intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tác động của sự phát triển thị trường chứng khoán tới phát triển kinh tế các nước ASEAN và khuyến nghị cho Việt Nam

Chia sẻ: Sở Trí Tu | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:14

26
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài nghiên cứu phân tích tác động của sự phát triển thị trường chứng khoán tới phát triển kinh tế của các nước trong khối ASEAN. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy gộp với biến công cụ trên bộ dữ liệu của 10 quốc gia trong khối ASEAN. Thời gian nghiên cứu từ năm 1990 đến năm 2016. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tác động của sự phát triển thị trường chứng khoán tới phát triển kinh tế các nước ASEAN và khuyến nghị cho Việt Nam

  1. TÁC ĐỘNG CỦA SỰ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ CÁC NƯỚC ASEAN VÀ KHUYẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM ThS. Nguyễn Ngọc Trâm1 Viện Ngân hàng Tài chính, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Trần Đăng Minh Lớp Tài chính tiên tiến 55B, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Tóm tắt Bài nghiên cứu phân tích t c động của sự phát triển thị trường chứng khoán tới phát triển kinh tế của c c nước trong khối ASEAN. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp hồi quy gộp với biến công cụ trên bộ dữ liệu của 10 quốc gia trong khối ASEAN. Thời gian nghiên cứu từ năm 1990 đến năm 2016. Kết quả nghiên cứu cho thấy quy mô và tính thanh khoản của thị trường chứng khoán có t c động tích cực tới phát triển kinh tế. Tuy nhiên, sự phát triển của trung gian tài chính, đặc biệt là ngân hàng, lại có t c động làm giảm sự phát triển kinh tế. Bài nghiên cứu đưa ra một số khuyến nghị cho Việt Nam. Từ khóa: Thị trường chứng khoán, phát triển, ASEAN 1. Giới thiệu Mối quan hệ giữa sự phát triển thị trường chứng khoán và phát triển kinh tế là một chủ đề đã được nhà nghiên cứu theo đuổi cũng như tiếp cận bằng các phương pháp khác nhau. (King và Levine (1993), Rousseau và Wachtel (1998), Levine và Zervos (1998) hay Levine, Loayza và Beck (2000) hay Rousseau và Sylla (2001)). Các nghiên cứu này có điểm chung là đều sử dụng bộ dữ liệu của nhiều quốc gia trên thế giới. Nghiên cứu của King và Levine (1993) sử dụng dữ liệu của 41 quốc gia hay Garcia và Liu (1999) nghiên cứu 15 quốc gia gồm cả nước đang phát triển và kém phát triển. Tuy nhiên, chưa có một nghiên cứu nào tập trung vào các thị trường châu Á, đặc biệt là các nước trong khối ASEAN. Hơn nữa, kết quả của các nghiên cứu đưa ra không đồng nhất. Một số nghiên cứu khẳng định sự phát triển của thị trường chứng 1 Email của tác giả chính: ngoctram811@gmail.com 229
  2. khoán sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế như các nghiên cứu của King và Levine (1993), Rousseau và Wachtel (1998) hay nghiên cứu của Levine và Zervos (1998). Tuy nhiên, một số tác giả đưa ra kết luận hoàn toàn trái ngược như Stiglitz (1985, 1994) hay Deverux và Smith (1994). Vì vậy, việc có một nghiên cứu hoàn chỉnh về mối quan hệ này tại thị trường các nước châu Á, đặc biệt là các nước khối ASEAN là hết sức cần thiết. Nhóm tác giả tập trung tìm hiểu tác động của sự phát triển thị trường chứng khoán tới phát triển kinh tế các nước ASEAN và đưa ra khuyến nghị cho Việt Nam. Phương pháp sử dụng trong bài nghiên cứu là hồi quy dữ liệu chéo theo phương pháp hồi quy gộp sử dụng biến công cụ. Phương pháp này giúp loại bỏ vấn đề nội sinh khi nghiên cứu về mối quan hệ giữa sự phát triển thị trường chứng khoán và tăng trưởng kinh tế. 2. Tổng quan nghiên cứu Câu hỏi nghiên cứu là liệu thị trường chứng khoán có quan trọng đối với sự phát triển kinh tế? Nhiều nhà nghiên cứu không đồng tình nhưng cũng nhiều bài viết khẳng định sự quan trọng của thị trường tài chính trong việc huy động tiền tiết kiệm, phân phối vốn, thúc đẩy quản trị doanh nghiệp và quản trị rủi ro. Một phần lớn nghiên cứu khai thác tác động tích cực của sự phát triển thị trường chứng khoán tới tăng trưởng kinh tế. Greenwood và Smith (1997) cho rằng thị trường chứng khoán lớn có khả năng giảm chi phí của việc huy động các khoản tiết kiệm và tạo điều kiện đầu tư vào những công nghệ mới. Levine (1991) và Bencivenga, Smith, và Starr (1996) chỉ ra rằng tính thanh khoản của thị trường chứng khoán giúp giảm thiểu rủi ro và chi phí cho những khoản đầu tư dài hạn. Các nhà nghiên cứu này cho rằng thông qua việc cung cấp một dạng tài sản dễ dàng mua bán với chi phí thấp, thị trường chứng khoán giúp các nhà đầu tư chủ động trong việc sử dụng tiền của mình, qua đó thúc đẩy sự đầu tư cho các dự án nói chung. Obstfeld (1994) chỉ ra rằng chia sẻ rủi ro qua các thị trường chứng khoán liên kết với nhau trên thế giới giúp nâng cao việc phân bổ các nguồn tài nguyên và thúc đẩy sự phát triển kinh tế. King và Levine (1993) đề xuất xây dựng một chỉ số về sự phát triển của thị trường chứng khoán nói chung khi tính tới cả ba khía cạnh của thị trường (quy mô, thanh khoản và rủi ro). Nghiên cứu này cũng cho thấy việc phát triển thị trường chứng khoán có tác động tích cực tới phát triển kinh tế. 230
  3. Tuy nhiên, có một nhóm các bài nghiên cứu cho rằng thị trường chứng khoán phát triển không có tác động tích cực tới phát triển kinh tế. Tuy Bencivenga và Smith (1991) khẳng định tác động tích cực của việc gia tăng tính thanh khoản tới phát triển kinh tế, hai tác giả này cũng nhấn mạnh rằng thanh khoản quá lớn có thể làm giảm tỷ lệ tiết kiệm tới mức làm chậm sự phát triển của nền kinh tế. Stiglitz (1985, 1994) cho rằng tính thanh khoản của thị trường chứng khoán không khích lệ việc tìm hiểu thông tin về các công ty hoặc nâng cao quản trị doanh nghiệp. Thêm vào đó, Deverux và Smith (1994) cũng nhấn mạnh rằng việc chia sẻ rủi ro qua các thị trường chứng khoán liên kết với nhau trên thế giới thực sự làm giảm tỷ lệ tiết kiệm và kéo theo làm sự phát triển kinh tế chậm lại. Một nhóm các nghiên cứu nhấn mạnh vào tính hiệu quả của thị trường chứng khoán và phát triển kinh tế. Thị trường chứng khoán còn có thể thúc đẩy việc nắm bắt các thông tin về doanh nghiệp nhằm thu lợi (Grossman và Stiglitz 1980; Kyle 1984; Holmstrom và Tirole 1993). Trong một thị trường lớn và thanh khoản cao, giá cổ phiếu thường phản ánh những thông tin liên quan, vì vậy, việc nắm được thông tin trước khi nó được công bố rộng rãi có thể mang lại lợi nhuận lớn cho nhà đầu tư. Điều này khích lệ các nhà đầu tư tìm hiểu và quan sát các công ty, từ đó nâng cao chất lượng thông tin về doanh nghiệp dẫn đến cải thiện phân bố các nguồn vốn và thúc đẩy nền kinh tế đi lên. Trái lại, Stiglitzs trong bài nghiên cứu năm 1985 và 1994 đã chỉ ra rằng những thị trường chứng khoán tốt phản ánh rất nhanh thông tin trên giá cổ phiếu, và như vậy sẽ làm giảm việc nhà đầu tư sử dụng những nguồn riêng để nắm thông tin. Dựa trên phần tổng quan nghiên cứu, nhóm tác giả nhận thấy tuy có một số lượng lớn học giả quan tâm tới vấn đề nghiên cứu này nhưng kết quả nghiên cứu là không đồng nhất. Trong số các nghiên cứu trước đây, tuy đã có một số nghiên cứu trên thị trường châu Á nhưng chưa có nghiên cứu nào tập trung phân tích mối quan hệ này của các quốc gia trong khối ASEAN. 3. Phƣơng pháp nghiên cứu Nhóm tác giả tập trung nghiên cứu về tác động của sự phát triển thị trường chứng khoán tới sự phát triển kinh tế của các nước trong khu vực ASEAN. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là hồi quy gộp với biến 231
  4. công cụ (Pooled regression with instrumental variable). Phương trình hồi quy có dạng: Trong đó: GR là biến phụ thuộc đại diện cho sự phát triển kinh tế của nước i tại thời điểm t; STOCK là biến độc lập đại diện cho sự phát triển của thị trường chứng khoán; là ước lượng hệ số hồi quy của biến STOCK; X là một tập hợp các biến kiểm soát; là véc-tơ hệ số hồi quy của các biến kiểm soát. Các biến trong mô hình cụ thể như sau: Biến phụ thuộc: Sự phát triển kinh tế, đại diện bằng tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người và tốc độ tăng trưởng GDP. Biến độc lập: Sự phát triển của thị trường chứng khoán: Sự phát triển thị trường chứng khoán được nghiên cứu trên hai giác độ là quy mô và tính thanh khoản. Trong đó, quy mô được đại diện bởi biến giá trị vốn hóa thị trường trên GDP (MCAP). Việc sử dụng giá trị vốn hóa thị trường trên GDP để đại diện cho sự phát triển của thị trường chứng khoán do quy mô thị trường tương quan dương với khả năng huy động vốn và đa dạng hóa rủi ro trên khía cạnh kinh tế. Khía cạnh thứ hai của sự phát triển thị trường chứng khoán là tính thanh khoản. Nhóm tác giả đo lường tính thanh khoản của thị trường bằng hai biến số là tổng giá trị giao dịch trên GDP (VOL) và doanh số giao dịch (giá trị giao dịch chia cho giá trị vốn hóa thị trường – TURN. Tổng giá trị giao dịch trên GDP (VOL) đo lường giá trị cổ phiếu giao dịch so với quy mô của nền kinh tế. Thước đo này có ưu điểm hơn so với việc đo lường quy mô thị trường nói chung vì có những thị trường rất lớn nhưng lại kém thanh khoản. Thước đo thứ hai cho tính thanh khoản là doanh số giao dịch (TURN). Có thể hiểu TURN cho biết giá trị giao dịch so với quy mô của toàn bộ thị trường chứng khoán. Thước đo này cũng có ưu điểm hơn so với quy mô thị trường chứng khoán nói chung vì có những thị trường tuy không lớn nhưng tính thanh khoản cao thì vẫn có tác động tới toàn bộ nền kinh tế. 232
  5. Biến kiểm soát: Để xác định tác động của sự phát triển thị trường chứng khoán tới sự phát triển kinh tế, nhóm tác giả sử dụng một hệ thống các biến kiểm soát nhằm kiểm soát các yếu tố khác cũng có ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế. Theo Barro (1996), các nhân tố khác cũng tác động tới tăng trưởng có thể kể tên như tỷ lệ đăng ký học phổ thông, mức chi tiêu của Chính phủ trên GDP, sự phát triển của các trung gian tài chính và tỷ lệ lạm phát. Cụ thể: Tỷ lệ đăng ký học phổ thông (ENR) Mức chi ti u của Chính phủ trên GDP(GOV) Sự ph t triển của trung gian tài chính (M3GDP): Nghiên cứu sử dụng tỷ lệ M3/GDP là đại diện cho sự phát triển của trung gian tài chính, đặc biệt là ngân hàng. Tỷ lệ M3/GDP cho biết quy mô của lĩnh vực ngân hàng đối với toàn bộ kinh tế. Tỷ lệ lạm ph t. Tỷ lệ lạm phát nhằm tính tới yếu tố ổn định kinh tế vĩ mô. Trong bài nghiên cứu, nhóm tác giả sử dụng tỷ lệ lạm phát tính dựa trên chỉ số giá tiêu dùng và chỉ số giảm phát GDP. Ngoài ra, nhóm tác giả sử dụng biến công cụ gồm có giá trị ban đầu của thu nhập bình quân trên đầu người của mỗi quốc gia, giá trị ban đầu của tỷ lệ đăng ký học phổ thông, giá trị ban đầu của tỷ lệ lạm phát, giá trị ban đầu của chi tiêu Chính phủ, giá trị ban đầu của vốn hóa thị trường trên GDP, giá trị ban đầu của khối lượng giao dịch trên GDP và giá trị ban đầu của doanh số giao dịch. Những biến công cụ này được xác định trước. Việc sử dụng các biến công cụ này giúp nhóm tác giả bóc tách các thành phần được xác định trước của tỷ lệ chi tiêu của Chính phủ, tỷ lệ lạm phát và sự phát triển của thị trường chứng khoán. 233
  6. Bảng tổng hợp các biến sử dụng trong mô hình: Tên biến Biến đại diện Ký hiệu Chú thích Tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân trên GR BIẾN Tăng trưởng kinh tế đầu người PHỤ THUỘC Tốc độ tăng trưởng GDP GDP Sự phát triển của thị trường chứng khoán Vốn hóa thị trường/GDP MCAP – Quy mô BIẾN ĐỘC Sự phát triển của Giá trị giao dịch/GDP VOL LẬP thị trường chứng khoán Giá trị giao dịch/Vốn hóa – Thanh khoản thị trường TURN Sự phát triển của trung M3/GDP M3GDP gian tài chính Chi tiêu Chính phủ Chi tiêu Chính phủ/GDP GOV BIẾN KIỂM Tính dựa trên CPI CPI SOÁT Tỷ lệ lạm phát Tính dựa trên chỉ số DEF giảm phát 4. Dữ liệu Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu lịch sử từ năm 1990 đến năm 2016 của 10 nước trong khu vực ASEAN. Thông tin của các biến được thu thập từ Cổng dữ liệu của Ngân hàng Thế giới (Data World Bank) Bảng 1: Thống kê mô tả các biến Statistic N Mean St. Dev. Min Max GDP 256 5.734 3.701 -13.127 15.24 GR 256 3.964 3.764 -14.351 13.216 MCAP 126 98.809 75.089 9.564 320.993 ENR 194 64.676 25.482 16.546 108.1 234
  7. Statistic N Mean St. Dev. Min Max GOV 221 11.203 5.421 3.46 29.867 CPI 248 7.644 12.9 -2.315 128.419 DEF 256 8.552 13.723 -22.091 127.974 VOL 134 39.485 36.772 2.633 211.849 TURN 126 44.345 24.743 6.49 124.734 M3GDP 222 62.147 37.948 4.894 135.093 Nguồn: Tính toán của tác giả Bảng 1 mô tả các biến số cơ bản của nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm 1990 đến năm 2016. Các quốc gia được đưa vào trong nghiên cứu là 10 nước thuộc nhóm các nước ASEAN, bao gồm Brunei, Indonesia, Cambodia, Myanmar, Thailand, Philippines, Singapore, Lào, Malaysia và Việt Nam. Điều có thể nhận thấy rõ ràng trong bảng số liệu trên là dù trong cùng một khu vực, các nước có sự khác biệt rõ rệt về tình hình kinh tế cũng như sự phát triển của thị trường chứng khoán, phản ánh qua khoảng cách khá lớn của giá trị nhỏ nhất và lớn nhất của các biến đại diện. Có những quốc gia có tốc độ tăng trưởng GDP rất cao như Singapore vào năm 2010 (15.24%) nhưng cũng có quốc gia có tốc độ tăng trưởng GDP rất thấp như Indonesia vào năm 1998 (-13.127%). Trung bình 10 quốc gia trong mẫu nghiên cứu có giá trị vốn hóa thị trường/GDP là 98.809%. Vốn hóa thị trường lớn nhất trong mẫu nghiên cứu đó là Malaysia vào năm 1993 với hơn 320% GDP, trong khi vốn hóa thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2008 chiếm khoảng 9.5% GDP. Bảng 1 cũng liệt kê Tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân trên đầu người, Tốc độ tăng trưởng GDP, Giá trị giao dịch/GDP, Giá trị giao dịch/Vốn hóa thị trường, Tỷ lệ lạm phát và thay đổi của tỷ lệ lạm phát, Chi tiêu của chính phủ, Tỷ trọng của M3 so với GDP. Nhìn chung, khoảng cách giữa các giá trị nhỏ nhất và lớn nhất là tương đối lớn. 235
  8. 5. Kết quả nghiên cứu Bảng 2: Hồi quy gộp với biến công cụ với biến phụ thuộc là tốc độ tăng trƣởng thu nhập bình quân đầu ngƣời Biến phụ thuộc: Tốc độ tăng trƣởng thu nhập bình quân đầu ngƣời 1 2 3 4 5 MCAP 0.025*** 0.013 0.041*** 0.009 0.035*** -0.009 -0.01 -0.011 -0.014 -0.012 ENR -0.062** -0.067** -0.051* -0.043 -0.058* -0.029 -0.028 -0.029 -0.035 -0.034 CPI -0.362*** -0.349*** -0.372*** -0.057 -0.056 -0.066 DEF -0.238*** -0.241*** -0.043 -0.044 M3GDP -0.071*** -0.093*** -0.123*** -0.105*** -0.105*** -0.022 -0.021 -0.028 -0.022 -0.027 VOL 0.042*** 0.049*** -0.015 -0.018 TURN 0.043*** 0.037** -0.016 -0.016 GOV -0.183 -0.086 -0.27 -0.241 L_IGPC 0.715 3.626 4.838* 7.479* 3.419 -2.635 -2.785 -2.755 -4.187 -3.568 Constant 11.082 3.832 -1.811 -6.762 3.673 -8.586 -8.858 -8.811 -11.562 -10.427 Nguồn: Tính toán của tác giả 236
  9. Bảng 2 cho thấy kết quả hồi quy gộp với biến phụ thuộc là tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người. Kết quả hồi quy gộp cho thấy có đủ bằng chứng để kết luận về tác động của sự phát triển thị trường chứng khoán với sự phát triển kinh tế của các nước trong khu vực ASEAN. Trong đó, sự phát triển của thị trường chứng khoán được nghiên cứu ở hai khía cạnh: quy mô thị trường và tính thanh khoản của thị trường. Phương trình (1) là phương trình có đưa vào log của giá trị đầu của thu nhập bình quân đầu người của các quốc gia trong mẫu nghiên cứu, tỷ lệ đăng ký học phổ thông, tỷ lệ lạm phát. Phương trình (2) và (3) nghiên cứu tính thanh khoản của thị trường chứng khoán và có tính thêm tới tác động của sự phát triển của trung gian tài chính. Phương trình (4) và (5) thêm biến về chi tiêu của Chính phủ. Cả 5 phương trình hồi quy đều cho thấy khi quy mô thị trường và tính thanh khoản thị trường tăng lên có tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế. Khi quy mô thị trường tăng lên 1% thì tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người tăng lên khoảng 0.025% - 0.041% ở mức ý nghĩa 99%. Khi các yếu tố khác không đổi, tổng giá trị giao dịch trên GDP tăng lên 1% có tác động tích cực lên sự phát triển kinh tế, cụ thể tác động làm tăng tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người lên khoảng 0.04% - 0.05%. Biến doanh số giao dịch đại diện cho tính thanh khoản của thị trường cũng có tác động tương tự (Doanh số giao dịch tăng lên 1% thì tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 0.04% ở mức ý nghĩa 99%). Tác động của các biến kiểm soát đúng theo dự đoán. Tỷ lệ lạm phát (tính dựa trên cả chỉ số CPI và chỉ số giảm phát) tăng lên sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Chính phủ gia tăng chi tiêu không có tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế các nước ASEAN như nhiều bài nghiên cứu tại các thị trường khác đã chỉ ra. Kết quả mô hình đã cho thấy việc Chính phủ gia tăng chi tiêu thậm chí có tác động giảm tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên, hệ số hồi quy trong mô hình không có ý nghĩa về mặt thống kê. Điểm đáng lưu ý ở kết quả hồi quy là sự phát triển của các trung gian tài chính, đặc biệt là các ngân hàng (đại diện bằng M3/GDP) có tác động làm giảm tăng trưởng kinh tế. Nhiều nghiên cứu trước đây đã ghi nhận kết quả tương tự về tác động của biến số này tới tăng trưởng kinh tế nói chung. 237
  10. Gregoria và Guidotti (1995) hay Cavenaile và Sougne (2012) tìm thấy bằng chứng cho rằng một hệ thống tài chính phát triển không những không hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế mà còn làm giảm tăng trưởng kinh tế ở một số quốc gia. Cavenaile và Sougne (2012) tìm thấy rằng trong 4 trên 6 nước trong mẫu nghiên cứu tồn tại mối quan hệ ngược chiều giữa sự phát triển của hệ thống ngân hàng và phát triển kinh tế. Họ cho rằng trong dài hạn, tác động của sự phát triển của hệ thống ngân hàng có xu hướng giảm dần, thậm chí có tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế. Phần lớn các quốc gia trong khối ASEAN vẫn phụ thuộc vào vốn tín dụng. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy rằng sự phát triển của hệ thống ngân hàng cùng với việc gia tăng các món nợ quá hạn dường như đang có tác động tiêu cực đến nền kinh tế nói chung. Bảng 3: Hồi quy gộp với biến công cụ với biến phụ thuộc là tốc độ tăng trƣởng GDP Biến phụ thuộc: Tốc độ tăng trƣởng GDP 6 7 8 9 10 MCAP 0.044*** 0.033*** 0.061*** 0.026* 0.050*** -0.009 -0.01 -0.011 -0.013 -0.012 ENR -0.064** -0.065** -0.050* -0.033 -0.044 -0.028 -0.026 -0.029 -0.033 -0.033 CPI -0.353*** -0.345*** -0.379*** -0.056 -0.054 -0.064 DEF -0.234*** -0.241*** -0.043 -0.041 M3GDP -0.102*** -0.114*** -0.158*** -0.127*** -0.136*** -0.022 -0.02 -0.028 -0.021 -0.027 238
  11. Biến phụ thuộc: Tốc độ tăng trƣởng GDP 6 7 8 9 10 VOL 0.030** 0.040** -0.015 -0.017 TURN 0.052*** 0.045*** -0.017 -0.015 GOV -0.277 -0.257 -0.253 -0.235 L_IGPC 1.499 3.565 6.012** 8.503** 6.147* -2.569 -2.658 -2.793 -3.923 -3.475 Constant 11.261 5.87 -3.059 -7.331 -1.196 -8.37 -8.454 -8.933 -10.833 -10.158 Nguồn: Tính toán của tác giả Để khẳng định kết quả của nghiên cứu, nhóm tác giả sử dụng tốc độ tăng trưởng GDP là một biến đại diện khác của tăng trưởng kinh tế. Các biến kiểm soát tương tự như Bảng 2. Mối quan hệ giữa quy mô cũng như tính thanh khoản thị trường với tốc độ tăng trưởng GDP ước lượng từ phương trình 6-10 khá đồng nhất với kết quả ước lượng của mô hình 1-5. Mức độ tác động mà nhóm tác giả tìm thấy cũng tương tự với kết quả trước đó. Cụ thể, khi các yếu tố khác không đổi, tổng giá trị giao dịch trên GDP tăng lên 1% có tác động tích cực lên sự phát triển kinh tế, cụ thể tác động làm tăng tốc độ tăng trưởng GDP lên khoảng 0.04% - 0.05%. Biến doanh số giao dịch đại diện cho tính thanh khoản của thị trường cũng có tác động tương tự (Doanh số giao dịch tăng lên 1% thì tốc độ tăng trưởng GDP tăng khoảng 0.05% ở mức ý nghĩa 99%). Bằng chứng mà nhóm nghiên cứu tìm thấy đủ để kết luận mối quan hệ giữa sự phát triển thị trường chứng khoán và tăng trưởng kinh tế có ý nghĩa về mặt kinh tế. 239
  12. 6. Kết luận Nhóm tác giả nghiên cứu tác động của sự phát triển thị trường chứng khoán tới sự phát triển kinh tế, tiếp cận bằng phương pháp hồi quy gộp với biến công cụ. Dữ liệu sử dụng trong bài nghiên cứu là dữ liệu lịch sử của 10 nước trong khu vực ASEAN trong khoảng thời gian từ năm 1990 đến 2016. Nhóm tác giả có đủ bằng chứng để khẳng định tác động tích cực của quy mô và tính thanh khoản của thị trường chứng khoán tới tăng trưởng kinh tế của các nước thuộc khối ASEAN. Trong khi đó, sự phát triển của trung gian tài chính, đặc biệt là ngân hàng, lại có tác động ngược lại. Khi sử dụng biến đại diện khác của tăng trưởng kinh tế, bài nghiên cứu cho kết quả tương tự. Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng trong việc hoạch định chính sách phát triển nền kinh tế Việt Nam. Chính phủ với vai trò kiến tạo và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của mình cần có những biện pháp tích cực hơn nữa trong việc phát triển thị trường chứng khoán về cả quy mô và cải thiện tính thanh khoản. Trải qua 16 năm hình thành và phát triển, thị trường chứng khoán Việt Nam đã và đang đóng vai trò là một kênh huy động vốn quan trọng trong nền kinh tế. Vốn hóa thị trường năm 2014 đạt 33%/GDP, tăng 114 lần so với năm 2000. Giá trị giao dịch cổ phiếu bình quân tăng xấp xỉ 1,400 lần so với năm 2000. Tuy nhiên, so với các thị trường trên thế giới, thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn được liệt kê vào trong nhóm các thị trường cận biên (frontier market). Mức độ cung vốn cho nền kinh tế của thị trường chứng khoán tương tứng 60% cung tín dụng. Tính thanh khoản của thị trường cần được cải thiện trong tương lai. Tính thanh khoản tốt sẽ giúp cho giá cả chứng khoán phản ánh đúng giá trị qua đó gia tăng niềm tin của nhà đầu tư vào thị trường. Tài liệu tham khảo 1. Barro, R. J. (1996), Determinants of economic growth: a cross-country empirical study (No. w5698), National Bureau of Economic Research. 2. Bencivenga, Valerie R., Bruce D. Smith, and Ross M. Starr. (1996), „Equyty Markets, Transactions Costs, and Capital Accumulation: An Illustration.‟ The World Bank Economic Review 10(2), trang 241-65. 3. Bencivenga, Valerie R., and Bruce D. Smith. (1991), „Financial Intermediation and Endogenous Growth‟, Review of Economics Studies 58 (2, April): trang 195-209. 240
  13. 4. Cavenaile, L., & Sougné, D. (2012), Financial development and economic growth: an empirical investigation of the role of banks and institutional investors, Applied Financial Economics, số 22(20), trang 1719-1725. 5. Deverux, Michael B., and Gregor W. Smith. (1994), „International Risk Sharing and Economic Growth.‟ International Economic Review 35, trang 535-50. 6. Garcia, V. F., & Liu, L. (1999), „Macroeconomic determinants of stock market development‟, Journal of Applied Economics, 2(1), trang 29-59. 7. Grossman, Sanford, and Joseph E. Stiglitz. (1980), „On the Impossibility of Informationally Efficient Markets.‟ American Economic Review 70: trang 393 - 408. 8. Holmstrom, Bengt, and Jean Tirole. (1993), „Market Liquydity and Performance Monitoring‟, Journal of Political Economy 101(4, August): trang 678-709. 9. Jose De Gregorio, Pablo E. Guidotti (1995), „Financial Development and Economic Growth‟, World Development số 23, trang 433-48. 10. J. Greenwood, Bruce D. Smith (1997), „Financial markets in development, and the development of financial markets‟, Journal of Economic Dynamics and Control số 21, trang 145-81. 11. King, R.G. & Levine, R. (1993), „Finance and growth: Schumpeter might be right‟, Quarterly Journal of Economics, số 108, trang 717-38. 12. Kyle, Albert S. (1984). „Market Structure, Information, Futures Markets, and Price Formation‟ trong Gary G. Storey, Andrew Schmitz, and Alexander H. Sarris, eds., International Agricultural Trade: Advanced Readings in Price Formation, Market Structure, and Price Instability. Boulder, Colo.: Westview. 13. Levine, R. & Zervos, S. (1998), „Stock markets, banks and economic growth‟, American Economic Review, số 88, trang 537-58. 14. Levine, R., Loayza, N. & Beck, T. (2000), „Financial intermediation and Growth: Causality and causes‟, Journal of Monetary Economics, số 46, trang 31-77. 15. Levine, R. (1991), „Stock Markets, Growth, and Tax Policy‟, Journal of Finance 46, trang 1445-65. 241
  14. 16. Obstfeld, Maurice. (1994). „Risk-Taking, Global Diversification, and Growth.‟ American Economic Review 84(5, December): tr.1310 - 29. 17. Rousseau, P.L. & Sylla, R. (2001), „Financial systems, economic growth and globalization‟, NBER working paper No. 8323. 18. Rousseau, P.L. & Wachtel, P. (1998), „Financial intermediation and economic performance: Historical evidence from five industrial countries‟, Journal of Money, Credit, and Banking, số 30, trang 657-78. 19. Stiglitz, Joseph E. (1985), „Credit Market and the Control of Capital‟, Journal of Money, Credit and Banking số 17, trang 133-52. 20. Stiglitz, Joseph E. (1994), „The Role of the State in Financial Markets‟, Proceedings of the World Bank Annual Conference on Development Economics 1993. Washington, D.C.: World Bank. 21. Sougné, D., & Cavenaile, L. (2012). Financial Development and Economic Growth: an Empirical Investigation of the Role of Banks and Institutional Investors, Applied Financial Economics, 22(20), tr.1719-1725. 242
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2