Sự giao lưu và bảo tồn bản ngữ của cộng đồng người Khmer khu vực miền núi biên giới Tây Nam bộ
lượt xem 3
download
Bài viết "Sự giao lưu và bảo tồn bản ngữ của cộng đồng người Khmer khu vực miền núi biên giới Tây Nam bộ" tập trung tìm hiểu về sự giao lưu và bảo tồn bản ngữ của cộng đồng người Khmer khu vực miền núi biên giới Tây Nam bộ sẽ góp phần gìn giữ giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng người Khmer Tây Nam bộ. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Sự giao lưu và bảo tồn bản ngữ của cộng đồng người Khmer khu vực miền núi biên giới Tây Nam bộ
- SỰ GIAO LƯU VÀ BẢO TỒN BẢN NGỮ CỦA CỘNG ĐỒNG NGƯỜI KHMER KHU VỰC MIỀN NÚI BIÊN GIỚI TÂY NAM BỘ Nguyễn Thuận Quý Đại học Đồng Tháp Tóm tắt :Tây Nam bộ ngày nay chiếm 12,1% diện tích và 19,8% tổng dân số cả nước, trong đó có gần 1,2 triệu người Khmer. Cư dân Khmer tập trung sinh sống khá đông ở các tỉnh miền núi biên giới Tây Nam bộ như Kiên Giang, An Giang, trong các phum, sóc, ngoài người Khmer còn có cộng đồng các tộc người Việt, Hoa, Chăm. Trong quá trình giao lưu kinh tế - văn hóa đã giúp các tộc người xích lại gần nhau, siết chặt tình đoàn kết cộng đồng đa tộc người vùng miền búi biên giới Tây Nam bộ. Với không gian văn hóa mở, người Khmer miền núi biên giới Tây Nam bộ có thể nói được tiếng Hoa, Chăm, Việt, đồng thời vẫn bảo tồn được bản ngữ của mình thông qua nhiều hoạt động, với nhiều hình thức. Bên cạnh đó, các tộc người khác trên địa bàn vẫn nói được tiếng Khmer trong giao tiếp hàng ngày. Thật khó để phân biệt được thành phần tộc người trong một cuộc trò chuyện của những nhóm người nói cùng một ngôn ngữ thành thạo nếu bản thân họ không cho biết mình thuộc tộc người nào. Tuy nhiên, do các nguyên nhân khác nhau, một bộ phận giới trẻ Khmer ngày nay bị phai nhạt bản ngữ trên phương diện nói lẫn viết, gây khó khăn trong việc bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống có liên quan đến yếu tố ngôn ngữ Khmer. Do đó, tìm hiểu về sự giao lưu và bảo tồn bản ngữ của cộng đồng người Khmer khu vực miền núi biên giới Tây Nam bộ sẽ góp phần gìn giữ giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng người Khmer Tây Nam bộ. Từ khóa: Tây nam bộ, ngôn ngữ Khmer, người Khmer, giao lưu văn hóa, bảo tồn bản ngữ 1. Bản ngữ và cộng đồng người Khmer miền bản Hiến Pháp kể từ ngay sau khi cách mạng núi biên giới Tây Nam bộ tháng Tám 1945 thành công đến ngày nay. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, mỗi Trong bản Hiếp Pháp năm 1946, Điều 15 có dân tộc có ngôn ngữ riêng, sống cộng cư với viết: “Ở các trường sơ học địa phương, quốc nhau trong các thôn, xóm, ấp, bản. Do nhu cầu dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình” giao tiếp, những người thuộc các dân tộc khác và Điều 66 khẳng định “Quốc dân thiểu số có phải có một kênh hiểu biết chung, đó chính là quyền dùng tiếng nói của mình trước tòa án”. chiếc thuyền ngôn ngữ để gắn kết người với Bản Hiến pháp năm 1960, có quy định cụ thể người trong một cộng đồng dân cư. hơn về việc sử dụng tiếng mẹ đẻ của các dân Với hơn 85% dân số là người Việt nên tộc thiểu số tại Điều 3 và Điều 102. Hiến pháp tiếng Việt là tiếng phổ thông, là ngôn ngữ chính năm 1980 cũng nhắc đến vấn đề này ở Điều 5 được sử dụng trong cả nước về phương diện và Điều 60. Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội hành chánh. Do đó, để thực hiện các quyền và chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 có bổ sung nghĩa vụ của một công dân, các dân tộc thiểu số thêm: “Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, ở Việt Nam phải trang bị vốn phổ thông đó. chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và phát huy Đồng thời, để hòa hợp, để giao lưu kinh tế - văn những phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa, người Việt phải tự tìm tòi ngôn ngữ của hóa tốt đẹp của mình” (Điều 5), “Toàn án nhân các dân tộc thiểu số cùng sinh sống chung một dân bảo đảm cho công dân nước Cộng hòa Xã không gian địa lý. hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc các dân tộc Đảng và Nhà nước ta luôn tôn trọng tính quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc đa dạng của các dân tộc, tôn trọng quyền bình mình trước Tòa án” (Điều 133). Gần đây nhất là đẳng giữa các dân tộc, vấn đề bản ngữ của các Hiến pháp mới có hiệu lực từ ngày 1/ 1/ 2014 dân tộc thiểu số luôn được chú trọng bảo tồn và quy định “Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các phát huy. Việc tôn trọng ngôn ngữ mẹ đẻ của dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ các dân tộc ở Việt Nam được đề cập trong các 108
- gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập tộc xuyên biên giới với nước láng giềng quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của Campuchia. Tây Nam bộ hiện nay chiếm 12,1% mình” (Điều 5). Cũng trong bản Hiến pháp mới diện tích cả nước với 17 triệu dân. Toàn khu này có nêu: “Công dân có quyền xác định dân vực có khoảng 1,4 triệu đồng bào dân tộc thiểu tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọ số, trong đó, người Khmer chiếm đông nhất với ngôn ngữ giao tiếp” (Điều 42). hơn 1,3 triệu người. Như vậy, trong từng giai đoạn lịch sử phát Tây Nam bộ là vùng đất có thể mạnh về triển của đất nước, vấn đề bản ngữ của các dân địa lý, là cầu nối các tuyến đường đến với tộc đều được đạo luật cơ bản nhất, là nền tảng vương quốc Campuchia (đường biên giới trên chính trị - pháp lý của đất nước thừa nhận. Các đất liền chạy qua địa phận tỉnh Kiên Giang dài quy định trong Hiến Pháp là những quy định có 56,8 km, tỉnh An Giang dài 104 km) và các tỉnh giá trị xuất phát điểm, là cơ sở pháp luật cho tất miền Đông Nam bộ (bản đồ 1). Có tiềm năng cả các ngành luật. Chính điều này đã góp phần lớn về kinh tế, sinh thái và nhân văn, là vùng thúc đẩy việc bảo tồn và phát huy ngôn ngữ tộc đất sản xuất lượng lúa gạo đứng đầu cả nước, người. có vị trí quan trọng trong việc bảo đảm an ninh Điều 7 Luật Giáo dục 2005 quy định: 2. lương thực quốc gia và thế giới. Về công Nhà nước tạo điều kiện để người dân tộc thiểu nghiệp tuy chưa phát triển mạnh, nhưng vẫn số được học tiếng nói, chữ viết của dân tộc đảm bảo cho việc xuất khẩu thủy sản, nông sản mình nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa và hàng dệt may. dân tộc, giúp cho học sinh người dân tộc thiểu Theo Quyết định số 447/QĐ-UBDT ngày số dễ dàng tiếp thu kiến thức khi học tập trong 19/9/2013 của Bộ trưởng, chủ nhiệm Ủy ban nhà trường và cơ sở giáo dục khác. Việc dạy và Dân tộc, vùng Tây Nam bộ có 13 thôn thuộc tỉnh học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số An Giang và 21 thôn thuộc tỉnh Kiên Giang nằm được thực hiện theo quy định của Chính phủ. trong danh sách thôn đặc biệt khó khăn vùng dân Năm 2010, Chính phủ đã ban hành Nghị tộc và miền núi. Ở Kiên Giang, người Khmer định số 82/2010/CP quy định việc dạy và học phân bố rải rác ở một số núi phía Bắc thị xã Hà tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số. Đến năm Tiên (nhất là ở Xà - Xía) và các giồng lớn của 2012 đã có 32 tỉnh tổ chức dạy và học tiếng dân đồng bằng như Giồng Riềng, Gò Quao, Vĩnh tộc thiểu số; giáo trình biên soạn bằng 12 thứ Thuận, Rạch Giá, Hà Tiên… Hiện nay có 42.413 tiếng dân tộc. Đến năm 2012 cả nước có 2.629 hộ với 214.979 người (chiếm 12,77% dân số trường, lớp học chữ tiếng dân tộc với 136.600 toàn tỉnh), phân bố nhiều ở các huyện Châu học sinh đang theo học. Tuy nhiên, chúng ta Thành (38.000 người), Gò Quao (23.500 người), cũng thừa nhận rằng hiện nay mới có 30 dân tộc Giồng Riềng (21.190 người), Hà Tiên (15.409 thiểu số có chữ viết, các dân tộc thiểu số khác người), An Biên (9.210 người), thành phố Rạch đứng trước nguy cơ chữ viết mai một dần. Đảng Giá (8.032 người) [6]. Còn ở An Giang, có và Nhà nước đang có những nghiên cứu sâu sắc 18.512 hộ Khmer với 86.592 người, chiếm tỷ lệ và toàn diện hơn để có những giải pháp cụ thể, 75,54% so tổng số người dân tộc thiểu số và hiệu quả để giữ gìn, bảo vệ, phát huy ngôn ngữ, chiếm 3,9% so tổng dân số toàn tỉnh. Trong đó chữ viết, bản sắc văn hóa các dân tộc, nhất là các có 16.838 hộ với dân số khoảng 80.000 người dân tộc có số dân rất ít người [13]. (chiếm gần 92% tổng số dân tộc Khmer toàn Sự đa dạng trong thành phần tộc người, tỉnh) sống tập trung ở 2 huyện miền núi: Tri Tôn văn hóa và ngôn ngữ tộc người đã làm cho bức và Tịnh Biên [5]. tranh 54 dân tộc ở Việt Nam thêm sinh động và Về tên gọi tộc người Khmer, cách gọi phổ phong phú. Đặc biệt là vùng miền núi biên giới biến nhất là “Khơ - me”, cách viết phổ biến nhất Tây Nam bộ với các đặc trưng về địa – kinh tế, là “Khmer”. Qua khảo sát thực tế các tri thức địa – lịch sử, địa – dân tộc, nhất là vấn đề đồng người Khmer và người dân Khmer ở các tỉnh 109
