intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Suy ngẫm về tác giả và vai trò của âm nhạc trong Truyện Kiều của Nguyễn Du

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:16

8
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nguyễn Du, tác giả của Truyện Kiều, không chỉ là một nhà thơ tài hoa mà còn là người am hiểu sâu sắc về âm nhạc. Trong Truyện Kiều, âm nhạc đóng vai trò quan trọng, không chỉ làm nền cho các tình tiết mà còn thể hiện tâm trạng và cảm xúc của nhân vật. Những câu thơ trong tác phẩm thường được phổ nhạc, tạo nên sự kết hợp hài hòa giữa văn học và âm nhạc. Điều này không chỉ làm tăng giá trị nghệ thuật của Truyện Kiều mà còn giúp tác phẩm sống mãi trong lòng người đọc.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Suy ngẫm về tác giả và vai trò của âm nhạc trong Truyện Kiều của Nguyễn Du

  1. TẠP CHÍ VHDG SỐ 2/2013 3 SUY NGẪM VÊ TÁC GIẢ VÀ VAI TRÒ CÚA ÂM NHẠC TRONG TRUYỆN KIỀU CỦA NGUYỄN uu NGUYÊN THỤY LOAN 1. Tiểu dẫn và những cảm nhận ban Quả thật, trong lúc đọc các đoạn mô tả đầu những lần nàng Kiều gẩy đàn và một số chi tiết liên quan tới âm nhạc rải rác trong Vốn không phải là người nghiên cứu Truyện Kiều, tôi có cảm nhận rằng: phải là văn học, song tình cờ, lời đề xuất của Phó một người am hiểu rất sâu về âm nhạc mới Tổng biên tập Tạp chí Văn hóa Hà Tĩnh về có thể viết nên những đoạn, những câu như việc viết một bài theo chủ đề mối quan hệ vậy. Tuy nhiên, theo những thông tin mà giữa nghệ thuật âm nhạc với Truyện Kiều giới văn học sử đưa ra, Truyện Kiều (Đoạn đã gợi nhớ cho tôi tác phẩm mà từ rất lâu đã trường tân thanh) của Nguyễn Du đã được được nghe, được đọc nhiều lần. Thoạt đầu, hình thành trên cơ sở Kim Vân Kiều truyện tôi định tìm lại những bài viết của các bậc của Thanh Tâm tài nhân. Vì vậy, điều đầu tiền bối để Tòa soạn giới thiệu với độc giả, tiên - và băn khoăn lớn nhất, là cần xác định vì đây là đề tài tôi chưa bao giờ nghĩ đến và rõ những đoạn hoặc chi tiết nào liên quan tới đã có vài nhà nghiên cứu viết. Chẳng ngờ, âm nhạc vốn đã có trong tác phẩm của một tình huống khách quan bất ngờ ập tới Thanh Tâm tài nhân và những đoạn hoặc chi khiến tôi không thực hiện được dự định tiết nào thực sự là sáng tạo riêng của thi hào trên. Trong thời gian phải tuân theo sự áp Nguyễn Du. Mặc dù thế, một nhận định ban đặt của tình huống mới, tôi giở lại Truyện đầu cũng đã thoáng xuất hiện: vớỉ bất cứ Kiều để đọc. Khác với trước kia, lần này tôi tình huống nào, những chi tiết liên quan tới đọc với sự quan sát, tìm tòi về đề tài được âm nhạc trong Truyện Kiều của Nguyễn Du gợi ý. Thế rồi, bị hút vào đề tài liên quan tới cũng đã được vận dụng với sự hiểu biết thi phẩm của nhà đại thi hào như một cơ tường tận về âm nhạc đồng thời được đưa duyên, tôi không thể buông cuốn sách. Bởi, vào một cách có ỷ thức và tài tình. lần đọc này đã cho tôi những nhận thức và Dầu sao, những suy nghĩ trên đây vẫn cảm xúc mới, đặc biệt là về con người và chỉ là những cảm nhận, mà thiếu sự đối tài năng của tác giả. Nhiều ý tưởng liên chiếu với nguyên tác của Thanh Tâm tài quan tới nghệ thuật xây dựng và tải tạo tác nhân, sẽ không đủ bằng chứng xác thực và phẩm cũng lần lượt nảy nở theo quá trình đi thuyết phục. Thật may, hai bạn Phan Thị sâu vào kiệt tác văn học đã sống trong lòng Hoa Lý vầ Bùi Thị Thiên Thai đã giúp tôi người Việt từ vài trăm năm nay... giải tỏa mối lo trên bằng việc tìm cho một
  2. 4 NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl bản dịch Kim Vân Kiều truyện của Thanh của Nông Sơn Nguyễn Can Mộng(?) (viết Tâm tài nhân, do Nguyễn Đức Vân và tắt: TK1937). Nguyễn Khắc Hanh dịch (theo bản gốc do Đọc những tư liệu có trong tay, tôi nhận Tiếu Hoa Hiên tàng bản, Quán Hoa Đường thấy các bản phiên Truyện Kiều / Đoạn bình luận), Nguyễn Đăng Na giới thiệu và trường tân thanh của Nguyễn Du chủ yếu hiệu đính(1) (trong các phần viết phía dưới chỉ khác biệt ở một vài từ hoặc cụm từ. sẽ được viết tắt là KVKtr) và sau đó - theo Trong khi đó, hai bản dịch Kim Vân Kiều sự chỉ dẫn của Phó TBT Phạm Quang Ái, là truyện của Thanh Tâm tài nhân đã dẫn ở cuốn Truyện Kiều đổi chiểu của nhà nghiên trên và Kim Vân Kiều của Thanh Tâm tài từ cứu Phạm Đan Quế(2), trong đó tác giả lại có những khác biệt về khả nhiều khỉa dùng bản chữ Hán Kim Vân Kiều của Thanh cạnh khác nhau. Đây là vấn đề đáng lưu ý. Tâm tài tử được lưu ở Viễn Đông Bác c ổ Vì vậy, trong khi đối chiếu, những trường Học Viện, kí hiệu A953(3) và bản dịch của họp có khác biệt tương đối lớn giữa hai bản Tô Nam - Nguyễn Đình Diệm (viết tắt: dịch trên đây, chúng tôi sẽ chú dẫn theo cả KVK, hoặc KVK/TKđcK) để đối chiếu với hai bản dịch. Truyện Kiều của Nguyễn Du do Đào Duy Sau khi xem các tư liệu mới, chúng tôi Anh phiên từ chữ Nồm sang chữ quốc ngữ quyết định sử dụng bản dịch Kim Vân Kiều trong Từ điển Truyện Kiều, sau đó được của Thanh Tâm tài tử để làm tư liệu đổi Phan Ngọc bổ sung, sửa chữa trong lần tái chiếu chỉnh - mặc dầu đã làm một đối chiếu bản năm 1989, và tác giả Phạm Đan Quế - giữa Truyện Kiều của Nguyễn Du và Kìm Vân Kiều truyện do Nguyễn Đức Vân và dựa vào các bản Nôm khác, có sửa thêm Nguyễn Khắc Hanh dịch. Bởi, rất kính phục một vài chỗ(4) (viết tắt: TKđch). việc làm của nhà nghiên cứu Phạm Đan Như vậy, bên cạnh hai bản dịch Kim Vân Quế, và nhất là vì bản dịch Kim Vân Kiều Kiều của Thanh Tâm tài nhân, chúng tôi có của Thanh Tâm tài tử mà nhà nghiên cứu trong tay bốn phiên bản Truyện Kiều của Phạm Đan Quế sử dụng trong cuốn sách Nguyễn Du. Ngoài TKđch trên đây, còn có: của mình gần với Truyện Kiều của Nguyễn Truyện Kiều chữ Nôm in song hành chữ Nôm Du hơn, cho nên, dùng bản có nhiều chi tiết và phần phiên âm chữ quốc ngữ, do Nguyễn gần nhất với Truyện Kiều của Nguyễn Du Thế - Phan Anh Dũng sưu tầm, khảo chú và thì việc làm rõ những sáng tạo và tài năng chế bản Nôm, Nhà giáo ưu tú Nguyễn Đình của ông trong việc chuyển biên (tạm gọi Thảng hiệu đính chữ N ôm (5) (viết tắt: TKcN) như vậy) tiểu thuyết của Thanh Tâm tài do bạn Phan Thị Hoa Lý cung cấp và hai bản nhân mới có sức thuyết phục cao. Bản dịch Truyện Kiều của Nguyễn Du xuất bản tại Hà thứ nhất cũng sẽ được sử dụng khi cần thiết Nội, trong đó, bản mới nhất mà chúng tôi sừ và cả hai sẽ được ghi chú bằng những chữ dụng là Truyện Kiều (theo bản quổc ngữ cổ - viết tắt đã ước định ở trên. 1937)^ do nhà nghiên cứu Trương Sĩ Hùng Trong quá trình đối chiếu các tư liệu, tặng. Bản này, chính ông là người chỉnh lí những dự cảm và nhận định ban đầu đã nêu theo phần phiên âm và chú thích năm 1937 ở phía trên vẫn không thay đổi. Xin chia sẻ
  3. TẠP CHÍ VHDG s ố 2Z2013 5 cùng những vị quan tâm tới tác giả và thi không phải là đàn cầm của Trung Hoa, mà phẩm kiệt xuất này những điều nhận thức là đàn nguyệt (nguyệt cầm) bốn dây thời được trong lần đọc mới. Tuy nhiên, trong xưa. khuôn khổ của một bài nhỏ, chỉ có thể giãi Bên cạnh một số chi tiết liên quan tới bày về hai chủ điểm đã ghi trên tiêu đề của nhạc cụ, Nguyễn Du còn nhắc tới một sổ bài viết. Dưới đây là những suy ngẫm, nhận dàn nhạc. Đó là những dàn nhạc dùng thức và dẫn giải cụ thể. trong lúc đưa đón dâu. Chẳng hạn, dàn nhạc 2. Âm nhạc - một tư chất đậm nét “quản huyền” (gồm nhạc cụ hơi và dây) khi trong con người tác giả Mã Giám Sinh đưa kiệu đến đón Thúy Kiều Những chỉ dẫn đã đưa tôi tới kết luận À vê: trên đây chính là các chi tiết bộc lộ kiến Kiệu hoa đâu đã đến ngoài, thức và sự am hiểu tường tận của Nguyên Quản huyền®} đâu đã giục người Du đối với âm nhạc thu nhận được khi đọc sinh li. Truyện Kiều. Trước hết, xin điểm lại sơ Lại có dàn nhạc “cổ xúy” (gồm trống lược kiến thức âm nhạc của nhà thơ. và kèn) khi quan phủ cho Thúc Sinh - Thúy 2.1. M ột kiến thức toàn diện về âm Kiều được đoàn tụ và truyền kiệu, nhạc đưa nhạc hai người về nhà: Mặc dầu trong Kim Vân Kiều của Kíp truyền sắm sửa lễ công, Thanh Tâm tài nhân, người đọc đã thu r r \ » Kiệu hoa căt gió, đuôc hông ruôi sao. lượm được khá nhiều thông tin về âm nhạc, Bày hàng cỗ xúy ^ x ô n xao, song vẫn có thể nhận ra trong Truyện Kiều Song song đưa tới trướng đào sảnh đôi. của Nguyễn Du, nhiều chi tiết liên quan tới kiến thức âm nhạc không thấy có trong Ngoài hai khía cạnh trên đây, trong thiên tình sử Kim Vân Kiều của Trung Hoa. Truyện Kiều còn chứa đựng thông tin về tên Những chi tiết đó thuộc nhiều lĩnh vực khác một sổ bài bản, làn điệu cổ nhạc của nhau của âm nhạc: Trung Hoa cũng như Việt Nam. Chẳng hạn, ở đoạn Thúy Kiều gảy đàn cho Kim Trước hết, đó là kiến thức về nhạc cụ, Trọng nghe lần đầu, nhà thơ cho biết tiếng cụ thể là một số nhạc cụ dây gảy. Ngoài cây đàn hồ cầm đã được Thanh Tâm tài nhân đàn của nàng đã gọi lên âm hưởng của những bản đàn để lại dấu ấn khó quên trong nói tới, Nguyễn Du còn nhắc tới đàn nguyệt lịch sử văn học Trung Hoa: Phượng c ầ u ^ , (“Ép cung cầm nguyệt, thử tài quạt thơ”). Ngoài ra, nhà thơ cũng cho biết cây đàn mà Quảng lăng®'}, Hoa nhạc, Quy Vân®2}. Lại nàng Kiều gảy có “bốn dây” với độ “to có cả tên những bản nhạc hiện vẫn còn nhỏ” khác nhau (“Bốn dây to nhỏ theo vần được lưu truyền trong đời sống âm nhạc của cung thương”). Với chi tiết đó cùng một số người Việt như Lưu thủy, Hành vân (13). chi tiết khác, có thể biết rằng cây đàn Thúy Qua Truyện Kiều, cũng có thể nhận ra Kiều gảy (trong thi phẩm của ông) chắc những kiến thức về nhạc lí của Nguyễn chắn không phâi ià đàn nhị (nhị hồ), cũng Du. Chẳng hạn:
  4. 6 NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl Nhà thơ ý thức được rất rõ ràng, đầy đủ Cung, thương làu bậc ngũ âm về những cặp tương phản - tương thành liên Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương quan tới âm sắc (trong - đục) và nhịp điệu, (hoặc: “...theo vần cung, thương” trong câu tiết tấu (khoan - mau) của âm thanh âm đã dẫn ở phía trên). nhạc (xin xem đoạn dẫn ở tiểu mục 2.3.). Nguyễn Du cũng đề cập tới các khái Những khía cạnh trên - tuy đã có trong niệm “dây vũ, dây văn” (sẽ được bàn tới ở Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài tiểu mục 2.2.). nhân, song không được quan tâm đầy đủ như trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Ngoài ra, sự hiểu biết về các điển tích Chẳng hạn, ở bản dịch KVKtr, chỉ có một của Trung Hoa liên quan tới âm nhạc số từ thể hiện nhịp điệu, tiết tẩu và đặc tíỉih cũng là một khía cạnh biểu hiện sự hiểu biết biểu hiện của tiếng đàn: “ban đầu nghe như rộng của Nguyễn Du trong lĩnh vực âm hạc kêu, kế đến như vượn hót, lúc khoan nhạc. Không phụ thuộc vào những điển tích như gió thoảng, lúc gấp như mưa rào, âm đã có trong tiểu thuyết của Thanh Tâm tài điệu du dương, thanh vận ai oán, như hờn nhân, Nguyễn Du đã sử dụng một số điển như tủi, như khóc như than”(14). Còn ở bản tích khác trong một số tình huống của dịch KVK/TKđch - ngoài những từ thể hiện truyện. Chẳng hạn, điển tích về đôi bạn tâm nhịp điệu, tiết tấu và đặc tính biểu hiện của đắc có một không hai về âm nhạc: Bá Nha - tiếng đàn, cũng có cả những từ thể hiện âm Tử Kỳ. Nhà thơ đã “cho” Kim Trọng tự ví sắc và cao độ: “tiếng trong trẻo như hạc mình với Chung Tử Kỳ - khi lần đầu tiên trên mây, bi ai như vượn trong núi, tiếng chàng đề nghị được thưởng thức ngón đàn khoan như gió thoảng bên ngoài, tiếng mau sở trường của Thúy Kiều. Để mô tả những sình sịch như lúc trời mưa, thanh âm lúc sạc thái khác nhau trong tiếng đàn Thúy bổng lúc chìm, cung điệu như oán như hận”^5). Kiều gẩy cho Kim Trọng nghe lần đầu, Tuy nhiên, ở bản dịch vừa dẫn, - ngoài nghi Nguyễn Du lại sử dụng điển tích về nàng vấn về chiều ảnh hưởng ngược từ thi phẩm Chiêu Q u â n ^ (xin xem đoạn trích dẫn ở của Nguyễn Du tới tái bản Kim Vân Kiều tiểu mục 2.3.). Tương tự như vậy, nhà thơ của Thanh Tâm tài tử (16), mối quan hệ cũng đưa điển tích về nàng Tiểu Lân vào lời tương phản - tương thành về âm sắc không đáp của Thúy Kiều khi Hồ Tôn Hiến lân la được quan tâm thể hiện. Phải chăng điều tính chuyên ong bướm với nàng (xin xem ở này ít nhiều có liên quan tới sự khác biệt về tiểu mục 3.1.)... thiên hướng nghệ thuật của hai tác giả? Có thể nói, Nguyễn Du đã sở hữu một Khi giới thiệu về tài nghệ hồ cầm của kiến thức âm nhạc sâu rộng và toàn diện. Thúy Kiều, Nguyễn Du lại nói tới “ngũ Không chỉ dừng ở những khía cạnh đã dẫn cung”. Thêm nữa, trong phạm vi một câu ở trên, sự hiểu biết sâu rộng và toàn diện về thơ sáu chữ, ông còn điểm qua những bậc âm nhạc của Nguyễn Du còn được bộc lộ ở đầu tiên của khái niệm liên quan tới thuật một số khía cạnh khác như sẽ được trình ngữ này: bày trong hai tiểu mục tiếp theo.
  5. TẠP CHÍ VHDG SỐ 2/2013 7 2.2. Sự am hiểu tinh tường đổi với âm tự dứt đứt dây đàn của mình giữa lúc đang nhạc cũng như những người làm nghề đắm say trong dòng cảm xúc trầm bổng của cầm ca bản đàn đang chơi - đúng như Nguyễn Du đã viết: Năng lực này của Nguyễn Du được biểu lộ rõ trong Đoạn trường tân thanh Ôm cầm ai nỡ dứt dây cho đành. {Truyện Kiều) qua một số chi tiết mà nhà Quả là một đúc kết rất chính xác! Phải thơ đưa vào thi phẩm. Chỉ xét ba - trong so là người có nhiều năm tắm mình trong môi những chi tiết mới, mà Nguyễn Du đưa trường âm nhạc và thấu hiểu những “ngõ thêm vào tác phẩm của ông, cũng có thể ngách” của âm nhạc cũng như tâm lí người nhận rõ năng lực nói trên. chơi đàn mới có thể đưa ra những chi tiết Chi tiết thứ nhất: không am hiểu sâu về liên quan đến âm nhạc xác đáng như trên. Hơn thế nữa, sự am hiểu tinh tường đối với âm nhạc, mấy ai biết rằng các dây to nhỏ âm nhạc và nhũng người làm nghề cầm ca trong cây đàn có mối quan hệ mật thiết với còn được biểu hiện rõ rệt hơn qua một năng các khái niệm “dây vũ dây văn” - một khái lực khác của nhà thơ như sẽ được trình bày niệm có liên quan tới việc ứng dụng vũ trụ dưới đây. luận của người xưa trong âm nhạc: 2.3. Sự thấu hiểu sâu sắc mổì quan hệ S o ^ d ầ n dây vũ dây vổ«(l9) giữa người đàn và tiếng đàn mà họ tạo ra Bốn dây to nhỏ theo vần cung, thương. Trước hết, cần phải khẳng định rằng, Chi tiết thứ hai: không thành thạo về không phải Thanh Tâm tài nhân không có âm nhạc, làm sao biết rõ được nghệ thuật nhận thức về vấn đề này. Trong truyện Kim hòa đàn như Nguyễn Du từng viết trong Vân Kiều, Thanh Tâm tài nhân đã nhiều lần Truyện Kiều: mô tả tiếng đàn của Thúy Kiều và nhắc tới Làm chi lỡ dịp cho đàn ngang cung. mối quan hệ giữa tâm trạng, cảm xúc của Quả thật, trong khi hòa tấu, nếu đánh lỡ người đàn và tiếng đàn mà họ gảy nên cũng như tác động của những tiếng đàn đó đối nhịp (dịp) sẽ làm cho bản đàn “ngang cung”. với người nghe. Cả ông cũng như Nguyễn Nói theo lối “hiện đại”, đánh sai nhịp sẽ làm Du đều đã từng nhắc tới việc tiếng đàn tẻ cho âm điệu của các bè bị sai lệch, khiến cho vui đều bởi tự trong lòng mà ra. Tuy nhiên, bản đàn bị “phô” (faux), v ẻ đẹp của bản có thể thấy năng lực này ở Nguyễn Du có nhạc, do đó, sẽ bị tổn hại, đồng thời gây khó sự vượt trội, sâu sắc hơn, chí ít cũng kĩ chịu cho những người đang hòa tấu cũng như lưỡng, cẩn trọng hơn, đặc biệt là khi thể người nghe. hiện mối quan hệ giữa tâm trạng, cảm xúc Chi tiết thứ ba: Nguyễn Du cũng am hiểu của người đàn và tiếng đàn của họ trong rất tường tận tâm lí của những người nghệ sĩ những bối cảnh khác nhau. Hãy làm thử chơi đàn. Ông biết điều tối kị đối với người một so sánh giữa cách Thanh Tâm tài nhân nghệ sĩ trong khi đang chơi đàn là nửa chừng mô tả tiếng đàn và tác động của nó tới bị đứt dây. Do đó, một khi đã cầm dân lên để người nghe trong truyện Kim Vân Kiều và tấu, không nghệ sĩ nào muốn dây bị đứt nửa cách Nguyễn Du thể hiện những lần nhân chừng. Lại càng không có ngựời chơi đàn nào vật trong truyện gảy đàn.
  6. 8 NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl Cách mô tả tiếng đàn và tác động của nó tới người nghe trong Kim Vân Kiều của Thanh Tâm tài nhân Thử tự các 1 2 3 4 5 6 7 lần gảy đàn Thuở Cho KimTrọng Tại lầu ChoH. Cho Th.Sình&H.Thư Cho Hồ Cho niên (lần 1) xanh Thư 5a (Khủcl) 5b(K húc2) Tôn KimTrọng thiếu của Tủ Hiển (lần 2) Bà hạc kêu, vượn hót, Dồn dập khoan như gió Vời vợi như hối hả, êm K thoảng, gấp như đau đớn tỉ non cao, mênh ái hiền hòa V thê mưa rào, du càng tê, mông nhường nghẹn uyển K lương dương, ai oán, như não nuột buồn như gió nước chảy ngào thổn chuyên tr (tr.12) hờn bi ai thảm thoảng mưa du dương thức dịu dàng, như tủi, như khóc (ư.121) (ư.164) sầu, nỉ non uyển chuyển (ư.236) trong, Tiếng như than, thổn thức, (ư.171) hớn hở vui đàn ảo não, thê thảm, than thở tươi u uất, bất bình, đầy vơi (ư.260) bi ai (ư.42) (fr.170) trong trẻo, bi ai. xôn xao ồ khoan như gió một khúc Ngồn ngộn ạt, K rất não thoảng, mau sình càng ai não thảm sầu, như non cao, nghẹn dung hòa, V nuột sịch như ười mưa, oán não nuột thêm buồn cuồn cuộn như ngào êm ấm, K (tr.52) bổng-chìm, như nuột (ư.301) (ư.312) nước chảy ôn than khóc thanh, oán (ư.232) tồn (ư.404) mềm, như hận, quá thê êm ái (fr.314) vui vầy lương (ư.444) (fr. 102-103) ngồi yên, gật đầu nghe K chau khen ngợi, im lặng phải than buồn bã, bay bổng, Tác V mày rơi thở than, thở than khóc, phải 0 tiu nghỉu thanh sảng khiến phiêu diêu động K lệ buồn bã, đứt ruột chảy nước không vui (tr.171) người (ư.260) tới tr (tr.12) người ta, tổn hại mắt nước mắt nghe thê người lòng mình (fr.42) (ư.121) dầm dề thảm nghe (ư.171) (fr.236) bârig khuâng hồi phải khốc K ứa lệ hộp, nức nở, mưa thảm mất vui, V rơi não lòng, đứt từng không 0 gió sầu, bùi khoan khoái khiến đăm, say, K châu khúc ruột, ngăn nổi ngùi, (ư.314) người phiêu diêu (tr.52) người dạo cũng một vài lệ tuôn xối nghe (ư.444) tan nát lòng giọt nước xả(ư.313) đến nỗi (ư. 102-103) mắt hão thảm sầu (ư.232) (ư.404) Khốc khúc Bạc Tên khúc Khúc nhạc dạo hồi hoàng khúc mệnh oản (“ tùy theo khúc Bạc nhỏ thiên bạc Không tên Không tên hoặc Oán tâm sự nhạc mệnh [Bạc mệnh oảri\ {KVKt mệnh bạc mệnh ghép nên oản (KVK, ư.103) ư.230- (KVK, (KVK, bản đàn” ) (KVK, 232) ư.301) ư.404) (ư.444) tr.52)
  7. TẠP CHÍ VHDG s ố 2/2013 9 Qua bảng trên, ta thấy có bày lần Thúy như tác động của nó tới người nghe. Khúc Kiều gảy đàn được Thanh Tâm tài nhân mô nhạc buồn mà ông tả lần nào cũng buồn tả, trong đó, lần gảy cho Thúc Sinh trước tương tự như lần nào. Còn hai lần gảy bản mặt Hoạn Thư có hai khúc nhạc. Tổng cộng vui thì cả hai lần đều cho một sắc thái, cảm là tám lần tả tiếng đàn của Kiều và tâm hứng và tác động không mẩy khác biệt - trạng người ngồi nghe. Trong tám lần đó, mặc dầu hai lần đàn bản vui lại diễn ra có sáu lần là những khúc nhạc buồn (ô 1,2, trong hai bối cảnh hoàn toàn trái ngược 3, 4, 5a và 6 trong bảng trện), hai lần là nhau. khúc nhạc vui (ô 5b và 7). Những khúc Nguyễn Du không như thế. Hãy xem nhạc buồn hoặc vui đó được tấu lên trong nhà thơ tả những lần Kiều gảy đàn trong những tình huống, tâm trạng khác nhau của các tình huống khác nhau như thế nào: cả người đàn cũng như người nghe - không Lần 1, giới thiệu về khúc Bạc mệnh lần nào giống lần nào. Chẳng hạn, cũng là Thúy Kiều sáng tác thuở niên thiếu: khúc nhạc buồn, nhưng mỗi lần lại là một Khúc nhà tay lựa nên xoang, nỗi buồn mang sắc thái khác nhau. Khi là Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân. ngón đàn ưu tư lúc còn niêri thiếu - dẫu chỉ Lần 2, sau khi tâm tình, thề ước với do bản tính đa sầu đa cảm ngẫu nhiên bộc Kim Trọng, Kiều gảy ngón đàn sở trường lộ ra ngoài. Khi do vô tình theo thói quen của mình theo đề nghị của Kim Trọng: mà đàn lại khúc nhạc sở trường cho người mình yêu trong lúc đang tràn trề hạnh phúc. Khúc đâu Hán, Sở chiến trường, Khi lại là tiếng khóc than thống thiết về nỗi Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau. bị số phận đẩy vào cảnh tủi nhục ê chề, Khúc đâu Tư Mã Phượng cầu, Nghe ra như oán như sầu phải chăng! không biết bao giờ thoát ra. Khi bất giác gảy lại khúc bạc mệnh chất chứa mối sầu K ê khang này khúc Quảng lăng, Một rằng Lưu thủy, hai là Hành vân oán vì vừa được nếm chút mùi vị của hạnh Qụá quan này khúc Chiêu quân, phúc thì lại bị quăng vào cơn ba đào mới. Nửa phần luyến chúa, nửa phần tư gia. Lúc lại là sự đau đớn tái tê vì nỗi chồng - Trong như tiếng hạc bay qua, vợ phút chốc bỗng hóa thành chủ nhà - con Đục như nước suối mới sa nửa vời. ở, giáp mặt mà không dám nhận nhau. Lúc Tiếng khoan như gió thoảng ngoài, là sự đau đớn tột cùng vì vừa gây ra cái chết Tiêng mau sầm sập như trời đổ mưa. oan uổng cho người chồng đã đem lại hạnh Ngọn đèn khỉ tỏ khi mờ, phúc và sự vinh quang cho nàng, mà lại Khiến người ngồi đó mà ngơ ngẩn sầu. phải đàn mua vui ngay cho chính những kẻ Khi tựa gối, khi cúi đầu, vừa mới giết chồng mình. Khi vò chín khúc, khi cau đôi mày. Vậy mà, đọc nhũng từ Thanh Tâm tài Rằng: “Hay thì thật là hay, nhân dùng để mô tả những lần nàng Kiều Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào. gảy đàn đã được nhặt ra trong bảng trên “Lựa chi những bậc tiêu tao, đây, có thể thấy tác giả có phần “khinh X ót lòng mình, cũng nao nao suất”, “dễ dãi” khi mô tả tiếng đàn cũng lòng người? ”
  8. 10 NGHIÊN CỨU-TRAOĐỔI Lần 3a, đàn phục vụ khách làng chơi Ve kêu vượn hót nào tầy, trong quãng thời gian đành phải cam chịu Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu! làm ca kĩ ưong lầu xanh của Tú Bà: Hỏi rằng: “Này khúc ở đâu? Cung cầm trong nguyệt, nước cờ Nghe ra muôn thảm nghìn sầu lắm thay!” dưới hoa. Vui là vui gượng kẻo mà, Lần 7, đàn cho Kim Trọng nghe trong A i tri ầm đó, mặn mà với ai? niềm hạnh phúc đoàn tụ: Lần 3b, đàn trong thời gian mới quen Phím đàn dìu dặt tay tiên, và tiếp Thúc Sinh tại lầu xanh của Tú Bà: Khói trầm cao thấp, tiếng huyền gần xa Khúc đâu đầm ẩm dương hòa, ( Khi hương sớm khi trà trưa, Ẩy là hồ điệp hay là Trang sinh? Bàn vây điểm nước, đường tơ họa đàn. Khúc đâu êm ái xuân tình, Miệt mài trong cuộc truy hoan, Ấy hồn Thục đế, hay mình đỗ quyên Càng quen thuộc nết, càng dan díu Trong sao châu rỏ duềnh quyên, tình. Âm sao, hạt ngọc Lam Điền mới đông. Lần 4, đàn cho Hoạn Thư nghe khi (■ ■ ■) được hỏi tới các nghề chơi, nhân đó muốn Chàng rằng: “Phổ ấy tay nào? gửi nỗi niềm u uất, tủi phận: Xưa sao sầu thảm, nay sao vui vầy? ” Lĩnh lờỉ nàng mới lựa dây, Ngoài những đoạn trên đây, trong thi N ỉ non thánh thót d ễ say lòng người! phẩm của Nguyễn Du, người đọc còn gặp Tiểu thư xem cũng thương tài, hai đoạn liên quan tới việc Kim Trọng gảy Khuôn uy nhường cũng bớt vài đàn: bổn phân. Lần thứ nhất, sau khi kết tóc xe duyên Lần 5, đàn cho Thúc Sinh nghe theo với Thúy Vân, Kim Trọng vẫn khôn nguôi lệnh Hoạn Thư trong cảnh oan trái, chồng - nhớ Kiều. Mỗi lần nhớ, chàng lại đốt hương vợ bỗng chốc thành chủ nhà - con ở, nhìn và gảy cây đàn xưa: nhau mà chẳng dám nhận nhau: Có khỉ vẳng vẻ thư phòng. Bốn dây như khóc như than, Đốt lò hương, giở phím đồng ngày xưa Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng! Bẻ bai rầu r ĩ tiếng tơ, (...) Cùng chung một tiếng tơ đồng, Lần thứ hai tương ứng với đoạn trong Người ngoài cười nụ, người trong Kim Vãn Kiều của Thanh Tâm tài nhân kể khóc thầm. về việc Kim Trọng - sau khi biết những nỗi Lần 6, đàn trong hoàn cảnh oan nghiệt đoạn trường của nàng Kiều, mà vẫn không phải mua vui cho quan quân triều đình ngay biết nay nàng ra sao, lại càng xót thương, sau khi vừa mới vô tình giúp Hồ Tôn Hiến thẫn thờ, nhưng chẳng biết làm thế nào, chỉ gây ra cái chết đau thương của chồng mình: đành lấy thơ lưu biệt của Kiều ra ngâm, đốt M ột cung gió thảm mưa sầu, chút hương xưa còn lại và lấy đàn của nàng Năm cung rỏ máu năm đầu ngón tay! ra gảy một khúc(2°);
  9. TẠP CHÍ VHDG SỐ 2/2013 11 Lời xưa đã lỗi muôn vàn, được thấy trong tiểu thuyết của Thanh Tâm Mảnh hương còn đó phím đàn còn đây. tài nhân. Vậy, đó là ngẫu nhiên hay từ đâu Đàn cầm khéo ngấn ngơ d â y ^ , mà nhà thơ có được tư chất đặc biệt này? Lửa hương biết có kiếp này nữa thôi? Câu trả lời sẽ được làm rõ ở tiểu mục tiếp Như vậy, các lần nhắc tới tiếng đàn gảy sau. trong những tình huống tâm trạng khác 2.4. Nơi cội nguồn của tư chất âm nhau của nàng Kiều cũng như của Kim nhạc đặc biệt trong con người nhà thơ Trọng, Nguyễn Du đều cho thấy những sắc Nguyễn Du được sinh ra trong một gia thái riêng - cả trong tâm trạng của người đình có thế lực vào bậc nhất tại kinh thành đàn cũng như cảm nhận của những người Thăng Long vào thời Lê mạt. Cha là nghe có mối quan hệ khác biệt với Thúy Nguyễn Nghiễm, làm quan trải các đại bộ, Kiều. Khác với Thanh Tâm tài nhân, nhà khi mất được phong phúc thần(23). Anh cả thơ không “phóng tay” dễ dãi, mà cẩn cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản từng trọng, chắt chiu các từ ngữ dùng để tả tiếng làm tới chức Lại bộ thượng thư thời chúa đàn trong mỗi tình huống khác nhau. Thậm Trịnh Tông, vào tham tụng và được ban chí, ông còn đắn đo cân nhắc - khi nào nên tước quận công; anh thứ Nguyễn Điều cũng tả và khi nào chỉ lướt qua. Do đó, cách thể từng giữ chức Đô đốc phủ sự, Điều nhạc hiện những tiếng đàn và tâm trạng của hầu(24). Lớn lên trong một gia đình danh gia người đàn cũng như người nghe không lần vọng tộc lớn như vậy, chắc chắn ngay từ nào giống lần nào. Cách mô tả của Nguyễn nhỏ Nguyễn Du đã được thụ hưởng một nền Du cũng đúng với tình huống của cốt truyện giáo dục Nho học đầy đủ dành cho con em và thực hơn. Nghệ thuật biểu hiện những các tầng lớp quý tộc trong xã hội phong tình huống nói trên trong Truyện Kiều của kiến ở nước ta thời đó. Với nền giáo dục ấy, Nguyễn Du, vì vậy, đạt hiệu quả và sức từ nhỏ, các nho sinh đều được học đủ “lễ rung động cao hơn(22). Tất nhiên, điều này nhạc xạ ngự thư số” trong các trường thuở cũng lại bắt nguồn chính từ sự thấu hiểu sâu xưa - như Phạm Đình Hổ đã ghi rõ trong sắc của tác giả đối với mối quan hệ giữa cuốn tùy bút của mình(25). Ngoài ra, “cầm kì tâm trạng của người đàn và tiếng đàn mà thi họa” là những “thú chơi” đồng thời là người đó tạo ra. những tiêu chuẩn của một mẫu hình mà giới Mặc dầu vậy, có một câu hỏi vẫn được thượng lưu nho sĩ phải đạt được. đặt ra: Sự am hiểu tinh tường, sâu sắc đối Đặc biệt, sau khi cha mất, rồi mẹ mất, từ với âm nhạc thể hiện qua những hiện tượng năm 12 tuổi, Nguyễn Du đã về sống với trình bày sơ lược ở trên có thực sự là tư người anh cả Nguyễn Khản - một người có chất đặc biệt của Nguyễn Du? Hay đó biệt tài về âm nhạc. Người anh này, theo chẳng qua là những chi tiết vốn đã có trong Phạm Đình Hổ, là “bậc phong lưu tiến sĩ” , Kim Vân Kiều của Thanh Tâm tài nhân? Có “thích nghề hát xướng, sành âm luật, thường thể loại trừ ngay khà năng vừa nói. Bởi, hầu đặt những bài hát nhạc phủ ra làm điệu hát hết những hiện tượng và chi tiết được dẫn mới; viết xong bài nào thì những nghệ sĩ trong những tiểu mục trên đây đều không ngoài giáo phường tranh nhau truyền
  10. 12 NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl tụng”(26). Nguyễn Khản rất được chúa Trịnh sở thích đó thôi thúc Nguyễn Du - khi Sâm (Thịnh vương) tin yêu, “hàng ngày không còn điều kiện dự các cuộc cầm ca được vào hầu yến trong nội cung Thịnh trong giới thượng lưu quý tộc, tìm đến các vương, thân thiết như bạn áo vải” và được cuộc sinh hoạt dân ca ngoài dân gian. “đặc ban cho được đi lại ra vào” trong cung Chứng tích của việc tham dự những sinh cấm “không khác gì quan nội giám”(27). Do hoạt dân ca tại làng khác ở quê nhà xứ có tài ca nhạc, mỗi khi “chúa Trịnh thưởng Nghệ đã được lưu lại rõ nét trong hai tác ca, thường sai Nguyễn Khản ngồi hầu”. phẩm Thác lời trai phường nón và Văn tế Thậm chí, ông còn được “ngồi ngay bên sống Trường Lưu nhị nữ. cạnh, cầm chầu điểm hát”(28). sống giữa bối Nhờ tham dự và giao lưu nhiều với giới cảnh gia đình người anh như thế, ngay từ cầm ca, sự am hiểu âm nhạc của Nguyễn thuở nhỏ, Nguyễn Du đã thụ hưởng các kiến Du cũng ngày một thêm sâu sắc. Ầm nhạc thức âm nhạc và thẩm thấu sâu đậm âm dần lặn sâu vào con người ông, để trở nên hưởng dòng ca nhạc bác học nơi cung vua một tư chất đậm nét trong con người nhà phủ chúa. thơ. Tư chất ấy được bộc lộ ở nhiều khía Kí ức về những cuộc cầm ca và âm cạnh khác nhau và Truyện Kiều, hoặc chính hưởng của dòng ca nhạc này, mãi sau vẫn xác hơn - Đoạn trường tân thanh, là nơi tập còn được ghi nhận trong bài thơ về một trung đậm đặc nhất những khía cạnh bộc lộ “Danh độc thiên huyền cầm” ở Thăng Long tư chất âm nhạc nói trên, trong đó đặc biệt được mệnh danh là cô cầm mà thuở trẻ nổi bật là sự am hiểu tỉnh tường, sâu sắc về Nguyễn Du từng thưởng thức ngón đàn tại âm nhạc của nhà thơ(31). Đó chính là cội một cuộc dạ yến bên bờ hồ Giám. Trong bài nguồn của tư chất1đặc biệt này trong con thơ đó - Cầm giả dẫn (Long Thành cầm giả người ông, là căn nguyên tạo nên sự ngưng ca), tác giả có ghi rõ: cô cầm đã “Học được kết những hiện tượng liên quan tới âm nhạc khúc Cung phụng ở trong cung triều trước” trong Truyện Kiều đã được trình bày ở trên (Học đắc tiên triều cung trung Cung phụng và sẽ được trình bày trong mục tiếp theo. khúc/29\ Nhà thơ còn nhớ khúc nhạc từng 3. Âm nhạc - sợi chỉ đỏ trọng yếu nghe cô gảy và nhận ra “Đấy là tiếng đàn ở xuyên suốt nghệ thuật xây dựng Truyện trong cung Trung Hòa” (Tiện thị Trung hòa Kiều của Nguyễn Du đại nội â m )(30). Hai mươi năm sau, ông vẫn nhận ra “cựu khúc tân thanh” năm xưa giữa Như đã trình bày, âm nhạc là một trong một cuộc đàn hát của các ca nhi ưẻ. Trí nhớ những kiến thức mà các nho sinh thuộc giới âm nhạc tuyệt vời đó, ông có được hẳn là thượng lưu thời phong kiến đều được trang nhờ môi trường đặc biệt đã được sống từ bị trong khi học ở trường. Do vậy, không thuở thiếu thời. lấy làm lạ khi nhiều nhà nho và quan lại xưa kia tuy không sống bằng nghề cầm ca, Cũng chính từ môi trường học hiệu và gia đình nói trên, kiến thức, sở thích cũng nhưng lại có kiến thức về âm nhạc. như năng khiếu âm nhạc dần định hình Tuy nhiên, tùy theo tư chất của từng trong con người chàng trai trẻ. Tình yêu và người mà sở trường, năng khiếu âm nhạc
  11. TẠP CHÍ VHDG s ố 2/2013 13 cũng như sự bộc lộ và vận dụng kiến thức Quả thật, có thể bắt gặp trong Truyện âm nhạc của từng người có sự khác biệt. Kiều nhiều trường hợp, thay vì dùng các từ Chẳng hạn, Phạm Đình Hổ, tuy tự nhận là ngữ thông thường, Nguyễn Du lại dùng một “câu ca, bản đàn thoảng qua ngoài tai rồi lại hình tượng hoặc trạng thái tâm lí liên quan lờ mờ không hiểu gì cả”(32\ song cũng đã tới âm nhạc hoặc người nhạc công, cây đàn có những mục riêng để Bàn về âm nhạc và để diễn tả lòi nói, hành động, cử chỉ hoặc Đàn trong những đoạn tùy bút viết khi trời tâm trạng. Xin điểm qua một vài ví dụ: mưa, mà những người nghiên cứu âm nhạc Khi thì Nguyễn Du vận dụng tâm lí của thời nay vẫn còn chưa khai thác hết những người chơi đàn để đưa vào lời của chàng điều tiềm ẩn trong đó. Nhà bác học Lê Quý Thúc Sinh đang say đẳm với duyên mới, nài Đôn thì dẫn giải, bàn luận sâu về những nỉ, phân bua với cha vì sao mình kiên quyết khía cạnh nhạc lí trong cuốn bách khoa toàn không chịu bỏ nàng thiếp mới cưới: “Ôm thư Vân đài loại ngữ của mình. Còn Cầm ai nỡ dứt dây cho đành”. Nguyễn Du lại vận dụng kiến thức và sở Khi ông lại biến sự am hiểu về cuộc thích, năng khiếu âm nhạc vào một lĩnh vực hòa đàn thành lời khuyên thấu tình đạt lí khác. Đó là nghệ thuật sáng tác văn thơ. của viên quan phủ khuyên nhủ người cha Ở Truyện Kiều, sở thích, năng khiếu và đừng chia rẽ tình duyên đang êm đẹp của những hiểu biết sâu sắc về âm nhạc của đôi trẻ rất xứng đôi vừa lứa, bằng câu đã Nguyễn Du được vận dụng và phát huy một dẫn ở tiểu mục 1.1.: “Làm chi lỡ dịp cho cách rất phong phú, đa dạng. Chỉ riêng việc đàn ngang cung”. tìm hiểu cách mà nhà thơ đã biến ăm nhạc Lại có lúc Nguyễn Du dùng hình tượng thành một nhân tổ trọng yếu trong thi phẩm cây đàn, dây đàn hoặc vật dụng khác liên của mình như thế nào cũng đủ cho thấy sự quan tới nó để thể hiện những tâm trạng, phong phú đa dạng nói trên. tình tiết khác nhau: Xin để sang một bên những đoạn tả - Để thể hiện trạng thái của Kim Trọng nhân vật gảy đàn vốn đã cỏ sẵn trong Kim khi tương tư hai nàng họ Vương, ông viết: Vân Kiều của Thanh Tâm tài nhân - nhung Phòng văn hơi giả như đồng, được Nguyễn Du phát triển thêm, để đi vào Trúc se ngòi thỏ, tơ chùng phím loan. một số hiện tượng khác. - Còn đây là lời Hồ Tôn Hiến lân la tính 3.1. Vận dụng tri thức âm nhạc để thể chuyện trăng hoa với Kiều: hiện cả những tình tiết không liên quan gì Dậy rằng: "Hương hỏa ba sinh tới âm nhạc Dây loan xỉn nối cầm lành cho ai. ” Không chỉ vận dụng tri thức âm nhạc và lời nàng từ chối: để tô đậm nội tâm trong những đoạn tả nhân vật gảy đàn, Nguyễn Du còn sừ dụng Còn chi nữa cánh hoa tàn, tri thức đó vào cả những tình tiết khác, mà Tơ lòng đã dứt dây đàn Tiểu lâ n (33). tưởng như không thể đưa những chi tiết liên - Khi Thúy Kiều, Kim Trọng nhắc tới quan tới âm nhạc vào được. mối quan hệ vợ chồng, Nguyễn Du lại
  12. 14 NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl mượn hình tượng hai nhạc cụ luôn đi cặp yếu tổ ăm nhạc. Lí do có thể bắt nguồn từ đôi với nhau: “Đem tình cầm sắt đổi ra cầm chính lợi thế của những trường đoạn thơ với cờ”, hoặc “Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm”. những chuỗi dài các câu kế tiếp nhau, “do” - Đen cả lời Thúy Kiều nhờ cậy em gái nàng Kiều và cả Kim Trọng, Thúc Sinh tức thay mình thực hiện lời thề ước lỡ dở với hứng những lúc ở bên nhau hoặc khi ở lầu chàng Kim cũng chứa đựng từ ngữ liên xanh của Tú Bà. Tự thân nó đã khiến cho quan tới nhạc cụ: dung lượng của phần thơ trở nên đồ sộ, ứội bật hơn nhiều so với những đoạn tả nàng Giữa đường đứt gánh tương tư, Kiều gảy đàn. Keo loan chẳp mối tơ thừa mặc em. Trong khi đó, vào Truyện Kiều, Nguyễn Còn có thể kể thêm những trường hợp Du lại không khai thác yếu tổ thơ gắn với khác mà chúng tôi đã đưa vào những phần tài thi phú của Kiều. Thay vào đó, bằng viết ở trên, hoặc sẽ dẫn trong một chuyên nhiều cách khác nhau, nhà thơ tô đậm yếu đề khác... tổ âm nhạc khiến cho nó trở thành nổi bật, Có thể nói, trong việc khai thác sâu nội thậm chí trở thành yếu tố duy nhất gắn các tâm các nhân vật và thể hiện các tình tiết sự kiện rải rác trong truyện. Hai trong trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, âm những thủ pháp khiến cho yếu tố âm nhạc nhạc luôn là một người đồng hành “trung trở nên nổi bật, đậm nét hơn, chính là việc thành ” và đắc lực, có mặt trong nhiều tình mở rộng dung lượng một số đoạn tả Thúy huổng khác nhau. Hệ quả của việc vận Kiều gảy đàn và đưa thêm nhiều chi tiết dụng linh hoạt kiến thức âm nhạc vào liên quan tới âm nhạc vào những tình tiết những tình huống đa dạng lại dẫn tới hiện không liên quan gì tới âm nhạc đã được tượng thứ hai sau đây: nhắc tới qua hoặc đã được trình bày ở phía 3.2. Âm nhạc trở thành yếu tổ nỗi bật trên - mặc dù các dẫn chứng đưa ra còn chưa hết. Nguyên nhân đầu tiên khiến và đậm nét hơn so với yếu tế thơ trong cốt Nguyễn Du không khai thác yếu tố thơ gắn truyện với tài thi phú của Kiều có lẽ có liên quan Trước hết, không thể phủ nhận rằng tới đặc trưng thể loại văn học mà ông chọn trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm để tái tạo thiên tình sử này - vốn đã là thơ. tài nhân, vốn đã cỏ sẵn yểu tố âm nhạc. Thơ Tất nhiên, một nguyên nhân không kém và nhạc - gắn với tài thi phủ và ngón hồ phần quan trọng khác khiến cho yếu tố âm cầm sở trường của Thúy Kiều, là hai yếu tố nhạc được tô đậm lên còn bắt nguồn từ được Thanh Tâm tài nhân giới thiệu ở ngay chính cuộc sống, tư chất và sở thích, năng đầu tác phẩm. Chúng đồng hành tạo nên sợi khiếu âm nhạc của tác giả. chỉ đỏ xuyên suốt của đời ba đào, chìm nổi Ngoài ra, việc tô đậm yếu tố âm nhạc bi đát của nhân vật chính. trong thi phẩm của Nguyễn Du cũng liên Tuy nhiên, trong tiểu thuyết của Thanh quan mật thiết với hiện tượng thứ ba sau Tâm tài nhân, yếu tố thơ nỗi trội hơn hẳn đây:
  13. TẠP CHÍ VHDG SỐ 2/2013 15 3.3. Sử dụng âm nhạc làm nhân tổ cốt đó các chi tiết liên quan tới âm nhạc được lõi trong kết cấu mô hình kịch bản của tác bổ sung vào những tình tiết khác cũng góp phẩm phần thêm vào việc làm cho âm nhạc trở Không thể trình bày chi tiết, tỉ mỉ các thành yếu tố đậm nét trong thi phẩm của ngõ ngách của hiện tượng này trong bài viết Nguyễn Du, thay vì thơ như trong tiểu nhỏ, chúng tôi chỉ xin nêu vắn tắt như sau: thuyết của Thanh Tâm tài nhân. Nó giống như một sợi dây liên kểt các tình tiết éo le, Khác với lối viết của Thanh Tâm tài phức tạp của cốt truyện, khiến cho - dẫu bị nhân trong tiểu thuyết Kìm Vân Kiều, cuốn hút bởi các tình tiết trong truyện, những âm thanh âm nhạc thể hiện tiếng đàn người đọc vẫn có ấn tượng khó mờ đối với của hai nhân vật chính - Thúy Kiều và Kim yếu tố âm nhạc thấm đẫm trong thi phẩm. Trọng, trong những giai đoạn khác nhau của cuộc đời ba chìm bẩy nổi đầy bi thương Hơn nữa, việc sử dụng âm nhạc làm cùng chuyện tình trắc trở éo le của nàng, đã yếu tố cốt lõi trong xây dựng sơ đồ kết cấu được mô tả k ĩ lưỡng hơn và có sự cân nhắc, chung của toàn bộ tác phẩm còn liên quan chọn lọc, sắp đặt theo một sơ đồ phù hợp mật thiết với việc đổi tên truyện như sẽ với diễn biển của các tình tiết, nội dung được bàn luận ở tiểu mục tiếp theo. chỉnh, cũng như kết cẩu tỉnh kịch của tác 3.4. Đ ổi tên truyện thành Đoạn trường phẩm. Có thể khái quát sơ đồ đó bằng ba tân thanh chặng sau đây: Cái tên Truyện Kiều lâu nay vẫn được - Mở đầu u ám: Khúc Bạc mệnh oán dùng phổ biến thực ra chỉ là tên gọi “nôm não nùng - điềm báo về cuộc đời bi thảm na” mà người dân đặt cho thi phẩm kiệt của Thúy Kiều cùng với lời tiên đoán của xuất của Nguyễn Du sau khi nó được truyền Đạm Tiên. bá rộng rãi và được đông đảo công chúng - Triển khai các dữ liệu đã đưa ra ở đón nhận như sách gối đầu giường. Cái “tên Phần Mở đầu và sự phát triển ngày càng chữ” mà tác giả chính thức đặt cho nó là cao của tính kịch: sự lỉnh nghiệm của điềm Đoạn trường tân thanh. Với người bình dân báo trong khúc Bạc mệnh oán do Kiều sáng không biết chữ nho, cái tên này khó nhớ, tác từ thuở niên thiếu và lời tiên đoán của khó hiểu hơn nhiều so với cái tên giản dị mà dễ nhớ theo cách đơn giản hóa tối đa Đạm Tiên. điều mà họ muốn ghi lòng - “truyện về - Tái hiện tưoi sáng: Tái hồi Kim - Kiều nàng Kiều”: Truyện Kiều. Đó cũng là lối và cuộc sống hạnh phúc của bệ ba Kim - Vân gọi hay gặp ở các bài dân ca và cũng là - Kiều còn lưu muôn thuở trong những tiếng cách người dân thường tự thay đổi các “tên đàn êm ấm vui vầy. chữ” thành ra “tên nôm na”. Chẳng hạn, Theo sơ đồ kết cấu trên, các chi tiết liên bài Trúc xỉnh là bài có mấy chữ mở đầu quan tới âm nhạc được rải ra gần khắp các bằng: “Cây trúc xinh.. - hoặc lời thơ dùng hồi luôn bám rất sát diễn biển chính của kết để phổ cho bài hát ẩy bắt đầu bằng “Trúc cấu kịch tỉnh cũng như những gì đã được xinh trúc mọc đầu đình.. đình môn ca thì "mồi ” ở phần đầu của tác phẩm. Bên cạnh thành hát cửa đình... Thế nên, lâu dần, hầu
  14. 16 NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl như chẳng mấy ai nhắc và nhớ tới cái tên Cùng với hai lần xuất hiện tên khúc chính thức mà người sinh thành ra thi phẩm nhạc trên, cụm thơ thứ hai được dẫn trên ấy đã ghi trong “bản đăng kí khai sinh” cho đây lại như ngầm biểu hiện dụng ý nhấn nó. mạnh và lí giải vì sao có chữ tân thanh Tuy nhiên, tên gọi mà Nguyễn Du đặt trong tên gọi mới dùng để đặt cho thi phẩm cho thi phẩm này không phải là “vô tình”, này thay cho tên Kim Vân Kiều - mặc dù cả mà hoàn toàn hữu ý. Nó chứa đựng nhiều hai đều cùng chung một cốt truyện. ngụ ý khác nhau. Bởi vì, một trong những ý Có lẽ, với sự nhạy cảm và tinh tế của tưởng dẫn dắt nhà thơ chọn tên đó để đặt mình, Nguyễn Du đã bắt rất nhanh chi tiết cho thi phẩm của mình chính là khúc Bạc Thanh Tâm tài nhân viết ở hồi cuối của mệnh oán và những âm thanh sầu não thê huyện, khi tác giả cho Thúy Kiều nói với lương của ngón hồ cầm cứ da diết bám lấy Kim Trọng rằng: “Từ nay về sau [chàng] nàng Kiều suốt quãng đời đằng đẵng từ không thể được nghe [tiếng đàn âu sầu ủ dột thuở thiếu thời cho tới lúc gặp lại chàng ấy] nữa đâu”(34). Bởi vậy, trong cụm thơ thứ Kim, khiến bao lần nàng đau dớn đứt ruột. hai ở gần cuối truyện đã hội tụ gần đủ những Đó đồng thời là ngụ ý chứa trong từ Đoạn ngụ ý đặt trong việc Nguyễn Dụ đưa vào trường được dùng trong tên gọi mới. những chi tiết mới - “khúc đoạn hàng”, Ý tưởng trên lại liên quan tới một chi “Đoạn trường tiếng ấy” cũng như việc dùng tiết nhỏ khác, nhưng rất đáng lưu ý. Đó là thêm từ tân thanh hong tên thi phẩm, và là cái tên “khúc Đoạn trường” mà nhà thơ đã một hong những ngụ ý của việc đổi tên thi khéo kín đáo gài vào thi phẩm của mình. phẩm thành Đoạn trường tân thanh. Với bốn Nó bổ sung cho khúc Bạc mệnh oán mà câu thơ đó - đặc biệt là câu cuối, dường như Thanh Tâm tài nhân khắc họa khá kĩ trong tác giả ngầm báo trước: câu chuyện lỉên quan tiểu thuyết của ông. Tên gọi mới này được tới khúc Đoạn trường và quãng đời ba chìm nhắc tới hai lần. Một - trong Hồi 14, ở gần bày nổi điêu đứng, đau khổ đến cùng cực của cực đỉnh cao trào của tính kịch trong cuộc nàng Kiều sẽ khép lại từ đây. Một tương lai đời ba đào của Thúy Kiều: hạnh phúc, yên bình sẽ mở ra cùng với những Tiểu thư lại thét lấy rằng: âm thanh mới (tân thanh) đầm ấm, vui vầy(35). “Cuộc vui gẩy khúc đoạn tràng ẩy chỉ! ” Tất cả những điều trên phải chăng cũng Một lần nữa - ở Hồi 20, gần cuối chính là căn nguyên dẫn tới việc sử dụng truyện, khi đôi tình nhân được tái hợp hạnh trong Truyện Kiều của Nguyễn Du các thủ phúc, cùng nhắc lại chuyện xưa, khúc nhạc pháp: tăng cường các yếu tổ liên quan tới cũ: âm nhạc - sử dụng âm nhạc như phương Nàng rằng: “Vĩ chút nghề chơi, tiện, nhân tố cốt lõi cho việc xây dựng kết Đoạn trường tiếng ấy hại nguờỉ cấu kịch bản của truyện - nhấn mạnh cái bẩy lâu. tên khúc “Đoạn trường” - và đổi tên truyện Một phen tri kỉ cùng nhau, từ “Kìm Vân K iều” thành “Đoạn trường Cuốn dây từ đẩy, về sau cũng chừa ”. tân thanh ’’? Âm nhạc đã trở thành sợi chỉ
  15. TẠP CHÍ VHDG SỐ 2/2013 17 đỏ trọng yếu xuyên suốt nghệ thuật xây sửa soạn cờ quạt, cỗ nhạc, kiệu hoa có chữ “Hỷ” dựng Truyện Kiều của Nguyễn Du là vì vậy. đò, đưa hai người song song về nhà”. Còn trong bản dịch KVK/TKđch hoàn toàn không có chi tiết Dù thế nào chăng nữa, tựu trung, tất cả nào liên quan tới âm nhạc. dường như đều có cội nguồn sâu xa và quan (10) Tức là “Khúc Phượng cầu hoàng của Tư hệ mật thiết với sở thích đối với âm nhạc, Mã Tương Như để quyến rũ người đẹp Trác Văn năng khiếu và tư chất âm nhạc đậm nét Quân. Lời hát du dương: “Phượng hề, phượng hề, trong con người nhà thơ. Sở thích, năng quy cố hương, ngao du tứ hải cầu kỳ hoàng...”” khiếu và tư chất đó còn tạo nên những ảnh (Theo chú thích 201 trong TK cNđã dẫn, tr. 75.) hưởng quan trọng khác đối với nghệ thuật (11) “Khúc Quảng Lăng Tán của Kê Khang, xây dựng và tái tạo tác phẩm - điều mà đời Tấn”. (Theo chú thích 202 trong TKcN đã dẫn, chủng tôi sẽ còn phải trở lại với đề tài tr. 75.) Truyện Kiều và nghệ thuật âm nhọc để giãi (12) Theo chú thích 203 trong TKcN, “Hoa bày nốt những suy ngẫm, nhận thức và cả Nhạc, Quy Vân là hai khúc nhạc xuất xứ ở khúc xúc cảm cùng sự phấn hứng, ngưỡng mộ Quảng Lăng" của Trung Hoa (sách đã dẫn, tr. 75). khi đến với Truyện Kiều trong những lần Tuy nhiên, chỉ riêng TKcN có tên hai khúc nhạc đọc này. này. N.T.L (13) Tên hai bản nhạc này nằm ở câu tương CHỦ THÍCH ứng với câu có tên hai bản Hoa Nhạc và Quy Vân đã dẫn ở trên. Đáng lưu ý là, thay vì Hoa Nhạc và (1) Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2008. Quy Vân, tên hai bản Lưu thủy, Hành vân lại được (2) Nxb. Hà Nội, 1991. nhắc đến trong nhiều bản phiên Truyện Kiều của (3) Theo Phạm Đan Quế, Truyện Kiều đối Nguyễn Du hơn. Chẳng hạn, theo chú thích 203 chiếu đã dẫn, tr. 12 - 13. trong TKcN, đó là ba bản có kí hiệu viết tắt: B-T (4) Theo Phạm Đan Quế, sđd, tr. 17. (của Bùi Kỷ - Trần Trọng Kim, do Nxb. Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh in lại, 1999, là bản được in (5) Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2004. nhiều, phổ biến sớm và rộng từ khoảng từ những (6) Bìa trong thứ hai của cuốn sách này có nãm 20 của thế kỉ XX - TKcN, tr. 6) và TT12 ghi: Les classiques Annamites, Bibliothèque des (Tổng tập Văn học Việt Nam, tập 12), NTG Mécènes, Edition Mondaine, Tiên - Điền Nguyễn (Truyện Kiều của Nguyên Thạch Giang khảo Du, Truyện Kiều (Đoạn trường tăn thanh'), Nông chú). Ngoài ra, ở hai bản phiên âm khác đã dẫn ở Sơn Nguyễn Can Mộng Hiệu - đính và chú - đầu bài này - TK1937 (tr. 40) và TKđch (tr. 109) thích, Hà Nội, Imprimerie d’Extreme - Orient, cũng đều viết tên hai bản Lưu thủy, Hành vân. 1937. (\4)KVKtr đã dẫn, tr. 42. (7) Ban Vận động thành lập Hội Kiều học Việt Nam tổ chức xuất bàn, Nxb. Văn học, Hà (15) KVK/TKđch đã dẫn, tr. 102. Nội, 2010. (16) Vấn đề này sẽ được bàn trong một (8) Đoạn tương ứng trong cả hai bản dịch chuyên đề khác. Kim Vân Kiều của Thanh Tâm tài nhân đều không (17) Theo chú thích 204 trong TKcN, khi có chi tiết nào liên quan tới âm nhạc. phải đi cống Hồ, lúc qua ải, nàng Chiêu Quân gẩy (9) Ở đoạn tương ứng trong bản dịch KVKtr đàn tì bà, bộc lộ nỗi nhớ nước nhớ nhà (sđd, tr. (tr. 138) chỉ ghi như sau: “Quan phủ hối tả hữu 76).
  16. 18 NGHIÊN CỨU - TRAO Đổl (18) Theo chú thích 200 của TKcN (tr. 74), (25) Phạm Đình Hổ, Vù trung tùy bút, sách trong bản Truyện Kiều của B-T dùng chữ “So”. đã dẫn, tr. 40. Chữ nghiêng đậm do chúng tôi Trong TKđch (tr. 108) và TK1937 (tr. 40) cũng nhấn mạnh. đều dùng chữ “So”. Riêng bản TKcN (câu 471, tr. (26) Phạm Đình Hổ, Vũ trung tùy bút, “Nhà 74) dùng chữ “Lựa”. Ngoài ra, so dây và dạo đàn họ Nguyễn...” đã dẫn, tr. 175. trước khi chơi vào bản đàn là một nguyên tắc mà (27) Phạm Đình Hổ, Vũ trung tùy bút, “Nhà người chơi cổ nhạc thường phải thực hiện. Vì vậy họ Nguyễn...” đã dẫn, tr. 175. chúng tôi dùng câu phiên âm có chữ “So” trên (28) Phạm Đình Hổ, Vũ trung tùy bút, “Nhà đây. họ Nguyễn...” đã dẫn, tr. 175. (19) Chi tiết trên đây hoàn toàn không có, (29) Đỗ Bằng Đoàn - Đỗ Trọng Huề, Việt hoặc không rõ ràng đầy đủ như trong Truyện Kiều Nam ca trù biên khảo, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh (in của Nguyễn Du. Chẳng hạn, trong bản dịch KVKtr lại), 1994, tr. 180 và 176. hoàn toàn không có chi tiết nào tương ứng với hai (30) Đỗ Bằng Đoàn - Đỗ Trọng Huề, sđd, tr. câu thơ trên: 181 và 177. Chúng tôi nghĩ rằng có lẽ thay từ "tiếng “Thúy Kiều nói: đàn" bằng từ "khúc" [khúc nhạc] như ưong bàn dịch - Chàng chung tình như thế, thiếp chết cũng của Bùi Khánh Đản (tr. 179) thì sát họp hơn. đáng đời, tiếc gì không gây! (31) Nguyên nhân của hiện tượng này sẽ Liền đưa mấy ngón tay thon nhỏ, khua động được trình bày trong một chuyên đề khác. dây tơ, ban đầu nghe như hạc kêu, (...)” (sđd, (32) Phạm Đình Hổ, Vũ tung tùy bút, sđd, tr. 18. tr. 42). (33) Theo chú thích 822 trong cuốn TKcN, Còn trong bản dịch KVKITKđch, chi thấy “Tiểu Lân là vợ vua Tề, (...) sau phải lấy Đường nhắc tới dây võ, dây văn - không có chi tiết liên Đại Vương, nhân khi gảy đàn đứt dây, có câu thơ quan tới dây to, nhỏ: “(...) Nói xong nàng bèn ôm rất ai oán: “Dục tri tâm đoạn tuyệt, ưng khán tất lấy cây đàn, so lần dây văn dây võ phát ra những thượng huyền” - Muốn thấy tơ lòng đứt nát, hãy tiếng trong trẻo như hạc trên mây, (...)”. (sđd, nhìn sợi dây đàn trên gối này” (Sách đã dẫn, Tái tr. 102). bản lần thứ nhất có sửa chữa, Sưu tầm, khảo chú và chế bản Nôm: Nguyễn Thế - Phan Anh Dũng, (20) Xin xem KVKtr đã dẫn, tr. 249 và Hiệu đính chữ Nôm: Nhà giáo ưu tú Nguyễn Đình KVK/TKđch, tr. 431 - 432. Thắng, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2004, ứ. 337). Ở (21) Chúng tôi sẽ trở lại bản thêm về câu thơ đây Nguyên Du đã sử dụng có biến hóa điển tích này trong một dịp khác. trên. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một (22) Chúng tôi cũng sẽ trình bày tỉ mỉ những chuyên đề khác. suy nghĩ liên quan tới vấn đề này trong một dịp (34) KVKtr, tr. 260. Trong KVK/TKđch cũng khác. có câu tương tự: “Từ đây về sau thiếp sẽ cuốn dây, mà chàng cũng không được nghe lần nữa (23) Phạm Đình Hổ (1972), Vũ trung tùy bút, đó.” (tr. 444). Chi tiết “cuốn dây” ở bản dịch này, dựa theo bản dịch của Đông Châu Nguyễn Hữu chúng tôi e rằng là do ảnh hưởng Truyện Kiều của Tiến, Trương Chính giới thiệu và chú thích, Nxb. Nguyễn Du. Văn học, Hà Nội, “Nhà họ Nguyễn ở Tiên Điền”, tr. 174. (35) về việc Nguyễn Du đổi tên truyện và ý nghĩa của tên gọi mới, chúng tôi sẽ còn trở lại (24) Phạm Đình Hổ, Vũ trung tùy bút, “Nhà trong một dịp khác. họ Nguyễn...” đã dẫn, tr. 177.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0