khóa trên lớp (14,9%) và tham quan di tích (15,7%) nhiều hơn. Tuy nhiên,

tỉ lệ ở mức độ này còn thấp, mà chủ yếu là ở mức độ thỉnh thoảng hoặc hiếm khi, thậm

chí tỉ lệ HS chưa bao giờ được tham gia học tập một số hình thức dạy học khá cao như:

32,2% tại di sản; 38% hoạt động sân khấu hóa, biểu diễn nghệ thuật...

Thứ sáu, về các hình thức HS được tham gia kiểm tra đánh giá kết quả học tập

LSĐP, chúng tôi đưa ra câu hỏi: Kiến thức mà em đã học về lịch sử địa phương nói

chung (trong đó có di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư) được kiểm tra, đánh giá thông

qua các hình thức nào dưới đây? Kết quả thu được sau đó:

Bảng 1.20. Các hình thức học sinh được tham gia kiểm tra, đánh giá kết quả học

tập lịch sử địa phương

Kết quả 44 53 Tỷ lệ 36,4% 43,8%

52

Kiểm tra miệng Bài kiểm tra viết (15 phút, 1 tiết, học kì) bao gồm các câu hỏi trắc nghiệm (khách quan, tự luận) Bài tập là sản phẩm học tập (có tiêu chí đánh giá): + Bài báo cáo thuyết trình + Video tự làm + Bài tập sưu tập về sử liệu địa phương… Đánh giá/ chấm điểm qua hồ sơ học tập (vở ghi, 56 21 46 32 46,3% 17,3% 38% 26,4%

43 35,5%

14 11,6% sản phẩm học tập...) Được đánh giá/ chấm điểm qua việc giáo viên quan sát các hoạt động trên lớp (thái độ, hành vi, trả lời câu hỏi, hoạt động nhóm, mức độ hoàn thành việc được giao...) Được tham gia vào việc đánh giá, chấm điểm (Phiếu đánh giá có tiêu chí chấm cụ thể)

Như vậy, có gần 50% HS được hỏi đã được tham gia vào các hình thức đánh

giá khác nhau, trong đó nhiều nhất là hình thức HS làm bài báo cáo thuyết trình

(46,3%) và hình thức kiểm tra viết (43,8%). Việc HS được tham gia tự đánh giá,

đánh giá đồng đẳng còn ít (11,6% HS).

Thứ bảy là những thuận lợi của HS, chúng tôi đặt ra câu hỏi và thu được kết

quả: Theo em, việc sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư trong học tập lịch sử địa

phương có những thuận lợi:

Bảng 1.21. Thuận lợi của học sinh khi giáo viên sử dụng di sản văn hóa trong dạy

học lịch sử địa phương

Thuận lợi của HS Kết quả Tỷ lệ

67 55,4%

55 45,4%

94 77,7%

71 58,7%

65 53,7%

80 57 66,1% 47,1% Bộ GD và Sở GD quan tâm, nhà trường chú trọng Cơ sở vật chất (máy tính, máy chiếu, mạng Internet) đáp ứng yêu cầu Học sinh hứng thú, hưởng ứng tham gia Có thể huy động xã hội hóa (đóng góp của gia đình, xã hội) cho HS tham quan, học tập tại di sản Giáo viên được đào tạo, có trình độ ứng dụng CNTT tốt Học sinh có thể khai thác, ứng dụng tốt CNTT Tài nguyên mạng phong phú

Như vậy, có khoảng 50% HS được hỏi đều có chung ý kiến là có rất nhiều

thuận lợi để sử dụng DSVH Cố đô Hoa Lư trong học tập LSĐP. Trong đó, điều

đáng mừng là ở tỉ lệ cao nhất có tới 77,7% các em cho rằng thuận lợi ở HS hứng

thú, hưởng ứng tham gia.

Thứ tám là, những khó khăn của HS khi sử dụng DSVH trong học tập LSĐP.

Chúng tôi đặt ra câu hỏi: Theo em, việc sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư vào

53

việc học lịch sử địa phương có khó khăn gì? Kết quả thu được là:

Bảng 1.22. Khó khăn của học sinh khi khi giáo viên sử dụng di sản văn hóa trong

dạy học lịch sử địa phương

Khó khăn của HS Kết quả Tỷ lệ

34 80 28,1% 66,1%

85 70,2%

57 47,1%

46 14 38% 11,6%

40 33%

Nguồn sử liệu về di sản còn hạn chế Thời lượng chương trình quá ít Dạy học trải nghiệm, tham quan học tập tại di sản khó khăn do thiếu kinh phí Dạy học lịch sử địa phương chưa được quan tâm đúng mức do không thi THPTQG Phải đầu tư, mất nhiều thời gian Trình độ công nghệ thông tin của GV còn hạn chế Khả năng khai thác công nghệ thông tin của HS còn hạn chế Cơ sở vật chất kĩ thuật chưa đáp ứng yêu cầu học tập 49 40,5%

Lý do xuất phát từ thiếu kinh phí khi học trải nghiệm (70,2%), Thời lượng

chương trình quá ít (66,1%), LSĐP chưa được quan tâm đúng mức (47,1%) và

điều kiện cơ sở vật chất chưa đáp ứng (40,5%). Đây đều là những khó khăn

không thể phủ nhận được cả về phía GV và HS.

1.2.3. Nhận xét chung

Như vậy, qua thực hiện điều tra khảo sát 4 GV và 121 HS, chúng tôi rút ra

được những đánh giá chung như sau:

Thực tiễn dạy học LSĐP ở các trường THPT cho thấy đa số GV và HS có hiểu

biết tương đối về tầm quan trọng của việc sử dụng DSVH Cố đô Hoa Lư trong dạy

học LSĐP, song chưa khai thác và sử dụng được hết nguồn tư liệu phong phú về

DSVH, chưa đa dạng hóa các hình thức và phương pháp dạy học cũng như kiểm tra,

đánh giá khi sử dụng DSVH Cố đô Hoa Lư. Kết quả là sự hứng thú và kết quả nhận

thức về lịch sử của HS vẫn còn ở mức độ thấp. Điều này chứng tỏ việc sử dụng

DSVH Cố đô Hoa Lư trong dạy học LSĐP còn chưa thực sự được quan tâm, thực

hiện chưa mang lại nhiều hiệu quả.

Thực trạng trên bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân quan

trọng phải kể đến là lỗi của GV chưa toàn tâm toàn lực trong công việc của mình,

chưa thường xuyên khai thác, sử dụng DSVH trong dạy học LSĐP cũng như chưa

54

sử dụng đa dạng các hình thức tổ chức, phương pháp dạy học LSĐP.

Trước thực trạng đó, việc vận dụng các biện pháp sư phạm sử dụng DSVH Cố

đô Hoa Lư trong dạy học LSĐP ở lớp 10 THPT tỉnh Ninh Bình là điều rất cần thiết,

góp phần nâng cao chất lượng dạy học LSĐP nói riêng, chất lượng bộ môn nói

chung của các trường THPT tỉnh Ninh Bình.

Tiểu kết chƣơng 1

Thông qua nghiên cứu cơ sở lý luận, đề tài đã góp phần khẳng định vai trò, ý

nghĩa của việc sử dụng DSVH Cố đô Hoa Lư trong dạy học lịch sử Việt Nam nói

chung, LSĐP nói riêng. Đây là nền tảng lý thuyết quan trọng để tạo cơ sở cho việc

định hướng, xây dựng các hình thức, biện pháp sử dụng DSVH Cố đô Hoa Lư trong

dạy học LSĐP ở lớp 10 tỉnh Ninh Bình.

Qua nghiên cứu thực tiễn ở một số trường THPT ở tỉnh Ninh Bình, cho thấy

cả GV và HS đều nhận thức được ý nghĩa cũng như tầm quan trọng của việc sử

dụng DSVH Cố đô Hoa Lư trong dạy học LSĐP. Về phía GV, tuy có áp dụng

nhưng vẫn còn ít GV chú trọng vận dụng hình thức và biện pháp dạy học để phát

huy tính tích cực, chủ động của HS, chưa đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy

học LSĐP. Về phía HS, mặc dù được học tập LSĐP thông qua một số hình thức sử

dụng DSVH nhưng ở mức độ không thường xuyên. Do vậy, chất lượng dạy học

LSĐP chưa cao.

Thực tế này chính là cơ sở quan trọng để chúng tôi khẳng định rằng sử

dụng DSVH Cố đô Hoa Lư trong dạy học LSĐP ở lớp 10 THPT tỉnh Ninh Bình

là quan trọng và rất cần thiết, do vậy người GV phải luôn tìm tòi, nghiên cứu thêm

các tài liệu mới về các hình thức và biện pháp sử dụng DSVH nhằm nâng cao hiệu

quả dạy học LSĐP nói riêng, môn Lịch sử nói chung. Ở chương 2, chúng tôi sẽ đi

sâu vào hình thức, biện pháp sử dụng DSVH Cố đô trong dạy học LSĐP ở lớp 10

55

THPT tỉnh Ninh Bình.

CHƢƠNG 2

HÌNH THỨC, BIỆN PHÁP SỬ DỤNG DI SẢN VĂN HÓA CỐ ĐÔ HOA LƢ

TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ ĐỊA PHƢƠNG Ở LỚP 10 TRUNG HỌC

PHỔ THÔNG TỈNH NINH BÌNH

2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung cơ bản của lịch sử địa phƣơng trong chƣơng

trình lịch sử lớp 10 trung học phổ thông tỉnh Ninh Bình

2.1.1. Vị trí

Chương trình LSĐP cấp THPT được thực hiện theo Chương trình giáo dục

môn Lịch sử cấp THPT do Bộ Giáo dục và đào tạo quy định. Thông thường, phần

LSĐP được giảng dạy sau phần lịch sử dân tộc. Theo Phân phối chương trình môn

Lịch sử cấp THPT từ năm học 2010 - 2011, phần LSĐP được quy định 4 tiết học và

được phân bố như nhau : 1 tiết (ở lớp 10), 1 tiết (ở lớp 11), 2 tiết (ở lớp 12).

Tuy nhiên, theo công văn của Bộ Giáo dục và Đào tạo số: 4612/BGDĐT-

GDTrH về hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục phổ thông hiện hành theo

định hướng phát triển năng lực và phẩm chất học sinh từ năm học 2017 - 2018 trong

đó có nội dung “Căn cứ chương trình GDPT hiện hành, lựa chọn các chủ đề, rà

soát nội dung các bài học trong SGK hiện hành tương ứng với chủ đề đó để sắp xếp

lại thành một số bài học tích hợp của từng môn học hoặc liên môn; từ đó, xây dựng

kế hoạch giáo dục cho từng môn học, hoạt động giáo dục theo định hướng phát

triển năng lực, phẩm chất học sinh phù hợp với điều kiện thực tế của nhà trường”,

trên cơ sở xây dựng lại kế hoạch giáo dục phù hợp với điều kiện thực tế địa phương,

các trường THPT ở tỉnh Ninh Bình có thể điều chỉnh thời lượng dành cho LSĐP lớp

10 tăng lên thành 2 tiết hoặc có thể tích hợp nội dung sử dụng DSVH Cố đô Hoa Lư

ở LSĐP vào phần lịch sử Việt Nam – bài 17. Quá trình hình thành và phát triển của

nhà nước phong kiến (Từ thế kỉ X đến thế kỉ XV) (tổng số tiết cả năm học không

thay đổi).

2.1.2. Mục tiêu

2.1.2.1. Mục tiêu chương trình lịch sử địa phương ở trường trung học phổ thông

56

tỉnh Ninh Bình

Nội dung của Chương trình LSĐP ở trường THPT tỉnh Ninh Bình bao gồm 4

chuyên đề chính : Ninh Bình - thiên nhiên và con người ; Di tích lịch sử - văn hóa ở

Ninh Bình ; Vài nét về đời sống văn hóa vật chất và tinh thần ở Ninh Bình ; Ninh

Bình từ khi tái lập tỉnh (1992) đến nay. Học các chuyên đề LSĐP nói trên, HS đạt

được các mục tiêu như sau :

- Về kiến thức, bồi dưỡng cho HS những kiến thức chuyên sâu về các chuyên

đề lịch sử và văn hóa của tỉnh Ninh Bình. Cụ thể là :

+ Khái quát được các thời kì lịch sử phát triển của tỉnh Ninh Bình từ khi hình

thành đến nay trong tiến trình chung của lịch sử dân tộc, nhưng vẫn mang những nét

đặc trưng riêng.

+ Đánh giá được vị trí chiến lược của địa phương, nhận xét được đặc điểm con

người Ninh Bình và vai trò của họ đối với sự phát triển của quê hương.

+ Kể tên được các di tích lịch sử, văn hóa tiêu biểu trên địa bàn tỉnh Ninh

Bình. Trình bày được hiểu biết về di tích tiêu biểu nhất ở địa phương (thời gian hình

thành, địa điểm, loại hình di tích, giá trị lịch sử và văn hóa).

+ Trình bày được những đặc trưng tiêu biểu về đời sống văn hóa vật chất, tinh

thần của người Ninh Bình xưa và nay ; Đánh giá được những ảnh hưởng của truyền

thống và bản sắc văn hóa tới sự phát triển của Ninh Bình hiện nay.

+ Trình bày được những thành tựu nổi bật trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế,

văn hóa, xã hội của Ninh Bình từ sau khi tái lập tỉnh đến nay và đánh giá được ý nghĩa

của các thành tựu đó trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.

- Về kĩ năng, thông qua các giờ học LSĐP góp phần rèn luyện cho HS:

+ Rèn luyện các kĩ năng bộ môn; vận dụng kiến thức vào thực hành; biết liên

hệ kiến thức LSĐP trong quá khứ với cuộc sống hiện tại.

+ Hình thành kĩ năng sưu tầm tư liệu, biết tạo ra một số thiết bị cần thiết phục

vụ cho việc dạy học LSĐP như lược đồ, bản đồ lịch sử…

+ Tiếp tục rèn luyện các kĩ năng sử dụng phương pháp bộ môn : miêu tả,

tường thuật, tạo biểu tượng, hình thành khái niệm lịch sử, phân tích tổng hợp, đối

chiếu, so sánh, đánh giá các sự kiện, nhân vật lịch sử, rút ra kết luận, vận dụng bài

57

học lịch sử vào thực tế cuộc sống.

- Về thái độ : Phát huy tính tích cực, hứng thú, chủ động, sáng tạo trong học tập.

- Về năng lực, phẩm chất :

+ Phát triển các năng lực chung (tự học, giao tiếp và hợp tác, giải quyết vấn

đề) và năng lực chuyên môn (thực hành bộ môn lịch sử ; tái hiện sự kiện, nhân vật,

hiện tượng lịch sử ; vận dụng kiến thức đã học để liên hệ với thực tiễn…)

+ Hình thành cho HS những phẩm chất tốt đẹp của người công dân, có trách

nhiệm với quê hương, vì cộng đồng, yêu lao động, sống nhân ái, có niềm tin, ý thức

kỉ luật và tuân thủ pháp luật.

+ Bồi dưỡng cho HS lòng yêu quê hương, đất nước, yêu chủ nghĩa xã hội ; tự

hào và trân trọng đối với những di tích lịch sử của quê hương trong sự nghiệp xây

dựng đất nước và đấu tranh giải phóng dân tộc.

2.1.2.2. Mục tiêu dạy học lịch sử địa phương ở lớp 10 trung học phổ thông tỉnh

Ninh Bình

Căn cứ vào Tài liệu giáo dục địa phương Ninh Bình (dành cho GV) của Sở

Giáo dục và đào tạo Ninh Bình, căn cứ vào kiến thức tương đồng có thể tích hợp

với phần Lịch sử Việt Nam thế kỉ X ở Chương trình lịch sử lớp 10 THPT và điều

kiện giảng dạy ở các trường THPT, có thể xây dựng nội dung của LSĐP trong

chương trình lịch sử lớp 10 THPT tại tỉnh Ninh Bình (ngoài mục tiêu về kĩ năng,

thái độ, năng lực và phẩm chất chung như mục tiêu chương trình LSĐP nói trên)

với mục tiêu kiến thức cụ thể là:

- Giúp HS hiểu biết cơ bản về thiên nhiên và con người Ninh Bình:

+ Khái quát được điều kiện tự nhiên và nêu được vị trí chiến lược của địa

phương.

+ Trình bày được đặc điểm, truyền thống quý báu của con người Ninh Bình từ

trong lịch sử. Trong đó, nhấn mạnh những giá trị DSVH phi vật thể của quê hương

như nghệ thuật trình diễn dân gian (hát chèo ở thế kỉ X), nghề thủ công truyền thống

(nghề chạm khắc đá, nghề thêu ren)…

- Giúp HS đạt được hiểu biết về di tích lịch sử - văn hóa ở tỉnh Ninh Bình:

+ HS giải thích được các khái niệm có liên quan đến “di tích lịch sử - văn hóa”

58

và rút ra được giá trị của di tích lịch sử - văn hóa.

+ Trình bày hiểu biết về một số di tích tiêu biểu, gắn với một sự kiện lịch sử

của địa phương, trong đó tập trung vào di tích tiêu biểu nhất là Cố đô Hoa Lư.

2.1.3. Nội dung cơ bản

Từ khi hình thành đến nay, Ninh Bình đã trải qua nhiều thời kì với những biến

động của lịch sử trong tiến trình chung của lịch sử dân tộc, nhưng vẫn mang những

nét đặc trưng riêng. Thiên nhiên đem lại cho Ninh Bình một cảnh quan hoàn chỉnh,

có thể phát triển một nền kinh tế đa dạng đồng thời một thế hiểm yếu về quân sự.

Trải qua hàng ngàn năm lịch sử đã hun đúc cho người dân Ninh Bình những

truyền thống quý báu là: Truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm; Cần cù và sáng

tạo trong lao động sản xuất; Mảnh đất Ninh Bình đã tạo nên những con người tuấn

kiệt. Tìm hiểu riêng về DSVH Cố đô Hoa Lư giúp người học khái quát được các

truyền thống quý báu của con người Ninh Bình. Đó là: kiên cường, bất khuất cùng

với chiến công thống nhất giang sơn của Đinh Bộ Lĩnh, đánh Tống, bình Chiêm của

Lê Hoàn; Người Ninh Bình đã sáng tạo nên một hệ thống DSVH vật thể (các di

tích, hiện vật tại khu di tích Cố đô Hoa Lư) và phi vật thể (nghề chạm khắc đá, nghệ

thuật trình diễn dân gian như hát chèo) từ thời Đinh - Lê; Những nhân vật lịch sử

tiêu biểu là anh hùng, tuấn kiệt của đất Ninh Bình như Đinh Tiên Hoàng, Dương

Vân Nga, Nguyễn Minh Không.

Di tích lịch sử - văn hóa là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật,

bảo vật quốc gia thuộc công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa. Tỉnh Ninh

Bình có nhiều danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng, cấp quốc

gia, quốc tế. Các di tích được phân bố đều, rộng khắp các đơn vị hành chính trong

toàn tỉnh. Về nội dung, các di tích đều thể hiện bản sắc văn hóa của người Ninh

Bình, gắn với truyền thống, tư tưởng và niềm tự hào về đất nước, quê hương.

Các di tích tiêu biểu nhất của tỉnh Ninh Bình là Trung tâm cố đô Hoa Lư, Khu

du lịch sinh thái Tràng An, Tam Cốc, Bích Động, chùa Bái Đính … Trong đó, di

sản Cố đô Hoa Lư là một di tích quốc gia đặc biệt quan trọng của Ninh Bình. Khu

vực núi đá Trường Yên và đền vua Đinh, đền vua Lê (Cố đô Hoa Lư) ở địa phận xã

Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, thuộc loại hình di tích lịch sử và danh

59

thắng, gắn với ba triều đại phong kiến kế tiếp nhau là Đinh - Tiền Lê - Lý và các

nhân vật lịch sử tiêu biểu ở thế kỉ X của dân tộc như Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại

Hành, Lý Công Uẩn…

Dựa trên mục tiêu và nội dung cơ bản của LSĐP trong chương trình lịch sử

lớp 10 THPT tại tỉnh Ninh Bình, chúng tôi đã xây dựng kế hoạch dạy học LSĐP

thông qua sử dụng di tích Cố đô Hoa Lư - một di sản đặc trưng và tiêu biểu nhất của

tỉnh Ninh Bình.

2.2. Yêu cầu khi lựa chọn hình thức, biện pháp sử dụng di sản văn hóa Cố đô

Hoa Lƣ trong dạy học lịch sử địa phƣơng lớp 10 trung học phổ thông tỉnh

Ninh Bình

2.2.1. Lựa chọn hình thức, biện pháp sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư phải

đáp ứng được mục tiêu dạy học lịch sử địa phương nói riêng, môn lịch sử nói chung

Mục tiêu là “đích cần đạt tới để thực hiện nhiệm vụ” [46; 649]. Việc xác định

đúng mục tiêu dạy học góp phần định hướng GV đề xuất và chọn lựa hình thức,

biện pháp giáo dục phù hợp.

Trước tiên, GV cần phải xác định được mục tiêu đạt được về kiến thức, kĩ

năng, thái độ, năng lực và phẩm chất. Sau đó, căn cứ vào mục tiêu giáo dục đó để

lựa chọn hình thức, biện pháp dạy học phù hợp. Ví dụ: trên cơ sở mục tiêu kiến thức

là yêu cầu HS trình bày được hiểu biết về di tích lịch sử Cố đô Hoa Lư (sự thành

lập, phân loại di tích, nhân vật và sự kiện lịch sử gắn liền với di tích…) thì GV có

thể lựa chọn hình thức dạy học là nội khóa (có thể ở trên lớp hoặc bài học tiến hành

tại di sản). Hoặc mục tiêu về kĩ năng là yêu cầu HS vẽ được sơ đồ cấu trúc Đền thờ

vua Đinh Tiên Hoàng tại Khu di tích Cố đô Hoa Lư, bên cạnh hình thức dạy học

trên lớp (bằng cách GV cung cấp sơ đồ, video giới thiệu di tích) thì hình thức có thể

hiệu quả hơn là cho HS tham gia học tập, trực tiếp quan sát tại di sản để vẽ lại sơ đồ

cấu trúc di tích theo yêu cầu của GV.

2.2.2. Hình thức, biện pháp lựa chọn phải phát huy tính tích cực học tập của học sinh

Để thực hiện Chương trình LSĐP ở trường THPT tỉnh Ninh Bình theo mục

tiêu chung của hệ thống giáo dục phổ thông và Chương trình giáo dục môn Lịch sử

cấp THPT do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định, đòi hỏi GV cần phải thường xuyên

tự học, tự bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, thông thạo nghiệp vụ, đổi

60

mới phương pháp và kĩ thuật dạy học. Đổi mới phương pháp dạy học hiệu quả sẽ

phát huy được tính chủ động, tích cực học tập, tạo cho HS hứng thú, dễ dàng tiếp

thu kiến thức lịch sử. Trên cơ sở đó nhằm nâng cao trình độ, khả năng nhận thức

của HS về bản chất sự kiện, quá trình lịch sử, rút ra quy luật và các bài học lịch sử.

Trước mỗi giờ học LSĐP, GV cần chuẩn bị kĩ nội dung, định hướng cho HS

tự học bằng cách tìm hiểu trước ở nhà. Phương pháp hướng dẫn HS tự học cần được

tổ chức linh hoạt ở các hoạt động học trên lớp và nhiệm vụ ngoại khóa, ra bài tập về

nhà hay làm bài tập thu hoạch để báo cáo. Cho nên, phương pháp “học đi đôi với

hành” cần được duy trì trong mỗi bài học LSĐP.

2.2.3. Lựa chọn hình thức, biện pháp phải vừa sức học sinh

- Sử dụng DSVH Cố đô Hoa Lư phải lưu ý phù hợp với trình độ và khả năng

nhận thức của HS. Tùy thuộc vào đối tượng HS khác nhau, dựa trên mục đích, nội

dung bài học mà GV lựa chọn hình thức, biện pháp khác nhau để đạt được mục tiêu

bài học.

Chẳng hạn: Đối với HS trung bình có thể dùng tranh ảnh hoặc hiện vật kết hợp

các đoạn miêu tả, tường thuật về di sản, nhân vật lịch sử. Nhưng với đối tượng HS

khá giỏi hoặc nhận thức nhanh hơn, GV chỉ cần cung cấp tư liệu là hình ảnh, hoặc

video tư liệu, các em đã có thể tự khám phá, tư duy, phát hiện ra vấn đề và tự trình

bày hiểu biết của mình.

Trong khi tiến hành bài học, với đối tượng HS có năng khiếu đặc biệt và tư

duy tốt hơn, có thể yêu cầu kĩ năng này ở mức độ cao hơn là vẽ được sơ đồ, lược đồ

hoặc tranh ảnh lịch sử. Còn với những HS còn lại chỉ cần yêu cầu các em biết khai

thác và hiểu được nội dung của sơ đồ, lược đồ có sẵn.

- Về kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh cũng phải căn cứ vào mục

tiêu, yêu cầu bài học và thời gian học tập. Về thời gian học tập: So với lịch sử thế

giới và lịch sử dân tộc thì thời gian dành cho LSĐP là ít. Từ yêu cầu của chuẩn kiến

thức, kĩ năng cần đạt được, GV xác định nội dung, phương pháp kiểm tra, đánh giá

phù hợp, tránh quá tải, quá sức đối với HS.

2.2.4. Lựa chọn hình thức, biện pháp phải phù hợp với điều kiện của nhà trường

và địa phương

Phải căn cứ vào điều kiện và khả năng cụ thể của từng trường và địa phương

để xây dựng, tổ chức các hình thức học tập LSĐP nội khóa ở trên lớp, tại di sản,

61

tham quan học tập hay ngoại khóa.

Ví dụ: việc sử dụng thiết bị dạy học trong dạy học Lịch sử nói chung và LSĐP

nói riêng là một yêu cầu bắt buộc, góp phần đổi mới phương pháp dạy học theo mục

tiêu chung của hệ thống giáo dục phổ thông. Tuy nhiên, việc này còn phụ thuộc vào

điểu kiện cụ thể của mỗi trường về khả năng tự trang bị các thiết bị dạy học. Vì thế,

trong dạy học LSĐP, dù điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường khác nhau nhưng

GV cần thực hiện tốt kĩ năng sử dụng bản đồ, lược đồ, sơ đồ, tranh ảnh lịch sử.

2.3. Hình thức, biện pháp sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lƣ trong dạy học

lịch sử địa phƣơng

2.3.1. Tổ chức hiệu quả các hoạt động dạy học nội khóa

2.3.1.1. Sử dụng hiệu quả tài liệu di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư để tiến hành bài

học lịch sử địa phương trên lớp

Trước tiên, GV phải nhận thức được vị trí của bài học tiến hành trên lớp là

hình thức dạy học chủ yếu ở trường phổ thông. Trong các bài lịch sử nội khóa trên

lớp, loại bài nghiên cứu kiến thức mới là yếu tố chủ đạo. Bài học nội khóa trên lớp

là “hoạt động lên lớp được tiến hành theo tiết học, trong đó GV trực tiếp tổ chức,

điều khiển hoạt động nhận thức, phát huy tính tích cực của HS cả lớp, đồng thời

cũng chú ý tới những đặc điểm riêng của từng HS” [35; tr.83]. Trong đó, GV đóng

vai trò là người chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động nhận thức của HS, còn HS đóng vai

trò chủ động, tự điều khiển hoạt động nhận thức của bản thân. GV cần giúp HS thực

hiện nhiệm vụ học tập của mình, tạo hứng thú cho các em nghiên cứu các vấn đề có

tính thực tiễn.

Do đó, việc sử dụng DSVH trong dạy học thực hiện ở loại bài học này là hết

sức cần thiết và có ý nghĩa quan trọng. Sử dụng tài liệu của DSVH để tiến hành bài

học LSĐP ở trên lớp góp phần khắc phục hạn chế về thời gian và không gian sử

dụng di sản. Tài liệu di sản là nguồn kiến thức quan trọng giúp cụ thể hoá, làm

phong phú nội dung bài học vốn bị giới hạn do quy định số trang ở trong Tài liệu

giáo dục địa phương. Nguồn tài liệu sinh động này giúp HS có cơ hội khám phá di

sản khi đang ngồi trong lớp học, hình dung và tái hiện được kiến thức, hiểu bài

nhanh và nhớ lâu hơn.

Để có tài liệu về di sản làm phương tiện giảng dạy ở trên lớp, khi khai thác

62

nguồn tài liệu này cần tuân thủ những yêu cầu sau:

- Căn cứ vào mục tiêu bài học, GV lập hồ sơ danh mục cụ thể các loại di sản

có thể được sử dụng trong bài học. Ngoài ra, GV cần phải tiến hành chọn lọc kỹ và

xác minh tính chân thực của các tài liệu về di sản bằng cách dựa vào tư liệu của

Trung tâm bảo tồn di tích, các sách nghiên cứu chuyên khảo lịch sử, tài liệu hướng

dẫn dạy học LSĐP của Sở Giáo dục và đào tạo. Ví dụ: với bài học nội khóa trên lớp

về LSĐP, GV có thể lập bảng về một số DSVH có thể được sử dụng ở các mức độ

khác nhau trong bài:

Bảng 2.1. Liệt kê một số di sản văn hóa sử dụng trong bài học nội khóa

Nội dung kiến thức cơ bản liên quan đến di sản

STT 1

Tên di sản Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng

2 Đền thờ vua Lê Đại Hành

3

- Lịch sử hình thành, cấu trúc, loại hình di sản. - Đánh giá về công lao của vua Đinh. - Các di vật, hiện vật tiêu biểu có liên quan: Long sàng, cửa cổng phía Bắc, núi Mã Yên. - Nhận xét về vị trí, vai trò của kinh đô Hoa Lư trong lịch sử. - Lịch sử hình thành, cấu trúc, loại hình di sản. - Đánh giá về công lao của vua Lê và Thái hậu Dương Vân Nga. - Các di vật, hiện vật tiêu biểu có liên quan: Khu trưng bày cổ vật. - Sự hình thành, loại hình kiến trúc. - Đánh giá công lao dời đô của vua Lý Thái Tổ.

bia Nhà tưởng niệm vua Lý Thái Tổ

- Ngoài ra, khi sưu tầm nguồn tài liệu về di sản để phục vụ cho việc dạy học,

nhà trường và GV nên phát động HS tham gia sưu tầm tài liệu, tranh ảnh hoặc hiện

vật về di sản, đặc biệt là những di sản ở gần nơi cư trú của các em. Việc để HS tham

gia vào sưu tầm tài liệu cũng là một cách dạy hiệu quả giúp các em tự học, tự tiếp

cận trước với nội dung bài học sẽ được giới thiệu và chuẩn hóa kiến thức ở trên lớp.

- Trước khi tiến hành bài học, trong quá trình soạn giáo án, GV phải chọn

những tài liệu điển hình nhất, cần thiết nhất để đưa vào bài giảng. Tài liệu về di sản

được lựa chọn phải làm rõ được trọng tâm kiến thức và mục tiêu của bài học. Tránh

tình trạng đưa quá nhiều tài liệu dẫn đến quá tải, làm loãng nội dung của bài học.

Chẳng hạn khi sử dụng tài liệu của DSVH Cố đô Hoa Lư để tiến hành bài nội

khóa trên lớp: “Di tích lịch sử - văn hóa ở tỉnh Ninh Bình” ở hoạt động tìm hiểu

63

khái niệm về di tích lịch sử - văn hóa. Thực tế là tài liệu về di tích này rất đa dạng

và phong phú, nhưng để thực hiện nhiệm vụ này, GV chỉ cần chọn lựa một nguồn tư

liệu trong số đó là về đền thờ vua Lê – nơi vừa có giá trị nội dung về hiện vật, di

vật, cổ vật, công trình kiến trúc tiêu biểu:

+ GV đưa ra hình ảnh về di tích đền thờ Lê Đại Hành (ảnh đền thờ và một số

di vật, cổ vật thuộc di tích trên sau lần khai quật khảo cổ năm 1997 như gạch trang

trí, gạch xây dựng in chữ “Đại Việt quốc quân thành chuyên”, đồng tiền “Thái Bình

hưng bảo”…) và yêu cầu HS dựa vào các hình ảnh ví dụ để trả lời câu hỏi: Di tích

lịch sử - văn hóa là gì?

+ HS quan sát ảnh, đọc tài liệu LSĐP và phát biểu ý kiến. GV khuyến khích

HS phát biểu theo suy nghĩ và ý hiểu của mình.

+ GV nhận xét, bổ sung và chốt lại khái niệm về Di tích lịch sử - văn hóa. GV

mở rộng: Di tích lịch sử - văn hóa là một bộ phận của DSVH vật thể, nên có thể gọi

tắt di tích lịch sử - văn hóa là di sản. Sau đó, cũng dựa trên tư liệu hình ảnh minh

họa về di tích đền thờ Lê Đại Hành, GV giúp học sinh phân biệt các khái niệm: di

tích, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia, danh lam thắng cảnh.

- Mặt khác, nguồn tư liệu về di sản rất phong phú: tranh ảnh, hiện vật, video…

và phạm vi nội dung rất đa dạng về lĩnh vực lịch sử, văn học – ca dao, đồng dao, lễ

hội, ẩm thực, âm nhạc… Vì vậy, GV trong quá trình dạy học phải khéo léo sử dụng

đa dạng các tư liệu này để tăng sự hứng thú của HS đối với bài học và thể hiện được

cụ thể, chính xác, đa chiều kiến thức về LSĐP.

- Ngoài ra, khi dạy học về LSĐP nhưng không được tách rời, độc lập với lịch

sử dân tộc. Bởi vậy, khi khai thác tài liệu về di sản địa phương cần liên hệ vị trí,

mối quan hệ của nó với lịch sử cả nước để HS có cái nhìn toàn diện, đa chiều và

nhận thức được ý nghĩa quan trọng của việc học LSĐP. Ví dụ khi dạy về di tích lịch

sử Cố đô Hoa Lư ở trên lớp, GV không thể bỏ qua việc liên hệ với lịch sử Việt Nam

ở thế kỉ X – giai đoạn buổi đầu của thời kì xây dựng nhà nước độc lập Đại Cồ Việt.

Trong khi đó, tài liệu về di sản Hoa Lư – kinh đô xưa của nước ta thời kì Đinh -

Tiền Lê là một minh chứng sống động về cả một giai đoạn lịch sử đã đặt cơ sở, nền

móng cho sự phát triển của chế độ phong kiến nước ta ở các thế kỉ sau.

- Những tài liệu về di sản được sử dụng trong hình thức này như là các phương

64

tiện trực quan, nguồn kiến thức do đó cần được kết hợp chặt chẽ với trình bày

miệng và các phương pháp dạy học khác như sử dụng đồ dùng trực quan, dạy học

nêu vấn đề, dạy học theo dự án. Tuy là dạy học ở trên lớp học nhưng GV có thể tổ

chức phân công nhiệm vụ học tập cho HS theo nhóm, tương ứng với các tiểu dự án.

Dưới sự hướng dẫn của GV, các nhóm HS sẽ phân công nhiệm vụ, đi thu thập và xử

lí thông tin, hoàn thiện và báo cáo sản phẩm hoạt động nhóm trước lớp. Việc sử

dụng đa dạng các phương pháp dạy học khiến cho bài học lịch sử ở trên lớp trở nên

lôi cuốn HS và kích thích sự hứng thú, say mê học tập ở các em.

Về các biện pháp thực hiện khi sử dụng tài liệu về di sản để tiến hành bài học

trên lớp cần vận dụng cấu trúc mềm dẻo của bài học lịch sử theo kiểu dạy học nêu

vấn đề, các hoạt động của bài học phải linh hoạt, sáng tạo.

(*) Sử dụng tài liệu, tranh ảnh để khởi động quá trình nhận thức của HS

Trên cơ sở mục tiêu, kiến thức cơ bản của bài học, GV tổ chức hoạt động khởi

động, dẫn dắt HS vào tình huống có vấn đề để tạo hứng thú học tập cho các em.

Mục tiêu của tình huống học tập ở hoạt động khởi động là với việc quan sát một số

hình ảnh, lược đồ, video tư liệu về nội dung có liên quan đến bài học, HS sẽ được

kích thích sự tò mò, lòng khát khao mong muốn tìm hiểu những điều chưa biết ở

hoạt động hình thành kiến thức mới của bài học. Trên cơ sở đó, GV nêu lên bài tập

nhận thức, cũng chính là mục tiêu nhận thức cơ bản của bài học.

Để khởi động quá trình nhận thức của HS khi tiến hành bài học LSĐP “Di tích

lịch sử - văn hóa ở tỉnh Ninh Bình”, GV thực hiện:

- GV tổ chức hoạt động theo 4 nhóm cùng thực hiện 1 nhiệm vụ: Hãy kể tên

các di tích ở Việt Nam đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới?

- Các nhóm có thời gian 3 phút thảo luận và trình bày trên phiếu học tập.

- Sau khi các nhóm trình bày kết quả hoạt động nhóm, GV cung cấp lược đồ,

hình ảnh của 8 di tích ở Việt Nam đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới

tính đến năm 2014. Đó là: 2 di sản thiên nhiên thế giới: Vịnh Hạ Long (1994 và

2000), Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng (2003); 5 di sản văn hóa thế giới:

Quần thể di tích Cố đô Huế (1993), Phố Cổ Hội An (1999), Thánh địa Mỹ Sơn

(1999), Khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long (2010); Thành nhà Hồ

(2011), 1 Di sản thế giới hỗn hợp (di sản thiên nhiên thế giới và di sản văn hóa thế

65

giới): Quần thể danh thắng Tràng An (2014).

- GV giới thiệu khái quát về 8 di sản vật thể của thế giới ở Việt Nam và Quần

thể danh thắng Tràng An (video về Quần thể khu du lịch Tràng An…). Chỉ rõ trên

lược đồ 1 số di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu nhất: Trung tâm cố đô Hoa Lư, Khu

du lịch sinh thái Tràng An, Tam Cốc, Bích Động, chùa Bái Đính …

GV dẫn dắt vào bài học: Vậy thế nào là di tích lịch sử - văn hóa và tại sao

chúng ta cần phải tìm hiểu về di tích lịch sử - văn hóa? Di tích lịch sử - văn hóa nào

là đặc trưng nhất của quê hương Ninh Bình? Di tích lịch sử ấy phản ánh nội dung

lịch sử nào của địa phương và dân tộc? Đánh giá (nhận xét) của em về di tích đó?

Bài học ngày hôm nay sẽ giúp chúng ta giải quyết được những vấn đề nói trên.

(*) Hướng dẫn HS sử dụng tài liệu, tranh ảnh của DSVH để hình thành kiến thức

Sử dụng DSVH Cố đô Hoa Lư trong hoạt động hình thành kiến thức có thể

thực hiện nhằm mục đích:

- Sử dụng để khôi phục kiến thức lịch sử, giúp HS tạo biểu tượng lịch sử một

cách chân thật, chính xác.

- Tổ chức HS tìm hiểu tài liệu, tranh ảnh của di sản và báo cáo trước lớp.

- Hướng dẫn HS trao đổi, thảo luận tìm ra bản chất của sự kiện, hiện tượng lịch sử.

GV có thể tổ chức đàm thoại, nêu vấn đề trao đổi, thảo luận, tranh luận cho HS.

Ví dụ: Ở hoạt động tìm hiểu về về DSVH tiêu biểu Cố đô Hoa Lư (thuộc Quần

thể danh thắng Tràng An) là một di tích quốc gia đặc biệt quan trọng của Ninh

Bình. Vì vậy, GV tập trung cho HS khai thác kĩ hơn về di tích này.

GV giao nhiệm vụ cho 3 nhóm tìm hiểu về di tích và các giá trị của di tích dựa

trên chuỗi hình ảnh minh họa dành cho từng nhóm (thời gian quan sát tư liệu về di

sản là 1 phút cho mỗi nhóm). Chuỗi tư liệu minh họa này bao gồm các hình ảnh

chạy thành 3 dải song song được thiết kế trên ứng dụng Powerpoint tương ứng với 3

gợi ý để thực hiện 3 nhiệm vụ dành cho các nhóm:

+ Nhóm 1: Địa điểm phân bố, loại hình và cấp quản lý của di tích cố đô Hoa Lư

(Sơ đồ khu di tích Cố đô Hoa Lư, hình ảnh đền vua Đinh, đền vua Lê, núi Mã Yên)

+ Nhóm 2: Kể tên nhân vật và sự kiện lịch sử gắn liền với di tích cố đô Hoa

Lư? (Hình ảnh Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân; Đinh Tiên Hoàng lên ngôi

hoàng đế; ảnh Lê Hoàn đánh Tống, bình Chiêm; Lê Hoàn cày ruộng tịch điền; Lý

66

Công Uẩn dời đô về Đại La)

+ Nhóm 3: Trình bày hiểu biết về lễ hội cố đô Hoa Lư (lễ hội Trường Yên)

(Hình ảnh khai mạc Lễ hội Cố đô Hoa Lư; Lễ rước nước trên sông Hoàng Long;

Múa cờ lau tập trận và một số hình ảnh phần hội trong lễ hội Trường Yên)

Hết thời gian hoạt động nhóm, các nhóm lần lượt cử đại diện trình bày kết quả

thống nhất của nhóm mình. Sau mỗi sản phẩm của nhóm trình bày, GV tổ chức cho các

nhóm khác nhận xét, phản biện và có thể định hướng thêm một số câu hỏi để HS hiểu

kĩ hơn về các nội dung như hình ảnh rồng vàng trong lễ hội Hoa Lư gắn với “Sự tích

sông Hoàng Long”,… Cuối cùng, GV kết luận, xâu chuỗi lại cả 3 vấn đề.

(*) Sử dụng tư liệu, tranh ảnh của DSVH trong hoạt động củng cố và luyện tập.

Mục tiêu của hoạt động luyện tập là nhằm củng cố, hệ thống hóa, hoàn thiện

kiến thức mới mà HS đã được lĩnh hội ở hoạt động hình thành kiến thức. Để giúp

củng cố kiến thức đã học, GV đưa ra các nhiệm vụ học tập yêu cầu HS tự huy động

vốn kiến thức mới được lĩnh hội để giải quyết. Cụ thể là yêu cầu các em vẽ lại sơ đồ

tư duy về kiến thức cơ bản (từ khóa chính) của bài, hoặc GV có thể sử dụng câu hỏi

tự luận hoặc trắc nghiệm theo nội dung kiến thức của bài.

Ở hoạt động luyện tập, củng cố kiến thức về một số di tích lịch sử - văn hóa

của tỉnh Ninh Bình trong đó có di sản Cố đô Hoa Lư (cả di sản vật thể và phi vật

thể), GV tổ chức trò chơi theo nhóm “Khám phá bức tranh bí ẩn”. Một bức tranh

được giấu trong 8 ô chữ bí ẩn. Mỗi ô chữ sẽ có một gợi ý về một mảnh ghép của

bức tranh đó. Các nhóm lần lượt lựa chọn ô chữ mình trả lời, các nhóm khác cùng

tham gia trả lời câu hỏi trong ô chữ ấy trên bảng phụ. 8 ô chữ bí ẩn là 8 câu hỏi –

chìa khóa để lật 8 mảnh ghép của bức tranh bí ẩn. Các câu hỏi này được thiết kế đa

dạng về nội dung và phong phú về hình thức thể hiện di sản góp phần phát triển tính

tích cực, sự hứng thú của HS khi tham gia hoạt động nhằm củng cố, hoàn thiện các

kiến thức đã được lĩnh hội ở hoạt động hình thành kiến thức.

Ô số 1: Kinh đô Hoa Lư của nhà nước Đại Cồ Việt tồn tại trong khoảng thời

gian nào?

A. Từ năm 944 – năm 1009 B. Từ năm 944 – năm 979

C. Từ năm 968 – năm 1009 D. Từ năm 968 – năm 1010

67

Đáp án: D

Ô số 2: Điền vào chỗ trống để hoàn thành bài đồng dao của trẻ em thuộc cố đô

Hoa Lư xưa: “Tập tầm vông/ Bổng bồng bông/ Có đức …/ Chữa khỏi bệnh mọc

lông/ Cho đức vua nhà Lý”.

Đáp án: Nguyễn Minh Không

Ô số 3: Nội dung nào trong hình ảnh dưới đây không nằm trong phần Lễ của

lễ hội cố đô Hoa Lư ?

A. Nghi lễ rước nước. B. Tế cửu khúc.

C. Hội cờ người. D. Lễ mộc dục.

Đáp án: Hội cờ người

Ô số 4: Nhận định sau đây nói về danh nhân văn hóa nào của tỉnh Ninh Bình?

“ … Một vai gánh vác cả đôi sơn hà”

Đáp án: Thái hậu Dương Vân Nga

Ô số 5: Giải thích địa điểm “Đại Hữu” trong câu tục ngữ “Đại Hữu sinh

vương, Điềm Dương/Giang sinh thánh” ?

Đáp án: Làng Đại Hữu – xã Gia Phương – Gia Viễn là nơi sinh ra vua Đinh

Tiên Hoàng (kèm theo hình ảnh tư liệu về di sản)

Ô số 6: Nơi hiện đang lưu giữ cột kinh cổ nhất của Việt Nam là ở đâu ? (hình

ảnh tư liệu về di sản và hiện vật cột kinh cổ)

Đáp án: Chùa Nhất Trụ - xã Trường Yên - Hoa Lư - Ninh Bình

Ô số 7: Trong kho tàng văn hóa dân gian Hoa Lư có câu ca dao nói về một đặc

sản nổi tiếng của kinh đô Hoa Lư. Đó là món ăn gì?

“Dập dìu cánh hạc chơi vơi

Tiễn thuyền Vua Lý đang dời kinh đô

Khi đi nhớ cậu cùng cô

Khi về lại nhớ ………………………….”

Đáp án: Cá rô Tổng Trường (kèm theo hình ảnh minh họa về di sản ẩm thực)

Ô số 8: Hãy lắng nghe đoạn nhạc sau đây và liệt kê tên những địa điểm gắn

liền với di tích lịch sử - văn hóa được nhắc đến trong đoạn nhạc vừa nghe. (kèm

theo đoạn nhạc trích từ bài hát: “Ninh Bình quê mẹ” – nhạc sĩ Thuận Yến sáng tác)

68

Đáp án: 1. Bích Động; 2. Cố đô Hoa Lư; 3. Nhà thờ đá Phát Diệm.

(*) Sử dụng tư liệu, tranh ảnh của DSVH để tổ chức hoạt động vận dụng và

mở rộng.

Hoạt động sau cùng của tiết học LSĐP trên lớp về DSVH Cố đô Hoa Lư phải

là hoạt động liên hệ, mở rộng vấn đề nhằm vận dụng kiến thức mới mà HS đã được

lĩnh hội để giải quyết những vấn đề mới trong học tập và thực tiễn, giúp HS có thể

biến lý thuyết sách vở thành thực tiễn hành động.

GV mở rộng về thực trạng bảo tồn di sản vật thể hiện nay thông qua một số

hình ảnh minh họa và đặt câu hỏi: Theo em, giải pháp nào để bảo tồn và phát huy

các di sản văn hóa?; Em có suy nghĩ gì về trách nhiệm của bản thân trong việc giữ

gìn, bảo vệ di tích lịch sử - văn hóa? Và cuối cùng GV giao nhiệm vụ cho HS về

nhà viết bài thu hoạch với chủ đề: Cần phải làm gì để bảo vệ di tích lịch sử - văn

hóa ở địa phương? Hoặc ra bài tập về nhà yêu cầu các em sưu tầm thêm tư liệu có

liên quan đến di tích đã học.

2.3.1.2. Tổ chức hiệu quả hoạt động dạy học lịch sử địa phương tại di sản văn hóa

Cố đô Hoa Lư

Tiến hành bài học tại nơi có di sản - Bài học tại thực địa là một thế mạnh và có

khả năng thực hiện cao trong dạy học lịch sử địa phương. Bởi vì, có thể khai thác

DSVH địa phương ở xung quanh địa bàn HS sinh sống, rất gần gũi với nhà trường và

sự hiểu biết ban đầu của các em. Tư liệu về di sản tại thực địa chính là sự cụ thể hóa

kiến thức trong sách vở, giúp HS dễ dàng hiểu các vấn đề khái quát, trừu tượng của

môn học để hiểu sâu sắc thêm kiến thức. Ngoài giúp các em hiểu những kiến thức về di

sản nói chung, tổ chức bài học tại di sản còn rèn luyện HS các kĩ năng như sưu tầm tài

liệu, phỏng vấn, làm hồ sơ, làm việc nhóm, quay phim, chụp ảnh… Trên cơ sở đó, giúp

HS hình thành thái độ tích cực, yêu quê hương, trân trọng những giá trị lịch sử, văn hóa

của dân tộc. Vì vậy, việc tổ chức hiệu quả bài học LSĐP tại di sản tiếp tục góp phần

phát triển năng lực và bồi dưỡng phẩm chất cho HS.

So với bài học LSĐP được tiến hành trên lớp, bài học LSĐP được tiến hành tại

di sản có nội dung phong phú hơn, có nhiều lựa chọn hơn với nhiều chủ đề khác

nhau. Ví dụ: về loại hình kiến trúc nghệ thuật ở Cố đô Hoa Lư, GV có thể lựa chọn

69

địa điểm dạy học tại đền vua Đinh (hai cặp Long sàng, cửa Bắc, tòa nhà Bái

đường…) hoặc có thể lựa chọn di tích đền vua Lê với khu trưng bày các hiện vật

khảo cổ. Bởi vậy, bài LSĐP tại di sản ngoài nội dung, chủ đề rộng, phong phú hơn

còn có tính linh hoạt tùy theo đặc điểm của mỗi trường; không bị bó buộc về thời

gian diễn ra bài học; khả năng khai thác tư liệu của HS cũng nhiều hơn… Tuy vậy,

bài học tại di sản ngoài tuân thủ đầy đủ những yêu cầu của bài học nội khóa còn

phải thực hiện đầy đủ các bước tiến hành của một bài học tại thực địa.

Bài học tại di sản có thể tiến hành theo hai cách:

Cách 1: GV kết hợp cùng với ban quản lí di sản để tiến hành bài học nghiên

cứu kiến thức mới như sau:

- Mở đầu bài học, GV giới thiệu khái quát về nội dung kiến thức có liên quan

đến di sản.

- Sau đó, GV mời một cán bộ địa phương (có thể là cán bộ thuộc ban quản lý

di tích, hay hướng dẫn viên du lịch) trình bày cụ thể về nội dung kiến thức bài học

liên quan đến di sản. Đối với loại bài học này thì trước đó GV cần trao đổi kĩ với

cán bộ địa phương để đảm bảo việc trình bày nội dung bài học và kết hợp giới thiệu,

tham quan di tích, không biến buổi học thành buổi tham quan ngoại khóa.

- Cuối cùng, GV chốt lại những vấn đề chính của bài học. Tuỳ theo điều kiện

cụ thể mà tổ chức các hoạt động sau buổi học như viết báo cáo, trưng bày, triển

lãm…

Cách 2: Đối với bài học chủ yếu do GV đảm nhiệm, có thể tiến hành theo hai

hướng:

Thứ nhất, GV liên hệ với ban quản lý di tích chuẩn bị một một phòng riêng ở

nơi có di sản (nếu có) để tiến hành dạy học bình thường như ở trên lớp. Sau đó

hướng dẫn HS tham quan những dấu vết, chứng tích, hiện vật có liên quan để minh

chứng và làm rõ hơn những kiến thức cơ bản vừa mới học.

Thứ hai, GV sử dụng dấu vết, hiện vật tại di sản là đồ dùng trực quan khi tiến

hành bài học ngay tại phòng trưng bày (nếu có) hoặc nơi có chứng tích, hiện vật của

di sản.

Ở đây chúng tôi tiến hành theo cách thứ hai với các biện pháp:

a. Xác định đúng mục đích của bài học

70

Mục tiêu này phải đảm bảo yêu cầu về mặt kiến thức, kĩ năng, thái độ và

phát triển các năng lực, phẩm chất cho HS. Đây là công việc đầu tiên giúp định

hướng toàn bộ quá trình sư phạm của bài học.

Ví dụ: Mục đích, yêu cầu cụ thể khi dạy học bài “Tìm hiểu di sản Cố đô Hoa

Lư tại di tích lịch sử Đền vua Đinh – vua Lê” là: Qua bài học, HS đạt được:

Về kiến thức:

+ HS được củng cố những kiến thức được học trên lớp về bước đầu xây dựng

nhà nước phong kiến độc lập ở thế kỉ X và tiếp thu mở rộng kiến thức về di sản văn

hóa Cố đô Hoa Lư.

+ Trình bày được sự hình thành, giá trị lịch sử và văn hóa của di tích lịch sử

Đền thờ vua Đinh và Đền thờ vua Lê.

+ Giải thích được lí do tại sao vua Đinh lại chọn Hoa Lư làm nơi định đô.

Đánh giá được vị trí của kinh thành Hoa Lư trong lịch sử. Lí giải được nguyên nhân

vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Đại La (Thăng Long).

Về kĩ năng:

+ Rèn cho HS kĩ năng liên hệ kiến thức lí thuyết trong sách vở với thực tiễn.

+ Rèn luyện cho HS một số kĩ năng thao tác tư duy, phân tích, so sánh rút ra kết

luận, kĩ năng quan sát đối chiếu, kĩ năng sưu tầm nghiên cứu, xử lí tư liệu lịch sử.

Về thái độ: Hứng thú, say mê với bài học lịch sử tại di sản. Xây dựng lòng tự

hào đối với di sản dân tộc. Từ đó hình thành ý thức bảo vệ và phát huy các giá trị

của di sản.

Về năng lực và phẩm chất:

+ Năng lực chung: Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo. Năng lực tự chủ và

tự học; Năng lực giao tiếp và hợp tác.

+ Năng lực chuyên biệt: Thực hành bộ môn LS: Khai thác kênh hình, sử dụng

lược đồ...; Năng lực tái hiện sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử; Nhận xét, đánh

giá, liên hệ thực tế và rút ra bài học kinh nghiệm.

+ Phẩm chất: yêu nước, chăm chỉ, trách nhiệm.

Mục tiêu của bài học chính xác, cụ thể sẽ giúp GV định hướng được các công

tác chuẩn bị và tổ chức các hoạt động dạy học tại thực địa sao cho phù hợp, đảm

bảo cho sự thành công của bài học tại di sản.

71

b. Chuẩn bị tiến hành bài học tại di sản chu đáo, kỹ lưỡng

Bài học tại di sản được tiến hành ngoài trời, HS cần di chuyển tới một không

gian mở không bó hẹp như ở trong lớp học. Bên cạnh những lợi ích của bài học này

mang lại thì còn nhiều vấn đề đặt ra khi tổ chức. Vì vậy, GV cần cân nhắc cẩn trọng

trong khâu chuẩn bị cho bài học từ lựa chọn địa điểm, chuẩn bị kiến thức liên quan

đến bài học, đến vấn đề thời tiết, tài chính, sự an toàn cho HS cả lớp, thông báo cho

gia đình HS về kế hoạch học tập tại di sản…

Để chuẩn bị cho bài “Tìm hiểu di sản Cố đô Hoa Lư ở di tích lịch sử Đền vua

Đinh - vua Lê” tại di tích Cố đô Hoa Lư trong dạy học LSĐP:

Đối với giáo viên:

+ Lập kế hoạch trình lên lãnh đạo nhà trường và phổ biến cho HS ngay từ đầu

học kì I, ấn định ngày giờ cụ thể cho bài học.

+ Liên hệ với ban quản lí di tích, nêu rõ mục đích, yêu cầu đối với HS để tạo

được điều kiện thuận lợi. Phối hợp giữa ban quản lí di tích và nhà trường sắp xếp bố

trí trước, trong và sau bài học.

+ Để định hướng nhận thức của HS, GV chuẩn bị một số nội dung yêu cầu HS

tìm hiểu trước: như tìm hiểu về các nhân vật lịch sử có liên quan đến di tích (vua

Đinh Tiên Hoàng, vua Lê Hoàn, Thái hậu Dương Vân Nga...)

+ GV chuẩn bị trò chơi lịch sử thông qua phiếu hoạt động của HS.

+ Biên soạn tài liệu và phiếu hoạt động. Việc biên soạn nội dung bài học phải

dựa trên các tài liệu tham khảo chính thống (như tài liệu hướng dẫn dạy học LSĐP

của Sở giáo dục và đào tạo, sách chuyên khảo của các nhà nghiên cứu địa phương,

tài liệu của Trung tâm bảo tồn di tích Cố đô Hoa Lư), đây là cơ sở quan trọng cho

việc định hướng nội dung, tiến trình bài học tại di sản. Nội dung này phải đảm bảo

làm rõ kiến thức trọng tâm, tính chính xác và thể hiện được mục tiêu của bài học về

lịch sử địa phương. Nội dung tài liệu về LSĐP tại Trung tâm khu di tích Cố đô Hoa

Lư là một nguồn tư liệu khoa học và quý giá mà GV lịch sử có thể liên hệ khai thác

để xây dựng nội dung phục vụ cho bài học tiến hành tại di sản.

Đối với HS, những em được phân công tìm hiểu tư liệu lịch sử phải chuẩn bị

chu đáo, đầy đủ. Khi đến di tích, cần tuân thủ nội quy, mặc đồng phục, không gây

72

ồn ào, đồng thời chú ý quan sát hiện vật, lắng nghe, ghi chép đầy đủ… Tìm hiểu

một số vấn đề cơ bản thông qua hoạt động trò chơi lịch sử. Về nhà viết bài thu

hoạch sau khi học tập tại di sản theo yêu cầu của GV.

c. Vận dụng linh hoạt khâu ổn định lớp với tạo tình huống và nêu nhiệm vụ

nhận thức.

Việc ổn định HS được thực hiện không chỉ đầu giờ mà cần duy trì suốt thời

gian tiến hành bài học, đặc biệt là bài học được tiến hành tại một không gian rộng

mở là thực địa tại di sản.

Sau khi di chuyển từ nhà trường đến nơi tập trung ở di tích, HS cần được tập

trung để nghe nhắc lại một lần nữa về quy định của buổi học. GV và HS thực hiện

lễ dâng hương tại đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành, thể hiện sự

thành kính, tri ân đối với các anh hùng của dân tộc. Đối với bài học tại di sản, GV

không kiểm tra bài cũ mà thay vào đó là hoạt động tạo tình huống có vấn đề để dẫn

dắt, kích thích sự tò mò của HS có tâm thế nghiêm túc bước vào bài học. Đối với

bài học này, GV có thể đóng vai là hướng dẫn viên du lịch xây dựng tình huống nêu

vấn đề như sau:

“Ninh Bình là vùng đất có lịch sử văn hóa lâu đời. Theo thống kê năm 2005,

trên địa bàn tỉnh Ninh Bình có 78 di tích lịch sử - văn hóa được Bộ Văn hóa –

Thông tin xếp hạng. Trong đó nổi bất là di tích lịch sử Cố đô Hoa Lư. Đến với cố

đô Hoa Lư chúng ta sẽ được khám phá vùng đất bao la, hùng vĩ của núi rừng, với

những thắng cảnh tuyệt đẹp làm say đắm lòng người, không chỉ vậy không gian

dường như đưa ta trở lại với đất nước Việt Nam thời đầu lập quốc, qua việc khám

phá kinh đô cũ với một chút hoài cổ và niềm tự hào vô bờ. Một trong những điểm

đến nổi tiếng nơi đây là đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng, Vua Lê Đại Hành nổi bật

với nét uy nghiêm, cổ kính và tồn tại như một nhân chứng lịch sử hào hùng trên

vùng đất cố đô xưa”. Tiếp đó, GV giới thiệu khái quát về sự ra đời của di tích, giúp

HS hiểu được quá trình xây dựng và được đầu tư tôn tạo cũng như ý nghĩa của nó.

“Năm 2012, nhà nước công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia đặc biệt. Năm 2014,

cũng với Quần thể danh thắng Tràng An được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn

hóa Liên hiệp quốc (UNESCO) công nhận là di sản văn hóa kép đảm bảo cả hai

73

yếu tố là thiên nhiên và văn hóa. Đó là nội dung bài học hôm nay chúng ta cùng tìm

hiểu”. Sau đó, GV nêu lên tình huống và bài tập nhận thức giúp HS định hướng

được nhiệm vụ, yêu cầu học tập đối với buổi học:

+ Đặc điểm kiến trúc đền vua Đinh và đền vua Lê có những nét gì nổi bật? Tại

sao vua Đinh lại chọn Hoa Lư làm nơi định đô? Nhưng tại sao đến thời vua Lý Thái

Tổ lại quyết định dời đô?

+ Thông qua nhận định của Lê Văn Hưu: Tiên Hoàng nhờ có tài năng sáng

suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời, đương lúc nước Việt ta không có chủ,

các hùng trưởng cát cứ, một phen cất quân mà mười hai sứ quân phục hết. Vua mở

nước dựng đô, đổi xưng hoàng đế, đặt trăm quan, lập sáu quân, chế độ gần đầy đủ,

có lẽ ý trời vì nước Việt ta mà lại sinh bậc thánh triết để tiếp nối quốc thống (Theo

Đại Việt sử ký toàn thư), em hãy đánh giá công lao của vua Đinh Tiên Hoàng đối

với lịch sử dân tộc.

+ Tìm hiểu thực trạng việc bảo tồn di tích Đền vua Đinh - vua Lê hiện nay và

suy nghĩ của em về việc bảo vệ và phát huy DSVH địa phương.

Bài học LSĐP được tiến hành tại di sản ngoài ý nghĩa to lớn về tính trực quan,

cụ thể còn một số vấn đề cần lưu ý, đó là vì thực hiện trong một không gian rộng

mở, linh thiêng nên trước khi tiến hành tiết dạy, GV khéo léo tổ chức lễ dâng hương

trước đền thờ đã tạo cho HS thái độ học tập nghiêm túc và tâm thế sẵn sàng bước

vào tìm hiểu nội dung bài học. Việc tạo tình huống học tập và nêu lên nhiệm vụ

nhận thức của GV như trên cùng với vận dụng linh hoạt khâu ổn định lớp góp phần

định hướng cả lớp tập trung vào nhiệm vụ học tập mà không bị xao nhãng bởi

không khí, môi trường học ở xung quanh.

d. Tổ chức HS khai thác hiện vật, chứng tích ở di tích lịch sử để tạo biểu

tượng lịch sử

Di tích lịch sử là nơi chứa đựng các phương tiện trực quan quý giá như các

hiện vật, cổ vật, chứng tích, địa hình thực… từ đó hình thành nên khái niệm lịch sử

một cách vững chắc. Việc quan sát trực tiếp dấu vết, hiện vật tại di sản sẽ có tác

động sâu sắc đến thái độ và hành động của HS. Tuy vậy, do một số yếu tố về thời

gian, điều kiện bảo quản mà một số các hiện vật bị hư hại nên nó chưa thể khôi

74

phục đầy đủ bức tranh của quá khứ. Vì vậy, để cụ thể hóa các sự kiện lịch sử, GV

cần bổ sung thêm các đồ dùng trực quan tạo hình (tranh ảnh, hình vẽ, phim…) hoặc

đồ dùng trực quan quy ước khác (bản đồ lịch sử, niên biểu, đồ thị, sơ đồ …).

Ví dụ: Long sàng trước Nghi môn ngoại và Long sàng trước Bái đường đền

thờ Vua Đinh Tiên Hoàng là một trong những bảo vật độc đáo, được công nhận là

bảo vật Quốc gia cuối năm 2017. Bởi vậy, hướng dẫn HS quan sát tìm hiểu về Long

sàng đá tại đền thờ vua Đinh là một trong những hoạt động học chính ở đây. GV

cho HS quan sát và đặt ra các câu hỏi gợi mở: Long sàng được làm bằng chất liệu

gì? Hình dáng và kích cỡ ra sao? Hãy miêu tả và rút ra nhận xét về hình họa tiết

được trang trí trên mặt Long Sàng. Dưới sự hướng dẫn của GV, HS quan sát, thảo

luận và rút ra câu trả lời. Sập Long Sàng bằng đá được trang trí bằng họa tiết hình

rồng, đó là hình ảnh một con rồng hay còn gọi là độc long. Hai bên có hai con nghê

chầu bằng đá xanh nguyên khối có niên đại 400 năm (TK XVII) được chạm khắc

đơn giản, hình khối mộc mạc chắc khỏe gợi lòng sùng kính đối với vua Đinh.

Thông qua việc tổ chức khai thác, tìm hiểu hiện vật Long sàng như trên giúp

HS khám phá được giá trị nghệ thuật kiến trúc của kinh đô Hoa Lư xưa và tài hoa,

trí tuệ của các nghệ nhân chạm khắc đá ở tỉnh Ninh Bình trong lịch sử.

e. Kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học để phát huy tính tích cực của HS:

Phát huy tính tích cực của HS là yêu cầu, mục tiêu và là điều kiện để thực hiện

các hoạt động dạy học với DSVH ở bài học LSĐP. Việc học tập đạt kết quả tốt khi

bản thân HS tích cực và chủ động tham gia vào quá trình dạy học. Bởi vậy, khi tổ

chức dạy học tại di sản, GV cần ưu tiên kết hợp các phương pháp dạy học tích cực

giúp HS phát huy tối đa tính chủ động, sáng tạo của mình. Để thực hiện được mục

tiêu này, GV có thể vận dụng kiểu dạy học nêu vấn đề kết hợp với trao đổi, thảo

luận, trực quan và phối hợp các dạng tổ chức hoạt động học tập (cá nhân, toàn lớp,

nhóm) một cách linh hoạt.

Khi tiến hành dạy học tại đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng, GV sẽ dẫn dắt HS cả

lớp đi qua Ngọ môn quan (cổng ngoài) nằm ở phía bắc của đền. Phía bên trên cửa

có bức đại tự “Bắc môn tỏa thược” (có nghĩa là: cửa Bắc khóa chặt). GV nêu câu

hỏi: cửa Bắc khóa chặt – theo các em câu này có hàm ý gì? HS: suy nghĩ trả lời theo

ý hiểu của mình. GV: nhận xét và chốt lại: Cửa Bắc khóa chặt - với ý nghĩa tránh

75

gió hướng bắc, đồng thời cũng mang hàm ý khi vua Đinh lên ngôi thì chấm dứt thời

kỳ đô hộ của phương bắc nhưng các thế lực phong kiến phương bắc vẫn chưa từ bỏ

âm mưu xâm lược nước ta. Vì vậy, nó còn có ý nghĩa sâu xa là “Đề phòng giặc

phương bắc”. Bốn chữ của các bậc tiền nhân dặn dò khắc trên cổng phía Bắc Cố đô

Hoa Lư tuy ngắn gọn nhưng đầy hàm ý sâu xa nhắc nhở các thế hệ Việt Nam yêu

nước sau này luôn phải đề cao tinh thần cảnh giác trước mọi âm mưu bành trướng,

xâm lược của các thế lực phương bắc.

Bài học LSĐP khi tiến hành tại di sản mở ra khả năng nhận thức tương đối

toàn diện với HS không chỉ do điều kiện mở rộng về không gian, thời gian, khả

năng khai thác tư liệu của DSVH mà còn có thể tích hợp liên môn đem lại nhiều

hiểu biết khác nhau cho các em. Vì thế, ngoài được giáo dục kiến thức về LSĐP và

lịch sử dân tộc, các em còn có cơ hội thể hiện và phát huy trình độ hiểu biết của

mình trong một không gian lớp học mở.

Trong bài học LSĐP tại di sản Cố đô Hoa Lư, có thể kết hợp sử dụng kiến

thức liên môn với trao đổi, thảo luận của HS. GV tập trung HS trước cổng đền vua

Đinh và đưa ra một số câu hỏi để HS suy nghĩ, trao đổi, thảo luận, viết kết quả.

GV chia lớp thành hai đội: Đội Cờ lau: trả lời câu hỏi “Em biết gì về Đinh

Tiên Hoàng? Đánh giá công lao của ông đối với dân tộc?”; Đội Bạch Đằng: trả lời

câu hỏi “Em biết gì về Lê Hoàn? Đánh giá công lao của ông đối với dân tộc?”. HS:

Hai đội thảo luận nhớ lại kiến thức đã học, cử nhóm trưởng trả lời câu hỏi. GV: yêu

cầu đại diện của hai đội HS để trả lời câu hỏi.

GV: kết luận, liên hệ kiến thức lịch sử dân tộc ở bài 17 (SGK lịch sử 10): Sau

khi đánh bại cuộc xâm lược của quân Nam Hán, năm 939 Ngô Quyền xưng vương,

bắt tay xây dựng chính quyền mới, đóng đô ở Cổ Loa (Đông Anh- Hà Nội). Sau khi

Ngô Quyền mất (năm 944), nhà Ngô suy vong, đất nước bị chia cắt do cục diện

“loạn 12 sứ quân”. Từ vùng đất Hoa Lư, Đinh Bộ Lĩnh đã dẹp yên nội loạn, thống

nhất được đất nước. Năm 968, ông ngôi Hoàng đế, hiệu là Đinh Tiên Hoàng, đặt

quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Năm 979, vua Đinh Tiên Hoàng và

con trai là Đinh Liễn bị sát hại. Nhân cơ hội đó, giặc Tống lăm le xâm lược nước ta.

Trong bối cảnh đó được sự ủng hộ của quan quân triều đình, Thái hậu Dương Vân

Nga đã tôn Lê Hoàn lên làm vua lập ra nhà Tiền Lê. Lê Hoàn đã chỉ huy cuộc

76

kháng chiến chống Tống, đánh tan quân xâm lược Tống ngay trên vùng Đông Bắc.

Tích hợp với kiến thức âm nhạc: Tổ chức cho học sinh nghe bài hát “Cờ lau

tập trận” của nhạc sĩ Khánh Vinh và đưa ra câu hỏi: “Bài hát trên nói về ai?”, “Nội

dung bài hát thể hiện điều gì?”. Sau đó, GV cho HS diễn lại trò chơi “Cờ lau tập

trận” để HS thấy được tinh thần thượng võ của Đinh Bộ Lĩnh.

Tích hợp với môn Ngữ văn: GV giới thiệu không chỉ các nhạc sĩ mà nhiều nhà

văn nhà thơ cũng đã tốn không ít giấy mực để ca ngợi về Đinh Tiên Hoàng, Lê

Hoàn, Dương Vân Nga. Sau đó đưa ra nhiệm vụ: “Em biết những câu chuyện, bài

thơ nào ca ngợi Đinh Tiên Hoàng, Lê Hoàn, Dương Vân Nga?”. HS: đại diện HS kể

chuyện hoặc đọc thơ mà học sinh đã được giao nhiệm vụ.

Hoặc ở hoạt động sau thời gian các nhóm tự tìm hiểu khám phá, GV tập trung

HS để tiếp tục bài học. Giáo viên đặt câu hỏi: “Việc nhân dân ta xây dựng, tu sửa

đền thờ vua Đinh và vua Lê thể hiện điều gì?” (Tích hợp với môn Giáo dục công

dân). Việc nhân dân ta xây dựng tu sửa hai ngôi đền để tưởng nhớ công lao của hai

vị anh hùng dân tộc là Đinh Bộ Lĩnh và Lê Hoàn.

GV: “Vậy các em cần phải làm gì để tỏ lòng biết ơn đối với các vị anh hùng

dân tộc?”. HS: Mỗi chúng ta cần phải có những hành động thiết thực để giữ gìn,

bảo vệ, phát huy, truyền bá những di tích lịch sử, văn hóa của quê hương đất nước.

Qua tìm hiểu đôi nét về Cố đô để giúp các em hiểu thêm về lịch sử triều đại Đinh -

Tiền Lê và các nhân vật lịch sử nơi mà các em đang sinh sống và học tập, từ đó giáo

dục cho các em truyền thống yêu quê hương, biết ơn và có những hành động thiết

thực khi đang ngồi trên ghế nhà trường.

Tích hợp kiến thức môi trường: Giúp các em có những kỹ năng sống tích cực,

biết bảo vệ môi trường có ý thức trách nhiệm trong việc bảo vệ tôn tạo cố đô Hoa

Lư nói riêng và các di tích lịch sử nói chung. GV: “Nêu thực trạng bảo tồn giữ gìn

những di tích văn hóa ở địa phương em đang sống?” HS: Thành lập các đội để giữ

gìn cảnh quan cho các di tích trên địa bàn mà các em sinh sống và học tập.

Tích hợp kĩ năng sống: GV nêu tình huống: “Trên địa bàn huyện nói riêng và

tỉnh Ninh Bình nói chung nếu em bắt gặp những hành động thiếu tôn trọng các di

sản văn hóa như vứt rác bừa bãi, bán hàng không đúng nơi quy định… thì em sẽ

77

làm gì?” HS: suy nghĩ và trả lời theo ý kiến chủ quan của mình. GV: có thể gọi một

vài học sinh nêu lên suy nghĩ và hành động của mình sau đó giáo viên định hướng

cho học sinh nhằm giúp học sinh có thái độ, hành động đúng đắn phản đối các hành

động xâm phạm tới các DSVH của Ninh Bình và Việt Nam cũng như trên thế giới.

Có thái độ kính trọng, biết ơn và có những hành động thiết thực đối với việc tôn tạo

bảo tồn các DSVH.

g. Kết thúc bài học linh hoạt, sáng tạo

Để giúp HS nắm vững nội dung bài học, GV có thể kết hợp với hoạt động

ngoại khóa: Tại khu di tích Cố đô Hoa Lư, sau khi tổ chức các hoạt động cho HS

tìm hiểu một số di sản chính, GV dành thời gian cho HS tự tìm hiểu theo sở thích,

có thể chia thành nhiều nhóm hoạt động theo những công việc khác nhau (Thời gian

là 30 phút)

Nhóm 1: HS quan sát hình rồng trên sập Long Sàng sau đó cho học sinh vẽ lại

hình rồng và kiến trúc đặc sắc của đền vua Đinh. Ghi chép, thống kê hiện vật, tư

liệu liên quan đến đền vua Đinh và vua Lê.

Nhóm 2: HS trao đổi, gặp gỡ các cán bộ khu di tích để tiếp tục tìm hiểu kiến

trúc đền vua Lê. Yêu cầu học sinh theo dõi, ghi chép lại để về viết bài thu hoạch.

Sau thời gian các nhóm tự tìm hiểu khám phá theo yêu cầu, GV tập trung HS

để củng cố, luyện tập, kiểm tra hoạt động nhận thức, đánh giá giờ học, ra bài tập về

nhà…

Như vậy, để thực hiện một bài học LSĐP tại DSVH Cố đô Hoa Lư, GV cần

tuân thủ quy trình thể hiện qua các biện pháp nêu trên, trong đó nội dung các hoạt

động của từng biện pháp có phát huy hiệu quả hay không lại hoàn toàn phụ thuộc

vào sự lựa chọn và sáng tạo của GV.

2.3.1.3. Vận dụng dạy học dự án để tổ chức tham quan học tập tại di sản văn hóa

Cố đô Hoa Lư

Tổ chức tham quan học tập là hình thức hoạt động nội khóa có thể nhằm giải

quyết hai mục tiêu, một là nhằm củng cố kiến thức đã học hoặc là chuẩn bị cho việc

học bài mới. Đối với tham quan học tập nhằm chuẩn bị cho việc học kiến thức mới

thì phương pháp dạy học theo dự án là một ưu điểm nhằm phát huy tính tích cực,

chủ động và năng lực sáng tạo cho HS. Hay nói cách khác, áp dụng dạy học dự án

78

để tổ chức bài học nội khóa tại DSVH nhằm tích cực hóa hoạt động của HS.

Đây là hình thức dạy học trong đó người học phải thực hiện một dự án, thực

chất là một tình huống, một nhiệm vụ học tập dựa trên năng lực có sẵn của mình và

các lý thuyết, thực hành sẵn có. “Học theo dự án là hoạt động học tập nhằm tạo cơ

hội cho HS tổng hợp kiến thức từ nhiều lĩnh vực học tập và áp dụng một cách sáng

tạo vào thực tế cuộc sống” [25; tr.125]. Trong dạy học dự án, HS chủ động tìm vấn

đề, xác định mục tiêu, lập kế hoạch, đưa ra cách giải quyết vấn đề, thực hiện, tự

đánh giá, điều chỉnh và tạo ra các sản phẩm để có thể báo cáo, thuyết trình. Quá

trình này đòi hỏi cá nhân nỗ lực cao kết hợp với hoạt động nhóm nhằm mang lại sản

phẩm mang tính hiệu quả nhất có thể của cả nhóm.

Các bước của bài học theo dự án là: Lập kế hoạch, xác định chủ đề, giao

nhiệm vụ (các tiểu chủ đề) cho các nhóm trước khi tiến hành buổi tham quan học

tập. HS cần nghiên cứu tài liệu về di sản trước khi bài học diễn ra. Các em cần làm

việc nhóm, hình thành các tiểu dự án theo sự phân công cụ thể. Các bước tiếp theo

các nhóm HS tiếp tục khai thác, tìm kiếm và xử lí thông tin tại di sản để thực hiện

nhiệm vụ của mình (có thể dưới sự tổ chức của GV). GV là người định hướng, hỗ

trợ, giúp HS giải đáp vướng mắc khi xảy ra các tình huống khó khăn. GV cũng là

người sơ duyệt trước nội dung sản phẩm của các nhóm trước khi báo cáo và tổ

chức, có thể điều hành buổi báo cáo dự án. Vận dụng dạy học dự án để tổ chức tham

quan học tập tại di sản yêu cầu HS phải tự trình bày sản phẩm của mình, phải có kĩ

năng phản biện, tranh luận để bảo vệ thành quả hoạt động nhóm cũng như chính

kiến của mình.

Hoạt động tham quan học tập tại di sản là dịp để HS có điều kiện trực tiếp

quan sát, tìm hiểu các tài liệu, hiện vật liên quan đến bài học, cụ thể hóa kiến thức

và tạo những biểu tượng chân thực, chính xác. Do đó, GV cần hướng dẫn HS tập

trung vào những tài liệu, hiện vật có liên quan đến nội dung đã học (hoặc sẽ học).

Như vậy, nếu sử dụng linh hoạt hình thức dạy học dự án tổ chức tham quan

học tập tại di sản văn hóa này có thể phát huy được ưu điểm của cả 2 hình thức dạy

học nội khóa ở trên lớp và dạy học tại di sản.

Ở đây chúng tôi vận dụng dạy học dự án để tổ chức tham quan học tập tại

DSVH Cố đô Hoa Lư thông qua 3 bước chính:

Bước 1: Chuẩn bị dự án (Xây dựng ý tưởng; lựa chọn chủ đề, tiểu chủ đề; Lập

79

kế hoạch các nhiệm vụ học tập), trong đó GV có thể sử dụng một tiết sinh hoạt lớp

hoặc thời gian cuối của tiết học trước để hướng dẫn HS lập kế hoạch cho việc tổ

chức bài học.

- Hoạt động của GV: cần nêu lên chủ đề dự án, định hướng mục tiêu hoạt

động, xây dựng bộ câu hỏi định hướng: “Xuất phát từ nội dung học, GV đưa ra một

chủ đề với những gợi ý hấp dẫn, kích thích người học tham gia thực hiện” [25;

tr.125]. Bước này tạo động cơ, sức thu hút đặc biệt đối với HS nếu GV đồng hành

và khơi gợi vấn đề cùng các em. Việc lựa chọn vấn đề cần bảo đảm tính khả thi,

tính thiết thực, gợi sự tò mò và hứng thú cho HS.

Ở đây chúng tôi thực hiện dự án với chủ đề “Tìm hiểu di tích Cố đô Hoa Lư –

Kinh đô 42 năm của nhà nước Đại Cồ Việt thời Đinh – Tiền Lê – Lý (968 – 1010)

và buổi đầu xây dựng nhà nước độc lập ở thế kỉ X” với nội dung chính là tìm hiểu

lịch sử hình thành và xây dựng nhà nước phong kiến Việt Nam trong buổi đầu độc

lập ở thế kỉ X thông qua hoạt động trải nghiệm một số DSVH địa phương ở tỉnh

Ninh Bình là:

+ Đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng tại xã Gia Phương, huyện Gia Viễn, tỉnh

Ninh Bình: Vị trí, lịch sử hình thành, kiến trúc và giá trị của di tích. Thân thế, cuộc

đời của Đinh Bộ Lĩnh khi còn trẻ.

+ Đền và lăng Vua Đinh Tiên Hoàng tại xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh

Ninh Bình: Vị trí, lịch sử hình thành, kiến trúc và giá trị của di tích. Bước đầu xây

dựng nhà nước độc lập ở thế kỉ X : Thời Ngô, Đinh (Thời Ngô - Nhà nước mở đầu

thời kì độc lập, tự chủ; Xây dựng và phát triển nhà nước phong kiến Đại Cồ Việt

(Đinh – Tiền Lê) ở thế kỉ X.

+ Đền thờ Vua Lê Đại Hành tại xã Trường Yên, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh

Bình: Vị trí, lịch sử hình thành, kiến trúc và giá trị của di tích. Bước đầu xây dựng

và củng cố nhà nước độc lập ở thế kỉ X : Thời Tiền Lê.

Từ đó, GV chọn thời điểm thích hợp (có thể tiết sinh hoạt lớp hoặc tiết học

trước đó) để định hướng vấn đề: “Với chủ đề Tìm hiểu di tích Cố đô Hoa Lư – Kinh

đô 42 năm của nhà nước Đại Cồ Việt thời Đinh – Tiền Lê – Lý (968 – 1010) và buổi

đầu xây dựng nhà nước độc lập ở thế kỉ X, các em mong muốn tìm hiểu những gì?”.

HS nêu ý tưởng, GV lắng nghe, khéo léo dẫn dắt để hình thành các tiểu dự án rồi

80

chia lớp thành 3 nhóm nhận đề tài tương ứng với các tiểu dự án:

+ Nhóm 1: Khảo sát thực địa tại đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng - xã Gia

Phương, huyện Gia Viễn, tìm hiểu và báo cáo về thân thế, cuộc đời của Đinh Bộ

Lĩnh khi còn trẻ.

+ Nhóm 2, 3: Khảo sát thực địa tại quần thể di tích Cố đô Hoa Lư - xã Trường

Yên, huyện Hoa Lư, tìm hiểu và báo cáo về nội dung bước đầu xây dựng nhà nước

độc lập ở thế kỉ X.

Sau đó, GV giao nhiệm vụ cho từng nhóm thông qua bộ câu hỏi định hướng

+ Nhóm 1: Giới thiệu di tích Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng - xã Gia Phương,

huyện Gia Viễn; Tìm hiểu Thân thế, cuộc đời của Đinh Bộ Lĩnh khi còn trẻ.