- biên giới Tây Nam bộ cho thấy họ đồng ý với chiều dài (trường hợp ở tỉnh Kiên Giang). Đặc cách dùng danh từ “Khmer”. Hiện nay, tên gọi biệt, người Khmer ở Kiên Giang còn định cư “Khmer” trở thành tên gọi phổ biến và thống dọc biên giới Việt Nam – Campuchia, các nhất trong các văn bản Nhà nước, trên các phum chạy dọc theo các huyện Hà Tiên – Hòn phương tiện thông tin đại chúng và sâu rộng Đất – Kiên Lương – Giang Thành. trong tầng lớp nhân dân. Trong giấy tờ hành Trong các phum sóc, ngoài người Khmer chính của Nhà nước Việt Nam, người Khmer còn có sự cộng cư sinh sống của tộc người Việt, cũng được ghi nhận thuộc dân tộc “Khmer” Hoa, Chăm. Trong quá trình giao lưu kinh tế - (hình 1), đồng bào Khmer khi giao tiếp với các văn hóa, tạo nên những giao thoa văn hóa mới, dân tộc khác cũng tự xưng mình là dân tộc nhưng người Khmer vẫn giữ được văn hóa tộc Khmer. người mình, đặc biệt là về ngôn ngữ. Tiếng mẹ đẻ của người Khmer thuộc nhóm 2. Sự giao lưu ngôn ngữ của cộng đồng người ngôn ngữ Môn – Khmer, hệ ngữ Nam Á. Chữ Khmer với các tộc người khác ở khu vực Khmer có đường nét dịu dàng, cong cong, uyển miền núi biên giới Tây Nam bộ chuyển. Là một hệ thống chữ gồm 33 con chữ Sự giao lưu ngôn ngữ của cộng đồng người phụ âm, 32 chân và 24 con chữ nguyên âm, 13 Khmer và các tộc người khác ở khu vực miền con chữ nguyên âm độc lập. Chữ phụ âm có 2 núi biên giới Tây Nam bộ là quá trình diễn ra giọng đọc là giọng O (gồm 15 con chữ) và trên cả hai chiều cho và nhận. Trong quá trình giọng Ô (18 con chữ). Ngữ pháp Khmer nhìn làm ăn sinh sống trên vùng biên giới có đặc chung giống như ngữ pháp tiếng Việt [12]. điểm đa tộc người đã góp phần vào sự giao lưu Cũng như các dân tộc thiểu số khác trên đất văn hóa tộc người, trước tiên là về mặt ngôn nước Việt Nam, dân tộc Khmer đã tranh đấu ngữ, dần dần đến phong tục, tín ngưỡng. Đa với quy định của nhà cầm quyền thời Pháp phần cư dân làm ăn, sinh sống cặp bên biên giới thuộc để bảo vệ cho sự tồn tại tiếng mẹ đẻ của Tây Nam bộ đều có thể giao tiếp được bằng các dân tộc mình, đặc biệt là vai trò của thiết chế thứ tiếng: Khmer, Việt, Hoa, Chăm. văn hóa chùa Khmer và các vị sư sãi Phật giáo Trong đó, tiếng Việt là ngôn ngữ được các Nam tông. Sự tồn tại và phát triển bản ngữ của tộc người khác tiếp nhận nhiều hơn, bởi vì tiếng cộng đồng người Khmer thể hiện sức sống Việt là ngôn ngữ phổ thông nên các tộc người mãnh liệt của nền văn hóa và tình yêu đối với thiểu số nói chung, người Khmer nói riêng sử dân tộc của người Khmer. Suy rộng ra, đó là dụng tiếng Việt trở thành nhu cầu cần thiết của cách thể hiện và là sự khẳng định ý thức tộc các tộc người. Mặt khác, để hòa hợp trong giao người của cộng đồng người Khmer. tiếp và sinh kế, các tộc người thiểu số khác như Người Khmer biên giới Tây Nam bộ xem Chăm, Hoa, Khmer… phải chủ động cho và phum là một đơn vị cư trú cổ truyền, một không nhận ngôn ngữ của nhau để phục vụ cho nhu gian xã hội - tộc người. Sóc gồm nhiều phum. cầu của mình, kể cả người Việt cũng tham gia Phum sóc là tổ chức xã hội tự quản theo cơ chế với vai trò là chủ thể tiếp nhận ngôn ngữ của quản lý kết hợp xã hội – tôn giáo mang tính các tộc người khác. cộng đồng cao. Trong Phum có khi chỉ gồm Đặc biệt, với vị trí địa lý tiếp giáp với một vài gia đình cùng huyết thống nhưng cũng Vương quốc Campuchia – đất nước có hơn có khi chỉ gồm vài gia đình không có quan hệ 90% dân số là người Khmer, dùng tiếng Khmer dòng họ. Một Phum của người Khmer ở đây có làm ngôn ngữ chính thức thì việc các tộc người thể được xem tương đương như một ấp. Các khác sinh sống trên các tỉnh miền núi biên giới phum này thường được nằm theo ven chân núi, Tây Nam bộ có sự tiếp thu, tiếp nhận ngôn ngữ bìa rừng, mang đậm tính chất quần tụ của đất Khmer là xu thế tất yếu. giồng (trường hợp ở tỉnh An Giang) hay chạy Nhờ quá trình cư trú xen kẽ giữa các tộc người dọc theo các con sông, kênh, rạch phân tán theo Việt – Hoa – Khmer – Chăm… đã tạo điều kiện 110
