Đánh giá tác động của sự phát triển các tổ chức tài<br />
chính phi ngân hàng tới ổn định tài chính ở Việt Nam<br />
dựa trên Mô hình ARDL<br />
<br />
Kiều Hữu Thiện Phạm Mạnh Hùng<br />
Giám đốc Trường Đào tạo và Phát triển Nguồn Viện Nghiên cứu Khoa học Ngân hàng,<br />
nhân lực Vietcombank Học viện Ngân hàng<br />
<br />
Phạm Đức Anh<br />
Viện Nghiên cứu Khoa học Ngân hàng,<br />
Học viện Ngân hàng<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Nghiên cứu này nhằm mục tiêu đánh giá tác động của sự phát triển các tổ<br />
chức tài chính phi ngân hàng (NBFIs) tới ổn định tài chính ở Việt Nam.<br />
Dựa trên việc áp dụng Mô hình ARDL cho chuỗi dữ liệu theo tần suất năm<br />
(2000- 2018), nghiên cứu khẳng định rằng tác động tổng thể của sự phát<br />
triển NBFIs tới tình hình ổn định tài chính là tích cực. Theo đó, mặc dù thực<br />
tiễn hoạt động của một số khu vực NBFIs có thể gây ra rủi ro hoạt động<br />
tiềm tàng trong một số giai đoạn cụ thể, song rủi ro này dường như chưa<br />
<br />
<br />
<br />
Ngày nhận: 12/07/2019 Ngày nhận bản sửa: 01/08/2019 Ngày duyệt đăng: 27/08/2019<br />
<br />
<br />
Assessment of the impact of non-bank financial institutions development on financial stability in<br />
Vietnam: an ARDL approach<br />
Abstract: This paper seeks to evaluate the impact of non-bank financial institutions (NBFIs) development on<br />
financial stability in Vietnam. Applying the autoregressive distributed lag (ARDL) model to the annual data<br />
series between 2000 and 2018, empirical findings confirm the overall impact of the NBFIs development<br />
on Vietnam’s financial stability is positive. Accordingly, although the business performance of some NBFI<br />
categories may pose potential operational risks during specific stages, these seem not considerable enough to<br />
affect Vietnam’s banking system in particular and financial stability as a whole.<br />
Keywords: non-bank financial institution (NBFI); financial stability; autoregressive distributed lag (ARDL) model.<br />
<br />
<br />
Thien Huu Kieu, Assoc. Prof. PhD.<br />
Email: thienkh@hvnh.edu.vn<br />
Director of Vietcombank School of Human Resource Development and Training<br />
Hung Manh Pham, PhD.<br />
Email: hungpm@hvnh.edu.vn<br />
Research Institute for Banking, Banking Academy of Vietnam<br />
Anh Duc Pham, MEc.<br />
Email: anhpd@hvnh.edu.vn<br />
Research Institute for Banking, Banking Academy of Vietnam<br />
<br />
© Học viện Ngân hàng Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng<br />
ISSN 1859 - 011X 1 Số 207- Tháng 8. 2019<br />
Đánh giá tác động của sự phát triển các tổ chức tài chính phi ngân hàng tới ổn định tài chính ở<br />
Việt Nam dựa trên Mô hình ARDL<br />
<br />
<br />
đủ lớn để có thể ảnh hưởng tới hệ thống ngân hàng nói riêng và ổn định tài<br />
chính nói chung của Việt Nam.<br />
Từ khóa: tổ chức tài chính phi ngân hàng (NBFI); ổn định tài chính; mô<br />
hình phân phối trễ tự hồi quy (ARDL)<br />
<br />
<br />
<br />
1. Cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên lợi sẽ mang lại cho cả hai phía nhờ tính<br />
cứu quy mô, sự phân tán rủi ro và đa dạng hóa<br />
các danh mục đầu tư; (ii) cung cấp các<br />
Trong quá trình phát triển nền kinh tế, dịch vụ tài chính đa dạng, tăng cường áp<br />
bên cạnh các tổ chức ngân hàng thì còn có lực cạnh tranh với các ngân hàng thương<br />
một bộ phận không kém phần quan trọng mại (NHTM), làm cho chất lượng dịch vụ<br />
trong việc tạo ra dòng luân chuyển vốn phục vụ ngày càng được cải thiện, tạo ra<br />
từ người tiết kiệm- cho vay đến người chi nhiều khả năng lựa chọn cho khách hàng;<br />
tiêu- đi vay, đó là các tổ chức tài chính phi (iii) đáp ứng nhu cầu khác của cá nhân, hộ<br />
ngân hàng (NBFI). Thuật ngữ “tổ chức tài gia đình, doanh nghiệp trong lĩnh vực đầu<br />
chính phi ngân hàng” bắt đầu được đưa tư tài chính, giúp bảo vệ khoản đầu tư và<br />
vào sử dụng phổ biến với việc thông qua phân tán rủi ro cho các nhà đầu tư trong xã<br />
Đạo luật Chống rửa tiền Annunzio-Wylie hội.<br />
năm 1992 tại Mỹ, trong đó mở rộng định<br />
