intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tác động của bảo hộ thương mại đến xuất khẩu nông sản của Việt Nam và một số kiến nghị

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:17

46
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết này đánh giá thực trạng phát triển xuất khẩu hàng nông sản và thực trạng tác động của bảo hộ thương mại đến phát triển xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam trong giai đoạn 2011-2020, từ đó đề xuất giải pháp phát triển xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam dưới tác động của bảo hộ thương mại giai đoạn 2021 - 2030.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tác động của bảo hộ thương mại đến xuất khẩu nông sản của Việt Nam và một số kiến nghị

  1. TÁC ĐỘNG CỦA BẢO HỘ THƯƠNG MẠI ĐẾN XUẤT KHẨU NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ PGS,TS. Doãn Kế Bôn, ThS. Vũ Anh Tuấn Trường Đại học Thương mại Tóm tắt: Trong giai đoạn vừa qua, nền kinh tế thế giới có nhiều biến động phức tạp, nhiều quốc gia quay trở lại chính sách thúc đẩy sản xuất công nghiệp để thay thế hàng nhập khẩu, dựng nên các rào cản thương mại khác nhau để bảo vệ nền sản xuất trong nước. Trong bối cảnh đó, xuất khẩu nông sản của Việt Nam gặp nhiều khó khăn bởi các quy định của các quốc gia nhập khẩu. Bài viết này đánh giá thực trạng phát triển xuất khẩu hàng nông sản và thực trạng tác động của bảo hộ thương mại đến phát triển xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam trong giai đoạn 2011-2020, từ đó đề xuất giải pháp phát triển xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam dưới tác động của bảo hộ thương mại giai đoạn 2021 - 2030. Từ khóa: Bảo hộ thương mại, nông sản, xuất khẩu nông sản IMPACTS OF TRADE PROTECTION ON VIETNAM'S AGRICULTURE EXPORT AND SOME RECOMMENDATIONS Abstract: In the recent period, the world economy has experienced many complicated changes, many countries have returned to the policy of promoting industrial production to replace imports, setting up trade barriers to protect their domestic production. In that context, Vietnam's agricultural exports face many difficulties due to regulations of importing countries. This article evaluates the current situation of agricultural product export development and the current status of the impact of trade protection on the development of Vietnam's agricultural exports in the period 2011-2020, thereby proposing solutions to develop the agricultural products. export of Vietnamese agricultural products under the impact of trade protection in the period of 2021 - 2030.. Keywords: Trade protection, agricultural products, agricultural product export 1. Mở đầu Việt Nam là quốc gia có lợi thế trong xuất khẩu nông sản. Trong giai đoạn 2014 - 2020, giá trị hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu có tỷ lệ tăng bình quân 12,7%/năm, đóng góp lớn vào kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản năm 2020 đạt khoảng 41,2 tỷ USD, duy trì 9 nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, trong đó có 5 mặt hàng có kim ngạch trên 3 tỷ USD. Trong giai đoạn vừa qua, tình hình kinh tế, chính trị thế giới tiếp tục có nhiều biến động và diễn biến phức tạp. Ngày càng nhiều quốc gia quay trở lại chính sách bảo hộ đối với hàng nông sản, dựng nên các rào cản thương mại khác nhau để bảo vệ nền sản xuất trong nước. Do đó, trong bối cảnh bảo hộ thương mại có xu hướng gia tăng trong thời gian 252
  2. tới, nông sản xuất khẩu của Việt Nam cần chuẩn bị, nâng cao năng lực trong nước để ứng phó hiệu quả với những tác động tiêu cực từ các diễn biến của thương mại quốc tế. Trên cơ sở xem xét thực trạng xuất khẩu nông sản của Việt Nam và thực trạng bảo hộ thương mại ở một số thị trường xuất khẩu nông sản chính của Việt Nam, nhóm nghiên cứu đưa ra các đề xuất nhằm phát triển xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam dưới tác động của bảo hộ thương mại 2. Cơ sở lý luận về tác động của bảo hộ thương mại đến xuất khẩu nông sản Khái niệm và nội dung bảo hộ thương mại Bảo hộ thương mại là hoạt động của chính phủ sử dụng các chính sách về thuế quan và phi thuế quan nhằm cản trở hàng nhập khẩu. Theo Abboushi (2010) thì Bảo hộ thương mại hay là tổng hợp những chính sách thương mại của Chính phủ nhằm hỗ trợ các nhà sản xuất trong nước cạnh tranh với các nhà sản xuất nước ngoài trong một ngành cụ thể bằng các biện pháp như tăng giá sản phẩm nhập khẩu, giảm chi phí cho các nhà sản xuất trong nước và hạn chế các nhà sản xuất nước ngoài tiếp cận thị trường trong nước Các chính sách về thuế quan là sử dụng mức thuế nhập khẩu cao đánh vào hàng nhập khẩu làm giá hàng nhập khẩu tăng cao so với hàng sản xuất trong nước, làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng nhập khẩu. Các chính sách về phi thuế quan chủ yếu sử dụng các biện pháp về hàng rào kỹ thuật TBT và SPS, các biện pháp phòng vệ thương mại (chống bán phá giá, trợ cấp, tự vệ), và các biện pháp liên quan đến quy tắc xuất xứ, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ...Nhưng sử dụng phổ biến nhất đối với hàng nông sản, vẫn là các biện pháp về hàng rào kỹ thuật và phòng vệ thương mại Tác động của bảo hộ thương mại đến xuất khẩu nông sản Nông sản là nhóm hàng nhạy cảm bởi liên quan đến vấn đề an ninh lương thực của quốc gia. Vì vậy, các quốc gia thường thực thi chính sách thuế quan và phí thuế quan để bảo hộ ngành nông nghiệp. Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh xuất khẩu bị tác động trực tiếp bởi chính sách thuế của nước nhập khẩu. Khi thuế nhập khẩu cao sẽ làm giảm sức cạnh tranh về giá của sản phẩm xuất khẩu trên thị trường nhập khẩu, từ đó làm giảm kim ngạch xuất khẩu, tác động bất lợi đến hoạt động xuất khẩu chung của nhà xuất khẩu. Ở một góc nhìn khác thì thuế nhập khẩu cao có tác dụng thúc đẩy nhà xuất khẩu cạnh tranh bằng chất lượng hoặc chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu nhằm giảm rủi ro về thuế. Doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh xuất khẩu chịu cả những tác động tích cực và tác động tiêu cực bởi chính sách phi thuế quan của nước nhập khẩu. Tác động tích cực của chính sách phi thuế quan là doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh xuất khẩu cần thay đổi tư duy để tuân thủ, đáp ứng các yêu cầu phi thuế quan và cạnh tranh bằng chất lượng. Từ đó doanh nghiệp cũng có kế hoạch thay đổi phương thức, quy trình kinh doanh, đầu tư vào khoa học công nghệ để chuyển từ sản xuất, xuất khẩu hàng hóa chất lượng thấp, giá thấp, không đáp ứng được tiêu chuẩn, dễ bị áp biện pháp phòng vệ thương mại sang sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản có chất lượng cao, bảo 253
  3. đảm & đáp ứng quy định của thị trường nước nhập khẩu. Bên cạnh đó, các chính sách phi thuế quan cũng thúc đẩy việc tăng cường mở rộng liên kết giữa các doanh nghiệp của nước xuất khẩu và sự chuyển dịch cơ cấu mặt hàng, cơ cấu thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp. Ngoài tác động tích cực thì việc sử dụng các biện pháp bảo hộ phi thuế quan cũng sẽ đưa đến những tác động tiêu cực không nhỏ với doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh xuất khẩu. Cụ thể: Thứ nhất, tác động từ sự không chắc chắn và không minh bạch (so với thuế quan) của các rào cản phi thuế. Thứ hai, tác động đến quy mô thương mại, đến giá cả và phúc lợi của doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu nông sản. Thứ ba, tác động làm giảm năng lực và lợi thế cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu. Thứ tư, tác động đến chi phí thương mại, hoạt động xuất khẩu nông sản của doanh nghiệp và dòng chảy thương mại. Cuối cùng, khi cường độ áp đặt bảo hộ thương mại ngày gia tăng, nước nhập khẩu cũng tăng cường sử dụng các biện pháp phòng vệ thương mại (chống bán phá giá, chống trợ cấp, biện pháp tự vệ), doanh nghiệp của nước xuất khẩu có thể phải đối mặt với các vụ điều tra. Để nghiên cứu tác động của bảo hộ thương mại đến xuất khẩu nông sản Việt nam, chúng tôi tập trung nghiên cứu các nội dung sau: (1) Mức độ bảo hộ thương mại tại một số thị trường xuất khẩu nông sản chính của Việt nam; (2) Nhận thức của doanh nghiệp xuất khẩu nông sản với các rào cản bảo hộ; (3) Mức độ tác động của các rào cản bảo hộ đến hoạt động xuất khẩu nông sản của doanh nghiệp; (4) Tác động của việc đáp ứng tiêu chuẩn phi thuế của thị trường nhập khẩu tới mục tiêu của doanh nghiệp xuất khẩu 3. Phương pháp nghiên cứu Để cung cấp thông tin cho bài viết, nhóm nghiên cưu đã thu thập dữ liệu thứ cấp từ các nguồn như WTO, Bộ Công Thương, Hải quan, các tổ chức phi chính phủ để có được dữ liệu kết quả xuất khẩu nông sản và thực tế bảo hộ thương mại tại các thị trường xuất khẩu trọng điểm như Mỹ, EU và Trung Quốc. Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu sử dụng kết quả điều tra sơ cấp từ việc khảo sát bằng bảng hỏi. Bảng hỏi được thiết kế cho các nhóm đối tượng doanh nghiệp sản xuất hàng nông sản, doanh nghiệp thu mua - chế biến nông sản, doanh nghiệp xuất khẩu nông sản và các chuyên gia/nhà quản lý tại 12 tỉnh/thành phố như: Bắc Giang, Phú Thọ, Sơn La, Thái Nguyên, Gia Lai, Lâm Đồng, Kon Tum, Cần Thơ, Đồng Nai, Đồng Tháp, An Giang, TP Hồ Chí Minh. Thời gian phát phiếu hỏi được thực hiện từ tháng 7.2020 đến tháng 3.2021. Dữ liệu điều tra được tra được xử lý bằng phần mềm SPSS 23 để đánh giá để phân tích tác động của bảo hộ thương mại đến xuất khẩu nông sản Việt Nam, đặc biệt là tác động của chính sách thuế quan và chính sách phi thuế quan (tập trung vào hàng rào kỹ thuật và vệ sinh dịch tễ, biện pháp phòng vệ thương mại) 4. Kết quả nghiên cứu 4.1 Thực trạng bảo hộ thương mại ở một số thị trường xuất khẩu nông sản chính của Việt Nam 4.1.1. Thực trạng bảo hộ thương mại trên thế giới đối với hàng nông sản Bảo hộ thương mại bằng thuế quan Nhóm nghiên cứu sử dụng chỉ số về mức độ hạn chế nhập khẩu (Tariff Trade 254
  4. Restrictiveness Index-TTRI) để đưa ra các đánh giá và đưa ra nhận định đúng về xu hướng bảo hộ bằng thuế quan của các nước trên thế giới. Một xu hướng chung có thể nhận thấy là chính sách về thuế quan của tất cả các khu vực trên thế giới đều có chiều hướng giảm trong vòng ba năm qua. Điều này cho thấy, phần lớn các nước và khu vực trên thế giới đều ý thức được mức độ quan trọng của tự do hóa thương mại, và tạo nên một cộng đồng kinh tế toàn cầu với ít hàng rào và sự thuận lợi lớn cho các dòng hàng hóa. Hình 1. Trung bình chỉ số hạn chế nhập khẩu theo khu vực (TTRI) (Nguồn: UNCTAD) Dựa trên số liệu có thể thấy, nhóm các nước phát triển và các nền kinh tế chuyển tiếp có chỉ số hạn chế nhập khẩu thấp nhất (mức thuế quan thấp nhất). Đặc biệt là các nước có nền kinh tế chuyển tiếp, khi các quốc gia này thường có xu hướng mở rộng thương mại để thúc đẩy xuất nhập khẩu, giúp tăng cường khả năng cạnh tranh cũng như phát triển nền kinh tế. Bảo hộ thương mại bằng phi thuế quan Theo thống kê của WTO, tính đến tháng 6 năm 2021, các biện pháp liên quan đến vệ sinh dịch tễ (SPS) và hàng rào kĩ thuật (TBT) được sử dụng với số lượng nhiều hơn đáng kể so với các biện pháp khác như chống bán phá giá (AD) chống trợ cấp (CV) vv… Bảng 1. Số lượng các biện pháp được thông báo và còn hiệu lực tính đến 30/6/2021 SPS TBT AD CV SG SSG QR TQ Thông báo 17998 27886 249 50 50 0 0 0 Có hiệu 3496 3267 1911 211 72 652 1636 1274 lực (Nguồn: https://i-tip.wto.org/goods/Forms/GraphView.aspx) Từ số liệu của WTO về số lượng các biện pháp phi thuế được ban hành cũng như còn hiệu lực được thông báo bởi các nước thành viên trong khoảng giai đoạn 2017 - 2020, có thể thấy phần lớn các biện pháp phi thuế đều tăng trong số lượng ban hành trong khoảng 4 năm gần đây. Cụ thể, các biện pháp TBT và SPS tăng từ 1.001 và 1.734 biện pháp được ban hành trong năm 2017 lên 1.515 và 1.972 biện pháp được ban hành trong năm 2020, 255
  5. tăng khoảng 14% đến 22%. Ngoài ra, các biện pháp tự vệ (SG) cũng ghi nhận sự gia tăng trong các năm. Về tổng thể có thể thấy xu hướng tăng trong tổng số lượng các biện pháp phi thuế được sử dụng. Bảng 2. Số lượng các biện pháp phi thuế được sử dụng bởi các thành viên WTO trong năm 2017-2020 Năm SPS TBT AD CV SG QR Ban Còn Ban Còn Ban Còn Ban Còn Ban Còn Ban Còn hành hiệu hành hiệu hành hiệu hành hiệu hành hiệu hành hiệu lực lực lực lực lực lực 2017 1001 114 1734 219 246 202 41 18 15 7 445 0 2018 1316 3 2041 101 195 135 50 16 7 10 1 0 2019 1224 0 1986 143 198 160 35 34 38 21 0 0 2020 1515 0 1972 161 0 0 0 0 20 13 0 0 (Nguồn: https://i-tip.wto.org/goods/Forms/GraphView.aspx) Xét về số lượng và loại hình các biện pháp phi thuế có hiệu lực theo từng nhóm quốc gia hoặc khu vực. Bảng dưới thể hiện số lượng các biện pháp phi thuế được áp dụng tại các khu vực chính trên thế giới tính đến cuối tháng 6 năm 2020. Từ bảng 3 có thể nhận thấy, các khu vực khác nhau trên thế giới có số lượng các biện pháp phi thuế tương đối khác biệt nhau. Tính đến năm 2021, các nước thuộc khu vực Châu Á có số lượng biện pháp phi thuế được áp dụng cao nhất trong tất cả các khu vực.. Đứng thứ hai và thứ ba là các quốc gia thuộc Châu Mỹ, bao gồm các khu vực Bắc, Nam và Trung Mỹ. Các quốc gia thuộc khu vực EU có tổng số biện pháp áp dụng đứng thứ ba trên thế giới. Bảng 3. Số lượng các biện pháp phi thuế có hiệu lực tại các nhóm quốc gia là thành viên của WTO tính đến 30/6/2021 Khu vực SPS TBT AD CV SG SSG QR TQ Châu Phi 970 4783 65 0 22 0 50 82 Châu Á 6404 6774 781 43 36 364 1052 179 Cộng đồng các quốc gia độc lập 415 457 26 0 8 0 137 8 (CIS) EU 1948 5027 353 25 19 388 92 682 Các quốc gia kém phát triển (LCD) 565 3005 1 0 8 0 50 0 Trung Đông 1403 5454 12 0 19 0 0 12 Bắc Mỹ 5041 3401 596 184 4 496 164 84 Nam và Trung Mỹ 5262 5293 327 9 6 99 141 228 Nguồn: https://i- tip.wto.org/goods/Forms/MemberView.aspx?mode=modify&action=search 256
  6. 4.1.2. Thực trạng bảo hộ thương mại ở một số thị trường xuất khẩu nông sản chính của Việt Nam Bảo hộ thương mại bằng thuế quan Xét tại ba thị trường xuất khẩu nông sản chính của Việt Nam là Mỹ, EU và Trung Quốc có thể thấy xu hướng chung về việc giảm thuế ở ba thị trường này trong thời gian qua. Theo số liệu cung cấp bởi WTO, mức thuế MFN trung bình của Mỹ đối với tất cả các mặt hàng giữ ổn định tại mức 3.5% trong khoảng thời gian từ 2008 đến 2017. Sau đó có thuế quan MFN giảm 0.1% xuống mức 3.4% trong năm 2018 và tăng nhẹ trong năm 2019. Tuy vậy, có thể thấy một xu hướng chung là thuế quan của Mỹ trong khoảng thời gian từ 2008 đến 2019 có xu hướng giảm theo quá trình tự do hóa thương mại toàn cầu. Mức thuế MFN của Mỹ vẫn ở mức thấp nhất thế giới trong khoảng thời gian này, so với mức trung bình cả thế giới là 9.2%. Mức thuế MFN trung bình trên tất cả các mặt hàng của EU có cao hơn so với Mỹ (5,3% so với 3,5%), nhưng vẫn là khá thấp so với mức trung bình của cả thế giới. Các số liệu này một lần nữa khẳng định xu hướng ủng hộ tự do hóa toàn cầu rõ ràng từ các nước phát triển như Mỹ và EU. Mức thuế MFN trung bình của EU cũng có một xu hướng giảm rõ rệt trong khoảng thời gian từ 2008 đến 2019. Tuy nhiên, trong năm 2019, do ảnh hưởng của các thuế quan bổ sung Châu Âu áp dụng nhằm trả đũa các chính sách thương mại của Mỹ hướng tới mặt hàng nhôm và thép, mức thuế quan trung bình của EU tăng 0,1% so với năm 2018.. Hình 2: Mức thuế quan MFN áp dụng của Mỹ, EU và Trung Quốc (Nguồn: WTO) Thuế quan MFN trung bình của Trung Quốc biến động không đáng kể, và được giữ ở mức từ 9.8%. Mức thuế quan của Trung Quốc khá tương đồng với mức thuế quan của toàn thế giới (9.2%) nhưng cao gấp đôi so với mức thuế quan của EU và gấp ba lần so với mức thuế quan của Mỹ. Bảo hộ thương mại bằng phi thuế quan Với vị thế là nền kinh tế lớn nhất thế giới, Mỹ cũng là quốc gia sử dụng đa dạng 257
  7. các loại biện pháp phi thuế quan. Tính đến 31/12/2020, Mỹ đã sử dụng 1.882 biện pháp TBT, chiếm 6,3% tổng số biện pháp TBT được các thành viên WTO sử dụng. Con số và tỷ lệ tượng ứng của biện pháp SPS là 3.212 và 15,45 %. Mỹ cũng đang áp dụng nhiều biện pháp chống bán phá giá (AD), chiếm tới 19,31% tổng số biện pháp chống bán phá giá áp dụng trên toàn thế giới. Mỹ cũng là nước có số lượng biện pháp tự vệ đặc biệt (SSG) nhiều, chiếm 76,07% tổng số biện pháp này trên toàn thế giới. Về các biện pháp tự vệ (SG); biện pháp tự vệ đặc biệt (SSG); biện pháp hạn chế số lượng (QR) và biện pháp hạn ngạch thuế quan (TQ) hiện không ghi nhận biện pháp mới mà Mỹ áp dụng. Tính đến 30/12/2020, số biện pháp SPS mà EU đã sử dụng chiếm 8,01% tổng số biện pháp SPS được áp dụng bởi các nước thành viên WTO. Số liệu tương ứng với biện pháp TBT mà EU áp dụng là 15,6 %. Các biện pháp chống bán phá (AD), biện pháp chống trợ cấp (CV) và biện pháp tự vệ (SG) có tỷ lệ giữa số biện pháp EU áp dụng so với tổng số biện pháp được áp dụng bởi các nước thành viên WTO lần lượt là 14,77%, 9,20% và 6,86%. Số lượng các biện pháp tự vệ đặc biệt (SSG) và biện pháp hạn ngạch thuế quan (TQ) được EU áp dụng chiếm hơn một nửa số lượng các biện pháp này được áp dụng trên toàn thế giới, cụ thể là 59,51% và 53,45%). Trong bối cảnh châu Á là khu vực dẫn đầu về việc sử dụng các công cụ phi thuế quan thì Trung Quốc là nước sử dụng các biện pháp phi thuế quan nhiều hơn các nước còn lại trong khu vực (Đinh Văn Sơn, 2020). Tính đến 31/12/2020, số biện pháp SPS và TBT mà Trung Quốc áp dụng chiếm 6,42% và 5,06% tổng số biện pháp SPS và TBT được áp dụng bởi các nước thành viên WTO. Một biện pháp phi thuế quan khác được Trung Quốc áp dụng nhiều là biện pháp chống bán phá giá (AD), với 125 biện pháp. Còn các biện pháp chống trợ cấp (CV), biện pháp tự vệ (SG), biện pháp tự vệ đặc biệt (SSG) và biện pháp hạn ngạch thuế quan (TQ) mới được Trung Quốc sử dụng ít hoặc chưa sử dụng. Bảng 4. Số lượng các biện pháp phi thuế quan được sử dụng bởi Mỹ, EU và Trung Quốc tính đến 31/12/2020 Chỉ số Biện pháp phi thuế quan SPS TBT AD CV SG SSG QR TQ A 20.783 29.879 2.160 261 102 652 1.636 1.274 B 3.212 1.882 417 149 2 496 59 52 C 15,45% 6,30% 19,31% 57,09% 1,96% 76,07% 3,61% 4,08% D 1.664 4.659 319 24 7 388 88 681 E 8,01% 15,60% 14,77% 9,20% 6,86% 59,51% 5,38% 53,45% F 1.334 1.512 125 7 1 0 42 10 G 6,42% 5,06% 5,79% 2,68% 0,98% 0,00% 2,57% 0,78% A: Tổng số các biện pháp phi thuế của tất cả thành viên WTO theo phân loại B: Tổng số các biện pháp phi thuế của Mỹ theo phân loại C: Tỷ lệ % các biện pháp được Mỹ áp dụng so với tất cả các thành viên WTO (%) D: Tổng số các biện pháp phi thuế của EU theo phân loại E: Tỷ lệ % các biện pháp được EU áp dụng so với tất cả các thành viên WTO (%) 258
  8. F: Tổng số các biện pháp phi thuế của Trung Quốc theo phân loại G: Tỷ lệ % các biện pháp được Trung Quốc áp dụng so với tất cả các thành viên WTO (%) Nguồn: https://i-tip.wto.org/goods/Forms/GraphView.aspx Tại thị trường Mỹ, nông sản nhập khẩu chịu sự kiểm soát chặt chẽ của nhiều quy định luật khác nhau như Đạo luật Bảo vệ thực vật (PPA); Đạo luật Hiện đại hóa an toàn thực phẩm (FSMA); Đạo luật Bảo vệ chất lượng thực phẩm (FQPA) và một số quy định khác. Các quy định luật này được thực thi bởi hệ thống các cơ quan cấp liên bang như Cục quản lý Dược phẩm và Thực phẩm (FDA), Cơ quan Bảo vệ môi trường Mỹ (EPA) và hai đơn vị trực thuộc Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) là Cơ quan Kiểm dịch và An toàn thực phẩm Mỹ (FSIS) và Sở Kiểm dịch Động thực vật Mỹ (APHIS) bên cạnh đó là các cơ quan cấp tiểu bang. Tại EU, nông sản nhập khẩu phải tuân thủ các tiêu chuẩn về chất lượng của EU. Các lô hàng nông sản tươi nhập khẩu từ các nước ngoài khối EU theo tiêu chuẩn EC cần phải có Giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn (Certificate of conformity). Quy định về nhãn mác hàng thực phẩm nhập khẩu được EU thể hiện tại Quy định số 1169/2011 về “Cung cấp thông tin thực phẩm cho người tiêu dùng”. Đối với trái cây và rau quả cần quan tâm đến Quy định số 543/2011 về “Những quy định chi tiết thực thi Quy định số 1234/2007 của EU về trái cây, rau quả và ngành trái cây, rau quả đã qua chế biến” Trung Quốc đưa ra các quy chuẩn kỹ thuật và các thủ tục đánh giá sự phù hợp được điều chỉnh bởi nhiều luật và quy định khác nhau, bao gồm: Luật tiêu chuẩn; Luật về chất lượng và an toàn sản phẩm nông nghiệp; Luật về chất lượng sản phẩm; Luật về bảo hộ quyền và lợi ích của người tiêu dùng. Đối với quy định về nhãn mác, Trung Quốc quy định tất cả các sản phẩm nhập khẩu bán ở thị trường này phải có nhãn tiếng Trung Quốc, thể hiện rõ loại thực phẩm, thương hiệu, địa chỉ của nhà sản xuất, nước xuất xứ, thành phần, ngày chế biến và ngày hết hạn. Ngoài một số quy định theo thông lệ quốc tế, gần đây Trung Quốc cũng đưa ra một số yêu cầu riêng biệt, siết chặt việc thực thi các quy định đã ban hành trước đây đối với nông thủy sản nhập khẩu. Cụ thể, chỉ định cửa khẩu nhập khẩu, bao gồm cửa khẩu đường bộ, hàng không và đường thủy đối với các mặt hàng cụ thể như trái cây, thủy sản, lương thực... hay tổ chức thực hiện nghiêm các biện pháp quản lý chất lượng, truy xuất nguồn gốc đối với nông thủy sản nhập khẩu từ nước ngoài, trong đó có Việt Nam. 4.2. Thực trạng xuất khẩu nông sản của Việt nam Kim ngạch và tốc độ tăng trưởng Trong giai đoạn 2014 - 2020, giá trị hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu có tỷ lệ tăng bình quân 12,7%/năm, đóng góp lớn vào kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản năm 2020 đạt khoảng 41,2 tỷ USD, duy trì 9 nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, trong đó có 5 mặt hàng có kim ngạch trên 3 tỷ USD (gỗ và sản phẩm gỗ, tôm, rau quả, hạt điều, gạo). Đóng góp tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam là các mặt hàng chủ lực như gạo, cà phê, hàng rau quả, hạt điều, chè, cao su, hạt tiêu, sắn và các sản phẩm từ sắn… 259
  9. Đơn vị tính: Tỷ USD Hình 3. Kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm nông sản giai đoạn 2014 - 2020 (Nguồn: Bộ NN&PTNT) Tổng kim ngạch theo thị trường Về thị trường xuất khẩu, hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu sang nhiều thị trường, trong đó, những thị trường nhập khẩu nông sản lớn nhất của Việt Nam là Trung Quốc (19%), EU (16%), Hoa Kỳ (13%), Nhật Bản (8%), Hàn Quốc (5%)… Nếu như năm 2011, Việt Nam có 19 thị trường xuất khẩu đạt hơn 1 tỷ USD thì đến năm 2016 đã lên hơn 30 thị trường. Năm 2020, Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường chiếm thị phần lớn nhất với kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 9,8 tỷ USD, tăng 22,3% so với cùng kỳ và chiếm khoảng 26,2% thị phần. Tiếp đến là Trung Quốc ước đạt gần 9,2 tỷ USD, giảm 6,6% so với cùng kỳ và chiếm 24,6% thị phần; thị trường EU ước đạt 3,44 tỷ USD, giảm 0,3% và chiếm 9,2% thị phần.Xuất khẩu sang các nước ASEAN đạt khoảng 3,43 tỷ USD, tăng 2,8% và chiếm 9,18% thị phần; xuất khẩu sang Nhật Bản đạt 3,1 tỷ USD, giảm 1,5% và chiếm gần 8,3% thị phần Về kim ngạch xuất khẩu theo mặt hàng Về các mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Viêt Nam trong giai đoạn vừa qua như gạo, thủy sản, cà phê, chè, rau quả, hồ tiêu có kết quả như sau: Bảng 5. Kim ngạch xuất khẩu một số nông sản của Việt Nam giai đoạn 2016-2020 Đơn vị: USD Mặt hàng 2016 2017 2018 2019 2020 Tôm 3.152.345.201 3.851.402.871 3.550.639.021 3.421.765.801 3.851.014.563 Gạo 3.169.745.647 2.615.949.201 3.060.274.840 2.805.353.946 3.120.144.255 Cá tra 1.775.112.432 1.778.012.433 2.261.211.034 2.005.011.436 1.672.215.398 Cà phê 217,210,203 239,115,409 217,834,138 236,341,033 217,703,040 Chè 217.210.203 239.115.409 217.834.138 236.341.033 217.703.040 Rau quả 2.457.665.000 3.512.412.454 3.811.087.270 3.747.061.007 3.269.245.926 Nguồn: Tổng cục hải quan 260
  10. Trong các mặt hàng xuất khẩu trên, các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn và khá ổn định như mặt hàng tôm, gạo, rau quả. Một số mặt hàng có tốc độ độ tăng trưởng tốt như mặt hàng tôm và mặt hàng rau quả. 4.3. Thực trạng tác động của bảo hộ thương mại đến xuất khẩu nông sản của Việt Nam Dựa trên kết quả khảo sát, nhóm nghiên cứu đưa ra các phân tích tác động của bảo hộ thương mại đến xuất khẩu nông sản Việt Nam, đặc biệt là tác động của chính sách thuế quan và chính sách phi thuế quan (tập trung vào hàng rào kỹ thuật và vệ sinh dịch tễ, biện pháp phòng vệ thương mại), cụ thể: -Về các rào cản bảo hộ doanh nghiệp xuất khẩu nông sản phải đối mặt ở các thị trường có sự khác biệt. Trong số các thị trường được khảo sát, EU là nơi có tỷ lệ % doanh nghiệp xuất khẩu trả lời phải đối mặt với rào cản bảo hộ cao nhất (30,74%), tiếp theo là Trung Quốc (24,95%), Mỹ (20%). Với thị trường EU, doanh nghiệp đánh giá rào cản TBT là rào cản phải đối nhiều nhất (62,5%) và hạn chế số lượng là rào cản ít phải đối mặt nhất (12,25%). Xét theo từng loại rào cản doanh nghiệp xuất khẩu phải đối mặt, tỷ lệ cao nhất thuộc về rào cản SPS (42,9%) và hàng rào TBT (42,7%). Điều này được cho là phù hợp với lý thuyết bởi do các đặc trưng của hàng nông sản xuất khẩu, các rào cản của nước nhập khẩu sử dụng phổ biến để bảo hộ là rào cản kỹ thuật. . Các biện pháp phòng vệ thương mại có mức trung bình khoảng 9%. Mặc dù bào hộ bằng thuế có xu hướng giảm song tỷ lệ % trung bình số doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam được khảo sát trả lời là tương đối cao, nếu so với các biện pháp phòng vệ (25,3%). Với rào cản thuế quan, tỷ lệ % doanh nghiệp phải đối mặt khi xuất hàng sang thị trường Mỹ đứng ở mức cao nhất, với 51,02%, gần gấp 2 so với thị trường EU nhưng gấp đến 3,6 lần thị trường Nhật Bản. Lý giải cho điều này một phần là thị trường Mỹ chưa có hiệp định thương mại tự do với Việt Nam. Bảng 6. Rào cản bảo hộ doanh nghiệp xuất khẩu nông sản phải đối mặt khi xuất khẩu sang các thị trường, tỷ lệ % trả lời Loại rào cản Mỹ EU Nhật Trung Quốc Thị trường khác Thuế 51,02% 28,57% 14,29% 20,4% 12,25% Hàng rào kỹ thuật 32,08% 62,5% 32,08% 51,79% 35,42% Vệ sinh dịch tễ 28,57% 46,15% 38,78% 59,62% 41,67% Chống bán phá 22,45% 30,61% 18,37% 10,2% 2,04% giá Chống trợ cấp 0 16,33% 10,2% 10,2% 6,12% Tự vệ thương mại 2,04% 18,75% 8,16% 10,2% 10,2% Hạn chế số lượng 4,08% 12,25% 12,25% 12,25% 2,04% Rào cản khác 0 0 0 0 0 Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của nhóm nghiên cứu -Về mức độ nhận thức của doanh nghiệp xuất khẩu nông sản với các rào cản bảo hộ, tập trung vào các thị trường trọng điểm gồm Mỹ, Nhật, EU và Trung Quốc) cho thấy 261
  11. mức độ nhận thức trung bình nằm trong khoảng từ 3.32 đến 4.27, tức là từ khoảng trên mức độ “biết nhưng chưa đáp ứng” đến “biết nhưng đáp ứng hạn chế”. Tỷ lệ % cao nhất của số doanh nghiệp trả lời “hiểu và có thể đáp ứng tốt với các rào cản bảo hộ” là 52,7% với hàng rào thuế quan ở thị trường Mỹ. Tiếp theo là tỷ lệ 30% với biện pháp chống trợ cấp và biện pháp chống bán phá giá ở thị trường Nhật Bản, 28,8% với biện pháp vệ sinh dịch tễ ở thị trường Mỹ. Với 4 thị trường trọng điểm, tỷ lệ % số doanh nghiệp xuất khẩu nông sản lựa chọn phương án “không biết” hoặc “biết mơ hồ” về các rào cản bảo hộ ở thị trường nhập khẩu thường dưới 10%. Riêng với thị trường Trung Quốc, tỷ lệ này cao trên 20% ở nhóm biện pháp phòng vệ thương mại - cụ thể: biện pháp chống bán phá giá (21,2%), chống trợ cấp (23,6%), tự vệ thương mại (25%). Thực tế này đặt ra nhu cầu về thông tin với thị trường Trung Quốc là rất cần thiết, nhất là khi đây là thị trường xuất khẩu chủ yếu hàng nông sản của Việt Nam. Tuy nhiên, với rào cản kỹ thuật và vệ sinh thì tỷ lệ không biết hay mơ hồ ở thị trường này tương đối thấp so với các thị trường khác, chỉ là 1,3% và 5,2%. Tỷ lệ doanh nghiệp có hàng nông sản xuất khẩu bị trả lại trong 3 năm gần đây ở thị trường Trung Quốc do không đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn chỉ khoảng 23,7%. Hình 4. Mức độ nhận thức của doanh nghiệp xuất khẩu nông sản về các biện pháp bảo hộ tại các thị trường trọng điểm Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của nhóm nghiên cứu -Về mức độ tác động của các rào cản bảo hộ đến hoạt động xuất khẩu nông sản của doanh nghiệp. Theo khảo sát thì trở ngại lớn nhất với hàng nông sản xuất khẩu vào thị trường các nước nhập khẩu là vấn đề vệ sinh dịch tễ, với điểm đánh giá mức tác động của rào cản này là 3,87/5. Các rào cản khác cũng có mức tác động nhiều có thể kể đến hàng rào kỹ thuật, thuế quan, chống bán phá giá. Nếu xét theo tỷ lệ % tác động của từng rào cản thì rào cản vệ sinh dịch tễ được đánh giá có mức tác động cao nhất (20,4%). Dù vậy, kết quả khảo sát cũng cho thấy số vụ việc liên quan đến phòng vệ thương mại mà doanh nghiệp Việt sẽ phải đối mặt có xu hướng tăng khi tỷ lệ % trả lời về tác động của 2 biện pháp này chỉ đứng sau vệ sinh dịch tễ, mức phần trăm tác động lần lượt là: chống bán phá giá (17,6%), chống trợ cấp và hạn chế số lượng cùng 15,1%. 262
  12. Ghi chú: 1- ít tác động nhất và 5 - tác động nhiều nhất Hình 5. Đánh giá về mức độ tác động của biện pháp bảo hộ đến hoạt động xuất khẩu nông sản của doanh nghiệp, theo tỷ lệ % doanh nghiệp khảo sát Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của nhóm nghiên cứu Tuy nhiên, khi xem xét đánh giá tác động của thuế, các biện pháp kỹ thuật và vệ sinh (TBT, SPS), biện pháp phòng vệ thương mại với các khía cạnh cụ thế trong hoạt động của doanh nghiệp xuất khẩu nông sản, kết quả như sau: + Về tác động của thuế quan: Kết quả khảo sát doanh nghiệp cho thấy tác động của thuế ở thị trường nhập khẩu có ảnh hưởng trên trung bình (có và tương đối nhiều) đến hàng xuất khẩu, ở mức 3,64/5 . Với các hoạt động cụ thể, giá hàng nông sản xuất khẩu chịu tác động lớn nhất của thuế (3,707/5). Đương nhiên giá tăng cũng ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu nông sản. Kim ngạch xuất khẩu nông sản của doanh nghiệp cũng chịu tác động tương đối nhiều của thuế với mức bình quân 3,54/5. Ngoài ra, thuế nhập khẩu cũng có tác động trên mức trung bình đến chi phí thông tin, thay đổi phương thức kinh doanh và chi đầu tư cho khoa học công nghệ. Tuy nhiên, thuế chủ yếu tác động đến doanh nghiệp xuất khẩu nông sản trong giai đoạn đầu tiếp cận thị trường, với 78% số doanh nghiệp lựa chọn phương án là trở ngại lớn nhất. Mức tác động giảm dần trong quá trình xuất khẩu hoặc trong điều kiện thị trường gặp khó, sản phẩm gặp khó. + Về tác động của rào cản TBT và SPS: So với ảnh hưởng của thuế nhập khẩu, kết quả khảo sát cho thấy tác động của rào cản TBT và SPS có ảnh hưởng mạnh, cao hơn mức trung bình của thuế, ở mức 3,937/5. Điều này cũng chỉ ra rằng với hàng nông sản xuất khẩu, do đặc thù và tính nhạy cảm nên ngoài thuế thì các biện pháp phi thuế cũng có tác động nhiều. Vấn đề đầu tư khoa học công nghệ và phương thức/quy trình kinh doanh là chịu tác động nhiều nhất của biện pháp phi thuế quan. Đương nhiên, khi yêu cầu về mẫu mã, chất lượng… nâng lên và khi yêu cầu về việc tuân thủ quy định được đặt ra thì bản thân doanh nghiệp cần đầu tư vào khoa học cũng như nghiên cứu/hợp tác áp dụng quy trình phù hợp từ nuôi trồng đến thu mua và đưa đến người tiêu dùng ở nước nhập khẩu. Trong thực tiễn quy trình xuất khẩu, rào cản TBT và SPS cũng được xem là trở ngại lớn trong giai đoạn tiếp cận thị trường ban đầu cũng như trong quá trình xuất khẩu. Có đến 263
  13. 71,7% doanh nghiệp cho rằng trong quá trình xuất khẩu, rào cản TBT là trở ngại lớn nhất, cao hơn 6 lần mức đánh giá của thuế quan. Trong quá trình xuất khẩu, rào cản SPS gây khó khăn cho khoảng 56,5% doanh nghiệp. Nếu so với thuế và TBT, các biện pháp phòng vệ thương mại lại không phải là trở ngại lớn cho doanh nghiệp xuất khẩu trong giai đoạn tiếp cận thị trường và trong quá trình xuất khẩu. Tỷ lệ % doanh nghiệp nhận định là trở ngại của biện pháp này chỉ dao động từ 11-19%, cao nhất là hạn chế số lượng trong tiếp cận thị trường ban đầu. Hình 6. Đánh giá mức độ tác động của thuế quan và các biện pháp phi thuế quan đến các khía cạnh hoạt động cụ thể của doanh nghiệp xuất khẩu nông sản, theo thang đo likert 5 Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của nhóm nghiên cứu - Tác động của việc đáp ứng tiêu chuẩn phi thuế của thị trường nhập khẩu tới mục tiêu của doanh nghiệp xuất khẩu. Khi được hỏi về việc doanh nghiệp có những chứng chỉ tiêu chuẩn nào để đáp ứng yêu cầu của thị trường nhập khẩu, nhiều đơn vị đã áp dụng tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng, lao động, môi trường như ISO, BRC, HACCP, SA… Có 28,13% doanh nghiệp được khảo sát đã áp dụng tiêu chuẩn chất lượng quốc tế để vượt qua các rào cản của thị trường nhập khẩu. 5,21% số doanh nghiệp xuất khẩu được khảo sát đã áp dụng tiêu chuẩn lao động quốc tế. 1,04% doanh nghiệp áp dụng tiêu chuẩn phi thuế. Trong khi đó, có 4,17% doanh nghiệp áp dụng tiêu chuẩn chất lượng của thị trường nước nhập khẩu. Việc có/đáp ứng và áp dụng các chứng chỉ tiêu chuẩn đã giúp doanh nghiệp xuất khẩu đạt được mục tiêu trong việc gia tăng sản lượng xuất khẩu, tăng giá bán hàng xuất khẩu, kiểm soát chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu, tăng khả năng nhận biết sản phẩm, gia tăng khách hàng… Tính bình quân, tỷ lệ doanh nghiệp khẳng định tiêu chuẩn chất lượng giúp doanh nghiệp đạt được các mục vừa liệt kê ở trên là nhiều nhất. Trong đó: 2/3 số doanh nghiệp khẳng định tiêu chuẩn chất lượng giúp doanh nghiệp gia tăng sản lượng xuất khẩu. 41,9% cho rằng tiêu chuẩn giúp tăng giá bán, con số này với chất lượng sản phẩm là 38,1%. Liên quan đến tăng giá bán, tỷ lệ % số doanh nghiệp khẳng định đạt 48,6%. Đáng lưu ý là không có doanh 264
  14. nghiệp nào cho rằng tiêu chuẩn lao động giúp doanh nghiệp tăng giá bán và 13,5% số doanh nghiệp cho rằng tiêu chuẩn lao động không có tác động nào đáng kể đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Tiêu chuẩn lao động chỉ giúp doanh nghiệp tăng khả năng nhận biết sản phẩm (23%), nâng cao chất lượng sản phẩm (21,6%) - tỷ lệ này là thấp nếu so với tiêu chuẩn chất lượng và tiêu chuẩn phi thuế khác hay ngay cả với tiêu chuẩn môi trường. Trong khi đó, vấn đề lao động lại là vấn đề được đề cập đến nhiều trong các FTA thế hệ mới và các thị trường EU, Nhật Bản... lại là những bên liên quan. Hình 7. Tác động của việc áp dụng và đáp ứng tiêu chuẩn phi thuế của thị trường nhập khẩu tới mục tiêu của doanh nghiệp xuất khẩu, theo tỷ lệ % Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra của nhóm nghiên cứu 5. Một số kiến nghị Căn cứ trên phân tích thực trạng, nhóm nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển xuất khẩu nông sản Việt Nam dưới tác động của bối cảnh bảo hộ thương mại trong thời gian tới, cụ thể: 5.1 Đối với doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu nông sản Một là, doanh nghiệp cần nâng cao nhận thức bảo hộ thương mại và chủ động cập nhật các quy định của nước nhập khẩu nông sản. Các quy định của nước nhập khẩu có thể thay đổi nên doanh nghiệp cần chủ động cập nhật các thông tin này để tránh rủi ro khi thực hiện các đơn hàng xuất khẩu. Doanh nghiệp có thể cập nhật thông tin từ chính các bạn hàng nhập khẩu. Bên cạnh đó một số nguồn thông tin có thể tham khảo như hiệp hội, cơ quan xúc tiến thương mại, các sứ quan Việt Nam ở nước ngoài. Hai là, doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng hàng nông sản xuất khẩu, đồng thời có sự chủ động nguồn nguyên liệu đầu. Các thị trường khác nhau có nhu cầu tiêu dùng và quy định đa dạng khác nhau về chủng loại và chất lượng của nông sản, bao gồm sản phẩm tươi, sản phẩm sơ chế, sản phẩm chế biến sẵn, sản phẩm hữu cơ… Do đó, doanh nghiệp cần chủ động và tích cực trong việc thực hiện đa dạng hóa sản phẩm và nâng cao chất lượng của sản phẩm theo hướng tăng tỷ trọng sản phẩm nông nghiệp chế biến sâu và sản phẩm nông nghiệp hữu cơ 265
  15. Ba là, doanh nghệp cần xây dựng chiến lược xúc tiến quảng bá thương hiệu, sản phẩm nông sản của mình trên thị trường nước ngoài. Nhiều nông sản Việt Nam hiện mới xuất khẩu ở dạng thô, điều này khiến giá trị kim ngạch xuất khẩu nông sản không cao, gây thiệt hại cho nền kinh tế. Bởi vậy, để tận dụng lợi thế về phát triển nông nghiệp của Việt Nam và tận dụng được ưu đãi từ các HIệp định thương mại mà chính phủ ký kết, các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu nông sản của Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh việc xúc tiến, quảng bá thương hiệu nông sản Việt Nam, đặc biệt là các sản phẩm chế biến sâu. Bốn là, doanh nghiệp cần chủ động xây dựng hệ thống quản trị hiện đại, lưu trữ hồ sơ chứng từ đẩy đủ rõ ràng. Đầu tiên, việc xây dựng cơ sở dữ liệu chứng từ giúp doanh nghiệp đáp ứng các quy định về chứng nhận xuất xứ và tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa của các Hiệp định thương mại. Tiếp theo, nếu có xảy ra vụ việc điều tra chống bán phá giá, cơ quan điều tra các nước cũng thường yêu cầu rất nhiều hồ sơ, tài liệu liên quan đến quá trình sản xuất kinh doanh, do đó doanh nghiệp cần lưu trữ hồ sơ, sổ sách đầy đủ và rõ ràng Năm là, doanh nghiệp cần thường xuyên trao đổi thông tin với Hiệp hội và cơ quan quản lý nhà nước. Việc thường xuyên trao đổi thông tin này để doanh nghiệp có thể đóng góp ý kiến xây dựng tiêu chuẩn kỹ thuật của ngành cũng như sửa đổi dự thảo tiêu chuẩn của các nước khác và nhận được sử hỗ trợ kỹ thuật khi doanh nghiệp bị điều tra phòng vệ thương mại. Các vụ khởi xướng điều tra có thể bắt đầu với bị đơn là một hoặc một vài doanh nghiệp nhưng nguy cơ thiệt hại cho cả ngành hàng là rất lớn nên các doanh nghiệp cần thương xuyên theo dõi thông tin, tích cực phối hợp với hiệp hội ngành hàng, cơ quan quản lý nhà nước để cùng giải quyết hiệu quả. Hiện nay, Cục Phòng vệ thương mại, Bộ Công Thương (http://www.trav.gov.vn/) thường xuyên cập nhật các tin cảnh báo sớm và các kiến thức về phòng vệ thương mại. Đây là địa chỉ hữu ích, doanh nghiệp nên chủ động theo dõi thông tin. 5.2 Đối với Nhà nước Một là, tiếp tục tăng cường công tác đào tạo, nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về bảo hộ thương mại qua việc phối hợp với các Hiệp hội, các cơ sở đào tạo để phổ biến, cung cấp thông tin về bảo hộ thương mại. Hai là, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước để theo dõi và xử lý phù hợp khi có các vụ điều tra phòng vệ thương mại. Bộ Công thương, với vai trò cơ quan chủ quản phụ trách về lĩnh vực thương mại, thường xuyên cung cấp, cập nhật các quy định bảo hộ thương mại của các nước với nông sản xuất khẩu và danh mục các mặt hàng có nguy cơ bị điều tra áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại, gian lận xuất xứ để các cơ quan quản lý nhà nước của Việt Nam cùng các hiệp hội tăng cường giám sát, theo dõi và có các biện pháp xử lý phù hợp. Ba là, hoàn thiện cơ chế cảnh báo sớm dành cho hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường. Dựa trên các cảnh báo doanh nghiệp về khả năng bị điều tra các biện pháp phòng vệ thương mại, lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại, doanh nghiệp có thể linh hoạt xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp. Trong giai đoạn này, chính phủ có thể tập trung xây dựng và thường xuyên cập nhật các cảnh báo dành cho các thị trường xuất khẩu nông sản trọng điểm của Việt Nam như Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc 266
  16. Bốn là, xây dựng cơ chế phối hợp, chia sẻ thông tin giữa cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam và các quốc gia nhập khẩu nông sản để thương xuyên tiếp nhận các thông tin về thay đổi quy định nhập khẩu của đối tác, thông tin về các vụ việc phòng vệ thương mại liên quan. Từ đó, cơ quan quản lý nhà nước của Việt Nam có thể cập nhật và dự báo các vụ việc điều tra phòng vệ thương mại mà đối tác sẽ tiến hành liên quan đến hàng nông sản Việt Nam nhằm phối hợp và xử lý vụ việc ngay từ ban đầu. Năm là, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến thông tin về pháp luật bảo hộ thương mại nói chung và các quy định của các nước nhập khẩu đối với nông sản Việt Nam nói riêng. Xây dựng và phổ biến các Cẩm nang thông tin về các thị trường xuất khẩu trong bối cảnh bảo hộ thương mại để cung cấp thông tin một cách rộng rãi và có hệ thống tới các doanh nghiệp. 6. Kết luận Trong bối cảnh nền kinh tế trong nước cũng như trên thế giới còn nhiều biến động, xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khả quan qua các năm. Chủ nghĩa bảo hộ thương mại diễn biến phức tạp gây ra không ít khó khăn cho hoạt động xuát khẩu nông sản của Việt Nam. Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản của Việt Nam cần tăng cường nhận thức, cập nhật thông tin về bảo hộ thương mại, nâng cao chất lượng sản phẩm, thường xuyên trao đổi thông tin với các cơ quan quản lý nhà nước và các hiệp hội. Về phía cơ quan quản lý nhà nước cũng cần tiếp tục duy trị việc hợp tác, trao đổi thông tin với các chính phủ đối tác, cập nhật, cảnh báo cho doanh nghiệp trong nước và phối hợp xử lý khi có các vụ việc điều tra của đối tác. Những giải pháp đồng bộ từ cả doanh nghiệp và nhà nước được kỳ vọng sẽ giúp thúc đẩy xuất khẩu nông sản Việt Nam trong bối cảnh bảo hộ thương mại. 7. Tài liệu tham khảo 1. Abboushi Suhail (2010), “Trade protectionism: Reasons and outcomes”, Competitiveness Review, Vol. 20 No. 5, pp. 384-394. https://doi.org/10.1108/10595421011080760 2. Amadeo, K. (2018). Trade Protectionism and Its Methods with Examples, Pros, and Cons, truy cập tại https://www.thebalance.com/what-is-trade-protectionism-3305896 3. Beckman, J., Gopinath, M., and M. Tsigas. (2018). “The Impacts of Tax Reform on Agricultural Households.” American Journal of Agricultural Economics, 100(5): 1391- 1406. 4. Đinh Văn Sơn (2018) Báo cáo thường niên kinh tế thương mại Việt nam năm 2018 5. Đinh Văn Sơn (2019) Báo cáo thường niên kinh tế thương mại Việt nam năm 2019 6. Đinh Văn Sơn (2020) Báo cáo thường niên kinh tế thương mại Việt nam năm 2020 7. EU (2019), “The Economic Impact of the EU-Vietnam Free Trade Agreement”, Publication Office of the European Union, ISBN 978-92-79-98773-1. 8. JICA, VEPR (2015), Tác động của TPP và AEC lên nền kinh tế Việt Nam Khía cạnh Kinh tế vĩ mô và trường hợp Ngành chăn nuôi, Hà Nội. 267
  17. 9. Nguyễn Trung Kiên (2016), Nghiên cứu thực trạng và đề xuất chính sách, giải pháp thương mại nông sản Việt Nam với Trung Quốc, đề tài nghiên cứu cấp bộ, Hà Nội. 10. Nguyen, T. D. (2018). Do trade agreements increase Vietnam’s exports to RCEP markets? Asian-Pacific Economic Literature, 32(1), 94-107. doi:10.1111/apel.12213. 11. Olga Solleder (2013), ‘Trade Effects of Export Taxes’, Graduate Institute of International and Development Studies Working Paper, No: 08/2013. 12. Trần Tiến Khải (2010), ‘Chính sách xuất khẩu lúa gạo Việt Nam và những vấn đề cần điều chỉnh’, Kỷ yếu Hội thảo Khoa Học Xã Hội và Phát Triển Bền Vững Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long, Cần Thơ. 13. UNCTAD (2020), “Key Statistics and Trends in Trade Policy 2019”, Geneva, 2020. 14. World Bank (2018), “Tác động kinh tế và phân bổ thu nhập của Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương: Trường hợp của Việt Nam”, Ấn phẩm song ngữ, tháng 3/2018. 268
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2