- cho các tộc người giao lưu học hỏi với nhau về với đặc trưng tính cách truyền thống là cởi mở, cách thức làm ăn, về kỹ thuật trồng trọt, chăn phóng khoáng. nuôi, và những yếu tố văn hóa mới phù hợp với Ngoài ra, yếu tố hôn nhân ngoại tộc cũng mỗi tộc người để thêm vào kho tàng tri thức, tác động làm cho sự giao lưu ngôn ngữ trở nên văn hóa của tộc người mình. Chính những yếu phong phú và là xu thế tất yếu. Do nhu cầu làm tố giao thoa trên là sợi dây liên kết giúp các tộc ăn xa quê, nhiều nam nữ thanh niên đã định cư người xích lại gần nhau, siết chặt tình đoàn kết và lập gia đình tại địa những phương khác. Kết giữa các tộc người cùng cư trú trên vùng biên quả làm cho ngôn ngữ mẹ đẻ của những nam nữ cương Tây Nam bộ. thanh niên này được chia sẻ trong sinh hoạt Những cư dân Việt, Hoa, Chăm, Khmer rời kinh tế và đời sống gia đình, con cháu họ dễ quê cũ đi làm ăn ở những vùng đất mới trên dàng tiếp thu nhiều ngôn ngữ vì có sẵn tiếng mẹ vùng biên giới Tây Nam bộ có điều tiếp xúc với đẻ của cha mẹ, ông bà trong gia đình, dòng họ. các tộc người khác nhau. Ban đầu họ không biết Xét về tính linh hoạt, nhạy bén, cởi mở trong sự về nhau, gặp nhiều khó khăn trong giao tiếp, tiếp thu ngôn ngữ của các tộc người cộng cư, ngăn cách trong sinh hoạt, dần dần, họ đã thích cộng canh thì đa phần người Khmer sinh sống ứng được cuộc sống cộng cư nhiều tộc người. trong những phum, sóc ven đồi núi, bìa rừng ở Chỉ trong một thời gian ngắn, do nhu cầu trao khu vực biên giới Tây Nam bộ có phần hạn chế đổi, thông tin liên lạc, họ nhanh chóng học tập hơn đối với người đồng tộc sinh sống trong các ngôn ngữ của nhau, hòa hợp cách sống để tạo phum, sóc ven trục lộ giao thông hay vùng thành một cộng đồng đa tộc người đoàn kết, đồng bằng, ven sông rạch. Nguyên nhân có thể thân ái. do điều kiện sinh hoạt kinh tế ở những vùng đồi Với các công việc như buôn bán, làm công núi, bìa rừng cách trở hơn, không thuận lợi với nhân, làm nông nghiệp đòi hỏi sức lao động của đặc điểm cư trú của các cộng đồng tộc người nhiều người. Đặc biệt là hình thức làm ruộng, khác. Nên ở đây sự giao lưu ngôn ngữ giữa làm rẫy “dần công” của các cộng đồng người ở người Khmer và các tộc người khác diễn ra Tây Nam bộ. Những người sinh sống hoặc canh không thường xuyên, thậm chí chỉ có ngôn ngữ tác ruộng rẫy cạnh nhau, dùng công sức của mẹ đẻ là độc nhất nếu họ không đến trường học. mình để giúp đỡ gặt lúa, đập lúa, vận chuyển Ngược lại, ở những nơi có nhiều tộc người sinh lúa, rơm… cuối ngày lao động phụ giúp, họ sống, thì hiện tượng song ngữ, đa ngữ trở nên thường được mời cơm hoặc có thể trả công. phổ biến. Việc nói được 2, 3 ngôn ngữ của Thông qua hình thức canh tác cạnh nhau trên người Khmer từ người trẻ đến người lớn luôn cùng một dãy ruộng và hình thức “dần công” luôn tồn tại từ xưa đến nay ở vùng đất này. Thật này, cộng đồng người Khmer và các tộc người khó để phân biệt được thành phần tộc người khác có dịp trò chuyện, trao đổi thông tin, trong một cuộc trò chuyện của những nhóm không khí mùa gặt thật nhộn nhịp, làm thắt chặt người nói cùng một ngôn ngữ thành thạo nếu thêm tình đoàn kết giữa các thành viên trong bản thân họ không cho biết mình thuộc tộc tộc người và các thành viên ngoại tộc (hình 2). người nào. Trong một môi trường làm ăn, có khi họ là Trong quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa những người đồng tộc, nhưng đôi khi không của giữa các cộng đồng người vùng biên giới phải. Do đó, để trao đổi thông tin, để hòa hợp Tây Nam bộ, tiếng Việt đã trở thành tiếng nói và tạo mối quan hệ trong sinh hoạt, yêu cầu chung của các tộc người, bên cạnh hiện tượng trước hết họ phải học tập ngôn ngữ nói lẫn song ngữ hay đa ngữ. Trong vốn từ của người nhau. Vô tình, dòng chảy ngôn ngữ của người Việt đã có sự hiện diện của các tiếng dân tộc và ngoại tộc đan xen một cách tự nhiên trong mỗi ngược lại. Sự giao lưu này diễn ra tự nhiên, tự con người. Nhất là trong cộng đồng người Việt nguyện, không chút gò bó, ép buộc, thậm chí có nhiều từ ngữ hiện nay được dùng của một tộc 111