nghĩa nêu trong Đạo luật Bảo mật Ngân Trong những năm gần đây, vai trò của<br />
hàng (BSA) về “tổ chức tài chính” vượt ngân hàng như các trung gian tài chính ở<br />
ra ngoài phạm vi các tổ chức truyền thống. một số quốc gia phát triển đã giảm đi phần<br />
Theo Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD) nào với sự xuất hiện của các trung gian tài<br />
năm 2010 của Việt Nam, TCTD phi ngân chính phi ngân hàng và sự phát triển của<br />
hàng hay rộng hơn là NBFI là loại hình tổ thị trường nợ, cho phép các doanh nghiệp<br />
chức được thực hiện một hoặc một số hoạt tiếp cận trực tiếp đến các khoản tiết kiệm<br />
động ngân hàng, trừ các hoạt động nhận cá nhân. Lịch sử phát triển kinh tế của các<br />
tiền gửi của cá nhân và cung ứng các dịch nước trên thế giới cho thấy sự phát triển<br />
vụ thanh toán qua tài khoản của khách tài chính của các quốc gia bắt đầu với các<br />
hàng. tổ chức tài chính ngân hàng, và trong giai<br />
đoạn tiếp theo là các NBFI. Nhưng trong<br />
Theo quan niệm truyền thống được đề giai đoạn sau, sự đóng góp của các NBFI<br />
cập trong các giáo trình chuyên ngành Tài trở nên rõ nét hơn so với các ngân hàng.<br />
chính- Ngân hàng, ví dụ: Giáo trình Tiền Trên thực tế, cả hai loại hình tổ chức là<br />
tệ- Ngân hàng và Thị trường Tài chính của cần thiết và cuộc cạnh tranh giữa các ngân<br />
Nguyễn Văn Tiến (2016), các NBFI bao hàng và NBFI có thể tăng cường phát triển<br />
gồm: các công ty tài chính, công ty chứng kinh tế và nâng cao hiệu quả của chính các<br />
khoán, công ty bảo hiểm, công ty cho thuê tổ chức này (Hossain và Shahiduzzaman,<br />
tài chính, quỹ hưu trí, quỹ đầu tư tương 2005).<br />
hỗ… Vai trò của các NBFI tập trung vào<br />
việc (i) gia tăng cơ hội tìm kiếm lợi nhuận Bên cạnh hiệu quả kinh tế đem lại, các<br />
cho các chủ thể trong nền kinh tế, nguồn NBFI cũng là một mắt xích quan trọng<br />
<br />
<br />
2 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 2019<br />
KIỀU HỮU THIỆN - PHẠM MẠNH HÙNG - PHẠM ĐỨC ANH<br />
<br />
<br />
trong việc gây ra và dẫn truyền rủi ro dẫn Islam và Osman (2011) kiểm định mối<br />
đến khủng hoảng tài chính. Từ đó, để có quan hệ dài hạn giữa thu nhập bình quân<br />
thể xây dựng các đối sách ứng phó với đầu người thực tế và sự phát triển của<br />
các cuộc khủng hoảng tài chính về sau, NBFIs ở Malaysia bằng phương pháp<br />
các nhà hoạch định đã tập trung vào việc đường bao ARDL cho giai đoạn 1974-<br />
nghiên cứu, làm rõ bản chất và vai trò 2004. Kết quả của nghiên cứu xác nhận<br />
của NBFIs cũng như nguy cơ tác động từ một quan hệ ổn định dài hạn giữa GDP<br />
chúng hướng vào sự ổn định của hệ thống bình quân đầu người và NBFIs, đầu tư,<br />
tài chính. Nhiều tài liệu nghiên cứu trước lao động và mở cửa thương mại, trong đó<br />
đây cho thấy có ba kênh truyền tải rủi ro NBFIs có tác động tích cực đến GDP. Các<br />
quan trọng sau: tác giả nhấn mạnh NBFIs là một cấu phần<br />
quan trọng của khu vực tài chính mà thông<br />
Thứ nhất, NBFIs tạo ra rủi ro sản phẩm qua đó, nguồn lực tài chính được truyền<br />
thông qua việc sản xuất các sản phẩm có dẫn hiệu quả từ người tiết kiệm đến người<br />
cấu trúc, đặc biệt là liên quan đến chứng sử dụng vốn trong nền kinh tế.<br />
khoán hóa. Cuộc khủng hoảng tài chính<br />
gần đây đã chỉ ra rõ ràng rằng, do thiếu Ngược lại, kết quả thực nghiệm của Liang<br />
hiểu biết về những rủi ro gắn liền với một và Reichert (2012) với dữ liệu chéo của<br />
số tài sản có tính chứng khoán, nhiều ngân các quốc gia phát triển và đang phát triển<br />
hàng và NBFIs đã nắm giữ tài sản có nguy lại cho thấy tác động ngược chiều của khu<br />
cơ cao hơn nhiều so với những dự tính ban vực NBFIs đối với tăng trưởng kinh tế.<br />
đầu. Hệ quả này là do hoạt động của NBFIs<br />
(chủ yếu ở các mảng đầu tư và bảo hiểm)<br />
Thứ hai, một số NBFIs liên kết chặt chẽ thường mang tới rủi ro cao cho khu vực tài<br />
với các ngân hàng và các NBFI khác. Sự chính và nền kinh tế, đặc biệt thấy rõ trong<br />
liên kết này cho thấy sự căng thẳng về thời kỳ khủng hoảng 2007- 2009.<br />
