Mai Thị Lan Anh và cs<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
65(03): 110 - 115<br />
<br />
TÁC ĐỘNG CỦA LÀNG NGHỀ TÁI CHẾ KIM LOẠI<br />
ĐẾN MÔI TRƯỜNG ĐẤT VÀ THÓC Ở BẮC NINH<br />
Mai Thị Lan Anh1*, Nguyễn Công Vinh2<br />
1<br />
<br />
Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên, 2Viện Nông hóa thổ nhưỡng<br />
<br />
TÓM TẮT<br />
Bắc Ninh là tỉnh thuộc vùng Đông Bắc, giáp với Hà Nội, từ lâu nổi tiếng với các làng nghề truyền<br />
thống đa dạng, trong đó phải kể đến hai làng nghề tái chế sắt ở Đa Hội-Châu Khê-Từ Sơn và làng<br />
nghề tái chế nhôm ở Mẫn Xá-Vân Môn-Yên Phong, hàng năm mang đến doanh thu hàng trăm tỷ<br />
đồng. Chất thải từ các làng nghề đã và đang trực tiếp hoặc gián tiếp làm ảnh hƣởng đến môi trƣờng<br />
đất nông nghiệp, mà chủ yếu là đất trồng lúa. Bài báo này trình bày một số nghiên cứu về mức độ<br />
ảnh hƣởng của các hoạt động tái chế này đến chất lƣợng môi trƣờng đất và sự tích luỹ của các kim<br />
loại nặng trong thóc ở Bắc Ninh.<br />
Hàm lƣợng các kim loại nặng (Cd, Zn, Pb và Cu) trong đất ở vùng ảnh hƣởng của nƣớc thải từ<br />
làng nghề có xu hƣớng đƣợc tích lũy cao hơn nhiều so với đất không bị ô nhiễm. Tuy nhiên chúng<br />
đang nằm dƣới ngƣỡng cho phép đối với đất nông nghiệp theo tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN 72092002). Hàm lƣợng các kim loại nặng đƣợc thu hút và tích lũy trong thóc có xu hƣớng tăng lên do<br />
ảnh hƣởng của nƣớc thải từ làng nghề tái chế kim loại. Về lâu dài những tác động này sẽ ảnh<br />
hƣởng trực tiếp đến sức khỏe ngƣời dân.<br />
Từ khóa: ô nhiễm, làng nghề, nước thải, kim loại nặng, môi trường.<br />
ĐẶT<br />
<br />
VẤN ĐỀ<br />
Ngành sản xuất lúa ở nƣớc ta ngày càng phát<br />
triển mạnh, năng suất và sản lƣợng lúa không<br />
ngừng tăng lên. Kết quả đã đƣa nƣớc ta trở<br />
thành một trong số các nƣớc xuất khẩu gạo<br />
nhiều trên thế giới. Tuy nhiên lợi thế trong<br />
sản xuất lúa gạo của ta cũng đang ngày càng<br />
có nguy cơ giảm sút. Trong đó đáng lo ngại là<br />
lợi thế xuất khẩu do chất lƣợng, mẫu mã thua<br />
kém nhiều nƣớc [4].<br />
Cùng với sự phát triển kinh tế, nhu cầu về sử<br />
dụng vật liệu kim loại cũng không ngừng tăng<br />
lên. Mặt khác, ngành tái chế kim loại hiện nay<br />
cũng là một trong những ngành sản xuất thủ<br />
công bán công nghiệp đƣa lại nhiều lợi nhuận<br />
cho nông dân. Xu thế làng nghề ngày càng<br />
phát triển, phát thải ra nhiều nguồn ô nhiễm.<br />
Đây là một thách thức đối với môi trƣờng,<br />
trong đó có môi trƣờng nông nghiệp [2]<br />
Bắc Ninh là tỉnh thuộc vùng Đông Bắc, giáp<br />
với Hà Nội, từ lâu nổi tiếng với các làng nghề<br />
truyền thống đa dạng, trong đó phải kể đến<br />
hai làng nghề tái chế sắt ở Đa Hội-Châu KhêTừ Sơn và làng nghề tái chế nhôm ở Mẫn XáVân Môn-Yên Phong hàng năm mang đến<br />
<br />
<br />
Tel: 0974808768 , Email:<br />
<br />
doanh thu hàng trăm tỷ đồng[1]. Chất thải từ<br />
các làng nghề đã và đang trực tiếp hoặc giám<br />
tiếp làm ảnh hƣởng đến môi trƣờng đất nông<br />
nghiệp, mà chủ yếu là đất trồng lúa.<br />
Công trình bày một số nghiên cứu về mức độ<br />
ảnh hƣởng của các hoạt động tái chế này đến<br />
chất lƣợng môi trƣờng đất và sự tích luỹ của<br />
các kim loại nặng trong thóc ở Bắc Ninh.<br />
ĐỐI TƢỢNG, PHƢƠNG PHÁP VÀ NỘI<br />
DUNG NGHIÊN CỨU<br />
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu<br />
Đề tài nghiên cứu tiến hành trên đất phù sa<br />
sông Hồng với cơ cấu cây trồng lúa-lúa<br />
(giống Khang Dân) thuộc các cánh đồng của<br />
hai xã Châu Khê–Từ Sơn và Vân Môn–Yên<br />
Phong thuộc tỉnh Bắc Ninh.<br />
Nội dung nghiên cứu<br />
Nghiên cứu và đánh giá sự tích lũy kim loại<br />
nặng trong đất và lúa.<br />
So sánh ảnh hƣởng của hai loại hình tái<br />
chế đối với hàm lƣợng kim loại nặng trong<br />
đất và thóc.<br />
Phương pháp nghiên cứu<br />
Phương pháp điều tra lấy mẫu ngoài đồng ruộng<br />
Thu thập các mẫu đất (12 mẫu) và lúa (12<br />
mẫu) phân bố theo định vị trên bản đồ, mẫu<br />
đất và lúa đặc trƣng cho vùng có khả năng bị<br />
<br />
110<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.Lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Mai Thị Lan Anh và cs<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
ô nhiễm trực tiếp do chất thải từ làng nghề<br />
trong đất nông nghiệp của xã Châu Khê – Từ<br />
Sơn và xã Vân Môn – Yên Phong - Bắc Ninh.<br />
Thu thập các mẫu đất tầng mặt (0–20 cm)<br />
phân bố đều trên toàn bộ diện tích đất nông<br />
nghiệp của Xã Châu Khê – Từ Sơn - Bắc<br />
Ninh bị ảnh hƣởng trực tiếp bởi các khu công<br />
nghiệp tái chế sắt liền kề.<br />
Thu thập các mẫu đất tầng mặt (0–20 cm)<br />
phân bố đều trên toàn bộ diện tích đất nông<br />
nghiệp của Xã Vân Môn–Yên Phong - Bắc<br />
Ninh bị ảnh hƣởng trực tiếp bởi các lò tái chế<br />
nhôm liền kề. Mẫu cây, thóc đƣợc lấy cùng<br />
lúc, ngay ở điểm lấy mẫu đất tƣơng ứng.<br />
Phương pháp phân tích<br />
Bảng 1. Các phƣơng pháp phân tích mẫu đất và cây<br />
Chỉ tiêu<br />
Đơn vị Phƣơng pháp<br />
a. Phân tích mẫu đất<br />
H2O, tỷ lệ đất/ nƣớc 1/5 đo bằng<br />
pH metter, điện cực thủy tinh<br />
trong huyền phù<br />
pHKCl (1/5)<br />
KCl 1N, tỷ lệ đất/dung dịch = 1/5<br />
mmhos/ Tỷ lệ đất/ nƣớc = 1/5, đo bằng<br />
EC<br />
cm máy đo độ dẫn điện<br />
pHH2O (1/5)<br />
<br />
Cu, Pb,<br />
Zn, Cd<br />
<br />
mg/kg<br />
<br />
Công phá bằng HClO4 +HF (tỷ lệ<br />
1:3), xác định bằng AAS<br />
<br />
b.Phân tích mẫu thóc<br />
Cu, Pb,<br />
Zn, Cd<br />
<br />
mg/kg<br />
<br />
Công phá bằng HClO4 +HNO3 (tỷ<br />
lệ 1:3), xác định bằng AAS<br />
<br />
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br />
Môi trường đất dưới ảnh hưởng của hoạt<br />
động làng nghề tái chế kim loại<br />
Phản ứng môi trường đất (pH đất)<br />
pH của đất là một yếu tố đóng vai trò quan<br />
trọng đối với đời sống của cây trồng và đƣợc<br />
coi là một trong những yếu tố sinh thái giới<br />
hạn. Mỗi loại cây trồng chỉ thích nghi với một<br />
khoảng pH nhất định, sự thay đổi pH về phía<br />
axit hay kiềm đều có ảnh hƣởng đến sự sinh<br />
trƣởng và phát triển của cây trồng. Qua nhiều<br />
nghiên cứu cho thấy, môi trƣờng tốt nhất để<br />
cho cây lúa sinh trƣởng và phát triển là đất<br />
trung tính (pH = 5-8). pH còn ảnh hƣởng đến<br />
tính di động của các kim loại nặng trongađất.<br />
Kết quả nghiên cứu ở bảng 2 cho thấy, đặc<br />
tính đất của vùng nghiên cứu chủ yếu là đất<br />
chua nhẹ đến chua vừa. Độ chua hoạt tính ở 2<br />
vùng khác nhau không đáng kể. Nhƣng độ<br />
<br />
65(03): 110 - 115<br />
<br />
chua tiềm tàng giữa hai vùng lại khác nhau,<br />
pHKCl ở vùng Châu Khê biến động trong<br />
khoảng 4,3-5,9; trung bình là 5,17; còn ở vùng<br />
Vân Môn là 4,97-6,12; trung bình là 5,43.<br />
Độ dẫn điện (EC) dung dịch đất<br />
Độ dẫn điện của dung dịch đất có liên quan<br />
đến hàm lƣợng các muối tan trong dung dịch;<br />
thƣờng thì khi nồng độ các muối tan trong<br />
dung dịch tăng lên thì độ dẫn diện của dung<br />
dịch đất cũng tăng.<br />
EC trong dung dịch đất biến động trong<br />
khoảng từ 40,3-110,4 mmhos/cm, trung bình<br />
đạt 68.98 17,295 mmhos/cm ở Châu Khê, ở<br />
Vân Môn biến động 48-182,4 mmhos/cm;<br />
trung bình 103,2 36,56 mmhos/cm.<br />
Sự tích lũy kim loại nặng trong đất<br />
Sự tích lũy đồng (Cu) trong đất<br />
Hàm lƣợng đồng trong đất thay đổi trong<br />
khoảng giới hạn từ 6-60kg/100g đất, đất chứa<br />
nhiều đồng nhất là nhóm đất đỏ và thấp nhất<br />
ở nhóm đất cát và đất chứa hàm lƣợng chất<br />
hữu cơ cao. Theo Lindsays (1979)[5] trong đá<br />
lƣợng Cu trung bình là 70 mg/kg; trong đất từ<br />
2-100 mg/kg và đất trung bình 30 mg/kgađất.<br />
Số liệu nghiên cứu đƣợc trình bày trong bảng<br />
3, hàm lƣợng Cu trong đất ở khu vực ảnh<br />
hƣởng bởi nƣớc thải ở vùng Châu Khê<br />
(28,25-42,28 mg/kg) luôn cao hơn trong đất ở<br />
khu vực ảnh hƣởng nƣớc thải ở Vân Môn<br />
(20,88–36,44 mg/kg). Tuy nhiên đối với tất cả<br />
các mẫu phân tích ở cả hai khu vực nghiên cứu<br />
đều thấp hơn TCVN 7209–2002 (50mg/kg),<br />
cũng nhƣ TC Châu Âu (50-140mg/kg), chứng<br />
tỏ hoạt động tái chế sắt gây tích luỹ đồng trong<br />
đất nhiều hơn tái chế nhôm (biểu đồ 1).<br />
<br />
Biểu đồ 1: Hàm lƣợng Cu trong đất ảnh hƣởng<br />
bởi tái chế kim loại ở Bắc Ninh<br />
<br />
Sự tích luỹ chì trong đất<br />
Qua bảng 3 và biểu đồ 2 cho thấy: hàm lƣợng<br />
Pb trong đất ở khu vực nghiên cứu đều nằm<br />
trong tiêu chuẩn cho phép. Hàm lƣợng Pb<br />
<br />
111<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.Lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Mai Thị Lan Anh và cs<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
tổng số trung bình ở vùng Châu Khê là 40,16<br />
6,72 mg/kg, ở vùng Vân Môn là 38,39 <br />
9,31mg/kg. Nhƣ vậy khi nƣớc thải do hoạt<br />
động tái chế sắt và tái chế nhôm gây tích luỹ<br />
chì trong môi trƣờng đất, nhƣng sự khác biệt<br />
là không đáng kể.<br />
<br />
65(03): 110 - 115<br />
<br />
Sự tích lũy kẽm trong đất<br />
Hàm lƣợng Zn trong đất của vùng nghiên cứu<br />
có sự biến động khá lớn. Trong đất ở Châu<br />
Khê, hàm lƣợng Zn dao động từ 96,01-212,08<br />
mg/kg; cao hơn giá trị này trong đất ở Vân<br />
Môn (38,05-81,75 mg/kg) trung bình là 80,19<br />
mg/kg. Hàm lƣợng Zn trung bình của Châu<br />
Khê gấp gần 2,5 lần hàm lƣợng Zn tổng số<br />
trong đất ở vùng Vân Môn.<br />
Đặc biệt một số mẫu thu thập đƣợc ở Châu<br />
Khê cho thấy hàm lƣợng Zn trong đất vƣợt<br />
quá tiêu chuẩn cho phép của Việt Nam TCVN<br />
7209-2002 từ 2,23 – 12,01 mg/kg.<br />
<br />
Biểu đồ 2: Hàm lƣợng Pb trong đất ảnh hƣởng bởi<br />
tái chế kim loại ở Bắc Ninh<br />
Bảng 2. Một số tính chất đất ở Châu Khê và Vân Môn<br />
<br />
N<br />
<br />
pHH2O (1:5)<br />
CK*<br />
14<br />
<br />
VM**<br />
14<br />
<br />
pHKCl (1:5)<br />
CK<br />
14<br />
<br />
VM<br />
14<br />
<br />
EC (mmhos/cm)<br />
CK<br />
14<br />
<br />
VM<br />
14<br />
<br />
Min – Max<br />
<br />
5,73-6,65<br />
<br />
5,95-6,67<br />
<br />
4,3-5,9<br />
<br />
4,97-6,12<br />
<br />
40,3-110,4<br />
<br />
48–182,4<br />
<br />
Trung bình<br />
<br />
6,12<br />
<br />
6,2<br />
<br />
5,17<br />
<br />
5,43<br />
<br />
68,98<br />
<br />
103,2<br />
<br />
Độ lệch chuẩn<br />
<br />
0,2241<br />
<br />
0,2206<br />
<br />
0,3779<br />
<br />
0,3504<br />
<br />
17,295<br />
<br />
36,560<br />
<br />
CI 95 (%)<br />
<br />
6,0-6,23<br />
<br />
6,09-6,03<br />
<br />
4,96-5,38<br />
<br />
5,25-5,62<br />
<br />
59,4-78,6<br />
<br />
89,24-128,20<br />
<br />
Thông<br />
thống kê<br />
<br />
số<br />
<br />
*: Châu Khê, **: Văn Môn<br />
<br />
Bảng 3. Hàm lƣợng Cu, Pb, Zn, Cd tổng số trong đất (mg/kg)<br />
Thông số thống kê<br />
Giá trị nhỏ nhất<br />
Giá trị lớn nhất<br />
Trung bình<br />
Độ lệch chuẩn<br />
CI 95%<br />
TC EU<br />
TCVN7209-2002<br />
<br />
Cu<br />
CK<br />
28,25<br />
42,28<br />
33,40<br />
4,52<br />
30,7936,00<br />
50-140<br />
50<br />
<br />
VM<br />
20,88<br />
36,44<br />
27,30<br />
4,78<br />
24,5430,06<br />
<br />
Pb<br />
CK<br />
30,60<br />
49,68<br />
40,16<br />
6,72<br />
36,2844,04<br />
50-300<br />
70<br />
<br />
Nhƣ vậy, Châu Khê là thôn có hoạt động tái<br />
chế sắt lâu đời, và hoạt động này đang gây<br />
hậu quả nghiêm trọng đến sự tích luỹ kẽm<br />
trong đất, đáng báo động là sự tích luỹ này đã<br />
vƣợt quá tiêu chuẩn cho phép (biểu đồ 3).<br />
<br />
VM<br />
28,98<br />
57,48<br />
38,39<br />
9,31<br />
33,0143,77<br />
<br />
Zn<br />
CK<br />
96,01<br />
212,08<br />
134,32<br />
37,70<br />
112,55156,08<br />
150-300<br />
200<br />
<br />
VM<br />
38,05<br />
81,75<br />
54,13<br />
12,32<br />
47,0261,25<br />
<br />
Cd<br />
CK<br />
0,21<br />
0,39<br />
0,29<br />
0,059<br />
0,2550,323<br />
1-3<br />
2<br />
<br />
VM<br />
0,11<br />
0,39<br />
0,19<br />
0,077<br />
0,15-0,24<br />
<br />
Biểu đồ 3: Hàm lƣợng Zn trong đất ảnh hƣởng bởi<br />
tái chế kim loại ở Bắc Ninh<br />
<br />
Sự tích luỹ cadimi trong đất<br />
Đối với Cd, ta thấy rằng hoạt động của hai<br />
làng nghề tái chế này chƣa gây nên sự tích lũy<br />
nguyên tố cacdimi trong đất tới mức báo<br />
động. Hàm lƣợng Cd trong đất ở 2 vùng khảo<br />
sát còn thấp dƣới ngƣỡng an toàn cho phép đối<br />
với đất nông nghiệp. Trung bình ở Châu Khê<br />
đạt 0,29 mg/kg còn vùng Vân Môn là 0,19<br />
mg/kg. Giới hạn cho phép theo TC Việt Nam<br />
(TCVN 7209-2002) là 2 mg/kg (biểu đồ 4).<br />
<br />
112<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.Lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Mai Thị Lan Anh và cs<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
3<br />
CK<br />
<br />
CK (trung bình)<br />
<br />
VM<br />
<br />
VM (trung bình)<br />
<br />
TCVN 7209-2002<br />
2<br />
<br />
1<br />
<br />
0<br />
<br />
Biểu đồ 4: Hàm lƣợng Cd trong đất ảnh hƣởng<br />
bởi tái chế kim loại ở Bắc Ninh<br />
<br />
Tích lũy kim loại Cu, Pb, Zn, Cd trong thóc<br />
Hàm lượng đồng tổng số trong thóc<br />
Kết quả nghiên cứu hàm lƣợng các kim loại<br />
nặng trong đất đƣợc mô tả trong bảng 3. Nhìn<br />
chung hàm lƣợng Cu trong thóc của Châu<br />
Khê (0,33-5,13 mg/kg) thấp hơn ở Vân Môn<br />
(1,72-11,15 mg/kg). So sánh với hàm lƣợng<br />
Cu trong đất giữa hai vùng lại cho xu thế<br />
ngƣợc lại, ở Châu Khê cao hơn ở Vân Môn.<br />
Nhƣ vậy, mặc dù hàm lƣợng Cu trong đất ở<br />
Châu Khê cao, nhƣng khả năng lúa hút thu<br />
kim loại đồng và tích luỹ ở hạt thóc lại không<br />
cao. Có thể đồng trong đất ở Châu Khê tồn tại<br />
trong đất ở dạng lúa khó hút thu, hoặc có thể<br />
có những yếu tố khác đã hạn chế sự hút thu và<br />
tích lũy đồng của cây lúa.<br />
Hàm lượng Pb tổng số trong thóc<br />
Khi phân tích hàm lƣợng một số kim loại<br />
nặng tích lũy trong cây lúa, năm 2003 Đặng<br />
Thị Tuyết [3] thu đƣợc kết quả là hàm lƣợng<br />
Pb trong cây dao động từ 15-22 mg/kg chất<br />
<br />
65(03): 110 - 115<br />
<br />
khô. Lƣợng Pb do mùa màng lấy đi khá lớn là<br />
1,2-2,1 kg/ha. Theo Chander-Sheila M. Ros<br />
(1994) [7] hàm lƣợng kẽm gấp 1,2-2,3 lần<br />
giới hạn cho phép (300 mg/kg) dẫn đến giảm<br />
sinh khối từ 25-40%. Sự hút thu và tích luỹ<br />
Pb trong thóc ở cánh đồng hai xã Châu Khê<br />
và Vân Môn đƣợc mô tả ở bảng 3, có giá trị<br />
gần tƣơng đƣơng nhau. Kết quả này khá phù<br />
hợp với hàm lƣợng Pb trong đất ở các điểm<br />
khảo sát (bảng 2). Giá trị hàm lƣợng Pb thu<br />
đƣợc trong các mẫu phần lớn nằm trong<br />
khoảng 0,93-2,52 mg/kg ở Châu Khê và 0,812,54 mg/kg ở Vân Môn.<br />
Hàm lượng kẽm tổng số trong thóc<br />
Hàm lƣợng Zn trung bình trong thóc ở Châu<br />
Khê (42,02 mg/kg) gấp 1,6 lần hàm lƣợng Zn<br />
trong các mẫu thóc thu đƣợc ở Vân Môn<br />
(26,29 mg/kg). Nƣớc thải của làng nghề tái<br />
chế sắt đã gây tích luỹ lƣợng lớn Zn vào đất,<br />
và đã ảnh hƣởng đến hút thu và tích luỹ Zn<br />
trong thóc. Hàm lƣợng Zn trong đất ở vùng ô<br />
nhiễm từ 2 nguồn làng nghề khác nhau đều<br />
cao hơn thóc từ vùng đất không ảnh hƣởng<br />
làng nghề. Nếu so sánh hai làng nghề tái chế<br />
này thì, hoạt động tái chế sắt gây ảnh hƣởng<br />
mạnh mẽ hơn so với tác động của làng nghề<br />
tái chế nhôm. Điều này có thể đƣợc giải thích<br />
do quy mô làng nghề tái chế sắt lớn hơn làng<br />
nghề tái chế nhôm [2].<br />
<br />
Bảng 3. Hàm lƣợng Cu, Pb, Zn, Cd tổng số trong thóc (mg/kg)<br />
Thông số thống kê<br />
Thấp nhất<br />
Lớn nhất<br />
Trung bình<br />
Độ lệch chuẩn<br />
CI 95%<br />
<br />
Cu<br />
CK<br />
0,33<br />
5,13<br />
3,17<br />
1,32<br />
2,413,93<br />
<br />
VM<br />
1,72<br />
11,15<br />
4,27<br />
2,29<br />
2,945,59<br />
<br />
Hàm lượng Cadimi tổng số trong thóc<br />
Đối với Cd thì hàm lƣợng trong thóc bị ảnh<br />
hƣởng bởi nƣớc thải làng nghề tái chế sắt ở<br />
Châu Khê dao động trong khoảng từ 0,0180,609 mg/kg, còn ở Vân Môn giá trị này biến<br />
động từ 0,015-1,63 mg/kg. Trung bình hàm<br />
lƣợng Cd trong thóc ở Vân Môn đạt 0,54<br />
<br />
Pb<br />
CK<br />
0,32<br />
4,30<br />
1,73<br />
1,37<br />
0,932,52<br />
<br />
VM<br />
0,28<br />
5,59<br />
1,68<br />
1,50<br />
0,812,54<br />
<br />
Zn<br />
CK<br />
6,75<br />
70,76<br />
42,02<br />
20,83<br />
30,1754,23<br />
<br />
VM<br />
15,92<br />
43,05<br />
26,29<br />
7,60<br />
21,8330,61<br />
<br />
Cd<br />
CK<br />
0,018<br />
0,609<br />
0,225<br />
0,168<br />
0,1280,322<br />
<br />
VM<br />
0,015<br />
1,63<br />
0,524<br />
0,49<br />
0,240,81<br />
<br />
mg/kg, ở Châu Khê là 0,225 mg/kg. Nhƣ vậy<br />
hàm lƣợng Cd trong đất và trong thóc bị ảnh<br />
hƣởng bởi nƣớc thải của hai làng nghề khác<br />
nhau không đáng kể.<br />
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ<br />
Kết luận<br />
Hàm lượng kim loại nặng trong đất<br />
<br />
113<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.Lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />
Mai Thị Lan Anh và cs<br />
<br />
Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br />
<br />
Hàm lƣợng Cu trong đất ở khu vực ảnh<br />
hƣởng bởi nƣớc thải ở vùng Châu Khê<br />
(28,25-42,28 mg/kg) luôn cao hơn trong đất ở<br />
khu vực ảnh hƣởng nƣớc thải ở Vân Môn<br />
(20,88–36,44 mg/kg).<br />
Hàm lƣợng Pb tổng số trung bình ở vùng<br />
Châu Khê là 40,16 6,72 mg/kg, ở vùng Vân<br />
Môn là 38,39 9,31mg/kg. Hàm lƣợng Zn<br />
trung bình của Châu Khê (96,01-212,08<br />
mg/kg) gấp gần 2,5 lần hàm lƣợng Zn tổng số<br />
trong đất ở vùng Vân Môn (38,05-81,75<br />
mg/kg). Đặc biệt một số mẫu thu thập đƣợc ở<br />
Châu khê cho thấy hàm lƣợng Zn trong đất<br />
vƣợt quá tiêu chuẩn cho phép của Việt Nam<br />
TCVN 7209-2002 từ 2,23 – 12 mg/kg.<br />
Làng nghề tái chế sắt có khả năng ảnh hƣởng<br />
đến môi trƣờng đất nhiều hơn, tích lũy Cu, Zn<br />
nhiều hơn so với làng nghề tái chế nhôm.<br />
Hàm lượng kim loại nặng trong thóc<br />
Hàm lƣợng Cu trong thóc của Vân Môn<br />
(1,72-11,15 mg/kg) cao hơn ở Châu Khê<br />
(0,33-5,13 mg/kg).<br />
Giá trị hàm lƣợng Pb trong thóc ở 2 vùng<br />
nghiên cứu tƣơng đƣơng nhau (0,81-2,54<br />
mg/kg).<br />
Hàm lƣợng Zn trung bình trong thóc ở Châu<br />
Khê gấp 1,6 lần ở Vân Môn.<br />
Trung bình hàm lƣợng Cd trong thóc ở Vân<br />
Môn đạt (0,54 mg/kg) gấp 2 lần ở Châu Khê<br />
(0,225 mg/kg).<br />
Kiến nghị<br />
Cần có cảnh báo tiềm năng ô nhiễm môi<br />
trƣờng đất và nông sản do tác động làng nghề<br />
đối với những vùng lân cận, để có giải pháp<br />
hạn chế, ngăn ngừa sự lan chuyền ô nhiễm.<br />
Cần nghiên cứu mô hình khả năng lan chuyền<br />
để đánh giá phạm vi và mức độ ô nhiễm theo<br />
<br />
65(03): 110 - 115<br />
<br />
thời gian và không gian, cảnh báo sớm cho<br />
nông dân và nhà hoạch định chính sách về<br />
quản lý nƣớc thải, quản lý môi trƣờng.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
[1] Báo cáo của BCH Đảng bộ xã Châu Khê khoá<br />
XVIII nhiệm kỳ 2000-2005.<br />
[2] Báo cáo Tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh tếxã hội năm 2005 và phƣơng hƣớng nhiệm vụ chủ<br />
yếu năm 2006, trình bày tại kỳ họp thứ 5 HĐND<br />
xã khoá XV ngày 24/01/2006. UBND xã Châu<br />
Khê, Từ Sơn, Bắc Ninh.<br />
[3] Đặng Thị Tuyết. Nghiên cứu ảnh hưởng của<br />
các nguyên tố Đồng, Cadimi, Chì, kẽm đến sinh<br />
trưởng, phát triển của mạ. Khóa luận tốt nghiệp,<br />
năm 2003.<br />
[4] Nguyễn Công Vinh, Ngô Đức Minh, 2005,<br />
Ảnh hưởng nước thải thành phố đến sự tích luỹ<br />
kim loại nặng trong đất và cây lúa ngoại thành<br />
thành phố Nam Định, Tạp chí KH Đất số 23,<br />
2005.<br />
[5] Alina Kabata- Pendias, Henry Pendias. Trace<br />
elements in soils and plants. CRC Press, Boca<br />
Raton, Florida. 1984. tr 99-116, 154-163.<br />
[6]. L. Raschid-Sally. Wastewater use in<br />
agriculture.UNESCAP-IWMI-NISF Seminar on<br />
Environmental and Public Health Risks due to<br />
Contamination of Soils, Crops, Surface and<br />
Groundwater from Urban, Industrial and Natural<br />
Sources in South-East Asia 10-12 December 2002,<br />
Hanoi, Vietnam.<br />
[7] Yoshikawa T, Kusaka S, Zikihara T &<br />
Yoshida T, 1981, Accumulation of heavy metals in<br />
rice grains, In Heavy metal pollution in soils of<br />
Japan Eds, K, Kitagishi and I, Yamane, pp 98,<br />
Japan Scientific Societies Press, Tokyo.<br />
<br />
114<br />
<br />
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
http://www.Lrc-tnu.edu.vn<br />
<br />