- người hay nhiều tộc người cùng sử dụng không giác, đấu tranh chống âm mưu của các thế lực biết nguồn gốc thuộc về tộc người nào. thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc. Việc giao lưu ngôn ngữ giữa các tộc người Nghị quyết số 24/NQ-TW ngày 12/3/2003 ở miền núi biên giới Tây Nam bộ thường dừng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 lại ở ngôn ngữ nói, còn chữ viết phổ biến vẫn là (khóa IX) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết tiếng Việt do quy định trong hệ thống giáo dục toàn dân tộc, công tác dân tộc đã giải quyết quốc dân. Các cộng đồng người có thể trò đồng bộ các vấn đề về dân tộc với các nhiệm chuyện với nhau, trao đổi kinh nghiệm làm ăn, vụ: Phát triển sản xuất, đẩy mạnh xóa đói giảm buôn bán với nhau, nhưng đa số họ không đọc nghèo, nâng cao mức sống của đồng bào các được, không viết được ngôn ngữ của tộc người dân tộc thiểu số, làm thay đổi rõ rệt bộ mặt kinh bạn. Nhưng dù sao thì chính chiếc thuyền ngôn tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi; phát triển ngữ đã đưa họ xích lại gần nhau, góp phần bảo giáo dục, nâng cao dân trí, tăng cường đào tạo tồn văn hóa dân gian của các dân tộc. nhân lực, kiên cố hóa các trạm y tế xã, phòng 3. Sự bảo tồn bản ngữ của người Khmer khám đa khoa ở cụm xã, nâng cấp bệnh viện miền núi biên giới Tây Nam bộ tuyến huyện, tỉnh, cơ bản chuẩn hóa 100% trạm Trải qua 10 năm (1981-1991) thực hiện y tế xã và cơ sở y tế trung tâm cụm xã; nâng Chỉ thị 117 của Trung ương Đảng về công tác ở cao chất lượng phát thanh, truyền hình bừng những vùng đồng bào dân tộc Khmer trong tiếng dân tộc trong khu vực; củng cố và nâng những năm trước mắt đã cơ bản giải quyết được cao hệ thống chính trị cấp cơ sở phù hợp với tình trạng thiếu đất ruộng và đất ở cho đồng bào đặc thù vùng đồng bào dân tộc, miền núi; tăng Khmer, củng cố và tăng cường thời lượng phát cường quốc phòng, đảm bảo ổn định chính trị, thanh tiếng Khmer cho vùng có đông đồng bào trật tự an toàn xã hội vùng dân tộc và miền núi. Khmer, chú trọng việc dạy chữ cho con em Nhờ các chủ trương, chính sách dành cho đồng đồng bào Khmer, cải thiện điều kiện chăm sóc bào dân tộc, miền núi, đời sống vật chất và tinh sức khỏe, y tế cho đồng bào Khmer, nâng cao thần của đồng bào dân tộc thiểu số nói chung, công tác đào tạo, bồ dưỡng đội ngũ cán bộ là đồng Khmer miền núi biên giới Tây Nam bộ người Khmer …. nói riêng có bước chuyển biến tích cực, góp Chỉ thị số 68-CT/TW ngày 18/4/1991 của phần ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) về xã hội vùng biên giới. Đồng thời, vấn đề bảo công tác ở vùng đồng bào Khmer. Chỉ thị đặt ra tồn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc các vấn đề lớn trong việc thực hiện chính sách Khmer được chú trọng. đối với đồng bào Khmer: Đặc biệt quan tâm Đối với ngôn ngữ Khmer, một số trường chăm lo phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, học trên địa bàn tỉnh An Giang và Kiên Giang giáo dục, y tế, nhằm nâng cao đời sống vật chất có đông đồng bào Khmer sinh sống đã tổ chức và tinh thần cho đồng bào, giúp đồng bào dạy học song ngữ cho học sinh là con em đồng Khmer hội nhập với sự phát triển chung của bào Khmer. Ở 2 tỉnh đều có trường trung cấp khu vực và đất nước; Tôn trọng quyền tự do tín nghề dân tộc nội trú, An Giang có 1 trường ngưỡng tôn giáo của đồng bào, bảo vệ chùa trung học phổ thông Dân tộc nội trú, 1 trường chiền, phong tục, tập quán của đồng bào Trung học cơ sở Dân tộc bán trú, trong khi tỉnh Khmer, tạo điều kiện cho các sinh hoạt của Phật Kiên Giang có 5 trường trung học phổ thông giáo Nam tông diễn ra thuận lợi, phát huy, phát Dân tộc nội trú . Các trường phổ thông dân tộc huy vai trò của nhà chùa, sư sãi và Phật tử yêu nội trú, trường trung cấp nghề dân tộc nội trú nước, bảo tồn và phát huy những di sản văn trên địa bàn tỉnh An Giang và Kiên Giang đã hóa, những giá trị truyền thống tốt đẹp, giữ gìn góp phần bảo tồn ngôn ngữ Khmer nói riêng, bản sắc văn hóa dân tộc; Tăng cường công tác văn hóa Khmer nói chung. Trong các trường tuyên truyền giáo dục, nêu cao tinh thần cảnh học, việc tổ chức dạy và học ngữ văn Khmer đã 112
- mang lại nhiều ý nghĩa thiết thực, góp phần giữ có uy tín với phum sóc sóc nên giảng dạy cho gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Thông qua ngôn con em đồng bào dân tộc Khmer rất thuận lợi. ngữ Khmer, các em đọc được những câu ca dao Ngôi chùa của Phật giáo Nam Tông ngoài vai tục ngữ và truyện cổ tích của dân tộc. Các em trò là nơi sinh hoạt tôn giáo còn là điểm sáng học sinh dân tộc hiểu chính xác từ ngữ tiếng trong việc bảo tồn và phát huy văn hóa tộc Việt, học tốt các môn khoa học tự nhiên và xã người Khmer (hình 3). Trong chùa là nơi lưu hội. Các trường đều có đội văn nghệ với những trữ các thư tịch cổ (các pho kinh điển