Sản phẩm của nhóm 1 phải thể hiện các nội dung:

Về giới thiệu di tích Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng - xã Gia Phương, huyện

Gia Viễn: Vị trí địa lý, lịch sử hình thành; Kiến trúc; Đặc điểm tín ngưỡng, sự khác

biệt về tín ngưỡng của di tích ở xã Gia Phương, huyện Gia Viễn với những đền thờ

vua Đinh ở những địa điểm khác trong toàn tỉnh; Lễ hội; Ý nghĩa và giá trị của di

tích trong lịch sử và đối với hiện tại; Liên hệ bản thân về ý thức, trách nhiệm trong

việc giữ gìn, phát huy giá trị của di sản.

Về tìm hiểu thân thế, cuộc đời của Đinh Bộ Lĩnh khi còn trẻ: Tiểu sử quê

hương, đất nước, gia đình dựa trên các nguồn tư liệu lịch sử; Khai thác một số

truyện kể dân gian tiêu biểu gắn liền với hoàn cảnh xuất thân của Đinh Bộ Lĩnh

(“Con Rái Thần”, “Mả táng Hàm Rồng”, “Sự tích sông Hoàng Long”...)

+ Nhóm 2: Giới thiệu về di tích cố đô Hoa Lư – kinh đô 42 năm của nhà nước

Đại Cồ Việt thời Đinh – Tiền Lê – Lý (968 – 1010): Vị trí địa lí, lịch sử hình thành

di tích; Giải thích được lí do vua Đinh Tiên Hoàng chọn đất Hoa Lư làm nơi đóng

đô, tại sao vua Lý Thái Tổ quyết định dời đô ra Thăng Long; Kiến trúc đặc biệt của

di tích (chủ yếu đền vua Đinh và đền vua Lê); Công lao tổng quát của vua Đinh

Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành; Giá trị của di tích; Liên hệ bản thân về ý thức,

trách nhiệm trong việc giữ gìn, phát huy giá trị của di sản.

+ Nhóm 3: Về buổi đầu xây dựng nhà nước độc lập ở thế kỉ X – thời Đinh -

Tiền Lê. Bài thuyết trình, tranh ảnh, bản trình chiếu Powerpoint phải thể hiện được

những nội dung sau: Khẳng định được vai trò Ngô Quyền và Đinh Bộ Lĩnh; Giải

81

thích được lí do nhà Đinh được coi là nhà nước phong kiến trung ương tập quyền

đầu tiên ở nước ta? Quá trình hình thành của nhà nước Đại Cồ Việt (Cơ sở hình

thành, sự hình thành, thời gian, địa điểm, kinh đô); Tổ chức bộ máy nhà nước (sơ đồ

và nhận xét, so sánh về tổ chức bộ máy nhà nước thời Ngô, Đinh – Tiền Lê).; Tình

hình quân sự, luật pháp, đối ngoại của thời Đinh – Tiền Lê; Đánh giá được vai trò,

vị trí lịch sử của nhà nước Đinh – Tiền Lê.

- Hoạt động của HS: Làm việc nhóm để lựa chọn tiểu chủ đề dự án. Các

nhóm HS phân công trưởng nhóm, thư ký và thảo luận, lập kế hoạch thực hiện

nhiệm vụ của tiểu dự án. Trong đó xác định rõ vấn đề nghiên cứu cụ thể là gì, công

việc cần làm, dự kiến thời gian, phân công nhiệm vụ cho từng thành viên, thảo luận

sử dụng phương tiện gì, sản phẩm cần đạt…

Sau khi đã thống nhất kế hoạch cụ thể, các nhóm cần cử đại diện trình bày

trước GV và cả lớp về kế hoạch của mình, tiếp tục đưa ra thảo luận, góp ý và hoàn

chỉnh trước lớp.

Sau cùng, GV cùng các nhóm HS xây dựng, thống nhất các tiêu chí cụ thể để

đánh giá dự án.

Stt

Vai trò

Nhiệm vụ

Họ và tên

Sản phẩm dự kiến

Thời hạn hoàn thành

1 tuần

1

Nguyễn Văn A

Nhóm trưởng

Biên bản phân công nhiệm vụ nhóm

- Điều khiển chung tất cả công việc của cả nhóm. - Phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong nhóm

B

1 tuần

2

Thư kí Ghi chép lại các ý kiến thảo luận, thông tin phản hồi để gửi lại cho nhóm trưởng, GV

Nhật kí hoạt động của nhóm

C

1 tuần

3

Đánh máy, trình bày thuyết trình trên Powerpoint...

Bản trình chiếu

về

Chuyên gia tin học

D

1 tuần

4

Phóng viên

Các phiếu trả lời phỏng vấn, Ảnh chụp, Video clip

Cùng các thành viên xây dựng câu hỏi và tiến hành phỏng vấn những người có liên quan (nhà nghiên cứu lịch sử, Ban quản lý khu di tích…)

5 …

82

Bảng 2.2. Phân công nhiệm vụ của từng thành viên trong nhóm dự án

Việc xây dựng các tiêu chí đánh giá dự án phải đảm bảo đánh giá toàn diện

sản phẩm của nhóm HS về nội dung (có chính xác, liên hệ, mở rộng với thực tiễn

hay không?), bố cục trình bày (logic, rõ ràng, phù hợp hay không?), hình thức trình

bày (tính thẩm mĩ, phù hợp với nội dung, có dễ hiểu hay không?), tổ chức tương tác

(có nhiều thành viên tham gia báo cáo, phân bố thời gian hợp lí, xử lí linh hoạt tình

huống, không lệ thuộc vào phương tiện…).

Bước 2: Thực hiện dự án (Thu thập thông tin; Thực hiện điều tra; Thảo luận

với các thành viên khác; Tham vấn GV hướng dẫn)

- Hoạt động của GV: Theo dõi, hướng dẫn, đánh giá HS trong quá trình thực

hiện dự án. GV cũng là người bước đầu thông qua sản phẩm cuối cùng của các

nhóm trước khi thực hiện báo cáo dự án ở trên lớp.

- Đối với hoạt động của HS:

+ Tiến hành tìm kiếm dữ liệu, thu thập thông tin theo sự phân công của dự án.

Các em có thể thu thập thông tin một cách trực tiếp như đến di tích, phỏng vấn nhân

chứng và những người có liên quan… Hoặc có thể thông qua cách gián tiếp từ sách,

báo, tài liệu, mạng Internet…

+ Xử lí thông tin: thông tin cả nhóm thu thập được phải được xử lí một cách

khéo léo, gọn gàng trên cơ sở quan điểm lịch sử cụ thể, khách quan, khoa học và

phải bám sát nội dung yêu cầu của tiểu chủ đề.

+ Cuối cùng, HS các nhóm xây dựng, hoàn thiện sản phẩm hoặc bản báo cáo.

Thường xuyên liên hệ, phản hồi thông tin với GV và các nhóm HS khác.

Đối với chủ đề dự án: “Tìm hiểu di tích Cố đô Hoa Lư – Kinh đô 42 năm của

nhà nước Đại Cồ Việt thời Đinh – Tiền Lê – Lý (968 – 1010) và buổi đầu xây dựng

nhà nước độc lập ở thế kỉ X”, sản phẩm của các nhóm HS sau khi tiến hành dự án

và chuẩn bị báo cáo là: Video, bài thuyết trình, tranh ảnh, lược đồ, bản trình chiếu

Powerpoint giới thiệu di sản Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng (Gia Phương – Gia

Viễn) và nội dung thân thế, cuộc đời của Đinh Bộ Lĩnh; Video giới thiệu di sản Cố

đô Hoa Lư; Bài thuyết trình, tranh ảnh, bài trình chiếu Powerpoint về: Buổi đầu xây

dựng nhà nước độc lập, tự chủ ở thế kỉ X.

Bước 3: Kết thúc dự án (Tổng hợp kết quả; Trình bày và đánh giá kết quả

được tiến hành vào tiết học LSĐP ở trên lớp; GV và HS đánh giá, rút kinh nghiệm

83

hoạt động tham quan học tập tại di sản).

- Hoạt động của GV:

Yêu cầu các nhóm thảo luận, thống nhất ý kiến về bản báo cáo sản phẩm.

Chuẩn bị cơ sở vật chất cho buổi báo cáo dự án (Máy tính, máy chiếu, bút

laze, loa, mic...; Bảng ghi điểm các nhóm, các phiếu học tập; Giấy Ao, giấy nhớ (3

màu), bút dạ, bút bi, giá treo sản phẩm)...

Cùng các nhóm theo dõi, đánh giá các sản phẩm dự án. Đồng thời đưa ra

những gợi ý, rút kinh nghiệm, định hướng cụ thể cho các nhóm dự án, nhằm nâng

cao hiệu quả trong những dự án tiếp theo.

- Hoạt động của HS: thảo luận nhóm, xác định thời gian hoàn thành sản phẩm.

Chuẩn bị và tiến hành giới thiệu sản phẩm dự án. Tự đánh giá sản phẩm của nhóm

mình và đánh giá sản phẩm của nhóm khác theo tiêu chí đánh giá đã thống nhất từ

trước. Kết quả nghiên cứu dự án cần được nhóm trình bày trước tập thể lớp, trước

GV và HS ở tiết học LSĐP.

Đối với kiểm tra, đánh giá sau tham quan học tập khi vận dụng dạy học dự án

thì thông thường tiêu chí đánh giá chính và cuối cùng là sản phẩm báo cáo của các

nhóm sau khi thực hiện dự án tham quan học tập tại di sản. Để đánh giá một cách

chính xác các sản phẩm này, yêu cầu cần xây dựng tiêu chí đánh giá cụ thể, công

khai ngay sau khi hình thành các nhiệm vụ của dự án (nên để HS tham gia xây dựng

các tiêu chí này).

Cuối cùng, cần lưu ý rằng hoạt động vận dụng dạy học dự án tổ chức tham

quan học tập tại DSVH Cố đô Hoa Lư cũng là một bài học nội khóa, nên cần phải

đảm bảo tổ chức linh hoạt các hoạt động học từ hoạt động khởi động đến hoạt động

hình thành kiến thức (báo cáo sản phẩm dự án) rồi hoạt động luyện tập - củng cố và

hoạt động vận dụng – mở rộng. Mục tiêu của hình thức dạy học này nhằm bồi

dưỡng nhận thức lịch sử ở HS thông qua việc các em được giao nhiệm vụ trực tiếp

tìm hiểu, khai thác nguồn tư liệu về DSVH Cố đô Hoa Lư để tạo ra sản phẩm báo

cáo ở trên lớp. Quá trình thực hiện và hoàn thành dự án đã góp phần phát triển các

kĩ năng tìm kiếm và xử lí thông tin, kĩ năng hợp tác làm việc nhóm, kĩ năng giao

tiếp và giúp hình thành các năng lực thiết yếu như năng lực tự học, năng lực vận

84

dụng giải quyết vấn đề trong thực tiễn, gắn lý thuyết sách vở với thực tế cuộc sống.

Bài học lịch sử vì thế mà trở nên sinh động, hấp dẫn hơn đối với mỗi HS và hơn cả

là giáo dục các em ý thức trách nhiệm và hành động tích cực nhằm bảo tồn và phát

huy các giá trị di sản ở địa phương.

2.3.2. Tăng cường sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư để tổ chức các hoạt

động ngoại khóa

Hoạt động ngoại khóa là một hình thức tổ chức dạy học giúp HS hiểu sâu sắc

những vấn đề lịch sử mà các em đã được học nên có tác dụng hỗ trợ cho hoạt động

nội khóa, nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục chung. Cụ thể là: “Công tác ngoại khóa

mở ra những khả năng rộng lớn để tái tạo quá khứ trong việc miêu tả và trong hoạt

động (kịch, trò chơi…)” [2; tr.303]. Ngoài ra, các hoạt động ngoại khóa môn lịch sử

còn “tạo cơ sở để gắn nhà trường với đời sống xã hội” [35; tr.196].

Khi lựa chọn, tổ chức hoạt động này cần tuân thủ các yêu cầu chủ yếu sau đây:

- Nội dung công tác ngoại khóa phải nhằm vào việc thực hiện mục tiêu giáo

dục của cấp học, thực hiện chức năng, nhiệm vụ của môn lịch sử. Cần phải chú ý

đến đặc trưng của việc học tập lịch sử: dựa trên cơ sở các sự kiện chính xác, cơ bản,

điển hình để tổ chức hoạt động ngoại khóa.

- Công tác ngoại khóa là một mặt, một bộ phận của việc học tập ở trường phổ

thông nên phải liên quan với chương trình nội khóa, phải xây dựng chương trình, kế

hoạch tiến hành ngoại khóa với các hình thức thích hợp. Vì vậy, tuy hoạt động chủ

yếu của công tác ngoại khóa được tiến hành ngoài giờ học trên lớp nhưng nội dung

và chủ đề hoạt động này phải sát với nội dung học chính khóa và được quy định

trong chương trình môn học.

- Tổ chức ngoại khóa phải đúng trọng tâm, tránh phô trương rơi vào hình thức.

Có thể phối hợp với các môn học khác như Ngữ văn, Địa lý, Giáo duc công dân

trong việc tổ chức các ngày lễ lớn trong năm của dân tộc và địa phương. Tính liên

môn trong hoạt động ngoại khóa làm cho kết quả học tập của HS được toàn diện,

sâu sắc.

- Sử dụng DSVH Cố đô Hoa Lư để tổ chức hoạt động ngoại khóa có thể tiến

hành với nhiều hình thức phong phú, đa dạng khác nhau như:

85

Hoạt động ngoại khóa được tổ chức thường xuyên ở một lớp, một tổ: đọc sách,

làm đồ dùng trực quan, sưu tầm tài liệu lịch sử địa phương về các di tích thuộc Cố

đô Hoa Lư.

Những hoạt động có quy mô lớn được tổ chức vào những ngày lễ lớn: tham

quan trải nghiệm di sản, cắm trại nhân dịp Lễ hội Trường Yên (10/3 Âm lịch hàng

năm), dạ hội lịch sử…

Những công tác công ích xã hội: nói chuyện lịch sử, tham gia lễ hội truyền

thống, chóc sóc bảo vệ di tích…

Hoạt động ngoại khóa thông qua hình thức tổ chức trò chơi lịch sử như “Thi

đố kiến thức về lịch sử”, “ô chữ”, “trò chơi mật mã”…

Việc thực hiện các hình thức tổ chức hoạt động ngoại khóa nói trên phụ thuộc

vào điều kiện (hoàn cảnh của địa phương, nhà trường, lớp học, khả năng của HS và

GV, yêu cầu chính trị xã hội của địa phương…). Trong phạm vi của luận văn,

chúng tôi đi sâu khai thác một số hình thức ngoại khóa cơ bản, phổ biến thích hợp

với điều kiện trường phổ thông ở tỉnh Ninh Bình.

2.3.2.1. Tổ chức tham quan ngoại khóa – trải nghiệm tại di sản văn hóa Cố đô Hoa

Lư với hình thức “Em tập làm hướng dẫn viên du lịch” theo quy trình:

Thứ nhất, lập kế hoạch cho hoạt động tham quan ngoại khoá, trải nghiệm di

sản như sau:

- Xác định mục đích và mục tiêu cho buổi tham quan.

- Chuẩn bị các điều kiện cho buổi tham quan, bao gồm:

+ GV đề xuất với nhà trường lập kế hoạch tham quan ngoại khóa, trải nghiệm

di sản ngay từ đầu năm học. Nội dung tham quan phải phù hợp với chương trình,

trình độ HS và điều kiện cụ thể ở địa phương.

+ GV liên hệ với ban quản lý di tích (Trung tâm bảo tồn di tích Cố đô Hoa

Lư), trao đổi với cán bộ phụ trách, nêu rõ mục đích, yêu cầu của buổi tham quan

ngoại khóa.

+ GV dự trù kinh phí cho buổi tham quan, có thể liên lạc, huy động kinh phí từ

phụ huynh HS.

+ Trước buổi tham quan một ngày, GV phổ biến cho HS mục đích, yêu cầu

86

của tham quan ngoại khóa, những việc các em cần phải làm khi tham quan.

GV giao nhiệm vụ cho HS, chia lớp thành 2 nhóm và phân công nhiệm vụ cho

các nhóm với yêu cầu HS đóng vai làm hướng dẫn viên du lịch để giới thiệu về một

hiện vật tiêu biểu tại Khu di tích Cố đô Hoa Lư.

Nhóm 1: Giới thiệu về Ngọ môn quan tại Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng.

Nhóm 2: Giới thiệu về Long sàng trước Bái đường Đền thờ vua Đinh Tiên

Hoàng.

Nhiệm vụ này tạo điều kiện phát huy được tính tích cực của từng cá nhân

thành viên và cả nhóm HS cùng tham gia để có thể hoàn thành. Các nhóm tìm hiểu

trước di tích để chuẩn bị bài thuyết trình tại di tích.

Thứ hai, tiến hành quá trình tham quan:

- GV cần dự kiến thời gian cho buổi tham quan tại di sản để phù hợp với sức

khỏe, trình độ và khả năng nhận thức của HS.

- Khi đến nơi, GV tập trung HS ở trước sân của khu di tích, ổn định tổ chức,

kiểm tra sĩ số, phổ biến lại mục đích, yêu cầu của buổi tham quan và nhắc nhở HS

chấp hành nghiêm chỉnh nội quy ở di tích. Đặc biệt, phổ biến một trong những yêu

cầu quan trọng đối với HS là cần ghi chép nội dung chính những số liệu, tài liệu mà

các em tiếp nhận được từ buổi tham quan (có thể là giấy bút, hoặc chụp ảnh, ghi âm,

quay phim).

Hình 2.1. Giáo viên tập trung học sinh trước cổng đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng

- Tiếp đó, GV hướng dẫn HS bao quát toàn bộ khu di tích Cố đô Hoa Lư và

giới thiệu khái quát cho HS quá trình hình thành của khu di tích.

- GV lần lượt dẫn HS tham quan tìm hiểu về kiểu kiến trúc ở thế kỉ XVII tại

87

hai ngôi đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành, đặc biệt là Khu trưng

bày các cổ vật gắn liền với chứng tích của các triều đại Đinh – Tiền Lê thế kỉ X. Tại

địa điểm hiện vật nào gắn với nhiệm vụ nhóm HS đã được phân công từ trước, GV

sẽ tổ chức cho đại diện HS báo cáo nội dung đã được tìm hiểu của nhóm mình.

Trước khi hướng dẫn HS tham quan tìm hiểu về kiến trúc bên trong Đền thờ

vua Đinh Tiên Hoàng, GV và các em sẽ đi qua Ngọ môn quan (Cổng vào đền) – đây

là nội dung nhiệm vụ của nhóm 1 đã được phân công chuẩn bị từ trước. GV sẽ mời

đại điện của nhóm 1 lên thuyết trình về hiện vật lịch sử này trước cả lớp.

Hình 2.2. Đại diện nhóm 1 đóng vai hướng dẫn viên du lịch giới thiệu Ngọ môn

quan (với 4 chữ “Bắc môn tỏa thược”) tại Cổng vào đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng

Tiếp đó, khi cả lớp cùng tham quan đến Bái đường trước Đền thờ vua Đinh

Tiên Hoàng, GV tổ chức cho HS tìm hiểu về hiện vật Long sàng – một bảo vật quốc

gia quan trọng của khu di tích thông qua phần thuyết trình của đại diện nhóm 2.

Hình 2.3. Đại diện nhóm 2 đóng vai hướng dẫn viên du lịch giới thiệu Long sàng

88

trước Bái đường cho cả lớp và khách du lịch nước ngoài tại Cố đô Hoa Lư

Sau mỗi phần trình bày của mỗi nhóm, GV tổ chức cho HS cùng quan sát tìm

hiểu và thảo luận, bổ sung để hoàn thiện nội dung nhận thức.

- Trong suốt thời gian tham quan, GV đôn đốc, nhắc nhở HS, các nhóm HS ghi

chép những tư liệu cần thiết để viết và hoàn thiện bài thu hoạch. Sau phần tham quan

chung dưới sự hướng dẫn của GV, HS có một thời gian nhất định để tự do tham quan

cá nhân và theo nhóm để tìm hiểu kĩ hơn những nơi mà các em quan tâm.

Bước 3: Sau buổi tham quan, GV tập trung HS, tổ chức cho các em trao đổi,

đánh giá về nhiệm vụ của nhóm đã được giao, thống nhất ý kiến, nội dung thu

hoạch. Cuối cùng, GV nhận xét buổi tham quan ngoại khóa tại di tích và dặn dò các

em hoàn thành bài tập đã được giao để chấm lấy điểm đánh giá thường xuyên.

Việc tham quan này giúp HS hiểu rõ hơn vị trí, vai trò của hai triều đại Đinh,

Tiền Lê với việc bước đầu xây dựng và củng cố nền độc lập của đất nước ở thế kỉ

X. Qua đó, giáo dục HS lòng tự hào về những DSVH mà cha ông đã để lại, hình

thành ý thức trách nhiệm của bản thân đối với những giá trị văn hóa truyền thống

của quê hương, của dân tộc.

2.3.2.2. Sử dụng các nguồn tư liệu của di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư để tổ chức dạ

hội lịch sử

“Dạ hội lịch sử là một hoạt động ngoại khóa có tính chất tổng hợp, thu hút tất

cả các HS trong lớp, trường tham dự” [35; tr.209]. Sử dụng DSVH ở địa phương để

tổ chức dạ hội lịch sử giúp HS tiếp tục củng cố và hình thành, mở rộng kiến thức,

bởi vì hoạt động này không chỉ giúp HS tái hiện, hiểu sâu sắc các sự kiện lịch sử

tiêu biểu diễn ra ngay trên địa phương mình mà dạ hội lịch sử là sự tổng hòa của

nhiều yếu tố các nội dung lịch sử, văn hóa, ca nhạc, vũ đạo, trang trí nghệ

thuật…cho nên có tác dụng làm phong phú kiến thức ở nhiều lĩnh vực cho các em.

Đây còn là dịp các năng khiếu, sở trường diễn xuất, nghệ thuật của các em được bộc

lộ. Mặt khác, hoạt động này giúp bồi dưỡng HS tình cảm đối với quê hương, trân

trọng những thành tựu đạt được trên nhiều phương diện. Do vậy, HS không chỉ

được nâng cao kiến thức khoa học mà còn biết thưởng thức nghệ thuật, bồi dưỡng

óc thẩm mĩ, gây hứng thú học tập với bộ môn. Qua đó, HS hiểu được các giá trị vô

89

giá của di sản. Từ đó, hình thành cho các em ý thức giữ gìn DSVH ở địa phương.

Chủ đề về LSĐP là một nội dung hấp dẫn trong dạ hội lịch sử. Với DSVH Cố

đô Hoa Lư, có thể xây dựng chủ đề dạ hội về sự kiện, nhân vật lịch sử để tổ chức kỉ

niệm trong năm như nhân dịp Lễ hội Cố đô (10/3 Âm lịch), hướng đến 1050 năm

nhà nước Đại Cồ Việt hay nhân dịp Khai mạc năm du lịch quốc gia tại Cố đô Hoa

Lư (năm 2021)…

Muốn tiến hành dạ hội lịch sử có hiệu quả, phải thực hiện những yêu cầu:

- Dạ hội phải có mục đích bồi dưỡng kiến thức, kĩ năng, thái độ và phát triển

năng lực HS nghĩa là phải phù hợp với chương trình, trình độ và yêu cầu học tập

của các em. Ngoài ra, các em phải được bồi dưỡng về phẩm chất, biết ơn, tự hào về

những giá trị di sản mà cha ông đã dày công xây dựng và củng cố thái độ học tập,

hành động đúng đắn.

- Dạ hội phải thu hút đông đảo học sinh tham gia, phải phát huy năng lực độc

lập, tính tích cực chủ động hoạt động và tinh thần tập thể của các em.

- Thứ ba, cần có kế hoạch chuẩn bị công phu. Ngay từ đầu năm học, giáo viên

xây dựng kế hoạch, tranh thủ ý kiến, sự ủng hộ hợp tác của giáo viên các bộ môn,

của hội đồng nhà trường và đoàn thanh niên.

- Linh hoạt và đa dạng hoá hình thức tổ chức, sao cho gọn nhẹ, ít công sức và

kinh phí mà hiệu quả lại cao (đối với nhà trường và ảnh hưởng với địa phương).

- Tái tạo bức tranh lịch sử, có tác dụng giáo dục là những yêu cầu quan trọng

của một dạ hội lịch sử. Vì vậy, ngoài các tiết mục văn nghệ, cần thiết tổ chức triển

lãm, trang trí nhằm gây hứng thú cho người dự, làm sao cho họ cảm thấy như mình

đang sống, hay tham gia, chứng kiến sự kiện đã xảy ra. Triển lãm gồm tranh ảnh, áp

phích, minh họa, sách, báo, các hiện vật hay mô hình phục chế... có liên quan đến

chủ đề dạ hội.

Để tiến hành tốt buổi dạ hội lịch sử, GV cần tuân thủ các bước sau đây:

- Xây dựng kế hoạch dạ hội trên cơ sở chủ đề đã chọn. Trong kế hoạch phải

ghi rõ thời gian, địa điểm tiến hành, nội dung dạ hội, thành phần tham gia, khách

mời, những hình ảnh, hiện vật cần triển lãm ...

- Nội dung chủ yếu của dạ hội lịch sử là hoạt động văn nghệ, trò chơi và múa

hát tập thể. Song việc tổ chức của GV cần linh hoạt, đa dạng tuỳ vào chủ đề, điều

90

kiện và hoàn cảnh cụ thể.

- Dựa vào nội dung chương trình, giáo viên phân công học sinh chuẩn bị và

tạo điều kiện cho các em học tập.

- Để hoạt động dạ hội lịch sử diễn ra đúng kế hoạch, cần coi trọng công tác

chuẩn bị cơ sở vật chất (loa đài, sân khấu…), lên kế hoạch thành lập Ban tổ chức,

khách mời, dẫn chương trình cuộc thi. Phối hợp với nhà trường, đoàn trường tập

trung và quản lí đảm bảo thu hút đông đảo HS tham gia.

Để hướng ứng Năm Du lịch Quốc gia 2020 với chủ đề “Hoa Lư – Cố đô ngàn

năm” (Theo Quyết định số 3238/QD-BVHTTDL ngày 20/9/2019 của Bộ Văn hóa,

Thể thao và Du lịch về việc ban hành chương trình tổ chức năm du lịch quốc gia

2020 - Hoa Lư, Ninh Bình), GV tham mưu với nhà trường tổ chức dạ hội lịch sử

“Hoa Lư – Cố đô ngàn năm” (Phụ lục 2.1)

Hoạt động ngoại khóa với hình thức dạ hội lịch sử có ưu thế rất lớn trong việc

mở rộng nhận thức, hiểu biết cho HS. Thực tế cho thấy HS rất hứng thú khi tham

gia hoạt động ngoại khóa này bởi các em vừa được học, vừa được giao lưu trên diễn

đàn kiến thức, vừa được bộc lộ và phát triển các năng lực của bản thân. Không

những thế, hình thức ngoại khóa này còn thể hiện sự chung tay, đoàn kết của cả nhà

trường, đoàn trường và các tổ chức xã hội cùng với GV lịch sử trong việc giáo dục

cho HS hiểu biết về LSĐP cũng như lịch sử dân tộc.

2.3.2.3. Tổ chức học sinh sưu tầm và khai thác tư liệu về di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư

Trong điều kiện nguồn tài liệu học tập cho HS về LSĐP, đặc biệt là tư liệu về

DSVH Cố đô Hoa Lư còn hạn chế, việc tổ chức HS sưu tầm và khai thác tư liệu về

DSVH góp phần khắc phục khó khăn nói trên. Tổ chức HS sưu tầm và khai thác tư

liệu về DSVH Cố đô Hoa Lư là một hoạt động ngoại khóa trong đó phát huy cao độ

tính tự giác, khả năng khai thác nguồn thông tin tư liệu của HS trong điều kiện hoàn

cảnh bản thân, gia đình và địa phương mà các em có được.

- Ngay từ đầu năm học, GV xây dựng kế hoạch phát động HS về nhà sưu tầm

nguồn sử liệu về DSVH (tư liệu viết, hiện vật, tranh ảnh, video…) ở gần địa bàn các

em sinh sống.

- Có thể tổ chức HS sưu tầm tư liệu theo cá nhân, theo tổ hoặc nhóm sao cho

đảm bảo tính tích cực và hiệu quả của mỗi cá nhân HS.

- Trong quá trình HS thực hiện nhiệm vụ học tập này ở nhà, GV thường xuyên

91

đôn đốc, nhắc nhở và hướng dẫn các em cho đến khi hoàn thành nhiệm vụ.

- Sản phẩm HS thu thập được nên được nhận xét, đánh giá và chấm điểm để

khuyến khích tinh thần tìm tòi, học hỏi nghiên cứu khoa học ở HS.

- Nguồn tư liệu về DSVH mà HS thu thập được GV nên tập hợp lại, bổ sung

vào hồ sơ dạy học để phục vụ cho việc dạy học LSĐP qua các năm học tiếp theo.

Hoạt động ngoại khóa này ngoài việc bổ sung một nguồn tư liệu quý báu về di

sản thường có rất ít trong việc dạy học LSĐP còn có ý nghĩa rất lớn nhằm phát huy

tính tích cực, sáng tạo của HS trong học tập, nâng cao nhận thức và hứng thú học

tập, bồi dưỡng năng lực tự học của các em.

2.3.2.4. Tổ chức học sinh tham gia lễ hội truyền thống tại di tích lịch sử

Quần thể di tích cố đô Hoa Lư có nhiều lễ hội được tổ chức hằng năm tại các

địa điểm khác nhau như: Lễ hội đền thờ Đinh Bộ Lĩnh ở quê hương xã Gia Phương;

Lễ hội chùa Nhất Trụ; Lễ hội chùa Kim Ngân; Lễ hội chùa Duyên Ninh; Lễ

hội động Thiên Tôn suy tôn thần Thiên Tôn trấn Đông Hoa Lư tứ trấn… Trong các

Lễ hội thuộc Quần thể di tích cố đô Hoa Lư thì Lễ hội Hoa Lư là lễ hội tiêu biểu

nhất, đã được xếp hạng là di sản văn hóa cấp quốc gia và đang được đề nghị nâng

tầm tổ chức lễ hội theo nghi thức cấp nhà nước. Lễ hội truyền thống Cố đô Hoa Lư

(xưa thường gọi là hội Trường Yên, hay hội Cờ Lau) diễn ra từ ngày mùng 9 đến 11

tháng 3 Âm lịch hằng năm. “Sử sách cho biết: Trong nhiều triều đại phong kiến, lễ

hội Trường Yên là một quốc lễ, vì đây là nơi, là dịp tưởng niệm các vị hoàng đế,

anh hùng dân tộc: Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành” [74].

Lễ hội là một hình thức mô tả các sự tích, truyền thụ nội dung lịch sử qua sân

khấu, trò diễn nên có tác dụng cung cấp cho HS những hình ảnh lịch sử sống động

nhất. Qua đó, góp phần phát triển nhận thức lịch sử của HS, nâng cao hiểu biết về

DSVH phi vật thể của Cố đô Hoa Lư, phát triển các năng lực tự chủ và tự học, giao tiếp

và sáng tạo cho các em. Tổ chức cho HS đến với lễ hội truyền thống Cố đô Hoa Lư còn

bồi dưỡng cho các em lòng tôn kính, biết ơn những người có công với nước, gây niềm

tự hào về truyền thống dân tộc, quê hương. Từ đó hình thành ý thức tự hào về truyền

thống của cha ông và định hướng hành động, ý thức bảo tồn và phát huy những giá trị

tốt đẹp của DSVH Cố đô Hoa Lư còn được lưu giữ cho đến ngày nay.

Để tổ chức hiệu quả hoạt động tham gia lễ hội truyền thống tại di tích lịch sử

92

Cố đô Hoa Lư, GV cần bảo đảm một số yêu cầu cơ bản như sau:

- Trong số những lễ hội truyền thống hằng năm, GV nên chọn một lễ hội có

nội dung lịch sử, liên quan tới những sự kiện lớn của chương trình lịch sử, điển hình

như Lễ hội Hoa Lư (Lễ hội Trường Yên).

- Do lượng khách tham quan lễ hội rất lớn nên ngay từ đầu GV cần quán triệt

HS về thời gian, khu vực tham quan, cách thức quản lý và liên lạc để đảm bảo an

toàn cho các em.

- Trong lễ hội bao giờ cũng có hai phần: phần Lễ và phần Hội

+ Đối với phần Lễ: được diễn ra với các nghi lễ truyền thống như Lễ mở cửa

đền, lễ rước nước, lễ dâng hương, lễ rước kiệu, Tế Cửu khúc, tế lễ của các đoàn

nam quan, nữ quan, đồng quan, lễ cầu quốc thái dân an, lễ hội hoa đăng và lễ tạ.

Phần lễ được tổ chức tôn nghiêm nhằm tôn vinh công đức của các bậc Đế vương và

các bậc tiền nhân đã có công dựng nước và giữ nước; đồng thời thể hiện ước

nguyện của nhân dân cầu mong Quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, mùa màng

bội thu. Bởi vậy, GV cần quán triệt HS phải có thái độ nghiêm túc, tư thế trang

nghiêm khi vào dâng hương và tham gia lễ hội.

+ Đối với phần Hội: phần Hội được tổ chức với nhiều hoạt động văn hóa, thể

thao, trò chơi dân gian truyền thống và hiện đại như trình diễn màn Trống hội Hoa

Lư, biểu diễn múa lân, múa rồng; giao lưu văn nghệ quần chúng, biểu diễn hát chèo;

các trò chơi dân gian như cờ người, chọi gà, tổ tôm điếm, bắn cung, bắn nỏ; các

hoạt động thi, trưng bày mâm ngũ quả tiến Vua, triểm lãm ảnh nghệ thuật “Non

nước Ninh Bình”; cùng với đó là các hoạt động thể thao giao lưu thi đấu bóng

chuyền, thi đấu vật dân tộc. Các hoạt động diễn ra nhằm phục hồi một số loại hình

văn hóa, văn nghệ dân gian, tạo không khí vui tươi, lành mạnh trong không gian của

Lễ hội. Do có rất nhiều hình thức hội khác nhau, GV nên hướng HS tham gia những

cuộc thi mang tính chất truyền thống, lịch sử như hội cờ người, hội đấu vật, chọi

gà..., tránh xa những trò chơi mang tính mê tín dị đoan, cờ bạc đang đan xen trong

các lễ hội hiện nay.

Như vậy, với những hình thức tổ chức hoạt động ngoại khóa như trên, nếu

được thực hiện đúng yêu cầu và tuân thủ các bước đi cần thiết sẽ đem lại hiệu quả

to lớn đối với việc phát triển nhận thức lịch sử của HS, góp phần giáo dục tình cảm

93

và thái độ trân trọng đối với DSVH ở địa phương.

2.3.3. Sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư trong kiểm tra, đánh giá kết quả học

tập lịch sử địa phương của học sinh

- Hoạt động kiểm tra, đánh giá có vị trí, ý nghĩa quan trọng:

Kiểm tra, đánh giá trong dạy học lịch sử “là quá trình thu thập và xử lí những

thông tin về tình hình lĩnh hội kiến thức, bồi dưỡng tư tưởng đạo đức, hình thành kĩ

năng, kĩ xảo của HS… so với mục tiêu học tập” [17; tr.104]. Đây là một khâu quan

trọng của quá trình dạy học, là biện pháp quan trọng góp phần nâng cao chất lượng

dạy học và có ý nghĩa to lớn:

+ Đối với GV: Giúp GV có cơ sở để đánh giá kết quả học tập của HS, phát

hiện những thiếu sót về nhận thức để kịp thời bổ sung. Đồng thời, GV tự đánh giá

được kết quả giảng dạy của bản thân và có biện pháp thích hợp nhằm nâng cao chất

lượng bài học.

+ Đối với HS: Kiểm tra góp phần củng cố những kiến thức đã học, giúp HS tự

khẳng định được mình. Từ đó, hình thành ở các em lòng tin, quyết tâm đạt kết quả

cao, ý thức giúp đỡ nhau trong học tập. Ngoài ra, còn có tác dụng phát triển toàn

diện HS như các năng lực nhận thức và tư duy lịch sử, vận dụng kiến thức vào thực

tiễn…

- Về các loại kiểm tra, đánh giá: Trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông, có

thể tiến hành hai loại là kiểm tra cơ bản (bao gồm kiểm tra bài cũ, kiểm tra 15 phút,

1 tiết, học kì) và kiểm tra ngoài giờ học (bao gồm kiểm tra việc tự học ở nhà và

kiểm tra trong các hoạt động ngoại khóa ở trong và ngoài nhà trường).

- Các hình thức và phương pháp kiểm tra, đánh giá trong dạy học lịch sử:

+ Hình thức kiểm tra, đánh giá: chủ yếu có 2 loại là kiểm tra miệng và kiểm

tra viết (15 phút, 1 tiết).

+ Phương pháp kiểm tra, đánh giá: có thể tiến hành bằng câu hỏi tự luận, bằng

trắc nghiệm khách quan và qua hoạt động thực hành.

- Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS khi GV sử dụng di sản văn hóa

trong dạy học bên cạnh những đặc trưng riêng về mục tiêu, thời lượng vẫn phải đảm

bảo các yêu cầu chung của việc kiểm tra, đánh giá. Đó là:

+ Bám sát tài liệu hướng dẫn thực hiện theo chuẩn kiến thức, kĩ năng của Bộ

Giáo dục và Đào tạo đã ban hành đối với từng môn học, lớp học và mục tiêu giáo

94

dục DSVH đã được xác định ở từng bài học.

+ Phối hợp giữa đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì, giữa đánh giá của

GV và tự đánh giá của HS; giữa đánh giá của nhà trường và đánh giá của cộng đồng.

+ Kết hợp các phương pháp đánh giá khác nhau (tự luận, trắc nghiệm khách

quan, quan sát, sản phẩm ... ).

+ Có công cụ đánh giá thích hợp nhằm đánh giá toàn diện, công bằng, có khả

năng phân loại HS, giúp GV và HS điều chỉnh được việc dạy và học. Các câu hỏi

kiểm tra phải đánh giá được mức độ hiểu biết lịch sử của HS (nhận biết, thông hiểu,

vận dụng và vận dụng cao) và các năng lực hình thành cần thiết (Tái tạo sự kiện;

thực hành với đồ dùng trực quan; đánh giá sự kiện; xác định mối liên hệ giữa các sự

vật, hiện tượng…).

Để sử dụng DSVH trong hoạt động kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS,

GV có thể thực hiện một số biện pháp:

2.3.3.1. Đưa kiến thức về di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư vào kiểm tra, đánh giá

thường xuyên và đánh giá định kì trong dạy học lịch sử địa phương nói riêng, lịch

sử dân tộc nói chung

- Một trong những ưu thế của dạy học LSĐP khi sử dụng DSVH là HS được

hoạt động chủ động tích cực, được trải nghiệm. Bởi vậy, trong đánh giá kết quả học

tập của HS cần lưu ý đánh giá kết quả giáo dục về sự hiểu biết đối với di sản theo

mục tiêu đã xác định và đánh giá các kĩ năng học tập của HS với di sản. Để đạt

được mục tiêu này, việc đưa hình thức kiểm tra, đánh giá quá trình thông qua

DSVH Cố đô Hoa Lư là một cách làm hiệu quả. Kiểm tra, đánh giá quá trình là loại

đánh giá thường xuyên bao gồm kiểm tra miệng, kiểm tra 15 phút, quan sát hoạt

động học tập của HS thông qua các bài học kiến thức mới, bài ôn tập, sơ kết, tổng

kết, qua tự học ở nhà. Mục đích của kiểm tra, đánh giá quá trình là sử dụng kiểm

tra, đánh giá như một phương pháp dạy học tích cực. Qua đó, GV biết rõ hơn về

những gì HS đang học và là cơ sở để điều chỉnh việc dạy học của mình.

+ Trong các câu hỏi ở bài kiểm tra thường xuyên của môn học (kiểm tra miệng

và kiểm tra 15 phút), GV nên dành nội dung để thiết kế một câu hỏi liên quan đến

DSVH mà HS đã được học theo chương trình môn học. Ví dụ mô tả lại hiện tượng,

95

sự vật; nêu ý nghĩa của chúng ; nhận xét, bình luận về chúng. GV cũng có thể hỏi về

cách thức thu thập, xử lý thông tin của HS khi tìm hiểu về di sản hoặc những hiểu

biết về di sản liên quan đến nội dung bài học.

+ Khi tổ chức cho HS tìm hiểu di sản, GV nên sử dụng phương pháp đánh giá

bằng quan sát trực tiếp của mình đối với các hoạt động của các em trong suốt quá

trình HS học tập với di sản. Như vậy đối tượng quan sát của GV sẽ là HS, là quá

trình học tập, làm việc của các em với di sản, sự tương tác giữa HS với HS, HS với

GV, nhóm HS. GV quan sát các kĩ năng nhận thức, kĩ năng thực hành, các thao tác,

hành vi, thái độ, hứng thú học tập với di sản của HS.

Thông thường có các loại quan sát sau: Quan sát công khai hoặc không công

khai; Quan sát trực tiếp (quan sát và ghi chép hành vi của con người ngay tại hiện

trường HS làm việc với di sản và trong thời gian diễn ra hoạt động đó) và Quan sát

gián tiếp (không quan sát trực tiếp hành vi mà đi thu thập các dấu vết của hành vi

còn sót lại).

Phương pháp đánh giá thông qua hình thức quan sát bao gồm quan sát thái độ,

hành vi, mức độ hoàn thành việc được giao. Trong đánh giá bằng quan sát, GV sẽ

nhận biết được cá nhân HS tham gia ở mức độ nào?, thái độ học tập có tích cực hay

không?, có biết làm nhiệm vụ đã được phân công hay không? Để chỉnh sửa, uốn

nắn HS ngay trong khi hoạt động nhóm đang diễn ra và nhận xét ngay sau khi hoạt

động nhóm kết thúc.

+ Kết hợp đánh giá quan sát với các hoạt động động trong tiết học như trả lời

câu hỏi (kiểm tra miệng ở đầu giờ, giữa giờ và cuối giờ), hoàn thành bài tập, tham

gia hoạt động nhóm…

- Trong đánh giá định kì kết quả học tập môn học (kiểm tra 1 tiết giữa kì, cuối

kì), thang điểm 10/10 được sử dụng để đánh giá theo quy định, có thể dành một

phần điểm đó cho việc đánh giá kiến thức về di sản của HS. Có thể dành từ 1 đến 2

điểm cho những câu hỏi về kiến thức liên quan đến di sản hoặc về kĩ năng liên quan

đến việc tìm hiểu đi sản.

2.3.3.2. Sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư để xây dựng công cụ đánh giá quá

trình trong dạy học lịch sử địa phương

Để đảm bảo nguyên tắc công bằng, khách quan trong kiểm tra, đánh giá thì

96

GV cần phải xây dựng công cụ, phương tiện đánh giá chuẩn xác.

- Trong đánh giá quá trình, để quan sát và đánh giá được mức độ đạt kết quả

làm việc với di sản của HS, GV ngoài việc xác định mục tiêu đánh giá, địa điểm,

thời gian và đối tượng quan sát, thì cần xây dựng phiếu kiểm hoặc bảng tiêu chí

quan sát, thang xếp hạng rồi căn cứ vào phiếu kiểm hoặc bảng các tiêu chí để ghi

kết quả quan sát.

+ Phiếu kiểm là một bảng liệt kê những tiêu chí cần đạt theo mục tiêu của bài

học với di sản (mục tiêu theo chuẩn kiến thức kĩ năng và theo kết quả HS làm việc

với di sản) kèm với yêu cầu xác định là có hoặc không và được dùng như một bản

hướng dẫn theo dõi, xem xét và ghi nhận các quan sát. Trong quá trình HS làm việc

với di sản, GV quan sát và đánh dấu vào những nội dung, công việc nào được hoàn

thiện. Sau khi quan sát và đánh dấu thích hợp, phiếu kiểm trở thành chứng cứ của

việc HS đạt hay chưa đạt mục tiêu bài học có liên quan tới kiến thức về di sản.

Bảng 2.3. Mẫu phiếu kiểm (dành cho mỗi học sinh)

Họ và tên HS:

STT Nội dung kiến thức/kĩ năng cần đánh giá Nhận xét

(hoặc hành động/hành vi của HS) Đạt Chưa đạt

1

2

Kết quả đạt được:

+ Thang xếp hạng là một bảng liệt kê những tiêu chí cần đạt theo mục tiêu bài

học có kiến thức về di sản (thường gồm kiến thức kĩ năng) kèm với yêu cầu HS

được xếp hạng theo các mức độ. Thang xếp hạng cung cấp cho GV một cách thức

ghi chép, báo cáo nhận định những điều quan sát thấy một cách tiện lợi và có chức

năng như một thang điểm. Tuy nhiên, công cụ dùng cho quan sát này không sử

dụng điểm số mà sử dụng từ ngữ như “Xuất sắc”, “Tốt”, “Khá”, “Trung bình”…

hoặc “hiếm khi”, “thường xuyên”, “nhiều”, “ít” để xác lập những mức độ có tính

chất định tính. Thang xếp hạng giải thích cho GV và HS các mức độ tiến bộ khác

97

nhau và chất lượng đạt được nội dung học tập.

Bảng 2.4. Mẫu thang xếp hạng học sinh

PHIẾU QUAN SÁT HỌC SINH

Họ và tên: Nội dung đánh giá Hoàn thành tốt Hoàn thành

1 2 …

Chưa hoàn thành Kết quả đạt được:

- Kết quả học tập khi sử dụng di sản còn được thể hiện qua các sản phẩm HS

tạo được trong quá trình thu thập và xử lí thông tin về di sản. Đó có thể là: Báo cáo

của cá nhân, của nhóm theo nhiệm vụ GV giao cho HS trước khi tiến hành bài học;

Một tập hợp các mẫu vật, bài viết giới thiệu theo để cương đã dược duyệt thể hiện

các mục tiêu đạt được của bài học/hoạt động giáo dục; Một cuộc triển lãm kết quả

các em thu dược từ bài học tại địa điểm có di sản được bố trí theo nội dung của bài

học một cách hệ thống.

Đối với các sản phẩm này cần phải xác định mục tiêu đánh giá và xây dựng

tiêu chí đánh giá cụ thể. Nên sử dụng thang đánh giá để làm rõ mức độ đạt được

mục tiêu của các sản phẩm để có thể đánh giá một cách khách quan sản phẩm các cá

nhân/ nhóm HS đạt được và phân loại mức độ đạt được của HS. Với mục đích này,

phiếu kiểm thường chứa các yêu tố quá trình hoàn thành một sản phẩm. Trước khi

sử dụng bảng kiểm đánh giá sản phẩm, nên quyết định xem chất lượng của sản

phẩm đó có thể được mô tả chính xác như thế nào bằng cách liệt kê mọi yếu tố.

- Đối với bài học tiến hành theo dự án, cần đánh giá HS một cách toàn diện

theo quá trình dự án từ việc phân công nhiệm vụ phải đảm bảo chi tiết, rõ ràng và có

tính khả thi; đến ý thức và tiến độ thực hiện dự án và cuối cùng là sản phẩm báo cáo

sau khi hoàn thành dự án.

Đối với sản phẩm báo cáo dự án, cần xây dựng và thống nhất với HS các tiêu

chí đảm bảo một sản phẩm hoàn thiện (gồm nội dung, hình thức thể hiện bằng điểm

số). Tiêu chí đánh giá này phải được xây dựng sau khi phân công nhiệm vụ là các

tiểu chủ đề dự án cho các nhóm.

Dưới đây là mẫu đánh giá sản phẩm báo cáo dự án dành cho đánh giá nhóm và

98

cá nhân HS:

Bảng 2.5. Thang đo đánh giá bài báo cáo dành cho nhóm

Tên nhóm báo cáo: ...............................................Số thành viên: .....................

Nội dung trình bày: .................................................................................................

Tiêu chí Yêu cầu Điểm

Nội dung chính xác, khoa học 1 ..… /1

Đảm bảo logic, thống nhất giữa các ý 2 ..… /1

Nội dung Liên hệ, vận dụng với thực tiễn 3 ..… /1

Có liên kết với kiến thức lịch sử Việt Nam đã học ..… /1 4

Sử dụng kiến thức liên môn 5 ..… /1

Trình bày rõ ràng, dễ hiểu 6 ..… /1

Ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin 7 ..… /1 Hình thức Trình bày tự tin, không bị lệ thuộc vào phương tiện. ..… /1 8 trình bày Phản biện, trả lời thêm câu hỏi của các nhóm 9 ..… /1

10 Phân bố thời gian báo cáo hợp lí ..… /1

..… Tổng điểm

/10

Một thực tế diễn ra là có khi sản phẩm báo cáo của nhóm rất hoàn hảo

nhưng có 1- 2 em trong nhóm lười và hay ỷ lại vào bạn khác. Tình huống này

khiến GV càng phải tuân thủ việc đánh giá toàn diện HS, dựa trên nhiều minh

chứng như: Bảng phân công nhiệm vụ của thành viên nhóm; Đánh giá dựa trên

quan sát của GV, sự phản hồi của HS trên cơ sở đánh giá lẫn nhau và tự giác

đánh giá của mỗi HS.

Bảng 2.6. Thang đo đánh giá làm việc nhóm của học sinh

Tiêu chí đánh giá Điểm Ghi chú Họ và tên HS

Tham gia đầy đủ các buổi họp nhóm

Tham gia đóng góp ý kiến

99

Đầy đủ Thường xuyên Một vài buổi Không buổi nào Tích cực Thường xuyên Thỉnh thoảng Không bao giờ 2 1,5 1 0 2 1,5 1 0

Hoàn thành công việc nhóm giao đúng thời hạn

Hoàn thành công việc nhóm giao có chất lượng

Có ý tưởng mới, hay, sáng tạo đóng góp cho nhóm Luôn luôn Thường xuyên Thỉnh thoảng Không bao giờ Luôn luôn Thường xuyên Thỉnh thoảng Không bao giờ Luôn luôn Thường xuyên Thỉnh thoảng Không bao giờ 2 1,5 1 0 2 1,5 1 0 2 1,5 1 0

Tổng điểm 2.3.3.3. Tăng cường hoạt động tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau của học sinh

- Trong quá trình dạy học LSĐP, cần đa dạng và linh hoạt các hình thức đánh

giá: không chỉ là GV và HS đánh giá HS, nhóm HS đánh giá lẫn nhau mà GV có thể

hướng dẫn HS tự đánh giá kết quả học tập của mình thông qua các câu hỏi để HS tự

trả lời:

+ “Em đã làm gì khi tiến hành bài học tại địa điểm có di sản?”

+ “Em thích nhất phần nào trong bài trình bày về di sản của nhóm mình?”

Từ đó HS hiểu được đâu là điểm mạnh, điểm hạn chế của mình và thông qua

câu trả lời của HS, GV cũng có thể đáp ứng dược nhu cầu học tập của các em.

GV có thể kết nối với các tiêu chí cần đánh giá yêu cầu HS tự xác nhận những

gì đã học được, đạt được; những gì chưa đạt và dự kiến làm gi để đạt được các mục

tiêu. Ví dụ yêu cầu HS ghi những đánh giá của mình vào bảng sau:

Bảng 2.7 Mẫu học sinh tự đánh giá

Tiêu chí Đạt Chưa đạt Các bước tiến hành

1. 2. …

Khi HS đánh giá các hoạt động và mức độ đạt được của mình qua bài viết, báo

cáo, các em sẽ có những điều chỉnh hoạt động học của mình. GV có thể yêu cầu HS

kể ra những khó khăn gặp phải và cách khắc phục những khó khăn đó trong quá

100

trình làm việc với di sản bằng cách ghi vào phiếu tự đánh giá như sau:

Bảng 2.8. Phiếu học sinh tự đánh giá

PHIẾU HỌC SINH TỰ ĐÁNH GIÁ

Họ và tên HS: 1. Những điều em đã học được: ……………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… 2. Những khó khăn em gặp phải khi thực hiện nhiệm vụ: ……………………………………………………………………………………… ………………………………………………………………………………… 3. Đề xuất giải pháp khắc phục khó khăn cho bản thân: ……………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………

- Ngoài hoạt động HS tự đánh giá, có thể sử dụng đánh giá lẫn nhau giữa HS

hoặc các nhóm HS để có nhiều đánh giá đa chiều, chính xác hơn về mức độ nhận

thức lịch sử của HS thông qua học tập với DSVH. Đánh giá lẫn nhau (còn gọi là

đánh giá đồng đẳng) là HS được tham gia đánh giá sản phẩm học tập của người học

khác dựa trên các tiêu chí đã định trước.

Trong quá trình học tập, GV có thể yêu cầu HS đánh giá bài viết hoặc báo cáo

của các bạn khác thông qua thang đo đánh giá làm việc nhóm (Bảng 2.2). Nội dung

chính của đánh giá là phân tích và nhận xét mang tính tích cực về sản phẩm, kết quả

học tập của bạn.

Ngoài việc đánh giá lẫn nhau thông qua thang đo đánh giá định trước, GV có

thể linh hoạt tổ chức HS đánh giá, phản biện lẫn nhau thông qua nhận xét về sản

phẩm của ban hoặc nhóm bạn. Trong đó có những câu hỏi trọng tâm như: Hãy dành

3 lời khen hoặc điều tâm đắc nhất mà em dành cho nhóm bạn; 2 lời chưa hài lòng

mà nhóm em muốn góp ý cho nhóm bạn; 1 câu hỏi liên quan đến nội dung bài học.

Bằng những câu hỏi phát vấn lẫn nhau như vậy, GV đã giúp HS phát triển thêm tư

duy đánh giá phản biện và góp phần phát hiện ra những điểm mạnh, điểm hạn chế

cần được bồi dưỡng thêm cho HS.

Như vậy, việc sử dụng DSVH vào kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS

như trên là một cơ hội để GV lịch sử không chỉ vận dụng các hình thức và biện

pháp dạy học tích cực mà còn tiếp tục đổi mới kiểm tra, đánh giá trong dạy học

LSĐP nói riêng, bộ môn Lịch sử nói chung.

101

2.4. Thực nghiệm sƣ phạm

2.4.1. Mục đích của thực nghiệm

Mục đích của việc thực nghiệm (TN) nhằm kiểm chứng trong thực tế tính khả

thi của các biện pháp sư phạm sử dụng DSVH Cố đô Hoa Lư trong dạy học LSĐP

cho HS trường THPT tỉnh Ninh Bình qua vận dụng ở trường THPT Gia Viễn B. Kết

quả của TN sẽ kiểm chứng phần lý luận và là cơ sở thực tiễn để vận dụng vào quá

trình giảng dạy sau này.

2.4.2. Nội dung và phương pháp thực nghiệm

2.4.1.2. Nội dung thực nghiệm

Để bài TN đạt kết quả cao, khẳng định tính trung thực, khả thi của đề tài, chúng

tôi tiến hành thực nghiệm toàn phần vào dự án “Tìm hiểu di tích Cố đô Hoa Lư – Kinh

đô 42 năm của nhà nước Đại Cồ Việt thời Đinh – Tiền Lê – Lý (968 – 1010) và buổi

đầu xây dựng nhà nước độc lập ở thế kỉ X”, ở trường THPT Gia Viễn B.

Chúng tôi soạn giáo án theo hai kiểu:

Kiểu 1: Soạn giáo án bài TN vận dụng dạy học dự án tổ chức tham quan học

tập tại DSVH Cố đô Hoa Lư cho HS chuẩn bị cho bài LSĐP ở trên lớp theo những

đề xuất trong luận văn.

Kiểu 2: Giáo án ĐC do GV thực nghiệm chuẩn bị, chủ yếu là soạn theo PP

truyền thống, tiến hành dạy học tiết LSĐP ở trên lớp.

2.4.1.2. Phương pháp thực nghiệm

Quá trình TN được tiến hành theo đúng phân phối chương trình và thời khóa

biểu do nhà trường đề ra trong năm học 2019-2020, theo đúng kế hoạch của Bộ giáo

dục và Đào tạo. Sau khi chuẩn bị kĩ giáo án, chúng tôi tiến hành khảo sát tại lớp

10A7 có 38 HS làm lớp ĐC, lớp 10A8 làm lớp TN gồm có 40 HS ở trường THPT

Gia Viễn B. Hai lớp được chọn là 2 lớp có sĩ số, trình độ nhận thức của HS tương

đối ngang nhau, tạo điều kiện cho việc thực nghiệm đề tài.

Để có cơ sở đánh giá hiệu quả các biện pháp sư phạm đề xuất, sau tiết học

chúng tôi đã tiến hành kiểm tra mức độ lĩnh hội kiến thức của HS thông qua một bài

kiểm tra 15 phút. Bài này được dùng cho cả lớp TN và ĐC với thang điểm như nhau

+ Điểm Giỏi: 9-10 điểm (Bài làm đúng so với đáp án đưa ra)

+ Điểm Khá: 7-8 điểm (Bài làm tương đối hoàn chỉnh so với đáp án đưa ra)

+ Điểm Trung bình: 5-6 điểm (Bài làm chỉ đạt được một nửa so với yêu cầu

102

đưa ra)

+ Điểm Yếu: Dưới 5 điểm (Bài làm chưa đạt)

Căn cứ vào kết quả của bài kiểm tra, chúng tôi tiến hành đánh giá kết quả của

2 lớp TN và ĐC.

2.4.3. Tiến trình thực nghiệm

- Trước khi TN, chúng tôi tiến hành trao đổi với HS lớp TN, nêu mục đích,

yêu cầu của dự án.

- Trong khi TN, tiến hành thực hiện dự án, theo dõi, quan sát HS các nhóm khi

thực hiện và báo cáo sản phẩm ở tiết học trên lớp.

- Sau khi TN, tổ chức cho HS 2 lớp làm bài kiểm tra và đánh giá, so sánh kết

quả, rút ra kết luận.

2.4.4. Kết quả thực nghiệm

2.4.4.1. Kết quả định tính

Việc sử dụng DSVH Cố đô Hoa Lư trong dạy học LSĐP cho HS lớp 10

trường THPT để đạt được hiệu quả rõ rệt cần phải trải qua quá trình thường xuyên

và lâu dài. Trong khuôn khổ luận văn, thời gian thực nghiệm ngắn, nên chúng tôi

chỉ có thể đánh giá bước đầu chuyển biến trong thái độ cũng như trong nhận thức

của HS trường THPT Gia Viễn B trong giờ học được tổ chức với hình thức, biện

pháp sư phạm lựa chọn là vận dụng dạy học dự án để tổ chức tham quan học tập tại

DSVH Cố đô Hoa Lư nhằm phát triển nhận thức, rèn kĩ năng, định hướng thái độ

để qua đó phát triển năng lực, bồi dưỡng phẩm chất cho các em so với kết quả

điều tra thực tiễn.

Dựa trên sự quan sát, trao đổi và phỏng vấn HS sau buổi học, chúng tôi nhận

thấy các em có những chuyển biến tích cực về nhận thức, thái độ, hành vi. Điều này

là một tín hiệu vô cùng có ý nghĩa đối với chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài.

Những biểu hiện đó thể hiện ở chỗ:

- HS từ chỗ học LSĐP một cách thụ thông qua một tài liệu chính duy nhất là

kênh chữ của Tài liệu giáo dục địa phương Lịch sử 10 của Sở Giáo dục và đào tạo

thì với tiết dạy TN, HS có thể tự khai thác thêm nguồn tư liệu phong phú về DSVH

ở sách nghiên cứu LSĐP, tư liệu tại Trung tâm bảo tồn di tích, nguồn tư liệu tin cậy

trên Internet (không chỉ kênh chữ mà cả kênh hình, ảnh minh họa, video tư liệu, sơ

103

đồ, lược đồ…).

Hình 2.5. Học sinh tham gia tìm hiểu Long sàng ở Nghi môn ngoại - Bảo vật quốc

gia tại Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng

- Với tiết dạy ĐC, HS rất e dè, nhút nhát, không dám hoặc ngại nêu lên ý kiến

của bản thân bởi tiết học diễn ra bình thường ở trên lớp với phương pháp dạy học

chủ yếu là GV phát vấn – HS trả lời khiến cho các em không tỏ ra hào hứng với nội

dung bài học.

Ở tiết dạy TN vận dụng dạy học dự án để tổ chức tham quan học tập tại di sản

văn hóa Cố đô Hoa Lư mà nội dung chủ yếu là các nhóm HS thực hiện nhiệm vụ

học tập và báo cáo sản phẩm học tập ở trên lớp. Trong đó, nhiệm vụ của nhóm luôn

có sự phân công công việc cụ thể cho từng thành viên theo tinh thần kết quả học tập

của nhóm chính là sự cố gắng hoàn thành và phát huy sở trường của mỗi thành viên

trong nhóm. Dưới sự tổ chức và khuyến khích của GV, HS tích cực trong thảo luận,

trao đổi với các thành viên khác trong nhóm trên tinh thần hợp tác, tôn trọng ý kiến

cá nhân của các bạn. Đồng thời, các em cũng mạnh dạn nhận xét, đánh giá các bạn

của nhóm khác trong lớp. Qua đó, HS ở lớp TN đã thể hiện rõ năng lực tự giác, khả

năng giao tiếp và hợp tác, năng lực giải quyết vấn đề khi thực hiện nhiệm vụ học tập

104

của mình.

Hình 2.6. Học sinh tích cực tham gia hoạt động nhóm phần luyện tập

“Ghép tranh di sản theo nhóm”

- Về phía GV trực tiếp giảng dạy cảm nhận: Với cách tổ chức bài học như ở

lớp TN trong quá trình giảng dạy kết hợp quan sát GV nhận thấy HS hứng thú, GV

đã kích thích được khả năng nhận thức và tư duy của các em. HS hăng hái tham gia

hoạt động do GV tổ chức và thực hiện rất tốt. Điều này, khác hẳn với lớp ĐC, các

em còn rất thụ động. Ngoài ra, ở tiết dạy TN, với việc tăng cường kiểm tra, đánh giá

thông qua nhiều phương pháp tích cực như quan sát, tổ chức cho HS tự đánh giá và

đánh giá lẫn nhau góp phần thúc đẩy hoạt động học của HS sôi nổi và hiệu quả hơn,

góp phần đánh giá sự cố gắng học của các em một cách toàn diện hơn.

Phía HS chúng tôi có một vài câu hỏi nhằm thăm dò thái độ, hứng thú của HS

với những câu hỏi như: Học xong bài học trên em cảm nhận như thế nào? Em có nhận

xét gì về tiết học này?

Qua tổng hợp kết quả đa số các em HS ở lớp TN đều cho rằng các em rất thích

tiết học mà các cô giáo đã tổ chức dạy học theo hướng sử dụng DSVH, lí do mà các

em đưa ra là hình thức và biện pháp dạy học này làm cho không khí lớp học rất sôi

nổi, các em được thể hiện năng khiếu và khả năng sáng tạo của mình, các em cảm

thấy hiểu bài, lĩnh hội kiến thức nhanh và nhớ lâu hơn.

2.4.4.2. Về mặt định lượng

Sau khi chấm bài theo thang điểm đã quy định, xếp loại HS qua các mức

(Giỏi, Khá, Trung bình, Yếu), chúng tôi đã phân tích và thấy được sự chênh lệch kết

105

quả giữa 2 lớp TN và ĐC. Cụ thể như sau:

Bảng 2.9. Thống kê điểm số bài kiểm tra lớp thực nghiệm và lớp đối chứng

Kết quả

Nhóm Lớp Khá (7 – 8 điểm) Trung bình (5 – 6 điểm) Yếu (< 5 điểm) Số học sinh Giỏi (9 – 10 điểm)

% % % % Số HS Số HS Số HS Số HS

40 30 15 37,5 13 32,5 0 0 12 10A8

38 5 13,2 6 15,8 24 63,1 3 7,9 10A7 Thực nghiệm Đối chứng

Biểu đồ 2.1. So sánh kết quả thực nghiệm

Thống kê điểm số bài kiểm tra lớp TN và ĐC

25

20

15

Giỏi

10

5

Khá Trung bình

Yếu

0

Trung bình

Khá

10A8 - TN 10A7 - ĐC Yếu

Giỏi

Qua bảng số liệu trên cho thấy:

- Ở lớp TN (10A8): kết quả cao hơn lớp ĐC; tỷ lệ HS đạt giỏi, khá cao – 12

HS tương ứng 30%; HS đạt điểm khá: 15 HS tương ứng 37,5%; HS đạt Trung bình

là 13 HS tương ứng 32,5%.

- Ở lớp ĐC (10A7): đạt điểm giỏi là 5 HS tương ứng 13,2%; điểm khá là 6 HS

tương ứng 15,8%; điểm Trung bình là 24 HS tương ứng 63,1%; điểm yếu là 3 HS,

tương ứng 7,9%.

Từ kết quả trên cho thấy chất lượng học tập ở lớp TN cao hơn lớp ĐC (tỷ lệ

HS giỏi và khá cao hơn lớp ĐC, không có HS yếu kém).

Để đảm bảo độ tin cậy, chúng tôi tiến hành dùng công thức toán học để tính

điểm trung bình, phương sai, độ lệch chuẩn của lớp TN và lớp ĐC, kết quả thu được

106

như sau:

* Lớp thực nghiệm 10A8: sĩ số 40

Điểm kiểm tra: gồm 3 điểm 10; 9 điểm 9. Tổng 12 học sinh điểm giỏi. 28 học

sinh đạt điểm khá và trung bình gồm: 7 điểm 8; 8 điểm 7; 6 điểm 6; 7 điểm 5.

= 7,35 - Điểm Trung Bình: =

- Phương Sai:

=

2,4775

- Độ lệch chuẩn: = √ ≈ 1,5740

* Lớp đối chứng 10A7: sĩ số 38

Điểm kiểm tra: gồm 1 điểm 10; 4 điểm 9. Tổng có 5 học sinh điểm giỏi. Có 30

học sinh đạt điểm khá và trung bình gồm: ; 2 điểm 8; 4 điểm 7; 9 điểm 6; 15 điểm 5.

Có 3 học sinh đạt điểm yếu gồm: 2 điểm 3; 1 điểm 4.

= 6,03 - Điểm Trung Bình: =

- Phương Sai:

= 2,6572

- Độ lệch chuẩn: = √ ≈ 1,630

Độ lệch chuẩn là sự sai khác của điểm số với điểm trung bình của toàn bài.

Với kết quả như trên cho thấy, độ lệch chuẩn càng nhỏ thì điểm số càng ít phân tán,

kết quả càng đáng tin cậy.

* Nhận xét chung:

Thông qua kết quả thực nghiệm, chúng tôi nhận thấy, kết quả học tập ở lớp

TN cao hơn lớp ĐC khi tiến hành một số biện pháp sư phạm được đề xuất.

+ Ở lớp ĐC, HS được tổ chức học tập, nghiên cứu bài theo cách truyền thống,

chủ yếu là phương pháp phát vấn thầy hỏi trò trả lời. Chúng tôi nhận thấy không khí

lớp tẻ nhạt, hầu hết HS chỉ chăm chú ghi bài theo GV, chỉ có một số em hăng hái

phát biểu ý kiến.

107

+ Ở lớp TN, HS được tổ chức học tập và nghiên cứu bài theo một số biện

pháp: Trao đổi, thảo luận, hợp tác làm việc nhóm,…sau khi đã được đi tham

quan học tập tại di sản. Chúng tôi nhận thấy, HS phát huy được tính tích cực, chủ

động, hăng hái trong học tập. Các em có sự tương tác nhịp nhàng với GV và

mạnh dạn tranh luận, phát biểu ý kiến xây dựng bài. Về kết quả nhận thức bước

đầu, qua điểm kiểm tra của 2 lớp chúng tôi nhận thấy kết quả kiểm tra của lớp TN

cao hơn hẳn so với lớp ĐC (Điểm trung bình là 7,35 cao hơn so với lớp ĐC là 6,03).

Qua kết quả thực nghiệm có thể bước đầu khẳng định được tính khả thi mà các

hình thức, biện pháp mà đề tài đưa ra. Nếu được áp dụng thực hiện, không những bồi

dưỡng kiến thức, phát huy được tính tích cực, chủ động trong học tập mà còn định

hướng thái độ học tập cho HS. Qua đó góp phần phát triển các năng lực chung: tự

học, giải quyết vấn đề, giao tiếp, hợp tác; năng lực môn học: tìm hiểu lịch sử, nhận

thức lịch sử, vận dụng kiến thức và giáo dục phẩm chất đạo đức tự hào, yêu quê

108

hương, đất nước cho HS.

Tiểu kết chƣơng 2

Tóm lại, căn cứ vào vị trí, mục tiêu, nội dung cơ bản của LSĐP chương trình

lớp 10 THPT, dựa vào thực tiễn trong dạy học LSĐP ở tỉnh Ninh Bình, chúng tôi

nhận thấy rằng để phát huy tác dụng của việc sử dụng DSVH Cố đô Hoa Lư trong

dạy học LSĐP, GV cần vận dụng những hình thức, biện pháp sử dụng DSVH đã đưa

ra trong dạy học một cách hiệu quả nhất. Đó là các hình thức của hoạt động nội khóa

như: bài học lịch sử ở trên lớp, bài học tại di sản, dạy học dự án tham quan học tập tại

di sản. Ngoài ra, tùy thuộc vào điều kiện của nhà trường và địa phương, GV có thể

linh hoạt lựa chọn các hình thức ngoại khóa như: tham quan trải nghiệm di sản, dạ hội

lịch sử, tổ chức sưu tầm tài liệu về DSVH và tổ chức tham gia lễ hội… Để hoạt động

dạy học có hiệu quả, GV cũng cần chú trọng đến công tác kiểm tra, đánh giá kết quả

học tập LSĐP của HS thông qua DSVH Cố đô Hoa Lư. Đó là việc đa dạng và đổi

mới việc kiểm tra, đánh giá theo hướng đẩy mạnh các hình thức đánh giá thường

xuyên và định kì, đánh giá thông qua thang đo định sẵn và tăng cường hoạt động tự

đánh giá, đánh giá lẫn nhau trong HS. Những biện pháp đề xuất cùng kết quả của

quá trình thực nghiệm sư phạm đã bước đầu chứng minh tính khả thi của đề tài.

Như vậy, sử dụng DSVH trong dạy học LSĐP nói riêng, lịch sử dân tộc nói

chung là một quá trình lâu dài, phức tạp, gồm nhiều yếu tố khác nhau. Mỗi yếu tố

lại có vai trò và vị trí quan trọng khác nhau trong việc hướng đến thực hiện mục tiêu

chung của giáo dục. Trong đó, đổi mới hình thức và phương pháp dạy học trong

việc sử dụng DSVH được xem là khâu then chốt trong dạy học LSĐP. Sử dụng

DSVH Cố đô Hoa Lư nói riêng, các DSVH khác nói chung trong dạy học LSĐP là

một trong những cách thức cần được tổ chức dạy học cho HS, đặc biệt là học sinh

109

trường THPT ở tỉnh Ninh Bình.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

1. Kết luận

Ngày nay, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang đặt ra những yêu

cầu mới cho giáo dục. Đó là phải đổi mới giáo dục theo hướng phát triển học sinh

một cách toàn diện về nhận thức, kĩ năng, thái độ để góp phần phát triển năng lực và

bồi dưỡng phẩm chất cho học sinh nhằm đào tạo nguồn nhân lực cho tương lai của

đất nước. Mục tiêu này đặt ra thách thức mới cho ngành giáo dục nói chung, cho bộ

môn lịch sử nói riêng, trong đó có lịch sử địa phương.

Kiến thức lịch sử địa phương có những đặc trưng riêng, vì vậy khi tổ chức

hoạt động học tập cho học sinh, đòi hỏi giáo viên phải phối hợp nhuần nhuyễn các

hình thức và biện pháp dạy học, trên cơ sở đó hình thành, mở rộng kiến thức lịch sử

địa phương và lịch sử dân tộc, bồi dưỡng tình cảm yêu mến, tự hào về địa phương

mình, trân trọng những giá trị truyền thống tốt đẹp của quê hương. Việc sử dụng di

sản văn hóa trong dạy học lịch sử địa phương góp phần nâng cao ý thức, trách

nhiệm của các em trong việc phát huy truyền thống tốt đẹp của quê hương, kế thừa

sự nghiệp của cha ông trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.

Trên thực tế, công tác giảng dạy lịch sử địa phương ở các trường trung học

phổ thông tỉnh Ninh Bình còn gặp nhiều khó khăn bởi các nguyên nhân khách quan

và chủ quan, nhưng quan trọng nhất là hạn chế trong nhận thức chưa coi trọng nội

dung giáo dục địa phương trong dạy học môn lịch sử. Vì vậy, nhận thức về lịch sử

địa phương cũng như truyền thống lịch sử, văn hóa quê hương của học sinh vẫn còn

hạn chế. Dựa vào cơ sở lý luận về sử dụng di sản văn hóa trong dạy học lịch sử địa

phương, trên tinh thần đổi mới của chương trình giáo dục phổ thông cùng với đổi

mới phương pháp giảng dạy và kiểm tra đánh giá, chúng tôi đã đề xuất các hình

thức và biện pháp sư phạm nhằm bước đầu giải quyết những khó khăn do cơ sở

thực tiễn đặt ra ở các trường trung học phổ thông tỉnh Ninh Bình. Những biện pháp

này bước đầu đã được thực nghiệm, chứng minh được tính khả thi và mang lại hiệu

quả của nó trong quá trình triển khai. Đó là thể hiện ở việc học sinh tham gia một

110

cách hứng thú, tỏ rõ sự quan tâm của mình thông qua khai thác và sử dụng các tài

liệu về di sản văn hóa ở địa phương; kết quả nhận thức của các em cũng đã được

chứng minh qua quá trình thực nghiệm sư phạm.

Nội dung mà luận văn đề cập đến không chỉ có tác dụng đối với việc dạy học

lịch sử địa phương nói riêng, môn lịch sử nói chung trong chương trình giáo dục

phổ thông hiện hành mà có thể vận dụng phù hợp với chương trình giáo dục phổ

thông năm 2018 ở các trường trung học phổ thông tỉnh Ninh Bình.

Bằng lòng nhiệt huyết và say mê nghề nghiệp của người giáo viên lịch sử và

tinh thần ham học hỏi, sáng tạo, hứng thú với việc học tập di sản văn hóa của học

sinh, chúng tôi tin tưởng rằng việc sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư trong dạy

học sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy và học của môn lịch sử địa phương nói

riêng, bộ môn Lịch sử của các trường trung học phổ thông tỉnh Ninh Bình nói

chung.

2. Khuyến nghị

Từ những kết luận trên, để góp phần sử dụng hiệu quả di sản văn hóa nói

chung, di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư trong dạy học lịch sử địa phương cũng như

nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử, chúng tôi đề xuất một số khuyến nghị như sau:

2.1. Đối với cấp quản lí

Các cấp quản lí giáo dục, ban giám hiệu các trường phổ thông cần tạo điều

kiện về cơ sở vật chất, động viên, khuyến khích, cũng như có kế hoạch bồi dưỡng

giáo viên chuyên môn về việc đổi mới hình thức, phương pháp dạy học và kiểm tra

đánh giá. Ngoài ra, cần có trách nhiệm trong việc xây dựng, thay đổi nội dung dạy

học lịch sử địa phương cho phù hợp, hướng dẫn sử dụng linh hoạt các di sản văn

hóa địa phương vào giảng dạy môn lịch sử góp phần đáp ứng được tinh thần đổi

mới chương trình giáo dục phổ thông trong thời gian sắp tới. Mặt khác, ban giám

hiệu nhà trường cần phối hợp chặt chẽ với gia đình và xã hội tạo cơ hội cho việc đa

dạng các hình thức học tập lịch sử trong việc sử dụng di sản văn hóa ở địa phương

và dân tộc.

2.2. Đối với giáo viên

Để thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục truyền thống lịch sử, văn hóa địa phương

111

cho học sinh, giáo viên cần thường xuyên đổi mới phương pháp dạy học theo hướng

nâng cao tính chủ động, phát huy khả năng tư duy của học sinh trong học tập.

Tích cực tham gia các lớp bồi dưỡng do Sở giáo dục và Bộ giáo dục tổ

chức. Tích cực nghiên cứu các tài liệu hướng dẫn về sử dụng di sản văn hóa trong

dạy học lịch sử địa phương nói riêng, lịch sử dân tộc nói chung. Luôn tìm hiểu và

cập nhật các phương pháp dạy học thông qua các buổi tập huấn, sinh hoạt

chuyên môn hay các phương tiện thông tin truyền thông để vận dụng các hình

thức, biện pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy

môn lịch sử.

Tóm lại, trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi không thể giải quyết được

tất cả mọi khía cạnh của vấn đề sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư trong dạy học

lịch sử địa phương cho học sinh trường trung học phổ thông tỉnh Ninh Bình. Cho

nên, luận văn sẽ không tránh khỏi thiếu sót, hạn chế. Chúng tôi hy vọng nhận được

112

sự góp ý của thầy cô, bạn bè để đề tài hoàn thiện hơn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Danh mục tài liệu tiếng Việt

1. Đinh Ngọc Bảo (chủ biên) (2012), Một số di tích lịch sử - văn hóa

Việt Nam dùng trong nhà trường, Nxb Đại học sư phạm.

2. Bécnhưcốp, I.Ôdécxki, A.Khơmelep (1963), Công tác ngoại khóa lịch

sử, Nxb Mátxcơva.

3. Nguyễn Chí Bền (Chủ biên) (2010), Bảo tồn, phát huy giá trị di sản

văn hóa vật thể Thăng Long - Hà Nội, Nxb Hà Nội.

4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Đại học Huế - trung tâm đào tạo từ xa

(1995), Giáo trình Lịch sử địa phương.

5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Chương trình giáo dục phổ thông -

Chương trình tổng thể, Hà Nội.

6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Chương trình giáo dục phổ thông -

môn Lịch sử, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Chương trình giáo dục phổ thông

môn Lịch sử, Hà Nội.

8. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Đổi mới phương pháp dạy học, kiểm

tra đánh giá học tập Lịch sử và giảng dạy lịch sử địa phương ở trường phổ thông,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

9. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1999), Lịch sử địa phương (Giáo trình đào

tạo giáo viên trung học cơ sở hệ cao đẳng sư phạm), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

10. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Lịch sử lớp 10, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

11. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2009), Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức

kỹ năng môn Lịch sử lớp 10, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

12. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2017), Phương pháp và kĩ thuật tổ chức hoạt

động học theo nhóm và hướng dẫn học sinh tự học, Tài liệu tập huấn dành cho cán

bộ quản lí và giáo viên trung học phổ thông.

13. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2013), Tài

liệu tập huấn Sử dụng di sản trong dạy học ở trường phổ thông Những vấn đề

113

chung, Hà Nội.

14. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2013), Tài

liệu tập huấn Sử dụng di sản trong dạy học ở trường phổ thông Môn Lịch sử, Hà Nội.

15. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Vụ giáo dục trung học (2014), Dạy học và

kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh

môn Lịch sử cấp trung học phổ thông, Tài liệu tập huấn Chương trình phát triển

giáo viên trung học.

16. Bộ văn hóa thông tin, Cục di sản văn hóa (2009), Một con đường tiếp

cận di sản văn hóa, Nxb Văn hóa.

17. Nguyễn Thị Côi (2016), Các con đường, biện pháp nâng cao hiệu quả

dạy học lịch sử ở trường phổ thông, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.

18. Nguyễn Thị Côi (2009), Thiết kế kế hoạch bài học lịch sử ở trường

phổ thông theo tinh thần đổi mới, Tạp chí giáo dục, số 221.

19. Nguyễn Thị Côi (2013), Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học lịch

sử góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn, Tạp chí Giáo dục, số 301.

Nguyễn Thị Kim Cúc (2011), Hoa Lư xưa và nay, Nxb Văn hóa dân tộc. 20.

Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng (2000), Các triều đại Việt Nam, Nxb Thanh 21.

Niên, Hà Nội.

L.V.Dancốp (1985), Lý luận dạy học và đời sống, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 22.

Nguyễn Tiến Dũng (2014), Sử dụng tài liệu về di sản văn hóa vật thể 23.

ở địa phương trong dạy học lịch sử Việt Nam lớp 10 Trung học phổ thông tỉnh Hải

Dương, Luận văn thạc sĩ sư phạm lịch sử, Trường Đại học giáo dục Đại học Quốc

gia, Hà Nội.

24. Nguyễn Thị Duyên (2018), Tổ chức dạy học lịch sử Việt Nam (1919-

2000) với di tích lịch sử tại địa phương ở trường trung học phổ thông tỉnh Nghệ An,

Luận án Tiến sĩ khoa học giáo dục, Trường Đại học sư phạm Hà Nội.

25. Dự án Việt – Bỉ (2010), Dạy và học tích cực – một số phương pháp và

kĩ thuật dạy học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

26. N.G.Đairi (1973), Chuẩn bị giờ học Lịch sử như thế nào?, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

27. Lê Doãn Đàm (2009), Thắng tích Cố đô Hoa Lư và những huyền

114

thoại, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

28. Nguyễn Quang Hà (2005), Chủ Tịch Hồ Chí Minh với việc giáo dục

lịch sử dân tộc, Tạp chí Khoa Giáo, số 116.

29. Lê Văn Hồng (chủ biên), Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thàng (1995),

Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

Nguyễn Văn Hộ (2002), Lí luận dạy học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 30.

Vũ Quang Hiển - Hoàng Thanh Tú (Đồng chủ biên) (2014), Phương 31.

pháp dạy học môn Lịch sử ở trường Trung học phổ thông, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội.

32. Đặng Thành Hưng (2002), Dạy học hiện đại – Lí luận, biện pháp, kĩ

thuật, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

33. I.Ia.Lecne (1982), Phát triển tư duy của học sinh trong dạy học lịch

sử (Dịch: Trần Kim Văn, Đinh Ngọc Bảo, Phan Huy Khánh, Nguyễn Thị Côi, Hiệu

đính: Nguyễn Khoa), Nxb Giáo dục Mátxcơva.

34. Phan Ngọc Liên (chủ biên), Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi

(2017), Phương pháp dạy học lịch sử, tập I, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.

35. Phan Ngọc Liên (chủ biên), Nguyễn Thị Côi, Trịnh Đình Tùng

(2017), Phương pháp dạy học lịch sử, tập II, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội.

36. Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng (2006), Nghị viện Châu Âu với việc

dạy học lịch sử ở Châu Âu – khuyến nghị của nghị viện Châu Âu số 1283 ngày

22/1/1996, Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 358.

37. Phan Ngọc Liên, Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Côi, Trần Vĩnh

Tường (2002), Một số chuyên đề phương pháp dạy học lịch sử, Nxb Đại học quốc

gia Hà Nội.

38. Hồ Chí Minh (2011), Hồ Chí Minh: Toàn tập - Tập 7, Nxb Chính trị

quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

39. Nguyễn Cảnh Minh, Phan Ngọc Liên (1995), Giáo trình Lịch sử địa

phương (Giáo trình nội bộ của Đại học Sư phạm Huế), Huế.

40. Nguyễn Cảnh Minh (Chủ biên), Đỗ Hồng Thái (1999), Lịch sử địa

phương (Giáo trình đào tạo giáo viên trung học cơ sở hệ cao đẳng sư phạm), Nxb

115

Giáo dục, Hà Nội.

41. Vũ Thị Hồng Nga (2013), Lịch sử 10 – 11 – 12 (Tài liệu giáo dục địa

phương tỉnh Ninh Bình), Nxb Giáo dục Việt Nam.

42. Vũ Thị Hồng Nga (2013), Lịch sử THPT, Tài liệu giáo dục địa

phương Ninh Bình (Dành cho giáo viên), Nxb Giáo dục Việt Nam.

43. Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt (1987), Giáo dục học, tập 1, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

44. Bùi Thị Nhung (2016), Sử dụng di tích lịch sử quốc gia đặc biệt ở địa

phương trong dạy học lịch sử Việt Nam theo hướng phát triển năng lực cho học

sinh trung học phổ thông tỉnh Nam Định, Luận văn thạc sĩ sư phạm lịch sử, Trường

Đại học Giáo dục, Đại học quốc gia Hà Nội.

45. Hoàng Phê (chủ biên) (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng,

Trung tâm từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng.

46. Quốc hội (2011), Luật Di sản văn hóa năm 2001, sửa đổi bổ sung

năm 2009 và văn bản hướng dẫn thi hành, Nxb Chính trị quốc gia.

N.V.Savin (1983), Giáo dục học, tập 1 , Nxb Giáo dục. 47.

M.N. Sácđacốp (1982), Tư duy học sinh, Nxb Giáo dục. 48.

49. Sở Giáo dục và đào tạo Ninh Bình (2007), Hướng dẫn dạy học Lịch

sử Ninh Bình tập II (Sách dành cho giáo viên Trung học phổ thông).

50. Sở Giáo dục và đào tạo Ninh Bình (2007), Lịch sử Ninh Bình, Tài liệu

dùng cho dạy học ở các trường phổ thông tỉnh Ninh Bình.

51. James H. Stronge (2013), Những phẩm chất của người giáo viên hiệu

quả, Nxb Giáo dục Việt Nam, (người dịch: Lê Văn Canh).

52. Lê Thị Thảo (2014), Sử dụng di tích lịch sử - cách mạng ở địa phương

trong dạy học Lịch sử Việt Nam từ 1945 đến 1954 lớp 12 trung học phổ thông tỉnh

Tuyên Quang (chương trình chuẩn), Luận văn Thạc sĩ sư phạm Lịch sử, Trường Đại

học giáo dục, Đại học quốc gia Hà Nội.

53. Hồ Thị Hồng Thơm (2012), Sử dụng tài liệu lịch sử địa phương trong

dạy học lịch sử Việt Nam lớp 12 ở trường trung học phổ thông tỉnh Thái Bình

(Chương trình chuẩn), Luận văn Thạc sĩ sư phạm Lịch sử, Trường Đại học giáo dục,

116

Đại học quốc gia Hà Nội.

54. Thủ tướng Chính phủ (2003), Quyết định số 82/2003/QĐ-TTg ngày

29/4/2003 về việc ban hành Quy hoạch tổng thể bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị

khu di tích lịch sử văn hóa Cố đô Hoa Lư.

55. Hoàng Thị Thủy (2014), Khai thác một số di tích lịch sử - văn hóa

góp phần giáo dục di sản văn hóa cho HS trường THPT Gia Viễn C, Sáng kiến cấp

ngành Sở Giáo dục và đào tạo Ninh Bình (xếp loại Giỏi), Ninh Bình.

56. Nguyễn Thị Huyền Trang (2018), Quản lý di tích quốc gia đặc biệt

Cố đô Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình, Luận văn Thạc sĩ Quản lý văn hóa, Trường Đại học

Sư phạm nghệ thuật TW.

57. Lưu Minh Trị (2008), Tìm trong truyền thống và di sản, Nxb Lao

động, Hà Nội.

58. Nguyễn Văn Trò (2004), Cố đô Hoa Lư, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

59. Nguyễn Văn Trò (2008), Di tích lịch sử văn hóa về hai triều Đinh –

Tiền Lê ở Ninh Bình, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.

60. Trung tâm bảo tồn di tích lịch sử văn hóa Cố đô Hoa Lư (2015), Các

giá trị văn hóa lịch sử liên quan đến thế kỉ X (Tài liệu lưu hành nội bộ).

61. Thái Duy Tuyên (1998), Những vấn đề cơ bản giáo dục hiện đại, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

62. Thái Duy Tuyên (2008), Phương pháp dạy học truyền thống và đổi

mới, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

63. Trương Đình Tưởng (2004), Địa chí văn hóa dân gian Ninh Bình -

Nxb Thế giới.

64. A.A.Vaghin (1972), Phương pháp giảng dạy lịch sử ở trường phổ

thông, tập 2, Nxb Mátxcơva, người dịch: Hoàng Trung, hiệu đính: Phan Ngọc Liên.

65. Viện ngôn ngữ (2006), Từ điển Việt Anh, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

66. Hoàng Vinh (1997), Một số vấn đề bảo tồn và phát triển văn hóa dân

tộc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

67. Nghiêm Đình Vỳ (Tổng chủ biên), Trần Thị Vinh (Chủ biên) (2018),

Nguyễn Ngọc Cơ, Đào Tuấn Thành, Nguyễn Mạnh Hưởng, Nguyễn Văn Ninh, Dạy

117

học phát triển năng lực môn Lịch sử Trung học phổ thông, Nxb Đại học Sư phạm.

Tài liệu tiếng Anh

68. Peter F. Biehl; Douglas C. Comer; Christopher Prescott; Hilary A.

Soderland (2015), Identity and Heritage – Contemporary Challenges in a

Globalized World, NXB Springer.

69. H.Silverman, D.F.Ruggles (2007), Cultural Heritage and Human

Rights, NXB Springer, New York.

Tài liệu điện tử

70. Đạt Thức (2013), Trang thông tin Cục Di sản văn hóa, Di tích lịch sử

và kiến trúc nghệ thuật Cố đô Hoa Lư,

http://dch.gov.vn/pages/news/preview.aspx?n=567&c=25, truy cập ngày

04 tháng 10 năm 2019.

71. Trang thông tin Sở Du lịch Ninh Bình (2015), Cố đô Hoa Lư,

truy cập

http://ninhbinh.tourism.vn/index.php?options=items&code=2966,

ngày 04 tháng 10 năm 2019.

72. Trang thông tin Trung tâm bảo tồn di tích lịch sử - văn hóa Cố đô Hoa

Lư (2018), http://codohoalu.vn/vi/cac-diem-tham-quan/gioi-thieu-chung, truy

cập ngày 04 tháng 10 năm 2019.

73. Trang web của Tổ chức UNESCO (2003), Công ước liên quan đến

bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới,

http://whc.unesco.org/en/conventiontext/, truy cập ngày 11 tháng 03 năm 2020.

74. Trang web của ban quản lý Quần thể danh thắng Tràng An (2018), Lễ

hội Hoa Lư, http://trangandanhthang.vn/tin-tuc/le-hoi-hoa-lu-23, truy cập ngày

23 tháng 06 năm 2020.

75. Nguyễn Xuân Trường (2017), Trang thông tin Bộ giáo dục và đào tạo,

Sử dụng di sản trong dạy học ở trường phổ thông – phương thức dạy học phát triển

các kĩ năng thực hành, năng lực của học sinh,

https://moet.gov.vn/giaoducquocdan/giao-duc-trung-

hoc/Pages/default.aspx?ItemID=4817, truy cập ngày 04 tháng 10 năm 2019.

118

PHỤ LỤC

Phụ lục 1.1. Phiếu điều tra

PHIẾU KHẢO SÁT DÀNH CHO GIÁO VIÊN

Họ và tên (không bắt buộc): ………………Số năm công tác……..

Giáo viên trường:……………………………………………………

Để góp phần nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử địa phương ở

trường THPT tỉnh Ninh Bình, xin thầy (cô) vui lòng cho biết ý kiến về các vấn đề

dưới đây bằng cách đánh dấu (X) vào ô trống có câu trả lời thầy (cô) cho là phù

hợp.

1. Theo thầy (cô), HS có thích học tập Lịch sử không?

Rất thích 

Thích 

Không thích 

2. Theo thầy (cô), việc sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lƣ trong dạy

học lịch sử địa phƣơng tỉnh Ninh Bình cho học sinh:

Rất cần thiết 

Cần thiết 

Không cần thiết 

3. Theo thầy (cô), sử dụng di sản văn hóa trong dạy học lịch sử địa

phƣơng có tác dụng:

 Góp phần bồi dưỡng nhận thức và trí tuệ cho HS

 Rèn luyện HS kĩ năng học tập, tự chiếm lĩnh kiến thức (kĩ năng quan

sát, thu thập và xử lí thông tin, …)

 Phát triển một số kĩ năng sống ở HS (kĩ năng giao tiếp, hợp tác, quản

lí thời gian,…)

 Kích thích hứng thú học tập cho HS

 Bồi dưỡng HS tình cảm, đạo đức, hình thành nhân cách HS

 Tạo điều kiện tổ chức quá trình hoạt động của GV và HS một cách

linh hoạt, hợp lí

 Tác dụng khác (xin hãy ghi rõ nếu có):…………………………

4. Thầy (cô) đã khai thác và sử dụng nguồn tƣ liệu về di sản văn hóa địa

phƣơng nói chung, di sản Cố đô Hoa Lƣ nói riêng từ những nguồn nào ? (có

thể chọn nhiều câu trả lời)

Tài liệu giáo dục địa phương của Sở GD&ĐT dành cho các trường 

phổ thông ở Ninh Bình

Sách của các nhà nghiên cứu về lịch sử địa phương 

Nguồn tư liệu trên Internet 

Kỷ yếu hội thảo khoa học 

Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Hoa Lư 

Nguồn tư liệu khác (xin hãy ghi rõ nếu có):……………………… 

5. Thầy cô đã sử dụng loại di sản Cố đô Hoa Lƣ nào dƣới đây vào dạy

học lịch sử địa phƣơng? (có thể chọn nhiều câu trả lời)

Tư liệu viết 

Hiện vật trực quan (di vật, cổ vật, công trình kiến trúc…) 

Văn học dân gian (thơ ca, truyền miệng…) 

Tranh ảnh, video 

Tư liệu khác (xin hãy ghi rõ nếu có):……………………………… 

6. Thầy (cô) đã sử dụng các hình thức tổ chức dạy học lịch sử địa

phƣơng sau đây với mức độ nhƣ thế nào? *

Thỉnh thoảng Hiếm khi Chưa bao giờ Thường xuyên

tham Nội khóa trên lớp Tại di sản Ngoại khóa Tổ chức quan học tập

7. Thầy (cô) đã sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lƣ trong dạy học lịch

sử địa phƣơng ở trên lớp thông qua các biện pháp nào dƣới đây? (có thể chọn

nhiều câu trả lời)

Xác định kiến thức cơ bản và mục tiêu của bài học 

Vận dụng cấu trúc bài học mềm dẻo theo kiểu dạy học nêu vấn đề 

Sử dụng và kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học 

 Tổ chức các hoạt động học tập và kết hợp nhuần nhuyễn, hợp lý

chúng khi tiến hành bài học lịch sử

 Tổ chức hoạt động tự học của HS:

+ Ở trên lớp

+ Ở nhà

8. Thầy (cô) đã tổ chức dạy học bài lịch sử địa phƣơng tại di sản văn hóa

Cố đô Hoa Lƣ thông qua các biện pháp nào dƣới đây? (có thể chọn nhiều câu

trả lời)

Tổng hợp và cung cấp nguồn tư liệu chính nhằm phục vụ cho bài học 

tại di sản

 Linh hoạt trong khâu khởi động quá trình nhận thức trong dạy học

tại di sản (VD: Thắp hương tưởng niệm tại di sản…)

 Tổ chức HS đóng vai (hướng dẫn viên, khách du lịch...)

 Tổ chức hiệu quả hoạt động tự học tại di sản

 Hoạt động vận dụng gắn liền với ý thức bảo vệ và phát huy di sản

9. Thầy (cô) đã sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lƣ trong dạy học lịch

sử địa phƣơng thông qua tổ chức những hoạt động ngoại khóa nào dƣới đây?

(có thể chọn nhiều câu trả lời)

 Tổ chức thi tìm hiểu kiến thức về di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư (Rung

chuông vàng, Chinh phục đỉnh cao...)

 Tổ chức thi làm đồ dùng trực quan, mô hình lịch sử

 Tổ chức sân khấu hóa (đóng kịch, biểu diễn nghệ thuật liên quan đến

di sản)

 Hướng dẫn, tổ chức HS sưu tầm sách, tài liệu về lịch sử địa phương

 Hướng dẫn, tổ chức HS tham quan di tích lịch sử Cố đô Hoa Lư –

Trải nghiệm di sản

 Tổ chức HS tham gia lễ hội Cố đô Hoa Lư

 Vận dụng tổng hợp các hình thức ngoại khóa để tổ chức dạ hội lịch sử

như đọc sách, kể chuyện, trò chơi, giao lưu với nhân chứng lịch sử…

 Tăng cường hoạt động chăm sóc, bảo vệ di tích

10. Thầy (cô) đã sử dụng tài liệu di sản văn hóa Cố đô Hoa Lƣ vào kiểm

tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh thông qua (có thể chọn nhiều câu

trả lời):

Kiểm tra miệng 

Sử dụng các câu hỏi trắc nghiệm khách quan, tự luận trong kiểm tra 

viết (15 phút, 1 tiết, học kì)

Bài tập là sản phẩm học tập của học sinh (có tiêu chí đánh giá): 

+ Bài báo cáo thuyết trình

+ Video tự làm

+ Bài tập sưu tập về sử liệu địa phương…

Đánh giá qua hồ sơ học tập (vở ghi, sản phẩm học tập...) 

Đánh giá qua việc quan sát các hoạt động trên lớp (thái độ, hành vi, 

trả lời câu hỏi, hoạt động nhóm, mức độ hoàn thành việc được giao...)

 Sử dụng nhiều đối tượng tham gia đánh giá:

+ Cá nhân – nhóm

+ Giáo viên – học sinh

+ Tự đánh giá của học sinh

Hình thức khác (xin hãy ghi rõ nếu có):…………………………… 

11. Theo thầy (cô), việc sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lƣ trong dạy

học lịch sử địa phƣơng cho học sinh ở trƣờng THPT có thuận lợi nhƣ thế

nào? (có thể chọn nhiều câu trả lời)

Bộ GD và Sở GD quan tâm (tổ chức tập huấn - 2011, chỉ đạo xây 

dựng chương trình…)

Cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu 

Học sinh hứng thú, hưởng ứng 

Có thể huy động xã hội hóa cho HS tham quan, học tập tại di sản 

Giáo viên được đào tạo, có trình độ ứng dụng CNTT tốt 

Học sinh có thể khai thác, ứng dụng tốt CNTT 

Tài nguyên mạng phong phú 

Thuận lợi khác:…………………………………………… 

12. Theo thầy (cô), sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lƣ vào dạy học

lịch sử địa phƣơng có khó khăn gì?

Nguồn sử liệu còn hạn chế 

Thời lượng chương trình còn ít 

Dạy học trải nghiệm, tham quan học tập tại di sản khó khăn do thiếu 

kinh phí

Dạy học lịch sử địa phương chưa được quan tâm đúng mức do 

không thi môn lịch sử

Phải đầu tư, mất nhiều thời gian 

Trình độ CNTT của giáo viên còn hạn chế 

Khả năng khai thác CNTT của học sinh còn hạn chế 

Cơ sở vật chất kĩ thuật chưa đáp ứng 

Ý kiến khác (xin ghi rõ nếu có)................... 

13. Thầy (cô) có đề xuất ý kiến gì trong việc sử dụng di sản văn hóa Cố

đô Hoa Lƣ nhằm nâng cao chất lƣợng dạy học lịch sử địa phƣơng ở trƣờng

THPT tỉnh Ninh Bình? (xin ghi rõ ý kiến) *

Câu trả lời của thầy/cô:……………………………………………………………….

………………………….……………………………………………………………..

………………………….……………………………………………………………..

Xin chân thành cảm ơn các thầy, cô!

--------------------------------------------

PHIẾU KHẢO SÁT DÀNH CHO HỌC SINH

Họ và tên (không bắt buộc): ………….............................… Lớp: ...……..

Học sinh trường:…………………...................................…………………

Để góp phần nâng cao chất lượng học tập Lịch sử địa phương ở trường

THPT tỉnh Ninh Bình, em hãy vui lòng cho biết ý kiến về các vấn đề dưới đây

bằng cách viết trực tiếp hoặc đánh dấu (X) vào ô trống có câu trả lời mà em cho

là phù hợp.

1. Em có thích Lịch sử không?

 Rất thích

 Thích

 Không thích

2. Hãy kể tên từ 3 đến 5 di tích lịch sử - văn hóa của tỉnh Ninh Bình mà

em biết? Theo em, di tích nào là đặc trƣng nhất của tỉnh Ninh Bình?

- Kể tên từ 3 đến 5 di tích lịch sử - văn hóa của tỉnh Ninh Bình mà em biết:

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

- Theo em, di tích nào là đặc trưng nhất của tỉnh Ninh Bình:...............................

.......................................................................................................................................

3. Hãy làm một bài test về lịch sử địa phƣơng sau đây: (Khoanh tròn vào

đáp án mà em cho là đúng)

Câu 1. Công lao lớn nhất của Đinh Bộ Lĩnh là

dẹp loạn 12 sứ quân C. chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc A.

thống nhất đất nước D. mở đầu xây dựng nhà nước tự chủ B.

Câu 2. Kinh đô của nhà nước quân chủ chuyên chế độc lập đầu tiên là

Thăng Long C. Cổ Loa A.

Mê Linh D. Hoa Lư B.

Câu 3. Di tích nào chứng tỏ sự quan tâm đến luật pháp của nhà Đinh?

Ghềnh Tháp C. Động Am Tiên A.

Hang Luồn D. Tuyệt Tịnh Cốc B.

Câu 4. Danh nhân có công “Phá Tống, bình Chiêm” ở thế kỉ X là

A. Lý Thường Kiệt C. Đinh Bộ Lĩnh

B. Ngô Quyền D. Lê Hoàn

Câu 5. Tổ chức nhà nước quân chủ sơ khai thời Đinh – Tiền Lê gồm

A. Sáu bộ: Binh, Hình, Công, Hộ, Lại, Lễ

B. Hai ban: Văn ban và Võ ban

C. Ba ban: Văn ban, Võ ban và Tăng ban

D. Vua, Lạc hầu, Lạc tướng và Bồ chính

4. Theo em, việc sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lƣ trong dạy học

lịch sử địa phƣơng tỉnh Ninh Bình cho học sinh:

 Rất cần thiết

 Cần thiết

 Không cần thiết

5. Em đã đƣợc học tập về di sản văn hóa Cố đô Hoa Lƣ thông qua nguồn

tƣ liệu nào dƣới đây ? (có thể chọn nhiều câu trả lời)

 Tài liệu học lịch sử địa phương của Sở GD&ĐT Ninh Bình

 Sách của các nhà nghiên cứu về lịch sử địa phương

 Nguồn tư liệu trên Internet

 Nguồn tư liệu khác (ghi rõ nếu có):…………………………………

6. Em đã đƣợc tham gia các hình thức tổ chức dạy học lịch sử địa

phƣơng sau đây với mức độ nhƣ thế nào? *

Thường xuyên Thỉnh thoảng Hiếm khi

Chưa bao giờ

Nội khóa trên lớp Bài học tại di sản Ngoại khóa - Tham gia cuộc thi, trò chơi lịch sử - Tham gia lễ hội/ tham quan di tích - Biểu diễn nghệ thuật (đóng kịch...) - Đọc sách - Chăm sóc di tích - Hình thức khác... Tham quan học tập tại di sản (thực hiện nhiệm vụ học tập, về lớp báo cáo)

7. Kiến thức mà em đã học về lịch sử địa phƣơng nói chung (trong đó có

di sản văn hóa Cố đô Hoa Lƣ) đƣợc kiểm tra, đánh giá thông qua các hình

thức nào dƣới đây? (có thể chọn nhiều câu trả lời)

Kiểm tra miệng 

Bài kiểm tra viết (15 phút, 1 tiết, học kì) bao gồm các câu hỏi trắc 

nghiệm (khách quan, tự luận)

Bài tập là sản phẩm học tập (có tiêu chí đánh giá): 

o Bài báo cáo thuyết trình

o Video tự làm

o Bài tập sưu tập về sử liệu địa phương…

Đánh giá/ chấm điểm qua hồ sơ học tập (vở ghi, sản phẩm học tập...) 

Được đánh giá/ chấm điểm qua việc giáo viên quan sát các hoạt động 

trên lớp (thái độ, hành vi, trả lời câu hỏi, hoạt động nhóm, mức độ hoàn thành việc

được giao...)

Được tham gia vào việc đánh giá, chấm điểm (Phiếu đánh giá có tiêu 

chí chấm cụ thể)

Hình thức khác (hãy ghi rõ nếu có):……………………………….. 

8. Theo em, việc sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lƣ trong dạy học

lịch sử địa phƣơng cho học sinh ở trƣờng THPT có thuận lợi nhƣ thế nào? (có

thể chọn nhiều câu trả lời)

 Bộ GD và Sở GD quan tâm, nhà trường chú trọng

 Cơ sở vật chất (máy tính, máy chiếu, mạng Internet) đáp ứng yêu cầu

Học sinh hứng thú, hưởng ứng tham gia 

Có thể huy động xã hội hóa (đóng góp của gia đình, xã hội) cho HS 

tham quan, học tập tại di sản

Giáo viên được đào tạo, có trình độ ứng dụng CNTT tốt 

Học sinh có thể khai thác, ứng dụng tốt CNTT 

Tài nguyên mạng phong phú 

Thuận lợi khác (hãy ghi rõ nếu có):……………………………….. 

9. Theo em, việc sử dụng di sản văn hóa Cố đô Hoa Lƣ vào dạy học lịch

sử địa phƣơng có khó khăn gì?

Nguồn sử liệu về di sản còn hạn chế 

Thời lượng chương trình quá ít 

Dạy học trải nghiệm, tham quan học tập tại di sản khó khăn do thiếu 

kinh phí

Dạy học lịch sử địa phương chưa được quan tâm đúng mức do 

không thi THPTQG

Phải đầu tư, mất nhiều thời gian 

Trình độ CNTT của giáo viên còn hạn chế 

Khả năng khai thác CNTT của học sinh còn hạn chế 

Cơ sở vật chất kĩ thuật chưa đáp ứng 

Ý kiến khác (ghi rõ nếu có)................... 

10. Em có đề xuất ý kiến gì để việc học lịch sử địa phƣơng (có di sản văn

hóa Cố đô Hoa Lƣ) ở trƣờng đạt kết quả cao? (hãy ghi rõ ý kiến) *

Câu trả lời của em:……………………………………………………………………

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

Xin chân thành cảm ơn em!

--------------------------------------------

Phụ lục 1.2. Nội dung một số loại di sản văn hóa Cố đô Hoa Lƣ tiêu biểu

Về DSVH vật thể thuộc di sản Cố đô Hoa Lư :

- Một là, về các di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu như:

Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng:

Hình ảnh Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng

Đền được dựng trên nền chính điện của kinh đô Hoa Lư, với tổng diện tích

khoảng 3 mẫu Bắc Bộ. Trước đền có núi Mã Yên làm bình phong, phía sau đền là

dãy núi Dù bao bọc, các kiến trúc thành phần được bố trí đối xứng nhau qua đường

“dũng đạo”. Kiến trúc chính của đền gồm: Bắc môn, nghi môn ngoại, nghi môn

nội, sân rồng, nhà Khải Thánh, tiền đường, thiêu hương, hậu cung, nhà bia, sân

vườn…

Đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng được xây dựng mô phỏng theo lối cung điện, kết

cấu “nội công, ngoại quốc” (囯), thần đạo lát hình chữ “vương” (王). Mặt bằng của

tổng thể kiến trúc được bắt đầu với Ngọ Môn quan, kết cấu hình vuông 2 tầng 8 mái,

đắp nổi lân hí cầu, đây là con vật linh thiêng với tư cách làm nhiệm vụ kiểm soát tâm

linh của khách hành hương. Tiếp đến là long sàng (sập thờ), niên đại thế kỷ XVIII.

Long sàng được tạc bằng chất liệu đá xanh nguyên khối. Mặt long sàng chạm nổi

độc long, dạ cá trang trí hổ phù ngậm chữ “thọ” (寿), bốn chân tạo hình con “quỳ”

[59; tr.56].

Hai bên long sàng là hai con nghê chầu bằng đá khá đẹp, niên đại thế kỷ XVII.

Thân nghê tròn mập, điểm xuyết trên thân là những đao mác, hai chân trước đứng,

hai chân sau quỳ, tạo cho nghê như trong tư thế sẵn sàng lao về phía trước vừa sống

động, vừa linh thiêng.

Tiếp đến là hai lớp cửa có kiến trúc tương tự nhau là Nghi môn ngoại và Nghi

môn nội. Hai Nghi môn được làm dưới dạng ngôi nhà có 3 gian, có kết cấu kiểu ba

hàng chân cột. Kiến trúc này được xác nhận là kết cấu kiến trúc ba hàng chân cột

sớm nhất của nước ta ở thế kỷ XVII còn lưu giữ được cho đến nay. Hệ thống rường,

cột liên kết chắc chắn. Đề tài trang trí ở đây khá đa dạng, chủ đạo với hình ảnh

rồng. Với kỹ thuật chạm bong, lộng, rồng ở đây với thân mập, đao mác lá hỏa.

Chúng được chạm dưới dạng rồng ổ, rồng đàn mang ước vọng cầu về phồn thực.

Đặc biệt ở Nghi môn nội ngoài đề tài về rồng, người nghệ nhân xưa còn chạm khắc

các đề tài trang trí mang nguồn gốc dân dã: Hoạt cảnh người đấu thú - hình ảnh này

đã mang thông điệp về sức mạnh của con người chế ngự thiên nhiên, hình ảnh các

con thú đang nằm nghỉ ngơi gợi cho ta nhớ về cảnh làng quê thanh bình. Con người

ở đây được chạm dưới dạng vũ nữ thiên thần cưỡi rồng, tay trong tư thế đang múa,

thân hình uyển chuyển. Nhìn chung, các mảng chạm khắc này đi vào đề tài cuộc

sống thường nhật, nhưng có giá trị điêu khắc khá cao, đầy chất biểu tượng. Nó có

tác dụng làm cho kiến trúc sống động, gần gũi và có vẻ đẹp riêng.

Trung tâm của sân rồng là long sàng (sập thờ) điển hình của người Việt, chất

liệu bằng đá, niên đại thế kỷ XVII. Mặt long sàng là một con rồng khá lớn với thân

mập, vảy đơn, đao mác lá hỏa. Con rồng ở đây ngoài biểu tượng cho quyền lực của

vương quyền, nó còn là linh vật cầu mưa thuận gió hòa - ước vọng truyền đời của cư

dân nông nghiệp. Diềm long sàng chạm nổi những biểu tượng liên quan đến nước

như: đôi rồng chầu cụm vân xoắn, cá, tôm. Mặt trước của long sàng được chia thành

các ô nhỏ, trang trí hình các con vật: trâu, thiên nga... Mặt sau của long sàng chạm

nổi một hàng hoa chanh. Để tạo thế uy nghi, hai bên long sàng nghệ nhân tạc hai

rồng chầu kiểu yên ngựa. Sự kết hợp này đã tạo cho long sàng thế tay ngai.

Hiên đền thể hiện sự tinh xảo về nghệ thuật chạm khắc. Trên ván bưng trang trí các

đề tài: Rồng săn thú, rồng ngậm ngọc, rồng chầu chữ “ngọc”, rồng chầu chữ “vạn”.

Ngưỡng cửa khá cao được tu bổ dưới thời Vua Thành Thái hoàng đế thứ 10

của triều Nguyễn (1898), nó không chỉ là một kiến trúc đơn thuần mà còn chứa

đựng một khía cạnh thuộc bản sắc văn hóa cổ truyền:

“Nhập môn cúc cung như bất dung - Thăng đường bỉnh khí tự bất túc”.

Dịch nghĩa: Bước chân vào cửa phải khom lưng - Đi đứng lên thềm nên nín thở.

Hoặc: “Tiến thoái chu toàn tề thận - Thăng giáng xuất nhập ấp du”.

Dịch nghĩa: Lui tới đi về nên cẩn thận - Ra vào lên xuống phải khiêm nhường.

Nội điện kết cấu kiểu chữ Công (I), gồm ba tòa: Bái đường, Thiêu hương và

Chính cung.

Tòa Bái đường thờ Công đồng. Tòa này treo bức đại tự “Chính thống thủy”

(Mở nền chính thống) được cung tiến dưới triều Nguyễn, ca ngợi Vua Đinh Tiên

Hoàng là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mở ra một nền tự chủ, thống nhất

cho dân tộc. Bức đại tự như tấm bảng vàng lưu lại công lao nghìn thu của Tiên đế.

Ca ngợi về kinh đô Hoa Lư, danh nhân đất Ninh Bình, cụ Vũ Phạm Khải đã viết đôi

câu đối (Tự Đức, năm Giáp Tý, 1864):

“Cồ Việt quốc đương Tống Khai Bảo Hoa Lư đô thị Hán Tràng An”

Dịch nghĩa: Nước Cồ Việt sánh ngang niên hiệu Khai Bảo Kinh đô Hoa Lư

sánh ngang kinh đô Tràng An [59; tr.15].

Tòa Thiêu hương là nơi thờ các quan văn võ triều Đinh. Hình ảnh rồng ở đây

được chạm với hoạt cảnh rồng săn mồi, rồng ổ, rồng đàn, nét chạm điêu luyện, cho

ta thấy được đời sống đa dạng của loài rồng.

Tòa Chính cung bài trí tượng Vua Đinh Tiên Hoàng, Nam Việt Vương Đinh

Liễn, Thái tử Hạng Lang và Vệ Vương Đinh Toàn.

Tượng Vua Đinh Tiên Hoàng được tạc uy nghiêm trong tư thế thiết triều, đầu

đội mũ bình thiên, khoác áo hoàng bào, ngự trên ngai. Tượng các hoàng tử tạc trong

trang phục của quan, đầu đội mũ ô sa, ngồi trên bục. Hai bên tượng Vua Đinh có 2

rồng chầu bằng đá, niên đại thế kỷ XVII. Rồng bán thân kiểu yên ngựa, dưới bụng

rồng có cá, tôm. Người nghệ nhân đã đưa vào thâm cung hình ảnh “cá vượt vũ

môn” để cầu mong người tài xuất thế với câu ca rằng: “Mồng bốn cá đi ăn thề

Mồng tám cá về cá vượt vũ môn”.

Đền thờ vua Lê Đại Hành: gồm các hạng mục: tiền đường, thiêu hương và

hậu cung. Kiến trúc tiền đường gồm 5 gian, mang phong cách kiến trúc thời Hậu

Lê. Thiêu hương gồm 2 gian dọc, dài 2,8m, rộng 6,15m, với các bộ vì được làm

theo kiểu “trụ chung kẻ góc”, hai bên vách bưng ván đố lụa, gian giữa đặt ban thờ

các quan. Hậu cung gồm 5 gian, dài 14m, rộng 6m. Gian giữa đặt tượng Lê Đại

Hành, gian bên trái đặt tượng Thái hậu Dương Vân Nga, gian bên phải đặt tượng

Khải Minh Vương (Lê Long Đĩnh)… Ngoài ra, trong khu vực này còn có một số

hạng mục kiến trúc khác, như tam môn, từ vũ, nghi môn ngoại, nghi môn nội, sân

rồng, nhà vọng, hai nhà bia.

Hình ảnh Đền thờ vua Lê Đại Hành

Đền thờ Vua Lê Đại Hành được xây dựng thế kỷ XVII. Kiến trúc theo kiểu

“nội công, ngoại quốc” ( 囯 ), thần đạo lát hình chữ Vương ( 王 ) giống như đền

Vua Đinh. Đặc biệt, đền Vua Lê còn giữ được nhiều mảng điêu khắc đẹp của thời

hậu Lê.

Hiên đền thờ Vua Lê là sự thể hiện sắc xảo về kỹ thuật chạm khắc trên gỗ của

người nghệ nhân thế kỷ XVII. Hoa sen, hoa cúc và rồng cách điệu đã chiếm vị trí

chính trong trang trí trên các mảng “chồng rường” (đây là các đoạn gối đỡ mái dạng

dầm gỗ hộp để đỡ hoành mái, được đặt chồng lên nhau. Chiều dài của chúng thu

ngắn dần cân theo chiều vát của mái, càng lên cao các con rường bên trên càng

ngắn, ở vì nóc các con rường nằm chồng lên câu đầu). Ở đây, hoa sen không những

biểu trưng cho sự thanh cao, cho triết lý nhân quả mà khi kết hợp với chạm khắc hổ,

khóm trúc, nó còn có ý nghĩa gắn liền với truyền thuyết sinh ra Lê Hoàn. Truyền

thuyết kể rằng bà Đặng Thị Nhân mơ thấy hoa sen mà sinh ra Lê Hoàn trong lúc đi

cấy cạnh ao sen. Bà đã ủ con trong khóm trúc và Lê Hoàn được con hổ rừng xanh ấp

ủ. Sau lời cầu xin của bà mẹ, hổ lững thững bỏ đi. Như vậy, truyền thuyết và điêu

khắc gỗ dân gian cùng đề tài ca ngợi Lê Hoàn.

Ngoài hình ảnh rồng được tạc theo mô típ chung thì ở đây các mảng chạm

khắc còn thể hiện loài cây, loài vật hóa rồng đầy chất nghệ thuật như: “trúc hóa

long”, “cá hóa long”. Cũng là đề tài “cá hóa long” nhưng cá chép ở đây được địa

phương hóa biến thành dạng cá rô, để nhấn mạnh đặc sản nơi đây. Vùng đất Trường

Yên là vùng chiêm trũng, lại là vùng núi có nhiều hang động nên có nhiều cá rô to

và béo. Ca dao xưa đã ca ngợi:

Đi thì nhớ Cậu cùng Cô

Khi về thì nhớ cá Rô tổng Trường.

Trúc được thể hiện với đề tài “trúc hóa long”, “trúc tước”. Thân trúc được uốn

theo dáng khúc khuỷu để tạo thành những hóa thân của tồng. Những cây trúc xương

gà được chạm các đốt phồng to khá đẹp.

Nội điện kết cấu kiểu chữ Công (I), gồm ba tòa: Bái đường, Thiêu hương và

Chính cung.

Tòa Bái đường thờ công đồng. Kiến trúc tiêu biểu là đôi xà ngà voi cách điệu

từ gỗ, hai ngà voi thực chất là hai kẻ góc vừa đỡ mái, vừa che các đầu hoành, một

kỹ thuật rất khó trong kiến trúc cổ truyền từng được đi vào ca dao:

Thứ nhất là cầu thượng gia Thứ nhì kẻ góc, thứ ba đao đình.

Để biểu dương tinh thần thượng võ, ở đây treo đôi câu đối ca ngợi sự nghiệp

“kháng Tống, bình Chiêm” của Vua Lê: “Thần vũ thiếp tứ lân, thịnh Tống cường

Chiêm thử nhật Tinh linh tồn thiên cổ, Long giang Mã trục chi gian”.

Dịch nghĩa: Thần vũ động 4 bên, trong lúc Chiêm cường, Tống thịnh Thiêng

liêng còn muôn thuở trong vùng núi Mã, sông Long. [59; tr.19].

Tòa Thiêu hương thờ các quan, những công thần của triều Tiền Lê. Ở đây, với

nghệ thuật chạm khắc tinh xảo, người nghệ nhân thế kỷ XVII đã trang trí trên vì ván

mê đề tài về rồng rất phong phú, đa dạng với các hoạt cảnh rồng ổ, rồng đàn. Gợi

cho du khách liên tưởng đến tín ngưỡng phồn thực của người xưa.

Tòa Chính cung bài trí tượng Vua Lê Đại Hành, Thái hậu Dương Vân Nga và

Khai Minh Vương Lê Long Đĩnh (vua Lê Ngọa Triều). Các pho tượng có niên đại

thế kỷ XVII.

Chùa và động Am Tiên: Động nằm cách cửa Đông của đền Đinh Tiên

Hoàng khoảng 400m. Trong những năm cuối đời, Thái hậu Dương Vân Nga đã xuất

gia, tu hành ở đây. Dưới thời Lý, thiền sư Nguyễn Minh Không cũng đã từng tụng

kinh, thuyết pháp trong động này. Phần lớn khu vực động Am Tiên nằm trong một

thung lũng ngập nước, được bao bọc bởi những vách núi đá. Cửa Động Am Tiên ở

lưng chừng núi, phải leo qua 205 bậc đá… mới vào đến Động. Vì cửa động có hình

giống như miệng rồng, nên động còn có tên gọi khác là hang Rồng. Trong động có

nhiều nhũ đá, hình thù kỳ lạ, như cây thóc, cây tiền, trái Phật thủ, nụ hoa sen…

Hiện tại, hang chính của động Am Tiên vừa là chùa thờ Phật và thiền sư Nguyễn

Minh Không, vừa là một ngôi đền thờ các vị danh nhân, như quan thi hành án và

Thái hậu Dương Vân Nga…

Chùa Nhất Trụ: Chùa Nhất Trụ, còn có tên gọi khác là chùa Một Cột. Tương

truyền, chùa này được khởi dựng từ thế kỷ X. Trong chùa hiện còn lưu giữ được

nhiều di vật, cổ vật gắn với lịch sử hình thành và phát triển của kinh đô Hoa Lư, nổi

bật nhất là cột kinh bằng đá, được dựng ở trước sân chùa vào năm 995. Chùa được

dựng trên mặt bằng kiến trúc dạng chữ “Đinh”, quay hướng chính Tây, gồm các

hạng mục: chính điện, nhà tổ, phòng khách, nhà ăn và tháp…

Đình Yên Trạch: Đình thuộc làng Yên Trạch, xã Trường Yên, thờ Đinh Tiên

Hoàng làm Thành hoàng làng. Đình nằm trên khoảng đất rộng, cao ráo, quay hướng

Đông Bắc, có mặt bằng nền hình chữ “Công”, gồm đại bái (5 gian), thiêu hương (1

gian), hậu cung (3 gian, 2 chái). Phía trước đình là một hồ rộng, ba mặt còn lại có

núi bao bọc, tạo thành thế tay ngai vô cùng vững chãi.

Chùa Ngần: Chùa còn có tên chữ là “Kim Ngân tự”, tức chùa Kim Ngân.

Tương truyền, chùa được dựng trên nền nhà kho của vua Đinh - vua Lê. Hiện nay,

chùa toạ lạc trên thửa đất rộng 2000m2, ở giữa cánh đồng Ngần, bốn bề là núi bao

bọc, phía trước là hệ thống ao, hồ tương đối rộng. Kiến trúc chùa chính được dựng

trên mặt bằng nền hình chữ “Đinh”. Các hạng mục kiến trúc của chùa gồm: tiền

đường, thượng điện và nhà Tổ…

Phủ Đông Vƣơng: Phủ thuộc địa phận thôn Đông Thành, thờ Đông Thành

Vương (Lê Ngân Tính), con thứ 2 của Lê Đại Hành. Phủ quay hướng Tây Nam, mặt

bằng kiến trúc hình chữ “Đinh”, gồm tiền đường (3 gian, 2 chái) và hậu cung (1

gian). Phía trước phủ có một ngôi miếu nhỏ, thờ Mẫu Liễu Hạnh.

Phủ Kình Thiên: Phủ thờ Lê Thâu, con cả của Lê Đại Hành. Phủ được dựng

trên một khu đất cao ráo, nằm về phía Đông Nam của xóm Đông, thôn Yên

Thượng. Phủ quay hướng Tây, quy mô khá nhỏ, mặt bằng kiến trúc hình chữ

“Đinh”, gồm tiền đường (3 gian, 2 chái) và hậu cung (1 gian, 2 chái).

Đền thờ Thục Tiết công chúa: Còn có tên gọi khác là đền Phất Kim hay phủ

Bà Chúa Đền, thuộc địa phận xóm Phật Đồng, thôn Yên Thượng, thờ Thục Tiết

công chúa, con gái của Đinh Tiên Hoàng. Đền thờ được dựng trên một thửa đất

rộng 500m2, với mặt bằng kiến trúc dạng chữ “Đinh”, gồm tiền bái (3 gian) và hậu

cung (1 gian, 2 dĩ).

