intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SỰ THAY ĐỔI CỦA CHÍNH SÁCH HÌNH SỰ VÀ VẤN ĐỀ XUNG ĐỘT QUAN ĐIỂM TRONG VIỆC ÁP DỤNG PHÁP LUẬT

Chia sẻ: Nguyễn Minh Hải Hải | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:9

443
lượt xem
151
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thời gian qua, thuật ngữ Chính sách hình sự (CSHS) và những yếu tố cấu thành của nó- những nội dung chính trị- pháp lý đã được giới luật học quan tâm nghiên cứu. Dưới những góc độ tiếp cận khác nhau, đã có nhiều khái niệm về CSHS được đưa ra(1). Tựu chung lại, một cách sơ lược có thể nói: CSHS là toàn bộ quan điểm, phương hướng, đường lối của Đảng và Nhà nước về vấn đề tội phạm và việc xử lý tội phạm, vấn đề hình phạt và các vấn đề khác có liên quan, được thể chế hoá trong các văn bản pháp luật mà...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SỰ THAY ĐỔI CỦA CHÍNH SÁCH HÌNH SỰ VÀ VẤN ĐỀ XUNG ĐỘT QUAN ĐIỂM TRONG VIỆC ÁP DỤNG PHÁP LUẬT

  1. Đăng trên Tạp chí TAND số 4 năm 2010 –––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––– VỀ SỰ THAY ĐỔI CỦA CHÍNH SÁCH HÌNH SỰ VÀ VẤN ĐỀ XUNG ĐỘT QUAN ĐIỂM TRONG VIỆC ÁP DỤNG PHÁP LUẬT Nguyễn Minh Hải* TAQS Khu vực 2- Quân khu 2 Thời gian qua, thuật ngữ Chính sách nhóm quan hệ xã hội đặc thù phát sinh trong hình sự (CSHS) và những yếu tố cấu thành cuộc sống. Tức là, CSHS sẽ được thực tiễn của nó- những nội dung chính trị- pháp lý đã kiểm nghiệm thông qua sự phản ánh về hiệu được giới luật học quan tâm nghiên cứu. Dưới quả của công tác đấu tranh phòng chống tội những góc độ tiếp cận khác nhau, đã có nhiều phạm khi CSHS đó được đưa ra thi hành. Lý khái niệm về CSHS được đưa ra(1). Tựu chung luận và thực tiễn lập pháp cũng như áp dụng lại, một cách sơ lược có thể nói: CSHS là toàn pháp luật thời gian qua cho thấy, pháp luật bộ quan điểm, phương hướng, đường lối của hình sự sẽ không phát huy được hiệu quả Đảng và Nhà nước về vấn đề tội phạm và việc trong công tác đấu tranh phòng chống tội xử lý tội phạm, vấn đề hình phạt và các vấn đề phạm, hoặc không mang tính khả thi cao khi khác có liên quan, được thể chế hoá trong các nó không xuất phát, không phù hợp với thực văn bản pháp luật mà tập trung nhất, cụ thể tiễn, hoặc khi nó không đồng bộ với các ngành nhất là trong Bộ luật hình sự. CSHS vừa mang luật khác. Bởi vậy, khi mà các điều kiện và tính chiến lược- ổn định, lâu dài, vừa mang đặc điểm về tình hình chính trị- kinh tế- xã hội tính sách lược- được thực thi ở một giai đoạn, đã thay đổi, khi các quy phạm của các ngành một thời kỳ nhất định, nhằm phục vụ một cách luật khác đã thay đổi, tạo nên sự mâu thuẫn, hiệu quả cho công tác đấu tranh phòng chống không thống nhất với pháp luật hình sự… Khi tội phạm, góp phần quan trọng vào việc giữ mà những yếu tố đóng vai trò là hạt nhân sinh vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. ra hoặc là cơ sở định hướng cho việc xây dựng 1. Sự thay đổi của chính sách hình sự CSHS đã thay đổi, thì CSHS đó ít nhiều cũng không còn phù hợp với thực tiễn cuộc sống Trong quá trình lập pháp hình sự, một nữa. Và do đó, để tiếp tục nâng cao hiệu quả công đoạn quan trọng phải kể đến là việc xác của công tác đấu tranh phòng ngừa và xử lý định cho được những vấn đề nào mang tính các hành vi phạm tội, để kịp thời bảo vệ lợi ích chiến lược, vấn đề nào mang tính sách lược- Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ làm cơ sở định hướng cho việc xây dựng các chức, công dân, chúng ta buộc phải tiến hành quy phạm pháp luật hình sự. Để làm tốt công sửa đổi, bổ sung CSHS. Một hình thức biểu đoạn này (và cùng với những công đoạn sau hiện thường thấy của sự thay đổi CSHS, chính đó), bên cạnh việc tham khảo, học hỏi (một là việc sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành BLHS cách có chọn lọc) kinh nghiệm lập pháp của mới. các quốc gia tiến bộ trên thế giới, thì nhà làm Theo dõi và nghiên cứu sự phát triển luật còn phải căn cứ vào điều kiện và đặc điểm của lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam từ khi về tình hình chính trị- kinh tế- văn hoá- xã hội, có BLHS đầu tiên tới nay thấy rằng, chúng ta tình hình an ninh- quốc phòng của đất nước ở đã ban hành 02 BLHS và trải qua 05 lần sửa từng thời kỳ, đây chính là yếu tố cơ bản và cốt đổi, bổ sung. Với mỗi lần sửa đổi, bổ sung lõi trong việc xây dựng CSHS. Điều này cũng hoặc ban hành BLHS mới là một bước tiến có nghĩa, CSHS phải xuất phát từ thực tiễn quan trọng về tư duy cũng như về kỹ năng lập cuộc sống và quay trở lại để điều chỉnh các * Emai: Minhhai.nguyen85@gmail.com
  2. Đăng trên Tạp chí TAND số 4 năm 2010 2 –––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––– pháp hình sự, là một bước phát triển cao trong công bố/có hiệu lực thi hành, mà sau thời điểm tiến trình xây dựng CSHS. Gần đây nhất là này hành vi đó mới bị phát hiện, đang bị điều việc ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số tra, truy tố, xét xử. Trường hợp này vẫn phải điều của BLHS năm 1999. ở lần này, chúng ta áp dụng các quy định cũ để xử lý. Đây là một chỉ sửa đổi, bổ sung một số điều khoản của sự phản ánh rõ nét về tính nhân đạo và tiến bộ BLHS liên quan đến một số vấn đề bức xúc trong CSHS của Đảng và Nhà nước ta. nhất của thực tiễn, qua đó nhằm tháo gỡ Bài biết này, tác giả xin đưa ra 02 vụ những khó khăn, vướng mắc trong công tác án mà trong quá trình áp dụng pháp luật còn đấu tranh phòng chống tội phạm hiện nay và có những quan điểm không giống nhau. đáp ứng được cơ bản yêu cầu hội nhập Quốc tế, mà không tiến hành sửa đổi toàn diện Vụ án thứ nhất: Năm 1993, được sự tín BLHS, bởi đây là một công việc lớn, đòi hỏi nhiệm của đơn vị, Trần Văn H- nhân viên tiếp phải có nhiều thời gian và phải được nghiên liệu nhà máy X được giao nhiệm vụ mua gạo cứu một cách kỹ lưỡng, trên cơ sở tổng kết, về cho đơn vị. Quá trình thực hiện nhiệm vụ, đánh giá đầy đủ việc thi hành BLHS mới có H thường xuyên mua gạo của Cơ sở sản xuất thể thực hiện được(2). dịch vụ Y, sau đó nhập về kho của đơn vị. Trước mỗi lần mua gạo, H đều ứng tiền từ tài Cũng thấy rằng, việc sửa đổi, bổ sung vụ của Nhà máy. Tháng 5/1993, H ứng của hoặc ban hành BLHS mới, nhìn chung sự thay đơn vị 20.000.000đ để tới Cơ sở sản xuất dịch đổi thường diễn ra theo hai chiều hướng: vụ Y mua gạo. Tuy nhiên, H đã không mua Hướng có lợi cho người phạm tội và hướng mà chiếm đoạt toàn bộ số tiền trên rồi bỏ trốn. không có lợi cho người phạm tội. Khi trốn, H còn giữ của đơn vị 24.758.000đ. 2. Vấn đề xung đột quan điểm trong việc áp Tổng số tiền mà H đã chiếm đoạt là dụng pháp luật 44.758.000đ. Sau khi tiến hành xác minh hành vi phạm tội của H, ngày 03/8/1993, Cơ quan Nguyên tắc chung trong việc chọn luật điều tra đã ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, áp dụng để xử lý các hành vi phạm tội khi có khởi tố bị can đối với Trần Văn H về tội sự thay đổi của pháp luật hình sự là: “Điều luật được áp dụng là điều luật đang có hiệu lực thi “Tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa” theo Điều 133 BLHS 1985. Đến ngày 23/8/1993 thì ra hành tại thời điểm hành vi đó được thực lệnh truy nã bị can trên toàn quốc. Hết thời hiện”(3). Tuy nhiên, nguyên tắc này cũng có hạn điều tra mà vẫn không biết tung tích của H ngoại lệ, đó là trường hợp được phép (và phải) ở đâu, vì vậy ngày 03/12/1993, CQĐT đã ra áp dụng các quy định mới có lợi cho người quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án. Năm phạm tội, để xử lý những hành vi được thực 2009, sau khi bắt giữ được Trần Văn H, hiện trước khi pháp luật hình sự mới được CQĐT đã ra quyết định phục hồi điều tra vụ công bố/có hiệu lực thi hành, mà sau thời điểm án, phục hồi điều tra bị can. Kết thúc quá trình này hành vi đó mới bị phát hiện, đang bị điều điều tra, CQĐT đã ra Kết luận điều tra và đề tra, truy tố, xét xử hoặc bản án đã có hiệu lực nghị truy tố Trần Văn H về tội “Tham ô tài pháp luật và đang được thi hành(4). Ngược lại, sản” theo khoản 1 Điều 278 BLHS 1999. điều này cũng có nghĩa: Không được áp dụng các quy định mới không có lợi cho người Có hai quan điểm khác nhau khi xem phạm tội để xử lý những hành vi được thực xét vấn đề trách nhiệm hình sự (TNHS) của hiện trước khi pháp luật hình sự mới được Trần Văn H: ––––––––––––––––––––––––– * Emai: Minhhai.nguyen85@gmail.com
  3. Đăng trên Tạp chí TAND số 4 năm 2010 3 –––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––– - Quan điểm thứ nhất: Cần truy tố, xét xử H “Điều 133. Tội tham ô tài sản XHCN về tội “Tham ô tài sản” theo khoản 1 Điều 278 1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền BLHS 1999. hạn chiếm đoạt tài sản XHCN mà mình có - Quan điểm thứ hai: Cần truy tố, xét xử H trách nhiệm quản lý có giá trị từ 05 triệu về tội “Tham ô tài sản XHCN” theo khoản 1 đồng đến dưới 100 triệu đồng hoặc dưới 05 Điều 133 BLHS 1985. triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm Để giải quyết vấn đề xung đột quan trọng, vi phạm nhiều lần hoặc đã bị xử lý kỷ điểm trong việc áp dụng pháp luật ở vụ án luật mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ 02 trên, trước tiên tác giả xin nêu lại các quy định năm đến 07 năm. của BLHS 1985, BLHS 1985 được sửa đổi 2. ………” năm 1997, BLHS năm 1999 về tội Tham ô tài - BLHS 1999 được ban hành thay thế sản: BLHS 1985, theo đó tội Tham ô tài sản - Điều 133 BLHS 1985 quy định: tội được quy định tại Điều 278, cụ thể: Tham ô tài sản XHCN: “Điều 278. Tội tham ô tài sản “1. Người nào lợi dụng chức vụ, 1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền quyền hạn chiếm đoạt tài sản XHCN mà hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách mình có trách nhiệm trực tiếp quản lý, thì bị nhiệm quản lý có giá trị từ năm trăm nghìn phạt tù từ một năm đến bảy năm. đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc 2. Phạm tội thuộc một trong các dưới năm trăm nghìn đồng nhưng thuộc một trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ năm trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ năm đến mười lăm năm: hai năm đến bảy năm: a) Thông đồng với người khác ở trong a) Gây hậu quả nghiêm trọng; hoặc ngoài cơ quan Nhà nước, tổ chức xã b) Đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà hội; còn vi phạm; b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy c) Đã bị kết án về một trong các tội quy hiểm; định tại Mục A Chương này, chưa được xoá c) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn; án tích mà còn vi phạm. d) Tái phạm nguy hiểm. 2. ……..” 3. Phạm tội trong các trường hợp đặc Lập luận cho quan điểm của mình, biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ mười hai những người theo quan điểm thứ hai cho năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc rằng: Hành vi tham ô tài sản của Trần Văn tử hình.” H nếu áp dụng BLHS 1999 để xử lý thì sẽ phải truy tố, xét xử theo khoản 1 Điều 278 - Sau ba lần sửa đổi, bổ sung BLHS BLHS (tài sản chiếm đoạt dưới 50 triệu vào các năm 1989, 1991 và 1992, năm 1997 đồng). Tuy nhiên, Điều 7 BLHS 1999 và lần đầu tiên tội Tham ô tài sản XHCN được điểm c mục 2 Nghị quyết 32/1999/QH10 về sửa đổi, bổ sung như sau: (Sau đây gọi là việc thi hành BLHS đã quy định: “Điều luật BLHS sửa đổi năm 1997) quy định một hình phạt nặng hơn thì không ––––––––––––––––––––––––– * Emai: Minhhai.nguyen85@gmail.com
  4. Đăng trên Tạp chí TAND số 4 năm 2010 4 –––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––– áp dụng đối với những hành vi phạm tội như thế là không đúng (mặc dù có lợi hơn xảy ra trước 0h 00’ ngày 01/7/2000 mà sau cho bị cáo), với lập luận: thời điểm đó mới bị phát hiện, đang bị điều Bản thân Điều 133 BLHS 1985 không tra, truy tố, xét xử, trường hợp này vẫn áp quy định một cách rõ ràng về dấu hiệu định dụng quy định tương ứng của các văn bản lượng tài sản bị chiếm đoạt để làm căn cứ pháp luật hình sự trước đây để giải quyết”; định tội, định khung hình phạt, mà chỉ quy đồng thời, theo điểm b.3 mục 2 Thông tư định một cách chung chung: “…chiếm đoạt liên tịch số 02/2000/TTLT-TANDTC- tài sản XHCN mà mình có trách nhiệm trực VKSNDTC-BTP-BCA về hướng dẫn thi tiếp quản lý thì bị phạt… (khoản 1); Chiếm hành Điều 7 BLHS 1999 và mục 2 Nghị đoạt tài sản có giá trị lớn (khoản 2); Phạm quyết 32/1999/QH10 thì: Hình phạt nặng tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng hơn được xác định như sau: “Nếu về cùng (khoản 3). Vì vậy, nếu căn cứ vào trị giá tài một tội phạm mà điều luật của Bộ luật hình sản bị chiếm đoạt để định tội, định khung sự năm 1999 có quy định cùng loại hình hình phạt thì cần phải căn cứ vào các văn phạt như đã quy định trong điều luật của bản hướng dẫn thi hành. Tại thời điểm này, Bộ luật hình sự năm 1985 và mức hình phạt theo hướng dẫn của TANDTC và các cơ tối đa của khung hình phạt nặng nhất được quan hữu quan, thì đối với những tội có tính quy định trong điều luật của Bộ luật hình sự chất chiếm đoạt: Được coi là chiếm đoạt tài năm 1999 bằng mức tối đa của khung hình sản có giá trị lớn khi tài sản bị chiếm đoạt phạt nặng nhất được quy định trong điều tương đương với 5 tấn gạo; được coi là luật của Bộ luật hình sự năm 1985, nhưng phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm mức tối thiểu của khung hình phạt nhẹ nhất trọng khi tài sản bị chiếm đoạt tương đương được quy định trong điều luật của Bộ luật với 15 tấn gạo. (Vấn đề này được quy định hình sự năm 1999 cao hơn mức tối thiểu ở Nghị quyết số 01-HĐTP/NQ ngày của khung hình phạt nhẹ nhất được quy 19/4/1989 của Hội đồng Thẩm phán định trong điều luật của Bộ luật hình sự TANDTC hướng dẫn bổ sung việc áp dụng năm 1985.” một số quy định của BLHS ; Chỉ thị số 08- Như vậy, so sánh về tính nặng nhẹ của TATC/CT ngày 06/12/1990 của TANDTC hình phạt thì rõ ràng khoản 1 Điều 133 về việc triển khai chống tham nhũng, chống BLHS 1985 nhẹ hơn so với khoản 1 Điều buôn lậu qua biên giới và một số loại tội 278 BLHS 1999. Do dó, cần phải áp dụng phạm kinh tế khác; và một số văn bản khoản 1 Điều 133 BLHS 1985 để truy tố, khác). xét xử Trần Văn H mới là có lợi hơn cho bị Qua xác minh giá gạo tại cơ quan có cáo. thẩm quyền, thì vào thời điểm Trần Văn H Đồng ý với việc cho rằng hình phạt chiếm đoạt tài sản của đơn vị, 1kg gạo có quy định tại khoản 1 Điều 133 BLHS 1985 giá là 2.200đ. Do đó, số tiền 44.758.000đ nhẹ hơn so với khoản 1 Điều 278 BLHS mà H chiếm đoạt sẽ tương đương với trên 1999, và việc áp dụng khoản 1 Điều 133 20 tấn gạo. Dựa trên nguyên tắc của Điều 7 BLHS 1985 là có lợi hơn cho bị cáo, nhưng BLHS 1985: “Điều luật áp dụng đối với quan điểm thứ nhất cho rằng việc áp dụng một hành vi phạm tội là điều luật đang có hiệu lực thi hành khi hành vi ấy được thực ––––––––––––––––––––––––– * Emai: Minhhai.nguyen85@gmail.com
  5. Đăng trên Tạp chí TAND số 4 năm 2010 5 –––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––– hiện”, nếu áp dụng BLHS 1985 để xử lý khung hình phạt (Chiếm đoạt từ 05 triệu Trần Văn H, thì H sẽ bị truy tố, xét xử theo đến dưới 100 triệu thì bị truy cứu TNHS khoản 3 Điều 133 BLHS (phạm tội trong theo khoản 1, chiếm đoạt từ 100 triệu đến trường hợp đặc biệt nghiêm trọng). Và vì dưới 300 triệu thì bị truy cứu TNHS theo thế, việc so sánh và chỉ ra hình phạt quy khoản 2…). Thay vì quy định hình phạt từ định ở khoản 1 Điều 133 BLHS 1985 nhẹ 01 năm đến 7 năm tù như khoản 1 Điều 133 hơn so khoản 1 Điều 278 BLHS 1999 của BLHS 1985 thì khoản 1 Điều 133 BLHS quan điểm thứ hai là đúng nhưng không sửa đổi năm 1997 lại quy định từ 02 năm trúng. Bởi không có mối liên quan nào giữa đến 7 năm. Điều này thể hiện rằng so với khoản 1 Điều 133 BLHS 1985 với hành vi Điều 133 BLHS 1985, Điều 133 Luật sửa chiếm đoạt 44.758.000đ cả. Nếu so sánh thì đổi, bổ sung một số điều của BLHS 1985 phải so sánh khoản 3 Điều 133 BLHS 1985 (tức BLHS sửa đổi 1997) vừa có quy định với khoản 1 Điều 278 BLHS 1999 mới là có lợi cho người phạm tội, vừa có quy định hợp lý. Tức là phải xem hành vi tham ô không có lợi cho người phạm tội. 44.758.000đ theo quy định của BLHS 1985 Vì vậy, đối với những hành vi tham ô thì sẽ bị truy cứu TNHS theo điều khoản tài sản XHCN xảy ra trước ngày 22/5/1997 nào? và theo quy định của BLHS 1999 sẽ bị (ngày Luật sửa đổi bổ sung một số điều của truy cứu TNHS theo điều khoản nào? từ đó BLHS 1985 được công bố), mà sau thời tìm ra và áp dụng điều khoản có lợi hơn cho điểm này mới bị phát hiện, đang bị điều tra, bị cáo mới là việc làm đúng. truy tố, xét xử, thì người áp dụng pháp luật Thực tế, sau khi phạm tội vào tháng phải so sánh các quy định ở BLHS 1985 với 5/1993 H đã bỏ trốn, đến năm 2009 mới bắt các quy định mới của Luật sửa đổi, bổ sung được và việc điều tra, truy tố, xét xử mới một số điều của BLHS 1985 (BLHS sửa đổi được tiến hành (thời điểm BLHS 1999 đang năm 1997), để tìm ra và áp dụng các quy có hiệu lực), mà theo quy định của BLHS định có lợi cho người phạm tội. Hướng dẫn này, hành vi tham ô tài sản dưới 50 triệu chi tiết về vấn đề này là Công văn số đồng chỉ bị truy cứu TNHS theo khoản 1 59/KHXX ngày 06/6/1997 (ở điểm 3, 4) và Điều 278. Vì vậy cần phải truy tố, xét xử Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT- Trần Văn H theo khoản 1 Điều 278 BLHS TANDTC-VKSNDTC-BNV ngày 1999 mới đúng mà vẫn đảm bảo có lợi cho 02/01/1998 (ở điểm 2, 4 phần A). Chúng ta bị cáo so với việc áp dụng Điều 133 BLHS có thể tóm lược được một số điểm đáng lưu 1985 để xử lý. ý ở những hướng dẫn này: Ngoài ra, những người theo quan điểm - Một là, không được áp dụng khoản 1 thứ nhất còn đưa ra một phép so sánh có giá Điều 133 Luật sửa đổi bổ sung (tức BLHS trị tham khảo tương đối cao: Thay vì quy sửa đổi năm 1997) để xét xử những hành vi định giá trị tài sản bị chiếm đoạt tương tham ô tài sản XHCN xảy ra trước ngày đương với bao nhiêu tấn gạo để làm căn cứ 22/5/1997, mà giá trị tài sản bị chiếm đoạt định tội, định khung hình phạt như Điều tương đương dưới 5 tấn gạo (vẫn áp dụng 133 BLHS 1985, thì Điều 133 BLHS sửa khoản 1 Điều 133 BLHS 1985 để xử lý); đổi năm 1997 đã quy định số tiền cụ thể là - Hai là, được áp dụng khoản 1 Điều bao nhiêu để làm căn cứ định tội, định 133 Luật sửa đổi bổ sung (tức BLHS sửa ––––––––––––––––––––––––– * Emai: Minhhai.nguyen85@gmail.com
  6. Đăng trên Tạp chí TAND số 4 năm 2010 6 –––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––– đổi năm 1997) để xét xử những hành vi HĐXX đã tuyên phạt Nguyễn Văn T 12 tham ô tài sản XHCN xảy ra trước ngày tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử 22/5/1997, mà giá trị tài sản bị chiếm đoạt thách là 24 tháng, tính từ ngày 04/9/2008. tương đương từ 5 tấn gạo đến dưới 100 Tuy nhiên, từ khi có quyết định thi triệu đồng; hành án đến nay, chưa một lần nào T ra - Ba là, được áp dụng khoản 1 Điều trình báo trước UBND xã được giao nhiệm 133 Luật sửa đổi bổ sung (tức BLHS sửa vụ giám sát, giáo dục. Qua gia đình của bị đổi năm 1997) để tuyên bố bị cáo không án được biết, hiện bị án đang đi làm xa nhà. phạm tội đối với hành vi tham ô tài sản UBND xã cũng không nắm bắt được tình XHCN xảy ra trước ngày 22/5/1997 mà giá hình chấp hành pháp luật của bị án trong trị tài sản dưới 5 triệu đồng. thời gian thử thách vừa qua như thế nào? Nêu vấn đề trên để thấy rằng: Theo Khi Luật sửa đổi, bổ sung một số hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền, nếu điều của BLHS 1999 được công bố, Viện thời điểm Trần Văn H bị truy tố, xét xử là kiểm sát đã có công văn đề nghị Toà án thời điểm BLHS sửa đổi 1997 đã được công xem xét về trường hợp của T. Từ đây, vấn bố/đang có hiệu lực thì chúng ta phải áp đề xung đột quan điểm trong việc áp dụng dụng khoản 1 Điều 133 BLHS sửa đổi năm pháp luật bắt đầu phát sinh. 1997 để truy tố, xét xử H thì mới là có lợi Theo Luật sửa đổi, bổ sung và Nghị cho bị cáo so với việc áp dụng các quy định quyết số 33/2009/QH12 về thi hành Luật của Điều 133 BLHS 1985 để xử lý. Tuy sửa đổi, bổ sung, thì kể từ ngày Luật được nhiên, năm 2009 hành vi của H mới bị đưa công bố (29/6/2009), những hành vi trộm ra truy tố, xét xử (thời điểm BLHS 1999 cắp tài sản mà giá trị tài sản dưới 2 triệu đang có hiệu lực), mà hình phạt quy định tại đồng sẽ không bị coi là tội phạm (nếu khoản 1 Điều 133 BLHS sửa đổi 1997 không có dấu hiệu định tội khác). Trong không khác với quy định tại khoản 1 Điều trường hợp vụ án đang được điều tra, truy 278 BLHS 1999 (cùng là từ 02 năm đến 7 tố, xét xử thì phải đình chỉ; trường hợp năm), do đó, căn cứ vào Điều 7 BLHS 1999 người bị kết án đang chấp hành hình phạt và điểm c mục 2 Nghị quyết 32/1999/QH10 hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án, về việc thi hành BLHS, cần phải truy tố, xét thì họ được miễn chấp hành phần hình phạt xử Trần Văn H theo khoản 1 Điều 278 mới còn lại; trường hợp người bị kết án chưa đúng mà vẫn đảm bảo có lợi cho bị cáo. chấp hành hình phạt hoặc đang được hoãn Từ sự phân tích ở trên, tác giả cũng thi hành án, thì họ được miễn chấp hành đồng ý với quan điểm thứ nhất: Phải truy tố, toàn bộ hình phạt. Trong các trường hợp xét xử Trần Văn H theo khoản 1 Điều 278 trên, nếu họ đã chấp hành xong hình phạt BLHS 1999 mới đúng mà vẫn đảm bảo có hoặc được miễn chấp hành toàn bộ hình lợi cho bị cáo. phạt hoặc phần hình phạt còn lại thì đương Vụ án thứ hai: Nguyễn Văn T trộm cắp tài nhiên được xoá án tích(5). sản trị giá 1.090.000đ và không có dấu hiệu Đối chiếu với quy định trên và căn định tội khác. Ngày 04/9/2008, T bị Toà án cứ vào hướng dẫn của TANDTC tại Công đưa ra xét xử theo khoản 1 Điều 138 BLHS. văn số 105/KHXX ngày 17/7/2009, thì ––––––––––––––––––––––––– * Emai: Minhhai.nguyen85@gmail.com
  7. Đăng trên Tạp chí TAND số 4 năm 2010 7 –––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––– Nguyễn Văn T thuộc trường hợp được miễn luật trong thời gian thử thách vừa qua đúng chấp hành hình phạt. Tuy nhiên, theo một như quy định ở Nghị định 61/2000/NĐ-CP số văn bản hướng dẫn của TANDTC trong thì Toà án mới ra quyết định rút ngắn thời thời gian qua cũng như Nghị định gian thử thách còn lại. 61/2000/NĐ-CP, thì án treo là miễn chấp Quan điểm thứ hai cho rằng: Việc hành hình phạt tù có điều kiện, điều kiện ở ra quyết định rút ngắn toàn bộ thời gian thử đây chính là thời gian thử thách và một số thách còn lại của án treo đối với T sẽ không ràng buộc trong thời gian này. Do vậy, đối thể hiện được đúng với ý nghĩa và giá trị với T, miễn chấp hành hình phạt ở đây pháp lý như việc miễn chấp hành hình phạt không phải là miễn chấp hành hình phạt tù theo tinh thần của Nghị quyết (vì đã miễn rồi) mà là miễn chấp hành thời 33/2009/QH12. Mặc dù BLHS cũng như gian thử thách còn lại của án treo. Nghị định 61/2000/NĐ-CP không đề cập tới Vì thế, khi xem xét việc miễn chấp việc miễn chấp hành thời gian thử thách còn hành thời gian thử thách còn lại của án treo lại của án treo, nhưng trên cơ sở đề nghị của đối với T đã có hai quan điểm khác nhau. Viện kiểm sát, Tòa án hoàn toàn có thể ra Quan điểm thứ nhất cho rằng: quyết định miễn chấp hành thời gian thử BLHS cũng như Nghị định 61/2000/NĐ-CP thách còn lại của án treo cho T. (Tham chỉ có quy định về việc rút ngắn thời gian khảo: Điểm c tiểu mục 6.8 mục 6 Nghị thử thách còn lại của án treo, mà không có quyết 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007, quy định về việc miễn chấp hành thời gian theo đó thì Tòa án có thể quyết định miễn thử thách còn lại. Do đó, khi quyết định chấp hành thời gian thử thách còn lại của án miễn chấp hành thời gian thử thách còn lại, treo trong một số trường hợp). trên cơ sở đề nghị của Viện kiểm sát, Toà Đó là về mặt tố tụng, còn về mặt nội án ra quyết định rút ngắn toàn bộ thời gian dung, theo quan điểm này, thì việc miễn thử thách còn lại của án treo đối với T. Và, chấp hành thời gian thử thách còn lại đối việc rút ngắn này phải tuân theo đúng quy với T không cần phải tuân theo quy định về định về hồ sơ, trình tự ở Nghị định hồ sơ, tài liệu chứng minh về quá trình tu 61/2000/NĐ-CP. Thực tế, từ khi có quyết dưỡng, rèn luyện, chấp hành pháp luật của định thi hành án, T đã không đến trình báo bị án trong thời gian vừa qua (Tức là dù tại UBND xã được giao nhiệm vụ giám sát, UBND xã không nắm bắt được tình hình giáo dục, hiện T đang đi làm xa và UBND của T cũng không ảnh hưởng gì). Bởi lẽ, bị xã lại không nắm bắt được tình hình chấp án được miễn chấp hành thời gian thử thách hành pháp luật của bị án trong thời gian qua còn lại là do có sự thay đổi về CSHS chứ như thế nào? có vi phạm điều kiện về án không phải vì quá trình tu dưỡng, rèn luyện treo hay không. Vì thế, Toà án sẽ không có có nhiều tiến bộ như Nghị định cơ sở để xem xét việc rút ngắn thời gian thử 61/2000/NĐ-CP đã quy định. thách còn lại đối với T. Đây là quyền lợi Ngoài ra, quan điểm này còn đưa ra của T, T không cần thì sẽ không giải quyết, hướng xử lý ở một số tình huống giả định khi nào T và UBND xã cung cấp đầy đủ hồ sau: sơ, tài liệu chứng minh về quá trình tu dưỡng, rèn luyện, quá trình chấp hành pháp ––––––––––––––––––––––––– * Emai: Minhhai.nguyen85@gmail.com
  8. Đăng trên Tạp chí TAND số 4 năm 2010 8 –––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––– 1) Giả sử trong thời gian thử thách 2) Giả sử rằng trong thời gian thử vừa qua, T có hành vi phạm tội mới mà sau thách vừa qua, T có hành vi phạm tội mới thời điểm có quyết định miễn chấp hành và đã bị một Tòa án nào đó đưa ra xét xử, thời gian thử thách còn lại của án treo mới Tòa án này đã căn cứ vào khoản 5 Điều 60 bị phát hiện, bị điều tra, truy tố, xét xử thì: BLHS buộc bị án phải chấp hành hình phạt - Nếu tội mới không dựa vào dấu 12 tháng tù của bản án trước, đồng thời hiệu đã bị kết án về hành vi chiếm đoạt, tổng hợp hình phạt với bản án sau này, hiện chưa được xóa án tích mà còn vi phạm bị án đang chấp hành hình phạt tù thì: (không dựa vào bản án trước) để làm căn cứ - Nếu tội mới không dựa vào dấu định tội, thì vẫn tiến hành truy cứu TNHS hiệu đã bị kết án về hành vi chiếm đoạt, bình thường. Tuy nhiên, dù ở thời điểm chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thực hiện hành vi phạm tội mới, bị án đã vi (không dựa vào bản án trước) để làm căn cứ phạm điều kiện về án treo quy định ở khoản định tội, thì căn cứ vào điểm a, g mục 4 5 Điều 60 BLHS, nhưng khi tiến hành truy Công văn số 105/KHXX cấp có thẩm quyền tố, xét xử cũng không được bắt buộc bị án sẽ ra quyết định miễn chấp hành hình phạt phải chấp hành hình phạt 12 tháng tù của 12 tháng tù của bản án trước nếu thời hạn tù bản án trước, và cũng không được tổng hợp còn lại lớn hơn 12 tháng, ra quyết định hình phạt, không được áp dụng tình tiết tái miễn chấp hành phần hình phạt còn lại nếu phạm theo điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS thời hạn tù còn lại không quá 12 tháng. (Bởi đối với bị án. Bởi lẽ, ở thời điểm xử lý thì lẽ, trong phần hình phạt chung đó, có 12 hình phạt của bản án trước đã được miễn và tháng tù của bản án trước, mà nay theo bị án đương nhiên được xóa án tích theo Nghị quyết 33/2009/QH12 bị án được miễn quy định tại điểm e khoản 2 Điều 1 Nghị phần hình phạt này). quyết 33/2009/QH12. - Nếu tội mới phải dựa vào dấu hiệu - Nếu tội mới phải dựa vào dấu hiệu đã bị kết án về hành vi chiếm đoạt, chưa đã bị kết án về hành vi chiếm