Bà La học sinh có năng khiếu ca múa và chơi các loại Môn và kinh phật), các di sản văn hóa dân tộc, nhạc cụ Khmer. nơi truyền đạt đạo lý Phật giáo và học chữ mẹ Các ấn phẩm báo, tạp chí và chương trình đẻ. Người Khmer có phong tục tu học của nam phát thanh truyền hình bằng tiếng dân tộc được thanh niên, quan niệm của người dân Khmer đi mở rộng, nâng dần nội dung, chất lượng, thời tu không phải để trở thành Phật, mà tu để làm lượng phát song. Trong 9 tỉnh miền Tây Nam người, làm người có nhân cách, có phẩm chất bộ có 8 tỉnh có đồng bào dân tộc thiểu số thực và đạo đức tốt theo quan niệm của họ. Trong hiện phát sóng chương trình tiếng Khmer, góp thời gian tu tập tại chùa, họ được học tiếng, học phần nâng cao trình độ dân trí, tạo chuyển biến chữ của dân tộc mình. về nhận thức trong sản xuất và đời sống đồng Toàn tỉnh An Giang có 65 và Kiên Giang bào[2]. Trong đó, 2 tỉnh miền núi biên giới An có 76 ngôi chùa Khmer. Có thể nói chùa Khmer Giang và Kiên Giang đều có phát thanh và là trung tâm văn hóa của cộng đồng phum sóc, truyền hình bằng tiếng Khmer, cư dân Khmer ở là nơi để đọc kinh, học chữ, học đạo lý làm đây dễ dàng bắt song được các đài phát thanh, người. Với cộng đồng người Khmer, chùa là truyền hình hoàn toàn bằng tiếng Khmer của mái nhà chung của mọi gia đình, là nơi sinh nước láng giềng Campuchia. hoạt lý tưởng của người Khmer, chùa không Góp phần bảo tồn ngôn ngữ Khmer phải kể những là nơi tôn nghiêm truyền bá giáo lý của đến vai trò quan trọng của chùa chiền và đội đạo Phật mà còn là nơi đào tạo, giáo dục văn ngũ sư sãi Phật giáo Nam Tông tại địa phương. hóa, đào tạo tri thức cho cộng đồng. Trong các dịp hè, các sư sãi chính đứng ra tổ Phong tục, lễ hội truyền thống của người chức và giảng dạy chữ Khmer tại các chùa cho Khmer cũng góp phần bảo tồn tiếng mẹ đẻ của con em đồng bào Khmer. Khi bước vào năm tộc người. Thông qua các nghi thức, nghi lễ và học, các nhà sư cùng với thầy cô giáo vận động các bài văn cúng tế bằng ngôn ngữ Khmer trong con em đồng bào Khmer đến lớp. Trường nào các dịp lễ hội đã thúc đẩy người Khmer tìm tòi, thiếu phòng học thì có thể dạy ngay trong chùa, học hỏi để bảo tồn di sản của cha ông, tiếp tục thiếu giáo viên Khmer thì nhà sư sẵn sàng đứng duy trì phong tục, lễ hội truyền thống của tộc lớp. Ngoài giờ học, trẻ em cũng có thể vào chùa người mình. để nhờ sư hướng dẫn bài vở. Do vị trí của Phật Ngoài các yếu tố trên, ý thức tự giác của giáo Nam Tông trong đời sống của đồng bào đồng bào Khmer trong việc bảo tồn bản ngữ là Khmer nên tiếng nói của các nhà sư rất quan quan trọng nhất. Bởi vì ngôn ngữ dân tộc là trọng, có sức ảnh hưởng đến phụ huynh và học biểu hiện của bản sắc văn hoá dân tộc. Duy trì sinh người Khmer, góp phần nâng cao mặt bằng và bảo vệ ngôn ngữ các dân tộc là duy trì và giáo dục vùng đồng bào dân tộc bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc. Do đó, dù hoàn Có nhiều nhà sư sau khi hoàn tục cũng đã cảnh kinh tế có khó khăn, phải xa quê hương chọn và gắn bó với nghề giáo. Họ tham gia dạy tìm kế sinh nhai, nhưng nếu bản thân người chữ Khmer với nhiều thuận lợi, như: có vốn văn Khmer luôn có ý thức bảo tồn và phát huy ngôn hóa, am hiểu phong tục tập quán sâu sắc, vốn ngữ mẹ đẻ của mình thì họ vượt qua những khó chữ đáp ứng được yêu cầu giảng dạy và có thể khăn đó để cho con em đến trường học, thậm truyền đạt thêm về văn hóa, đồng thời vốn đã 113
- chí ngoài giờ lao động, họ tự dạy chữ cho con con tập trung học tiếng Khmer ở bậc tiểu học, em mình. trung học cơ sở, khi đến bậc học cao hơn học Người Khmer ở miền núi biên giới Tây tiếng Việt thì con họ không theo kịp. Nên họ Nam bộ thường có xu hướng kết hợp giữa hai chỉ cho con em học ở các trường mầm non, phổ ngôn ngữ là tiếng Khmer và tiếng phổ thông, số thông không dạy chữ Khmer để con em tập lượng người nói được hai thứ tiếng là rất lớn. trung học tập như những học sinh khác. Trong giao tiếp với xã hợi thì họ sử dụng tiếng - Việc truyền bá chữ viết và đào tạo bằng Việt, trong phum, sóc thường họ sử dụng riếng tiếng Khmer tuy được Đảng và Nhà nước Khmer. Thông qua đó, sự giao lưu và bảo tồn khuyến khích nhưng còn hạn chế. Các địa điểm bản ngữ của dân tộc Khmer được duy trì và tổ chức lớp học đều thiếu thốn về cơ sở vật phát huy. chất. Đội ngũ người giảng dạy tiếng Khmer đa Thực