tài chính ở cấp độ của một NBFI có thể<br />
chuyển sang các tổ chức tài chính khác Trong khi đó, với việc sử dụng mô hình<br />
(ngân hàng và phi ngân hàng) thông qua SGMM cho 27 tỉnh thành của Trung Quốc<br />
rủi ro của bên đối tác, tạo ra những khó giai đoạn 1995- 2003 nhằm xác định sự<br />
khăn ở cấp hệ thống tài chính nói chung. đóng góp của từng cấu phần trong hệ<br />
thống tài chính vào tăng trưởng kinh tế địa<br />
Thứ ba, một số NBFIs có quy mô rất lớn. phương, Cheng và Degryse (2010) nhận<br />
Bất kỳ sự khó khăn tài chính nào đến từ thấy khu vực tài chính chính thức (ngân<br />
một trong các tổ chức này đều có thể gây hàng) là động lực chính của tăng trưởng<br />
ra những căng thẳng tài chính cho toàn bộ kinh tế, trong khi những đóng góp đến<br />
hệ thống tài chính. từ NBFIs là hết sức mờ nhạt. Điều này là<br />
bởi, tại Trung Quốc, kể từ năm 2010 (thời<br />
Về mặt thực nghiệm, hiện nay đã có một điểm khủng hoảng đã đi qua), hệ thống<br />
số nghiên cứu được thực hiện cho trường ngân hàng đã lớn mạnh nhanh chóng nhờ<br />
hợp riêng từng quốc gia hoặc trên diện loạt chính sách cải cách, mở cửa và tư<br />
rộng nhằm đánh giá tác động của sự phát nhân hóa, đóng góp tích cực vào phát triển<br />
triển các NBFI đến khía cạnh khác nhau kinh tế và ổn định vĩ mô; trong khi đó, khu<br />
của ổn định tài chính. vực tài chính phi ngân hàng còn khá nhỏ<br />
<br />
<br />
Số 207- Tháng 8. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 3<br />
Đánh giá tác động của sự phát triển các tổ chức tài chính phi ngân hàng tới ổn định tài chính ở<br />
Việt Nam dựa trên Mô hình ARDL<br />
<br />
bé và cũng không nhận được hỗ trợ đáng (Gurajati, 2003). Các tiêu chuẩn này đều<br />
kể nào từ chính phủ. sẽ được chúng tôi kiểm định chặt chẽ<br />
trong quá trình hồi quy mô hình.<br />
Ngoài ra, một số nghiên cứu lý thuyết và<br />
thực nghiệm khác chỉ ra rằng sự phát triển Việc lựa chọn các biến cho mô hình hồi<br />
của NBFIs có thể tác động tới ổn định thị quy được nhóm nghiên cứu tham khảo từ<br />
trường tài chính thông qua một số kênh một số nghiên cứu trước đây, cụ thể: (i)<br />
chính như tích lũy vốn liên quan đến khối nhóm biến số đại diện cho sự phát triển<br />
lượng đầu tư và năng suất liên quan đến của NBFI xuất phát từ nghiên cứu của<br />
hiệu quả đầu tư (ví dụ: Beck và cộng sự, Islam và Osman (2011)1; (ii) nhóm biến<br />
2000; Impavido và cộng sự, 2003; Rioja số về ổn định tài chính xuất phát từ nghiên<br />
và Valev, 2004). cứu của Ủy ban Châu Âu (2012)2 đối với.<br />
Mô hình nghiên cứu được xây dựng dựa<br />
2. Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu trên năm nhóm phương trình hồi quy sau:<br />
VNI = f(RTAN, RREN) (1a)<br />
2.1. Phương pháp nghiên cứu ZS = f(RTAN, RREN) (1b)<br />
NPL = f(RTAN, RREN) (1c)<br />
Để đánh giá tác động của sự phát triển VNI = f(CK) (2a)<br />
các NBFI tới ổn định tài chính, nghiên ZS = f(CK) (2b)<br />
cứu sử dụng mô hình phân phối trễ tự NPL = f(CK) (2c)<br />
hồi quy (ARDL). Được coi là sự kết hợp VNI = f(QDT) (3a)<br />
giữa mô hình tự hồi quy vector (VAR) và ZS = f(QDT) (3b)<br />
mô hình hồi quy bình phương nhỏ nhất NPL = f(QDT) (3c)<br />
(OLS), ARDL cho thấy tính linh hoạt cao VNI = f(BH) (4a)<br />
và dễ dàng sử dụng cho việc phân tích các ZS = f(BH) (4b)<br />
chuỗi thời gian đã biết. Một số ưu điểm NPL = f(BH) (4c)<br />
nổi bật của mô hình ARDL có thể kể đến: VNI = f(TC) (5a)<br />
(i) phù hợp với quy mô mẫu nhỏ; (ii) ước ZS = f(TC) (5b)<br />
lượng cho một phương trình duy nhất thay NPL = f(TC) (5c)<br />
vì hệ phương trình giống như kiểm định<br />
Engle- Granger và Johansen; (iii) có thể Biến phụ thuộc là một vector Y gồm ba<br />
thực hiện với các biến có độ trễ khác nhau, biến, phản ánh mức độ ổn định tài chính<br />
không phân biệt thứ tự sai phân I(0), I(1), dựa trên các cấu phần của báo cáo hoạt<br />
hoặc cả hai; (iv) tính toán trong ngắn hạn động thị trường tài chính của Quĩ Tiền tệ<br />
với mô hình ECM bằng biến đổi tuyến Quốc tế (IMF), cụ thể:<br />
tính mà không làm mất bậc tự do (Pesaran<br />
và cộng sự, 2001). - VNI: Biến động của chỉ số VN-INDEX<br />
theo năm, VNI được đo bằng mức trung<br />
Để đảm bảo tin cậy khi sử dụng mô hình bình của biến động trong 360 ngày của chỉ<br />
ARDL, các biến chuỗi thời gian đòi số thị trường chứng khoán quốc gia.<br />
hỏi phải có tính dừng, độ trễ tối ưu xác<br />
định, và đồng thời, mô hình không có 1<br />
Nghiên cứu về ảnh hưởng của sự phát triển các NBFI<br />
tới phát triển kinh tế tại Malaysia.<br />
hiện tượng tự tương quan, phương sai<br />
sai số thay đổi và có dạng hàm phù hợp Nghiên cứu về tác động của NBFI tới ổn định tài chính<br />
2<br />
<br />
khu vực Châu Âu.<br />
<br />
<br />
<br />
4 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 2019<br />
KIỀU HỮU THIỆN - PHẠM MẠNH HÙNG - PHẠM ĐỨC ANH<br />
<br />
<br />
- ZS: Chỉ số Bank Z-score, phản ánh khả nhóm mô hình (2a), (2b), (2c)- (3a), (3b),<br />
năng chống đỡ rủi ro của ngân hàng. Giá (3c)- (4a), (4b), (4c)- (5a), (5b), (5c) được<br />
trị Z-score càng lớn đồng nghĩa rằng rủi thực nghiệm nhằm đánh giá chi tiết tác<br />
ro phá sản hệ thống ngân hàng càng thấp. động của sự phát triển từng cấu phần của<br />
Công thức tính toán: Bank Z-score= NBFI (gồm: chứng khoán, bảo hiểm, công<br />
[ROA+ (vốn/ tài sản)]/ sd(ROA), trong đó, ty tài chính và cho thuê tài chính, quỹ đầu<br />
sd(ROA) là độ lệch chuẩn của ROA. tư) tới ổn định tài chính.<br />
<br />
- NPL: Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân Mô hình ARDL cho các trường hợp trên<br />
hàng, đo bằng quy mô nợ xấu trên tổng dư được quy gọn về dạng phương trình sau:<br />
nợ. Tỷ lệ này càng thấp thể hiện hoạt động<br />
của hệ thống ngân hàng càng an toàn. Y(VNI,ZS,NPL)t = α1 + b1iRTANt−i +<br />
<br />
Các biến giải thích trong mô hình phản c1jRRENt−j + ε1t (1)<br />
ánh sự phát triển của hệ thống các tổ chức<br />
NBFI, bao gồm: Y(VNI,ZS,NPL)t = α1 + b1iCKt−i + ε1t <br />
<br />
- RTAN: Phản ánh sự phát triển quy mô (2)<br />
tài sản của NBFIs, được đo lường bằng tỷ<br />
lệ giữa quy mô tài sản của NBFIs và GDP Y(VNI,ZS,NPL)t = α1 + e1lQDTt−l + ε1t <br />
của Việt Nam theo từng năm.<br />
(3)<br />
- RREN: Phản ánh sự phát triển quy mô<br />
doanh thu của NBFIs, được đo lường bằng Y(VNI,ZS,NPL)t = α1 + c1jBHt−j + ε1t <br />
tỷ lệ giữa quy mô doanh thu của NBFIs và<br />
GDP của Việt Nam theo từng năm. (4)<br />
<br />
- CK, BH, TC, QDT: Phản ánh sự phát Y(VNI,ZS,NPL)t = α1 + d1kTCt−k + ε1t<br />
triển quy mô tài sản của từng khu vực<br />
trong nhóm NBFI, bao gồm lần lượt các (5)<br />
công ty chứng khoán (CK), bảo hiểm<br />
(BH), tài chính và cho thuê tài chính (TC); 2.2. Dữ liệu<br />
quỹ đầu tư (QDT). Các biến số này được<br />
đo lường bằng tỷ lệ tài sản của từng nhóm Mô hình định lượng sử dụng dữ liệu thứ<br />
NBFI/GDP của Việt Nam. cấp được thu thập từ các nguồn khác nhau.<br />
Trước hết, đối với các số liệu phản ảnh<br />
Mô hình (1a), (1b), (1c) nhằm mục tiêu tình hình ổn định tài chính của Việt Nam:<br />
kiểm tra tác động chung của sự phát triển biến động của chỉ số thị trường chứng<br />
các NBFI (bao gồm: tăng trưởng tổng tài khoán (VNI) và Bank Z-score (ZS) được<br />
sản và doanh thu) tới ổn định tài chính. tổng hợp từ các cơ sở dữ liệu về hoạt<br />
Giả thiết nghiên cứu của chúng tôi cho động của thị trường tài chính (Financial<br />
rằng có mối quan hệ cùng chiều giữa sự Development Database) của IMF, tỷ lệ nợ<br />
phát triển của NBFIs tới ổn định hệ thống xấu (NPL) của hệ thống ngân hàng được<br />
tài chính của Việt Nam. Tiếp theo, các cập nhật từ báo cáo thường niên của Ngân<br />
<br />
<br />
Số 207- Tháng 8. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 5<br />
Đánh giá tác động của sự phát triển các tổ chức tài chính phi ngân hàng tới ổn định tài chính ở<br />
Việt Nam dựa trên Mô hình ARDL<br />
<br />
hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) kết đó, nhóm nghiên cứu lựa chọn giai đoạn<br />
hợp với báo cáo của IMF. khảo sát định lượng là từ năm 2000- 2018.<br />
Ngoài ra, việc sử dụng số liệu theo quý<br />
Đối với các biến số phản ánh sự phát triển để tăng số quan sát trong mô hình cũng<br />
của các NBFI như quy mô tài sản, quy mô được nhóm nghiên cứu xem xét, tuy nhiên<br />
doanh thu của từng nhóm tổ chức bao gồm việc hạn chế về số liệu công bố theo quý<br />
chứng khoán, bảo hiểm, quỹ đầu tư, công đối với các biến số trong mô hình nên bài<br />
ty tài chính và cho thuê tài chính, nghiên báo đã sử dụng chuỗi số liệu theo năm tài<br />
cứu sử dụng số liệu từ báo cáo của các cơ chính.<br />
quan quản lý chuyên ngành như Ủy ban<br />
Chứng khoán Nhà nước đối với công ty 3. Kết quả và thảo luận<br />
chứng khoán (CK) và quỹ đầu tư (QDT),<br />
Cục Quản lý bảo hiểm thuộc Bộ Tài chính 3.1. Kết quả thực nghiệm<br />
đối với các doanh nghiệp bảo hiểm (BH),<br />
NHNN đối với công ty tài chính và cho Nhóm nghiên cứu tiến hành ước lượng<br />
thuê tài chính (TC). mối quan hệ phụ thuộc bằng mô hình<br />
ARDL theo bốn bước sau: (1) Kiểm tra<br />
Chuỗi dữ liệu được thu thập theo tần suất đồng liên kết bằng kiểm định đường bao<br />
năm cho giai đoạn 2000- 2018. Thị trường (Bounds test) dựa trên thống kê F; (2) Ước<br />
chứng khoán bắt đầu hình thành và phát lượng ARDL với độ trễ tối ưu lựa chọn<br />
triển tại Việt Nam kể từ năm 2000 kéo theo tiêu chuẩn Akaike Info Criterion<br />
theo sự phát triển mạnh mẽ của các NBFI- (AIC); (3) Phân tích các tác động dựa<br />
điển hình là công ty chứng khoán và quỹ theo mô hình tối ưu; (4) Kiểm tra tính ổn<br />
đầu tư. Đối với công ty bảo hiểm và các định và khả năng tương thích của mô hình<br />
công ty tài chính và cho thuê tài chính, thông qua kiểm định phương sai sai số<br />
mặc dù đã xuất hiện tại Việt Nam từ trước thay đổi (ARCH Heteroskedasticity), tự<br />
năm 2000, tuy nhiên hoạt động trong giai tương quan (Breusch-Godfrey LM), biến<br />
đoạn này còn tương đối khiêm tốn, đồng bỏ sót (Ramsey RESET), tổng tích lũy của<br />
thời các số liệu thống kê về tình hình hoạt phần dư (CUSUM) và tổng bình phương<br />
động trong giai đoạn này khá hạn chế. Do tích lũy của phần dư (CUSUM-SQ)<br />
<br />
<br />
Bảng 1. Phân tích thống kê mô tả (số quan sát = 19)<br />
Biến phụ thuộc (Yi) Biến độc lập (Xi)<br />
Tiêu chí<br />
VNI ZS NPL RTAN RREN CK QDT BH TC<br />
Trung bình 24,92 12,31 3,43 0,12 0,02 0,02 0,03 0,04 0,04<br />
Max 85,41 15,35 8,60 0,22 0,04 0,05 0,05 0,07 0,08<br />
Min 11,56 7,09 1,55 0,02 0,01 0,01 0,00 0,01 0,01<br />
Độ lệch chuẩn 16,34 2,84 2,07 0,06 0,01 0,02 0,02 0,01 0,02<br />
Kiểm định ADF I(0) -3,70** -1,59 -2,00 -1,74 -1,93 -1,69 -1,70 -1,30 -1,60<br />
Kiểm định ADF I(1) - -4,37*** -3,25** -3,11** -3,39** -3,37** -4,57*** -2,65* -3,75**<br />
*,**,*** tương ứng với các mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%<br />
Nguồn: Tính toán của tác giả<br />
<br />
<br />
<br />
6 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 2019<br />
KIỀU HỮU THIỆN - PHẠM MẠNH HÙNG - PHẠM ĐỨC ANH<br />
<br />
<br />
Bảng 2. Kiểm định đường bao<br />
Mô hình F-statistic k Mức ý nghĩa I(0) bound I(1) bound<br />
(1a) 6,33 2 1% 3,17 4,14<br />
(1b) 5,80 2 1% 3,79 4,85<br />
(1c) 6,09 2 1% 3,14 4,67<br />
Nguồn: Tính toán của tác giả<br />
<br />
Bảng 3. Xác định độ trễ tối ưu của các biến trong mô hình ARDL<br />
Mô hình (1a) (1b) (1c) (2a) (2b) (2c) (3a) (3b) (3c) (4a) (4b) (4c) (5a) (5b) (5c)<br />
VNI 1 1 1 1 1<br />
Biến<br />
ZS 2 2 2 2 2<br />
PT<br />
NPL 1 1 1 1 1<br />
RTAN 0 0 0<br />
RREN 0 0 0<br />
Biến CK 4 4 4<br />
độc<br />
lập QDT 1 1 1<br />
BH 0 0 0<br />
TC 4 4 4<br />
Nguồn: Tính toán của tác giả<br />
<br />
<br />
(Kumar, 2013). mô hình ARDL của nhóm nghiên cứu là<br />
hoàn toàn phù hợp để ước lượng tác động<br />
Để tiến hành kiểm định đường bao dựa của sự phát triển của tổ chức tài chính phi<br />
trên giả định các biến dừng I(0) hay có ngân hàng tới mức độ ổn định tài chính.<br />
sai phân bậc nhất I(1), trước tiên, nhóm<br />
nghiên cứu thực hiện kiểm định ADF. Kết Căn cứ theo hệ số AIC, mô hình ARDL<br />
quả cho thấy các biến số trong mô hình với độ trễ tối ưu của từng phương trình<br />
đều thỏa mãn dừng I(0), hoặc dừng sai được lựa chọn cụ thể như trong Bảng 3.<br />
phân I(1).<br />
