intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đánh giá tác động của sự phát triển các tổ chức tài chính phi ngân hàng tới ổn định tài chính ở Việt Nam dựa trên Mô hình ARDL

Chia sẻ: ViNeptune2711 ViNeptune2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:12

69
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu này nhằm mục tiêu đánh giá tác động của sự phát triển các tổ chức tài chính phi ngân hàng (NBFIs) tới ổn định tài chính ở Việt Nam. Dựa trên việc áp dụng Mô hình ARDL cho chuỗi dữ liệu theo tần suất năm (2000- 2018), nghiên cứu khẳng định rằng tác động tổng thể của sự phát triển NBFIs tới tình hình ổn định tài chính là tích cực.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đánh giá tác động của sự phát triển các tổ chức tài chính phi ngân hàng tới ổn định tài chính ở Việt Nam dựa trên Mô hình ARDL

Đánh giá tác động của sự phát triển các tổ chức tài<br /> chính phi ngân hàng tới ổn định tài chính ở Việt Nam<br /> dựa trên Mô hình ARDL<br /> <br /> Kiều Hữu Thiện Phạm Mạnh Hùng<br /> Giám đốc Trường Đào tạo và Phát triển Nguồn Viện Nghiên cứu Khoa học Ngân hàng,<br /> nhân lực Vietcombank Học viện Ngân hàng<br /> <br /> Phạm Đức Anh<br /> Viện Nghiên cứu Khoa học Ngân hàng,<br /> Học viện Ngân hàng<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Nghiên cứu này nhằm mục tiêu đánh giá tác động của sự phát triển các tổ<br /> chức tài chính phi ngân hàng (NBFIs) tới ổn định tài chính ở Việt Nam.<br /> Dựa trên việc áp dụng Mô hình ARDL cho chuỗi dữ liệu theo tần suất năm<br /> (2000- 2018), nghiên cứu khẳng định rằng tác động tổng thể của sự phát<br /> triển NBFIs tới tình hình ổn định tài chính là tích cực. Theo đó, mặc dù thực<br /> tiễn hoạt động của một số khu vực NBFIs có thể gây ra rủi ro hoạt động<br /> tiềm tàng trong một số giai đoạn cụ thể, song rủi ro này dường như chưa<br /> <br /> <br /> <br /> Ngày nhận: 12/07/2019 Ngày nhận bản sửa: 01/08/2019 Ngày duyệt đăng: 27/08/2019<br /> <br /> <br /> Assessment of the impact of non-bank financial institutions development on financial stability in<br /> Vietnam: an ARDL approach<br /> Abstract: This paper seeks to evaluate the impact of non-bank financial institutions (NBFIs) development on<br /> financial stability in Vietnam. Applying the autoregressive distributed lag (ARDL) model to the annual data<br /> series between 2000 and 2018, empirical findings confirm the overall impact of the NBFIs development<br /> on Vietnam’s financial stability is positive. Accordingly, although the business performance of some NBFI<br /> categories may pose potential operational risks during specific stages, these seem not considerable enough to<br /> affect Vietnam’s banking system in particular and financial stability as a whole.<br /> Keywords: non-bank financial institution (NBFI); financial stability; autoregressive distributed lag (ARDL) model.<br /> <br /> <br /> Thien Huu Kieu, Assoc. Prof. PhD.<br /> Email: thienkh@hvnh.edu.vn<br /> Director of Vietcombank School of Human Resource Development and Training<br /> Hung Manh Pham, PhD.<br /> Email: hungpm@hvnh.edu.vn<br /> Research Institute for Banking, Banking Academy of Vietnam<br /> Anh Duc Pham, MEc.<br /> Email: anhpd@hvnh.edu.vn<br /> Research Institute for Banking, Banking Academy of Vietnam<br /> <br /> © Học viện Ngân hàng Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng<br /> ISSN 1859 - 011X 1 Số 207- Tháng 8. 2019<br /> Đánh giá tác động của sự phát triển các tổ chức tài chính phi ngân hàng tới ổn định tài chính ở<br /> Việt Nam dựa trên Mô hình ARDL<br /> <br /> <br /> đủ lớn để có thể ảnh hưởng tới hệ thống ngân hàng nói riêng và ổn định tài<br /> chính nói chung của Việt Nam.