đoạt, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm (dựa vào được xóa án tích mà còn vi phạm (dựa vào bản án trước) để làm căn cứ định tội, thì rõ bản án trước) để làm căn cứ định tội, thì ràng, bị án đang chấp hành hình phạt của mặc dù ở thời điểm đó, hành vi mà bị cáo hai tội mà hiện nay một tội trong số đó thực hiện đã cấu thành tội phạm, nhưng nay không bị coi là tội phạm nữa (tội trộm cắp bị án đã được miễn hình phạt của bản án tài sản dưới 2 triệu đồng), và do đó theo trước và đương nhiên được xóa án tích, nên Nghị quyết 33/2009/QH12 thì bị án phải cơ sở để định tội (chưa được xóa án tích mà được miễn chấp hành hình phạt 12 tháng tù còn vi phạm) cũng không còn nữa (vì đã của tội đó, còn tội kia vẫn phải chấp hành. được xóa rồi), do đó, ở thời điểm xử lý thì Và vì thế, cấp có thẩm quyền vẫn phải ra hành vi này cũng không bị coi là tội phạm quyết định miễn chấp hành hình phạt 12 nữa. Vì vậy, tùy thuộc vào từng giai đoạn tố tháng tù cho bị án. tụng, cơ quan có thẩm quyền sẽ phải ra Như vậy, qua phân tích ở cả hai tình quyết định đình chỉ vụ án. Nếu chưa khởi tố huống giả định trên thì cấp có thẩm quyền vụ án thì không được khởi tố nữa. vẫn phải ra quyết định miễn chấp hành hình phạt 12 tháng tù cho bị án. Thực tế, hiện ––––––––––––––––––––––––– * Emai: Minhhai.nguyen85@gmail.com
  9. Đăng trên Tạp chí TAND số 4 năm 2010 9 –––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––––– nay bị án Nguyễn Văn T đang đi làm xa kịp thời đưa ra những hướng dẫn nhằm (chưa bị Tòa nào xét xử cả), do đó, trên cơ thống nhất về mặt nhận thức và áp dụng sở đề nghị của Viện kiểm sát, Tòa án cần pháp luật trong hoạt động của các cơ quan phải ra quyết định miễn chấp hành thời gian tiến hành tố tụng./. thử thách còn lại cho bị án. Tác giả cho rằng so với quan điểm ––––––––––––––––– thứ nhất, thì quan điểm thứ hai có nhiều (1): Xem: T.S. Phạm Văn Lợi (Chủ biên). Chính điểm hợp lý hơn, tuy nhiên, lập luận của sách hình sự trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam. Nxb quan điểm này có điểm vẫn dựa trên sự suy Tư pháp, năm 2007. lý đơn thuần, mà chưa dựa vào căn cứ pháp (2): Xem: Báo cáo thẩm tra của UBTP QH khoá 12 lý thật rõ ràng. Mong rằng, trong thời gian và Tờ trình của Chính phủ về dự án Luật sửa đổi, bổ tới, khi ban hành Thông tư liên tịch hướng sung một số điều của BLHS năm 1999. dẫn thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số (3), (4): Xem: Điều 7 BLHS 1985, 1999 và các điều của BLHS 1999, vấn đề miễn chấp Nghị quyết về thi hành BLHS. hành hình phạt đối với những trường hợp (5): Xem: Khoản 2 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung được hưởng án treo cần phải được các cơ một số điều của BLHS 1999 và khoản 2 Điều 1 quan có thẩm quyền quan tâm đúng mức. Nghị quyết 33/2009/QH12. 3. Kết luận Trong quá trình tiệm cận tới sự nhận thức đúng đắn và thống nhất, nhất là khi có sự thay đổi về pháp luật hình sự, thì hiện tượng không giống nhau trong việc áp dụng pháp luật hình sự sẽ còn tiếp tục diễn ra. Vì thế việc nghiên cứu vấn đề về CSHS, sự thay đổi của CSHS và vấn đề xung đột quan điểm trong việc áp dụng pháp luật luôn mang nhiều ý nghĩa cả về lý luận cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật. Trong phạm vi một bài viết, tác giả không có tham vọng và cũng không thể nói lên tất cả những vấn đề về CSHS, sự thay đổi của CSHS, vấn đề xung đột quan điểm trong việc áp dụng pháp luật, mà tác giả chỉ có thể đưa ra những đánh giá, phân tích mang tính sơ lược nhất, chung nhất, có tính chất gợi mở về những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật. Qua đây, tác giả mong muốn cùng bạn đọc tiếp tục bàn luận, trao đổi về các vấn đề nêu trên, đồng thời kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền ––––––––––––––––––––––––– * Emai: Minhhai.nguyen85@gmail.com
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2