Kết quả ước lượng mô hình ARDL tối ưu<br />
Tiếp đó, chúng tôi tiến hành kiểm định được trình bày ở Bảng 4.<br />
đường bao và thu được kết quả như ở<br />
Bảng 2. Giá trị thống kê F lớn hơn giá trị 3.2. Thảo luận kết quả<br />
giới hạn tại mức ý nghĩa 1%, do đó bác<br />
bỏ giả thuyết H0, chấp nhận giả thuyết H1: Căn cứ vào kết quả hồi quy, có thể thấy<br />
Tồn tại quan hệ đồng liên kết dài hạn giữa rằng, về cơ bản, sự phát triển của các<br />
các biến số trong mô hình. NBFI có tác động tích cực tới ổn định tài<br />
chính của Việt Nam trong giai đoạn 2000-<br />
Các kiểm định khác về tính ổn định và 2018. Các kết quả định lượng được phân<br />
tin cậy của mô hình được trình bày ở Phụ tích cụ thể như sau:<br />
lục 1. Kết quả các kiểm định cho thấy<br />
<br />
<br />
Số 207- Tháng 8. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 7<br />
8<br />
Bảng 4. Kết quả lựa chọn mô hình ARDL tối ưu<br />
Mô hình (1a) (1b) (1c) (2a) (2b) (2c) (3a) (3b) (3c) (4a) (4b) (4c) (5a) (5b) (5c)<br />
Biến PT VNI ZS NPL VNI ZS NPL VNI ZS NPL VNI ZS NPL VNI ZS NPL<br />
VNI (-1) -0,11 0,55* 0,04 -0,12 0,51<br />
ZS (-1) 0,48* 0,82*** 0,24 0,71** 0,94***<br />
ZS (-2) 0,10 -0,29 -0,02 0,02 -0,38**<br />
NPL (-1) 0,62*** 0,30 0,84*** 0,62*** 0,26<br />
RTAN 170,55 25,07** 3,47<br />
RREN -2220,77* -118,64 -110,94*<br />
CK 313,89** 25,95 -37,99**<br />
CK (-1) -182,46 -36,77 19,47<br />
CK (-2) 128,73 35,16 3,38<br />
Biến CK (-3) -18,90 7,00 9,50<br />
độc<br />
lập CK (-4) -124,10 -2,25<br />
QDT -141,21 42,18 -8,99<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 2019<br />
QDT (-1) 3,96 66,74* 15,36<br />
BH -619,66* 11,42 -41,87*<br />
TC 208,90* 14,24 -24,63**<br />
TC (-1) -85,20 18,73 9,34<br />
TC (-2) -43,08 -46,34* 16,20*<br />
TC (-3) 48,21 42,45* 2,91<br />
TC (-4) -48,45 -0,59 -7,49<br />
Const 60,34** 5,20** 3,30* 6,65* 5,08** 1,92** 27,21** 7,09*** 0,10 53,52*** 3,12* 2,78* 7,48* 4,93*** 1,94**<br />
*,**,*** tương ứng với các mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%<br />
Nguồn: Tính toán của tác giả<br />
KIỀU HỮU THIỆN - PHẠM MẠNH HÙNG - PHẠM ĐỨC ANH<br />
<br />
<br />
Phương trình (1) nhằm đánh giá tác động triển tài sản của các công ty bảo hiểm có<br />
của hai biến số thể hiện sự phát triển của tác động hạn chế biến động mạnh của thị<br />
các NBFI là RTAN (tổng tài sản của NBFI trường chứng khoán cũng như nợ xấu của<br />
so với GDP) và RREN (tổng doanh thu hệ thống ngân hàng. Điều này là hợp lý<br />
của NBFI so với GDP) tới các chỉ báo của khi mà thị trường bảo hiểm phát triển cung<br />
ổn định tài chính, bao gồm biến động của cấp những công cụ phòng hộ rủi ro hữu<br />
VNINDEX (VNI), chỉ số Bank Z-score hiệu trên thị trường chứng khoán cũng như<br />
(ZS) và tỷ lệ nợ xấu NPL. Kết quả hồi các sản phẩm bảo hiểm tín dụng để hạn<br />
quy cho thấy sự phát triển về tài sản của chế nợ xấu ngân hàng.<br />
các NBFI có ảnh hưởng cùng chiều tới<br />
Z-score ở mức ý nghĩa 5%, một sự gia Các kết quả trên tương đối thống nhất với<br />
tăng về tài sản của các NBFI kéo theo rủi quan điểm của nhiều nghiên cứu trước<br />
ro của hệ thống ngân hàng giảm xuống. đây, ví dụ: Vittas (1997), Carmichael và<br />
Đối với các biến số VNI hay NPL, tác Pomerleano (2002), Cummins và Weiss<br />
động của RTAN không cho thấy ý nghĩa (2014), Baker (2016)… Cụ thể, Vittas<br />
thống kê. Tuy nhiên, đối với VNI và NPL, (1997) cho rằng NBFIs thúc đẩy sự cạnh<br />
biến số RREN thể hiện sự tăng trưởng tranh giữa các tổ chức trung gian tài chính,<br />
doanh thu của NBFI lại cho thấy những hoàn thiện dần bộ máy tổ chức nhằm<br />
tác động nhất định. RREN ảnh hưởng hoạt động một cách có hiệu quả hiệu quả<br />
ngược chiều đến của VNI và NPL cho hơn và đáp ứng nhu cầu của khách hàng.<br />
thấy sự gia tăng quy mô doanh thu của Bên cạnh đó, tác giả này cũng khẳng<br />
NBFI khiến thị trường chứng khoán ổn định rằng sự phát triển của NBFIs giúp<br />
định hơn và giảm tỷ lệ nợ xấu tại các ngân kích thích phát triển thị trường vốn thông<br />
hàng. qua việc tạo ra nguồn tài chính dài hạn<br />
dồi dào, đồng thời cũng tạo thêm nguồn<br />
Nhóm phương trình (2), (3), (4), (5) kiểm cung và cầu mới cho thị trường. Về sự<br />
tra tác động của từng nhóm tổ chức trong phát triển của khu vực tài chính phi ngân<br />
NBFI tới tình hình ổn định tài chính. Hệ hàng, Carmichael và Pomerleano (2002)<br />
số hồi quy của các biến số CK, BH, TC, cho rằng khu vực này được khuyến khích<br />
QDT đều cho thấy ảnh hưởng tích cực phát triển vì các quốc gia sẽ được hưởng<br />
nhất định của các nhóm tổ chức NBFI tới lợi từ việc tiếp cận rộng hơn các dịch vụ<br />
tình hình ổn định tài chính của Việt Nam. tài chính cùng với một hệ thống tài chính<br />
Nhóm CTCK và CTTC có ảnh hưởng khá cạnh tranh hơn, đa dạng hơn, mức độ tổn<br />
tương tự nhau đối với tình hình ổn định thương thấp hơn. Ở mức độ kinh tế vi mô,<br />
tài chính. Tổng tài sản của các CTCK và sự tăng trưởng của NBFIs thúc đẩy cạnh<br />
CTTC có quan hệ cùng chiều với mức độ tranh trong khu vực tài chính, thách thức<br />
biến động thị trường VNINDEX, nghĩa là năng lực và dịch vụ của hệ thống ngân<br />
quy mô tài sản của CTCK và CTTC gia hàng, thúc đẩy cải thiện sản phẩm dịch vụ<br />
tăng mạnh khi thị trường biến động mạnh. đồng thời làm giảm tính dễ bị tổn thương<br />
Tăng trưởng tài sản của CTCK và CTTC của hệ thống ngân hàng (Carmichael<br />
có mối quan hệ ngược chiều với nợ xấu và Pomerleano, 2002). Nghiên cứu của<br />
ngân hàng. Sự gia tăng tài sản quản lý của Cummins và Weiss (2014) cho thấy tác<br />
các QDT có quan hệ cùng chiều với chỉ động tiêu cực không tồn tại hoặc chỉ là<br />
số Bank Z-score. Trong khi đó sự phát rất nhỏ của ngành bảo hiểm đối với sự ổn<br />
<br />
<br />
Số 207- Tháng 8. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 9<br />
Đánh giá tác động của sự phát triển các tổ chức tài chính phi ngân hàng tới ổn định tài chính ở<br />
Việt Nam dựa trên Mô hình ARDL<br />
<br />
định của thị trường tài chính. đoạn 2000- 2018 mang dấu ấn tích cực<br />
nhiều hơn tiêu cực. Thực trạng hoạt động<br />
4. Kết luận của một số khu vực NBFIs có thể gây<br />
ra rủi ro hoạt động tiềm tàng trong một<br />
Trong những năm gần đây, vai trò của số giai đoạn cụ thể, tuy nhiên, rủi ro này<br />
ngân hàng như các trung gian tài chính ở dường như chưa đủ lớn để có thể ảnh<br />
một số quốc gia phát triển đã giảm đi phần hưởng tới hệ thống ngân hàng hay ổn định<br />
nào với sự xuất hiện của các trung gian tài tài chính nói chung của Việt Nam.<br />
chính phi ngân hàng, cho phép các doanh<br />
nghiệp tiếp cận trực tiếp các khoản tiết Trong nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu<br />
kiệm cá nhân. Lịch sử phát triển kinh tế mong muốn có thể đưa biến số phản ánh<br />
của các nước trên thế giới cho thấy sự phát ổn định tài chính Financial Stability Index<br />
triển tài chính của các quốc gia bắt đầu với trở thành biến phụ thuộc trong mô hình,<br />
các tổ chức tài chính ngân hàng và trong khi đó việc đánh giá tác động của sự phát<br />
giai đoạn tiếp theo là các tổ chức tài chính triển NBFI tới ổn định tài chính sẽ trở nên<br />
phi ngân hàng. Nằm trong dòng chảy đó, chặt chẽ hơn. Tuy nhiên, do chuỗi số liệu<br />
vai trò của các tổ chức tài chính phi ngân của hệ thống tài chính Việt Nam không<br />
hàng tại Việt Nam ngày càng được gia đủ dài nên nhóm nghiên cứu chỉ xây dựng<br />
tăng, nhưng đi cùng với đó là những lo được chỉ số tổng hợp (composite index)<br />
ngại về rủi ro đó với ổn định của hệ thống này cho giai đoạn 2010- 2018. Do chuỗi<br />
tài chính. số liệu chưa đủ dài để đưa vào mô hình,<br />
chúng tôi hi vọng hạn chế này có thể<br />
Thông qua kết quả định lượng của nghiên được khắc phục trong các nghiên cứu tiếp<br />
cứu này, có thể khẳng định tác động tổng theo.■<br />
thể của sự phát triển NBFIs tới tình hình<br />
ổn định tài chính tại Việt Nam trong giai<br />
<br />
<br />
Tài liệu tham khảo<br />
1. Baker, S. (2016), Non-banks improve effectiveness of monetary policy on economy, IMF.<br />
2. Beck, T., Levine, R. and Loayza, N. (2000), Finance and the Sources of Growth. Journal of financial economics,<br />
58(1-2), 261-300.<br />
3. Carmichael, J. and Pomerleano, M. (2002), The development and regulation of Non-bank financial institutions,<br />
World Bank.<br />
4. Cheng, X. and Degryse, H. (2010), The impact of bank and non-bank financial institutions on local economic<br />
growth in China, Journal of Financial Services Research, 37(2–3), 179–199.<br />
5. Cummins, J.D. and Weiss, M.A., (2014), Systemic risk and the U.S. insurance sector, Journal of Risk and<br />
Insurance, 81, 489-528.<br />
6. European Commission, (2012), Non-bank financial institutions: Assessment of their impact on the stability of the<br />
financial system, Economic Papers 472.<br />
7. Gujarati, D.N. (2003), Basic Econometrics, 4th ed, McGraw-Hill, New York.<br />
8. Hossain, M. and Shahiduzzaman, M. (2005) “Development of Non Bank Financial Institutions to Strengthen the<br />
Financial System of Bangladesh”, MPRA Paper 24734.<br />
9. Impavido, G., Musalem, A. R., & Tressel, T. (2003). The impact of contractual savings institutions on securities<br />
markets. The World Bank.<br />
10. Islam, M.A. and Osman, J.B. (2011), Development Impact of Non-Bank Financial Intermediaries on Economic<br />
Growth in Malaysia: An Empirical Investigation, International Journal of Business and Social Science, 2(14), 187-198.<br />
11. Kumar, R. R. (2013), Remittances and economic growth: A study of Guyana. Economic Systems, 37(3), 462–472.<br />
12. Liang, H.Y. and Reichert, A.K. (2012), The impact of banks and non-bank financial institutions on economic<br />
<br />
<br />
<br />
10 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 2019<br />
KIỀU HỮU THIỆN - PHẠM MẠNH HÙNG - PHẠM ĐỨC ANH<br />
<br />
<br />
growth. The Service Industries Journal, 32(5), 699-717.<br />
13. Nguyễn Văn Tiến (2016), Giáo trình Tiền tệ - Ngân hàng và Thị trường Tài chính, NXB Lao động.<br />
14. Pesaran, M.H., Shin, Y. and Smith, R.J. (2001) “Bounds testing approaches to the analysis of level relationships”,<br />
Journal of Applied Econometrics, 16(3), 289–326.<br />
15. Rioja, F. and Valev, N. (2004), Finance and the sources of growth at various stages of economic development,<br />
Economic Inquiry, 42(1), 127-140.<br />
16. Vittas, D. (1997) The Role of Non-Bank Financial Intermediaries in Egypt and other MENA countries, World Bank.<br />
17. Weiss, G. and Muhlnickel, J. (2015), Consolidation and systemic risk in the international insurance industry,<br />
Journal of Financial Stability, 18, 187-202.<br />
<br />
<br />
Phụ lục 1: Các kiểm định chuẩn đoán của mô hình ARDL<br />
Kết quả kiểm định mô hình phù hợp với mức ý nghĩa 5% ở Bảng 1a cho thấy giả thuyết H0 đều<br />
được chấp nhận trong các mô hình: Mô hình có phương sai sai số không đổi, không tồn tại tự<br />
tương quan bậc 2, mô hình phù hợp và không thừa biến. Kiểm định CUSUM và CUSUM-SQ đều<br />
nằm trong đoạn tiêu chuẩn ứng với mức ý nghĩa 5% (Hình 1a) cho thấy phần dư của mô hình có<br />
tính ổn định cao, do đó mô hình ước lượng ổn định.<br />
<br />
<br />
Hình 1a. Kiểm định tổng tích lũy và tổng bình phương tích lũy của phần dư<br />
Mô hình (1a)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Mô hình (1b)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Số 207- Tháng 8. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 11<br />
Đánh giá tác động của sự phát triển các tổ chức tài chính phi ngân hàng tới ổn định tài chính ở<br />
Việt Nam dựa trên Mô hình ARDL<br />
<br />
<br />
Mô hình (1c)<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Bảng 1a. Kết quả kiểm định chẩn đoán<br />
Kiểm định chẩn Mô hình (1a) Mô hình (1b) Mô hình (1c)<br />
đoán Trị thống kê P-value Trị thống kê P-value Trị thống kê P-value<br />
Heteroskedasticity 0,480 0,488 0,100 0,750 2,540 0,221<br />
Breusch-Godfrey LM 0,302 0,580 0,301 0,583 1,339 0,247<br />
Ramsey RESET 4,230 0,322 0,070 0,973 0,800 0,519<br />
CUSUM Ổn định Ổn định Ổn định<br />
CUSUM-SQ Ổn định Ổn định Ổn định<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
12 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 207- Tháng 8. 2019<br />