<br /> Từ khóa: tổ chức tài chính phi ngân hàng (NBFI); ổn định tài chính; mô<br /> hình phân phối trễ tự hồi quy (ARDL)<br /> <br /> <br /> <br /> 1. Cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên lợi sẽ mang lại cho cả hai phía nhờ tính<br /> cứu quy mô, sự phân tán rủi ro và đa dạng hóa<br /> các danh mục đầu tư; (ii) cung cấp các<br /> Trong quá trình phát triển nền kinh tế, dịch vụ tài chính đa dạng, tăng cường áp<br /> bên cạnh các tổ chức ngân hàng thì còn có lực cạnh tranh với các ngân hàng thương<br /> một bộ phận không kém phần quan trọng mại (NHTM), làm cho chất lượng dịch vụ<br /> trong việc tạo ra dòng luân chuyển vốn phục vụ ngày càng được cải thiện, tạo ra<br /> từ người tiết kiệm- cho vay đến người chi nhiều khả năng lựa chọn cho khách hàng;<br /> tiêu- đi vay, đó là các tổ chức tài chính phi (iii) đáp ứng nhu cầu khác của cá nhân, hộ<br /> ngân hàng (NBFI). Thuật ngữ “tổ chức tài gia đình, doanh nghiệp trong lĩnh vực đầu<br /> chính phi ngân hàng” bắt đầu được đưa tư tài chính, giúp bảo vệ khoản đầu tư và<br /> vào sử dụng phổ biến với việc thông qua phân tán rủi ro cho các nhà đầu tư trong xã<br /> Đạo luật Chống rửa tiền Annunzio-Wylie hội.<br /> năm 1992 tại Mỹ, trong đó mở rộng định<br /> nghĩa nêu trong Đạo luật Bảo mật Ngân Trong những năm gần đây, vai trò của<br /> hàng (BSA) về “tổ chức tài chính” vượt ngân hàng như các trung gian tài chính ở<br /> ra ngoài phạm vi các tổ chức truyền thống. một số quốc gia phát triển đã giảm đi phần<br /> Theo Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) nào với sự xuất hiện của các trung gian tài<br /> năm 2010 của Việt Nam, TCTD phi ngân chính phi ngân hàng và sự phát triển của<br /> hàng hay rộng hơn là NBFI là loại hình tổ thị trường nợ, cho phép các doanh nghiệp<br /> chức được thực hiện một hoặc một số hoạt tiếp cận trực tiếp đến các khoản tiết kiệm<br /> động ngân hàng, trừ các hoạt động nhận cá nhân. Lịch sử phát triển kinh tế của các<br /> tiền gửi của cá nhân và cung ứng các dịch nước trên thế giới cho thấy sự phát triển<br /> vụ thanh toán qua tài khoản của khách tài chính của các quốc gia bắt đầu với các<br /> hàng. tổ chức tài chính ngân hàng, và trong giai<br /> đoạn tiếp theo là các NBFI. Nhưng trong<br /> Theo quan niệm truyền thống được đề giai đoạn sau, sự đóng góp của các NBFI<br /> cập trong các giáo trình chuyên ngành Tài trở nên rõ nét hơn so với các ngân hàng.<br /> chính- Ngân hàng, ví dụ: Giáo trình Tiền Trên thực tế, cả hai loại hình tổ chức là<br /> tệ- Ngân hàng và Thị trường Tài chính của cần thiết và cuộc cạnh tranh giữa các ngân<br /> Nguyễn Văn Tiến (2016), các NBFI bao hàng và NBFI có thể tăng cường phát triển<br /> gồm: các công ty tài chính, công ty chứng kinh tế và nâng cao hiệu quả của chính các<br /> khoán, công ty bảo hiểm, công ty cho thuê tổ chức này (Hossain và Shahiduzzaman,<br /> tài chính, quỹ hưu trí, quỹ đầu tư tương 2005).<br /> hỗ… Vai trò của các NBFI tập trung vào<br /> việc (i) gia tăng cơ hội tìm kiếm lợi nhuận Bên cạnh hiệu quả kinh tế đem lại, các<br /> cho các chủ thể trong nền kinh tế, nguồn NBFI cũng là một mắt xích quan trọng<br /> <br /> <br /> 2 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 2019<br /> KIỀU HỮU THIỆN - PHẠM MẠNH HÙNG - PHẠM ĐỨC ANH<br /> <br /> <br /> trong việc gây ra và dẫn truyền rủi ro dẫn Islam và Osman (2011) kiểm định mối<br /> đến khủng hoảng tài chính. Từ đó, để có quan hệ dài hạn giữa thu nhập bình quân<br /> thể xây dựng các đối sách ứng phó với đầu người thực tế và sự phát triển của<br /> các cuộc khủng hoảng tài chính về sau, NBFIs ở Malaysia bằng phương pháp<br /> các nhà hoạch định đã tập trung vào việc đường bao ARDL cho giai đoạn 1974-<br /> nghiên cứu, làm rõ bản chất và vai trò 2004. Kết quả của nghiên cứu xác nhận<br /> của NBFIs cũng như nguy cơ tác động từ một quan hệ ổn định dài hạn giữa GDP<br /> chúng hướng vào sự ổn định của hệ thống bình quân đầu người và NBFIs, đầu tư,<br /> tài chính. Nhiều tài liệu nghiên cứu trước lao động và mở cửa thương mại, trong đó<br /> đây cho thấy có ba kênh truyền tải rủi ro NBFIs có tác động tích cực đến GDP. Các<br /> quan trọng sau: tác giả nhấn mạnh NBFIs là một cấu phần<br /> quan trọng của khu vực tài chính mà thông<br /> Thứ nhất, NBFIs tạo ra rủi ro sản phẩm qua đó, nguồn lực tài chính được truyền<br /> thông qua việc sản xuất các sản phẩm có dẫn hiệu quả từ người tiết kiệm đến người<br /> cấu trúc, đặc biệt là liên quan đến chứng sử dụng vốn trong nền kinh tế.<br /> khoán hóa. Cuộc khủng hoảng tài chính<br /> gần đây đã chỉ ra rõ ràng rằng, do thiếu Ngược lại, kết quả thực nghiệm của Liang<br /> hiểu biết về những rủi ro gắn liền với một và Reichert (2012) với dữ liệu chéo của<br /> số tài sản có tính chứng khoán, nhiều ngân các quốc gia phát triển và đang phát triển<br /> hàng và NBFIs đã nắm giữ tài sản có nguy lại cho thấy tác động ngược chiều của khu<br /> cơ cao hơn nhiều so với những dự tính ban vực NBFIs đối với tăng trưởng kinh tế.<br /> đầu. Hệ quả này là do hoạt động của NBFIs<br /> (chủ yếu ở các mảng đầu tư và bảo hiểm)<br /> Thứ hai, một số NBFIs liên kết chặt chẽ thường mang tới rủi ro cao cho khu vực tài<br /> với các ngân hàng và các NBFI khác. Sự chính và nền kinh tế, đặc biệt thấy rõ trong<br /> liên kết này cho thấy sự căng thẳng về thời kỳ khủng hoảng 2007- 2009.<br /> tài chính ở cấp độ của một NBFI có thể<br /> chuyển sang các tổ chức tài chính khác Trong khi đó, với việc sử dụng mô hình<br /> (ngân hàng và phi ngân hàng) thông qua SGMM cho 27 tỉnh thành của Trung Quốc<br /> rủi ro của bên đối tác, tạo ra những khó giai đoạn 1995- 2003 nhằm xác định sự<br /> khăn ở cấp hệ thống tài chính nói chung. đóng góp của từng cấu phần trong hệ<br /> thống tài chính vào tăng trưởng kinh tế địa<br /> Thứ ba, một số NBFIs có quy mô rất lớn. phương, Cheng và Degryse (2010) nhận<br /> Bất kỳ sự khó khăn tài chính nào đến từ thấy khu vực tài chính chính thức (ngân<br /> một trong các tổ chức này đều có thể gây hàng) là động lực chính của tăng trưởng<br /> ra những căng thẳng tài chính cho toàn bộ kinh tế, trong khi những đóng góp đến<br /> hệ thống tài chính. từ NBFIs là hết sức mờ nhạt. Điều này là<br /> bởi, tại Trung Quốc, kể từ năm 2010 (thời<br /> Về mặt thực nghiệm, hiện nay đã có một điểm khủng hoảng đã đi qua), hệ thống<br /> số nghiên cứu được thực hiện cho trường ngân hàng đã lớn mạnh nhanh chóng nhờ<br /> hợp riêng từng quốc gia hoặc trên diện loạt chính sách cải cách, mở cửa và tư<br /> rộng nhằm đánh giá tác động của sự phát nhân hóa, đóng góp tích cực vào phát triển<br /> triển các NBFI đến khía cạnh khác nhau kinh tế và ổn định vĩ mô; trong khi đó, khu<br /> của ổn định tài chính. vực tài chính phi ngân hàng còn khá nhỏ<br /> <br /> <br /> Số 207- Tháng 8. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 3<br /> Đánh giá tác động của sự phát triển các tổ chức tài chính phi ngân hàng tới ổn định tài chính ở<br /> Việt Nam dựa trên Mô hình ARDL<br /> <br /> bé và cũng không nhận được hỗ trợ đáng (Gurajati, 2003). Các tiêu chuẩn này đều<br /> kể nào từ chính phủ. sẽ được chúng tôi kiểm định chặt chẽ<br /> trong quá trình hồi quy mô hình.<br /> Ngoài ra, một số nghiên cứu lý thuyết và<br /> thực nghiệm khác chỉ ra rằng sự phát triển Việc lựa chọn các biến cho mô hình hồi<br /> của NBFIs có thể tác động tới ổn định thị quy được nhóm nghiên cứu tham khảo từ<br /> trường tài chính thông qua một số kênh một số nghiên cứu trước đây, cụ thể: (i)<br /> chính như tích lũy vốn liên quan đến khối nhóm biến số đại diện cho sự phát triển<br /> lượng đầu tư và năng suất liên quan đến của NBFI xuất phát từ nghiên cứu của<br /> hiệu quả đầu tư (ví dụ: Beck và cộng sự, Islam và Osman (2011)1; (ii) nhóm biến<br /> 2000; Impavido và cộng sự, 2003; Rioja số về ổn định tài chính xuất phát từ nghiên<br /> và Valev, 2004). cứu của Ủy ban Châu Âu (2012)2 đối với.<br /> Mô hình nghiên cứu được xây dựng dựa<br /> 2. Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu trên năm nhóm phương trình hồi quy sau:<br /> VNI = f(RTAN, RREN) (1a)<br /> 2.1. Phương pháp nghiên cứu ZS = f(RTAN, RREN) (1b)<br /> NPL = f(RTAN, RREN) (1c)<br /> Để đánh giá tác động của sự phát triển VNI = f(CK) (2a)<br /> các NBFI tới ổn định tài chính, nghiên ZS = f(CK) (2b)<br /> cứu sử dụng mô hình phân phối trễ tự NPL = f(CK) (2c)<br /> hồi quy (ARDL). Được coi là sự kết hợp VNI = f(QDT) (3a)<br /> giữa mô hình tự hồi quy vector (VAR) và ZS = f(QDT) (3b)<br /> mô hình hồi quy bình phương nhỏ nhất NPL = f(QDT) (3c)<br /> (OLS), ARDL cho thấy tính linh hoạt cao VNI = f(BH) (4a)<br /> và dễ dàng sử dụng cho việc phân tích các ZS = f(BH) (4b)<br /> chuỗi thời gian đã biết. Một số ưu điểm NPL = f(BH) (4c)<br /> nổi bật của mô hình ARDL có thể kể đến: VNI = f(TC) (5a)<br /> (i) phù hợp với quy mô mẫu nhỏ; (ii) ước ZS = f(TC) (5b)<br /> lượng cho một phương trình duy nhất thay NPL = f(TC) (5c)<br /> vì hệ phương trình giống như kiểm định<br /> Engle- Granger và Johansen; (iii) có thể Biến phụ thuộc là một vector Y gồm ba<br /> thực hiện với các biến có độ trễ khác nhau, biến, phản ánh mức độ ổn định tài chính<br /> không phân biệt thứ tự sai phân I(0), I(1), dựa trên các cấu phần của báo cáo hoạt<br /> hoặc cả hai; (iv) tính toán trong ngắn hạn động thị trường tài chính của Quĩ Tiền tệ<br /> với mô hình ECM bằng biến đổi tuyến Quốc tế (IMF), cụ thể:<br /> tính mà không làm mất bậc tự do (Pesaran<br /> và cộng sự, 2001). - VNI: Biến động của chỉ số VN-INDEX<br /> theo năm, VNI được đo bằng mức trung<br /> Để đảm bảo tin cậy khi sử dụng mô hình bình của biến động trong 360 ngày của chỉ<br /> ARDL, các biến chuỗi thời gian đòi số thị trường chứng khoán quốc gia.<br /> hỏi phải có tính dừng, độ trễ tối ưu xác<br /> định, và đồng thời, mô hình không có 1<br /> Nghiên cứu về ảnh hưởng của sự phát triển các NBFI<br /> tới phát triển kinh tế tại Malaysia.<br /> hiện tượng tự tương quan, phương sai<br /> sai số thay đổi và có dạng hàm phù hợp Nghiên cứu về tác động của NBFI tới ổn định tài chính<br /> 2<br /> <br /> khu vực Châu Âu.<br /> <br /> <br /> <br /> 4 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 2019<br /> KIỀU HỮU THIỆN - PHẠM MẠNH HÙNG - PHẠM ĐỨC ANH<br /> <br /> <br /> - ZS: Chỉ số Bank Z-score, phản ánh khả nhóm mô hình (2a), (2b), (2c)- (3a), (3b),<br /> năng chống đỡ rủi ro của ngân hàng. Giá (3c)- (4a), (4b), (4c)- (5a), (5b), (5c) được<br /> trị Z-score càng lớn đồng nghĩa rằng rủi thực nghiệm nhằm đánh giá chi tiết tác<br /> ro phá sản hệ thống ngân hàng càng thấp. động của sự phát triển từng cấu phần của<br /> Công thức tính toán: Bank Z-score= NBFI (gồm: chứng khoán, bảo hiểm, công<br /> [ROA+ (vốn/ tài sản)]/ sd(ROA), trong đó, ty tài chính và cho thuê tài chính, quỹ đầu<br /> sd(ROA) là độ lệch chuẩn của ROA. tư) tới ổn định tài chính.<br /> <br /> - NPL: Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân Mô hình ARDL cho các trường hợp trên<br /> hàng, đo bằng quy mô nợ xấu trên tổng dư được quy gọn về dạng phương trình sau:<br /> nợ. Tỷ lệ này càng thấp thể hiện hoạt động<br /> của hệ thống ngân hàng càng an toàn. Y(VNI,ZS,NPL)t = α1 + b1iRTANt−i +<br /> <br /> Các biến giải thích trong mô hình phản c1jRRENt−j + ε1t (1)<br /> ánh sự phát triển của hệ thống các tổ chức<br /> NBFI, bao gồm: Y(VNI,ZS,NPL)t = α1 + b1iCKt−i + ε1t <br /> <br /> - RTAN: Phản ánh sự phát triển quy mô (2)<br /> tài sản của NBFIs, được đo lường bằng tỷ<br /> lệ giữa quy mô tài sản của NBFIs và GDP Y(VNI,ZS,NPL)t = α1 + e1lQDTt−l + ε1t <br /> của Việt Nam theo từng năm.<br /> (3)<br /> - RREN: Phản ánh sự phát triển quy mô<br /> doanh thu của NBFIs, được đo lường bằng Y(VNI,ZS,NPL)t = α1 + c1jBHt−j + ε1t <br /> tỷ lệ giữa quy mô doanh thu của NBFIs và<br /> GDP của Việt Nam theo từng năm. (4)<br /> <br /> - CK, BH, TC, QDT: Phản ánh sự phát Y(VNI,ZS,NPL)t = α1 + d1kTCt−k + ε1t<br /> triển quy mô tài sản của từng khu vực<br /> trong nhóm NBFI, bao gồm lần lượt các (5)<br /> công ty chứng khoán (CK), bảo hiểm<br /> (BH), tài chính và cho thuê tài chính (TC); 2.2. Dữ liệu<br /> quỹ đầu tư (QDT). Các biến số này được<br /> đo lường bằng tỷ lệ tài sản của từng nhóm Mô hình định lượng sử dụng dữ liệu thứ<br /> NBFI/GDP của Việt Nam. cấp được thu thập từ các nguồn khác nhau.<br /> Trước hết, đối với các số liệu phản ảnh<br /> Mô hình (1a), (1b), (1c) nhằm mục tiêu tình hình ổn định tài chính của Việt Nam:<br /> kiểm tra tác động chung của sự phát triển biến động của chỉ số thị trường chứng<br /> các NBFI (bao gồm: tăng trưởng tổng tài khoán (VNI) và Bank Z-score (ZS) được<br /> sản và doanh thu) tới ổn định tài chính. tổng hợp từ các cơ sở dữ liệu về hoạt<br /> Giả thiết nghiên cứu của chúng tôi cho động của thị trường tài chính (Financial<br /> rằng có mối quan hệ cùng chiều giữa sự Development Database) của IMF, tỷ lệ nợ<br /> phát triển của NBFIs tới ổn định hệ thống xấu (NPL) của hệ thống ngân hàng được<br /> tài chính của Việt Nam. Tiếp theo, các cập nhật từ báo cáo thường niên của Ngân<br /> <br /> <br /> Số 207- Tháng 8. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 5<br /> Đánh giá tác động của sự phát triển các tổ chức tài chính phi ngân hàng tới ổn định tài chính ở<br /> Việt Nam dựa trên Mô hình ARDL<br /> <br /> hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) kết đó, nhóm nghiên cứu lựa chọn giai đoạn<br /> hợp với báo cáo của IMF. khảo sát định lượng là từ năm 2000- 2018.<br /> Ngoài ra, việc sử dụng số liệu theo quý<br /> Đối với các biến số phản ánh sự phát triển để tăng số quan sát trong mô hình cũng<br /> của các NBFI như quy mô tài sản, quy mô được nhóm nghiên cứu xem xét, tuy nhiên<br /> doanh thu của từng nhóm tổ chức bao gồm việc hạn chế về số liệu công bố theo quý<br /> chứng khoán, bảo hiểm, quỹ đầu tư, công đối với các biến số trong mô hình nên bài<br /> ty tài chính và cho thuê tài chính, nghiên báo đã sử dụng chuỗi số liệu theo năm tài<br /> cứu sử dụng số liệu từ báo cáo của các cơ chính.<br /> quan quản lý chuyên ngành như Ủy ban<br /> Chứng khoán Nhà nước đối với công ty 3. Kết quả và thảo luận<br /> chứng khoán (CK) và quỹ đầu tư (QDT),<br /> Cục Quản lý bảo hiểm thuộc Bộ Tài chính 3.1. Kết quả thực nghiệm<br /> đối với các doanh nghiệp bảo hiểm (BH),<br /> NHNN đối với công ty tài chính và cho Nhóm nghiên cứu tiến hành ước lượng<br /> thuê tài chính (TC). mối quan hệ phụ thuộc bằng mô hình<br /> ARDL theo bốn bước sau: (1) Kiểm tra<br /> Chuỗi dữ liệu được thu thập theo tần suất đồng liên kết bằng kiểm định đường bao<br /> năm cho giai đoạn 2000- 2018. Thị trường (Bounds test) dựa trên thống kê F; (2) Ước<br /> chứng khoán bắt đầu hình thành và phát lượng ARDL với độ trễ tối ưu lựa chọn<br /> triển tại Việt Nam kể từ năm 2000 kéo theo tiêu chuẩn Akaike Info Criterion<br /> theo sự phát triển mạnh mẽ của các NBFI- (AIC); (3) Phân tích các tác động dựa<br /> điển hình là công ty chứng khoán và quỹ theo mô hình tối ưu; (4) Kiểm tra tính ổn<br /> đầu tư. Đối với công ty bảo hiểm và các định và khả năng tương thích của mô hình<br /> công ty tài chính và cho thuê tài chính, thông qua kiểm định phương sai sai số<br /> mặc dù đã xuất hiện tại Việt Nam từ trước thay đổi (ARCH Heteroskedasticity), tự<br /> năm 2000, tuy nhiên hoạt động trong giai tương quan (Breusch-Godfrey LM), biến<br /> đoạn này còn tương đối khiêm tốn, đồng bỏ sót (Ramsey RESET), tổng tích lũy của<br /> thời các số liệu thống kê về tình hình hoạt phần dư (CUSUM) và tổng bình phương<br /> động trong giai đoạn này khá hạn chế. Do tích lũy của phần dư (CUSUM-SQ)<br /> <br /> <br /> Bảng 1. Phân tích thống kê mô tả (số quan sát = 19)<br /> Biến phụ thuộc (Yi) Biến độc lập (Xi)<br /> Tiêu chí<br /> VNI ZS NPL RTAN RREN CK QDT BH TC<br /> Trung bình 24,92 12,31 3,43 0,12 0,02 0,02 0,03 0,04 0,04<br /> Max 85,41 15,35 8,60 0,22 0,04 0,05 0,05 0,07 0,08<br /> Min 11,56 7,09 1,55 0,02 0,01 0,01 0,00 0,01 0,01<br /> Độ lệch chuẩn 16,34 2,84 2,07 0,06 0,01 0,02 0,02 0,01 0,02<br /> Kiểm định ADF I(0) -3,70** -1,59 -2,00 -1,74 -1,93 -1,69 -1,70 -1,30 -1,60<br /> Kiểm định ADF I(1) - -4,37*** -3,25** -3,11** -3,39** -3,37** -4,57*** -2,65* -3,75**<br /> *,**,*** tương ứng với các mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%<br /> Nguồn: Tính toán của tác giả<br /> <br /> <br /> <br /> 6 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 2019<br /> KIỀU HỮU THIỆN - PHẠM MẠNH HÙNG - PHẠM ĐỨC ANH<br /> <br /> <br /> Bảng 2. Kiểm định đường bao<br /> Mô hình F-statistic k Mức ý nghĩa I(0) bound I(1) bound<br /> (1a) 6,33 2 1% 3,17 4,14<br /> (1b) 5,80 2 1% 3,79 4,85<br /> (1c) 6,09 2 1% 3,14 4,67<br /> Nguồn: Tính toán của tác giả<br /> <br /> Bảng 3. Xác định độ trễ tối ưu của các biến trong mô hình ARDL<br /> Mô hình (1a) (1b) (1c) (2a) (2b) (2c) (3a) (3b) (3c) (4a) (4b) (4c) (5a) (5b) (5c)<br /> VNI 1 1 1 1 1<br /> Biến<br /> ZS 2 2 2 2 2<br /> PT<br /> NPL 1 1 1 1 1<br /> RTAN 0 0 0<br /> RREN 0 0 0<br /> Biến CK 4 4 4<br /> độc<br /> lập QDT 1 1 1<br /> BH 0 0 0<br /> TC 4 4 4<br /> Nguồn: Tính toán của tác giả<br /> <br /> <br /> (Kumar, 2013). mô hình ARDL của nhóm nghiên cứu là<br /> hoàn toàn phù hợp để ước lượng tác động<br /> Để tiến hành kiểm định đường bao dựa của sự phát triển của tổ chức tài chính phi<br /> trên giả định các biến dừng I(0) hay có ngân hàng tới mức độ ổn định tài chính.<br /> sai phân bậc nhất I(1), trước tiên, nhóm<br /> nghiên cứu thực hiện kiểm định ADF. Kết Căn cứ theo hệ số AIC, mô hình ARDL<br /> quả cho thấy các biến số trong mô hình với độ trễ tối ưu của từng phương trình<br /> đều thỏa mãn dừng I(0), hoặc dừng sai được lựa chọn cụ thể như trong Bảng 3.<br /> phân I(1).<br /> Kết quả ước lượng mô hình ARDL tối ưu<br /> Tiếp đó, chúng tôi tiến hành kiểm định được trình bày ở Bảng 4.<br /> đường bao và thu được kết quả như ở<br /> Bảng 2. Giá trị thống kê F lớn hơn giá trị 3.2. Thảo luận kết quả<br /> giới hạn tại mức ý nghĩa 1%, do đó bác<br /> bỏ giả thuyết H0, chấp nhận giả thuyết H1: Căn cứ vào kết quả hồi quy, có thể thấy<br /> Tồn tại quan hệ đồng liên kết dài hạn giữa rằng, về cơ bản, sự phát triển của các<br /> các biến số trong mô hình. NBFI có tác động tích cực tới ổn định tài<br /> chính của Việt Nam trong giai đoạn 2000-<br /> Các kiểm định khác về tính ổn định và 2018. Các kết quả định lượng được phân<br /> tin cậy của mô hình được trình bày ở Phụ tích cụ thể như sau:<br /> lục 1. Kết quả các kiểm định cho thấy<br /> <br /> <br /> Số 207- Tháng 8. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 7<br /> 8<br /> Bảng 4. Kết quả lựa chọn mô hình ARDL tối ưu<br /> Mô hình (1a) (1b) (1c) (2a) (2b) (2c) (3a) (3b) (3c) (4a) (4b) (4c) (5a) (5b) (5c)<br /> Biến PT VNI ZS NPL VNI ZS NPL VNI ZS NPL VNI ZS NPL VNI ZS NPL<br /> VNI (-1) -0,11 0,55* 0,04 -0,12 0,51<br /> ZS (-1) 0,48* 0,82*** 0,24 0,71** 0,94***<br /> ZS (-2) 0,10 -0,29 -0,02 0,02 -0,38**<br /> NPL (-1) 0,62*** 0,30 0,84*** 0,62*** 0,26<br /> RTAN 170,55 25,07** 3,47<br /> RREN -2220,77* -118,64 -110,94*<br /> CK 313,89** 25,95 -37,99**<br /> CK (-1) -182,46 -36,77 19,47<br /> CK (-2) 128,73 35,16 3,38<br /> Biến CK (-3) -18,90 7,00 9,50<br /> độc<br /> lập CK (-4) -124,10 -2,25<br /> QDT -141,21 42,18 -8,99<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 2019<br /> QDT (-1) 3,96 66,74* 15,36<br /> BH -619,66* 11,42 -41,87*<br /> TC 208,90* 14,24 -24,63**<br /> TC (-1) -85,20 18,73 9,34<br /> TC (-2) -43,08 -46,34* 16,20*<br /> TC (-3) 48,21 42,45* 2,91<br /> TC (-4) -48,45 -0,59 -7,49<br /> Const 60,34** 5,20** 3,30* 6,65* 5,08** 1,92** 27,21** 7,09*** 0,10 53,52*** 3,12* 2,78* 7,48* 4,93*** 1,94**<br /> *,**,*** tương ứng với các mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%<br /> Nguồn: Tính toán của tác giả<br /> KIỀU HỮU THIỆN - PHẠM MẠNH HÙNG - PHẠM ĐỨC ANH<br /> <br /> <br /> Phương trình (1) nhằm đánh giá tác động triển tài sản của các công ty bảo hiểm có<br /> của hai biến số thể hiện sự phát triển của tác động hạn chế biến động mạnh của thị<br /> các NBFI là RTAN (tổng tài sản của NBFI trường chứng khoán cũng như nợ xấu của<br /> so với GDP) và RREN (tổng doanh thu hệ thống ngân hàng. Điều này là hợp lý<br /> của NBFI so với GDP) tới các chỉ báo của khi mà thị trường bảo hiểm phát triển cung<br /> ổn định tài chính, bao gồm biến động của cấp những công cụ phòng hộ rủi ro hữu<br /> VNINDEX (VNI), chỉ số Bank Z-score hiệu trên thị trường chứng khoán cũng như<br /> (ZS) và tỷ lệ nợ xấu NPL. Kết quả hồi các sản phẩm bảo hiểm tín dụng để hạn<br /> quy cho thấy sự phát triển về tài sản của chế nợ xấu ngân hàng.<br /> các NBFI có ảnh hưởng cùng chiều tới<br /> Z-score ở mức ý nghĩa 5%, một sự gia Các kết quả trên tương đối thống nhất với<br /> tăng về tài sản của các NBFI kéo theo rủi quan điểm của nhiều nghiên cứu trước<br /> ro của hệ thống ngân hàng giảm xuống. đây, ví dụ: Vittas (1997), Carmichael và<br /> Đối với các biến số VNI hay NPL, tác Pomerleano (2002), Cummins và Weiss<br /> động của RTAN không cho thấy ý nghĩa (2014), Baker (2016)… Cụ thể, Vittas<br /> thống kê. Tuy nhiên, đối với VNI và NPL, (1997) cho rằng NBFIs thúc đẩy sự cạnh<br /> biến số RREN thể hiện sự tăng trưởng tranh giữa các tổ chức trung gian tài chính,<br /> doanh thu của NBFI lại cho thấy những hoàn thiện dần bộ máy tổ chức nhằm<br /> tác động nhất định. RREN ảnh hưởng hoạt động một cách có hiệu quả hiệu quả<br /> ngược chiều đến của VNI và NPL cho hơn và đáp ứng nhu cầu của khách hàng.<br /> thấy sự gia tăng quy mô doanh thu của Bên cạnh đó, tác giả này cũng khẳng<br /> NBFI khiến thị trường chứng khoán ổn định rằng sự phát triển của NBFIs giúp<br /> định hơn và giảm tỷ lệ nợ xấu tại các ngân kích thích phát triển thị trường vốn thông<br /> hàng. qua việc tạo ra nguồn tài chính dài hạn<br /> dồi dào, đồng thời cũng tạo thêm nguồn<br /> Nhóm phương trình (2), (3), (4), (5) kiểm cung và cầu mới cho thị trường. Về sự<br /> tra tác động của từng nhóm tổ chức trong phát triển của khu vực tài chính phi ngân<br /> NBFI tới tình hình ổn định tài chính. Hệ hàng, Carmichael và Pomerleano (2002)<br /> số hồi quy của các biến số CK, BH, TC, cho rằng khu vực này được khuyến khích<br /> QDT đều cho thấy ảnh hưởng tích cực phát triển vì các quốc gia sẽ được hưởng<br /> nhất định của các nhóm tổ chức NBFI tới lợi từ việc tiếp cận rộng hơn các dịch vụ<br /> tình hình ổn định tài chính của Việt Nam. tài chính cùng với một hệ thống tài chính<br /> Nhóm CTCK và CTTC có ảnh hưởng khá cạnh tranh hơn, đa dạng hơn, mức độ tổn<br /> tương tự nhau đối với tình hình ổn định thương thấp hơn. Ở mức độ kinh tế vi mô,<br /> tài chính. Tổng tài sản của các CTCK và sự tăng trưởng của NBFIs thúc đẩy cạnh<br /> CTTC có quan hệ cùng chiều với mức độ tranh trong khu vực tài chính, thách thức<br /> biến động thị trường VNINDEX, nghĩa là năng lực và dịch vụ của hệ thống ngân<br /> quy mô tài sản của CTCK và CTTC gia hàng, thúc đẩy cải thiện sản phẩm dịch vụ<br /> tăng mạnh khi thị trường biến động mạnh. đồng thời làm giảm tính dễ bị tổn thương<br /> Tăng trưởng tài sản của CTCK và CTTC của hệ thống ngân hàng (Carmichael<br /> có mối quan hệ ngược chiều với nợ xấu và Pomerleano, 2002). Nghiên cứu của<br /> ngân hàng. Sự gia tăng tài sản quản lý của Cummins và Weiss (2014) cho thấy tác<br /> các QDT có quan hệ cùng chiều với chỉ động tiêu cực không tồn tại hoặc chỉ là<br /> số Bank Z-score. Trong khi đó sự phát rất nhỏ của ngành bảo hiểm đối với sự ổn<br /> <br /> <br /> Số 207- Tháng 8. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 9<br /> Đánh giá tác động của sự phát triển các tổ chức tài chính phi ngân hàng tới ổn định tài chính ở<br /> Việt Nam dựa trên Mô hình ARDL<br /> <br /> định của thị trường tài chính. đoạn 2000- 2018 mang dấu ấn tích cực<br /> nhiều hơn tiêu cực. Thực trạng hoạt động<br /> 4. Kết luận của một số khu vực NBFIs có thể gây<br /> ra rủi ro hoạt động tiềm tàng trong một<br /> Trong những năm gần đây, vai trò của số giai đoạn cụ thể, tuy nhiên, rủi ro này<br /> ngân hàng như các trung gian tài chính ở dường như chưa đủ lớn để có thể ảnh<br /> một số quốc gia phát triển đã giảm đi phần hưởng tới hệ thống ngân hàng hay ổn định<br /> nào với sự xuất hiện của các trung gian tài tài chính nói chung của Việt Nam.<br /> chính phi ngân hàng, cho phép các doanh<br /> nghiệp tiếp cận trực tiếp các khoản tiết Trong nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu<br /> kiệm cá nhân. Lịch sử phát triển kinh tế mong muốn có thể đưa biến số phản ánh<br /> của các nước trên thế giới cho thấy sự phát ổn định tài chính Financial Stability Index<br /> triển tài chính của các quốc gia bắt đầu với trở thành biến phụ thuộc trong mô hình,<br /> các tổ chức tài chính ngân hàng và trong khi đó việc đánh giá tác động của sự phát<br /> giai đoạn tiếp theo là các tổ chức tài chính triển NBFI tới ổn định tài chính sẽ trở nên<br /> phi ngân hàng. Nằm trong dòng chảy đó, chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, do chuỗi số liệu<br /> vai trò của các tổ chức tài chính phi ngân của hệ thống tài chính Việt Nam không<br /> hàng tại Việt Nam ngày càng được gia đủ dài nên nhóm nghiên cứu chỉ xây dựng<br /> tăng, nhưng đi cùng với đó là những lo được chỉ số tổng hợp (composite index)<br /> ngại về rủi ro đó với ổn định của hệ thống này cho giai đoạn 2010- 2018. Do chuỗi<br /> tài chính. số liệu chưa đủ dài để đưa vào mô hình,<br /> chúng tôi hi vọng hạn chế này có thể<br /> Thông qua kết quả định lượng của nghiên được khắc phục trong các nghiên cứu tiếp<br /> cứu này, có thể khẳng định tác động tổng theo.■<br /> thể của sự phát triển NBFIs tới tình hình<br /> ổn định tài chính tại Việt Nam trong giai<br /> <br /> <br /> Tài liệu tham khảo<br /> 1. Baker, S. (2016), Non-banks improve effectiveness of monetary policy on economy, IMF.<br /> 2. Beck, T., Levine, R. and Loayza, N. (2000), Finance and the Sources of Growth. Journal of financial economics,<br /> 58(1-2), 261-300.<br /> 3. Carmichael, J. and Pomerleano, M. (2002), The development and regulation of Non-bank financial institutions,<br /> World Bank.<br /> 4. Cheng, X. and Degryse, H. (2010), The impact of bank and non-bank financial institutions on local economic<br /> growth in China, Journal of Financial Services Research, 37(2–3), 179–199.<br /> 5. Cummins, J.D. and Weiss, M.A., (2014), Systemic risk and the U.S. insurance sector, Journal of Risk and<br /> Insurance, 81, 489-528.<br /> 6. European Commission, (2012), Non-bank financial institutions: Assessment of their impact on the stability of the<br /> financial system, Economic Papers 472.<br /> 7. Gujarati, D.N. (2003), Basic Econometrics, 4th ed, McGraw-Hill, New York.<br /> 8. Hossain, M. and Shahiduzzaman, M. (2005) “Development of Non Bank Financial Institutions to Strengthen the<br /> Financial System of Bangladesh”, MPRA Paper 24734.<br /> 9. Impavido, G., Musalem, A. R., & Tressel, T. (2003). The impact of contractual savings institutions on securities<br /> markets. The World Bank.<br /> 10. Islam, M.A. and Osman, J.B. (2011), Development Impact of Non-Bank Financial Intermediaries on Economic<br /> Growth in Malaysia: An Empirical Investigation, International Journal of Business and Social Science, 2(14), 187-198.<br /> 11. Kumar, R. R. (2013), Remittances and economic growth: A study of Guyana. Economic Systems, 37(3), 462–472.<br /> 12. Liang, H.Y. and Reichert, A.K. (2012), The impact of banks and non-bank financial institutions on economic<br /> <br /> <br /> <br /> 10 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 2019<br /> KIỀU HỮU THIỆN - PHẠM MẠNH HÙNG - PHẠM ĐỨC ANH<br /> <br /> <br /> growth. The Service Industries Journal, 32(5), 699-717.<br /> 13. Nguyễn Văn Tiến (2016), Giáo trình Tiền tệ - Ngân hàng và Thị trường Tài chính, NXB Lao động.<br /> 14. Pesaran, M.H., Shin, Y. and Smith, R.J. (2001) “Bounds testing approaches to the analysis of level relationships”,<br /> Journal of Applied Econometrics, 16(3), 289–326.<br /> 15. Rioja, F. and Valev, N. (2004), Finance and the sources of growth at various stages of economic development,<br /> Economic Inquiry, 42(1), 127-140.<br /> 16. Vittas, D. (1997) The Role of Non-Bank Financial Intermediaries in Egypt and other MENA countries, World Bank.<br /> 17. Weiss, G. and Muhlnickel, J. (2015), Consolidation and systemic risk in the international insurance industry,<br /> Journal of Financial Stability, 18, 187-202.<br /> <br /> <br /> Phụ lục 1: Các kiểm định chuẩn đoán của mô hình ARDL<br /> Kết quả kiểm định mô hình phù hợp với mức ý nghĩa 5% ở Bảng 1a cho thấy giả thuyết H0 đều<br /> được chấp nhận trong các mô hình: Mô hình có phương sai sai số không đổi, không tồn tại tự<br /> tương quan bậc 2, mô hình phù hợp và không thừa biến. Kiểm định CUSUM và CUSUM-SQ đều<br /> nằm trong đoạn tiêu chuẩn ứng với mức ý nghĩa 5% (Hình 1a) cho thấy phần dư của mô hình có<br /> tính ổn định cao, do đó mô hình ước lượng ổn định.<br /> <br /> <br /> Hình 1a. Kiểm định tổng tích lũy và tổng bình phương tích lũy của phần dư<br /> Mô hình (1a)<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Mô hình (1b)<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Số 207- Tháng 8. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 11<br /> Đánh giá tác động của sự phát triển các tổ chức tài chính phi ngân hàng tới ổn định tài chính ở<br /> Việt Nam dựa trên Mô hình ARDL<br /> <br /> <br /> Mô hình (1c)<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> Bảng 1a. Kết quả kiểm định chẩn đoán<br /> Kiểm định chẩn Mô hình (1a) Mô hình (1b) Mô hình (1c)<br /> đoán Trị thống kê P-value Trị thống kê P-value Trị thống kê P-value<br /> Heteroskedasticity 0,480 0,488 0,100 0,750 2,540 0,221<br /> Breusch-Godfrey LM 0,302 0,580 0,301 0,583 1,339 0,247<br /> Ramsey RESET 4,230 0,322 0,070 0,973 0,800 0,519<br /> CUSUM Ổn định Ổn định Ổn định<br /> CUSUM-SQ Ổn định Ổn định Ổn định<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 12 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 2019<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2