Bia cửa Đông: Bia ghi lại dấu tích của con đường phía Đông kinh đô Hoa Lư

vào thế kỷ X. Bia được chạm trên vách núi, mặt bia quay hướng Đông Bắc, cao

95cm, rộng 40cm, xung quanh trang trí hoa văn rất tinh tế.

Lăng vua Đinh và lăng vua Lê: Lăng Đinh Tiên Hoàng được đặt ở chính

giữa đỉnh Mã Yên (gối Tây Bắc hướng Đông Nam), bằng kết cấu đá. Phần đầu của

lăng xây cuốn kiểu bình phong, phía trước có nhà bia nhỏ, trong có bia đá, dựng

năm Minh Mệnh 21 (1840). Lăng vua Lê Đại Hành ở chân núi Mã Yên, khuôn viên

khá rộng, kết cấu gạch, xung quanh xây tường hoa. Phần đầu lăng mộ tạo hình cuốn

thư, phía sau có bia đá, dựng năm Minh Mệnh 21 (1840).

Hang Muối: Tương truyền đây là nơi cất giữ muối, lương thực của nhà Đinh.

Hang Quàn: Tương truyền đây là nơi quàn thi hài Đinh Tiên Hoàng.

- Hai là, các di vật, cổ vật bao gồm cung điện dưới lòng đất và tường thành

thiên tạo :

Trải qua thăng trầm của lịch sử, hiện nay các cung điện dát vàng, dát bạc của

thế kỷ X không còn nữa. Để chứng minh về kinh thành Hoa Lư, ngành văn hóa của

tỉnh Ninh Bình đã phối hợp với các đơn vị liên quan tiến hành điều tra, thám sát và

khai quật nhiều lần. Kết quả cho thấy trên mặt bằng của Cố đô Hoa Lư hiện còn

nhiều các di vật liên quan tới triều Đinh - Tiền Lê.

Theo chính sử, núi Phi Vân (Đại Vân) thuộc khu thành Ngoại là trung tâm của

kinh đô Hoa Lư với việc xây dựng rất nhiều cung điện. Hiện nay, xét về địa hình

của Cố đô Hoa Lư thì vị trí tọa lạc của 2 ngôi đền thờ vua Đinh, vua Lê nằm liền kề

với núi Phi Vân. Do vậy, năm 1998, các nhà khảo cổ đã tiến hành khai quật về phía

nam đền thờ vua Lê, cũng đồng thời là khu đất bằng phẳng giữa 2 ngôi đền. Kết quả

cho thấy, dưới độ sâu 0,95m đã phát hiện được vết tích nền móng cung điện thời

Đinh - Tiền Lê.

Phát lộ vết tích nền móng cung điện với 2 mảng nền đã cho thấy gạch lát nền

cung điện được làm bằng chất liệu đất nung, hình vuông, trang trí họa tiết Hoa Sen,

Chim phượng, kích thước phổ biến: : 34 x 34 x 7,5cm. Bên cạnh các viên gạch cỡ

trung bình 34 x 34cm còn có 2 viên gạch chữ nhật cỡ lớn, 1 viên 47 x 64 cm, 1 viên

47 x 74cm, trên mặt gạch có trang trí 2 bông hoa sen 8 cánh mập. Các đề tài trang

trí trên mặt gạch Hoa sen và Chim phượng cho ta thấy quan niệm về âm dương

được thể hiện rất rõ ràng và nghiêm ngặt: Vuông - tròn, đực - cái (chim phượng 1

con trống cường tráng, một con mái nhỏ nhắn), động vật - thực vật (chim phượng -

hoa dây, hoa sen - bướm).

Ngoài ra, qua công tác khai quật còn phát hiện một số nguyên vật liệu dùng để

xây dựng tường thành, cung điện như: gạch “Đại Việt quốc quân thành chuyên”,

gạch “ Giang Tây quân”, ngói nóc, ngói âm dương, ngói ống phủ diềm hoa chanh,

ngói mũi lá… và một số di vật dùng để trang trí cung điện, sử dụng trong cuộc sống

hàng ngày như: mặt linh thú, tượng vịt, cột kinh, vò, vại, bệ tháp, chì lưới, thuyền

tán, thóc cháy…

Qua các di vật đã cho ta thấy đề tài trang trí tuy còn đơn giản, mộc mạc trong

cách thể hiện, nhưng nó lại mang đậm màu sắc văn hóa đặc trưng của dân tộc. Nghệ

thuật này đã tạo ra những tiền đề cơ bản để văn hóa Việt Nam phát triển rực rỡ

trong thời kỳ tiếp theo.

Ngoài ra, qua kết quả của công tác khai quật, các nhà khảo cổ cho rằng khu

trung tâm của kinh đô Hoa Lư được bao bọc bởi dãy núi Phi Vân ở phía tây, dãy núi

Hang Quàn ở phía đông, đồng thời được bảo vệ bởi 2 tường thành nhân tạo: tường

Vầu chắn về phía nam. Tường Chẹm chắn mặt bắc.

Cố đô Hoa Lư là một kiến trúc hài hòa giữa nhân tạo và thiên tạo. Các triều

vua đã sử dụng triệt để sự lợi hại của những dãy núi và hệ thống sông hào làm thành

quách để xây dựng cung điện. Qua thời gian, thành nhân tạo chỉ còn là những dấu

tích, thành thiên tạo là những vách núi vẫn còn tồn tại mãi như: Núi Mã Yên

(Tương truyền khi dựng kinh đô Đinh Bộ Lĩnh đã lấy núi này làm án. Đứng ở trên

đỉnh núi có thể nhìn rõ toàn cảnh Cố đô với dãy núi Rù bao quanh đền hai vua, rặng

Phi Vân, núi Kiến, núi Cột Cờ và khu dân cư. Người xưa đã an táng Đinh Tiên

Hoàng trên đỉnh núi với quan niệm đề cao tinh thần thượng võ của người, dù mất

vẫn còn trên yên ngựa, vì vậy để lên thăm lăng mộ vua Đinh Tiên Hoàng phải bước

lên 150 bậc đá của núi Mã Yên); Núi Cột Cờ (Phía đông bắc thành ngoại có núi

Cột Cờ là nơi treo quốc kỳ Đại Cồ Việt, tại đây đã khai quật được dấu tích tường

thành); Ghềnh Tháp (Phía đông nam có ghềnh tháp là nơi Đinh Tiên Hoàng duyệt

thủy quân. Khu vực này còn có hang Tiền, hang muối - nơi cất giữ tài sản quốc

gia, động Am Tiên nhốt hổ, báo để xử người có tội). Sông Hoàng Long: Là con

sông gắn với những truyền thuyết về Đinh Bộ Lĩnh thuở nhỏ. Sông nằm ở phía

bắc kinh đô Hoa Lư, một nhánh của sông Hoàng Long nằm uốn lượn trong khu di

tích mà người dân địa phương gọi là sông Sào Khê. Tương truyền, bên bến sông

này là nơi Lý Công Uẩn hạ chiếu dời đô để xuống thuyền tiến về Thăng Long. Sông

Sào Khê hiện nay được nạo vét và là một cửa ngõ đường thủy dẫn vào các khu di

tích, thắng cảnh Hoa Lư.

Kinh đô Hoa Lư còn được bao bọc bởi nhiều ngọn núi, các triều vua đã dựa

theo địa hình tự nhiên cho đắp 10 đoạn tường thành nối các núi đá, dựng nên thành

Hoa Lư với diện tích hơn 300 ha. Toàn bộ công trình chủ yếu được các vua Đinh,

Lê dựa vào thiên nhiên hiểm trở làm chỗ dựa, mang nặng tính chất quân sự, không

câu nệ vào hình dáng, kích thước. Thành Hoa Lư có hai vòng: thành Đông và thành

Tây, có đường thông với nhau. Thành Đông có vai trò quan trọng hơn. Các nhà

khảo cổ đào một số đoạn tường thành phát hiện ở những khu vực này có móng

thành bằng cành cây với nhiều cọc đóng xuống sâu. Phía trong của tường thành xây

bằng gạch, dày đến 0,45 m, cao từ 8-10 mét. Chân tường kè đá tảng, gạch và đóng

cọc gỗ. Loại gạch phổ biến có kích thước 30 x 16 x 4 cm, trên gạch thường có in

các dòng chữ "Đại Việt quốc quân thành chuyên" và "Giang Tây quân". Phía ngoài

tường gạch là tường đất đắp rất dày.

Thành Đông hay thành ngoài rộng khoảng 140 ha, thuộc địa phận hai thôn

Yên Thượng và Yên Thành xã Trường Yên, có 5 đoạn tường thành nối các dãy núi

tạo nên vòng thành khép kín. Ðây là cung điện chính mà khu vực đền vua Ðinh, đền

vua Lê nằm ở trung tâm.

Thành Tây hay thành trong có diện tích tương đương thành ngoài, thuộc thôn

Chi Phong cũng có 5 đoạn tường thành nối liền các dãy núi.

Giữa hai tòa thành này, việc qua lại thực hiện được bằng một lối đi, một ngách

núi, gọi là Quèn Vòng, tuy thấy có vẻ hiểm trở nhưng thật ra rất là thuận tiện. Cả hai

thành đều lợi dụng được nhánh sông Sào Khê chảy dọc thành, vừa là hào nước tự

nhiên, vừa là đường thủy, phục vụ việc di chuyển ra vào thành. Trong hai tòa thành có

bố trí các khu triều đình, quan lại và quân lính. Hiện nay thành thiên tạo vẫn còn, thành nhân tạo và cung điện chỉ còn là những dấu tích đang được khai quật.

Thành Nam nằm ở phía Nam kinh thành Hoa Lư, có núi cao bao bọc xung

quanh, bảo vệ mặt sau thành. Địa thế thành Nam rất vững chắc, đoạn sông Trường

chảy qua thành Nam có một hệ thống khe ngòi chằng chịt từ các ngách núi đổ ra.

Thành Nam có nhiều giá trị về mặt quân sự, là nơi dự trữ, thủ hiểm từ đây có thể

nhanh chóng rút ra ngoài bằng đường thủy. Đây là hệ thống hang động Tràng

An hiện tại. Khu thành hào, hang động Tràng An xưa được sử dụng như là hệ thống

phòng thủ mặt sau của kinh thành Hoa Lư. Tại đây cũng khai quật được các dấu tích

của người tiền sử. Vào thời Trần, tại hang bói ở đây là cứ địa chống quân Nguyên

Mông. Đây là tuyến điểm di tích lịch sử thu hút nhiều nhà khảo cổ, nghiên cứu lịch

sử đến làm việc. Tại đây đã tìm được nhiều cổ vật từ thời Đinh, Tiền Lê và thời

Trần. Tràng An là một khu danh thắng nổi tiếng đã được UNESCO công nhận là di

sản thiên nhiên thế giới với giá trị nổi bật về cảnh quan thiên nhiên, đa dạng sinh

thái và kiến tạo địa chất, là địa danh được Việt Nam đầu tư để trở thành một khu du

lịch tầm cỡ quốc tế. Tràng An gắn liền với những giá trị lịch sử, văn hóa của vùng

đất cố đô Hoa Lư.

- Ba là, bảo vật quốc gia: Cố đô Hoa Lư hiện nay còn lưu giữ 4 bảo vật quốc

gia đã được thủ tướng chính phủ công nhận là:

+ Long sàng trước Nghi môn ngoại và trước Bái đường Đền thờ Vua Đinh

Tiên Hoàng: Cố đô Hoa Lư, Ninh Bình là nơi lưu giữ hai chiếc sập đá vô cùng độc

đáo, là một bảo vật vô tiền khoáng hậu trong mỹ thuật Việt Nam. Hai chiếc sập đá

cũng có thể gọi là long sàng này là một trong những hiện vật quan trọng nhất của

ngôi đền vua Đinh. Hai chiếc sập đá này xác lập những kỷ lục lần đầu tiên và duy

nhất trong mỹ thuật Việt.

+ Cột kinh Phật tại chùa Nhất trụ được dựng từ thế kỷ thứ X đến nay vẫn còn

tại vị trí cũ. Với những nét độc đáo, Cột kinh Phật đã minh chứng cho thời kỳ phát

triển rực rỡ đạo Phật ở Việt Nam. Đây là thời kỳ bắt đầu giành độc lập, thống nhất

thể hiện sự khéo léo trong nghệ thuật trang trí, chạm khắc trên đá, nghệ thuật chế

tác của ông cha ta thời bấy giờ. Với kiến trúc độc đáo trên, trải qua hàng ngàn năm

nhưng các bộ phận của cột vẫn không tách rời và giữ được vẻ nguyên sơ.

+ Bộ Phủ Việt đền thờ Vua Đinh Tiên hoàng và Bộ Phủ Việt đền thờ Vua Lê

Đại Hành là những hiện vật gốc độc bản, được triều đình và nhân dân Hoa Lư tạo

tác từ thế kỷ XVII làm đồ tế khí để thờ tự, tôn vinh và tưởng nhớ công đức Vua

Đinh Tiên Hoàng, Vua Lê Đại Hành. Phủ Việt có cấu tạo độc đáo, họa tiết trang trí

tinh tế, thể hiện tài năng sáng tạo của người Việt; có ý nghĩa quan trọng về lịch sử,

văn hóa, nghệ thuật truyền thống Việt Nam thế kỷ XVII, thể hiện sự giao thoa, tiếp

biến, làm giàu có thêm giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.

Về DSVH phi vật thể thuộc di sản Cố đô Hoa Lư :

- Thứ nhất, ngữ văn dân gian :

+ Truyện kể dân gian : Truyện “Con Rái Thần”, “Mả táng Hàm Rồng”, “Sự tích

sông Hoàng Long”, “Sự tích sông Vân Sàng”, “Cây Khế trong vườn vua Lê” [63]

Truyện “Con Rái Thần”:

Ông Đinh Công Trứ quê ở động Hoa Lư (nay thuộc xã Gia Phương, huyện Gia

Viễn), giữ chức Thứ sử châu Hoan (Nghệ An), về đời Dương Đình Nghệ. Một hôm,

quân phản loạn nổi lên cướp phá doanh thự, kho tàng, khí giới bị đốt cháy trụi. Ông

cùng vợ là bà Đàm Thị, khăn gói lánh về quê quán.

Trên đường về, hai vợ chồng ông rất mệt mỏi, buồn phiền. Nhưng điều phiền

muộn hơn cả là ông bà lấy nhau đã mấy chục năm rồi mà chưa có một mụn con cho

vui cửa, vui nhà. Bây giờ, cả hai ông bà đã luống tuổi, còn mong chi đường con cái.

Họ thường than thân, trách phận, sao trời ăn ở không công. Cả đời ông bà ăn hiền ở

lành, làm điều phúc đức, mà không có con nối dõi tông đường.

Ông bà đi ròng rã gần tháng trời, nên rất mệt mỏi. Về đến núi Bái Lĩnh (núi

Đính), gần làng, vợ chồng ông ngồi nghỉ dưới một bóng cây cổ thụ. Thấy dưới ruộng

thỉnh thoảng lại có tiếng cá quẫy, bà Đàm Thị bảo chồng ngồi ngả lưng vào gốc cây

cho đỡ mệt, còn mình xuống mò lấy ít cua, cá về nấu bát dấm ăn cho đỡ xót ruột.

Bà Đàm Thị càng bắt càng thấy lắm cua, cá, nên mải mê quá, chả mấy chốc đã

cách xa chỗ chồng nghỉ, vào tới chân núi cuối đồng. Trời đang nắng to, bỗng một

trận mưa rào ập đến. Bà Đàm Thị bèn lánh trong một hang núi truớc mặt. Trước

hang là một cái đầm rất to và sâu. Bà đứng trong hang núi, chụm hai tay hứng

những giọt nước long lanh ngũ sắc từ một cây nhũ đá rỏ xuống. Uống xong, kỳ lạ

thật, bà buồn ngủ nhíu mắt lại. Thấy giữa hang có một tảng đá to, nhẵn lỳ như một

cái sập gụ, bà ngả lưng xuống, rồi ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Cơn mưa vừa

tạnh, bà Đàm Thị cũng vừa tỉnh giấc. Bà giật mình thấy có một con rái cá hình

nhân, to lớn như một người đàn ông nằm bên cạnh, một chân vắt qua bụng bà.

Hoảng sợ quá, bà kêu la ầm ĩ, vùng ra khỏi con rái cá, cắm đầu cắm cổ chạy về phía

chồng kêu cứu. Chồng bà và những người dân làm đồng xung quanh nghe tiếng la

thất thanh, chạy đổ xô về phía hang núi. Con rái cá hình nhân thấy đoàn người tay

dao, tay gậy, tay liềm, ầm ầm kéo vào hang, nhưng nó vẫn đứng trên phiến đá trơ

trơ như pho tượng, không hề chạy trốn. Đoàn người xông vào đánh, chém tới tấp

con rái cá kỳ lạ ấy. Ông Đinh Công Trứ yếu mệt vì đi dường xa dài ngày, chạy đến

cửa hang thì người ta đã đánh chết con rái cá, đang mổ thịt chia nhau. Ông chỉ xin

bộ xương và tấm da con rái, gói lại cẩn thận, mang về để trên gác bếp.

Ít lâu sau, bà Đàm Thị thấy trong lòng nôn nao, rạo rực, bà biết mình đã có

thai. Bà không biết nói với ông thế nào về giấc ngủ chốc lát như bị thần thôi miên

trong hang núi lúc trú mưa. Bà cứ băn khoăn, do dự mãi, thành ra, đành cứ giấu kín

chồng. Ông Đinh Công Trứ thấy vợ có thai thì mừng rỡ nói :

- Mai ngày sinh hạ, mình hãy đặt tên con là Bộ Lĩnh để kỷ niệm chặng đường

bộ chạy loạn vất vả, gian nan và buổi trưa nghỉ dưới chân núi Bái Lĩnh nhé!

Vợ chồng ông Đinh Công Trứ về làng được hơn hai tháng thì ông mất đột

ngột. Bà Đàm Thị gào khóc thảm thiết. Dân làng ai cũng thương tình. Bà vất vả lần

hồi mò cua, bắt ốc kiếm sống, không hề nói với ai là mình đã có thai. Bụng bà mỗi

ngày một to ra. Thế mà ông Đinh Công Trứ mất đã tròn một năm rồi mà bà vẫn

chưa sinh nở. Những lời thị phi trong làng bản cứ truyền nhau, thêu dệt đủ điều xấu

xa gán cho bà. Người em chồng là Đinh Dự ở sách Bông thấy vậy, cho là bà hoang

thai, đến chửi mắng, nhiếc móc xấu xa, tước hết nhà cửa, ruộng vườn, rồi đuổi bà

đi. Bà Đàm Thị bụng chửa vượt mặt, phải bỏ làng vào ở trong động núi Kỳ Lân.

Trong động có đền thờ Sơn Thần, cách làng không bao xa.

Hôm ấy, trời đang nắng chang chang, bỗng sấm chớp nổi lên ầm ầm, mây đen

vần vũ. Bà Đàm Thị trở dạ, rồi sinh ra một cậu bé khôi ngô, tuấn tú. Bà bấm đốt

ngón tay, thế là đã mang thai mười bốn tháng trời. Nhìn con trai đẹp đẽ, khoẻ mạnh,

bà ôm con sung sướng đến ràn rụa nước mắt. Đứa bé thật ngoan ngoãn, không hề

khóc quấy, nhưng lại rất hiếu động. Chưa đầy cữ mà cậu bé đã ngồi nhổm dậy được

như đã mấy tuổi rồi; mắt sáng như sao, diện mạo phương phi khác thường. Ngay

sáng hôm bà Đàm Thị sinh nở, những người vào động lễ Sơn Thần, thấy trên lá các

cây sen núi, lá nào cũng có vệt sên bò thành chữ “Thiên Tử”. Dân làng kéo nhau

vào động xem, thấy điềm lạ, bảo nhau rước mẹ con bà về làng, làm một túp lều cho

hai mẹ con bà ở tạm. Chỗ này, sau gọi là gò Bồ Đề ở sách Bông. Chuyện bà Đàm

Thị có thai mười bốn tháng mới sinh, lại có những điềm lạ như vậy truyền đi khắp

nơi. Làng trên, bản dưới, người đến thăm, kẻ đến xem tấp nập. Lúc bấy giờ, có một

ông thầy tướng đến nhìn cậu bé rồi nói với mọi người: “Thằng bé này lớn lên, tất

không phải là người thường, sẽ đứng đầu thiên hạ!”. Bà Đàm Thị vô cùng phấn

khởi. Nhớ tới lời dặn của chống trước khi mất, bà đặt tên con là Bộ Lĩnh. Lên năm

tuổi, Bộ Lĩnh đã phải đi mò cua, bắt ốc để lấy tiền thuốc thang và nuôi mẹ, nuôi

thân. Bộ Lĩnh có biệt tài về bơi lặn. Dòng sông chảy qua làng rất lớn, sâu và chảy

xiết. Chỉ có Bộ Lĩnh mới bơi được ra giữa dòng, lặn xuống sâu, bát đầy vành dây

lưng cá mới chịu ngoi lên bờ. Sông này có rất nhiều ba ba to. Ai muốn mua con to

chừng nào, chỉ cần lấy tay vẽ lên cát, đứng chờ một lát, Bộ Lĩnh sẽ bắt lên đúng như

hình vẽ. Thấy vậy, dân làng nói với nhau: “Đúng là dòng giống tinh ranh của rái

Thần! Chỉ có giống rái cá mới bơi lặn, mò hụp giỏi như vậy, chứ người trần, từ

thượng cổ đến giờ có ai được như thế đâu!”. Thế là bí mật về câu chuyện giấc ngủ

bị thôi miên trong hang đá, giao cảm với Rái Thần mà có thai, bà Đàm Thị chẳng kể

ra với ai, ngay cả với chồng mình, mà người đời cứ tọc mạch, soi mói, chắp vá, thêu

dệt ly kỳ, cứ y như là họ đã biết tường tận vậy. Bà Đàm Thị nghĩ cũng thấy lạ.

Thỉnh thoảng có ai trêu chọc bảo: “Mày là con của rái cá”, Bộ Lĩnh chạy về nhà

khóc tức tưởi, bà Đàm Thị kéo con vào lòng âu yếm: “Con là con mẹ, con cha!" .

Truyện “Mả táng Hàm Rồng”:

Một hôm Bộ Lĩnh lặn xuống đáy sông Đại Hoàng, một con sông lớn chảy qua

làng mình, chỗ sâu nhất, nước xoáy tròn trên mặt sông như một chiếc cối xay khổng

lồ. Khi lên bờ, Bộ Lĩnh kể lại với mọi người, nơi thẳng vực nước xoáy, dưới lòng

sông sâu thẳm ấy, có một ngầm đá lớn như miệng một con rồng, nước xoáy tròn

quanh một quả cầu lung linh bảy sắc cầu vồng ở giữa miệng rồng. Chuyện lạ đó đồn

đại đi khắp nơi. Nhưng ngoài Bộ Lĩnh ra, không ai có thể lặn xuống để xem kỳ lạ,

hư thực thế nào. Ít lâu sau , có một người khách lạ đến ngồi trên bờ sông Đại Hoàng

xem Bộ Lĩnh mò cá. Người khách gọi cậu lên bờ hỏi: Cậu giỏi lặn thế, liệu có dám

lặn xuống vực xoáy kia không?

- Sao lại không? Dòng sông này chỉ có bên dưới lòng đất đá là tôi không

xuống được thôi, còn chỗ nào mà chẳng có dấu tay tôi mò bắt ba ba! Bộ Lĩnh thản

nhiên trả lời. Người khách lạ lại hỏi có vẻ thăm dò:

- Thế dưới vực xoáy kia, cậu có thấy gì lạ không?

Bộ Lĩnh kể đúng như những điều đã thấy, lại còn bịa thêm nơi ấy cậu đang

nuôi một đôi ba ba giống, chuyên sinh sản, để mình lấy ba ba con đem bán. Người

khách lạ thẽ thọt:

- Cậu hãy đặt giúp ta chiếc chĩnh sành này vào giữa miệng rồng, xong việc ta

sẽ thưởng cho năm lạng vàng. Bộ Lĩnh tò mò hỏi trong chĩnh đựng gì thì nguời

khách không nói. Vốn là người thông minh, Bộ Linh nghĩ, chắc phải có điều gì hệ

trọng nên ông khách mới cố giấu giếm mình, lại thuê hậu hĩnh như vậy. Cậu lặn

xuống, nhưng không đặt cái chĩnh đúng như lời dặn của người khách, mà để chiếc

chĩnh ra ngoài miệng rồng, rồi bơi lên bờ lĩnh thưởng. Người khách tỏ ra cẩn thận

và hào phóng: Ta cho cậu thêm một nén bạc nữa, không được nói với ai chuyện

này! Bộ Lĩnh về nhà thuật lại chuyện đó rồi tò mò hỏi mẹ. Bà Đàm Thị đang bị ốm

nặng, chỉ nói: “Người ta bảo có phúc mả táng hàm rồng, chẳng phát đế cũng phát

vương”. Bộ Lĩnh liền hỏi: “Thế mả bố con ở đâu?”. Vì đang mệt quá, bà Đàm Thị

buột miệng trả lời con cho qua chuyện: “Mả bố đang bọc gác trên gác bếp ấy!”.

Bộ Lĩnh chẳng nói chẳng rằng, leo lên gác bếp, tìm thấy bộ xương bọc trong

tấm da bám đầy bồ hóng, gói lại cẩn thận, rồi lặn xuống sông, bỏ hài cốt của người

khách thuê đặt ra ngoài chĩnh, lấy gói da bọc xương rái thần cho vào chĩnh, đặt giữa

miệng rồng. Bỗng sấm chớp nổi lên ầm ầm, nước sông sôi sùng sục như người nấu.

Chiếc hàm rồng ngậm chặt lấy bộ hài cốt rái thần.

Cũng từ đấy, Bộ Lĩnh lớn nhanh như thổi, tính tình táo tợn, thông minh, lanh

lợi hơn người. Cậu tụ tập trẻ chăn trâu làng mình lại, kéo đi đánh trẻ chăn trâu các

làng khác, đến đâu chúng cũng đều sợ, phục, tôn lên làm trưởng. Đến năm hai mươi

tuổi, Bộ Lĩnh phất cờ, tụ nghĩa, chiêu mộ anh hùng, nghĩa sĩ bốn phương, lấy động

Hoa Lư xây thành, đấp luỹ, hùng cứ một phương. Sau khi nhà Hậu Ngô mất, Bộ

Lĩnh xuất quân dánh dẹp các sứ quân cát cứ, thống nhất non sông về một mối, lên

ngôi Hoàng đế.

Đinh Tiên Hoàng lên ngôi được dăm năm. Một hôm, có một thầy địa lý người

Tàu đến kinh đô Hoa Lư xin vào yết kiến vua Đinh. Thấy địa lý người tàu nói:

“Thần đã đi khắp nước Đại Cồ Việt, quả là đất này có nhiều long mạch quý, nhưng

chỉ có long mạch ở Đại Hoàng Giang là phát kết đế vương. Nhưng hiềm một nỗi,

đại mạch này đang bị các tiểu mạch khác chi phối, lấn át, nên ngôi chủ đang chông

chênh, không vững”. Vua Đinh hỏi :

- Ông có phép gì không?

Thầy địa lý Tàu giả suy nghĩ, lấy la bàn trong túi ra, xoay xoay mấy cái rồi nói:

- Nếu Hoàng đế tin thì tiểu thần xin hết lòng! Vua Đinh vui mừng nói: Ta tin

tưởng và trông mong ở ông.

Thầy địa lý Tàu nói :

- Muốn cho long mạch Đại Hoàng vẫn giữ ngôi chủ soái, xin Hoàng đế cắm

hai thanh gươm bạc hai bên đầu rồng, vừa giữ được vẻ uy nghi, lại vừa trấn trị

được các long mạch khác lấn át.

Vua Đinh tin lời thầy địa lý Tàu, lên nhờ ông ta cho hai thanh gươm bạc để

trang hoàng hai bên đầu rồng. Chỉ mươi hôm sau, thầy địa lý Tàu lại đến kinh đô

Hoa Lư dâng Vua Đinh hai thanh gươm bạc rất đẹp. Vua Đinh lấy làm hài lòng lắm,

trọng thưởng cho người khách Tàu mười nén vàng, mười nén bạc, rồi cho cắm hai

thanh gươm đó vào hai bên đầu rồng như lời thầy địa lý Tàu chỉ dẫn.

Chỗ đầu rồng đất hài cốt rái thần nước xoáy rất xiết. Hai thanh gươm cứ theo

làn nước xoáy, ngày này qua ngày khác, cứa mãi vào đầu rồng, khiến đầu rồng bị

đứt làm đôi. Nước sông Đại Hoàng đỏ ngầu như máu suốt ba tháng ròng. Khi vua

Đinh biết rõ sự thật thì đã muộn. Cũng trong thời gian ấy, vua Đinh và Nam Việt

Vương Đinh Liễn bị sát hại. Cơ nghiệp đế vương của nhà Đinh cũng mất từ đất.

Mọi chuyện xảy ra đã rồi, sau này người ta mới biết duyên do là chính thầy địa

lý Tàu ấy là người khách lạ trước đây đã thuê Bộ Lĩnh để mộ bố mình vào hàm

rồng, nhưng bị Bộ Lĩnh đánh tráo, đặt hài cốt rái thần vào, nên ông ta nghĩ kế đặt

hai thanh gươm cưa đứt đầu rồng để báo thủ. Hai thanh gươm ấy ông ta đã yểm bùa

“đoản mệnh” để dâng cho Vua Đinh.

Khi triều đình nhà Đinh biết rõ mưu kế thâm độc, lợi hại đó của thầy địa lý và

cũng là một phù thuỷ cao tay người Tàu, liền cho quân bủa vây, truy nã. Nhưng ông

ta đã cải trang thành lái buôn, trốn chạy về phương Bắc. Triều đình và thần dân Đại

Cồ Việt vô cùng căm giận hắn.

Sau này, khi lập đền thờ vua Đinh ở Trường Yên, Hoa Lư, người ta cho khắc

bốn đại tự ở trước cổng đền là “Bắc môn tỏa thược”, nghĩa là, “Khoá chặt cửa Bắc”

hàm ý nhắc nhở đời sau về bài học cảnh giác vô cùng đau lòng của nhà Đinh.

Đến nay, bốn đại tự đó vẫn còn trước cổng đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng ở

Trường Yên. Và câu chuyện Mả táng hàm rồng vẫn còn lưu truyền đến bây giờ.

Truyện “Sự tích sông Hoàng Long”:

Đinh Bộ Lĩnh lúc còn nhỏ đã mồ côi cha mẹ, phải đi ở chăn trâu cho chủ là

Đinh Dự ở sách Bông.

Hàng ngày, Bộ Lĩnh cùng trẻ chăn trâu trong làm tụ tập ở động Hoa Lư bẻ hoa

lau làm cờ, xếp hàng hai, chồng kiệu nghênh rước Bộ Lĩnh như nghi lễ triều đình.

Bốn người bạn “Đồng lân đồng giáp thân” là Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ,

Trịnh Tú được Bộ Lĩnh giao cho làm “Tứ trụ triều đình”. Đinh Bộ Linh thường bày

trận ở động Hoa Lư, lấy trâu làm ngựa cưỡi, lấy tre nứa làm cung đạo, lấy hoa lau

làm cờ, lấy mõ trâu, tù và làm hiệu lệnh. Khi tiến đánh trẻ trâu Nga My thì trâu cho

bơi dọc sông, còn người thì cưỡi trên lưng trâu như cưỡi trên thuyền chiến. Sau đó

thấy quân Nga Mi có thuyền thúng lợi hại, Bộ Lĩnh lại cho đan thuyền tre để giành

chiến thắng. Danh tiếng của Bộ Lĩnh và quân Hoa Lư nổi khắp vùng. Phụ lão các

động, các sách nói với nhau “Đứa trẻ này khí độ như thế, lớn lên tất sẽ làm nên

tướng soái, nếu không cho con em mình về theo, sau này hối cũng không kịp”. Bởi

vậy, mọi người cho con em đến rất đông, rồi lập Đinh Bộ Lĩnh làm trưởng động

Hoa Lư.

Sau khi đánh thắng được trẻ chăn trâu các làng khác, cả một vùng rộng lớn thuộc

trẻ Hoa Lư làm chủ, Đinh Bộ Lĩnh liền bắt con trâu to nhất đàn của chú để khao quân.

Chiếc nồi lớn làm bằng da trâu trát bùn, căng trên bốn chiếc cọc rồi đổ nước vào đun.

Khi nước sôi, lũ trẻ dùng lưỡi hái cắt thịt trâu luộc chín, vớt ra bày trên lái chuối rừng.

Gạo tẻ, gạo nếp do lũ trẻ góp lại được bỏ trong các ống bương, ống luồng tươi chứa

nước, trát đất kín nướng trên ngọn lửa. Cỗ được bày ra trên các tấm lá chuối rừng làm

mâm, rồi đặt trên phiến đá to làm bàn thờ. Hai bên cắm hai hàng cờ lau, hương là

những loại cây trầm đốt nghi ngút. Đinh Bộ Lĩnh cho quân xếp thành mười hàng,

tượng trưng cho mười đạo quân thiên tử, trước bàn thờ tuyên thệ:

- Chung ta nguyện sống chết có nhau, quyết lấy nương đồng, bãi cỏ bốn

phương để người động Hoa Lư làm chủ!

Tiếng thề, tiếng reo hò của lũ trẻ ầm vang vách núi. Chúng công kênh Bộ Lĩnh

rồi vác cờ lau, khí giới bằng tre gỗ, đi hàng hai như rước ông hoàng.

Khao quân xong, để đối phó với chú, Bộ Lĩnh lấy đuôi trâu cắm xuống lỗ nẻ ở

ruộng, chạy về nói dối chú là trâu đã chui xuống dưới đất. Người chủ tưởng thật,

hớt hải chạy ra, dè chân chèo, cố sức nắm đuôi trâu kéo lên. Trâu chả thấy đâu chú

ngã chỏng gọng ra giữa ruộng. Biết cháu thịt mất trâu, lại bày trò lừa mình. Đinh

Dự nổi giận đùng đùng, vác gươm đuổi cháu để trị tội. Bộ Lĩnh ráng sức chạy, chạy

mãi, chạy mãi mà chú vẫn đuổi riết đằng sau. Đến bờ sông Cái, cùng đường không

còn lối chạy, Bộ Lĩnh chợt nhớ trong số trẻ chăn trâu có đứa lên là Long, nhà ở bãi

sông, bố làm nghề chở đò ngang trên sông, liền gọi lớn:

- Long ơi Long, cứu ta với, nhanh chở ta qua sông!

Bộ Lĩnh vừa dứt lời, chẳng thấy Long đâu, khúc sông bỗng nổi sóng cồn, một

con rồng lớn hiện lên hụp đầu ba lần như vái chào, vâng lệnh ghé lưng vào bờ đón

Bộ Lĩnh. Bộ Lĩnh ung dung ghé lưng bước lên lưng rồng qua bờ sông kia. Người

chú thấy vậy vừa kinh sợ, vừa cảm phục cháu, lúc ấy mới biết cháu mình là Thiên

tử giáng sinh. Chú cắm thanh gươm bên chân núi, quỳ bên bờ sông vái lạy cháu như

tế sao. Đến lúc ngẩng đầu lên không thấy cháu đâu nữa mới lững thững quay về nhà

thì trời đã chập choạng tối.

Đến nay, con đường chú đuổi cháu gọi là đường Tiến Yết. Hàng năm mở hội,

nhân dân vẫn rước kiệu, tế cờ, tế kiếm từ động Hoa Lư về gò Bồ Đề, qua sông Cái

về đền vua Đinh ở Trường Yên. Dòng sông Cái có rồng vàng nổi lên cứu vua từ đó

gọi là sông Hoàng Long (rồng Vàng). Núi chú cắm gươm lạy cháu gọi là núi Cắm

Gươm. Dài ruộng dưới chân núi Cắm Gươm gọi là Kiếm Điền.

Truyện “Sự tích sông Vân Sàng”:

Sau khi Đinh Tiên Hoàng bị Đỗ Thích sát hại, triều đình họp bàn, tôn Vệ

vương Đinh Toàn lên ngôi Hoàng đế. Lúc này, Đinh Toàn mới lên 6 tuổi, còn rất

nhỏ dại, nên Thái hậu Dương Vân Nga buông mành chấp chính. Trong các đại thần,

Dương Vân Nga thấy quan Thập Đạo tướng quân Lê Hoàn là người có tài thao

lược, lại là đệ nhất công thần đã theo Đinh Tiên Hoàng đi đánh dẹp nhiều phen lập

công lớn, nên rất tin tưởng và ngầm có lòng sủng ái.

Một hôm, sau lễ thiết triều, Dương Vân Nga mời quan Thập đạo Lê Hoàn ở lại

nội điện rồi nói:

- Thưa Tướng quân, Tiên đế phúc mỏng, chẳng may bị hại, ấu chúa còn quá dại

thơ, vận nước trong cơn dâu bể, ta muốn quan Thập Đạo làm Nhiếp chính đại thần.

Thập đạo Lê Hoàn cung kính:

- Thưa, đó là việc hệ trọng của triều đình, của thần dân trăm họ, sao Thái hậu

không chọn người xứng đáng hơn? Hoàn tôi sao có thể gánh vác được trọng trách ấy?

Thái hậu Dương Vân Nga điềm tĩnh hỏi:

- Theo tướng quân, ai có thể làm được việc ấy?

Lê Hoàn đáp:

- Thưa, quan Ngoại giáp Đinh Điền.

Thái hậu Dương Vân Nga nói:

- Ngoại giáp Định Điền ư? Đó là bậc Công thần chí trung của Tiên đế, đã

từng theo Tiên đế từ thuở hàn vi, xông pha nơi rừng gươm biển giáo, chẳng quản

ngại gian nguy. Nhưng tài thao lược tế thế kinh bang thì Đinh Điền và cả các bậc

công thần khác cũng không ai có thể sánh được với quan Thập Đạo.

Lê Hoàn định nói thêm điều gì nữa, nhưng Thái Hậu Dương Vân Nga gạt đi:

- Từ hôm Tiên đế và Nam Việt Vương băng hà, ta đã trăn trở, suy ngẫm kỹ

điều này. Nếu ông Thập Đạo không vì ta thì hãy vì sinh linh trăm họ, vì cơ nghiệp

nhà Đinh đã gây dựng mà gánh vác trọng sự này. Lê Hoàn chắp tay phụng mệnh.

Sáng hôm sau, sau hồi trống thiết triều, bách quan văn võ có mặt đầy đủ. Đinh

Toàn ngồi trên ngai vàng nói:

- Ta làm vua nhưng chưa am hiểu việc nước, việc quân ta chọn Thập Đạo

tướng quân Lê Hoàn làm Nhiếp chính.

Đinh Toàn còn đang muốn nói gì nữa nhưng chưa kịp nói, các quan đại thần đã

nghị sự làm ồn ào, khiến buổi thiết triều không được tôn nghiêm như trước đây nữa.

Giữa lúc ấy, hồi trống mãn triều rung lên. Tất cả các quan đều ra khỏi cung phủ.

Từ đó, Lê Hoàn ra vào cung cấm được tuỳ nghi. Ít lâu sau, Lê Hoàn lại tự

xưng là Phó vương. Trong cung phủ đã có những lời dị nghị về mối quan hệ giữa

Lê Hoàn với Dương Vân Nga. Có người lại còn tỏ vẻ am hiểu thế sự, họ luận câu

sấm ngữ: “Đỗ Thích thí Đinh Đinh, Lê gia xuất Thánh minh” (Đỗ Thích giết hại

Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn, nhà Lê xuất Thánh minh). Rồi nói như khẳng định :

- Đấy rồi mọi người xem, Lê Hoàn nhất định tiếm ngôi Hoàng đế. Vận nhà

Đinh hết rồi!

Lời sấm kia cứ lan truyền, lan truyền khắp kinh thành Hoa Lư, đến các nơi

thôn dã. Chỗ nào họ cũng to nhỏ với nhau:

- Sắp đánh nhau to rồi!

- Đời nào các trung thần nhà Đinh lại chịu.

- Nhưng vận nhà Đinh đã hết, vận nhà Lê đến rồi.

- Mấy hôm nay, trên trời xuất hiện ngôi sao lạ mà sáng lắm. Có lẽ là do sao

chiếu vận thiên tử nhà Lê đấy.

Giữa lúc ấy, tin cấp báo về triều đình là Định Quốc Công Nguyễn Bặc và

Ngoại giáp Đinh Điền đã tụ quân ở Châu Ái (Thanh Hoá) để kéo về hỏi tội Lê Hoàn

lộng hành.

Thái Hậu Dương Vân Nga nghe tin ấy lấy làm lo ngại, nói với Lê Hoàn:

- Hai ông Điền và Bặc dấy quân khởi loạn, làm kinh động nước nhà, vua còn

nhỏ yếu, không đương nổi hoạn nạn, ông Thập đạo mưu tính thế nào chớ để tai họa

về sau.

Lê Hoàn nói:

- Thần được tin cẩn giao chức Phó Vương nhiếp chính, lại nắm toàn bộ binh

quyền trong tay, dù sống, chết, họa biến thế nào cũng một phen hết lòng vì tiên chúa.

Lê Hoàn chỉnh đốn binh mã, bá cáo tội trạng Nguyễn Bặc và Đinh Điền rồi

xuất quân vào đánh Điền, Bặc ở châu Ái (Thanh Hoá).

Hai bên giao tranh đã mấy tuần mà không phân thắng bại. Vốn là một người

đã lão luyện trong phép dùng binh, Lê Hoàn giả thua, thu quân rút về kinh thành

Hoa Lư rồi bày quân mai phục ở đường hiểm Đính Sơn, lại cho thuỷ binh chẹn

Thần Phù, Đại An và trấn Hải Đài (núi Non Nước).

Quả nhiên, Đình Điền, Nguyễn Bặc trúng trận địa phục kích của Lê Hoàn.

Đinh Điền bị chém chết tại trận, còn Nguyễn Bặc bị bắt sống, đóng cũi đưa về kinh

đô chém đầu. Dân chúng Hoa Lư ai cũng xót thương cho hai vị đệ nhất công thần

của nhà Đinh. Nhiều làng xã đã lén lút lập đền thờ hai ông.

Biết tin nước Đại Cồ Việt đang rối loạn triều chính, nhà Tống phát binh xâm

lược nước ta.

Nhận được tin giặc Tống sắp tràn sang biên ải, Thái hậu Dương Vân Nga

ban lệnh:

- Ai vỗ yên được trăm họ, đánh dẹp được quân xâm lược Tống triều thì ngôi

Thiên tử sẽ thuộc về người đó!

Nghe Dương Thái Hậu ban ra lệnh ấy, nhiều quan đại thần đến can gián,

nhưng Dương Thái Hậu một mực không thay đổi. Nội tộc Dương Vân Nga, gốc ở

làng Nga My khi Dương Vân Nga được đứng ngôi Hoàng hậu nhà Đinh thì nhiều

người trong họ chuyển dời về ở trong kinh thành Hoa Lư. Được tin này, ông trưởng

tộc họ Dương cùng một số kĩ lão trong họ kéo nhau vào nội điện tỏ ý không đồng

tình với Thái hậu, khuyên bà phải giữ chữ “Tam tòng”, phò Đinh Toàn kế vị.

Giữa lúc ấy, Đại tướng quân Phạm Cự Lượng cùng các tuớng mặc đồ nhung

phục đi thẳng vào cung phủ, nói với Dương Thái Hậu:

- Phận làm tướng có giặc là đánh, đánh để lập công đền ơn chúa, rửa nhục

cho non sông. Nay chúa thượng còn trẻ thơ, lấy ai là người biết cho công lao đó?

Dương Thái Hậu chưa biết trả lời ra sao thì các tướng nhao nhao lên nói:

- Chi bằng trước hãy tôn Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn làm Thiên tử rồi hãy

xuất quân thì hơn.

Dương Thái Hậu thấy lòng ba quân như vậy, lấy làm mừng lắm nhưng vẫn

kiềm chế nói:

- Ba quân hãy một dạ. Ai giữ gìn được Hoa Lư, bảo toàn trăm họ người đó sẽ

giữ ngôi Thiên Tử.

Rồi Dương Thái Hậu lệnh lấy áo Long cổn mặc cho Lê Hoàn và làm Lễ khai

đao, trao thanh bảo kiếm của nhà Đinh cho quan Thập Đao. Lúc ấy, Lê Hoàn đang

duyệt thuỷ quân ở cửa Hải Đài (Non Nước), sau khi được khoác áo Long cổn, ông

quỳ trước ba quân và dân chúng, hai tay nâng thanh bảo kiếm thành khẩn:

- Lê Hoàn tôi xin đội ơn Thái Hậu, đội ơn ba quân và trăm họ. Xin cùng tướng

sĩ ba quân lên đường đánh giặc cứu nước, cứu nhà. Nếu chiến thắng trở về, tôi mới

xin được hưởng đặc ân của trăm họ. Và mới xin tại cửa sông này, có trời, đất, nước

non cùng chứng giám lễ đăng quang cũng chưa muộn.

Ba quân và dân chúng đều tung hô “Vạn tuế”, “Vạn tuế”.

Hàng ngàn chiến thuyền, tinh kỳ, giáo gươm sáng chói, xuôi dòng sông Đáy

qua cửa Đại An ra Bạch Đằng chống giặc. Thái Hậu Dương Vân Nga cùng Vệ

Vương Đinh Toàn ngự trên núi Hồi Hạc lưu luyến vẫy tiễn biệt đoàn quân, hẹn

ngày về chiến thắng. Tin quân ta đại thắng quân Tống ở Chi Lăng và Bạch Đằng

được báo về, triều đình cùng dân chúng Hoa Lư từ sáng sớm đã chen nhau chật ních

như nêm ở cửa Hải Đài để đón đoàn quân chiến thắng. Dương Thái Hậu cùng các

quan đại thần ngự trên đỉnh núi Hồi Hạc đón Lê Hoàn và các tướng sĩ.

Đoàn quân trở về trong tiếng hò reo vang dậy của thần dân trăm họ.

Triều đình đã chuẩn bị một thuyền rồng lớn trước cửa Hải Đài và sắp sẵn nghi

lễ lên ngôi Hoàng đế của Lê Hoàn.

Đoàn thuyền chiến thắng do Lê Hoàn dẫn đầu cập bến, mọi người xô lên ôm

chầm lấy những người chiến binh. Tiếng kèn, tiếng nhạc đại lễ cử lên. Lê Hoàn uy

nghi, đường bệ, cùng Dương Thái Hậu bước lên thuyền rồng. Giữa lúc ấy, mọi

người không ai bảo ai, đều đồng thanh hô lớn:

- Thánh thượng vạn tuế!

- Hoàng thượng, Hoàng hậu vạn tuế, vạn tuế!

Chiếc thuyến rồng chở nhà Vua và Dương Thái hậu êm ả đi trên dòng sông.

Lê Hoàn và Dương Vân Nga đứng ở cửa lâu thuyền vẫy chào thần dân trăm họ.

Giữa lúc ấy, trời đang nắng to, bỗng có đám mây ngũ sắc bay theo thuyền rồng nhà

vua. Mọi người đều thấy lạ kỳ mới bảo nhau:

- Đúng là điềm trời linh ứng, mây chở che cho Thiên từ!

Đám mây ngũ sắc cứ bay theo thuyền rồng nhà vua mãi. Trong đám mây kì lạ

ấy, người ta còn thấy có đôi rồng đang bay quyện vào nhau, cũng từ đấy dân gian

đặt tên cho con sông từ cửa Hải Đài dưới chân núi Non Nước đến Yên Kiều (Cầu

Yên) là Vân Sàng Giang, nghĩa là sông giường mây hạnh ngộ, giao loan của vua Lê

với Dương Hoàng Hậu và mây ngũ phúc của trời ban cho Thiên Tử.

Cũng sau ngày chiến thắng quân Tống xâm lược, Lê Hoàn lên ngôi xưng là

Đại Hành Hoàng Đế, Dương Vân Nga vẫn được tôn phong là Đại Thắng Minh

Hoàng Hậu. Còn Đinh Toàn bị phế xuống là Vệ Vương. Hầu hết nội tộc họ Dương

rời bỏ kinh đô Hoa Lư về quê cũ và quyết định đổi họ Dương thành họ Giang, nhằm

không công nhận Dương Vân Nga còn thuộc họ tộc nữa. Từ đó, dân gian truyền

nhau câu hát ru:

“Nín đi, nào nín đi thôi!

Một vai gánh vác, một đôi sơn hà.

Vạc Đinh đã trở về Lê,

Nàng Dương chăn gối lại về chính cung”.

Truyện “Cây Khế trong vƣờn vua Lê”:

Truyền rằng, trong hoàng cung Hoa Lư có vườn thượng uyển để vua ra ngự dạo

và các quan tiến dâng trái đầu mùa cho nhà vua thưởng lãm. Vườn thượng uyển này có

từ thời vua Đinh Tiên Hoàng. Thời vua Lê Đại Hành tiếp sứ Tống, hay tổ chức lễ

mừng sinh nhật nhà vua, cũng thường bày các trò vui chơi, thưởng tiệc tại đây.

Trong vườn thượng uyển có hàng trăm cây quả và chim thú lạ . Đặc biệt ở đây

có một cây khế sum suê, mỗi năm chỉ ra có một quả, to gấp nhiều lần khế bình

thường, mỗi quả có năm múi đều đặn như cánh sao, khi quả chín có màu đỏ như

gấc, trông giống như một chiếc đèn xếp màu hồng, rất đẹp. Loại khế này ăn thơm

mát, ngọt và không bao giờ có hạt cả. Người ta nói, đây là giống khế của người

Chiêm Thành tiến dâng khi mới có kinh thành Hoa Lư.

Từ khi vua Lê Đại Hành băng hà, đã bốn năm liền, cây khế không ra hoa, kết

quả, năm nay mới lại ra quả như trước. Khế chín, quan thái giám hái làm lễ ở thái

miếu, rồi dâng vua Lê Long Đĩnh. Độ này, nhà vua ốm yếu lắm, chỉ nằm chứ không

ngồi dậy được. Ngay cả lễ thiết triều, vua cũng chỉ nằm trên long sàng mà truyền

chỉ. Bởi vậy, dân gian gọi là vua Ngọa Triều (nằm để thiết triều). Bệnh trĩ ngoại của

nhà vua ngày càng nặng. Các thầy thuốc danh tiếng trong nước đã được triệu về

kinh đô Hoa Lư để chữa chạy cho nhà vua, nhưng bệnh tật của ngài vẫn không

thuyên giảm. Nghe quan thái giám tâu “Loại khế này người Chiêm dâng Tiên

Hoàng Đế, gọi là “Thiên nho”, ăn rất mát, bổ, lại là một vị thuốc quý. Vua Ngọa

Triều lấy làm rất vui lòng.

Giống khế này từ trước tới nay, quả không bao giờ có hạt, lần này vua ăn lại

thấy có hạt. Trước đây quả có năm múi, bây giờ lại chỉ có bốn múi. Nhưng điều kỳ

lạ hơn, không phải là hạt khế, mà là hạt mận, to và rất rắn, đập mãi mới thấy nhân

đã có điểm mầm. Nhà vua cho gọi quan chiêm bốc (quan coi việc chiêm tinh và bói

toán trong triều đình) lại hỏi xem duyên cớ ra sao. Quan chiêm bốc xem xét hồi lâu

rồi thưa:

- Muôn tâu, thần bẩm chỉ e trái ý hoàng thượng, sẽ phạm trọng tội.

Vua Ngọa Triều phất tay:

- Khanh cứ nói!

Quan chiêm bốc đằng hắng rồi nói:

- Muôn tâu! Hoàng thượng ngự ngôi cao được bốn năm rồi. Bốn năm nay, cây

thiên nho không ra quả, quả trước đây có năm múi, là đủ ngũ hành thiên địa. Nay

quả chỉ có bốn múi, đó là điềm ứng với số năm trị vì của hoàng thượng. Quả tự

nhiên có hạt, tức là cây già cỗi. Hạt lại là hạt mận, mận tức là chữ “Lý”, ở đây

điềm báo họ Lý sẽ xuất hiện. Hơn nữa, hạt mận đã điểm mầm, tất sẽ phát mộc nay

mai thôi!

Nghe quan chiêm bốc lý giải như vậy, vua Ngọa Triều sực nhớ lại chuyện cây

gạo ở châu Cổ Pháp mấy tuần trước, sét đánh chẻ đôi, trong thân cây có bài sấm ký,

sư Vạn Hạnh giảng giải, họ Lý sẽ lên thay họ Lê. Bây giờ lại có điềm báo ở quả

thiên nho chết tiệt này thì sự trùng lặp ngẫu nhiên đó càng chắc chắn. Báo ứng hiện

ra đến nơi rồi!

Nhà vua hoảng hốt, truyền chỉ chặt ngay cây thiên nho, đánh gốc rễ, cho đốt

thành than, lại trai giới bảy ngày, làm lễ ở Thái miếu, lập đàn cầu siêu cho vua anh

là Long Việt đã bị mình giết chết cướp ngôi bốn năm trước. Sau đó, nhà vua hạ lệnh

lùng khắp trong nước, ai là người họ Lý, đều cho giết chết hết. Các gia tộc họ Lý

trong nước vô cùng khiếp sợ phải phiêu tán, mai danh ẩn tích, thay đổi họ tên, nhiều

người chạy lên mạn ngược lẩn vào dân thiểu số để bảo toàn sinh mạng.

- Cũng lúc đó, quan thái giám tâu với vua rằng: “Điện tiền tướng quân Lý

Công Uẩn, hầu bên cạnh nhà vua, sao người không giết ngay đi để trừ hậu họa.

Hơn nữa, Công Uẩn lại là người châu Cổ Pháp, tính tình khoan hoà, có tiết tháo,

biết đâu chẳng phải không có quan hệ đến điềm báo trong lời sấm ký ở cây gạo?”.

Vua Ngọa Triều suy nghĩ miên man, sức khoẻ lại càng giảm sút. Những cơn

ác mộng cứ hiện về hành hạ nhà vua. Ngài đã mấy lần toan cho giết Lý Công Uẩn

thì lại thấy ông ta đang đứng trực hầu bên cạnh. Ngọa Triều suy nghĩ, quả thực như

quan thái giám nói, Công Uẩn là người châu Cổ Pháp, điềm sấm cây gạo cũng ở

châu này. Công Uẩn tính tình khoan hòa, nhân thứ, lại có lòng trung. Khi ta sát hại

vua anh là Lê Long Việt, các đại thần văn võ đều bỏ chạy cả. Duy chỉ có Công Uẩn

không chạy, mà cứ ôm xác vua khóc than. Ta đã định giết luôn, mà không thấy hắn

có ý chống lại, chỉ ngước mắt nhìn ta như vừa giận, lại vừa tỏ ý sẵn sàng theo ta.

Mà hắn là con rơi con rụng, của một kẻ lang chạ nào đó ném ở cổng chùa, nhà chùa

lượm về, phát tâm bồ đề, cho hưởng họ Lý, chứ hắn có phải họ Lý đâu? Khi ta dùng

thì Công Uẩn tận tâm phụng sự. Ta không tin người ấy sẽ là người họ Lý như điềm

báo ở cây khế và lời sấm ký ở thân cây gạo châu Cổ Pháp được.

Thế là Điện tiền Tướng quân Lý Công Uẩn vẫn đêm ngày phụng sự bên cạnh

vua Ngọa Triều mà không hề bị nghi kỵ, vẫn bình an vô sự.

Vua Ngọa Triều một hôm thấy khó ở, bảo các quan cận thần cho ra nghỉ ở sân

rồng. Vua vừa thiếp đi thì thấy thái hậu Diệu Nữ và vua anh là Lê Long Việt đứng

trước mặt. Vua Long Việt đầy mình máu đỏ, chỉ vào mặt Ngọa Triều mà quát lớn:

“Ta là anh, sao ngươi dám tranh mặt trời của ta?”. Vua Ngọa Triều sợ quá, thét

lên một tiếng, các quan đổ xô lại, thì ngài đã băng hà.

Điện tiền Tướng quân Lý Công Uẩn được quốc sư Vạn Hạnh và các quần thần

tôn lên làm vua. Từ kẻ chợ đến thôn quê, đâu đâu người ta cũng bàn tán và thán

phục điềm báo ở quả khế “thiên nho” và lời sấm ký trên thân cây gạo châu Cổ Pháp.

Chuyện vua Ngọa Triều ăn khế thấy hạt mận đến nay vẫn còn lưu truyền trong

dân gian Hoa Lư. Song, chỉ có điều là, không ai còn được biết cây khế của người

Chiêm tiến cúng ấy như thế nào, vì ngay cái hôm ăn khế thấy hạt mận ấy, vua Ngọa

Triều đã truyền chỉ “đào gốc, trốc rễ”, đốt nó thành tro mất rồi.

+ Ca dao, tục ngữ : Ngay từ thời Đinh – Lê, các nhà nghiên cứu sử học, văn

học, văn hóa học đã khẳng định rằng có một nền văn hóa Hoa Lư. Ca dao, tục ngữ,

ca hát dân gian ở Ninh Bình ra đời từ khá sớm. Đó là niềm tự hào về Hoa Lư, cố đô

của hai triều đại Đinh – Tiền Lê và nơi khởi đầu nghiệp lớn nhà Lý :

“Ai là con cháu Rồng Tiên,

Tháng Hai mở hội Trường Yên thì về.

Về thăm đô cũ Đinh – Lê,

Non xanh nước biếc bốn bề như tranh”.

Và họ cũng dặn dò nhau :

“Dù ai buôn đâu, bán đâu,

Nhớ ngày mở hội rủ nhau mà về.

Dù ai bận rộn trăm nghề,

Tháng Hai mở hội thì về Trường Yên”.

Tự hào về đất cố đô, người Ninh Bình cũng rất tự hào là chủ nhân của vùng

đất địa linh nhân kiệt bằng lối nói hết sức khiêm nhường :

“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài,

Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”

Câu chuyện dời đô của vua Lý Thái Tổ từ Hoa Lư về Đại La cũng được nhân

dân ghi lại trong câu ca dao quen thuộc

“Dập dìu cánh hạc chơi vơi,

Tiễn thuyền Vua Lý đang dời kinh đô.

Đi thì nhớ cậu cùng cô,

Về thì lại nhớ cá rô tổng Trường”.

+ Phương ngôn, tục ngữ : Là những câu nói có vần điệu của nhân dân lao động

ở địa phương có tính chất đúc kết về đời sống, kinh nghiệm lao động, sản xuất hay

chiến đấu với thiên nhiên, xã hội :

“Đại Hữu sinh vương, Điềm Dương/Giang sinh thánh”: Đại Hữu nay thuộc

xã Gia Phương, huyện Gia Viễn, quê hương của vua Đinh Tiên Hoàng. Điềm

Dương, tức Điềm Giang, nay thuộc xã Gia Thắng, huyện Gia Viễn, quê hương của

đức Thánh Nguyễn Minh Không, tên thật là Nguyễn Chí Thành, quốc sư triều Lý.

Câu nói mang niềm tự hào về hai vùng quê “Địa linh, nhân kiệt”, thuộc đất Gia

Viễn, tỉnh Ninh Bình, nơi sinh ra Đế Vương và Quốc Thánh.

“Yên Khánh : Trường Yên, Thiên Quan : làng Sọng”: Tổng Trường Yên,

nguyên trước thuộc huyện Gia Viễn. Năm 1906, thành lập huyện Gia Khánh,

Trường Yên thuộc huyên Gia Khánh, nay là huyện Hoa Lư, nơi vua Đinh đặt làm

Kinh đô nước Đại Cồ Việt. Làng Sọng, nơi có đồi Sọng, trên đồi mọc nhiều cây

sọng đũa, tên làng đặt theo tên đồi, tên đồi lại đặt theo đặc điểm có nhiều cây sọng.

Trước đây, làng Sọng thuộc huyện Phụng Hoá, phủ Thiên Quan, năm 1862 đổi là

phủ Nho Quan, nay là huyện Nho Quan. Đây là địa danh có liên quan đến thời kỳ

đầu của nghĩa quân Hoa Lư do Đinh Bộ Lĩnh làm chủ soái. Như vậy, nói làng Sọng

là muốn nói đến thời kỳ đầu của cuộc dấy nghĩa, nói đến Trường Yên là nói đến

kinh đô đặt nền móng độc lập tự chủ, kết quả thắng lợi của cuộc dẹp loạn 12 sứ

quân của vua Đinh Tiên Hoàng. Một địa danh mở đầu, một địa danh kết thúc thắng

lợi của nghĩa quân Hoa Lư.

“Đền Đinh thượng miếu, đền Lê hạ từ”: (Đền vua Đinh là miếu trên. Đền vua

Lê là đền dưới). Dân gian muốn nói đến vua Đinh quy mô xây cất lớn hơn, cao hơn

đền vua Lê. Câu so sánh, ngầm ý đề cao võ công dẹp loạn, sự nghiệp thống nhất đất

nước của vua Đinh lớn hơn vua Lê. Dân gian vẫn quan niệm vua Lê (Đại Hành) là

bầy tôi của vua Đinh. Đền vua Đinh xưa kia thuộc làng Yên Thượng, đền vua Lê

thuộc làng Yên Hạ, nay đều thuộc xã Trường Yên, huyện Hoa Lư.

“Lắm bụt chùa Gà, lắm ma chùa Nhội, lắm tội chùa Hang, lắm vàng chùa

Ngô”: Chùa Gà ở xã Ninh Hòa (Hoa Lư), lắm tượng Phật. Chùa Nhội thuộc thôn

Yên Trạch, xã Trường Yên (Hoa Lư), theo dân gian truyền tụng, ở chùa này xưa kia

có nhiều hiện tượng kỳ lạ, họ cho đó là có ma. Chùa Hang tức là chùa trong động

Am Tiên, thuộc thôn Yên Thượng, xã Trường Yên (Hoa Lư), tương truyền, thời

Đinh - Lê, đây là nơi nhốt hổ để trị những người có tội. Chùa Ngô còn gọi là chùa

Bà Ngô, ở thôn Yên Hạ, xã Trường Yên (Hoa Lư), truyền ngôn là nơi người Tàu để

của, nên có tiếng đồn là lắm vàng bạc, châu báu. Lại có thuyết nói, đây là chùa tu

hành của Ngô phu nhân, mẹ Ngô Nhật Khánh, một trong năm bà Hoàng hậu của

vua Đinh Tiên Hoàng. Khi Đinh Tiên Hoàng mất, con trai là Ngô Nhật Khánh chạy

sang Chiêm quốc, bà xin ra hành ở đây. Khi ra chùa, bà mang theo nhiều vàng bạc.

+ Đồng dao : là lối hát, nói có vần điệu của trẻ em, lưu truyền trong dân gian,

có khi chỉ là một trò chơi. Từ thời nhà Đinh đã có những hình thức đồng dao. Theo

sử cũ, vào năm Giáp Tuất, 974, ở kinh thành Hoa Lư đã xuất hiện những câu đồng

dao của lũ trẻ, rồi truyền đi khắp các thôn xóm trong nước về sự kiện Đỗ Thích sát

hại vua Đinh Tiên Hoàng và Nam Việt Vương Đinh Liễn, nhà Lê sắp thay nhà

Đinh. Đó là câu đồng dao đã được sử cũ ghi lại như sau : “Đỗ Thích thí Đinh Đinh,

Lê gia xuất Thánh minh. Cạnh đầu đa hoành tử, Đạo lộ tuyệt nhân tình”

Nghĩa là: Đỗ Thích giết hai Đinh – Nhà Lê xuất hiện thánh – Tranh nhau

nhiều kẻ chết – Đường sá người vắng tanh.

Đến thời nhà Lý, Lý Thần Tông mắc bệnh hóa hổ, các danh y trong nước

được triệu tập về chữa bệnh cho nhà vua, nhưng đều không có hiệu quả. Nhà vua sai

sứ giả đi khắp nơi để tìm thầy thuốc cao tay về chữa bệnh. Khi sứ giả đến Cố đô

Hoa Lư thì thấy lũ trẻ vừa đi vừa hát :

“Tập tầm vông,/bổng bồng bông,/có đức Nguyễn Minh Không,/ chữa khỏi

bệnh mọc lông,/ cho đức vua nhà Lý”

Sứ giả về tâu, vua liền sai người về làng Điềm Xá (nay là xã Gia Tiến, Gia

Thắng, huyện Gia Viễn), đón Nguyễn Minh Không về triều chữa bệnh cho vua. Quả

nhiên, Nguyễn Minh Không về Thăng Long, vào cung đã chữa khỏi bệnh hóa hổ

cho vua Lý Thần Tông.

Lại một bài đồng dao khác được lưu truyền ở xã Trường Yên (Hoa Lư) sau

đây có nhiều cách lí giải khác nhau: “Chi chi chành chành, Cái đanh nổi lửa. Con

ngựa đứt cương, Ba phương ngũ đế. Vác ghế đi tìm, Chưa chi đã ụp !”

Theo một số cụ cao tuổi ở Trường Yên giải thích: “Cái đanh thổi lửa” chỉ

nhà Đinh (Đinh Bộ Lĩnh) lên ngôi; “Con ngựa đứt cương” là nhà Đinh mất; “Ba

phương ngũ đế” là chỉ thời kì Đinh Toàn lên ngôi kế vị vua cha, Lê Hoàn xưng Phó

vương, còn Đinh Điền, Nguyễn Bặc dấy binh chống lại Lê Hoàn, một số bộ tộc

người ở miền Tây Thanh Hóa và địa phương khác nhân thời cơ này cũng trỗi dậy,

tạo nên tình cảnh đất nước “ba phương, năm vua”; “Vác ghế đi tìm” là việc Ngô

Nhật Khánh, phò mã của vua Đinh, rước vua Chiêm Thành và 1 vạn chiến thuyền

quân Chiêm tiến đánh Đại Cồ Việt, mong cướp ngôi vua; “Chưa chi đã ụp” là việc

Ngô Nhật Khánh và đoàn thuyền chiến xâm lược của quân Chiêm Thành vừa mới

vào cửa bể Đại Ác (Đại An) và Thần Phù của nước ta đã bị bão gió đánh ụp. Song

cũng có người giải thích Đinh Toàn vừa lên thay ngôi vua cha, đã bị Lê Hoàn thay

thế, phế xuống làm Vệ Vương.

- Thứ hai, Nghệ thuật trình diễn dân gian :

+ Hát chèo và sân khấu chèo :

Nghệ thuật chèo ra đời từ thế kỉ X. Ninh Bình cũng được coi là cái nôi của hát

chèo. Giáo sư Hà Văn Cầu cho rằng: “Vào buổi đầu thời nhà Đinh, nhân dân ta đã

có vốn hát múa, nhưng còn lẻ tẻ từng người, từng địa phương. Đã có những ngón

hay nhưng phần đông còn rời rạc, chưa có hệ thống. Khi một số lớn trai tráng gia

nhập quân đội thập đạo thì họ mang theo vốn múa hát của họ vào. Xa nhà, xa quê

hương, họ yêu cầu được giải trí, lại sẵn có đối tượng tập trung, họ có dịp đấu trí,

đấu tài với nhau để xây dựng nên ngành nghệ thuật tổng hợp ca múa và trò nhại

dân gian. Trước tình hình đó, giai cấp thống trị đã tuyển cả nữ diễn viên vào quân

đội để góp phần xây dựng nghệ thuật này… ”.

Trong tiểu sử của bà Phạm Thị Trân có viết: “Khoảng năm Thái Bình, quan

cai trị đem tiến bà vào cung, được vua Đinh phong chức Ưu Bà, chuyên dạy biểu

diễn trong quân ngũ ... ”. Cũng trong tiểu sử bà còn ghi: Bà Huyền Nữ Phạm Thị

Trân phong tư mỹ lệ, giỏi về ca hát, múa và làm trò, trong đám hý phường nổi tiếng

một thời.

Một minh chứng nữa rằng nghệ thuật chèo ra đời từ thời nhà Đinh trên đất

Hoa Lư là căn cứ vào sách “Đả cổ lục”, sách dạy cách đánh trống từ xưa. Sách này

có đoạn ghi tiếng trống trò của quân sỹ thời Đinh theo phép Cổ âm hài thanh (dùng

lời nói để phiên tiếng trống vào mặt và tang trống).

+ Trò chơi dân gian : đánh cờ ngƣời, kéo chữ Thái Bình.

Đánh cờ người là loại cờ tướng nhưng quân cờ bằng người nên gọi là “cờ

người”. Làng/ xã mở hội xuân hay một lễ hội lớn thì thường có tổ chức chơi cờ

người. Về cách “bài binh, bố trận” một cuộc đấu cờ người trong các lễ hội xưa ở

Ninh Bình, và được lưu giữ ở lễ hội Cố đô Hoa Lư cho đến ngày nay được tác giả

Trương Đình Tưởng mô tả như sau:

Tổng số quân cờ hai bên có 32 người đóng: 16 quân cờ nam, mặc áo the, thắt

lưng đỏ. 16 quân cờ nữ mặc áo mớ ba mớ bảy, váy lĩnh, thắt lưng xanh. Tất cả đều

khoẻ mạnh, xinh đẹp, tuổi từ 17 đến 20, chưa vợ, chưa chồng, gia đình không có

tang, vui vẻ, thuận hoà, được chọn làm quân cờ. Ai đẹp nhất, có tướng mạo nhất, sẽ

được chọn một nam và một nữ để làm “Tướng”. Mỗi quân lại có cái biển cắm cạnh

chỗ ngồi, viết tên quân cờ (xe, pháo, mã, tốt), ở cả hai mặt.

Chọn một thiếu nhi đánh “trống bỏi” (trống con), đầu để trái đào, đi sau người

chơi để đánh trống giục. Nếu đi lâu thì trống giục liên hồi bên tai người cầm quân,

khiến họ không thể chần chừ được. Khi các quân cờ điều động thì thanh la, trống

lớn nổi lên vang đội, gây sự chú ý và vang dội cả lễ hội.

Bên cạnh đó, trò chơi kéo chữ cũng thường xuất hiện ở nhiều làng quê khi mở

hội ở tỉnh Ninh Bình, nhất là hội đền vua Đinh, vua Lê (Trường Yên). Người ta

chọn 32 con trai (hoặc nữ đóng giả trai), tuổi độ 15, quần trắng, áo nẹp đỏ, chân

quấn xà cạp, tay cầm gậy dài 1,20 m, cũng quấn vải hoặc giấy giáp xanh, đỏ, chia

làm 2 dãy, mỗi dãy có 1 người cầm đầu và người cuối gọi là Tổng cờ tiền và Tổng

cờ hậu, tay cầm cờ thần vuông, ăn vận quần trắng, áo the, khăn xếp, thắt lưng 3

múi. Theo tiếng trống và hiệu lệnh của người chỉ huy, 2 cánh quân dàn ra theo sự

hướng dẫn của người tổng cờ. Các tổng cờ vừa dàn quân chạy nhắp nhắp, vừa hát.

Đoàn quân chạy theo hình xoáy trôn ốc, rồi dàn thành các chữ “Thái bình” và

“Thiên Phúc” là niên hiệu vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành.

- Thứ ba, Lễ hội truyền thống Cố đô Hoa Lƣ (xưa gọi là Hội Trường Yên

hay Hội Cờ Lau)

Về thời gian tổ chức lễ hội, theo ca dao Ninh Bình và theo nhà nghiên cứu như

Đinh Gia Thuyết thì hội Trường Yên xưa kia được tổ chức vào ngày 15 tháng 2 âm

lịch, được coi là ngày sinh của vua Đinh. Theo tác giả Trương Đình Tưởng thì từ

những năm 80 của thế kỉ XIX hội lại được tổ chức vào ngày 10-3 âm lịch là ngày

vua Đinh lên ngôi.

Đây là lễ hội cổ truyền và quy mô nhất ở tỉnh Ninh Bình và đã được xếp hạng

là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Ngoài phần tế lễ như các lễ hội khác, ở

đây có ba hoạt động văn hóa đặc trưng nhất là Lễ rước nước, Tế cửu khúc, Tập trận

cờ lau và Kéo chữ. Trong đó, nét đặc sắc của tục rước nước được diễn ra trong

không gian đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng trên đất Cố đô và bến sông Hoàng Long,

nơi lưu truyền huyền tích Rồng Vàng cứu vua thoát hiểm lưỡi gươm giận dữ của

ông chú ruột thuở sinh thời. Nước sông lấy về được đưa vào tắm tượng vua Đinh và

các Hoàng tử, lau rửa long ngai, bài vị và các đồ tế tự công đồng. Lễ tế cửu khúc là

sự thể hiện lòng thành kính, sự biết ơn của nhân dân đối với vua Đinh khi làm chín

khúc ca tế trong những ngày mở Hội cờ lau. Tập trận cờ lau là phần sôi động nhất

của phần Hội nhằm diễn lại tích Đinh Bộ Lĩnh cùng các bạn thuở chăn trâu, tập trận

giả ở Thung Lau, để sau này lớn lên, tụ quân nghĩa sĩ bốn phương, phất cờ thống

nhất giang sơn.

Phụ lục 2.1. Dạ hội lịch sử với chủ đề “Hoa Lƣ – Cố đô ngàn năm”

Để hướng ứng Năm Du lịch Quốc gia 2020 với chủ đề “Hoa Lư – Cố đô ngàn

năm” (Theo Quyết định số 3238/QD-BVHTTDL ngày 20/9/2019 của Bộ Văn hóa,

Thể thao và Du lịch về việc ban hành chương trình tổ chức năm du lịch quốc gia

2020 - Hoa Lư, Ninh Bình), GV tham mưu với nhà trường tổ chức dạ hội lịch sử

“Hoa Lư – Cố đô ngàn năm” với mục tiêu:

- Kiến thức: Giúp HS biết, hiểu sâu sắc về DSVH Cố đô Hoa Lư – kinh đô

ngàn năm, đóng góp của các triều đại phong kiến kế tiếp nhau Đinh – Tiền Lê – Lý

và các nhân vật lịch sử tiêu biểu ở thế kỉ X như Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành,

Dương Vân Nga đối với lịch sử dân tộc.

- Kĩ năng: Góp phần rèn luyện, phát triển ở HS khả năng tái hiện kiến thức

nhanh nhạy, liên hệ, quan sát, phán đoán, tư duy logic và kĩ năng trình bày, giao

tiếp, hoạt động nhóm.

- Thái độ: Hoạt động ngoại khóa tạo cơ hội cho học sinh phát huy tính tích

cực, chủ động, tự giác và sáng tạo của bản thân học sinh. Thông qua các hoạt động

còn đem lại cho HS lòng say mê, yêu thích đối với môn lịch sử.

- Năng lực: Hình thành và phát triển các năng lực tự chủ, giao tiếp và hợp tác,

sáng tạo, thẩm mĩ và năng lực vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học.

- Phẩm chất: Bồi dưỡng HS các phẩm chất như yêu nước, trách nhiệm.

Về kế hoạch tổ chức:

- Chủ đề dạ hội được công bố trước để HS có thời gian tìm hiểu.

- Nhóm chuyên môn Lịch sử chịu trách nhiệm chính về nội dung. Các tổ bộ môn

khác và Đoàn Thanh niên nhà trường chịu trách nhiệm khâu tổ chức và quản lý HS.

- Tổ chức cho GV và HS toàn trường tham gia tại sân trường hoặc hội trường

(tùy thuộc điều kiện thời tiết). Đại diện 3 khối lớp 10, 11, 12 thành lập 3 đội dự thi

(Đội 1: Đội Cờ Lau; Đội 2: Đội Hoa Lư; Đội 3: Đội Tràng An). Ngoài ra còn có

Ban giám khảo (GV và HS) và sự tham dự của tập thể cán bộ, giáo viên, nhân viên

và toàn thể học sinh nhà trường.

Về cấu tạo nội dung chương trình:

- Giới thiệu - khởi động: Văn nghệ chào mừng tốp múa “Hào khí Việt Nam”

và song ca bài hát “Đinh Bộ Lĩnh”); MC tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu tham dự

chương trình ngoại khóa.

- Nói chuyện lịch sử: Khách mời là cán bộ ban quản lý Trung tâm bảo tồn di tích

Cố đô Hoa Lư giới thiệu về cấu trúc, quy mô và giá trị của di tích Cố đô Hoa Lư. Sau

khi phỏng vấn cán bộ quản lý di tích, người dẫn chương trình điều hành HS tương tác,

nói chuyện với khách mời để giải đáp thắc mắc về kiến thức cụ thể của di tích.

- Tổ chức cuộc thi “Hành trình di sản” gồm có 3 phần thi:

+ Phần thi thứ nhất: Trò chơi “Khám phá bức tranh bí ẩn” (hình ảnh gắn liền

với tuổi thơ Cờ lau tập trận của người anh hùng Đinh Bộ Lĩnh) thông qua 12 câu

hỏi ở 12 mảnh ghép.

HS tiếp tục làm việc theo 3 nhóm. Các nhóm lần lượt lựa chọn ô chữ mình trả

lời và các nhóm khác cùng tham gia trả lời câu hỏi trong ô chữ ấy. Các nhóm thảo

luận, thống nhất từng câu hỏi và cử người ghi câu trả lời lên bảng phụ của nhóm

mình (thời gian 15 giây/câu hỏi).

Sau 3 ô chữ được lựa chọn: các nhóm có quyền trả lời nội dung bức tranh, nếu

trả lời đúng sẽ được 10đ, nếu trả lời sai sẽ mất quyền trả lời. Sau 4-5 ô chữ được lựa

chọn: các nhóm có quyền trả lời, nếu trả lời đúng nội dung bức tranh sẽ được 9

điểm, nếu trả lời sai sẽ mất quyền trả lời. Sau 6-7 ô chữ được lựa chọn: các nhóm có

quyền trả lời, nếu trả lời đúng nội dung bức tranh sẽ được 8 điểm, nếu trả lời sai sẽ

mất quyền trả lời. Sau 8-12 ô chữ được lựa chọn: các nhóm có quyền trả lời, nếu trả

lời đúng nội dung bức tranh sẽ được 7 điểm, nếu trả lời sai sẽ mất quyền trả lời.

Ở mỗi phần đáp án, MC có thể mở rộng kiến thức để củng cố cho HS hiểu bài

sâu hơn. Sau khi bức tranh được giải mã, MC hỏi nhóm đã phát hiện ra bức tranh:

Bức tranh này nói lên điều gì? MC bổ sung (video về động Hoa Lư), tổng hợp kết

quả làm việc của 3 nhóm.

+ Phần thi thứ hai: Rung chuông vàng (hành trình di sản)

Nội dung: Thi giữa các nhóm với 15 câu hỏi trắc nghiệm khách quan có liên

quan đến di sản văn hóa Cố đô Hoa Lư

+ Phần thứ ba: Thi tài năng gắn với các nhân vật, sự kiện và DSVH phi vật thể

của Cố đô Hoa Lư. Mỗi nhóm thể hiện 1 tài năng gắn liền với nội dung báo cáo của

nhóm: Nhóm Cờ Lau: thổi sáo, vẽ tranh về hình ảnh gắn với thời niên thiếu của

Đinh Bộ Lĩnh; Nhóm Hoa Lư: đồng diễn võ thuật gắn với truyền thống quân sự từ

thời niên thiếu của Đinh Bộ Lĩnh; Nhóm Tràng An: hát chèo để thể hiện khẳng định

nghệ thuật hát chèo đã ra đời từ thời nhà Đinh. Các nhóm sẽ tham gia vào chấm

điểm (có tiêu chí chấm cụ thể) cho từng nội dung tài năng nhóm.

Hình 2.4. Các nhóm học sinh thi tài năng

- Cuối cùng là trao phần thưởng cho các đội tham gia sau khi thư kí tổng hợp

điểm của cả 3 phần thi và tiếp tục chương trình văn nghệ kết thúc buổi dạ hội lịch sử.

Phụ lục 2.2. Giáo án thực nghiệm

DỰ ÁN

“TÌM HIỂU DI TÍCH CỐ ĐÔ HOA LƢ – KINH ĐÔ 42 NĂM CỦA NHÀ

NƢỚC ĐẠI CỒ VIỆT THỜI ĐINH – TIỀN LÊ – LÝ (968 – 1010) VÀ BUỔI

ĐẦU XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC ĐỘC LẬP Ở THẾ KỈ X”

I. Vấn đề cần giải quyết

- Căn cứ: chương trình Lịch sử hiện hành, xác định tên chủ đề dự án là Bước

đầu xây dựng nhà nước độc lập ở thế kỉ X (chương II. Việt Nam từ thế kỉ X đến thế

kỉ XV của CT); Căn cứ bài 17 của SGK lớp 10, CT chuẩn và Chương trình lịch sử

địa phương lớp 10; Các PPDH tích cực; Trình độ nhận thức của HS THPT.

- Chuyên đề dạy học kiến thức mới, giải quyết một nội dung trọn vẹn của tiến

trình lịch sử Việt Nam là Bước đầu xây dựng nhà nước độc lập ở thế kỉ X.

- Về mức độ : GV nêu vấn đề, tạo tình huống có vấn đề, gợi ý để HS tìm ra

cách giải quyết vấn đề. HS thực hiện cách giải quyết vấn đề theo hướng dẫn của

GV. GV và HS cùng đánh giá kết quả làm việc.

II. Nội dung – chủ đề dự án:

Lịch sử hình thành và xây dựng nhà nước phong kiến Việt Nam trong buổi

đầu độc lập ở thế kỉ X thông qua hoạt động tham quan học tập một số di sản văn

hóa địa phương ở tỉnh Ninh Bình.

a. Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng – xã Gia Phương – huyện Gia Viễn.

- Vị trí, lịch sử hình thành, kiến trúc và giá trị của di tích.

- Thân thế, cuộc đời của Đinh Bộ Lĩnh khi còn trẻ.

b. Đền và lăng vua Đinh – xã Trường Yên – huyện Hoa Lư.

- Vị trí, lịch sử hình thành, kiến trúc và giá trị của di tích.

- Bước đầu xây dựng nhà nước độc lập ở thế kỉ X : Thời Ngô, Đinh.

+ Thời Ngô - Nhà nước mở đầu thời kì độc lập, tự chủ.

+ Xây dựng và phát triển nhà nước phong kiến Đại Cồ Việt (Đinh – Tiền Lê) ở

thế kỉ X.

c. Đền thờ vua Lê – xã Trường Yên – huyện Hoa Lư.

- Vị trí, lịch sử hình thành, kiến trúc và giá trị của di tích.

- Bước đầu xây dựng nhà nước độc lập ở thế kỉ X : Thời Tiền Lê.

III. Mục tiêu dự án

1. Kiến thức: Thông qua dự án, HS đạt được:

- Trình bày được quá trình xây dựng và hoàn chỉnh nhà nước phong kiến Việt

Nam diễn ra trong khoảng thế kỉ X trên một lãnh thổ thống nhất.

- HS xác định được nhà nước phong kiến Việt Nam được tổ chức theo chế độ

quân chủ trung ương tập quyền, có pháp luật, quân đội và có chính sách đối nội, đối

ngoại đầy đủ, tự chủ và độc lập.

- Giúp HS hiểu biết cơ bản về thiên nhiên và con người Ninh Bình. Thấy được

vị trí chiến lược của địa phương; đặc điểm con người Ninh Bình và vai trò của họ

đối với sự phát triển của quê hương và đất nước.

- Hiểu biết về một số di sản văn hóa tiêu biểu của tỉnh Ninh Bình gắn với lịch

sử dân tộc thời Ngô, Đinh – Tiền Lê. Nhận xét được giá trị của các di sản đối với

lịch sử và thời hiện tại.

- Đánh giá được công lao, vai trò của các danh nhân dân tộc: Ngô Quyền,

Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Dương Vân Nga ... Nhận xét được vị trí, giá trị của

các triều đại này trong buổi đầu xây dựng nhà nước độc lập, tự chủ ở thế kỉ X.

2. Kỹ năng

- HS nhận xét, đánh giá được một cách tổng hợp và liên hệ được những kiến

thức lịch sử địa phương với những kiến thức lịch sử dân tộc đã học.

- Rèn kỹ năng quan sát, thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử và trình bày. Qua đó

các em được tự do thể hiện, phát huy những tài năng của mình (ngoài học tập) góp

phần rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh.

- Bồi dưỡng học sinh phương pháp hoạt động nhóm, cùng chia sẻ, lên kế

hoạch (thu thập tư liệu, sử dụng các phương tiện ... để hoạt động có hiệu quả).

- Rèn luyện kĩ năng phân tích, so sánh, đánh giá các sự kiện lịch sử.

- Kĩ năng khai thác lược đồ, kênh hình, nguồn tư liệu có liên quan.

- Kĩ năng giao tiếp: hình thành trong quá trình rèn luyện đóng vai và đi tham

quan trải nghiệm.

- Kĩ năng thuyết trình: thông qua việc hóa thân vào vai diễn và thuyết trình

báo cáo chủ đề, HS sẽ tự tin hơn trước đám đông, bồi dưỡng HS có khả năng thuyết

phục người khác.

3. Thái độ

- Bồi dưỡng ý thức độc lập dân tộc, bảo vệ sự thống nhất nước nhà.

- Bồi dưỡng niềm tự hào dân tộc, tình cảm yêu mến, tự hào về địa phương

mình, trân trọng những giá trị truyền thống tốt đẹp của quê hương.

- Giáo dục ý thức trách nhiệm trong việc phát huy truyền thống tốt đẹp của quê

hương, kế tục sự nghiệp của cha ông trong công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương.

- Giáo dục ý thức trách nhiệm của HS đối với các di sản văn hóa, lịch sử của

địa phương.

4. Năng lực, phẩm chất

- Năng lực chung: Năng lực tự chủ và tự học; Năng lực giao tiếp và hợp tác;

Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo.

- Năng lực chuyên môn:

+ Thực hành bộ môn LS: Khai thác kênh hình, video có liên quan đến nội

dung chuyên đề; vẽ sơ đồ; sử dụng lược đồ.

+ Năng lực tái hiện sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử; Xác định, giải quyết

mối liên hệ, ảnh hưởng và tác động giữa các sự kiện lịch sử với nhau.

+ Nhận xét, đánh giá, liên hệ thực tế và rút ra bài học kinh nghiệm.

+ Bồi dưỡng năng lực công nghệ, tin học.

- Phẩm chất: yêu nước, chăm chỉ, có trách nhiệm.

IV. Chuẩn bị thực hiện dự án

1. Giáo viên

- Liên hệ Ban quản lý các di tích để được giúp đỡ; cụ thể cử người thuyết

minh, phối hợp với cán bộ tạo điều kiện về tinh thần, vật chất cho học sinh có thể

tham quan, học tập để thu thập kiến thức.

- Thông qua nhà trường, có sự đồng ý cho phép, hỗ trợ về phía Ban Giám hiệu

để tổ chức tham quan trải nghiệm tại di sản bảo đảm an toàn, có hiệu quả.

- Kiểm tra, đánh giá, báo cáo kết quả sau buổi tham quan.

- Chia lớp thành 3 nhóm nhận đề tài:

+ Nhóm 1: Khảo sát thực địa tại đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng - xã Gia

Phương, huyện Gia Viễn, tìm hiểu và báo cáo về thân thế, cuộc đời của Đinh Bộ

Lĩnh khi còn trẻ.

+ Nhóm 2, 3: Khảo sát thực địa tại quần thể di tích Cố đô Hoa Lư – xã

Trường Yên, huyện Hoa Lư, tìm hiểu và báo cáo về nội dung bước đầu xây dựng

nhà nước độc lập ở thế kỉ X.

- GV giao nhiệm vụ cho từng nhóm, hướng dẫn lập kế hoạch nhóm trước khi

đi tham quan trải nghiệm tại di sản.

Nhóm Nội dung nhiệm vụ

Điều chỉnh

1

2

3

1. Giới thiệu di tích Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng – xã Gia Phƣơng – huyện Gia Viễn Sản phẩm phải thể hiện được các nội dung sau: - Vị trí địa lý, lịch sử hình thành di tích. - Kiến trúc của di tích. - Đặc điểm tín ngưỡng, sự khác biệt về tín ngưỡng của di tích ở xã Gia Phương – huyện Gia Viễn với những đền thờ vua Đinh ở những địa điểm khác trong toàn tỉnh. - Lễ hội. - Ý nghĩa và giá trị của di tích trong lịch sử và đối với hiện tại. - Liên hệ bản thân về ý thức, trách nhiệm trong việc giữ gìn, phát huy giá trị của di sản. 2. Thân thế, cuộc đời của Đinh Bộ Lĩnh khi còn trẻ. + Tiểu sử quê hương, đất nước, gia đình dựa trên các nguồn tư liệu sử. + Khai thác một số truyện kể dân gian tiêu biểu gắn liền với hoàn cảnh xuất thân của Đinh Bộ Lĩnh (“Con Rái Thần”, “Mả táng Hàm Rồng”, “Sự tích sông Hoàng Long”...) Giới thiệu về di tích cố đô Hoa Lƣ – kinh đô 42 năm của nhà nƣớc Đại Cồ Việt thời Đinh – Tiền Lê – Lý (968 – 1010): - Vị trí địa lí, lịch sử hình thành của di tích. - Giải thích được lí do vua Đinh Tiên Hoàng chọn đất Hoa Lư làm nơi đóng đô, tại sao vua Lý Thái Tổ quyết định dời đô ra Thăng Long. - Kiến trúc đặc biệt của di tích (chủ yếu đền Đinh và đền Lê). - Công lao tổng quát của vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành. - Tính chất, ý nghĩa và giá trị của di tích. - Liên hệ bản thân về ý thức, trách nhiệm trong việc giữ gìn, phát huy giá trị của di sản. Buổi đầu xây dựng nhà nƣớc độc lập ở thế kỉ X. Bài thuyết trình, tranh ảnh, bản trình chiếu PPT phải thể hiện đƣợc những nội dung sau: - Khẳng định được Ngô Quyền là người có công dựng lên nền độc lập tự chủ còn Đinh Bộ Lĩnh là người có công thống nhất đất nước.

- Giải thích được lí do nhà Đinh được coi là nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên ở nước ta? - Quá trình hình thành của nhà nước Đại Cồ Việt (Cơ sở hình thành, sự hình thành, thời gian, địa điểm, kinh đô). - Tổ chức bộ máy nhà nước (sơ đồ và nhận xét, so sánh về tổ chức bộ máy nhà nước thời Ngô, Đinh – Tiền Lê). Giải thích thế nào là Tăng ban? Tại sao các nhà sư lại được trọng dụng ở thời Đinh – Tiền Lê. - Tình hình quân sự, luật pháp, đối ngoại của thời Đinh – Tiền Lê. - Đánh giá được vai trò, vị trí lịch sử của nhà nước Đinh – Tiền Lê.

- GV phát phiếu định hướng hoạt động nhóm (Phụ lục 2.1) và gợi ý cho học

sinh một số nguồn tài liệu có thể tham khảo giúp hoàn thành nhiệm vụ.

Hình ảnh học sinh tham quan học tập thực hiện dự án tại di tích Đền thờ vua

Đinh Tiên Hoàng (xã Gia Phương – huyện Gia Viễn – tỉnh Ninh Bình)

Hình ảnh học sinh tham quan học tập thực hiện dự án tại khu di tích cố đô Hoa Lư

(xã Trường Yên – huyện Hoa Lư – tỉnh Ninh Bình)

- Sau khi đi trải nghiệm di sản:

+ GV yêu cầu các nhóm trưởng báo cáo về tiến độ công việc của nhóm mình,

đồng thời nêu các khó khăn, vướng mắc trong quá trình tìm hiểu các chủ đề.

+ GV giúp đỡ các nhóm thông qua việc đưa ra các câu gợi ý để học sinh có thể

giải quyết tốt các vướng mắc của nhóm mình.

- Hoạt động báo cáo trên lớp:

+ Dẫn dắt vấn đề, tổ chức thảo luận

+ Quan sát, đánh giá. Hỗ trợ, cố vấn.

+ Thu hồi các sản phẩm và các phiếu giao việc trong nhóm.

+ Nhận xét và đánh giá các sản phẩm của học sinh.

+ Tổ chức hoạt động, kiểm tra, đánh giá các hoạt động của học sinh trong tiết

học báo cáo.

2. Học sinh

- Trước khi trải nghiệm tại di sản:

+ Các nhóm HS dựa trên phiếu định hướng hoạt động phân công nhiệm vụ để

xây dựng kế hoạch sinh hoạt nhóm để hoàn thành nhiệm vụ (Phụ lục 2.2).

+ Sắp xếp các nội dung đã tìm hiểu nghiên cứu được.

- Sau khi đi trải nghiệm: Thực hiện dự án - Học sinh làm việc cá nhân và

nhóm theo kế hoạch đề ra:

+ Thu thập thông tin: Học sinh có thể tìm kiếm thông tin, tranh ảnh tại thực

địa, qua sách, báo, Internet…

+ Xử lý thông tin, tổng hợp kết quả nghiên cứu của các thành viên trong

nhóm. Trong quá trình xử lí thông tin, các nhóm phải hướng đến việc làm rõ các

vấn đề đặt ra trong đề cương nghiên cứu.

+ Liên hệ với giáo viên báo cáo tiến độ thực hiện để được hỗ trợ về nội dung

và hình thức báo cáo.

+ Viết báo cáo kết quả nghiên cứu của nhóm và chuẩn bị trình bày trước lớp.

- Sản phẩm:

+ Video, bài thuyết trình, tranh ảnh, lược đồ, bản trình chiếu PPT giới thiệu di

sản Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng (Gia Phương – Gia Viễn) và nội dung thân thế,

cuộc đời của Đinh Bộ Lĩnh.

+ Video giới thiệu di sản Cố đô Hoa Lư, bài thuyết trình, tranh ảnh, bài trình

chiếu PPT về: Buổi đầu xây dựng nhà nước độc lập, tự chủ ở thế kỉ X.

- Hoạt động báo cáo: Tiết học 1-2 trên lớp

+ Báo cáo các nội dung chủ đề theo sự phân công.

+ Thảo luận và chuẩn bị các câu hỏi cho các nhóm khác.

+ Tự đánh giá sản phẩm của nhóm mình và tham gia đánh giá sản phẩm của

các nhóm khác.

3. Phƣơng pháp dạy học:

- Dạy học theo dự án, tham quan học tập tại thực địa, sử dụng phương pháp

đóng vai, sử dụng các phương tiện trực quan (bản đồ, lược đồ, tranh ảnh, phim) khi

HS báo cáo kết quả ở trên lớp.

- Thảo luận nhóm, phương pháp trò chơi.

- Kĩ thuật công não, vảy cá, phòng tranh.

4. Thiết bị, phƣơng tiện dạy học khi tiến hành bài học trên lớp sau hoạt

động tham quan học tập:

- Máy tính, máy chiếu, bút laze, loa, mic.

- Bảng ghi điểm các nhóm, các phiếu học tập.

- Giấy Ao, giấy nhớ (3 màu), bút dạ, bút bi, giá treo sản phẩm.

V. Tiến trình báo cáo dự án

A. HOẠT ĐỘNG KHỞI ĐỘNG

1. Mục tiêu

Giáo viên tổ chức hoạt động trò chơi giải ô chữ bí mật trong đó 15 ô chữ hàng

ngang là những tên sự kiện, nhân vật, địa danh gắn liền với một số di sản văn hóa

của tỉnh Ninh Bình, cũng là các gợi ý của ô chữ hàng dọc. Ô chữ hàng dọc là từ

khóa mang nội dung trọng tâm của cả chuyên đề.

Mục đích của trò chơi tạo tâm lí hứng khởi, kích thích sự tò mò, lòng khát

khao mong muốn tìm hiểu những điều chưa biết ở hoạt động hình thành kiến thức

mới của bài học.

2. Phƣơng thức

- GV tổ chức thành 3 đội chơi, phổ biến luật chơi:

+ Có 15 ô chữ hàng ngang và 1 ô chữ hàng dọc (từ khóa). Mỗi đội chơi sẽ

được quyền lựa chọn một ô chữ hàng ngang.

+ Nếu trả lời đúng một ô chữ hàng ngang, đội đó sẽ được cộng 10 điểm, nếu

trả lời sai sẽ bị trừ 2 điểm.

+ 2 đội còn lại cùng trả lời câu hỏi với đội chọn ô chữ, trả lời được một ô chữ

hàng ngang sẽ được cộng 10 điểm, nếu trả lời sai sẽ không bị trừ điểm.

+ Nếu chưa lật hết ô chữ hàng ngang mà đội nào tìm ra từ khóa đúng sẽ được

cộng thưởng 50 điểm.

- Chuẩn bị bảng ghi điểm, cử thư kí để tổng hợp điểm cho các nhóm.

3. Gợi ý sản phẩm

- Ô hàng ngang:

Câu 1: Quốc hiệu nước ta thời Đinh – Tiền Lê – Lý là gì?

Câu 2: Nhân vật nào sinh ra ở quê hương Gia Viễn được phong là “Quốc sư

triều Lý”?

Câu 3: Danh lam thắng cảnh nào được coi là “Đẹp thứ ba ở trời Nam”?

Câu 4: Tên của khu nghỉ dưỡng suối nước nóng thuộc xã Gia Thịnh, huyện

Gia Viễn?

Câu 5: Nơi lưu giữ bảo vật quốc gia Cột kinh Phật hơn 1000 năm thuộc tỉnh

Ninh Bình ở đâu?

Câu 6: Địa điểm nào là quê hương sinh trưởng của người anh hùng Đinh Bộ

Lĩnh?

Câu 7: Điền vào chỗ trống: "Ai là con cháu rồng tiên - Tháng Ba mở hội .....

thì về".

Câu 8: Người đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển giao quyền lực từ nhà

Đinh sang nhà Tiền Lê là ai?

Câu 9: Ngày 25/4/2018, hơn 500 học sinh trường THPT Gia Viễn B đã tham

gia sự kiện gì nhân dịp kỉ niệm 1050 năm nhà nước Đại Cồ Việt?

Câu 10: Tên của căn cứ quân sự đầu tiên gắn với tuổi thơ cờ lau tập trận của

Đinh Bộ Lĩnh?

Câu 11: Tên của khu du lịch sinh thái nằm trong Quần thể di sản thế giới

Tràng An thộc tỉnh Ninh Bình?

Câu 12: Tên gọi khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước lớn nhất vùng đồng

bằng châu thổ Bắc Bộ?

Câu 13: Địa điểm nào là quê hương của cố Chủ tịch nước Trần Đại Quang?

Câu 14: Vị thế của Hoa Lư sau khi vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long là gì?

Câu 15: Con đường nào gắn với sự tích mổ trâu khao quân của Đinh Bộ Lĩnh

khi còn nhỏ?

- Ô hàng dọc: Đinh Tiên Hoàng đế

Đ Ạ I C Ồ V I Ệ T 1

N G U Y Ễ N M I N H K H Ô N G 2

Đ Ị C H L Ộ N G 3

K Ê N H G À 4

C H Ù A N H Ấ T T R Ụ 5

Đ Ạ I H Ữ U 6

T R Ƣ Ờ N G Y Ê N 7

D Ƣ Ơ N G V Â N N G A 8

L Ễ Đ À N K Í N H T H I Ê N 9

Đ Ộ N G H O A L Ƣ 10

T R À N G A N 11

V Â N L O N G 12

Q U A N G T H I Ệ N 13

C Ố Đ Ô 14

T I Ế N Y Ế T 15

- Sau khi HS giải mã được ô chữ bí mật hàng dọc, GV đặt câu hỏi cho cả lớp:

Em biết gì về Đinh Tiên Hoàng đế?

- Mỗi HS sẽ có cách trả lời khác nhau, GV sử dụng nội dung trả lời của các

HS, khái quát lại thành 3 vấn đề sẽ tìm hiểu trong chuyên đề, tương ứng với 3

nhiệm vụ đã giao cho các nhóm HS đã đi trải nghiệm trước đó:

a. Nhóm 1 (Đại Hữu): Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng – xã Gia Phương –

huyện Gia Viễn.

+ Vị trí, lịch sử hình thành, kiến trúc và giá trị của di tích.

+ Thân thế, cuộc đời của Đinh Bộ Lĩnh.

b. Nhóm 2 (Cờ Lau): Khu di tích cố đô Hoa Lư – xã Trường Yên – huyện Hoa Lư.

Vị trí, lịch sử hình thành, kiến trúc và giá trị của di tích.

c. Nhóm 3 (Đại Cồ Việt): Bước đầu xây dựng nhà nước độc lập ở thế kỉ X.

B. HOẠT ĐỘNG BÁO CÁO SẢN PHẨM

1. Mục tiêu:

- Học sinh báo cáo được kết quả làm việc của các nhóm: trình bày báo cáo

thông qua thuyết trình, thảo luận.

+ HS nêu được vị trí, lịch sử hình thành, kiến trúc và giá trị của di tích Đền thờ

vua Đinh Tiên Hoàng – xã Gia Phương – huyện Gia Viễn. Trình bày được thân thế,

cuộc đời của Đinh Bộ Lĩnh khi còn trẻ... Trình bày được vai trò của Đinh Bộ Lĩnh

đối với sự nghiệp thống nhất đất nước.

+ HS nêu được vị trí, lịch sử hình thành, kiến trúc và giá trị của khu di tích cố

đô Hoa Lư – xã Trường Yên – huyện Hoa Lư.

+ Trình bày được sự hình thành phát triển của nhà nước phong kiến Việt Nam

ở thế kỉ X.

- Biết tự đánh giá sản phẩm của nhóm và đánh giá sản phẩm của các nhóm

khác.

- Hình thành được kĩ năng: lắng nghe, thảo luận, nêu vấn đề và thương

thuyết.Góp phần rèn luyện các kĩ năng bộ môn.

- Bồi dưỡng trách nhiệm của học sinh trong việc bảo tồn và giữ gìn những

giá trị di sản văn hóa địa phương.

2. Phƣơng thức:

Bƣớc 1: GV giới thiệu kết nối nhiệm vụ đã được phân công và một số hình

ảnh của hoạt động tham quan trải nghiệm của học sinh. Sau đó, GV phát cho HS

phiếu ghi nhận thông tin, phiếu đánh giá bài báo cáo của các nhóm, giới thiệu tiêu

chí đánh giá phản biện các nhóm. Dẫn dắt vấn đề cho học sinh tiến hành báo cáo và

thảo luận.

Bƣớc 2. Các nhóm cử đại diện báo cáo các nội dung chủ đề theo sự phân

công:

Nhóm 1: Giới thiệu di tích Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng – xã Gia Phương

– huyện Gia Viễn và thân thế, cuộc đời của Đinh Bộ Lĩnh khi còn trẻ.

(Hình thức báo cáo: Bản tin, phóng sự “Gia Viễn B - Văn hóa, sự kiện và

nhân vật”; Sản phẩm: video clip, phóng sự, powerpoint)

- Đại diện nhóm trình bày bài thuyết trình.

Hình ảnh đại diện nhóm 1 báo cáo sản phẩm

- HS các nhóm khác lắng nghe bài thuyết trình và hoàn thành phiếu ghi nhận

thông tin (Phụ lục 2.4)

- Sau khi các nhóm thuyết trình xong, GV yêu cầu các học sinh ở các nhóm

khác nhận xét và đưa ra các câu hỏi về vấn đề (dựa trên phiếu đánh giá bài báo cáo

của các nhóm - Phụ lục 2.3).

- HS nhóm 1 ghi chép lại các câu hỏi và đưa ra các phương án trả lời

- GV nhận xét về bài thuyết trình của nhóm

+ Nội dung

+ Hình thức

+ Cách trình bày và trả lời câu hỏi

- GV nhấn mạnh, có thể bổ sung, chỉnh sửa kiến thức.

- HS ghi chép, hoàn thiện nội dung của phiếu ghi nhận thông tin.

- GV dẫn dắt vào nội dung báo cáo của nhóm 2.

Nhóm 2: Giới thiệu về di tích cố đô Hoa Lư – kinh đô 42 năm của nhà nước

Đại Cồ Việt thời Đinh – Tiền Lê – Lý (968 – 1010) và Buổi đầu xây dựng nhà

nước độc lập ở thế kỉ X.

(Hình thức báo cáo: Video thực hiện, thuyết trình, thảo luận.

Sản phẩm: Video, bài thuyết trình, bài trình chiếu PPT )

- Đại diện nhóm 2 trình bày nội dung sản phẩm báo cáo.

Hình ảnh video giới thiệu về di tích cố đô Hoa Lư của nhóm 2

- HS các nhóm khác lắng nghe bài thuyết trình và hoàn thành phiếu ghi nhận

thông tin (Phụ lục 2.4).

- Sau khi các nhóm thuyết trình xong, GV yêu cầu các học sinh ở các nhóm

khác đưa ra nhận xét và các câu hỏi về vấn đề (dựa trên phiếu đánh giá bài báo cáo

của các nhóm - Phụ lục 2.3).

- HS nhóm 2 ghi chép lại các câu hỏi và đưa ra các phương án trả lời.

- GV nhận xét về bài thuyết trình của nhóm

+ Nội dung

+ Hình thức

+ Cách trình bày và trả lời câu hỏi

- GV nhấn mạnh, có thể bổ sung, chỉnh sửa kiến thức.

- HS ghi chép, hoàn thiện nội dung của phiếu ghi nhận thông tin.

- GV dẫn dắt vào nội dung báo cáo của nhóm 3.

Nhóm 3: Trình bày buổi đầu xây dựng nhà nước độc lập ở thế kỉ X.

(Hình thức báo cáo: Thuyết trình, thảo luận.

Sản phẩm: Bài thuyết trình, bài trình chiếu PPT )

- Đại diện nhóm 3 trình bày nội dung sản phẩm báo cáo.

Hình ảnh đại diện nhóm 3 báo cáo sản phẩm trước lớp

- HS các nhóm khác lắng nghe bài thuyết trình và hoàn thành phiếu ghi nhận

thông tin (Phụ lục 2.4).

- Sau khi các nhóm thuyết trình xong, GV yêu cầu các học sinh ở các nhóm

khác đưa ra nhận xét và các câu hỏi về vấn đề (dựa trên phiếu đánh giá bài báo cáo

của các nhóm - Phụ lục 2.3)

- HS nhóm 3 ghi chép lại các câu hỏi và đưa ra các phương án trả lời.

- GV nhận xét về bài thuyết trình của nhóm

+ Nội dung

+ Hình thức

+ Cách trình bày và trả lời câu hỏi

- GV nhấn mạnh, có thể bổ sung, chỉnh sửa kiến thức.

- GV: nhận xét chung và hệ thống lại những nội dung kiến thức của chuyên đề.

- Kết thúc hoạt động, GV yêu cầu các nhóm hoàn thiện phiếu đánh giá sản

phẩm các nhóm. Các nhóm nộp lại phiếu đánh giá sản phẩm của các nhóm và phiếu

phân công nhiệm vụ các thành viên nhóm để GV làm căn cứ chấm điểm từng thành

viên trong nhóm ở tiết 3 của chuyên đề.

C. HOẠT ĐỘNG LUYỆN TẬP

1. Mục tiêu: Nhằm củng cố, hệ thống hóa, hoàn thiện kiến thức mới mà HS đã

được lĩnh hội ở hoạt động báo cáo dự án về:

- Các di sản văn hóa địa phương tiêu biểu gắn liền với sự hình thành nhà nước

độc lập Đại Cồ Việt ở thế kỉ X: Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng (Đại Hữu, Văn

Bòng), Cố đô Hoa Lư.

- Công lao của người anh hùng Đinh Bộ Lĩnh đối với sự nghiệp thống nhất đất

nước, bước đầu xây dựng nhà nước phong kiến độc lập ở thế kỉ X.

- Bước đầu xây dựng nhà nước độc lập ở thế kỉ X.

2. Phƣơng thức: trò chơi ghép tranh, theo nhóm

GV giao nhiệm vụ cho HS:

- GV phát cho mỗi nhóm 1 số mảnh ghép rời, yêu cầu các nhóm ghép thành 1

bức tranh hoàn chỉnh (có 3 bức tranh tương ứng với 3 nhóm).

- Nhóm nào hoàn thành sớm nhất bức tranh ghép hoàn chỉnh sẽ được cộng

thêm 50 điểm. Các nhóm hoàn thành nhiệm vụ sau được chấm 30 điểm và 20 điểm

(Yêu cầu phải ghép đúng bức tranh và trả lời đúng tên của bức tranh). Nhóm nào

không hoàn thành nhiệm vụ sẽ không được điểm.

3. Gợi ý sản phẩm: 3 bức hình về 3 di sản HS đã được trải nghiệm trong dự

án (Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng ở xã Gia Phương; Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng

ở xã Trường Yên; Đền thờ vua Lê Đại Hành ở xã Trường Yên).

D. HOẠT ĐỘNG VẬN DỤNG VÀ MỞ RỘNG

1. Mục tiêu: Nhằm vận dụng kiến thức mới mà HS đã được lĩnh hội để giải

quyết những vấn đề mới trong học tập và thực tiễn.

+ Kế thừa và phát huy những giá trị di sản văn hóa địa phương.

+ Đề ra giải pháp để bảo tồn và phát huy di sản văn hóa địa phương.

2. Phƣơng thức: Theo nhóm.

- GV giao nhiệm vụ tại lớp:

+ Nội dung: Giải pháp để bảo tồn và phát huy di sản văn hóa địa phương.

+ Các nhóm chuẩn bị: giấy nhớ cá nhân (mỗi nhóm 1 màu khác nhau), bút

mực, giấy Ao, bút dạ.

- Phương thức: Theo nhóm, kĩ thuật vảy cá, phòng tranh.

+ Hoạt động cá nhân (3 phút) trên giấy nhớ sau đó HS dính lên sản phẩm của

cả nhóm (giấy Ao).

+ Hoạt động nhóm (3 phút): Thảo luận, thống nhất chọn giải pháp tối ưu. Sau

đó treo sản phẩm và cử đại diện báo cáo.

+ Đại diện các nhóm lần lượt báo cáo. Nhóm báo cáo sau bổ sung những giải

pháp còn thiếu.

+ GV chọn lọc các giải pháp đúng đắn, sáng tạo của cá nhân (giấy dính nhớ)

để tổng hợp, kết luận.

+ Nhóm nào có nhiều giải pháp hiệu quả nhất sẽ quy ra điểm số tương ứng là

20 điểm – 15 điểm – 10 điểm.

- GV giao nhiệm vụ cho HS (học sinh có thể làm bài tập ở nhà):

Lựa chọn và viết bài luận về một di sản văn hóa địa phương nơi học sinh cư trú.

Kết thúc buổi học, GV yêu cầu thư kí tổng hợp điểm số của các nhóm thông

qua các hoạt động. Công bố kết quả và trao thưởng.

--------------------------------

Phụ lục 2.2.1. PHIẾU ĐỊNH HƢỚNG HOẠT ĐỘNG NHÓM 1

(Sản phẩm: Video, bản tin, phóng sự truyền hình giới thiệu di tích Đền thờ vua

Đinh Tiên Hoàng – xã Gia Phƣơng – huyện Gia Viễn – tỉnh Ninh Bình)

Sản phẩm phải thể hiện được các nội dung sau:

- Vị trí địa lý, lịch sử hình thành di tích;

- Nét nổi bật về kiến trúc của di tích.

- Đặc điểm tín ngưỡng, sự khác biệt về tín ngưỡng của di tích ở xã Gia Phương –

huyện Gia Viễn với những đền thờ vua Đinh ở những địa điểm khác trong toàn tỉnh;

- Đặc điểm lễ hội.

- Ý nghĩa và giá trị của di tích trong lịch sử và đối với hiện tại.

- Liên hệ bản thân về ý thức, trách nhiệm trong việc giữ gìn, phát huy giá trị của di

sản.

- Thân thế, cuộc đời của Đinh Bộ Lĩnh khi còn trẻ:

+ Tiểu sử quê hương, đất nước, gia đình dựa trên các nguồn tư liệu sử.

+ Khai thác một số truyện kể dân gian tiêu biểu gắn liền với hoàn cảnh xuất thân

của Đinh Bộ Lĩnh (“Con Rái Thần”, “Mả táng Hàm Rồng”, “Sự tích sông Hoàng

Long”...)

PHIẾU ĐỊNH HƢỚNG HOẠT ĐỘNG NHÓM 2

(Sản phẩm: Video giới thiệu di tích Cố đô Hoa Lƣ – xã Trƣờng Yên – huyện

Hoa Lƣ – tỉnh Ninh Bình)

Video giới thiệu về di tích cố đô Hoa Lư – kinh đô 42 năm của nhà nước Đại Cồ

Việt thời Đinh – Tiền Lê – Lý (968 – 1010) phải thể hiện được các nội dung sau:

- Vị trí địa lí, lịch sử hình thành của di tích.

- Giải thích được lí do vua Đinh Tiên Hoàng chọn đất Hoa Lư làm nơi đóng đô, tại

sao vua Lý Thái Tổ quyết định dời đô ra Thăng Long.

- Kiến trúc đặc biệt của di tích (chủ yếu đền Đinh và đền Lê).

- Công lao tổng quát của vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành.

- Tính chất, ý nghĩa và giá trị của di tích.

PHIẾU ĐỊNH HƢỚNG HOẠT ĐỘNG NHÓM 3

(Sản phẩm: Bản trình chiếu PPT về buổi đầu xây dựng nhà nƣớc độc lập ở thế

kỉ X)

Sản phẩm phải thể hiện được các nội dung sau:

- Khẳng định được Ngô Quyền là người có công dựng lên nền độc lập tự chủ

còn Đinh Bộ Lĩnh là người có công thống nhất đất nước.

- Giải thích được lí do nhà Đinh được coi là nhà nước phong kiến trung ương

tập quyền đầu tiên ở nước ta?

- Quá trình hình thành của nhà nước Đại Cồ Việt (Cơ sở hình thành, sự hình

thành, thời gian, địa điểm, kinh đô). Nêu được mối quan hệ giữa cố đô Hoa Lư và

kinh đô Thăng Long xưa, hay kinh đô Thăng Long đã sự kế thừa và phát huy những

thành tựu của cố đô Hoa Lư như thế nào?

- Tổ chức bộ máy nhà nước (sơ đồ và nhận xét, so sánh về tổ chức bộ máy nhà

nước thời Ngô, Đinh – Tiền Lê). Giải thích thế nào là Tăng ban? Tại sao các nhà sư

lại được trọng dụng ở thời Đinh – Tiền Lê.

- Tình hình quân sự, luật pháp, đối ngoại của thời Đinh – Tiền Lê.

- Đánh giá được vai trò, vị trí lịch sử của nhà nước Đinh – Tiền Lê.

---------------------------------------

Phụ lục 2.2.2. PHIẾU PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ CÁC THÀNH VIÊN

NHÓM

(Dùng cho các nhóm trƣớc khi xây dựng kế hoạch thực hiện nhiệm vụ)

Nhóm thực hiện: ……………………………...……………...................

Nội dung: ……………………………...………………………………..

Nhiệm vụ Phƣơng tiện Stt Họ và tên thành viên Thời hạn hoàn thành Sản phẩm dự kiến

Gợi ý:

Stt Họ và tên Nhiệm vụ Phƣơng tiện Thời hạn Sản phẩm

thành viên hoàn thành dự kiến

A Phỏng vấn Phiếu PV 1 tuần Phiếu trả

Máy ảnh lời PV

Máy ghi âm Ảnh chụp

(Nếu có) ….

---------------------------------------

Phụ lục 2.2.3. PHIẾU ĐÁNH GIÁ BÀI BÁO CÁO CỦA CÁC NHÓM

(Phiếu này dùng cho giáo viên và các nhóm)

Tên nhóm thực hiện: ..........................Số lƣợng thành viên: ..........................

Tên nhóm đánh giá: ...........................

Thang điểm: 1 = Kém; 2 = Yếu; 3 = Khá; 4 = Tốt; 5 = Xuất sắc

Yêu cầu Điểm tối đa Tiêu chí Đánh giá của nhóm Nhóm khác Giáo viên

Bố cục

Tiêu đề rõ ràng, hợp lí 1 2 Cấu trúc mạch lạc, lô gic 3 Nội dung phù hợp với tiêu đề 4

5 5 5 5 5 5

Nội dung 6

5 5 7

5 8

9

5 5 10

Lời nói, cử chỉ 5 11

5 12

5 13

5 Hình thức 14 Sử dụng thông tin chính xác, khoa học Xác định được kiến thức cơ bản, trọng tâm Có liên hệ, mở rộng với thực tiễn Sử dụng kiến thức của nhiều môn học Giọng nói rõ ràng, khúc triết; âm lượng vừa phải, đủ nghe Tốc độ trình bày vừa phải, hợp lí Ngôn ngữ diễn đạt dễ hiểu, phù hợp lứa tuổi Thể hiện được cảm hứng, sự tự tin, nhiệt tình khi trình bày Có giao tiếp bằng ánh mắt với người tham dự Sử dụng hình thức sáng tạo, hợp lí, phù hợp với nội dung Thiết kế sáng tạo, màu sắc hài hòa, thẩm mĩ

15 Hình ảnh dễ nhìn, dễ hiểu

5 5 16

5

17

Tổ chức, tương tác 5 18 Trình bày rõ ràng, mạch lạc, hấp dẫn người nghe Xử lý linh hoạt các tình huống, không bị lệ thuộc vào phương tiện (video, bản trình, kịch thuyết bản…) Có nhiều học sinh trong nhóm tham gia trình bày

19 Trả lời các câu hỏi thêm từ người dự 20 Phân bố thời gian hợp lí

Tổng số điểm 5 5 100

Điểm trung bình ________________ (Cộng tổng điểm chia cho 20)

Chữ kí ngƣời đánh giá

---------------------------------------

Phụ lục 2.2.4. PHIẾU GHI NHẬN THÔNG TIN

(Dành cho cá nhân HS trong lớp ghi chép)

Họ và tên: ……………………………........... thuộc nhóm………………………

I. LỊCH SỬ ĐỊA PHƢƠNG

Hoàn thiện bảng hệ thống về các di sản văn hóa địa phương được tìm hiểu

trong chuyên đề:

STT Tên gọi Địa điểm Loại Năm xếp Sự kiện lịch sử và

di sản hình hạng/ cấp nhân vật liên quan

II. LỊCH SỬ VIỆT NAM

1. Thân thế, cuộc đời của Đinh Bộ Lĩnh khi còn trẻ/ Hoàn cảnh quê hương,

đất nước, xuất thân gia đình của Đinh Bộ Lĩnh

- Hoàn cảnh gia đình, quê hương:

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

- Bối cảnh lịch sử đất nước khi Đinh Bộ Lĩnh ra đời:

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

2. Sự nghiệp thống nhất đất nƣớc của Đinh Bộ Lĩnh

- Bối cảnh đất nước trước khi Đinh Bộ Lĩnh khởi binh “dẹp loạn”:

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

- Công lao của Đinh Bộ Lĩnh đối với dân tộc ở thế kỉ X:

.......................................................................................................................................

.....................................................................................................................................

3. Buổi đầu xây dựng nhà nƣớc độc lập ở thế kỉ X

- Nhà Ngô:

+ Thời gian, kinh đô:

.......................................................................................................................................

.....................................................................................................................................

+ Bộ máy nhà nước:

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

+ Vị trí của nhà Ngô:

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

- Nhà Đinh – Tiền Lê:

+ Thời gian, kinh đô:

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

+ Bộ máy nhà nước:

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

- Tình hình quân sự, luật pháp, đối ngoại:

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

- Vai trò, vị trí lịch sử của nhà nước Đinh – Tiền Lê.

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................

---------------------------------------------

Phụ lục 2.3. Phiếu bài tập sau khi tiến hành dạy thực nghiệm

KIỂM TRA

MÔN: LỊCH SỬ – Lớp 10

(Thời gian làm bài: 15 phút)

Họ và tên:………………….………………………………………………

Lớp:………………………………………………………………………..

Trường:…………………………………………………………………….

* Kiểm tra tâm lí của HS sau khi kết thúc bài học:

1. Học xong bài học trên, em cảm thấy:

A. Rất hứng thú.

B. Hứng thú.

C. Bình thường.

D. Không hứng thú.

2. Em có nhận xét gì về tiết học ngày hôm nay ?

A. Rất sôi nổi

B. Rất căng thẳng

C. Bình thường

D. Nhàm chán

* Trắc nghiệm (Mỗi câu đúng: 1,0 điểm)

Câu 1. Công lao lớn nhất của Đinh Bộ Lĩnh là

A. dẹp loạn 12 sứ quân C. chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc

B. thống nhất đất nước D. mở đầu xây dựng nhà nước tự chủ

Câu 2. Kinh đô của nhà nước quân chủ chuyên chế độc lập đầu tiên là

A. Thăng Long B. Cổ Loa C. Mê Linh D. Hoa Lư

Câu 3. Anh hùng dân tộc có công “Phá Tống, bình Chiêm” ở thế kỉ X là

A. Lý Thường Kiệt C. Đinh Bộ Lĩnh B. Ngô Quyền D. Lê Hoàn

Câu 4. Di tích nào chứng tỏ sự quan tâm đến luật pháp của nhà Đinh?

A. Ghềnh Tháp C. Động Am Tiên

B. Hang Luồn D. Tuyệt Tịnh Cốc

Câu 5. Tổ chức nhà nước quân chủ sơ khai thời Đinh – Tiền Lê gồm

A. Ba ban: Văn ban, Võ ban và Tăng ban

B. Sáu bộ: Binh, Hình, Công, Hộ, Lại, Lễ

C. Hai ban: Văn ban và Võ ban

D. Vua, Lạc hầu, Lạc tướng và Bồ chính

Câu 6. Người có công thống nhất nước ta ở thế kỉ X là

A. Khúc Thừa Dụ C. Đinh Bộ Lĩnh

B. Ngô Quyền D. Lê Hoàn

Câu 7. Câu phương ngôn: “Đại Hữu sinh Vương” nói về di tích lịch sử nào

dưới đây?

A. Động Hoa Lư (Thung Lau) – căn cứ quân sự đầu tiên của vua Đinh Tiên Hoàng

B. Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng (Gia Phương) – quê hương của nhà vua

C. Đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng (Trường Yên) – nơi nhà vua dựng kinh đô.

D. Khu di tích Cố đô Hoa Lư (Trường Yên) – thờ vua Đinh Tiên Hoàng.

Câu 8. Kinh đô Hoa Lư gắn liền với sự nghiệp của các triều đại nào?

A. Nhà Đinh – Tiền Lê – Lý. C. Nhà Ngô – Đinh – Tiền Lê – Lý.

B. Nhà Ngô – Đinh – Tiền Lê. D. Nhà Đinh – Tiền Lê.

Câu 9. Nghệ thuật hát chèo ở nước ta ra đời từ thời kỳ

A. Thời Bắc thuộc. C. Thời Đinh.

B. Thời Ngô. D. Thời Tiền Lê.

Câu 10. Nội dung nào không giải thích nguyên nhân vua Lý Thái Tổ dời đô

từ Hoa Lư về Đại La (1010)?

A. Địa thế của Đại La thuận lợi để phát triển đất nước lâu dài.

B. Hoa Lư là vùng đất hẹp, nhiều núi đá, chỉ thuận lợi về quân sự.

C. Địa thế Hoa Lư không thuận lợi để phát triển, mở mang đất nước.

D. Đại La là nơi sinh ra và trưởng thành của nhà vua.

ĐÁP ÁN - HƢỚNG DẪN CHẤM PHIẾU BÀI TẬP

Đáp án: Mỗi câu đúng: 1,0 điểm; Tổng: 10 điểm.

Câu 1 Câu 2 Câu 3 Câu 4 Câu 5 Câu 6 Câu 7 Câu 8 Câu 9 Câu 10

B D D C A C B A C D