tế cho thấy, trong quá trình giao lưu phần còn thiếu kinh nghiệm, kỹ năng truyền với cộng đồng người ngoại tộc, người Khmer đạt, do đó ảnh hưởng một phần đến chất lượng vẫn duy trì mối quan hệ nội tộc. Biểu hiện ở chung. Việc biên soạn chương trình giảng dạy việc giữ gìn bản sắc văn hóa tộc người, bảo vệ, và tài liệu tham khảo bằng tiếng dân tộc chưa lưu truyền bản ngữ và các yếu tố truyền thống có thống nhất và còn hạn chế. Sách giáo khoa tốt đẹp của tộc người mình. Những người đồng dạy tiếng Khmer trong các trường dạy song tộc thường xuyên giao tiếp xúc với nhau bằng ngữ, trường phổ thông dân tộc nội trú ở Tây tiếng mẹ đẻ, trao đổi kinh nghiệm canh tác, làm Nam bộ mỗi tỉnh đều giáo trình khác nhau, ăn, tương trợ, giúp đỡ nhau trong đời sống vật không đồng nhất; chất, tạo điều kiện cho con em đến trường học - Cơ sở vật chất như trường lớp, trang thiết tập…đó là những điều kiện quan trọng đẻ bảo bị phục vụ đào tạo và giáo dục vùng đồng bào tồn bản ngữ của cộng đồng ngườ Khmer miền dân tộc Khmer còn thiếu thốn. Đơn cử như ở núi biên giới Tây Nam bộ. huyện Gò Quao (tỉnh Kiên Giang) là địa 4. Một số đề xuất nhằm bảo tồn bản ngữ của phương có đông đồng bào dân tộc Khmer sinh người Khmer khu vực miền núi biên giới sống. Những năm gần đây, tỷ lệ con em đồng Tây Nam bộ bào Khmer đến tuổi đi học được đến trường Chữ viết của người Khmer tuy có từ lâu ngày càng cao. Ở điểm trường Rạch Tìa của đời nhưng không phổ biến và đa số người trường Định An, vì không đủ phòng học nên Khmer không biết chữ. Việc giao lưu ngôn ngữ học sinh học chữ Khmer phải học ca 3 (vào lúc Khmer với các ngôn ngữ khác trong vùng chỉ 12 giờ trưa). Có lớp phải học trong nhà dân ở dừng lại ở ngôn ngữ nói. gần trường. Việc bảo tồn ngôn ngữ Khmer còn nhiều khó - Học sinh chỉ chú trọng học tiếng phổ khăn, có nhiều nguyên nhân như: thông để tiện xin việc làm mà không nhận thức - Tình trạng học sinh Khmer bỏ học vẫn được giá trị của tiếng mẹ đẻ. Qua khảo sát thực còn xảy ra và chất lượng dạy và học chữ dân tế trong 35 sinh viên người Khmer theo học chế tộc chưa được như mong muốn. Đa phần người độ cử tuyển tại Trường Đại học Đồng Tháp từ Khmer sống chủ yếu bằng nghề nông, đời sống năm 2008 đến 2013, chỉ có 12 sinh viên thành kinh tế còn khó khăn nên việc cho con em đến thạo các kỹ năng nghe, nói, viết tiếng Khmer, trường còn hạn chế hoặc họ chỉ cho con đến trong số đó chỉ có 2 sinh viên nữ. Nguyên nhân trường học hết bậc trung học cơ sở, sau đó phải được lý giải là do 10 nam sinh viên đã từng và tham gia lao động tạo lập kinh tế cho gia đình. đang theo tu học tại các chùa Khmer ở địa - Sự ý thức của nhân dân chưa cao, một bộ phương (họ sắp xếp linh hoạt thời gian tu tại phận phụ huynh học sinh nghĩ rằng học chữ chùa vào dịp hè), còn 2 sinh viên nữ có ba hoặc Khmer không biết để làm gì vì con em lớn lên mẹ làm giáo viên dạy tiếng Khmer cho học sinh sau này đi làm phải sử dụng tiếng Việt hoặc sợ là người dân tộc ở tỉnh Kiên Giang. Số còn lại 114
- (23 sinh viên) chỉ có thể nói thông thạo được đỡ của cộng đồng. Đặc biệt là vai trò của chùa tiếng Khmer, còn kỹ năng đọc – viết biết chút ít Khmer và tầng lớp sư sãi trong đồng bào nếu có sách từ điển tra dịch, nhưng có đến 8 sinh Khmer. viên không thể giao tiếp bằng tiếng Khmer do từ - Đẩy mạnh công tác vận động tuyên nhỏ chỉ tiếp xúc với tiếng Việt. truyền, giáo dục trong cộng đồng Khmer để họ - Thời lượng, chất lượng phát thanh, truyền thấy được tầm quan trọng của việc học tập ngôn hình tiếng Khmer còn hạn chế, thiếu sự đa ngữ mẹ đẻ. Qua đó nâng cao ý thức học tập dạng, phong phú. trong từng hộ gia đình Khmer, giúp họ nhận Từ thực trạng trên, chúng tôi có một số đề xuất thấy bản thân phải có trách nhiệm trong việc sau: bảo tồn bản ngữ của tộc người. - Các cấp chính quyền cần hoàn thiện hệ - Tổ chức có quy mô và chất lượng các lễ thống văn bản quy phạm pháp luật về dạy học hội truyền thống của người Khmer để động viên, tiếng dân tộc nói chung, tiếng Khmer nói riêng. khuyến khích đồng bào gìn giữ, phát huy yếu tố - Cần nâng cao số lượng và chất lượng đội văn hóa tốt đẹp của dân tộc. Cần tổ chức nhiều ngũ giáo viên, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi cuộc thi văn hóa – văn nghệ nhằm khuyến khích dưỡng giáo viên và các bộ quản lý dạy học việc sưu tầm, sáng tác văn học, văn nghệ bằng tiếng dân tộc. tiếng nói và chữ viết Khmer. - Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy - Nâng cao đời sống kinh tế vùng đồng bào học, đảm bảo đủ trường lớp cho con em đồng dân tộc Khmer miền núi biên giới Tây Nam bộ bào tham gia học tập ở các cấp học. để họ có điều kiện cho con em đến trường. Góp - Phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ của các phần gìn giữ văn hóa dân tộc trong đó có ngôn cấp, các ngành có liên quan, tranh thủ sự giúp ngữ Khmer. HÌNH ẢNH MINH HỌA Bản đồ 1: Các tỉnh thuộc miền Tây nam bộ (nguồn: http://dulichhue.com.vn) 115
- Hình 1. Giấy chứng minh là căn cứ pháp lý thừa nhận tộc danh người Khmer Nguồn: Tác giả chụp từ giấy chứng minh của một người Khmer ở Kiên Giang Hình 2. Những người nông dân Khmer gánh lúa và đập lúa theo hình thức “dằn công” (huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang) Nguồn: Tác giả Hình 3. Ngôi chùa Xà – Tón (huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang), nơi lưu giữ bộ kinh lá lớn nhất Việt Nam 116
- Tài liệu tham khảo [1]. Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết số 24/NQ-TW (2003) lần thứ 7 (khóa IX) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, công tác dân tộc. [2]. Ban chỉ đạo Tây Nam bộ, Báo cáo tại tổng kết năm 2013, triển khai phương hướng nhiệm vụ 2014. [3]. Chỉ thị 117 (1981) của Trung ương Đảng về công tác ở những vùng đồng bào dân tộc Khmer trong những năm trước mắt, [4]. Chỉ thị số 68-CT/TW (1991) của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VI) về công tác ở vùng đồng bào Khmer. [5]. Cục Thống kê tỉnh An Giang, Niên giám thống kê An Giang 2011. [6]. Cục Thống kê tỉnh Kiên Giang, Niên giám thống kê Kiên Giang, 2011 [7]. Các bản Hiếp Pháp năm 1946 [8]. Hiến pháp năm 1960. [9]. Hiến pháp năm 1980. [10]. Hiến pháp năm 1992. [11]. Hiến pháp 2014. [12]. Ngô Chân Lý, Tự học chữ Khmer, NXB Giáo dục, 2006. [13]. Trung Ngôn, Bảo vệ ngôn ngữ và chữ viết của dân tộc thiểu số, báo Bình Định online, 16/02/2014. [14]. Nguyễn Văn Thuận, Kiên Giang: Phấn đấu nâng cao chất lượng dạy và học, báo Đại Đoàn Kết online, 14/01/2014. 117
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Cuộc đấu tranh chống đồng hóa về văn hóa và tư tưởng của dân tộc Việt Nam thời kỳ bắc thuộc với việc bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay
14 p | 175 | 19
-
Ảnh hưởng và tác động của các giá trị tôn giáo đối với đời sống xã hội vùng Nam Bộ
10 p | 127 | 14
-
Bảo quản sách và tài liệu viết trên chất liệu giấy trong quá trình trưng bày
27 p | 104 | 6
-
Công tác tuyên truyền, phát huy giá trị di sản văn hoá Hội An của Trung tâm Quản lý bảo tồn di sản văn hóa trong 15 năm qua
7 p | 93 | 6
-
Các tư liệu về vùng Tây Nam Bộ đang được lưu giữ tại Thư viện Khoa học xã hội và một số giá trị của nó trong việc nghiên cứu lịch sử vùng đất này hiện nay
9 p | 81 | 6
-
Nhận diện một số biến đổi văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu số trong bối cảnh hiện nay
6 p | 67 | 5
-
Khôi phục, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, lịch sử truyền thống vào dạy học lịch sử địa phương tại huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên
5 p | 55 | 5
-
Vua Po Romé của Champa - Một góc nhìn phi huyền thoại
10 p | 52 | 5
-
Giá trị di sản hoành phi câu đối tiêu biểu của dòng họ Nguyễn Huy Trường Lưu và những vấn đề đặt ra
14 p | 8 | 4
-
Giao lưu và biến đổi kinh tế – văn hóa của cộng đồng người Khmer ở xã An Bình, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương
14 p | 57 | 4
-
Tìm hiểu giao thoa văn hóa trong nghi lễ tang ma của cộng đồng người Việt ở tỉnh Udonthani, Thái Lan
17 p | 7 | 3
-
Văn hóa Việt Nam sau 35 năm đổi mới
12 p | 10 | 3
-
Suy nghĩ về đạo đức sinh viên trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay
7 p | 16 | 3
-
Giao lưu, tiếp biến văn hóa của người Lô Lô ở huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng
5 p | 40 | 3
-
Sự giao lưu và bảo tồn bản ngữ của cộng đồng người Khmer ở khu vực An Giang
9 p | 92 | 3
-
Giao lưu văn hóa Việt Nam - Nhật Bản giai đoạn 2001-2023: Thực trạng và triển vọng
7 p | 9 | 3
-
Bảo tồn và phát huy dân ca của người Rơ-măm qua thực hành truyền dạy của nghệ nhân ở làng Le, xã Mo Rai, huyện Sa Thầy, tỉnh Kon Tum
6 p | 4 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn