Nguyễn Đỗ Hương Giang<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
82(06): 139 - 144<br />
<br />
SỰ THAM GIA CỦA CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG PHÁT TRIỂN<br />
KINH TẾ HỘ GIA ĐÌNH TẠI HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN<br />
Nguyễn Đỗ Hương Giang*<br />
Trường Đại học Nông lâm – ĐH Thái Nguyên<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Gia đình vừa là tế bào cấu thành xã hội vừa là chủ thể sản xuất và tiêu dùng. Trước xu thế quốc tế<br />
hóa nền kinh tế đang diễn ra nhanh chóng hiện nay, việc phát triển mô hình kinh tế hộ gia đình,<br />
nhất là trong nông nghiệp, nông thôn gặp những khó khăn nhất định. Một động thái tích cực rất<br />
đáng được lưu ý của kinh tế hộ nông dân là sự xuất hiện ngày càng nhiều các hộ bứt phá khỏi tình<br />
trạng tự cung, tự cấp vươn lên sản xuất hàng hóa, trong đó phương thức trang trại gia đình phát<br />
triển mạnh và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản.<br />
Trong phạm vi nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu, đánh giá năng lực cộng đồng dân<br />
tộc thiểu số trong phát triển kinh tế hộ gia đình ở huyện Đồng Hỷ. Đề xuất những khuyến cáo, kiến<br />
nghị nhằm nâng cao năng lực cộng đồng trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.<br />
Từ khóa: Sự tham gia, dân tộc thiểu số, phát triển kinh tế, hộ gia đình, huyện Đồng Hỷ.<br />
<br />
ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
∗<br />
<br />
Đồng Hỷ là một huyện miền núi của tỉnh Thái<br />
Nguyên, có 8 dân tộc cùng chung sống: Kinh,<br />
Tày, Nùng, Dao, Sán Dìu, Sán Chí, Hoa,<br />
H’mông trong đó dân tộc Kinh chiếm đa số<br />
với 60% dân số. Tuy vậy, mặt bằng trình độ<br />
dân trí ở huyện miền núi này không đồng đều,<br />
khả năng tiếp thu và hiểu biết kiến thức còn<br />
rất nhiều hạn chế. Nền kinh tế chưa thực sự<br />
phát triển, đời sống của các hộ còn gặp nhiều<br />
khó khăn, đặc biệt là những hộ dân tộc thiểu<br />
số, cho nên ảnh hưởng không nhỏ đến công<br />
tác phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.<br />
Trong phạm vi nghiên cứu này, chúng tôi tiến<br />
hành nghiên cứu, đánh giá năng lực cộng đồng<br />
dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế hộ gia<br />
đình và một số yếu tố ảnh hưởng đến sự tham<br />
gia của họ tại địa bàn huyện Đồng Hỷ. Qua đó<br />
đề xuất những khuyến cáo, kiến nghị nhằm<br />
nâng cao năng lực cộng đồng trong công cuộc<br />
phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.<br />
KHÁCH THỂ<br />
NGHIÊN CỨU<br />
<br />
VÀ<br />
<br />
PHƯƠNG<br />
<br />
PHÁP<br />
<br />
Nhóm 150 hộ dân tộc thiểu số tham gia phát<br />
triển kinh tế hộ gia đình tại huyện Đồng Hỷ,<br />
∗<br />
<br />
Tel: 0979 871910, Email: giangndh@gmail.com<br />
<br />
tỉnh Thái Nguyên với cách chọn mẫu theo 8<br />
nhóm dân tộc khác nhau: Kinh: 47 người, Sán<br />
Dìu: 31 người, Dao: 18 người; Tày: 39 người,<br />
Nùng: 9 người, Dân tộc khác: 5 người.<br />
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng<br />
tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau<br />
đây: Phương pháp chọn mẫu; Phương pháp<br />
thu thập thông tin; Phương pháp phỏng vấn<br />
bằng bảng hỏi; Phương pháp phỏng vấn sâu;<br />
Phương pháp quan sát; Phương pháp phân<br />
tích tài liệu; Phương pháp xử lý thông tin.<br />
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br />
Theo Niên giám thống kê năm 2009 [10],<br />
huyện có 18 xã, thị trấn với 271 xóm (bản, tổ<br />
dân phố). Trong đó, có 239 xóm (bản, tổ dân<br />
phố) làm nông nghiệp. Theo kết quả điều tra<br />
ngày 1/4/2009, huyện Đồng Hỷ có 107.769<br />
người. Trong đó, số người trong độ tuổi lao<br />
động là 62,752 người, chiếm 58 % tổng dân<br />
số toàn huyện. Có 2 xã vùng sâu vùng xa,<br />
vùng đặc biệt khó khăn (Tân Long và Vân<br />
Lăng), trong đó có xã cách trung tâm Huyện<br />
gần 50 km.<br />
Nhận thức được tầm quan trọng của hộ nông<br />
dân trong quá trình phát triển kinh tế, xóa đói<br />
giảm nghèo; dưới sự chỉ đạo của các cấp uỷ<br />
đảng, các ban nghành đoàn thể, người nông<br />
139<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Nguyễn Đỗ Hương Giang<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
dân tích cực thực hiện chương trình chuyển<br />
dịch cơ cấu kinh tế nông lâm nghiệp theo<br />
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông<br />
nghiệp nông thôn. Từ đó, đã góp phần giảm<br />
nhanh số hộ nghèo, số hộ khá giàu ngày một<br />
nhiều, đời sống vật chất tinh thần của nông<br />
dân từng bước được cải thiện. Những kết quả<br />
này đã góp phần quan trọng trong việc thực<br />
hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội<br />
năm 2009 và 2010 của huyện Đồng Hỷ.<br />
Sự tham gia của cộng đồng dân tộc thiểu số<br />
trong quá trình phát triển kinh tế hộ gia<br />
đình tại huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên<br />
Vai trò của sự tham gia phát triển kinh tế<br />
của hộ gia đình tại huyện Đồng Hỷ, tỉnh<br />
Thái Nguyên<br />
Đặc trưng của sản xuất kinh tế hộ gia đình<br />
dân tộc thiểu số chính là tính tự cung tự cấp.<br />
Các nhóm hộ gia đình dân tộc thiểu số huyện<br />
Đồng Hỷ khi được hỏi “mục đích phát triển<br />
kinh tế là gì?” thì có đến 81.5 % số người<br />
được hỏi trả lời rằng để thỏa mãn các nhu cầu<br />
cơ bản của hộ gia đình mình, 18.5% dùng để<br />
trao đổi ở thị trường địa phương hay người<br />
cùng làng, bản với gia đình mình cho dù<br />
không hoàn toàn thường xuyên và chủ động.<br />
Kinh tế hộ gia đình dân tộc thiểu số là một<br />
hình thức tổ chức kinh tế nông nghiệp đặc thù<br />
dựa trên các quan hệ gia đình, thể hiện vai trò<br />
của nó trong việc tái tổ chức lao động gia đình<br />
thành một đơn vị sản xuất độc lập, với những<br />
hình thức phân công lao động chủ yếu dựa trên<br />
năng lực và tính tự giá của mỗi thành viên và<br />
sự kết hợp duy lý các hoạt động sản xuất nông<br />
nghiệp, phi nông nghiệp và gia đình.<br />
Quá trình triển khai các chương trình, chính<br />
sách phát triển kinh tế hộ gia đình của người<br />
dân tộc thiểu số tại huyện Đồng Hỷ, tỉnh<br />
Thái Nguyên<br />
Hiện nay, việc triển khai các chương trình trợ<br />
giá, trợ cước, vay vốn phát triển sản xuất, thực<br />
hiện các chương trình 134, 135, ưu tiên đầu tư<br />
phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc,<br />
miền núi; phát huy tinh thần tự lực, tự<br />
<br />
82(06): 139 - 144<br />
<br />
cường của đồng bào các dân tộc vươn lên<br />
thoát nghèo, sử dụng có hiệu quả nguồn lực<br />
hỗ trợ của các cấp, các ngành, các đơn vị<br />
quân đội góp phần xây dựng và củng cố khối<br />
đại đoàn kết toàn dân tộc ở huyện Đồng Hỷ<br />
được phát huy khá hiệu quả. Cộng đồng dân<br />
tộc thiểu số trong huyện đã nhận thức được rõ<br />
ràng tầm quan trọng sự hỗ trợ của các chính<br />
sách này đối với quá trình xóa đói giảm nghèo<br />
của chính gia đình mình. Nếu chỉ dựa vào<br />
tiềm năng của gia đình mà bỏ qua các chính<br />
sách ưu đãi của Đảng và nhà nước thì khó có<br />
thể thoát nghèo được. Kết quả điều tra cho<br />
thấy, số người dân biết được về các chương<br />
trình, chính sách phát triển kinh tế hộ gia đình<br />
khá lớn.<br />
Biểu đồ 1. Quá trình triển khai các chương trình,<br />
chính sách phát triển kinh tế hộ gia đình tại huyện<br />
Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên<br />
<br />
Hầu hết các hộ gia đình trong huyện đều khá<br />
quan tâm đến các chương trình, chính sách<br />
phát triển kinh tế xã hội ở địa phương mình,<br />
bởi vì đây là vấn đề hết sức thiết thực với họ.<br />
Cùng với việc được cung cấp thông tin về các<br />
chương trình, chính sách này, sự tham gia của<br />
người dân thể hiện trước tiên ở việc tìm hiểu<br />
và cập nhật nguồn thông tin về chúng. Đây là<br />
biểu hiện đầu tiên trong việc người dân tham<br />
gia vào chương trình, chính sách tại xã, bởi lẽ<br />
khi quan tâm đến một vấn đề nào đó thì họ sẽ<br />
tìm hiểu những thông tin về vấn đề đó và<br />
những vấn đề liên quan. Hơn nữa nguồn<br />
thông tin mà người dân được biết sẽ cung cấp<br />
một cách đầy đủ hơn và rõ nét hơn về các<br />
chương trình, chính sách hỗ trợ phát triển<br />
kinh tế hộ gia đình mà họ đang quan tâm.<br />
Theo như kết quả nghiên cứu của đề tài, chủ<br />
yếu người dân tìm hiểu và cập nhật thông tin<br />
<br />
140<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Nguyễn Đỗ Hương Giang<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
về dự án thông qua các cuộc họp của thôn,<br />
xóm (75%); cán bộ chính quyền (60,8%). Còn<br />
tỷ lệ người dân tìm hiểu qua truyền hình và<br />
sách báo tranh ảnh là ít (9.3%). Điều này<br />
hoàn toàn phù hợp với điều kiện của từng<br />
người cũng như hoàn cảnh cụ thể của địa<br />
phương. Việc tìm hiểu về thông tin về chương<br />
trình, chính sách của người dân tộc thiểu số<br />
thông qua các cuộc họp thôn, xóm và qua sự<br />
tuyên truyền của các bộ chính quyền hay qua<br />
bạn bè hàng xóm chiếm ưu thế có thể được<br />
giải thích bởi các lý do sau. Trước hết phải kể<br />
đến là sự lan truyền thông tin của các nguồn<br />
thông tin đó là rất nhanh và phổ biến. Khi có<br />
bất cứ một công việc chung nào của thôn,<br />
xóm đều được cán bộ chính quyền đưa ra bàn<br />
bạc thảo luận hoặc thông báo rộng rãi trong<br />
xã để lấy ý kiến người dân nên khi người dân<br />
tham gia tìm hiểu thông tin trong các cuộc<br />
họp thôn, xóm không chỉ đơn thuần thể hiện<br />
tính tích cực cá nhân mà đó còn là một nghĩa<br />
vụ. Hơn nữa, qua những nguồn thông tin này<br />
người dân được trao đổi, trò chuyện, được<br />
giải thích cụ thể nên khả năng nhận thức vấn<br />
đề và nắm bắt thông tin cao. Mặt khác, xuất<br />
phát từ “tính cộng đồng” trong làng xã, từ<br />
mối liên hệ gần gũi giữa những người cùng<br />
làng, cùng xóm dẫn đến việc họ thường xuyên<br />
trao đổi thông tin cho nhau về những vấn đề<br />
họ quan tâm đặc biệt là những vấn đề ảnh<br />
hưởng đến cuộc sống của chính họ.<br />
Theo Báo cáo của UBND huyện [1], chương<br />
trình 135 đã tập huấn 10 lớp 10 lớp cho 370<br />
học viên, tổ chức 5 lớp dạy nghề ngắn hạn<br />
cho 150 học viên là người dân tộc thiểu số =<br />
286 triệu đồng; hỗ trợ 1 579 hộ nghèo cải<br />
thiện điều kiện VSMT = 1.579 triệu đồng; hỗ<br />
trợ học sinh các cấp học thuộc hộ nghèo cho 2<br />
579 em = 2 816,8 triệu đồng. Chương trình<br />
134 đã hỗ trợ nhà ở cho 10 hộ và 10 công<br />
trình nước sinh hoạt = 154,8 triệu đồng. Thực<br />
hiện Quyết định 102/QĐ-TTg về hỗ trợ trực<br />
tiếp người dân thuộc hộ nghèo vùng khó khăn<br />
(2 xã khu vực III và 10 xã khu vực II), cho 4<br />
295 hộ (17.787 khẩu) = 1 543,44 triệu đồng.<br />
<br />
82(06): 139 - 144<br />
<br />
Các hình thức và mức độ tham gia vào các<br />
chương trình, chính sách phát triển kinh tế hộ<br />
gia đình của người dân tộc thiểu số tại huyện<br />
Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên<br />
Từ những khía cạnh như thông tin, thái độ, tư<br />
duy, mối quan tâm và các hành vi có thể thấy,<br />
các hộ gia đình dân tộc thiểu số trong huyện<br />
tham gia chia sẻ trách nhiệm phát triển kinh tế<br />
hộ gia đình mình tại địa bàn điều tra, người<br />
dân đã chủ động đóng góp sức lao động, suy<br />
nghĩ, tìm tòi hướng phát triển kinh tế cho gia<br />
đình mình. Trong bản thân kinh tế hộ gia đình<br />
cũng có sự phát triển về chất, xuất hiện nhiều<br />
nhu cầu đầu tư vốn lớn, thuê đất canh tác và<br />
lao động thường xuyên hoặc theo thời vụ,<br />
chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu cây, con theo<br />
hướng đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu thị<br />
trường. Ví dụ như, mô hình kinh tế sản xuất<br />
nông – lâm nghiệp của gia đình ông Lưu Thế<br />
Kỳ, dân tộc Sán Dìu – ở xóm Đồng Vung, xã<br />
Hoà Bình đã biết phát huy thế mạnh của đất<br />
đai để phát triển trồng trọt, chăn nuôi cho thu<br />
nhập cao đạt 28,4 triệu đồng/khẩu/năm. Hay<br />
về việc tận dụng những tiềm năng của địa<br />
phương, trong những năm qua, cây chè luôn<br />
là cây công nghiệp mũi nhọn của huyện, là<br />
cây xoá đói giảm nghèo của người nông dân.<br />
Cùng với việc khai hoang trồng mới là phong<br />
trào thâm canh chăm sóc, sản xuất chè vụ<br />
đông để đem lại hiệu quả cao, nhiều hộ đã<br />
khá giàu nhờ sản xuất và kinh doanh chè.<br />
Điển hình như gia đình bà Trần Thị Thu, dân<br />
tộc Tày, Chi hội Văn Hữu xã Hoá Thượng<br />
cho thu nhập đạt 31,1 triệu đồng/khẩu/năm.<br />
Mô hình trang trại vừa và nhỏ đã phát huy<br />
được hiệu quả trên một diện tích đất không<br />
lớn nhưng đem lại hiệu quả kinh tế cao của<br />
gia đình bà Cao Thị Dinh, dân tộc Dao – xóm<br />
Cà phê II, xã Minh Lập. Với mô hình chăn<br />
nuôi gà hậu quy mô 4000 con/lứa; gà thả<br />
vườn 100 con/năm; lợn nái 5 con; lợn thịt 100<br />
con cùng với sản xuất kinh doanh trên 3000<br />
m2 chè. Hàng năm cho thu nhập bình quân đạt<br />
hơn 30 triệu đồng, tạo việc làm ổn định cho 2<br />
lao động [5].<br />
141<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Nguyễn Đỗ Hương Giang<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
82(06): 139 - 144<br />
<br />
Một số yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia<br />
của cộng đồng dân tộc thiểu số huyện Đồng<br />
Hỷ đến sự phát triển kinh tế hộ gia đình<br />
Quy mô sản xuất của kinh tế hộ gia đình dân<br />
tộc thiểu số ở huyện Đồng Hỷ<br />
Do đặc thù là huyện vùng núi, có 2 xã vùng<br />
đặc biệt khó khăn, cộng đồng dân tộc thiểu số<br />
huyện Đồng Hỷ gặp khá nhiều khó khăn trong<br />
quy mô canh tác. Xuất phát từ đặc điểm địa<br />
hình, quy mô canh tác của kinh tế hộ theo quy<br />
định của Luật đất đai thì vẫn bị giới hạn ở quy<br />
nhỏ, rất ít hộ có được diện tích canh tác rộng<br />
lớn vài trăm hay vài chục ha như ở các địa<br />
phương khu vực đồng bằng. Các hộ gia đình<br />
chủ yếu sản xuất trên chính mảnh đất do ông<br />
cha để lại, điều kiện hết sức thiếu thốn và khó<br />
khăn. Theo số liệu của niên giám thống kê<br />
huyện Đồng Hỷ năm 2009 [8], trên toàn<br />
huyện 74,5% số hộ đã có từ 2 - 4 loại hình<br />
hoạt động sản xuất, kinh doanh để tạo thu<br />
nhập. Cơ cấu hộ nông dân theo ngành nghề<br />
đang chuyển dịch theo hướng tăng dần số<br />
lượng và tỷ trọng nhóm các hộ tham gia sản<br />
xuất phi nông nghiệp, như công nghiệp, tiểu<br />
thủ công nghiệp và dịch vụ; số hộ làm nông,<br />
lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 80,9% năm<br />
2001 xuống còn 70,9% năm 2006.<br />
Các nghiên cứu đều cho thấy, giai đoạn 2006<br />
- 2010 tốc độ chuyển dịch ấy đã diễn ra nhanh<br />
hơn trước. Nếu năm 2006 GDP nông nghiệp<br />
đóng góp 22.91% vào cơ cấu kinh tế thì đến<br />
năm 2009 tăng lên 28.43% vào cơ cấu kinh tế,<br />
tuy con số này không quá lớn nhưng là nền<br />
tảng của sự ổn định chính trị - xã hội vì chúng<br />
ta có tới trên 70% dân số sống tại nông thôn,<br />
thì trong số đó, đã có tới 40% dân số nông<br />
thôn có nguồn thu từ công nghiệp, tiểu thủ<br />
công nghiệp và dịch vụ. Xét một yếu tố nữa<br />
khi nhắc đến cơ cấu xã hội – nghề nghiệp<br />
của các nhóm hộ tại địa phương thì năng lực<br />
và chiến lược sản xuất của các nhóm này<br />
cùng vai trò của những nhân tố xã hội tác<br />
động đến quá trình phát triển của kinh tế hộ<br />
gia đình huyện Đồng Hỷ trong giai đoạn<br />
hiện nay.<br />
<br />
Nguồn nhân lực và sự phát triển kinh tế hộ<br />
gia đình<br />
Hộ gia đình dân tộc thiểu số huyện Đồng Hỷ<br />
thực sự là sự thống nhất không thể tách rời<br />
giữa sở hữu đất đai, lao động và sự phân phối<br />
các sản phẩm gia đình.<br />
Bảng 1. Vai trò tham gia công việc của các<br />
thành viên trong gia đình (Đơn vị: %)<br />
Các vai trò<br />
<br />
Chồng<br />
<br />
Vợ<br />
<br />
Người<br />
khác<br />
<br />
Quyết định vay vốn<br />
<br />
72.2<br />
<br />
27.2<br />
<br />
0.6<br />
<br />
Thực hiện các hoạt<br />
động phát triển kinh tế<br />
hộ gia đình<br />
<br />
63.0<br />
<br />
37.0<br />
<br />
0<br />
<br />
Giám sát việc thực<br />
hiện các hoạt động<br />
phát triển kinh tế hộ<br />
gia đình<br />
<br />
75.3<br />
<br />
24.7<br />
<br />
0<br />
<br />
Tham gia họp thôn,<br />
xóm, tổ dân phố<br />
<br />
66.7<br />
<br />
33.3<br />
<br />
0<br />
<br />
Hầu hết các công việc liên quan đến việc<br />
tham gia vào thực hiện các hoạt động phát<br />
triển kinh tế hộ gia đình đều do người chồng<br />
đảm nhiệm. Tỷ lệ phụ nữ là người quyết định<br />
tham gia các công việc trên thấp hơn nhiều so<br />
với nam giới. Nhóm phụ nữ dân tộc thiểu số<br />
lại là người giữ vai trò thứ yếu trong việc<br />
quyết định các vấn đề liên quan đến việc lựa<br />
chọn con đường phát triển kinh tế hộ gia đình.<br />
<br />
142<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Nguyễn Đỗ Hương Giang<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Trên toàn huyện, nguồn nhân lực gia đình khá<br />
trẻ, nhóm dưới 44 tuổi chiếm 77.2%, nhưng<br />
trình độ lao động chưa cao ở nhóm điều tra<br />
