BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

CAO THỊ ÁNH TUYẾT

TÁC ĐỘNG CỦA FDI VÀ ĐỘ MỞ THƯƠNG MẠI ĐẾN

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở CÁC QUỐC GIA

ĐANG PHÁT TRIỂN

(1995 – 2017)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

CAO THỊ ÁNH TUYẾT

TÁC ĐỘNG CỦA FDI VÀ ĐỘ MỞ THƯƠNG MẠI ĐẾN

TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở CÁC QUỐC GIA

ĐANG PHÁT TRIỂN

(1995 – 2017)

Chuyên ngành: Tài chính

Mã số: 8340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS. TRẦN THỊ HẢI LÝ

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan bài luận văn thạc sĩ với chủ đề “TÁC ĐỘNG CỦA FDI VÀ ĐỘ

MỞ THƯƠNG MẠI ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở CÁC QUỐC GIA ĐANG

PHÁT TRIỂN (1995 – 2017)” là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng

tôi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Trần Thị Hải Lý. Các số liệu, kết quả nêu trong

luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và chưa từng được công bố trong bất kì

công trình nghiên cứu nào khác.

Tôi cam đoan sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung và tính trung thực

được trình bày trong luận văn này.

TP. Hồ Chí Minh, ngày 19 tháng 09 năm 2018

Cao Thị Ánh Tuyết

MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

DANH MỤC BẢNG BIỂU

DANH MỤC HÌNH

TÓM TẮT

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ..................................................................................... 1

1.1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 1

1.2. Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................... 3

1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 3

1.4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 3

1.5. Câu hỏi nghiên cứu ........................................................................................ 4

1.6. Kết cấu bài nghiên cứu .................................................................................. 4

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY ............................................................................................................ 5

2.1. Mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài và tăng trưởng kinh tế .... 5

2.1.1. Một số học thuyết liên quan về mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài và tăng trưởng kinh tế ............................................................................... 5

2.1.2. Các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài và tăng trưởng kinh tế ............................................................................... 6

2.1.2.1 Tác động tích cực của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lên tăng trưởng kinh tế ..................................................................................................... 6

2.1.2.2 Tác động tiêu cực của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lên tăng trưởng kinh tế ................................................................................................... 10

2.2. Mối quan hệ giữa độ mở thương mại và tăng trưởng kinh tế ................. 11

2.2.1.Một số học thuyết liên quan về mối quan hệ giữa độ mở thương mại và tăng trưởng kinh tế ................................................................................................... 11

2.2.2. Các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa độ mở thương mại và tăng trưởng kinh tế............................................................................................ 13

2.2.2.1 Tác động tích cực của độ mở thương mại lên tăng trưởng kinh tế ...... 13

2.2.2.2 Tác động tiêu cực của độ mở thương mại lên tăng trưởng kinh tế ...... 14

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................................................ 17

3.1 Khung phân tích và dữ liệu ......................................................................... 17

3.2. Các phương pháp phân tích mô hình hồi quy .......................................... 20

3.2.1. Mô hình hồi quy kết hợp ........................................................................ 22

3.2.2. Mô hình tác động cố định (FEM) ........................................................... 22

3.2.3. Mô hình tác động ngẩu nhiên (REM) ..................................................... 22

3.2.4. Phương pháp bình phương nhỏ nhất tổng quát (GLS) ........................... 23

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ............................................................. 24

4.1. Phân tích thống kê mô tả ............................................................................ 24

4.2. Kiểm tra đa cộng tuyến ............................................................................... 25

4.2.1. Ma trận hệ số tương quan ....................................................................... 26

4.2.2. Hệ số phóng đại phương sai (VIF) ......................................................... 27

4.3. Kết quả nghiên cứu...................................................................................... 27

4.3.1. Mô hình hồi quy tác động cố định .......................................................... 28

4.3.2. Mô hình hồi quy tác động ngẫu nhiên .................................................... 29

4.3.3. Kiểm định Hausman ............................................................................... 30

4.3.4. Kiểm tra các khuyết tật mô hình ............................................................ 31

4.3.4. 1 Kiểm định phương sai thay đổi ...................................................... 31

4.3.4.2 Kiểm định tự tương quan ................................................................. 31

4.3.5. Khắc phục mô hình ................................................................................. 32

4.3.6. Mô hình hoàn chỉnh ................................................................................ 33

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH ....................................... 35

5.1 Kết luận ......................................................................................................... 35

5.2. Gợi ý chính sách ........................................................................................... 35

5.3. Những hạn chế của luận văn và gợi ý nghiên cứu .................................... 36

TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Thuật ngữ Viết đầy đủ tiếng Anh Viết đầy đủ tiếng Việt

FDI Foreign direct investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài

Gross domestic product Tổng sản phẩm quốc nội GDP

GFCF Tổng vốn đầu tư cố định Gross fixed capital formation

GNP Gross national product Tổng sản phẩm quốc dân

FEM Fixed Effect Model Mô hình tác động cố định

REM Random Effect Model Mô hình tác động ngẫu nhiên

GLS Generalized least squares Phương pháp bình phương tối thiểu tổng quát

World Trade Organization Tổ chức thương mại thế giới WTO

ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á Association of South East Asian Nations

OECD Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển Organisation for Economic Co-operation and Development

Mô hình vector hiệu chỉnh sai số VECM Vector Error Correct Model

ELG Export-led growth Xuất khẩu thúc đẩy tăng trưởng

GDE Growth-driveven export Tăng trưởng thúc đẩy xuất khẩu

PCI Sản lượng quốc gia bình quân đầu người Organisation for Economic Co-operation and Development

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Số thứ tự Tên Bảng Biểu

3.1 Tóm tắt các biến trong mô hình

4.1 Thống kê mô tả của các biến

4.2 Ma trận hệ số tương quan

4.3 Kiểm tra đa cộng tuyến với nhân tử phóng đại phương sai VIF

4.4 Mô hình tác động cố định

4.5 Mô hình tác động ngẫu nhiên

Kết quả kiểm định Hausman 4.6

4.7 Kiểm định phương sai thay đổi của mô hình REM

Kết quả kiểm định tự tương quan 4.8

Mô hình hồi quy bình phương tối thiểu tổng 4.9 quát

DANH MỤC HÌNH

Số thứ tự Tên Bảng Biểu

3.1 Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế

TÓM TẮT

Tăng trưởng kinh tế một cách bền vững với chất lượng cao luôn là mục tiêu

của tất cả các quốc gia trong mọi thời đại và đây cũng là một trong những vấn đề

được quan tâm nhiều nhất trong kinh tế học. Quá trình tăng trưởng là một hiện tượng

phức tạp, nó phụ thuộc vào rất nhiều các biến số kinh tế vi mô và vĩ mô như: sự ổn

định của nền kinh tế, sự phân phối thu nhập, khung pháp lý, vị trí địa lý, đầu tư trực

tiếp nước ngoài (FDI), độ mở thương mại… Mối quan hệ giữa vốn đầu tư trực tiếp

nước ngoài (FDI) và tăng trưởng, độ mở thương mại và tăng trưởng (GDP)… vẫn

luôn là những đề tài thu hút nhiều sự chú ý của các nhà kinh tế học, các nhà làm luật,

chính phủ của các quốc gia. Tuy nhiên, những nghiên cứu được tiến hành để xem xét

mối quan hệ của những nhân tố này lại đưa ra nhiều kết quả khác nhau, gây nhiều

tranh cãi.

Bài nghiên cứu này xem xét tác động của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

(FDI) và độ mở thương mại đến tăng trưởng kinh tế của các quốc gia đang phát triển

(trong đó có Việt Nam) trong giai đoạn 1995 – 2017. Bằng cách xây dựng dữ liệu

bảng của 6 biến số kinh tế vĩ mô (tăng trưởng kinh tế, độ mở thương mại, đầu tư trực

tiếp nước ngoài, ổn định kinh tế, lực lượng lao động và đầu tư vốn của quốc gia) cho

17 nền kinh tế mới nổi đang phát triển và sau đó sử dụng các phương pháp tiếp cận

ảnh hưởng cố định (FEM), ảnh hưởng ngẫu nhiên (REM), phương pháp bình phương

tổng quát tối thiểu (GLS) để xem xét ảnh hưởng của các nhân tố vĩ mô này đến tăng

trưởng kinh tế ở các quốc gia đang phát triển mới nổi hiện nay. Kết quả của bài nghiên

cứu cho thấy: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tổng đầu tư cố định, đội ngũ lao động

là những nhân tố góp phần tích cực vào sự tăng trưởng của nền kinh tế. Tuy nhiên,

độ mở thương mại đóng vai trò mờ nhạt trong việc phát triển kinh tế tại các quốc gia

này.

Từ khóa: Tăng trưởng GDP bình quân đầu người, FDI

1

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU

1.1 Lý do chọn đề tài

“Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng bền vững về sản phẩm tính theo đầu người

hoặc theo từng công dân”, Simo Kuznet (1996). Các nhà kinh tế học cổ điển đã sử

dụng hai chỉ tiêu: Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) bình quân đầu người (GNP/người)

và tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người (GDP/người) để đo lường tốc

độ tăng trưởng của một nền kinh tế. Tăng trưởng kinh tế bền vững là nhiệm vụ ưu

tiên hàng đầu của chính phủ các quốc gia, cũng là mối quan tâm không nhỏ của các

nhà kinh tế học từ trước tới nay. Để phát triển kinh tế của một quốc gia ngoài những

nhân tố mang tính đặc thù của mỗi nước như: Vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên thì

chính phủ các quốc gia đang phát triển cũng không ngừng cải thiện các chính sách,

khung pháp lý, tạo điều kiện thu hút đầu tư từ các quốc gia phát triển để nhằm mục

đích chung đạt được một nền kinh tế tăng trưởng bền vững. Các cuộc chạy đua về các

chính sách thu hút vốn đầu tư, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng cơ sở

hạ tầng, các chính sách mở cửa thương mại đã được đưa ra nhằm mục đích phát triển

tối đa các nguồn lực đem đến sự sự tăng trưởng bền vững đang được tiến hành tại các

quốc gia, tuy nhiên, kết quả mang lại lại không không giống nhau ở từng quốc gia.

Nguồn vốn đầu tư gồm: Đầu tư tư nhân, Đầu tư chính phủ và Đầu tư nước ngoài

là những thành phần không thể thiếu trong quá trình sản xuất của các quốc gia. Nguồn

vốn này không phải chỉ là những máy móc, trang thiết bị, mà còn được sử dụng để

phát triển lợi ích chung của toàn xã hội (phát triển cơ sở hạ tầng của quốc gia, các

công trình an sinh xã hội từ nguồn vốn đầu tư của chính phủ…). Bên cạnh đó, dòng

vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng đóng một vai trò quan trọng không kém. Nó là

một trong những nguồn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt về vốn. Các quốc gia đang

phát triển hiện nay nói chung (và Việt Nam nói riêng) có nguồn vốn trong nước giới

hạn (tỷ lệ tích lũy thấp, nhu cầu đầu tư cao) nên việc thu hút đầu tư nước ngoài để

phát triển kinh tế là điều hết sức cần thiết. Tuy nhiên, liệu nguồn vốn này có thực sự

mang lại lợi ích thực sự cho các quốc gia này. Việc thực hiện các chính sách thu hút

2

đầu tư từ các quốc gia phát triển được đánh giá là có thặng dư vốn cao có thực sự

đem lại lợi ích phát triển kinh tế cho quốc gia nhận đầu tư? Dòng vốn đầu tư trực tiếp

FDI thực sự có tác động đến tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia đang phát triển? Tác

động của “hiệu ứng tràn công nghệ” có thực sự hiệu quả hay họ chỉ là phương tiện để

các quốc gia phát triển, các tập đoàn đa quốc gia khai thác và chuyển nguồn lợi về

nước? Vẫn còn là những câu hỏi đang được nghiên cứu và đưa ra những kết luận trái

ngược nhau.

Độ mở thương mại: Tác động của xuất nhập khẩu với tăng trưởng kinh tế có thể

là mối quan hệ trực tiếp (vì xuất nhập khẩu là một trong những nhân tố cấu thành của

tổng sản phẩm) hoặc gián tiếp (thông qua các nhân tố khác của tăng trưởng). Xuất

khẩu làm tăng mức cầu trong nền kinh tế, góp phần phát triển thêm thị trường ở các

quốc gia khác. Việc mở rộng giao thương với các quốc gia trên thế giới góp phần cải

thiện quá trình tái phân bổ lao động, gia tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực và nâng cao

năng lực cạnh tranh của các quốc gia. Xuất khẩu làm giảm thâm hụt cán cân thương

mại, thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo

thêm nhiều công ăn việc làm, thúc đẩy đầu tư trong nước, tăng thu nhập cho quốc

gia… Các cuộc đấu tranh thương mại vẫn đang tiếp diễn trên các sân chơi quốc tế

hiện nay. Việc mở cửa có thực sự đem lại lợi ích cho các quốc gia đang phát triển,

hay nó chỉ đóng vai trò mờ nhạt khi mà những quốc gia này lại đang ở vị thế nhập

siêu, hàng nội địa tiêu thụ khó khăn hơn do xu hướng “sùng ngoại” hiện nay?

Ta nhận thấy, nghiên cứu tác động của các nhân tố vĩ mô đến tăng trưởng kinh

tế nói chung và tác động của FDI và độ mở thương mại đến tăng trưởng kinh tế nói

riêng là một trong những vấn đề quan trọng được nhiều nhà kinh tế chú ý. Và đây

cũng là một trong những đề tài nóng bỏng trong thời gian qua. Đã có nhiều nghiên

cứu được tiến hành ở Việt Nam cũng như những quốc gia đang phát triển khác về

mối quan hệ của những nhân tố này, tuy nhiên các nghiên cứu lại đưa ra những kết

luận trái ngược nhau. Việc nhận định rõ nhân tố nào thực sự ảnh hưởng đến tăng

trưởng kinh tế ở các quốc gia này để đưa ra những hướng phát triển phù hợp cho nền

kinh tế là vô cùng cần thiết. Điều này đã tạo động lực để tiến hành thực hiện bài

3

nghiên cứu này, nhằm làm rõ nét thêm tác động của FDI và độ mở thương mại ở các

quốc gia đang phát triển mới nổi này.

1.2 Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là đánh giá và phân tích tác động FDI và độ mở

thương mại đến tăng trưởng ở các quốc gia đang phát triển mới nổi giai đoạn 1995 –

2017, cụ thể là: Xem xét mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài, độ mở thương

mại với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người bên cạnh các yếu tố vĩ mô tác

động khác như: lực lượng lao động, ổn định kinh tế vĩ mô, tổng vốn đầu tư cố định…

Nghiên cứu sẽ được tiến hành trên cơ sở dữ liệu của các quốc gia đang phát triển mới

nổi, có những điểm khá tương đồng với Việt Nam để từ đó đưa ra những gợi ý chính

sách hữu ích cho việc phát triển kinh tế ở các quốc gia đang phát triển nói chung và

Việt Nam nói riêng.

1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Tác động của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

(FDI), độ mở thương mại đến tăng trưởng kinh tế (tốc độ tăng trưởng của GDP bình

quân đầu người), bên cạnh đó, các yếu tố vĩ mô khác như: Tổng vốn đầu tư cố định,

ổn định kinh tế vĩ mô (lạm phát), nguồn nhân lực cũng được đưa vào để xem xét.

Thời gian và phạm vi nghiêm cứu: Bài nghiên cứu tập trung vào các quốc gia

đang phát triển mới nổi, cụ thể bao gồm 17 quốc gia sau: Việt Nam, Thái Lan,

Philippines, Malaysia, Indonesia, Pakistan, Ấn Độ, Peru, Mexico, Colombia, Chile,

Argentina, Nam Phi, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Lan và Nigeria. Số liệu được thu thập

từ World Bank giai đoạn 1995 đến năm 2017.

1.4 Phương pháp nghiên cứu

Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp hồi quy dữ liệu bảng, tiến hành phân tích

tác động của các nhân tố vĩ mô đến tăng trưởng kinh tế (tốc độ tăng trưởng GDP bình

quân đầu người) thông qua các cách tiếp cận tác động cố định (FEM), tác động ngẫu

nhiên (REM) và phương pháp bình phương tối thiểu tổng quát (GLS).

4

1.5 Câu hỏi nghiên cứu

Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), độ mở thương mại có tác động như

thế nào đến tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia đang phát triển?

Các yếu tố vĩ mô khác như: Tổng vốn đầu tư cố định, nguồn lực lao động và ổn

định kinh tế có những tác tác động như thế nào đến tăng trưởng kinh tế tại các quốc

gia này?

1.6 Kết cấu bài nghiên cứu

Bài nghiên cứu gồm 5 chương:

 Chương 1: Giới thiệu

 Chương 2: Cơ sở lý thuyết và tổng quan các nghiên cứu thực nghiệm trước

đây

 Chương 3: Phương pháp nghiên cứu

 Chương 4: Kết quả nghiên cứu

 Chương 5: Kết luận, gợi ý chính sách và hướng phát triển mới cho bài nghiên

cứu.

5

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU

TRƯỚC ĐÂY

Phần này cho chúng ta một cái nhìn tổng quan về chiều hướng của các mối quan

hệ giữa các biến số kinh tế vĩ mô trên thông qua một số các lý thuyết và các nghiên

cứu thực nghiệm được tiến hành bởi các nhà nghiên cứu, các nhà kinh tế học… trong

thời gian vừa qua.

2.1 Mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài và tăng trưởng kinh tế

2.1.1 Một số học thuyết liên quan về mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước

ngoài và tăng trưởng kinh tế

Nhiều học thuyết kinh tế đã được đưa ra để giải thích mối quan hệ giữa 2 nhân

tố này. Theo mô hình tăng trưởng tân cổ điển (lý thuyết tăng trưởng của Robert

Solow) được đưa ra từ những năm 1956, giải thích tăng trưởng kinh tế trong dài hạn

dựa vào những yếu tố như năng suất, tích lũy vốn, tỷ lệ tăng lao động, tiến bộ khoa

học kỹ thuật. Tuy nhiên, lý thuyết này lại kết luận rằng nguồn vốn đầu tư trực tiếp

nước ngoài này chỉ đơn thuần làm tăng tỷ lệ đầu tư và dẫn đến một sự tăng lên trong

tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người nhưng lại không tác động đến tăng trưởng

kinh tế trong lâu dài. Chính yếu tố công nghệ mới giúp tạo ra gia tăng vốn đầu tư, yếu

tố quan trọng để tích lũy và tăng trưởng kinh tế, chứ không phải chỉ là vốn ban đầu.

Lý thuyết tăng trưởng nội sinh ra đời vào những năm cuối thế kỉ XX, lại cho

rằng đầu tư vào nguồn nhân lực, các cải tiến khoa học kỹ thuật, tri thức sẽ là những

nhân tố quan trọng góp phần tăng trưởng kinh tế. Thông qua hiệu ứng tràn công nghệ

thì dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là nhân tố đóng góp lớn vào sự tăng

trưởng kinh tế quốc gia trong dài hạn. Các tập đoàn đa quốc gia được xem là những

kênh truyền dẫn, chuyển giao công nghệ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực (thông

qua các khóa học đào tạo, huấn luyện kĩ năng nghề nghiệp, quản lý, các hoạt động

nghiên cứu và phát triển…) tại các quốc gia nơi nguồn vốn đầu tư chảy vào… góp

phần vào sự tăng trưởng kinh tế trong dài hạn.

6

Lý thuyết chiết trung (Dunning – 1998) cung cấp một hướng tiếp cận mới về

mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài và tăng trưởng kinh tế. Phân tích về lợi

thế cạnh tranh, tác giả chỉ ra việc thu hút dòng vốn đầu tư FDI vào một quốc gia hay

khu vực phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố và đặc điểm riêng của quốc gia nhận đầu tư.

Các dòng vốn FDI đi vào thị trường các nước đang phát triển hoặc thị trường các

nước mới nổi là để tận dụng nguồn tài nguyên và lao động giá rẻ, mở rộng thị trường

tiêu thụ, khai thác thị trường nội địa; do đó, quy mô thị trường (GDP) là một trong

những nhân tố chính giúp thu hút nguồn vốn đầu tư FDI… lý thuyết ủng hộ cho quan

điểm hướng của mối quan hệ nhân quả giữa 2 nhân tố này là từ tăng trưởng đến dòng

vốn đầu tư FDI.

2.1.2 Các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước

ngoài và tăng trưởng kinh tế

Ngoài các học thuyết kinh tế được nói trên thì bên cạnh đó cũng có rất nhiều

nghiên cứu thực nghiệm đã được tiến hành để xem xét mối quan hệ giữa 2 nhân tố

này; tuy nhiên, kết quả của những nghiên cứu này lại đưa ra những kết luận trái ngược

nhau.

2.1.2.1 Tác động tích cực của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lên tăng

trưởng kinh tế

Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng ảnh hưởng của FDI lên tăng trưởng kinh tế là

ảnh hưởng có điều kiện. De Gregorio (1992) bằng cách xem xét dữ liệu bảng của 12

quốc gia Mỹ Latinh trong giai đoạn 1950-1985, tìm thấy rằng FDI thúc đẩy tăng

. Bloomstrom, Lipsey và Zejan (1996)

trưởng gấp 3 lần so với tổng đầu tư quốc nội1

cũng tìm thấy một kết luận tương tự khi sử dụng mẫu lớn hơn các quốc gia đang phát

1Gross domestic investment (hay còn gọi là gross capital formation): bao gồm các khoản chi tiêu để mở rộng, nâng cấp

các tài sản cố định của nền kinh tế cộng với những thay đổi ròng trong hàng tồn kho. Tài sản cố định bao gồm nhà xưởng,

máy móc thiết bị, đường xá, trường học, bệnh viện…. Hàng tồn kho gồm các hàng hóa nắm giữ bởi các công ty để đáp ứng

cho những biến động bất thường và tạm thời trong sản xuất và kinh doanh.

triển (78 quốc gia); họ đã chia các quốc gia trong mẫu thành 2 nhóm, một nhóm gồm

7

các quốc gia có thu nhập cao hơn và nhóm còn lại là các quốc gia có thu nhập thấp.

Và họ đã tìm thấy bằng chứng cho thấy FDI dẫn đến tăng trưởng kinh tế; tuy nhiên

đóng góp tích cực của FDI vào tăng trưởng là có điều kiện, theo các tác giả FDI

khuyến khích tăng trưởng nhiều hơn khi quốc gia nhận FDI có hệ số thu nhập trên

đầu người cao hơn, với các quốc gia có thu nhập thấp hơn, các nhân tố khác như giáo

dục đóng vai trò quan trọng hơn. Hệ số hồi quy cho các quốc gia có thu nhập cao hơn

và thấp hơn lần lượt là 0.457 và 0.100. Họ cũng tiến hành kiểm định nhân quả để xem

xét hướng của ảnh hưởng. Kết quả cho thấy tồn tại mối quan hệ nhân quả từ FDI đến

tăng trưởng. Bằng chứng chỉ ra các quốc gia đang phát triển với thu nhập cao hơn

mới nhận được các lợi ích từ FDI gợi ý rằng có lẽ các nhân tố khác sẽ quyết định một

quốc gia sẽ nhận được bao nhiêu lợi ích từ FDI.

Các nghiên cứu sau đó đã nỗ lực để nhận diện các nhân tố này.

Balasubramanyam Salisu và Dapsoford (1996) đã nhấn mạnh vào tầm quan trọng của

độ mở cửa thương mại như một nhân tố quan trọng để đạt được ảnh hưởng đến tăng

trưởng từ FDI.

Borensztein Gregorio và Lee (1998) lại cho thấy rằng các quốc gia cần có một

mức độ nhất định về vốn nhân lực2 để có thể nhận được lợi ích đầy đủ từ FDI. Mặc

dù FDI có thể đem đến công nghệ và kỹ thuật, nhưng quốc gia nhận đầu tư cũng cần

phải có nguồn lao động có chất lượng để khai thác các lợi ích do FDI mang lại. Có

thể thấy FDI không phải là phương thuốc chữa bách bệnh.

De Mello (1999) đã xem xét mối quan hệ nhân quả giữa FDI và tăng trưởng ở

32 quốc gia (15 quốc gia thuộc OECD và 17 quốc gia không thuộc OECD) trong giai

đoạn 1970-1990. Kết quả cho thấy rằng mặc dù FDI thúc đẩy tăng trưởng dài hạn,

tuy nhiên mức độ FDI ảnh hưởng đến tăng trưởng phụ thuộc vào mức độ bổ sung và

động của một nền kinh tế, ông tin rằng vốn nhân lực cũng quan trọng giống như bất kỳ một loại vốn nào khác, và có thể

được cải thiện thông qua giáo dục, huấn luyện... và cuối cùng sẽ đem đến giá trị kinh tế cho cả người sử dụng lao động và cả nền kinh tế nói chung.

2Human capital: thuật ngữ được tạo ra bởi Theodore Schultz vào những năm 1960, để đo lường chất lượng lực lượng lao

8

thay thế giữa FDI và đầu tư trong nước. Alfaro, Chandra, Kalemli-Ozcan và Sayek

(2000) cho rằng FDI sẽ thúc đẩy tăng trưởng ở các quốc gia có thị trường tài chính

phát triển hợp lý.

Nair-Reichert, U. và Weinhold, D. (2000) sử dụng dữ liệu bảng gồm 24 nước

đang phát triển giai đoạn 1971 – 1995 sử dụng phương pháp ước lượng dữ liệu bảng

hỗn hợp giữa cố định và ngẫu nhiên (MFR) để xem xét sự không đồng nhất giữa các

quốc gia. Và đưa ra kết luận rằng: Dòng vốn đầu tư FDI có tác động tích cực đến tăng

trưởng kinh tế; tuy nhiên, mối quan hệ này là không đồng nhất giữa các quốc gia. Và

họ cũng chỉ ra rằng, trong khi đầu tư nội địa dường như là có tương quan mạnh mẽ

với tăng trưởng ở hiện tại thì đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lại cho thấy mối quan

hệ nhân quả mạnh mẽ với tăng trưởng kinh tế trong tương lai.

Zhang (2001) trong nghiên cứu của mình tác giả đã cung cấp một đánh giá thực

nghiệm về mối quan hệ này bằng cách sử dụng dữ liệu của 11 quốc gia ở Mỹ Latinh

và Đông Á, tác giả tìm thấy mối quan hệ nhân quả Granger mạnh mẽ giữa dòng vốn

đầu tư (FDI) và tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ ra rằng ngoài nhân

tố dòng vốn FDI thì những đặc trưng riêng của từng quốc gia cũng có những ảnh

hưởng nhất định đến tăng sự trưởng kinh tế của quốc gia đó. Đặc biệt, dòng vốn đầu

tư FDI sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhiều hơn khi quốc gia nhận đầu tư áp dụng

chế độ tự do hóa thương mại, cải thiện giáo dục, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,

khuyến khích FDI định hướng xuất khẩu, duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô… tạo điều

kiện thuận lợi cho các dòng vốn đầu tư chảy vào giúp phát triển kinh tế quốc gia.

Nguyễn Thị Phương Hoa (2004) đã tiến hành tìm hiểu tác động của FDI đến

tăng trưởng kinh tế thông qua sự phân tích về mối quan hệ giữa FDI và sự nghèo đói.

Nghiên cứu kết luận rằng FDI thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế của các quốc gia thông

qua việc hình thành và tích lũy tài sản vốn bên cạnh sự tương tác liên tục, tích cực

giữa FDI và nguồn nhân lực. Tuy nhiên, tác động tràn tích cực của FDI chỉ xuất hiện

ở cấp độ quốc gia ở các ngành chế biến nông lâm sản.

9

Nguyễn Thị Tuệ Anh, Vũ Xuân Nguyệt Hồng, Trần Toàn Thắng và Nguyễn

Mạnh Hải (2006) đã tiến hành nghiên cứu về ảnh hưởng của đầu tư trực tiếp nước

ngoài (FDI) tới tăng trưởng kinh tế (GDP) ở Việt Nam bằng cách sử dụng kỹ thuật

phân tích định lượng và mô hình tác động đã tìm thấy rằng FDI có những ảnh hưởng

tích cực đến GDP của Việt Nam và mức độ mà FDI đóng góp đều tăng lên khi Việt

Nam chính thức tham gia vào nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới. Theo đó,

nhân tố con người, thể hiện ở trình độ học vấn của lực lượng lao động không chỉ là

nhân tố xác định sự tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, mà còn làm tăng đóng góp của

FDI đến GDP. Và bênh cạnh đó, tác giả nhấn mạnh là cần phải xem FDI chỉ là nguồn

vốn bổ sung cho vốn trong nước, chứ không phải là nguồn vốn thay thế. Nghiên cứu

này cũng bãi bỏ tác động lấn át đầu tư của FDI trong toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên,

họ khẳng định rằng việc bải bỏ này không có nghĩa là tác động lấn át không xảy ra ở

một số ngành hoặc đối với một số thành phần kinh tế khác.

Hsiao và Hsiao (2006) sử dụng mô hình vector tự hồi quy (VAR) đối với dữ

liệu bảng gồm 8 quốc gia Đông và Đông Nam Á (Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan,

Hồng Kông, Singapore, Malaysia, Philippines và Thái Lan). Kết quả của họ cho thấy

có một mối quan hệ trực tiếp từ FDI đến tăng trưởng kinh tế GDP và gián tiếp thông

qua xuất khẩu; đồng thời có tồn tại quan hệ nhân quả hai chiều giữa xuất khẩu và

GDP.

Baharumshah và Thanoon (2006) sử dụng mô hình bảng điều khiển động đã tìm

ra sự đóng góp tích cực của FDI vào quá trình tăng trưởng của các nền kinh tế Đông

Á. Điều này có nghĩa là, các quốc gia càng thành công trong việc thu hút FDI thì có

tốc độ tăng trưởng càng nhanh và ngược lại.

Kết luận tương tự đã được đưa ra bởi Jayachandran và Seilan (2010) trong

trường hợp của Ấn Độ, nghiên cứu cho thấy FDI và xuất khẩu là một trong những

yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên tác giả không tìm thấy bằng

chứng cho chiều ngược lại, có nghĩa là: Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hay thấp

không có ảnh hưởng đến sự có mặt của FDI và xuất khẩu ở Ấn Độ. Ngoài ra, nghiên

10

cứu được tiến hành bởi Wijeweera và các cộng sự (2010) lập luận rằng dòng vốn FDI

gây một tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, tuy nhiên, khi có sự hiện diện của

những lao động có tay nghề cao. Hơn nữa, họ thấy rằng tham nhũng có tác động tiêu

cực đến tăng trưởng kinh tế, và sự mở cửa thương mại đem đến những hiệu quả nhất

định làm tăng tăng trưởng kinh tế.

2.1.2.2 Tác động tiêu cực của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lên tăng

trưởng kinh tế

Tuy nhiên, lại có một số ít các nghiên cứu cho rằng những tác động tích cực này

là không đáng kể mà đôi khi còn có thể mang tính tiêu cực (Carkovi & Levine, 2003).

Tác giả cho rằng mối quan hệ mang tính tiêu cực này là do FDI chèn ép đầu tư trong

nước nên tác động của FDI lên tăng trưởng kinh tế trong trường hợp này là không

đáng kể hoặc âm. Prebisch (1986) lại cho rằng các quốc gia nhận đầu tư vốn FDI có

được rất ít lợi ích bởi vì phần lợi ích đã bị chuyển về chính quốc của các công ty đa

quốc gia.

Bên cạnh các nghiên cứu trên cho thấy có ít nhất một mối quan hệ nhân quả

giữa FDI và tăng trưởng thì một vài nghiên cứu của các nhà kinh tế học lại không tìm

thấy mối quan hệ nhân quả nào giữa hai biến số trên như các nghiên cứu của: Durham

(2004) và Herzer và cộng sự (2008), Kholdy và Sohrabian (2005) …

Nghiên cứu thực nghiệm của Vissak và Roolaht (2005) cũng đưa ra những kết

luận tương tự. Tác giả giải thích rằng các công ty đa quốc gia lớn mạnh hơn, có lợi

thế cạnh tranh hơn và thường không có ý định hợp tác với các doanh nghiệp nội địa

và do đó có thể đưa đến những mâu thuẫn chính trị, văn hóa, xã hội làm trầm trọng

thêm vấn đề ô nhiễm môi trường, giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp

nội địa của nước chủ nhà… dẫn đến việc có thể gây ra những tác động tiêu cực lên

tăng trưởng kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư…

Meschi (2006) đã nghiên cứu tác động của FDI đối với tăng trưởng kinh tế ở 14

quốc gia MENA trong giai đoạn 1980 - 2003 sử dụng các mô hình dữ liệu bảng. Tác

giả nhận thấy rằng sự hợp nhất của FDI nói chung là tiêu cực. Tác giả cho rằng kết

11

quả này là do sự tập trung FDI cao trong lĩnh vực chính, chủ yếu là lĩnh vực

hydrocacbon, vốn tạo ra rất ít ngoại tác công nghệ.

Nicet-Chenaf và Rougier (2009) sử dụng mô hình hồi quy dữ liệu bảng điều

khiển để nghiên cứu cũng tại các quốc gia MENA và họ đã không không cho thấy tác

động trực tiếp tích cực của FDI đối với tăng trưởng. Kết quả của họ cho thấy FDI

không có tác động trực tiếp đáng kể đến tăng trưởng kinh tế nhưng đóng vai trò gián

tiếp trong tăng trưởng thông qua các tác động tích cực đến sự hình thành vốn nhân

lực và hội nhập quốc tế. Tác giả giải thích những kết quả này do mối quan hệ tương

đối mờ nhạt của FDI ở các nước này, làm cản trở tác động “hiệu ứng tràn công nghệ”

của FDI đối với tăng trưởng.

2.2 Mối quan hệ giữa độ mở thương mại và tăng trưởng kinh tế

2.2.1 Một số học thuyết liên quan về mối quan hệ giữa độ mở thương mại và tăng

trưởng kinh tế

Có nhiều học thuyết kinh tế đề cập đến mối quan hệ giữa các chính sách thương

mại và sự tăng trưởng kinh tế, nhưng nhìn chung có thể được phân loại thành 3 cách

tiếp cận chính sau: lý thuyết tân cổ điển, kinh tế học thể chế và lý thuyết tăng trưởng

nội sinh.

Theo lý thuyết tăng trưởng nội sinh (1980) lại cho rằng chính sách thương mại

có thể có một số ảnh hưởng đến độ lớn và tốc độ của tăng trưởng kinh tế trong dài

hạn. Những tác động này bao gồm hiệu ứng lợi thế kinh tế theo quy mô, sự phân phối

lại các nguồn lực, hiệu ứng lan tỏa và thặng dư. Trong thực tế, thì mô hình tăng trưởng

nội sinh là sự kết hợp các lý thuyết giữa thương mại nước ngoài và tăng trưởng kinh

tế của quốc gia. Lý thuyết cho thấy rằng, khi thị trường tiềm năng được mở rộng sẽ

tạo điều kiện cho các lợi thế kinh tế theo quy mô được phát huy, việc sản xuất các

hàng hóa cuối cùng và các hàng hóa trung gian được tập trung vào những khu vực

hiệu quả nhất. Hiệu ứng lan tỏa được gây ra bởi sự chuyển giao công nghệ mới (có

được từ hoạt động giao thương) cũng có những tác động đáng kể lên sự tăng trưởng

của kinh tế quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Nền tảng của lý thuyết

12

tăng trưởng nội sinh được phát triển bởi Romer (1986) và Locus (1988) và được mở

rộng bởi Helpman (1990) và Acemogla và Ventura (2002) đánh giá tác động của

thương mại quốc tế lên tăng trưởng.

Theo quan điểm của Grossman và Helpman (1991), thương mại và độ mở kinh

tế có thể tạo điều kiện thuận lợi để có thể có được những hàng hóa trung gian và trang

thiết bị từ các quốc gia khác, do đó làm tăng hiệu quả của việc sử dụng các nguồn lực

khác. Thương mại có thể giúp cho các nước đang phát triển có thể nhập khẩu công

nghệ cao và các sản phẩm cơ bản từ các nước phát triển, làm tăng hiệu quả sản xuất,

rút ngắn khoảng cách công nghệ giữa các quốc gia; do đó, làm tăng lượng tiêu thụ và

trình độ sản xuất. Nói cách khác độ mở cửa giúp mở rộng thị trường cho các nhà sản

xuất nội địa và cải thiện hiệu quả kinh tế.

Trong cách tiếp cận theo hướng học thuyết thể chế, vai trò và ảnh hưởng của

thể chế lên tăng trưởng kinh tế được nhấn mạnh. North (1990), Olson (1996), De Soto

(2000) nhấn mạnh tầm quan trọng của các quyền sở hữu và tính công bằng trong việc

thực hiện hợp đồng như là các thành phần cơ bản của tăng trưởng kinh tế, đồng thời

tác giả cũng cho rằng thể chế có tầm quan trọng trong việc cải thiện hiệu quả kinh tế

trong nền kinh tế thị trường. Tác động tích cực trong dài hạn của thương mại và độ

mở cửa lên tốc độ tăng trưởng chỉ tồn tại khi mà độ mở cửa đi liền với khung thể chế

và chính sách phù hợp như khuyến khích đầu tư, nâng cao chất lượng thể chế và tăng

quá trình tích lũy vốn con người. Do đó, những quốc gia với chất lượng thể chế thấp,

hệ thống tài chính yếu kém và bất ổn về chính trị sẽ không được hưởng những lợi ích

do sự mở cửa mang lại.

Theo cách tiếp cận mô hình tăng trưởng tân cổ điển thì các nhà kinh tế học

nhấn mạnh tầm quan trọng của lợi thế cạnh tranh trong thương mại, các quốc gia tối

đa hóa lợi ích của mình thông qua việc sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên và các

yếu tố sản xuất của nền kinh tế. Trong trường hợp này, những lợi ích thương mại

được xem là những yếu tố tĩnh, tự do thương mại và độ mở cửa không dẫn đến sự

13

tăng lên của tốc độ tăng trưởng trong dài hạn, nó chỉ có ảnh hưởng lên mức thu nhập

(Duncan và Quang 2001).

2.2.2 Các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa độ mở thương mại và

tăng trưởng kinh tế

2.2.2.1 Tác động tích cực của độ mở thương mại lên tăng trưởng kinh tế

Chen, Shy – Wei (2007) sử dụng mô hình vector hiệu chỉnh sai số (VECM) và

phương pháp kiểm tra thông số giới hạn được phát triển bởi Pesarant và các cộng sự

(PSS,2001) để xem xét chiều hướng của các mối quan hệ export – led growth (ELG)

hay growth – drieven export (GDE). Các kết quả thực nghiệm chứng minh rằng, tồn

tại mối quan hệ nhân quả hai chiều ở Đài Loan giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh

tế. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra những bằng chứng cho thấy Đài Loan đã tận dụng

lợi thế của chiến lược tăng trưởng kinh tế dựa vào xuất khẩu như là phương tiện để

tiếp tục tăng trưởng trong quá trình tăng trưởng kinh tế của quốc gia.

Mohsen Mehrara, Bagher Adabi Firouzjaee (2011) tiến hành nghiên cứu mối

quan hệ nhân quả Granger giữa xuất khẩu phi dầu mỏ và tăng trưởng kinh tế thông

qua phương pháp phân tích đồng liên kết với dữ liệu bảng cho 73 quốc gia đang phát

triển trong giai đoạn 1970 – 2007. Tác giả tiến hành chia các quốc gia này thành hai

nhóm là nhóm phụ thuộc dầu và nhóm các quốc gia đang phát triển không phụ thuộc

dầu. Đồng thời đánh giá chiều hướng của quan hệ nhân quả dựa vào mô hình 2 và 3

biến (xem xét mối quan hệ của GDP và xuất khẩu ở mô hình 2 biến; đồng thời mối

quan hệ giữa GDP, xuất khẩu và độ mở của nền kinh tế được xem xét ở mô hình 3

biến). Kết quả cho thấy, trong cả hai mô hình 2 và 3 biến đều có tồn tại mối quan hệ

nhân quả hai chiều trong dài hạn giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế cho cả hai

nhóm quốc gia. Ngoài ra, mô hình 2 biến còn cho thấy mối quan hệ nhân quả hai

chiều trong ngắn hạn giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế ở nhóm quốc gia đang

phát triển phi dầu mỏ; tuy nhiên, đối với các nước dầu mỏ lại không tìm thấy mối

quan hệ nhân quả nào trong ngắn hạn giữa các biến ở cả hai mô hình.

14

Shamurailatpam Sofia Devi (2013) tiến hành nghiên cứu thực nghiệm kiểm

định mối quan hệ nhân quả Granger giữa xuất khẩu và sản lượng thực tế. Nghiên cứu

chỉ ra, đối với một quốc gia đang phát triển giống như Ấn Độ thì vai trò của xuất khẩu

không chỉ là tìm kiếm ngoại tệ để thanh toán cho nhập khẩu mà còn giúp cải thiện

mức sống của người dân. Chính phủ phải nhận biết trước nhân tố mang lại những ảnh

hưởng có lợi từ thương mại để có thể đề xuất việc xuất khẩu cái gì và nơi giao dịch

các sản phẩm đó để có thể đạt được sự tăng trưởng cao và bền vững trong hoạt động

kinh tế tương lai của đất nước. Như vậy, các ảnh hưởng từ bên ngoài cùng với xuất

khẩu có những đóng góp đáng kể trong hiệu suất thu nhập của nền kinh tế Ấn Độ.

Nguyễn Quang Hiệp (2014) sử sụng mô hình VECM và các hàm phản ứng với

các biến số như xuất khẩu, tỷ giá hối đoái thực và sản lượng đối với các cú sốc nội

sinh được ước lượng để kiểm định mối quan hệ giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh

tế ở Việt Nam trong những năm 1999-2013. Kết quả thể hiện sự tăng trưởng xuất

khẩu là một trong những động lực để thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Và ngược lại,

sự tăng trưởng kinh tế sẽ tác động ngược trở lại đối với sự tăng trưởng xuất khẩu

trong những thơi gian kế tiếp, bằng cách gia tăng năng suất sản xuất, cải tiến sản

phẩm nhằm tăng khả năng cạnh tranh.

2.2.2.2. Tác động tiêu cực của độ mở thương mại lên tăng trưởng kinh tế

Một số quan điểm cho rằng việc đẩy mạnh xuất khẩu, gia tăng độ mở thương

mại sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở tốc độ cao là không hợp lý, nếu các điều kiện

khác không thay đổi hay các điều kiện tiên quyết khác không được thỏa mãn. Đã có

không ít các nghiên cứu chỉ ra vai trò nhợt nhạt của độ mở thương mại đối với tăng

trưởng kinh tế ở một số quốc gia và nhóm quốc gia…

Richards, DG (2001) đã sử dụng phương pháp phân tích chuỗi thời gian bao

gồm các kiểm định nhân quả Granger, mô hình hiệu chỉnh sai số và mô hình tự hồi

quy vector để phân tích giả thuyết xuất khẩu dẫn đến tăng trưởng (ELG) ở Paraguay.

Quốc gia có tốc độ tăng trưởng chậm trong những năm 1990, mặc dù đã có tốc độ

tăng trưởng cao trong giai đoạn 1970 – 1980. Tác giả nhận thấy, tốc độ gia tăng xuất

15

khẩu ở Paraguay không ổn định như tốc độ tăng trưởng kinh tế vì các lý do liên quan

đến chính trị và kinh tế. Kết quả thu được, tác giả nhận thấy ảnh hưởng của xuất khẩu

đến tăng trưởng của kinh tế ở Paraguay rất hạn chế.

Phan Minh Ngọc, Nguyễn Thị Phương Anh và Phan Thúy Nga (2003) nghiên

cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng và xuất khẩu trong dài hạn ở Việt Nam cho giai

đoạn 1975-2001. Sử dụng các mô hình kinh tế tiêu biểu khác nhau với các kỹ thuật

chuỗi thời gian hiện đại để đo lường trực tiếp đóng góp của xuất khẩu lên GDP trong

suốt thời gian nói trên (và sau này mở rộng thêm ra đến các năm gần đây), sau khi đã

tách bạch ảnh hưởng của các nhân tố khác như đầu tư và lao động. Và kết quả của

nghiên cứu lại cho thấy, chưa có bằng chứng rõ ràng trong phân tích định lượng về

việc tăng cường xuất khẩu đã kích thích sự phát triển của các khu vực khác trong nền

kinh tế Việt Nam; xuất khẩu không phải là yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của

Việt Nam ở giai đoạn này (suốt các năm kể từ khi đất nước thống nhất, kể cả thời kỳ

sau đổi mới là thời kỳ diễn ra sự bùng nổ của xuất khẩu dựa vào chính sách cải cách

và mở cửa ra thế giới). Tác giả giải thích tăng trưởng khu vực sản xuất hướng xuất

khẩu rất có thể chỉ làm giảm tăng trưởng của khu vực sản xuất phi xuất khẩu (hướng

thị trường nội địa), bởi các nguồn lực khan hiếm đã bị hút về khu vực xuất khẩu, dẫn

đến tăng trưởng GDP của toàn nền kinh tế không thay đổi (hoặc thay đổi không đáng

kể về mặt thống kê).

Rubio và Roldan (2012) tiến hành phân tích mối quan hệ giữa thương mại và

tăng trưởng kinh tế theo giả thuyết ELG cho 8 thành viên EU trong giai đoạn 1996-

2009. Kiểm định nhân quả chỉ ra rằng chỉ có Cộng Hòa Séc là cho thấy những bằng

chứng ủng hộ cho lý thuyết ELG, trong khi đó lại không tìm thấy bất kỳ một mối

quan hệ nhân quả có ý nghĩa (bất kể theo hướng nào) ở các quốc gia còn lại.

Một số nghiên cứu khác lại đưa ra kết luận rằng mối quan hệ tích cực giữa độ

mở trong kinh doanh lên tốc độ tăng trưởng không chỉ rõ ràng thậm chí trong một số

trường hợp mối quan hệ này lại là tiêu cực. Levin và Runlet (2003), Harrison (1996),

16

Harrison và Hanson (1999), O'Rourke (2000), Rodriguez và Roderick (1999) và

Yannikkaya (2003) là những tác giả đại diện cho quan điểm này…

Các nghiên cứu thực nghiệm trên cho ra các kết quả nghiên cứu khác nhau. Điều

này cho thấy, tùy thuộc vào các loại biến được sử dụng để đo độ mở, các loại dữ liệu

và các mẫu được lựa chọn, các kỹ thuật kinh tế lượng được lựa chọn để tiến hành

nghiên cứu và mô hình cụ thể mà tác động của độ mở thương mại với sự tăng trưởng

kinh tế là khác nhau.

17

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.1 Khung phân tích và dữ liệu

Tác giả xây dựng mô hình tác động của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

(FDI) và độ mở thương mại đến tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia đang phát triển

mới nổi với biến phụ thuộc là tăng trưởng kinh tế (GDPPC), biến độc lập là độ mở

thương mại (TRADE) và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Bên cạnh đó,

tác giả cũng kế thừa các nghiên cứu trước và tiến hành đưa vào các biến vĩ mô khác

vào mô hình. Cụ thể từ mô hình nghiên cứu của Belloumi (2014) với bốn biến độc

lập là: Độ mở thương mại, Tổng vốn đầu tư cố định, Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài, Nguồn lực lao động. Qua nhiều nghiên cứu thực nghiệm của các nhà kinh tế

trước đây, cho rằng một trong những nhân tố vĩ mô tác động trực tiếp đến tăng trưởng

kinh tế của một quốc gia là sự ổn định vĩ mô được thể hiện qua mức độ lạm phát trong

giá cả của nền kinh tế. Do đó bài nghiên cứu đưa thêm biến độc lập thứ 5 vào mô

hình là biến số Lạm phát. Mô hình nghiên cứu tác động của dòng vốn đầu tư trực tiếp

nước ngoài, độ mở thương mại và tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia đang phát triển

được sử dụng trong bài ngiên cứu các dạng tổng quát như sau:

GDPPCi,t = α + β1TRADEi,t + β2*CPIi,t + β3*GFCFi,t + β4*FDIi,t + β5*lnLi,t

+ εi,t (1)

Biến tăng trưởng kinh tế (GDPPC): Là sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội

(GDP) hoặc tổng sản lượng quốc gia (GNP) hoặc quy mô sản lượng quốc gia tính

bình quân trên đầu người (PCI) trong một thời gian nhất định là được đo lường bằng

tốc độ tăng lên của chỉ số này.

Biến độ mở thương mại (TRADE): Là biến được sử dụng để đo lường sự can

thiệp của nhà nước hay chính phủ vào lĩnh vực trao đổi, buôn bán hàng hóa thông qua

thương mại quốc tế. Tự do hóa thương mại càng cao thì mức độ hội nhập của một

quốc gia sẽ càng lớn. Theo đó, tự do thương mại bao gồm các yếu tố như: Hàng hóa

không có thuế quan hay những hàng rào thuế quan, dịch vụ không bị thuế quan và

hàng rào thương mại; tự do lưu chuyển vốn và lao động giữa các quốc gia, không có

18

chính sách bảo hộ thương mại. Theo nghiên cứu của Belloumi (2014) thì tự do thương

mại được thể hiện qua tỷ lệ mậu dịch của một quốc gia và được đo lường bằng tổng

kim ngạch xuất nhập khẩu năm t chia cho GDP năm t.

Biến ổn định kinh tế vĩ mô (CPI): Những nền kinh tế có tính ổn định kinh tế vĩ

mô cao, sẽ thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước, đồng thời có

được sự tăng trưởng bền vững. Tỷ lệ lạm phát cao làm cho đồng tiền bị mất giá, làm

vô hiệu hóa hoạt động kinh doanh, thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan

hiếm hàng hóa làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàng bị thu hẹp. Giá

cả đầu vào và đầu ra đều tăng cao làm thị trường rối loạn. Đồng thời làm cho nhà

nước bị thiếu vốn do các khoản nợ nước ngoài tăng cao hơn vì đồng nội tệ bị mất giá,

chi tiêu chính phủ sẽ gia tăng. Bài nghiên cứu tỷ lệ lạm phát như là đại diện cho biến

ổn định kinh tế vĩ mô. Và kỳ vọng một mối quan hệ ngược chiều (+) với tăng trưởng

kinh tế, một sự tăng lên của tỷ lệ lạm phát có khả năng dẫn đến GDP bình quân đầu

người giảm xuống.

Biến dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ròng (FDI): Đo lường tổng lượng

vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thực hiện trong năm. Đối với bài nghiên cứu,

biến FDI được đại diện bằng tỷ số dòng vốn FDI vào hàng năm trên GDP hàng năm.

Biến tổng vốn đầu tư cố định (GFCF): Đo lường mức đầu tư vào hạ tầng, từ đó

xác định tiềm năng tăng trưởng tương lai của một nền kinh tế. GFCF theo dõi sự đầu

tư vào nhà ở và các yếu tố khác như đường sá, cầu cống, đường sắt, mạng lưới điện,

trang bị máy móc cho nền kinh tế… Theo đó, biến tổng đầu tư cố định được tính bằng

tỷ lệ % giữa tổng vốn đầu tư cố định của năm t trên GDP của năm t.

Biến tổng lực lượng lao động (lnL): Đại diện cho nguồn vốn của con người, bao

gồm những người trong độ tuổi lao động đang có việc làm hoặc đang có nhu cầu tìm

việc nhưng thất nghiệp. Theo đó, biến lực lượng lao động được tác giả tính bằng cách

lấy Ln lực lượng lao động. Lấy Logarit nhằm mục đích giảm sự biến động của các

biến do thời gian t thay đổi, tránh phương sai thay đổi, hiện tượng đa cộng tuyến và

hồi quy phương trình được tốt hơn. Với lực lượng lao động gia tăng nhanh, đáp ứng

19

các nhu cầu phát triển kinh tế, đồng thời nguồn nhân lực trẻ ở các quốc gia đang phát

triển hiện nay được xem là yếu tố thu hút nguồn vốn đầu tư FDI và là động lực để

thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ. Bài nghiên cứu kỳ vọng một mối quan hệ cùng

chiều của nguồn lực lao động với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người, hệ

số hồi quy (+).

Dữ liệu các biến số trong bài nghiên cứu được thu thập từ website của World

Bank: https://data.worldbank.org của 17 quốc gia đang phát triển mới nổi trên thế

giới: Việt Nam, Thái Lan, Philippines, Malaysia, Indonesia, Pakistan, Ấn Độ, Peru,

Mexico, Colombia, Chile, Argentina, Nam Phi, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, Ba Lan và

Nigeria. Số liệu được thu thập từ World Bank giai đoạn 1995 đến năm 2017.

Tóm tắt các biến trong mô hình thì được trình bày trong hình 3.1 và bảng 3.1

bên dưới.

FDI

GDPPC GFCF TRADE

lnL CPI

Hình 3.1 Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế

(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp)

20

Bảng 3.1 Tóm tắt các biến trong mô hình

Biến Ký hiệu Đo lường Kỳ vọng dấu

GDPPC Tăng trưởng kinh tế (%) Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người hàng năm

Dòng vốn FDI (%) FDI + Dòng vốn FDI vào ròng năm t/GDP năm t

TRADE + Độ mở thương mại (%) Tổng kim ngạch xuất khẩu năm t/GDP năm t

GFCF + Tổng vốn đầu tư cố định (%) Tổng đầu tư vào cơ sở hạ tầng năm t/GDP năm t

lnL + Tổng lực lượng lao động (Người) Ln của tổng số lao động của nền kinh tế năm t

CPI CPI(t) - CPI(t-1)/CPI(t-1) - Ổn định kinh tế vĩ mô (%)

(Nguồn: Tác giả tự tổng hợp)

3.2 Các phương pháp phân tích mô hình hồi quy

Các loại dữ liệu có sẵn để phân tích thực nghiệm gồm có 3 loại: dữ liệu theo

chuỗi thời gian, dữ liệu chéo theo không gian và dữ liệu bảng. Trong đó, dữ liệu chuỗi

thời gian là dữ liệu của một hay nhiều biến được thu thập ở các thời điểm khác nhau

nhưng chỉ tại một thời điểm nhất định. Trong dữ liệu chéo theo không gian, giá trị

của một hay nhiều biến được thu thập cho một vài đơn vị mẫu, hay thực thể, vào cùng

một thời điểm. Trong dữ liệu bảng, đơn vị chéo theo không gian được khảo sát theo

thời gian. Dữ liệu bảng ngày càng được sử dụng nhiều trong nghiên cứu kinh tế hiện

nay.

Ưu điểm của dữ liệu bảng

Một phân tích dữ liệu bảng có ưu điểm của việc sử dụng thông tin liên quan đến

các phân tích dữ liệu chéo và dữ liệu theo chuỗi thời gian. Phương pháp này có thể

xem xét đến tính không đồng nhất của mỗi đơn vị chéo bằng cách xem xét các tác

21

động có đặc thù riêng của từng quốc gia riêng lẻ (Davidson &MacKinnon, 2004).

Theo Baltagi (Econometric analysis of Panel data, Third edition, 2005) việc sử dụng

phương pháp ước lượng bằng dữ liệu bảng có những lợi ích sau đây:

 Vì dữ liệu bảng liên quan đến các cá nhân, doanh nghiệp, tiểu bang, đất nước,

v.v… theo thời gian, nên nhất định phải có tính dị biệt (không đồng nhất) trong

các đơn vị này. Kỹ thuật ước lượng dữ liệu bảng có thể chính thức xem xét

đến tính dị biệt đó bằng cách xem xét các biến số có tính đặc thù theo từng cá

nhân.

 Ước lượng bằng dữ liệu bảng cho chúng ta nhiều thông tin hơn, ít xảy ra đa

cộng tuyến giữa các biến và hiệu quả hơn. Ước lượng bằng chuỗi thời gian

luôn xảy ra vấn đề đa cộng tuyến giữa các biến. Tuy nhiên, nếu ta sử dụng dữ

liệu bảng thì có thể hạn chế được vấn đề này vì khi sử dụng dữ liệu bảng có

nghĩa là khi ta kiểm soát chiều không gian (các đơn vị chéo), ta đã thêm vào

đặc trưng riêng cho từng đơn vị chéo, đưa thêm nhiều thông tin vào các biến.

Tất nhiên thông tin đưa vào càng nhiều thì sẽ cho ra một ước lượng đáng tin

cậy hơn.

 Thông qua nghiên cứu các quan sát theo không gian lặp lại, dữ liệu bảng phù

hợp hơn để nghiên cứu tính động của thay đôi, dữ liệu bảng thực hiện tốt hơn

các nghiên cứu về những thay đổi xảy ra liên tục như tỷ lệ thất nghiệp, di

chuyển lao động, nghiên cứu tính động của các nhân tố thay đổi như xuất khẩu,

dòng vốn đầu tư FDI và GDP…

 Dữ liệu bảng vi mô tập hợp được rất nhiều cá nhân, doanh nghiệp hay chủ thể

sẽ có một sự đo lường chính xác hơn. Theo Blundell (1988) và Klevmarken

(1989) các ước lượng bị chệch sẽ bị giảm hoặc triệt tiêu khi chúng ta sử dụng

dữ liệu bảng.

 Đối với các biến vĩ mô, dữ liệu bảng có chiều thời gian dài hơn và chiều không

gian cũng lớn nên có thể giải quyết vấn đề phân phối chuẩn của các biến.

22

3.2.1 Mô hình hồi quy kết hợp

Là mô hình hồi quy trong đó tất cả các hệ số đều không đổi theo thời gian và

theo các cá nhân. Ta bỏ qua bình diện không gian và thời gian của dữ liệu kết hợp và

chỉ ước lượng hồi quy OLS thông thường. Vì những giả định của của mô hình hết sức

hạn chế nên bất chấp tính đơn giản, hồi quy kết hợp có thể bóp méo bức tranh thực tế

về mối quan hệ giữa các biến trong mô hình.

3.2.2 Mô hình tác động cố định (FEM)

Mô hình tác động cố định (FEM) giả định rằng các hệ số độ dốc là không đổi

giữa các đơn vị chéo (17 quốc gia), hệ số chặn sẽ biến đổi theo từng đơn vị chéo

(quốc gia) nhưng không đổi theo thời gian. Khi đó FEM có thể được viết như sau:

(4)

yit = αi + xitβ + uit

Trong đó:

yit là biến phụ thuộc, i là đơn vị chéo thứ i và t là thời gian của quan sát.

Hệ số chặn αi chú ý đến những ảnh hưởng không đồng nhất từ các biến không

được quan sát có thể khác nhau giữa các đơn vị chéo.

Các xit lần lượt là các biến độc lập trong mô hình.

Hệ số β là một vector cột của các hệ số độ dốc chung cho nhóm quan sát.

u).

Số hạng sai số uit tuân theo các giả định kinh điển uit ~N(0,σ2

Mô hình tác động cố định (FEM) được ước lượng bằng phương pháp bình

phương nhỏ nhất với biến giả (LSDV).

3.2.3 Mô hình tác động ngẫu nhiên (REM)

Mô hình tác động ngẫu nhiên (REM) cũng giả định rằng hệ số độ dốc là không

đổi giữa các đơn vị chéo nhưng hệ số chặn lại là một biến ngẫu nhiên (αi = α + εi)

trong đó α là giá trị trung bình của các hệ số chặn của tất cả các đơn vị chéo, εi là sai

số ngẫu nhiên phản ánh những khác biệt mang tính cá nhân trong hệ số chặn của mỗi

ε). Thế vào phương trình (3), ta được mô hình tác động

đơn vị chéo và εi~N (0, σ2

ngẫu nhiên REM trong phương trình (4):

23

(4)

yit = α + xitβ + vit

Với vit = ε + uit, cho thấy vit và vis (với t ≠ s) thì có mối tương quan vì thế mô

hình tác động ngẫu nhiên REM được ước lượng bởi phương pháp bình phương nhỏ

nhất tổng quát (GLS).

Để chọn lựa sử dụng REM hay FEM, chúng tôi sẽ sử dụng kiểm định Hausman,

giả thiết H0 của kiểm định Hausman là không có sự khác biệt đáng kể giữa hai phương

pháp trên. Nếu không đủ cơ sở bác bỏ giả thuyết H0, REM sẽ là mô hình phù hợp,

nếu giả thiết Ho bị bác bỏ, FEM nên được sử dụng thay vì REM

3.2.4 Phương pháp bình phương tối thiểu tổng quát (GLS)

Cả hai ước lượng tác động cố định và ngẫu nhiên điều có chung một giả thiết

quan trọng là các phần dư (các sai số ngẫu nhiên) phải đồng nhất, có nghĩa là không

có hiện tượng phương sai thay đổi và không có hiện tượng tự tương quan. Nếu các

giả định về phần dư (sai số ngẫu nhiên) bị vi phạm, thì các ước lượng FEM vẫn sẽ là

ước lượng phù hợp, nhưng sẽ là một ước lượng không hiệu quả và bị chệch. Và

phương pháp GLS được đưa ra để khắc phục hai hiện tượng trên, giúp cho các kết

2. Để

quả ước lượng vững hơn. Trong phương pháp GLS: giả định phương sai của phần dư

(error variance) có liên quan đến một số biến số khác zi như sau: Var(ut) = σ2zi

loại bỏ hiện tượng phương sai thay đổi (heteroscedasticity), chia cả 2 vế của phương

trình hồi quy cho zi:

2 = σ2. Và như vậy phần dư từ

Với vt = ut/zi là sai số hồi quy mới.

2 = σ2zi

2/zi

Bây giờ var(vt) = var(ut/zi) = var(ut)/zi

mô hình hồi quy mới sẽ không còn hiện tượng phương sai thay đổi. Lúc này, kết quả

hồi quy từ mô hình GLS sẽ vững và đáng tin cậy hơn so với FEM và REM.

24

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

4.1 Phân tích thống kê mô tả

Kết quả thống kê mô tả của các biến trong mô hình được trình bày sơ lược ở

bảng 4.1 bên dưới. Cụ thể: GDPPC, TRADE, CPI, GFCF, FDI, LnL lần lượt là các

biến số Tăng trưởng kinh tế, Độ mở thương mại, Ổn định kinh tế vĩ mô, Đầu tư trực

tiếp nước ngoài vào ròng, Tổng lực lượng lao động.

Bảng 4.1 Thống kê mô tả của các biến.

Biến số Nhỏ nhất Độ lệch chuẩn Đơn vị tính Trung bình Lớn nhất

2.939105 30.36 -14.35 3.49158 % GDPPC

67.99648 220.41 19.77 42.17322 % TRADE

8.313432 88.11 -1.71 11.66208 % CPI

21.72825 43.59 5.46 6.058983 % GFCF

2.873939 11.65 -2.76 2.145944 % FDI

17.24845 20.06971 15.53924 .9366718 Người LnL

(Nguồn: Tính toán tác giả)

Các quốc gia trong giai đoạn mẫu quan sát có tốc độ tăng trưởng GDP bình quân

đầu người trung bình khoảng 2.9%/năm. Trong đó mức tăng trưởng cao nhất là

30.36% thuộc về Nigeria năm 2014, mức tăng trưởng thấp nhất là -14.35%năm 1998

ở Indonesia (được lý giải là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tại châu Á giai đoạn

1997 – 1998. Các nước đang phát triển châu Á trong mẫu quan sát cũng chịu ảnh

hưởng từ cuộc khủng hoảng kinh tế này, cụ thể: Việt Nam (6.64%, 4.42%), Thái Lan

(-3.89%, -8.73%), Philippines (2.86%, -2.74%), Malaysia (4.63%, -9.66%)… Cuộc

khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 cũng làm suy giảm mạnh tốc độ tăng trưởng GDP

bình quân đầu người trong giai đoạn mẫu phân tích.

25

Thổ Nhĩ Kỳ với chỉ số CPI cao nhất 88.81% năm 1995 – được cho là do bị ảnh

hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng tiền tệ châu Á, tuy nhiên những năm sau đó thì

nền kinh tế đã đi vào ổn định với mức lạm phát 1 con số trong thời gian gần đây.

Sức hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI, trong mẫu quan sát ta thấy:

Giá trị lớn nhất của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI vào ròng của mẫulà

11.65% GDP năm 1999 ở Chile và đây cũng là một trong những quốc gia có dòng

vốn FDI đi vào mạnh mẽ nhất trong các nước đang phát triển trong thời gian vừa qua.

Tổng vốn đầu tư cố định/GDP trung bình của các quốc gia là 21.72% và độ mở

thương mại trung bình của các quốc gia này trong giai đoạn mẫu là 67.69% chiếm

một tỷ lệ khá cao so với GDP (trong đó 220.41% là giá trị lớn nhất của biến số này

được tìm thấy ở Malaysia 2000 – sau 5 năm gia nhập WTO).

Lực lượng lao động trung bình của các quốc gia đang phát triển trong giai đoạn

mẫu quan sát 1995 – 2017 là 17.25. Ấn Độ đạt mức 20.07 cao nhất trong mẫu quan

sát; đồng thời, cũng là quốc gia có dân số đông nhất trên thế giới, là một trong những

yếu tố góp phần làm nên sự tăng trưởng của nền kinh tế của quốc gia này trong thời

gian qua.

4.2 Kiểm tra đa cộng tuyến

Trong mô hình hồi quy, khi giữa các biến độc lập có quan hệ chặt chẽ với nhau,

các biến độc lập có mối quan hệ tuyến tính, nghĩa là các biến có tương quan chặt chẽ

với nhau thì sẽ có hiện tượng đa cộng tuyến, đó là hiện tượng các biến độc lập trong

mô hình phụ thuộc lẫn nhau và được thể hiện dưới dạng hàm số. Nguyên nhân dẫn

đến đa cộng tuyến có thể là do: bản chất mối quan hệ giữa các biến số, mô hình có

dạng đa thức (biến X, X2, X3…), do mẫu quan sát không mang tính đại diện cho tổng

thể, các biến độc lập có độ biến thiên nhỏ…

Kiểm tra đa cộng tuyến là kiểm tra hiện tượng các biến độc lập trong mô hình

có mối quan hệ với nhau hay không. Trường hợp, các biến độc lập trong mô hình có

mối quan hệ đa cộng tuyến hoàn hảo sẽ dẫn đến mô hình hồi quy không ước lượng

được. Đa cộng tuyến không hoàn hảo có thể dẫn đến các biến độc lập cộng tuyến mất

26

đi ý nghĩa trong mô hình và cũng có thể dẫn đến sai sót về dấu của hệ số trong mô

hình hồi quy. Có hai cách phát hiện hiện tượng đa cộng tuyến: Dựa vào ma trận hệ số

tương quan và Hệ số phóng đại phương sai VIF được trình bày ở bảng 4.3.

4.2.1 Ma trận hệ số tương quan

GDPPC, TRADE, CPI, GFCF, FDI, LnL lần lượt là các biến số Tăng trưởng kinh

tế, Độ mở thương mại, Ổn định kinh tế vĩ mô, Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ròng, Tổng

lực lượng lao động.

Bảng 4.2 Ma trận hệ số tương quan

TRADE CPI GFCF FDI LnL

1.0000 TRADE

-0.1731 1.000000 CPI

0.3401 -0.0980 1.000000 GFCF

0.2803 -0.1864 0.1751 1.000000 FDI

-0.1826 0.0383 0.2470 -0.3734 1.000000 LnL

(Nguồn: Tính toán tác giả)

Bảng 4.2 trình bày ma trận hệ số tương quan giữa các biến độc lập trong mô

hình nghiên cứu. Ta thấy, mối tương quan giữa các biến là yếu (tất cả các hệ số tương

quan đều nhỏ hơn 0.5). Nhận định ban đầu là không có hiện tượng đa cộng tuyến giữa

các biến trong mô hình. Để củng cố thêm lập luận này, ta tiến hành kiểm tra thêm hệ

số VIF, ở phần sau.

27

4.2.2 Hệ số phóng đại phương sai (VIF)

Hệ số phóng đại phương sai (VIF)mỗi biến độc lập trong mô hình sẽ có một hệ

số phóng đại phương sai. Để tìm VIF, phải đảm bảo hàm hồi quy vừa chạy gần nhất

trước đó là hàm hồi quy cần kiểm định đa cộng tuyến. Sau đó dùng lệnh VIF. Một

quy ước chung là nếu VIF >10 thì đấy là dấu hiệu đa cộng tuyến cao. Tuy nhiên đây

chỉ là quy ước thực nghiệm, với một số tác giả khác như Allisson thì VIF > 2.5 (tương

j> 0.6 hay Rj> 0.775) đã được xem là đa cộng tuyến cao.

đương với R2

Kiểm định hệ số phóng đại phương sai VIF: Bảng 4.3, ta thấy các giá trị đều

nhỏ hơn 2.5; do đó, có thể kết luận không có hiện tượng đa cộng tuyến…

GDPPC, TRADE, CPI, GFCF, FDI, LnL lần lượt là các biến số Tăng trưởng kinh

tế, Độ mở thương mại, Ổn định kinh tế vĩ mô, Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ròng, Tổng

lực lượng lao động.

Bảng 4.3 Kiểm tra đa cộng tuyến với nhân tử phóng đại phương sai VIF

1/VIF Biến VIF

0.723560 1.38 LnL

1.34 0.744335 GFCF

1.32 0.755086 FDI

1.28 0.784105 TRADE

1.06 0.947238 CPI

1.28 Mean VIF

(Nguồn: Tính toán của tác giả)

4.3 Kết quả nghiên cứu

Kết quả nghiên cứu mối quan hệ giữa các nhân tố vĩ mô đến tăng trưởng kinh

tế của các quốc gia đang phát triển giai đoạn 1995 – 2017.

28

4.3.1 Mô hình hồi quy tác động cố định

Hồi quy mô hình (1) theo mô hình tác động cố định (fixed effects model) ta

nhận thấy trong bảng 4.4: Ở mức ý nghĩa 5% thì các nhân tố có ảnh hưởng đến tăng

trưởng GDP bình quân đầu người (GDPPC) là CPI (mức độ ổn định vĩ mô của nền

kinh tế) và GFCF (Tổng đầu tư cố định/GDP). Các nhân tố còn lại không tìm thấy

mối quan hệ ở các mức ý nghĩa này.

GDPPC, TRADE, CPI, GFCF, FDI, LnL lần lượt là các biến số Tăng trưởng kinh

tế, Độ mở thương mại, Ổn định kinh tế vĩ mô, Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ròng, Tổng

lực lượng lao động.

Bảng 4.4 Mô hình tác động cố định (Fixed effects model)

GDPPC Hệ số P>[t]

0.877 0.0019009 TRADE

0.016 -0.0446986** CPI

0.001 0.1635781*** GFCF

0.290 0.1304934 FDI

0.642 0.5769823 lnL

-10.6751 0.618 _cons

R2 = 0.0640

F(5, 348) = 4.76

(*), (**), (***) lần lượt ở các mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%

Prob > F = 0.0003

(Nguồn: Tính toán của tác giả)

29

4.3.2 Mô hình hồi quy tác động ngẫu nhiên

GDPPC, TRADE, CPI, GFCF, FDI, LnL lần lượt là các biến số Tăng trưởng kinh

tế, Độ mở thương mại, Ổn định kinh tế vĩ mô, Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ròng, Tổng

lực lượng lao động.

Bảng 4.5 Mô hình tác động ngẫu nhiên (Random effects model)

GDPPC Hệ số P>[t]

0.805 -0.0014257 TRADE

0.043 -0.0329589** CPI

0.001 0.1281403*** GFCF

0.058 0.1940607* FDI

0.092 0.4649919* lnL

0.090 -8.027853* _cons

R2 = 0.0620

Wald chi2 (5) = 32.27

Prob > chi2 = 0.0000

(*), (**), (***) lần lượt ở các mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%

(Nguồn: Tính toán của tác giả)

Hồi quy mô hình (1) theo mô hình tác động ngẫu nhiên (random effects model)

ta thấy kết quả trong bảng 4.5: Ở mức ý nghĩa 5% thì các nhân tố có ảnh hưởng đến

tăng trưởng GDP bình quân đầu người (GDPPC) là CPI (mức độ ổn định vĩ mô của

nền kinh tế) và GFCF (Tổng đầu tư cố định/GDP), dòng vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài (FDI) và tổng lực lượng lao động trong nền kinh tế (lnL).

30

4.3.3 Kiểm định Hausman

Để xem xét mô hình tác động cố định (FEM) hay mô hình tác động ngẫu nhiên

(REM) là phù hợp hơn, ta tiến hành kiểm định Hausman. Thực chất của kiểm định

này là để xem xét có tồn tại tự tương quan giữa εivà các biến độc lập hay không.

Giả thiết:

H0: εi và các biến độc lập không tương quan  Lựa chọn mô hình REM

H1: εi và các biến độc lập có tương quan  Lựa chọn mô hình FEM

GDPPC, TRADE, CPI, GFCF, FDI, LnL lần lượt là các biến số Tăng trưởng kinh

tế, Độ mở thương mại, Ổn định kinh tế vĩ mô, Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ròng, Tổng

lực lượng lao động.

Bảng 4.6 Kết quả kiểm định Hausman

Mô hình FEM Mô hình REM Biến số

0.0019009 -0.0014257 TRADE

-0.0446986 -0.0329589 CPI

0.1635781 0.1281403 GFCF

0.1304934 0.1940607 FDI

0.5769823 0.4649919 LnL

Chi2(5) = 0.65

Prob>chi2 = 0.3017

(Nguồn: Tính toán của tác giả)

Dựa vào bảng 4.6 ở trên, tại mức ý nghĩa 5%, ta có giá trị Prob>chi2 = 0.3017

(> 5%) do đó không có cơ sở bác bỏ giả thuyết H0. Trong trường hợp này mô hình

tác động ngẫu nhiên (REM) là mô hình phù hợp để tiến hành bài nghiên cứu.

31

4.3.4 Kiểm tra các khuyết tật mô hình

4.3.4.1 Kiểm định phương sai thay đổi

Tiến hành kiểm tra các khuyết tật mô hình. Đầu tiên ta xét đến hiện tượng

phương sai thay đổi của mô hình với giả thiết H0: Phương sai không đổi.

Từ kết quả được trình bày trong bảng 4.7, với mức nghĩa 5%, kết quả cho thấy

Prob>chibar2 = 0.043 ta bác bỏ giả thiết H0, tức là, phương sai của mô hình bị thay

đổi. Vậy mô hình không thỏa điều kiện giả thiết trong mô hình hồi quy tuyến tính cổ

điển Gauss (không có hiện tượng phương sai sai số thay đổi).

Bảng 4.7 Kiểm định phương sai thay đổi của mô hình REM

Breusch and Pagan Lagranglan multiplier test for randam effects

GDPPC (co, t) = Xb + u(co) + e (co, t)

Var Biến số Sd=sprt(Var)

GDPPC 12.39489 3.520637

E 10.92592 3.305439

u 0.4197239 0.647861

Chibar2 (01) = 2.95 Prob>chiba2=0.0430

(Nguồn: Tính toán của tác giả)

4.3.4.2 Kiểm định tự tương quan

Bài nghiên cứu sử dụng kiểm định Wooldridge để kiểm định tự tương quan.

Kết quả kiểm định tự tương quan tại bảng 4.8, ta thấy giá trị Prob>F = 0.00 <5%. Do

đó với mức ý nghĩa 5%, thì ta chấp nhận giả thiết H0 của mô hình  Mô hình có hiện

tượng tự tương quan. Với giả thiết H0: Không có hiện tượng tự tương quan trong mô

hình hồi quy

32

Bảng 4.8 Kết quả kiểm định tự tương quan

Wooldridge test for autocorrelation in panel data

H0 : no first-order autocorrelation

F (1, 16) = 32.627

(Nguồn: Tính toán của tác giả)

Pro > F = 0.0000

4.3.5 Khắc phục mô hình

GDPPC, TRADE, CPI, GFCF, FDI, LnL lần lượt là các biến số Tăng trưởng kinh tế,

Độ mở thương mại, Ổn định kinh tế vĩ mô, Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ròng, Tổng lực

lượng lao động.

Bảng 4.9 Mô hình hồi quy bình phương tối thiểu tổng quát (GLS)

GDPPC Hệ số P>[t]

0.830 -0.0008977 TRADE

0.011 -0.0475137** CPI

0.000 0.1681029*** GFCF

0.000 0.2360432*** FDI

0.017 0.4492048** lnL

-8.528936*** 0.006 _cons

Số quan sát = 370

Wald chi2 (5) = 118.67

(*), (**), (***) lần lượt ở các mức ý nghĩa 10%, 5% và 1%

Prob > chi2 = 0.0000

(Nguồn: Tính toán của tác giả)

33

Sau khi kiểm định Hausman (1978) để lựa chọn mô hình, thì mô hình tác động

ngẫu nhiên (REM) được xem là phù hợp. Tuy nhiên, mô hình REM lại bị hiện tượng

phương sai thay đổi và tự tương quan; nên chúng ta sẽ sử dụng mô hình GLS để khắc

phục lỗi cho mô hình REM. Các kết quả của mô hình GLS ở bảng 4.9 sẽ có độ tin

cậy cao hơn và được sử dụng làm cơ sở phân tích của nghiên cứu này.

4.3.6 Mô hình hoàn chỉnh

Mô hình hoàn chỉnh của bài nghiên cứu được viết lại như sau:

GDPPCi,t = -8.53 – 0.048*CPIi,t + 0.168*GFCFi,t + 0.24*FDIi,t + 0.449*lnLi,t +

εi,t (1’)

Biến ổn định kinh tế vĩ mô (CPI) có tương quan âm với tốc độ tăng trưởng GDP

bình quân đầu người (đúng như kỳ vọng ban đầu của bài nghiên cứu). Cho thấy khi

tỷ lệ lạm phát tăng 1% sẽ dẫn đến tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người giảm

0.05%. Một nền kinh tế với tỷ lệ lạm phát cao, giá cả đầu vào và đầu ra đều cao sẽ

gây khó khăn cho phát triển kinh tế; làm hạn chế dòng vốn đầu tư của nước ngoài,

làm đồng nội tệ bị mất giá, dẫn đến các khoản chi tiêu của chính phủ gia tăng, các

khoản nợ nước ngoài cũng sẽ gia tăng theo do sự mất giá của đồng nội tệ.

Biến tổng đầu tư cố định/GDP (GFCF) có mối tương quan dương với tốc độ

tăng trưởng kinh tế. Khi tổng đầu tư cố định tăng 1% thì sẽ dẫn đến tốc độ tăng trưởng

GDP bình quân đầu người là 0.168%, ở mức ý nghĩa 1%. Điều này phù hợp với các

nghiên cứu trước kia cho rằng, các quốc gia có nguồn vốn tích lũy và đầu tư cao sẽ

có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế hơn so với những quốc gia khác.

Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có hệ số hồi quy trong mô hình là

+0.24 ở mức ý nghĩa 1% (phù hợp với kỳ vọng ban đầu của bài nghiên cứu). Khi

dòng vốn FDI/GDP chảy vào quốc gia gia tăng 1% nó sẽ góp phần làm cho tốc độ

tăng trưởng GDP bình quân đầu người lên 0.24%. Việc thu hút được nguồn vốn FDI

là cực kỳ quan trọng đối với các quốc gia đang phát triển hiện nay và việc tận dụng

nó để phát triển kinh tế là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng.

34

Lực lượng lao động (lnL) có hệ số hồi quy trong mô hình là +0.499 ở mức ý

nghĩa 5% (phù hợp với kỳ vọng ban đầu của bài nghiên cứu). Điều này có nghĩa là

khi lực lượng lao động tăng lên 1% thì tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người

của các quốc gia lúc này sẽ tăng 0.499%, nếu các yếu tố khác không đổi. Các nghiên

cứu cho thấy ở các quốc gia đang phát triển mặt bằng chung dân số đang ở trong độ

tuổi lao động tương đối lớn. Đây cũng là một trong những thuận lợi nhất định trong

việc phát triển kinh tế quốc gia.

35

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH

5.1 Kết luận

Kết quả nghiên cứu đã tìm ra các yếu tố có ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng

kinh tế tại các quốc gia đang phát triển bao gồm vốn FDI, vốn đầu tư trong nước,

nguồn nhân lực và tổng đầu tư cố định. Do đó, chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh

tế, đầu tiên, nên hướng vào việc thu hút FDI. Bên cạnh đó, để thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế cần phải có những chính sách kích thích đầu tư trong nước, một trong số các

chính sách này là tạo cơ sở hạ tầng đáp ứng cho nhu cầu của các doanh nghiệp. Thêm

nữa, cần có chính sách đào tạo hợp lý nhằm nâng cao chất lượng và trình độ nguồn

nhân lực để đáp ứng cho nhu cầu của các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Cuối

cùng, mối quan hệ nghịch biến giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế hàm ý rằng để

đẩy mạnh tăng trưởng cần có những chính sách kinh tế ổn định hóa nền kinh tế, cụ

thể là kiềm chế lạm phát ở mức thấp.

5.2 Gợi ý chính sách

Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ra đời ngày 12/11/1996, đây là khuông

khổ pháp lý cho phép dòng vốn đầu tư nước ngoài chảy vào Việt Nam. Đồng thời

việc tham gia các tổ chức kinh tế như Tổ chức thương mại thế giới (WTO), thành

viên của Cộng đồng kinh tế các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và tham gia nhiều

hiệp định tự do thương mại cùng các đối tác quan trọng khác. Những bước tiến lớn

trong hội nhập kinh tế thế giới đã giúp Việt Nam có được một số lượng vốn đầu tư từ

các quốc gia khác trên thế giới nhằm thúc đẩy kinh tế nước nhà. Tuy nhiên, theo các

nghiên cứu trước đây, dòng vốn đầu tư vào các quốc gia đang phát triển chủ yếu là

để khai thác tài nguyên thiên nhiên, sử dụng nguồn lao động giá rẻ tại các quốc gia

này. “Hiệu ứng tràn công nghệ”, chuyển giao công nghệ tiên tiến còn gặp nhiều khó

khăn vì trình độ nhân lực còn hạn chế. Các nước đang phát triển nói chung và Việt

Nam nói riêng, nhìn chung, cần tận dụng lợi thế nhân lực trẻ của mình, tích cực nâng

cao trình độ để có thể nắm bắt kịp thời những chuyển giao mới trong công nghệ nhằm

phát triển kinh tế một cách toàn diện. Nâng cao cơ sở hạ tầng, chú trọng đầu tư cố

36

định hiệu quả, xây dựng nền kinh tế ổn định vĩ mô (ổn định lạm phát) hiệu quả nhằm

phát huy tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước đem đến những hiệu quả lâu dài

trong phát triển kinh tế nước nhà.

Các quốc gia đang phát triển hiện nay phần lớn là những nước nhập siêu. Việt

Nam đang đứng trước ngưỡng cửa hội nhập kinh tế, đây cũng vừa là cơ hội nhưng

cũng đầy rẫy những thách thức. Tham gia các tổ chức kinh tế song phương và đa

phương đã tạo cho nhiều nền kinh tế nước ta nhiều cơ hội, tháo gỡ hạn chế về thị

trường xuất khẩu và tạo lập mô trường thương mại mới. Tuy nhiên, hoạt động xuất

nhập khẩu hàng hóa ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế: Cơ cấu hàng xuất khẩu là những

sản phẩm thô, phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu làm cho giá trị xuất

khẩu không cao. Việc tập trung đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa chủ lực của đất nước

cần rất nhiều sự chung tay của các cấp. Rà soát hoàn thiện chính sách quản lý hoạt

động xuất nhập khẩu, tăng cường công tác thông tin thị trường tạo điều kiện cho các

doanh nghiệp tận dụng tốt các cơ hội xuất khẩu…

5.3 Những hạn chế của luận văn và gợi ý hướng nghiên cứu

Bài luận văn có thời gian dữ liệu quan sát ngắn (23 năm), trong khoảng thời

gian tiến hành nghiên cứu có xảy ra hai cuộc khủng hoảng kinh tế lớn (khủng hoảng

kinh tế châu Á năm 1997 và năm 2007 – 2008), cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu

(2011) và những ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế củanó đến nền kinh tế của các

quốc gia trong thời gian dài sau đó nên số liệu có thể sẽ không chính xác và có thể

không phản ánh một cách chính xác bản chất của các mối quan hệ kinh tế này.

Bên cạnh đó, việc lựa chọn mẫu nghiên cứu chỉ gồm 17 quốc gia để đại diện

cho nền kinh tế của các nước đang phát triển là chưa có sức thuyết phục. Hy vọng

những bài nghiên cứu sau này sẽ khắc phục được những thiếu sót trên để có thể đem

lại một kết quả chính xác hơn một cái nhìn khách quan hơn về bản chất của các mối

quan hệ này trong các nền kinh tế. Đồng thời sẽ tiến hành các nghiên cứu chi tiết để

xem xét mối quan hệ giữa các nhân tố, tiến hành nghiên cứu cụ thể ở Việt Nam nhằm

đưa ra những chính sách phát triển kinh tế phù hợp với tình hình thực tế của đất nước.

37

Bài nghiên cứu sau cần đưa thêm các biến số vĩ mô khác cụ thể hơn chẳng hạn như:

Lực lượng lao động có trình độ học vấn cao (xem xét chất lượng nguồn lao động),

chi tiêu của chính phủ, thuế suất, chất lượng của bộ máy nhà nước, phát triển của thị

trường tài chính, tiêu thụ năng lượng… để phân tích chi tiết hơn và tránh hiện tượng

bỏ sót biến dẫn đến kết quả hồi quy chưa chính xác.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu trang web

1. https://data.worldbank.org/

2. http://vneconomy.vn/ba-thach-thuc-lon-trong-thu-hut-von-fdi-vao-viet-nam-

20180413101438105.htm

3. http://tapchicongthuong.vn/thuc-trang-ve-tinh-hinh-xuat-nhap-khau-cua-nen-

kinh-te-viet-nam-hien-nay-va-giai-phap-20180606111529330p0c488.htm

Tài liệu trong nước

1. Nguyễn Quang Hiệp (2014). “Mối quan hệ giữa xuất khẩu và tăng trưởng kinh

tế ở Việt Nam: Mô hình “Vòng xoắn tiến””. Tạp chí Kinh tế & Phát triển. Số

210 tháng 12/2014

2. Nguyễn Thị Phương Hoa (2004). “Foreign Direct Investment and its

Contributions to Economic Growth and Poverty Reduction in Viet Nam (1986

– 2001)”, Peter Lang, Frankut am Main, Germany.

3. Nguyễn Thị Tuệ Anh, Vũ Xuân Nguyệt Hồng, Trần Toàn Thắng và Nguyễn

Mạnh Hải (2006). “Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng

kinh tế ở Việt Nam”, Dự án SIDA: Nâng cao lực nghiên cứu chính sách để

thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam thời kỳ 2001 –

2010.

4. Phan Minh Ngọc, Nguyễn Thị Phương Anh và Phan Thúy Nga (2003).

“Exports and Long-run Growth in Vietnam, 1976-2001”. ASEAN Economic

Bulletin, Vol. 20, No. 3 (2003) pp. 211 -232.

Tài liệu nước ngoài

1. Baharumshah, A. and M. Thanoon (2006). Foreign capital flows and economic

growth in East Asian countries, China Economic Review. 17: 70-83

2. Bajo-Rubio, O. & Diaz-Roldan C. (2012). “Do exports cause growth? Some

evidence for the new EU members”. Post-Communist Economics, Vol. 24, No.

1, (2012). pp. 125 -131

3. Balasubramanyam VN, Salisu M, Sapsford D (1996). “Foreign Direct

Investment and Growth in EP and IS countries”. The Economic Journal, 106:

92-105.

4. Carkovic, M. and Levine, R. (2003). “Does foreign direct investment

accelerate economic growth?”. University of Minnesota Working Paper,

Minneapolis.

5. Chen, Shyh-Wei, (2007). “Exactly what is the link between export and growth

in Taiwan? new evidence from the Granger causality test”. Economics

Bulletin, Vol. 6, No. 7 pp. 1-10.

6. Hsiao, F. and M.c. Hsiao (2006). FDI, exports, and GDP in East and Southeast

Asia – Panel data versus time-series causality analyses, Journal of Asian

Economics. 17: 1082-1106.

7. International Labour Organization (ILO) 1998. “Labour and Social Issues

Relating to Export Processing Zones”. Geneva: ILO.

8. Jayachandran, G. andA. Seilan (2010). A causal relationship between Trade,

Foreign Direct Investment and Economic Growth for India, International

Research Journal of Finance and Economics. 42: 74-88

9. Meschi, E., 2006. FDI and growth in MENA countries: an empirical analysis.

In: The Fifth International Conference of the Middle East Economic

Association, 10–12 March, Sousse.

10. Mohsen Mehrara, Bagher Adabi Firouzjaee (2011). “Granger Causality

Relationship between Export Growth and GDP Growth in Developing

Countries: Panel Cointegration Approach”. International Journal of

Humanities and Social Science, Vol. 1 No. 16; November 2011

11. Mounir Belloumi (2014). “The relationship between trade, FDI and economic

growth in Tunisia: An application of the autoregressive distributed lag model”.

Economic Systems, Volume 38, Issue 2, June 2014, Pages 269 -287.

12. Nair-Reichert, U., & Weinhold, D. (2000). “Causality tests for cross-country

panels: New look at FDI and economic growth in developing countries”.

Oxford Bulletin of Economics and Statistics, 64, 153–171.

13. Nicet-Chenaf, D., Rougier, E., 2009. FDI and growth: a new look at a still

puzzling issue. Cahiers du GREThA n8 2009-13 Universite´ de Bordeaux,

GREThA UMR CNRS 5113.

14. Richards, DG. (2001). “Exports as a Determinant of Long-run Growth in

Paraguay, 1966-96”, The Journal of Development Studies, vol. 38, no 1, pp

28-146.

15. Shamurailatpam Sofia Devi (2013). “Export, Economic Growth and Causality

– A Case for India”. Journal of Global Economy (ISSN Print-0975-3931,

Online -2278-1277), Volume 9 No 1, March, 2013

16. Vissak, T. and Roolaht, T. (2005). “The negative impact of foreign direct

investment on the Estonian economy”. Problems of Economic Transition, 48

(2): 43 – 66.

17. Wijeweera, A., r. Villano, and B. Dollery (2010). Economic Growth and FDI

Inflows: A Stochastic Frontier Analysis, The Journal of Developing Areas. 43:

143-158.

18. Zhang, K. H. (2001). “Does foreign direct investment promote economic

growth? Evidence from East Asia and Latin America”. Contemporary

Economic Policy, 19, 175-185.

PHỤ LỤC

Phụ lục 1. Thống kê mô tả các biến

Phụ lục 2. Ma trận hệ số tương quan

Phụ lục 3. Nhân tử phóng đại phương sai VIF

Phụ lục 4. Hồi quy Pool OLS

Phụ lục 5. Hồi quy mô hình tác động cố định (FEM)

Phụ lục 6. Hồi quy mô hình tác động ngẫu nhiên (REM)

Phụ lục 7. Kiểm định Hausman

Phụ lục 8. Kiểm định phương sai thay đổi với REM

Phụ lục 9.Kiểm định tự tương quan

Phụ lục 10. Hồi quy GLS