cũng tác động không nhỏ đến quá trình phát<br />
triển kinh tế hộ gia đình dân tộc thiểu số.<br />
Bảng 2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia<br />
phát triển kinh tế hộ gia đình theo đánh giá của<br />
người dân. (Đơn vị: %)<br />
<br />
Như vậy, theo bảng số liệu trên, yếu tố gây<br />
cản trở nhiều nhất đến sự tham gia nói chung<br />
của người dân đó chính là yếu tố học vấn<br />
(11.7%), tiếp đến là các yếu tố: địa vị xã hội<br />
(9.9%), hay tâm lý người dân (9.3%).<br />
Ngược lại các yếu tố khách quan (phương tiện<br />
truyền thông, chính sách ưu đãi, cán bộ chính<br />
quyền) góp phần thúc đẩy sự tham gia của<br />
người dân. Hầu hết, những người dân tộc<br />
thiểu số ở nông thôn có trình độ học vấn thấp,<br />
hơn nữa tâm lý cho rằng mình thuộc tầng lớp<br />
nông dân, “thấp cổ bé họng” dẫn đến sự thiếu<br />
chủ động hoặc ngại ngùng trong quá trình<br />
hưởng thụ các chính sách của Đảng và nhà<br />
nước. Những người có học vấn cao thường<br />
chủ động, tích cực tham gia vào quá trình<br />
chuyển giao khoa học kỹ thuật hỗ trợ nông<br />
nghiệp, nông dân, việc cộng đồng đòi hỏi sự<br />
quan tâm hơn nữa của cán bộ lãnh đạo cũng<br />
như các cấp cơ sở tạo điều kiện để phát huy<br />
<br />
82(06): 139 - 144<br />
<br />
nội lực của người dân giúp họ tự tin và có thể<br />
tham gia tích cực hơn nữa trong việc phát<br />
triển cộng đồng.<br />
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ VỀ<br />
CHÍNH SÁCH<br />
Kết luận<br />
Do chỉ dựa vào sức lao động gia đình, kinh tế<br />
hộ gia đình dân tộc thiểu số bị chi phối bởi<br />
tiềm năng lao động của nó tức là bởi tỷ lệ lực<br />
lượng lao động trong mỗi hộ gia đình trên<br />
tổng số các thành viên của nó. Kinh tế hộ gia<br />
đình chỉ phát triển ở thời kỳ mà số người lao<br />
động đông hơn số người không lao động<br />
trong mỗi hộ gia đình. Do thống nhất đơn vị<br />
sản xuất với đơn vị tiêu dùng là hộ gia đình,<br />
nên kinh tế hộ gia đình, phát triển theo chu kỳ<br />
biến đổi nhân khẩu của hộ gia đình hơn là<br />
theo sự biến động của các nhân tố thuần túy<br />
kinh tế kỹ thuật.<br />
Có thể thấy rằng, người dân tham gia vào<br />
quá trình phát triển kinh tế hộ gia đình rất<br />
nhiệt tình dưới nhiều hình thức khác nhau<br />
trong đó việc chủ động xây dựng kế hoạch<br />
và đầu tư một cách hiệu quả dưới sự hỗ trợ<br />
của các ban, ngành địa phương đặc biệt là<br />
Hội nông dân đã làm thay đổi đáng kế bộ<br />
mặt kinh tế xã hội của địa phương. Nhóm<br />
hộ dân tộc thiểu số cũng đóng góp một phần<br />
quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế<br />
hộ gia đình nói riêng, phát triển kinh tế địa<br />
phương nói chung. Hàng loạt mô hình phát<br />
triển kinh tế được áp dụng và mang lại hiệu<br />
quả kinh tế đã chứng tỏ giả thuyết đưa ra là<br />
có cơ sở và hoàn toàn phù hợp với thực tế<br />
tại địa phương.<br />
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự tham<br />
gia của người dân vào quá trình phát triển<br />
kinh tế hộ gia đình. Trong khi các yếu tố<br />
khách quan như: chính sách ưu đãi, sự vận<br />
động của cán bộ, các phương tiện truyền<br />
thông… có tác dụng thúc đẩy sự tham gia của<br />
người dân thì các yếu tố chủ quan là: trình độ<br />
học vấn, tâm lý,… lại là những yếu tố có xu<br />
hướng cản trở sự tham gia của người dân.<br />
143<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />