BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ THANH TRÚC
NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA THAM NHŨNG VÀ
CHÊNH LỆCH THAM NHŨNG ĐẾN NGUỒN VỐN FDI
VÀO CÁC NƢỚC KHU VỰC ĐÔNG NAM Á
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ THANH TRÚC
NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA THAM NHŨNG VÀ
CHÊNH LỆCH THAM NHŨNG ĐẾN NGUỒN VỐN FDI
VÀO CÁC NƢỚC KHU VỰC ĐÔNG NAM Á
Chuyên ngành: Kinh tế phát triển
Mã số: 60310105
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN TIẾN KHAI
Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn này là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Học viên
Nguyễn Thị Thanh Trúc
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
DANH MỤC HÌNH ẢNH, ĐỒ THỊ
TÓM TẮT .......................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU .............................................................................................. 2
1.1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................................... 2
1.2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................... 4
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 4
1.4. Ý nghĩa bài nghiên cứu ........................................................................................... 4
1.5. Phương pháp và nguồn dữ liệu nghiên cứu .......................................................... 5
1.6. Cấu trúc bài nghiên cứu ......................................................................................... 5
CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN TÀI LIỆU ............................. 7
2.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và tham nhũng ......................................................... 7
2.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài ............................................................... 7
2.1.2. Khái niệm tham nhũng ........................................................................................ 7
2.2. Các lý thuyết nền tảng về mối quan hệ giữa FDI và tham nhũng ........................ 9
2.2.1. Lý thuyết về chi phí giao dịch ............................................................................. 9
2.2.2. Lý thuyết về mô hinh OLI .................................................................................. 10
2.2.3. Thể chế quốc gia và tham nhũng ...................................................................... 13
2.2.4. Lý thuyết về khoảng cách thể chế ..................................................................... 14
2.2.5. Lý thuyết về khoảng cách tham nhũng và FDI ................................................. 15
2.3. Các nghiên cứu thực nghiệm về tham nhũng và FDI ......................................... 17
2.3.1. Mối liên hệ giữa tham nhũng và FDI ............................................................... 17
2.3.2. Mối liên hệ giữa chênh lệch tham nhũng và FDI ............................................. 20
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .......................................................... 24
3.1. Mô hình nghiên cứu .............................................................................................. 24
3.2. Mẫu, dữ liệu và kỳ vọng dấu ........................................................................... 25
3.2.1. Mẫu nghiên cứu ................................................................................................ 25
3.2.2. Dữ liệu, mô tả biến và kỳ vọng dấu .................................................................. 25
3.2.3. Giả thuyết nghiên cứu ....................................................................................... 31
3.3. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 32
3.4. Quy trình nghiên cứu ............................................................................................. 35
CHƢƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ...................................................................... 37
4.1. Đánh giá tổng quan thực trạng tham nhũng và dòng vốn FDI vào các nước khu
vực Đông Nam Á ........................................................................................................... 37
4.1.1. Nguồn vốn FDI trong khu vực Đông Nám Á .................................................... 37
4.1.2. Thực trạng tham nhũng của các nước trong khu vực Đông Nam Á ................. 42
4.2. Thống kê mô tả ....................................................................................................... 44
4.3. Kết quả kinh tế lượng: ........................................................................................... 46
CHƢƠNG 5 : KẾT LUẬN .............................................................................................. 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 61
PHỤ LỤC ......................................................................................................................... 69
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
ADB Ngân hàng phát triển châu Á Asian Development Bank
AEC ASEAN Economic Community Cộng đồng kinh tế khu vực Đông Nam Á
AFTA ASEAN Free Trade Area Khu vực mậu dịch tư do Đông Nam Á
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á Association of Southeast Asian Nations
Corruption Perceptions Index Chỉ số cảm nhận tham nhũng CPI
Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
Fixed Effects Model Mô hình hiệu ứng cố định FEM
International Monetary Fund Quỹ tiền tệ Quốc Tế IMF
MNEs Multinational enterprises Công ty đa quốc gia
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD Organization for Economic Cooperation and Development
Lý thuyết chiết trung OLI
Random Effects Model Mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên REM
Transaction Cost Economics Lý thuyết chi phí giao dịch TCT
TI Transparency International Tổ chức minh bạch quốc tế
TTP Trans-Pacific Partnership Agreement Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương
UNCTAD United Nations Conference on Trade and Development Hội nghị Liên hiệp quốc về Thương mại và Phát triển
UNDP United Nations Development Programme Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc
Đô La Mỹ USD
World Bank Tổ chức Ngân hàng Thế giới WB
WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1 Bảng tổng hợp các biến sử dụng trong mô hình nghiên cứu.
Bảng 4.1 Tình hình thu hút FDI ở các khu vực trên thế giới giai đoạn 2001-2012
Bảng 4.2 Lượng FDI chảy vào khu vực Đông Nam Á giai đoạn 2001-2012
Bảng 4.3 Bảng thống kê mô tả các biến trong mô hình
Bảng 4.4 Kết quả ma trận tự tương quan
Bảng 4.5 Kết quả ước lượng của mô hình 1* với FEM và REM
Bảng 4.6 Kết quả kiểm định Hausman đối với mô hình 1*
Bảng 4.7 Kết quả hồi quy mô hình 1* theo mô hình hiệu ứng cố định điều chỉnh đã khắc
phục hiện tượng phương sai thay đổi.
Bảng 4.8 Kết quả ước lượng của mô hình 2* với FEM và REM
Bảng 4.9 Kết quả kiểm định Hausman đối với mô hình 2*
Bảng 4.10 Kết quả hồi quy mô hình 2* theo mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên điều chỉnh đã
khắc phục hiện tượng phương sai thay đổi
Bảng 4.11 Kết quả ước lượng của mô hình 3* với FEM và REM
Bảng 4.12 Kết quả kiểm định Hausman đối với mô hình 3*
Bảng 4.13 Kết quả hồi quy mô hình 3* theo mô hình hiệu ứng cố định điều chỉnh đã khắc
phục hiện tượng phương sai thay đổi
DANH MỤC HÌNH ẢNH, ĐỒ THỊ
Hình 3.1 Giả thuyết của bài nghiên cứu
Hình 3.2 Lưu đồ quy trình nghiên cứu
Biểu đồ 4.1 Biểu đồ thể hiện lượng FDI vào khu vực Đông Nam Á qua các năm từ 2001
đến 2012
Biểu đồ 4.2 Biểu đồ thể hiện chỉ số tham nhũng của các nước qua các năm từ 2001 đến
2012
1
TÓM TẮT
Bài nghiên cứu tìm hiểu mối quan hệ giữa tham nhũng, chênh lệch tham nhũng và nguồn
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nước ở khu vực Đông Nam Á giai đoạn 2001-
2012. Bài nghiên cứu sử dụng mô hình hiệu ứng cố định (FEM) và mô hình hiệu ứng
ngẫu nhiên (REM) cho bộ dữ liệu bảng đến từ chín quốc gia: Campuchia, Indonesia, Lào,
Malaysia, Myanmar, Philipin, Singapore, Thái lan và Việt Nam. Kết quả cho thấy tham
nhũng tại các nước nhận đầu tư có tác động tích cực đến lượng vốn FDI chảy vào. Đồng
thời, bài nghiên cứu cũng không tìm thấy mối liên hệ giữa chênh lệch tham nhũng giữa
nước đầu tư và nước nhận đầu tư đến lượng vốn FDI thu hút.
Qua nghiên cứu này, tác giả hy vọng cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm để các nhà
hoạch định chính sách tham khảo để đưa ra các quyết định thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài ở từng giai đoạn. Trong giai đoạn này, tham nhũng có thể đóng vai trò tích
cực, nhưng giai đoạn khác, tham nhũng lại đóng vai trò kiềm hãm dòng chảy đầu tư vào
các nước khu vực Đông Nam Á.
2
CHƢƠNG 1: GIỚI THIỆU
1.1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay, việc chu chuyển vốn giữa các nền kinh tế là
một xu thế tất yếu mà các quốc gia lựa chọn bởi vì những lợi ích mà chu chuyển vốn
mang lại cho cả nước đi đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. Một trong những động lực chu
chuyển vốn lớn nhất hiện nay đó chính là những dòng vốn đầu tư của các công ty đa quốc
gia (MNEs) thông qua hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Vì vậy, không chỉ các
công ty đa quốc gia mà kể cả các quốc gia đi đầu tư và quốc gia nhận đầu tư đều mong
muốn nắm bắt được các nhân tố tác động đến dòng chảy FDI này.
Bên cạnh những đặc điểm kinh tế đặc thù của mỗi quốc gia vốn được coi là các tác nhân
chính thu hút FDI thì còn có rất nhiều lý thuyết cho rằng sự khác biệt về thể chế giữa các
quốc gia mà cụ thể là sự khác biệt về tham nhũng giữa hai nước cũng có một mối quan hệ
quan trọng với dòng vốn FDI. Chủ đề tham nhũng và hiệu quả của các nền kinh tế là một
chủ đề khá phố biến, được nghiên cứu nhiều thời gian qua, nhưng vấn đề tham nhũng ảnh
hưởng như thế nào đến thu h t đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI vào đất nước có mức độ
tham nhũng cao vẫn chưa được đánh giá đầy đủ trong các nghiên cứu hiện có.
Có hai quan điểm về tác động của tham nhũng đối với FDI. Quan điểm thứ nhất theo
nghiên cứu của Kwok và Tadesse (2006) cho rằng các MNEs rất c n thận khi lựa chọn
nước chủ nhà cho các chi nhánh nước ngoài của họ ởi vì sự lo ngại của họ đối với sự
không chắc chắn của chi phí ổ sung liên quan đến tham nhũng vào chi phí hoạt động. Do
đó, tham nhũng được coi là một rào cản đối với FDI Judge cộng sự, 2011 . Tuy nhiên
có một quan điểm trái ngược cho rằng: tham nhũng là điều cần thiết – một chất ôi trơn
cho các giao dịch, đặc iệt khi các ―lỗ hổng thể chế‖ ngày càng phổ iến trong nền kinh tế
phát triển. Tham nhũng còn có thể cải thiện hiệu quả ằng cách giảm các lệch lạc gây ra
ởi các tổ chức hoạt động và ộ máy quan liêu k m hiệu quả (Khanna & Palepu, 2010;
Kwok & Tadesse, 2006).
Ngoài ra, chênh lệch tham nhũng giữa nước đầu tư và nước nhận đầu tư là một đề tài đang
rất được quan tâm hiện nay. Có nhiều nghiên cứu đã đề cập đến vấn đề này như nghiên
cứu của Habib và Zurawicki (2002), Eden và Miller (2004), Rose- Ackermamn (2008),
3
Godinez và Liu (2013). Các nghiên cứu trả lời cho câu hỏi nước đầu tư có mức độ tham
nhũng thấp hơn nước nhận đầu tư và ngược lại thì có ảnh hưởng đến dòng vốn FDI chảy
vào các nước nhận đầu tư hay không.
Đông Nam Á có vị trí địa chiến lược vô cùng quan trọng trên thế giới, khu vực này nằm
trên tuyến đường biển vận tải quan trọng, kết nối các quốc gia phát triển của Châu Âu với
các quốc gia như Nhật Bản, Trung quốc, Hàn quốc. Cùng với đó là nguồn tài nguyên
thiên nhiên đồi dào cũng như giá nhân công rẻ đã khiến Đông Nam Á trở thành một điểm
thu h t các nhà đầu tư nước ngoài đến tìm kiếm trị thường đầu tư cũng như tiêu thụ.
Trong những năm gần đây, xu hướng của chuyển dịch của dòng vốn FDI chuyển dần về
khu vực Đông Nam Á. Năm 2010 tổng lượng FDI chảy vào khu vực này là 105 tỷ (chiếm
9,9% lượng FDI inflows toàn cầu , năm 2011 giảm nhẹ còn 93,5 tỷ (chiếm 18,13% FDI
inflows toàn cầu và năm 2012 tăng mạnh trở lại 108 tỷ (chiếm 14% lượng FDI inflows
toàn cầu . Đặc biệt, trong năm 2010, 82% lượng FDI tăng trên thế giới chảy vào khu vực
châu Á thì trong đó hơn một phần hai là chảy vào khu vực Đông Nam Á. Tương tự năm
2013, 49% lượng FDI tăng trên thế giới chảy vào khu vực châu Á, thì gần 56,5% số đó
chảy vào khu vực Đông Nam Á. Điều này đã củng cố hơn nữa nhận định khu vực Đông
Nam Á là điểm đến mới cho dòng chảy của FDI.
Mặc khác, theo đánh giá của tổ chức minh bạch quốc tế (TI), những nước thuộc khu vực
Đông Nam Á trừ Singapore) có mức độ tham nhũng khá cao. Trong giai đoạn từ năm
2001 đến năm 2012, chỉ số cảm nhận tham nhũng của khu vực trung bình này là 3,63/10
(0 điểm là tham nhũng cao, 10 điểm là trong sạch). Tổ chức minh bạch quốc tế đã đưa ra
lời cảnh báo về tình trạng tham nhũng này có thể ảnh hưởng đến kế hoạch phát triển kinh
tế của mỗi nước trong khu vực. Như vậy, liệu có mối quan hệ nào giữa tình trạng tham
nhũng và dòng chảy FDI vào các nước ở khu vực Đông Nam Á không?
Chính vì sự mâu thuẫn giữa các kết quả nghiên cứu thực nghiệm cùng với tình hình đánh
giá mức độ tham nhũng cũng như lượng vốn FDI thu hút tại các nước khu vực Đông Nam
Á đã nói ở trên, tác giả thực hiện đề tài: ―Nghiên cứu tác động của tham nhũng và
chênh lệch tham nhũng đến nguồn vốn FDI chảy vào các nƣớc khu vực Đông Nam
4
Á‖ nhằm đánh giá sự tác động của tham nhũng và chênh lệch tham nhũng lên nguồn vốn
FDI ở khu vực Đông Nam Á.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Bài nghiên cứu xem xét mối quan hệ giữa các nhân tố liên quan đến tham nhũng, thể chế
quốc gia và các nhân tố vĩ mô khác đến dòng chảy FDI ở chín quốc gia thuộc khu vực
ASEAN trong giai đoạn 2001-2012 với các mục tiêu nghiên cứu như sau:
Thứ nhất, tìm hiểu được mối quan hệ giữa tham nhũng và dòng vốn FDI vào các
quốc gia khu vực Đông Nam Á.
Thứ hai, đánh giá mối quan hệ giữa chênh lệch tham nhũng đến dòng vốn FDI
vào các quốc gia khu vực Đông Nam Á
Để có thể đạt được các mục tiêu trên, bài nghiên cứu đưa ra các câu hỏi nghiên cứu như
sau:
Câu hỏi 1: Tham nhũng tác động như thế nào đến dòng vốn FDI ở các quốc gia Đông
Nam Á?
Câu hỏi 2: Chênh lệch tham nhũng giữa quốc gia đầu tư và quốc gia nhận đầu tư có tác
động như thế nào đến dòng vốn FDI đầu tư?
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy vào các nước ở khu
vực Đông Nam Á trong khoảng thời gian 2001-2012 và mối quan hệ với tham nhũng.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu ở 9 quốc gia trong khu vực bao gồm: Campuchia,
Indonesia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philipin, Singapore, Thái lan và Việt Nam. Ngoài
các quốc gia kể trên khu vực Đông Nam Á còn có các nước như Đông Timor, Brunei.
Tuy nhiên số liệu của các quốc gia này chưa đầy đủ để phục vụ cho nghiên cứu nên tác
giả chỉ lựa chọn 9 quốc gia kể trên.
1.4. Ý nghĩa bài nghiên cứu
Bài nghiên cứu góp phần củng cố thêm bằng chứng thực nghiệm về tác động của tham
nhũng của nước nhận đầu tư và sự chênh lệch tham nhũng giữa nước đầu tư và nước nhận
đầu tư đến việc thu hút nguồn vốn FDI của các nước trên thế giới.
5
1.5. Phương pháp và nguồn dữ liệu nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu: thực hiện nghiên cứu định lượng trên dữ liệu bảng, sử dụng các
phương pháp kiểm định nhằm kiểm soát các khiếm khuyết trên mô hình hồi quy, từ đó lựa
chọn phương pháp kiểm soát các vấn đề khiếm khuyết tồn tại nhằm đưa ra kết quả định
lượng tin cậy.
Bài nghiên cứu sử dụng phầm mềm Stata để định lượng nhằm kiểm định mối quan hệ
giữa tham nhũng, chênh lệch tham nhũng các nước đầu tư và nhận đầu tư với nguồn vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài của nước nhận đầu tư dưới sự kiểm soát các biến thể chế và
môi trường kinh tế vĩ mô.
Dữ liệu: Dữ liệu của bài nghiên cứu được lấy từ nguồn của các tổ chức quốc tế đáng tin
cậy như Ngân hàng thế giới (WB), Tổ chức minh bạch quốc tế (IT), Quỹ di sản Thế giới
(Heritage Foundation), Liên Hiệp Quốc (UNDP), Hiệp hội Thương mại và Phát triển Liên
hợp quốc (UNCTAD).
1.6. Cấu trúc bài nghiên cứu
Bài nghiên cứu được cấu trúc thành 5 phần. Phần 1 giới thiệu tổng quan các vấn đề trong
bài nghiên cứu: lí do chọn đề tài, câu hỏi và mục tiêu nghiên cứu, đối tượng và phạm vi
nghiên cứu, phương pháp và dữ liệu nghiên cứu, ý nghĩa của nghiên cứu và bố cục của bài
nghiên cứu. Phần 2 trình bày tổng quan các tài liệu có liên quan đến nguồn vốn FDI,
tham nhũng và chênh lệch tham nhũng, mối liên hệ giữa các yếu tố trên với nhau cũng
như các bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ của các biến tham nhũng và các nhân tố
vĩ mô với nguồn vốn FDI vào mỗi quốc gia. Phần 3 trình bày phương pháp nghiên cứu,
mang đến một cái nhìn tổng quan về mô hình dữ liệu bảng động, phương pháp hồi quy
Fixed Effect và Random Effect, các giả thuyết nghiên cứu; mô tả mẫu nghiên cứu, dữ liệu
nghiên cứu và nguồn thu thập dữ liệu cũng như nêu rõ cách xác định và ý nghĩa của biến
số được sử dụng trong mô hình ước lượng. Phần 4 trình bày các kết quả nghiên cứu bao
gồm thống kê mô tả, các kết quả thực nghiệm từ mô hình hồi quy dữ liệu bảng động bằng
phương pháp Fixed Effect, phương pháp Random Effect và các kiểm định cho khu vực
ASEAN. Phần kết luận tổng quát những kết luận chính của bài nghiên cứu, nêu lên một
số kiến nghị, gợi ý chính sách cho các nước ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng
dựa trên tình hình dòng vốn FDI và tham nhũng trên thực tế và kết quả của bài nghiên
6
cứu, cũng như chỉ ra một số điểm hạn chế còn tồn tại của bài nghiên cứu và hướng phát
triển đề tài trong tương lai.
7
CHƢƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và tham nhũng
2.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một trong những khái niệm rất quen thuộc với chúng
ta hiện nay. Tuy nhiên có rất nhiều định nghĩa được đưa ra để định nghĩa cho nguồn vốn
quan trọng này đối với mỗi quốc gia. Theo Quỹ tiền tệ Quốc Tế IMF 1993 đầu tư trực
tiếp nước ngoài là hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm đạt được những lợi ích lâu dài
trong một doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ của một nền kinh tế khác nền kinh tế
nước chủ đầu tư, mục đích của chủ đầu tư là giành quyền quản lý thực sự doanh nghiệp.
Một cách định nghĩa khác cũng được đưa ra ởi Tổ chức Thương mại Thế Giới (WTO).
Theo đó, đầu tư trực tiếp nước ngoài xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước nước đầu tư
có tài sản ở một nước khác (nước nhận đầu tư cùng với quyền quản lý tài sản đó. Phương
diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính khác. Trong phần lớn
trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh
doanh. Trong những trường hợp đó, nhà đầu tư thường được gọi là ―công ty mẹ‖ và các
tài sản được gọi là ―công ty con‖ hay ―chi nhánh công ty‖.
Ngoài ra, theo Luật Đầu Tư 2005 của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đầu
tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư ỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động
đầu tư hoạt động đầu tư. Nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức, cá nhân nước ngoài bỏ vốn để
thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam.
Như vậy, tổng quát lại có thể định nghĩa về đầu tư trực tiếp nước ngoài như sau: Đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này
vào một nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất kinh doanh. Cá nhân hay công ty
nước ngoài đó sẽ nắm quyền quản lý cơ sở sản xuất kinh doanh này với mục tiếu tối đa
hóa lợi nhuận.
2.1.2. Khái niệm tham nhũng
Tương tự như khái niệm FDI nêu ở trên, khái niệm tham nhũng cũng được định nghĩa
theo nhiều cách khách nhau. Theo Tổ chức Minh bạch Quốc Tế TI , tham nhũng là lợi
8
dụng quyền hành để gây phiền hà, khó khăn và lấy của dân. Tham ô là hành vi lợi dụng
quyền hành để lấy cắp của công. Tham nhũng và tham ô là hệ quả tất yếu của nền kinh tế
kém phát triển, quản lý kinh tế xã hội lỏng lẻo, yếu kém tạo ra nhiều sơ hở cho các hành
vi tiêu cực, hiện tượng tham nhũng và các tệ nạn có điều kiện phát triển và tại đó một
phần quyền lực chính trị được biến thành quyền lực kinh tế. Theo định nghĩa trên thì tham
nhũng là hành vi của người có địa vị cao trong xã hội mà từ vị trí họ có thể dễ dàng trục
lợi cho bản thân thông qua nhũng việc làm trái pháp luật của mình.
Tuy nhiên, theo Ngân hàng Thế giới (2009) tham nhũng là ―lạm dụng công quỹ hoặc chức
vụ để tư lợi riêng‖. Định nghĩa này cho rằng căn nguyên của tham nhũng xuất phát từ
công quyền và lạm dụng công quyền, tham nhũng gắn liền với nhà nước và các hoạt động
của nhà nước, việc nhà nước can thiệp vào thị trường và từ sự tồn tại của khu vực công.
Khái niệm này chỉ tập trung vào tình trạng tham nhũng ở khu vực công.
Ngoài ra, theo Luật phòng, chống tham nhũng (2005) ở Việt Nam thì tham nhũng được
định nghĩa như sau: Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng
chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi.
Một cách định nghĩa khác cho khái niệm tham nhũng là sử dụng việc phân loại tham
nhũng. Tổ chức Minh bạch Quốc tế căn cứ vào giá trị của những khoản tiền hối lộ để
phân loại tham nhũng. Có hai loại tham nhũng là ―tham nhũng lớn‖ grand corruption) và
tham nhũng ―vặt‖ petty corruption . Tham nhũng lớn là hình thức tham nhũng liên quan
đến những hợp đồng kinh tế quốc tế, các dự án hạ tầng trọng điểm của quốc gia và gắn
liền với các quan chức lãnh đạo cấp cao, các khoản tham nhũng được thực hiện bên ngoài
các quốc gia. Còn tham nhũng vặt là hình thức nhũng nhiễu tồn tại trong các cơ quan
quản lý, các đơn vị có quyền lực. Tham nhũng vặt hay còn gọi là tham nhũng hành chính,
loại tham nhũng này diễn ra thường ngày khi các nhân viên công quyền tiếp xúc với
người dân. Người dân phải trả chi phí giao dịch không chính thức tại khu vực công.
Chi tiết hơn, trong Báo cáo chống tham nhũng ở Đông Á của Ngân hàng Thế giới (2003),
tham nhũng được chia ra làm nhiều cấp độ với những biểu hiện khác nhau như ôi trơn
(facititation payments), hối lộ (bri e , nhũng nhiễu (extortion), lại quả (kickback), sở hữu
của nhà nước state capture . Bôi trơn là hành động chi một khoản nhỏ để đ y nhanh
9
những thủ tục thông thường. Hối lộ là chi tiền cho những kẻ tham nhũng để đ y người
khác làm theo quyền lợi của người chi. Nhũng nhiễu là lợi dụng chức quyền để thu tiền
một cách bất hợp pháp. Lại quả chi tiền cho các nhân vật có tác động sau khi một giao
dịch được thực hiện. Sở hữu của nhà nước là chính sách hoặc quy chế của chính phủ chịu
tác động của một nhóm tham nhũng.
Đối với Việt Nam, theo Luật Phòng chống tham nhũng 2005 , tham nhũng được phân
loại theo hành vi. Theo đó, các hành vi tham nhũng gồm những hành vi như sau: tham ô
tài sản; nhận hối lộ; lạm dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì
vụ lợi; lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền
hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi; giả mạo trong công tác vì vụ lợi; đưa hối
lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công
việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn
sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì vụ lợi; nhũng nhiễu vì vụ lợi; không thực hiện
nhiệm vụ, công vụ vì vự lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để ao che cho người có hành
vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi, cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh
tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
Như vậy, tham nhũng là một trong những khái niệm có rất nhiều cách định nghĩa và việc
định nghĩa khái niệm này rất khó vì những vấn đề kéo theo của nó. Trên thế giới và Việt
Nam đã có rất nhiều bài nghiên cứu để tìm hiểu về nguyên nhân, nguồn gốc, những mặt
có lợi và có hại cũng như tác động của tham nhũng đến kinh tế, chính trị và xã hội của
một quốc gia, trong đó có tác động của tham nhũng đến FDI. Phần tiếp theo sẽ trình bày
các lý thuyết nền tảng để hỗ trợ cho mối quan hệ giữa tham nhũng và dòng vốn FDI.
2.2. Các lý thuyết nền tảng về mối quan hệ giữa FDI và tham nhũng
2.2.1. Lý thuyết về chi phí giao dịch
Khái niệm chi phí giao dịch đầu tiên được Ronald Coase đề cập trong bài viết nổi tiếng
năm 1937 của mình với tựa đề ―Bản chất của doanh nghiệp.‖ Ông đặt ra câu hỏi các lý
thuyết kinh tế nhấn mạnh đến vai trò hiệu quả của cơ chế thị trường cạnh tranh, nhưng tại
sao quá nhiều hoạt động kinh tế lại diễn ra ngoài phạm vi của hệ thống giá của thị trường.
Ông kết luận rằng phải tồn tại một chi phí trên thị trường mà chỉ có cơ cấu doanh nghiệp
10
có thể thể tiết kiệm được. Từ đây, Kinh tế học về chi phí giao dịch đã ra đời và nó là một
phần của kinh tế học về thể chế kinh tế. Kenneth Arrow (1996 đã định nghĩa các chi phí
giao dịch là ―các chi phí vận hành hệ thống kinh tế‖. Chi phí giao dịch được phân thành
đến trước (trước khi ký kết hợp đồng) hoặc đến sau (sau khi ký kết hợp đồng). Các chi phí
giao dịch đến trước (ex ante) là các chi phí soạn thảo, thương lượng, và bảo vệ một hợp
đồng. Các chi phí đến sau (ex post) bao gồm các chi phí về sự thích nghi sai lầm phát sinh
khi các giao dịch chuyển dịch dần dần khỏi tình trạng liên kết phù hợp; các chi phí mặc cả
phát sinh khi thực hiện các nỗ lực song phương để chỉnh sửa những tình trạng liên kết sai
lầm xảy ra sau khi ký kết hợp đồng; các chi phí thành lập và điều hành gắn liền với các
cấu trúc quản trị và các chi phí về cam kết.
Các nghiên cứu về FDI hầu như tập trung vào tính hiệu quả dựa trên phân tích chi phí
giao dịch (Williamson, 1993). Lý thuyết chi phí giao dịch (Transaction Cost Economics -
TCT) sử dụng các giao dịch như là đơn vị cơ sở phân tích. Một giao dịch xảy ra khi một
hàng hóa hoặc dịch vụ được chuyển qua một giao diện kỹ thuật tách rời. Vì vậy việc tổ
chức hoạt động kinh tế được hiểu trong điều kiện chi phí giao dịch. Theo đó, lý thuyết chi
phí giao dịch có liên quan với chi phí tích hợp một hoạt động trong công ty đối lập với chi
phí của việc sử dụng từ thị trường bên ngoài để hành động cho công ty trong thị trường
quốc tế (Williamson,1985; Verbeke & Kano, 2012).
2.2.2. Lý thuyết về mô hinh OLI
Dựa vào lý thuyết chi phí giao dịch Dunning đã phát triển mô hình chiết trung
Ownership-Location-Internalisation OIL để phân tích hoạt động FDI. Theo Dunning,
một công ty dự định tham gia vào các hoạt động FDI cần có 3 lợi thế:
- Lợi thế về sở hữu (Ownership advantages - O): Bao gồm lợi thế về tài sản, lợi thế về
tối thiểu hoá chi phí giao dịch;
- Lợi thế về khu vực (Locational advantages – L): Bao gồm tài nguyên của đất nước, qui
mô và sự tăng trưởng của thị trường, sự phát triển của cơ sở hạ tầng, chính sách của
Chính phủ
11
- Lợi thế về nội bộ hoá (Internalisation advantages – I): Bao gồm giảm chi phí ký kết,
kiểm soát và thực hiện hợp đồng; tránh được sự thiếu thông tin dẫn đến chi phí cao
cho các công ty; tránh được chi phí thực hiện các bản quyền phát minh, sáng chế.
Theo lý thuyết OLI thì cả 3 điều kiện kể trên đều phải được thoả mãn trước khi có FDI.
Lý thuyết cho rằng: những nhân tố ―đ y‖ ắt nguồn từ lợi thế O và I, còn lợi thế L tạo ra
nhân tố ―k o‖ đối với FDI. Những lợi thế này không cố định mà biến đổi theo thời gian,
không gian và sự phát triển nên luồng vào FDI ở từng nước, từng khu vực, từng thời kỳ
khác nhau. Sự khác nhau này còn bắt nguồn từ việc các nước này đang ở ước nào của
quá trình phát triển.
Những tiền đề chính của mô hình là công ty đa quốc gia phát huy lợi thế cạnh tranh O tại
đất nước của họ và sau đó chuyển ra nước ngoài nơi họ có thể khai thác (dựa vào lợi thế
địa điểm L) thông qua FDI, nó cho phép các công ty đa quốc gia tiếp thu tương tự quyền
sở hữu O (Rugman, 2010; Dunning, 1981).
Mô hình OLI bao quát một loạt các biến kinh tế và xã hội; Cụ thể, chi phí kinh tế gây ra
bởi khoảng cách địa lý bao gồm vận chuyển và thuế và chi phí xã hội phát sinh từ việc
không quen biết, rủi ro quan hệ và phân biệt đối xử mà các công ty nước ngoài đối mặt ở
nước sở tại. Tuy nhiên, các chi phí kinh tế liên quan hiện nay đã giảm với sự phát triển
của công nghệ thông tin hiện đại và toàn cầu hóa. Mặt khác, chi phí xã hội ngày càng
được nhấn mạnh trong các nghiên cứu về chi phí hoạt động ở nước ngoài (LoF1). Các rủi
ro liên quan đến LoF đều dựa trên lý thuyết thể chế và sử dụng khái niệm về khoảng cách
thể chế (Driffield & cộng sự, 2013; Dunning, 1993; Eden & Miller, 2004; Zaheer,1995,
2002; Calhoun, 2002).
- Thành phần O:
Theo Rugman và Verbeke (1992), các công ty đa quốc gia có thể c n thận khi lựa chọn
nước nhận đầu tư cho các công ty con vì sự không chắc chắn và những khó khăn ao gồm
1 Liablity of Foreigness là chi phí hoạt động ở nước ngoài là một thuật ngữ mô tả các chi phí tăng thêm mà công ty hoạt động ên ngoài đất nước của họ so với chi phí của các doanh nghiệp địa phương. Những chi phí này có nguồn gốc từ sự giới hạn về kiến thức địa phương, thái độ kỳ thị các bên liên quan ở địa phương và những khó khăn gây ra bởi các tổ chức quản lý mà các công ty con của MNE phải gánh chịu.
những bất lợi tiềm n về chi phí của sự không chắc chắn đặt những công ty đa quốc gia
12
vào thế bất lợi về tài chính so với các doanh nghiệp trong nước). Lợi thế quyền sở hữu ở
nước sở tại cho phép các công ty đa quốc gia vượt qua chi phí khi hoạt động ở nước ngoài
và chi phí gia nhập mới, đặc biệt là đối với đặc thù của tài sản. Đặc thù của tài sản là một
phần quan trọng của lợi thế quyền sở hữu trong mô hình mà công ty đa quốc gia thường
sử dụng trong khi doanh nghiệp địa phương thì không. Hơn nữa, những lợi thế này có thể
được tận dụng ở nước ngoài để ù đắp cho những bất lợi.
Lợi thế quyền sở hữu ràng buộc địa điểm (Location-bound ownership advantages - OAs),
được định nghĩa là những lợi thế sở hữu chỉ có thể khai thác ở một hoặc một vài địa điểm
đặc biệt mà không làm giảm hiệu quả, giá trị của nó bị giới hạn trong một lãnh thổ, không
thể chuyển giao dễ dàng và cũng không thể áp dụng hoặc chuyển đổi cho phù hợp ở
những nước khác (Birkinshaw & cộng sự, 1998; Shan & Song, 1997; Harzing, 2002).
Phân tích qua chi phí giao dịch, tham nhũng ở nước nhận đầu tư có thể quan sát thông qua
chỉ số chi phí/lợi nhuận nó sẽ cản trở các nhà đầu tư nước ngoài nếu chi phí thương lượng
tiềm n vượt quá lợi nhuận của nó (Rose-Ackerman, 2008 . Điều này cho thấy rằng trong
khi một số công ty không có kinh nghiệm đối phó với tham nhũng ở trong nước của mình
có thể là một bất lợi khi hoạt động ở những nước có tham nhũng cao, mà điều này có thể
không đ ng đối với những công ty quen hoạt động ở trong nước tham nhũng cao. Công ty
đa quốc gia có kiến thức xử lý trong môi trường tham nhũng ở nước của mình có thể được
khuyến khích bằng OAs và sẵn sàng đầu tư vào các địa điểm tương tự. Vì vậy, khi phân
tích tham nhũng ảnh hưởng đến FDI như thế nào, điều quan trọng là phải biết rằng nếu
một số công ty có các kiến thức về chiến lược đối phó với tham nhũng ở nước nhà thì họ
có thể tái triển khai ở nước ngoài mà không tốn chi phí cao.
- Thành phần L:
Một yếu tố quan trọng trong mô hình OLI của Dunning là lợi thế nội địa hóa L trong nước
nhận đầu tư. Công ty đa quốc gia xác định nơi hoạt động ở nước ngoài mà chi phí hoạt
động được tối thiểu trong khi đó các công ty nội đia hoạt động ở nước ngoài để giảm chi
phí bắt nguồn từ việc không chắc chắn (Wang & cộng sự, 2012a, 2012b). Tuy nhiên, các
nhà phê bình lý thuyết Dunning lập luận rằng phần L của mô hình quá tập trung vào thuộc
tính vật lý của địa điểm nước ngoài và không tính đến địa điểm thể chế của nó. Nhận thức
13
được việc thiếu nội dung thể chế trong mô hình, Dunning (1998) mở rộng hơn cho địa
điểm bằng cách bổ sung rủi ro chính trị, chính sách, quy định, khác biệt văn hóa và tỷ giá
hối đoái. Công ty đa quốc gia muốn đầu tư FDI phải tính đến đặc điểm thể chế nước nhận
đầu tư, đặc biệt khi phân tích các nền kinh tế phát triển (Peng & cộng sự, 2008) bao gồm
cả chất lượng thể chế và sự tồn tại của tham nhũng.
2.2.3. Thể chế quốc gia và tham nhũng
Theo Wei 2000a, 2000 , tham nhũng là một phần quan trọng của các thể chế một quốc
gia. Vì thế, tham nhũng nằm ở cốt lõi của bất kỳ môi trường quốc gia nào. Thể chế được
thiết kế có một cách có ý thức, nhân tạo và hữu hình, bao gồm ―cấu trúc của hệ thống hóa
các quy định rõ ràng và tiêu chu n‖ (Holmes & cộng sự, 2012). Theo North (1990), trong
toàn bộ môi trường quốc gia đề xuất sự đồng phát triển của thể chế chính thức và phi
chính thức, mà theo đó phong tục, tập quán và chu n mực xã hội được hệ thống hóa và
thể chế hóa. Quan điểm đồng phát triển tiếp tục xuất hiện trong nghiên cứu của Holmes
và đồng sự (2012 ông lưu ý rằng các thể chế chính thức phản ánh thể hiện và củng cố nền
văn hóa của đất nước đến toàn dân. Tương tự như vậy, Dunning và Lundan (2008) tiếp
nối bài nghiên cứu của North (1990) nhấn mạnh rằng ― ất cứ điều gì có thể ảnh hưởng
đến việc ra quyết định cá nhân như giáo dục, tập tục xã hội và hệ thống tín ngưỡng cũng
có thể ảnh hưởng đến sự lựa chọn các thể chế của bất kỳ nơi nào‖.
Xem tham nhũng như là một trong những thể chế quan trọng nhất của một địa điểm nhất
định, các học giả đã lập luận rằng tham nhũng có thể xem như một kết quả phản ánh cơ sở
pháp lý, kinh tế, văn hóa và chính trị của một quốc gia. Hành vi tham nhũng có thể được
thể chế hóa và do đó trở thành một chuyện ình thường ở những địa điểm nhất định. Mức
độ quốc gia của tham nhũng không chỉ được xác định bởi các thể chế chính thức của pháp
luật và thực thi pháp luật mà còn bởi các chu n mực xã hội phi chính thức mà có thể chấp
nhận được (Peng & cộng sự, 2008; Svensson, 2005; Murphy & cộng sự, 1993). Nghiên
cứu của Ufere và cộng sự (2012) tìm thấy hành vi hối lộ tạo ra bởi các doanh nhân ở
Nigeria - một quốc gia bị chi phối bởi một tập hợp tốt vào các chu n mực xã hội, các quy
tắc, thói quen và quan hệ quyền lực. Đưa và nhận hối lộ có vẻ như là một việc phổ biến
đơn giản nhưng người nước ngoài có kiến thức hạn chế về pháp luật và chu n mực địa
14
phương có thể có nguy cơ mắc phải. Các chi phí liên quan trong xây dựng và duy trì tính
hợp pháp này đặt các công ty đa quốc gia vào tình thế bất lợi trong cạnh tranh (Eden &
Miller, 2004). Ví dụ, doanh nghiệp trong nước có nhiều khả năng thành công hơn nhờ
việc giao dịch với các quan chức tham nhũng cũng như tiếp cận với các nhà lập pháp; do
đó, họ có lợi thế hơn những doanh nghiệp khác (Anechiarico & Jacobs, 1996).
Mặc dù gần đây thuyết chi phí giao dịch trong mô hình OLI đã không xem x t môi trường
thể chế của một địa phương nước ngoài và tác động của sự không chắc chắn về thể chế
trong thu hút vốn FDI (Hosseini, 1994). Các thể chế có tác động đến hoạt động của các
công ty ở nước sở tại và do đó nó tác động đến chi phí giao dịch và hợp tác trong hoạt
động ở nước ngoài (Mudambi & Navarra, 2002). Bằng cách sử dụng biến thể chế trong
mô hình OLI, các nhà nghiên cứu đã mở rộng lý thuyết chi phí giao dịch bằng việc kiểm
tra khả năng mở rộng hoặc nâng cao lợi thế cạnh tranh của công ty trong một thị trường
cụ thể (Brouthers, 2013)
Vì thế để có được sự hợp pháp theo thể chế ở nước nhận đầu tư tính đến toàn bộ môi
trường thể chế), công ty đa quốc gia phải tuân theo những áp lực từ nước nhận đầu tư
trong việc trả tiền hối lộ và có thể làm như vậy trừ khi nước của chủ đầu tư nghiêm cấm
các hành vi đó. Bên cạnh những chi phí tạo ra bởi các giao dịch kinh doanh, công ty đa
quốc gia cũng phải đối mặt với chi phí hành chính cao hơn cho việc quản lý các mối quan
hệ giữa các bên tham gia vào hoạt động kinh doanh ở nước ngoài (Anderson & Gatignon,
1986; Buckley & Casson, 1998 ; chi phí này được kết hợp với trách nhiệm của người
nước ngoài, nơi mà khoảng cách thể chế và ba trụ cột chính của nó giữa nước của chủ đầu
tư và nước nhận đầu tư là những nhân tố chính (Eden & Miller, 2004).
2.2.4. Lý thuyết về khoảng cách thể chế
Trong khi các thể chế nước nhận đầu tư thể hiện những rủi ro đối với nhà đầu tư nước
ngoài, gần đây các nhà nghiên cứu đã lập luận rằng nó không chỉ là môi trường thể chế
của nước nhận đầu tư làm tăng chi phí hoạt động ở nước ngoài mà còn là khoảng cách thể
chế giữa nước nhận đầu tư và nước của chủ đầu tư. Khoảng cách thể chế được định nghĩa
như là mức độ chênh lệch tương đồng giữa thể chế quản lý, nhận thức và chu n mực của
hai nước được sử dụng để giải thích hành vi của công ty đa quốc gia về tính hợp pháp
15
hoạt động ở nước sở tại, quyết định địa điểm và chiến lược thâm nhập (Kostove, 1996;
Kostova & Zaheer, 1999; Xu & Shenkar, 2002). Khoảng cách thể chế càng lớn giữa quốc
gia của nhà đầu tư và nước sở tại thì các công ty đa quốc gia càng khó khăn để tạo được
tính hợp pháp bên ngoài (Kostova & Roth, 2002). Trong nghiên cứu này, khoảng cách
tham nhũng như là một chi phí hoạt động ở nước ngoài và có thể được xem như là tập hợp
con duy nhất của khoảng cách thể chế liên quan đến cả thể chế chính thức và phi chính
thức trong các hình thức của cả hai ràng buộc về quy định và chu n mực.
2.2.5. Lý thuyết về khoảng cách tham nhũng và FDI
Mặc dù hợp lý khi cho rằng các công ty nước ngoài sẽ thiết kế các chiến lược để đối phó
với tham nhũng ở nước nhận đầu tư và tham nhũng có thể không tác động giống nhau đến
tất cả các công ty, nhưng điều này thật không dễ dàng (Rodriguez & cộng sự, 2006).
Trong khi tham nhũng có thể là một đặc trưng của các giao dịch giữa các ên tư nhân
và/hoặc bên công cộng, nó thường được xác định đơn thuần chỉ là sự lạm dụng quyền lực
công cộng để thu lợi cá nhân (Habib & Zurawicki, 2002; Cuervo-Cazurra, 2006). Các
thước đo ở cấp quốc gia của tham nhũng cũng phản ánh định nghĩa hẹp này, nắm bắt
những người kinh doanh và nhận thức của các chuyên gia quốc gia về mức độ tham
nhũng trong khu vực công (Transparency International, 2010).
Có thể có sự khác biệt đáng kể giữa các nước liên quan đến khoảng cách về thể chế giữa
các nước nhận đầu tư và nước chủ đầu tư. Sự khác biệt này có thể có một tác động đáng
kể đối với một công ty đa quốc gia khi tiến hành các hoạt động ở nước ngoài vì nó làm
tăng chi phí giao dịch và rủi ro gắn liền với môi trường kinh doanh ―chưa iết‖ Brouthers
& Brouthers, 2001 . Môi trường kinh doanh chưa iết như vậy làm tăng thêm khó khăn
cho các nhà quản lý nước ngoài để hiểu được giá trị và quy tắc của thị trường nước ngoài
(Tihanyi & cộng sự, 2005) cũng như tính hợp pháp của tổ chức. Tác giả sử dụng khái
niệm khoảng cách tham nhũng để nói về sự khác biệt mức độ tham nhũng giữa hai quốc
gia. Trường hợp ủng hộ nước nhận đầu tư (tức là nước nhận đầu tư có mức tham nhũng
thấp hơn tương đối so với nước chủ đầu tư được gọi là khoảng cách tham nhũng dương,
và ngược lại.
16
Trong bài viết của mình, Eden và Miller 2004 đã tập trung vào khoảng cách về thể chế
mà không xem x t nước chủ đầu tư hay nước nhận đầu tư có thể chế mạnh hơn và cách
thức nó ảnh hưởng đến chi phí hoạt động ở nước ngoài và lợi thế O như thế nào. Các
nghiên cứu hầu như cho rằng sự khác biệt về mức độ tham nhũng giữa nước chủ đầu tư và
nước nhận đầu tư càng lớn thì FDI sẽ bị cản trở càng nhiều (Habib & Zurawicki, 2002).
Có ý kiến cho rằng không chỉ mức độ khoảng cách tham nhũng mà xu hướng của khoảng
cách này cũng tác động tới dòng FDI. Có thể các công ty đa quốc gia mong đợi sẽ cảm
thấy ít bị áp lực bởi các mối đe dọa mang tính hợp pháp, vì họ đã tham gia vào quá trình
lâu dài và tốn kém phát triển kiến thức về cách đối phó với tham nhũng tại nước nhà và có
thể sử dụng lợi ích mà họ học được từ tham gia các cơ quan tham nhũng tại chính quốc
(Cuervo-Cazurra, 2006). Mặt khác, có thể nước chủ đầu tư thường là nước phát triển) có
mức độ tham nhũng tương đối thấp sẽ hạn chế đầu tư vào nước nhận đầu tư có tham
nhũng cao thường là nước đang phát triển) bởi vì công ty đa quốc gia dự kiến sẽ gặp khó
khăn do sự bất ổn, chi phí tham gia vào tham nhũng địa phương và đáp ứng được các yêu
cầu, duy trì tính pháp lý. Chi phí tách mình khỏi sự can thiệp của chính phủ là cao.
Tuy nhiên, mức độ rủi ro và sự không chắc chắn liên quan đến tham nhũng sẽ không
giống nhau ở các công ty khác nhau. Có thể là các nhà đầu tư nước ngoài của các nước có
tham nhũng cao sử dụng kiến thức của họ về cách đối phó với tham nhũng là một lợi thế
cạnh tranh (Cuervo- Cazurra & Genc, 2008) so với những người không có kiến thức này.
Nghiên cứu phân tích các công ty đa quốc gia từ các nước đang phát triển đã phát hiện ra
rằng những kinh nghiệm hoạt động trong điều kiện thể chế lý tưởng ít hơn có thể được coi
là một lợi thế sở hữu ràng buộc địa điểm (Buckley & cộng sự, 2007 . Hơn nữa, những lợi
thế O cho phép các công ty ở các nước đang phát triển hoạt động hiệu quả hơn ở các nước
đang phát triển khác (Cuervo-Cazurra & Genc, 2008). Vì vậy, dựa trên lợi thế O một số
công ty có thể thích đầu tư vào các địa điểm nước ngoài tương đồng với môi trường chính
quốc của họ. Dựa trên điều này, tham nhũng có thể được xem là ảnh hưởng đến lợi thế L
hoặc là ngăn chặn hoặc khuyến khích FDI chảy vào. Kỹ năng có được trong việc quản lý
tham nhũng có thể giúp phát triển một lợi thế cạnh tranh nhất định (Habib & Zurawicki,
2002) và do đó, khi quốc tế hoá, các công ty có thể không bị cản trở bởi tham nhũng nước
17
nhận đầu tư. Họ có thể tận dụng kiến thức thu được từ nhờ làm việc với một chính phủ
tham nhũng ngay tại nước nhận đầu tư và ị thu hút bởi nước chủ đầu tư vì 3 lí do:
Đầu tiên, họ có thể phải đối mặt với chi phí thấp hơn trong việc đối phó với tham nhũng
của nước nhận đầu tư hơn là các công ty ở các nước đang phát triển.
Thứ hai, thậm chí họ có thể cố tình chọn những nước có mức độ tham nhũng cao nhưng
thấp hơn của họ) bởi vì sự tương đồng điều kiện với nước của họ.
Thứ ba, với việc được trang bị kiến thức tiên tiến trong kinh doanh quốc tế và một mạng
lưới quốc tế rộng lớn, công ty đa quốc gia đã phát triển các kĩ năng tinh vi của sự hối lộ
(Kwok & Tadesse, 2006). Những công ty đã phát triển kiến thức về cách đối phó với
tham nhũng ở nước nhà có thể giảm thiểu rủi ro và chi phí do tham nhũng ở nước ngoài.
2.3. Các nghiên cứu thực nghiệm về tham nhũng và FDI
2.3.1. Mối liên hệ giữa tham nhũng và FDI
Với việc mở rộng các hoạt động kinh doanh quốc tế cùng với việc công bố các chỉ số
tham nhũng, những nghiên cứu thực nghiệm đã được tiến hành để nghiên cứu mối liên hệ
tham nhũng của một nước nhận đầu tư với dòng vốn đầu tư vào trực tiếp nước ngoài của
quốc gia
Quan điểm của Applebaum và Katz (1987), Murphy và cộng sự (1991), Shleifer và
Vishny (1993) cho rằng trong ngắn hạn, tham nhũng làm tăng chi phí đầu tư nước ngoài
của công ty. Công ty phải trả tiền hối lộ (giống như thêm một loại thuế), họ phải bỏ tiền
để tìm kiếm thông tin giao dịch tham nhũng và họ phải chịu thêm rủi ro các giao dịch liên
quan bởi vì giao dịch tham nhũng là giao dịch không được pháp luật bảo vệ. Tham nhũng
ở nước nhận đầu tư đóng vai trò như một bàn tay nắm lại (grabbing hand) làm giảm lợi
nhuận của các doanh nghiệp và do đó làm giảm ưu đãi của một công ty đầu tư nước
ngoài. Hơn nữa, tham nhũng làm giảm năng suất của các yếu tố đầu vào cơ sở hạ tầng)
làm giảm sức hấp dẫn về địa điểm của một quốc gia (Bardhan, 1997; Rose-Ackermann,
1999; Lambsdorff, 2003).
Mặt khác, các công ty đa quốc gia có thể sẵn sàng để chấp nhận hối lộ để tăng tốc độ xử
lý hồ sơ để có được những quyền pháp lý cho việc thiết lập một nhà máy tại nước ngoài
18
Lui, 1985 và để đạt được quyền hoạt động tại các dự án tài trợ công cộng (Tanzi &
Davoodi, 2000). Trong trường hợp này, tham nhũng đóng vai trò như một àn tay gi p đỡ
helping hand , tăng lợi nhuận của các công ty đa quốc gia. Nếu những tác động doanh
thu lớn hơn những ảnh hưởng chi phí, tham nhũng được dự kiến sẽ tăng vốn FDI.
Một số nghiên cứu thực nghiệm đã cho thấy, tham nhũng có tác động tiêu cực đến dòng
vốn chảy vào các quốc gia đang phát triển, nơi hệ thống pháp luật còn nhiều kẽ hở và tính
dân chủ chưa cao. Các quốc gia đầu tư có mức độ tham nhũng thấp, chưa có kinh nghiệm
đối phó với tham nhũng, họ sẽ có tâm lý lo sợ các khoản chi phí bổ sung ngoài dự kiến
gia tăng làm lợi nhuận suy giảm, do đó họ sẽ chuyển hướng đầu tư sang quốc gia khác có
mức độ tham nhũng thấp hơn.
Nghiên cứu của Voyer và Beamish (2004), nghiên cứu gần 30 ngàn dự án của Nhật bản ở
59 quốc gia, kết quả cho thấy tại các quốc gia đang phát triển tham nhũng tác động tiêu
cực đến nguồn vốn FDI đến từ Nhật Bản và tại các quốc gia công nghiệp hóa tác động
này không thấy rõ.
Nghiên cứu của Al-Sagid (2009), tác giả đã sử dụng dữ liệu bảng của 117 quốc gia phát
triển và đang phát triển trong khoảng thời gian 1984 -2004 cho thấy tham nhũng có tác
động tiêu cực đến dòng vốn FDI trong phạm vi các nước đang phát triển, đối với các nước
có pháp luật nghiêm minh và dân chủ cao thì tác động tiêu cực này không thấy xuất hiện.
Nghiên cứu của tác giả Amarandei (2013) tập trung vào tác động của tham nhũng đối với
dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu thu thập từ 10 nước
Đông Âu trong vòng 12 năm 2000-2012. Các biến được sử dụng gồm biến FDI, GDP và
chỉ số tham nhũng. Kết quả cho thấy một mối quan hệ có ý nghĩa tiêu cực giữa tham
nhũng và FDI và một mối quan hệ có ý nghĩa tích cực nhẹ giữa GDP và FDI. Những kết
quả này có thể được giải thích bởi thực tế là các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài quyết
định đầu tư hay không sau khi đã phân tích các yếu tố tác động đến môi trường kinh
doanh.
Theo kết quả nghiên cứ của Quazi (2014) về FDI và các nước khu vực Đông Á và Nam
Á, tác giả đã sử dụng một số biến như chỉ số tự do kinh tế, chỉ số cơ sở vật chất, biến lãi
suất, biến chỉ số vốn con người. Bộ dữ liệu từ 1995-2011 gồm 7 nước Nam Á
19
(Bangladesh, Bhutan, Ấn độ, Maldives, Nepal, Pakistan và Sri Lanka và 9 nước Đông Á
(Cambodia, Trung quốc, Indonesia, Lào, Malaysia, Philippines, Hàn Quốc, Thái Lan và
Vietnam). Kết quả nghiên cứu cho thấy các yếu tố như vốn con người, chỉ số phát triển cơ
sở hạ tầng, chỉ số tự do nền kinh tế có tác động tích cực, tuy vậy yếu tố tham nhũng có tác
động tiêu cực nguồn vốn FDI của các nước.
Mặt khác, một số tác giả khác đã tìm thấy rằng tham nhũng có thể có tác động tích cực
đến nguồn vốn FDI vì nó tạo điều kiện cho các giao dịch ở những nước có quá nhiều quy
định Egger Winner, 2005 . Tham nhũng tạo ra chất ôi trơn cho các giao dịch, góp
phần th c đ y các giao dịch được nhanh hơn giảm đi chi phí phát sinh trong quá trình chờ
đợi vấn đề được giải quyết của các công ty đa quốc gia đầu tư. Nghiên cứu của Egger và
Winner (2005) về tác động của tham nhũng đến dòng vốn FDI đã sử dụng mẫu gồm 73
quốc gia phát triển và đang phát triển trong khoảng thời gian 1995-1999. Tác giả nhận
thấy rằng chất lượng pháp luật, chất lượng nguồn nhân lực và GDP thực sự tác động tích
cực đến thu hút dòng vốn FDI. Tác động của tham nhũng lên dòng vốn FDI xảy ra trong
dài hạn và làm tăng dòng vốn FDI.
Một nghiên cứu khác của Quazi và cộng sự (2014) về tác động của tham nhũng đối với
FDI tại các nước châu Phi, tác giả sử dụng dữ liệu từ 1995-2012 của 53 nước châu Phi,
trong đó các iến là FDI, chỉ số tham nhũng CPI , kích thước thị trường (marketsize), chỉ
số hiệu quả của chính phủ (government effectiveness , độ mở nền kinh tế (Economic
Openness), chỉ số tự do kinh tế (Economic Freedomm), chỉ số cơ sở vật chất
(Infrastructure). Qua nghiên cứu, tác giả nhận ra rằng tham nhũng có tác động tích cực
đến FDI của các nước châu Phi. Tham nhũng gi p ôi trơn các giao dịch, th c đ y luồng
FDI vào các nước này nhanh hơn. Tuy nhiên, tác động tích cực này chỉ tồn tại một thời
gian, khi các nước châu Phi theo kịp các khu vực khác thì tác động của tham nhũng sẽ
theo chiều hướng tiêu cực.
Tuy nhiên cũng có một vài nghiên cứu thực nghiệm vẫn không tìm thấy mối quan hệ nào
giữa hai biến tham nhũng và FDI Henisz, 2000; Wheeler Mody, 1992). Trong nghiên
cứu của Wheeler và Mody 1992 đã sử dụng sự kết hợp giữa chi phí giao dịch và các
biến thể chế bao gồm tham nhũng. Họ nhận thấy rằng tham nhũng, rủi ro chính trị, và các
20
ưu đãi ngắn hạn ít ảnh hưởng đến việc thu hút FDI của Mỹ ở nền kinh tế đang phát triển;
các nhà đầu tư ưa thích sự phát triển cơ sở hạ tầng tốt, nhà cung cấp chuyên ngành, và
một thị trường phát triển.
Henisz 2000 đã nghiên cứu hoạt động FDI của các công ty đa quốc gia Mỹ ở các nước
có rủi ro chính trị cao và kết luận rằng tham nhũng không có tác động đáng kể đến quyết
định địa điểm. Tuy nhiên, một nhược điểm rõ ràng của nghiên cứu này là Henisz (2000)
chỉ kiểm tra công ty đa quốc Mỹ mà không quan tâm đến thị trường nội địa của địa điểm
nước ngoài, điều này có thể làm ảnh hưởng đến kết quả.
Nghiên cứu của Akcay (2001) về mối quan hệ giữa tham nhũng và nguồn vốn FDI của 52
quốc gia đang phát triển đã không tìm thấy bằng chứng về ảnh hưởng của tham nhũng lên
số vốn FDI của các nước.
2.3.2. Mối liên hệ giữa chênh lệch tham nhũng và FDI
Nghiên cứu của Habib và Zurawicki 2002 đã phân tích dòng vốn FDI song phương từ 7
nước chủ đầu tư và 89 nước nhận đầu tư. Tác giả đánh giá tham nhũng theo hai cách: mức
độ tham nhũng của nước nhận đầu tư và sự khác biệt giữa mức độ tham nhũng của nước
chủ đầu tư và nước nhận đầu tư. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng mức độ tham nhũng cao của
nước nhận đầu tư sẽ ngăn cản FDI. Theo đó, các nước có mức độ tham nhũng khác nhau
tránh giao dịch với nhau và ―các công ty nước ngoài không sẵn sàng đối phó với quy
hoạch và những cạm bẫy trong quá trình hoạt động liên quan tới một môi trường có mức
độ tham nhũng khác nhau‖.
Theo Rose-Ackermamn (2008), nhấn mạnh rằng chênh lệch tham nhũng là chênh lệch
trong khu vực công giữa các nước đầu tư và các nước nhận đầu tư. Kết quả cho thấy
chênh lệch tham nhũng tác động cùng chiều với nguồn vốn FDI khi mà tham nhũng ở
nước đầu tư cao hơn nước nhận đầu tư và ngược lại.
Đáng ch ý nhất là bài nghiên cứu về mối liên hệ giữa chênh lệch tham nhũng giữa các
nước và FDI tại khu vực Mỹ La Tinh của Godinez và Liu (2013), tác giả xem xét dòng
vốn FDI đến 12 quốc gia ở Mỹ La tinh từ năm 2006-2009: Argentina, Brazil, Chile,
Colombia, Costa Rica, Ecuador, Guatemala, Honduras, Mexico, Nicaragua, Panama, and
21
Peru. Bài viết này lập luận rằng khi đầu tư ở nước ngoài, nhà đầu nước ngoài có thể bị
ảnh hưởng không chỉ bởi tham nhũng ở nước nhận đầu tư, mà còn ởi khoảng cách tham
nhũng và hướng của nó. Để tìm hiểu vấn đề này, các tác giả đề xuất hai giả thuyết. Giả
thuyết thứ nhất là tham nhũng sẽ có tác động nghịch biến đến dòng vốn FDI vào các nước
Mỹ Latinh. Giả thuyết thứ hai thì được chia thành hai phần. Phần đầu tiên đề xuất khoảng
cách tham nhũng dương sẽ có quan hệ đồng biến với dòng vốn FDI khi nước chủ đầu tư
có mức tham nhũng cao hơn nước nhận đầu tư. Trong khi đó phần thứ hai cho rằng
khoảng cách tham nhũng âm sẽ có mối quan hệ nghịch biến đến dòng vốn vào FDI.
Kết quả của các tác giả ủng hộ giả thuyết 1 và 2a dựa trên tiền đề là khoảng cách tham
nhũng sẽ tác động nghịch biến đến nhà đầu tư ở nước có mức độ tham nhũng thấp khi đầu
tư vào các nước có mức độ tham nhũng cao. Các áo cáo này dựa trên chi phí giao dịch
thấp và lợi thế sở hữu của doanh nghiệp có thể đạt được tại nước họ và có thể triển khai
lại ở nước ngoài khi đầu tư vào nước khác có môi trường thể chế tương tự. Trong khi đó,
các kết quả không chỉ ra được một ý nghĩa thống kê mạnh, chúng còn làm sáng tỏ việc
nghiên cứu về tham nhũng và những tác động đến FDI. Những kết quả này cho rằng mức
độ tham nhũng không thể ngăn cản FDI mà thay vào đó, khoảng cách tham nhũng và
phương hướng phát triển của nó có thể ảnh hưởng đến FDI. Hơn nữa, kết quả của các tác
giả không có ý nghĩa thống kê cho giả thuyết 2 . Tuy nhiên, điều này có nghĩa là các
công ty thành lập ở các nước có mức tham nhũng cao khi đi đầu tư ở nước khác thì không
bị tác động bởi mức tham nhũng ở các nước nhận đầu tư.
Hầu hết các nghiên cứu về đề tài này kết luận rằng tham nhũng ngăn cản FDI (Judge &
cộng sự, 2011). Tuy nhiên, nghiên cứu của các tác giả chỉ ra rằng tham nhũng và khoảng
cách tham nhũng có tác động khác nhau phụ thuộc vào nguồn gốc nước chủ đầu tư. Hơn
nữa, khi khoảng cách tham nhũng giữa nước chủ đầu tư có mức tham nhũng thấp và nước
nhận đầu tư có mức tham nhũng cao càng lớn thì mức FDI sẽ càng thấp. Tuy nhiên khi cả
nước nhận đầu tư và nước chủ đầu tư đều tham nhũng, khoảng cách tham nhũng không có
ảnh hưởng đáng kể đến FDI. Điều này là do các công ty quen thuộc với hoạt động tại các
nước tham nhũng cao đã tiếp thu những kiến thức để đối phó với tham nhũng ở nước
ngoài và sử dụng nó như lợi thế cụ thể của công ty (firm-specific O-advantage) (Cuervo-
22
Cazurra & Genc, 2008). Mặt khác, những công ty có trụ sở tại các nước có tham nhũng
không đáng ch ý thì phải đối mặt với chi phí cao hơn để học cách đối phó với tham
nhũng ở một vị trí nước ngoài.
Nghiên cứu này cũng nhóm các iến thể chế vào phần L của mô hình OLI để phân tích
tham nhũng ảnh hưởng đến FDI như thế nào. Một gánh nặng lớn hơn của các công ty
nước ngoài là việc tăng chi phí nghiên cứu, đàm phán và thực thi các hoạt động ở nước
ngoài, và những điều này có thể ngăn cản FDI vào địa điểm nhất định (Meyer, 2001). Do
đó, các công ty thích đầu tư vào những môi trường tương tự với đất nước của họ
Johanson Vahlne, 1977 , trong đó có thể bao gồm cả mức độ tham nhũng. Do đó các
tác giả đ y mạnh các phần L của mô hình OLI bằng cách thêm khoảng cách tham nhũng
nhưng một thước đo cho khoảng cách thể chế giữa nước nhận đầu tư và nước chủ đầu tư
trong khái niệm chi phí hoạt động ở nước ngoài.
Bằng cách phân tích dòng FDI dựa trên nguồn gốc đất nước, hoặc tính tham nhũng cao
hay thấp, là những vấn đề quan trọng nảy sinh. Bài nghiên cứu này khẳng định tham
nhũng ngăn cản thu hút FDI. Tuy nhiên, tuyên bố này có thể hợp lệ nếu nước chủ đầu tư
có mức tham nhũng thấp hơn nước nhận đầu tư đang có mức tham nhũng cao. Kết quả
này cho rằng các công ty có trụ sở ở các nước có tham nhũng thấp thì nhìn thấy tham
nhũng là nguy cơ cao và tốn k m, do đó tránh tham nhũng ở nước ngoài (Habib &
Zurawicki, 2001). Tuy nhiên tùy nguồn gốc FDI được chia vào các nước có mức tham
nhũng cao hay thấp, chúng ta có thấy rằng tham nhũng có những ảnh hưởng khác nhau
đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Các công ty có trụ sở tại các nước phát triển nói chung là không quen phải đối phó với
tham nhũng ngay trên sân nhà và họ đã kí OECD chống tham nhũng trong các giao dịch
kinh doanh quốc tế OECD, 1997 . Do đó họ đối mặt với áp lực lớn hơn để có được tính
hợp pháp từ chính phủ nước họ và trụ sở chính của họ hơn là các công ty từ những nước
có tham nhũng cao (Rose-Ackerman, 1999). Glynn và Abzug (2002) lập luận rằng để đạt
được tính hợp pháp, các doanh nghiệp phải thích ứng với bối cảnh thể chế nơi mà họ sẽ
hoạt động. Điều này có nghĩa là các công ty có trụ sở tại các nước ít tham nhũng, hay
tham nhũng không được tha thứ, thì các công ty này nên tránh tham gia vào các giao dịch
23
có tham nhũng ở nước ngoài. Mặt khác, các công ty đa quốc gia (MNEs) có trụ sở ở
những nước có sự tham nhũng cao thì đã từng hoạt động ở các nước có thể chế kém phát
triển Dawar Frost, 1999 , và không ký vào các điều luật. Vì vậy, khi đối mặt với các
tình huống tương tự ở nước ngoài, họ đã có kinh nghiệm kể đối phó những tình huống với
áp lực nhỏ từ các cổ đông; thêm vào đó, họ không có một trở ngại pháp lý để tham gia
vào các hành vi tham nhũng. Điều này có thể là lý do giải thích tại sao tham nhũng không
có tác động nghịch biến đến FDI từ những nước có tham nhũng cao đến Mỹ Latinh
Tóm lại, các nghiên cứu trước đây đã sử dụng các yếu tố liên quan đến tham nhũng,
khoảng cách tham nhũng, các yếu tố liên quan đến thể chế quốc gia và các yếu tố vĩ mô
khác để giải thích cho mức độ dòng vốn FDI chảy vào các quốc gia với những kết quả
khác nhau. Sử dụng các kết quả này, phần tiếp theo sẽ trình ày phương pháp nghiên cứu
để tìm hiểu mối quan hệ giữa các nhóm nhân tố trên với tình trạng vốn FDI ở khu vực các
nước Đông Nam Á.
24
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Mô hình nghiên cứu
Bài nghiên cứu này sử dụng một mô hình hồi quy được đề xuất bởi bài nghiên cứu của
Godinez và Liu (2013) để làm rõ mối quan hệ giữa dòng vốn FDI với các yếu tố tham
nhũng và yếu tố vĩ mô đã được thảo luận ở phần tổng quan tài liệu, cụ thể như sau:
Mô hình 1: Đánh giá tác động của mức độ tham nhũng ở nước nhận đầu tư đối với dòng
vốn FDI chảy vào chính quốc gia đó.
(1)
Mô hình 2: Đánh giá tác động của mức độ chênh lệch tham nhũng dương giữa nước đầu
tư và nước nhận đầu đối với dòng vốn FDI chảy vào quốc gia nhận đầu tư nước đầu tư ít
tham nhũng hơn nước nhận đầu tư .
(2)
Mô hình 3: Đánh giá tác động của mức độ chênh lệch tham nhũng âm giữa nước đầu tư
và nước nhận đầu đối với dòng vốn FDI chảy vào quốc gia nhận đầu tư nước đầu tư tham
nhũng nhiều hơn nước nhận đầu tư .
.
(3)
Trong đó:
25
FDI là biến phụ thuộc đại diện cho dòng vốn FDI chạy vào quốc gia i tại thời gian t.
CPIi,t là biến độc lập đại diện cho mức độ tham nhũng ở quốc gia i tại thời gian t.
Corr1i,t, Corr2i,t là biến độc lập đại diện cho các biến liên quan đến khoảng cách tham
nhũng dương và khoảng cách tham nhũng âm ở quốc gia i tại thời gian t.
Bureaucracyi,t, ecfreedomi,t, inflationi,t, infrastructi,t, unemployi,t, lngdpi,t, humani,t,
educationi,t, lawi,t là các biến độc lập đại diện cho các biến liên quan đến rủi ro chính trị
và các biến vĩ mô của quốc gia i tại thời gian t như: bộ máy quan liêu; tự do kinh tế; lạm
phát; cơ sở hạ tầng; thất nghiệp; GDP; chỉ số phát triển con người; giáo dục và luật pháp.
εi,t là sai số.
Bởi vì các biến tham nhũng có thể có sự tương quan cao, do đó ài nghiên cứu sẽ kiểm
định mối quan hệ giữa biến dòng vốn FDI với từng biến trong nhóm biến tham nhũng.
3.2. Mẫu, dữ liệu và kỳ vọng dấu
3.2.1. Mẫu nghiên cứu
Bài nghiên cứu tìm hiểu mối quan hệ giữa dòng vốn FDI chảy vào các quốc gia và các
biến liên quan đến tham nhũng cũng như các iến vĩ mô ở 9 quốc gia thuộc khu vực
ASEAN (khu vực ASEAN gồm 11 nước: Brunei; Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia,
Myanmar, Philipines; Singapore, Thái Lan, Đông Timor và Việt Nam, tuy nhiên bài
nghiên cứu loại Brunei và Đông Timor ra khỏi mẫu nghiên cứu do không đảm bảo các dữ
liệu cần thiết) trong khoảng thời gian từ năm 2001-2012. Khu vực Đông Nam Á bao gồm
các quốc gia có trình độ phát triển khác nhau, do đó đảm bảo được sự đa dạng và khả
năng nắm bắt toàn diện mức độ tác động của các nhân tố tham nhũng và các nhân tố vĩ
mô lên dòng vốn FDI. Thời gian nghiên cứu là 12 năm, từ năm 2001-2012 để xem x t đầy
đủ sự tác động của tham nhũng đối với dòng vốn FDI ở các nước trên cũng như phù hợp
với thời gian mà Ngân hàng thế giới (WB) cập nhật bộ dữ liệu đo lường thể chế quốc gia.
Như vậy, tổng cộng mẫu nghiên cứu gồm có 108 quan sát, trong đó có một số biến không
có đủ số liệu cho tất cả các năm.
3.2.2. Dữ liệu, mô tả biến và kỳ vọng dấu
3.2.2.1. Biến phụ thuộc
26
Biến phụ thuộc trong bài nghiên cứu này là biến nguồn vốn đấu tư trực tiếp nước ngoài.
Như đã trình ày cụ thể trong phần tổng quan tài liệu, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài được định nghĩa và đo lường theo nhiều cách thức khác nhau. Nguồn vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (biến LnFDI) chảy vào các nước đang phát triển ở khu vực Đông
Nam Á giai đoạn 2001-2012 là biến phụ thuộc của mô hình. Nguồn vốn FDI tính theo
đơn vị là triệu USD là giá trị tương đối lớn. Do đó, tác giả lấy logarit tự nhiên của biến
FDI nhằm giảm sự biến động về số liệu. Số liệu được tính toán và thu nhập từ Hiệp hội
Thương mại và Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNCTAD, 2014).
3.2.2.2. Biến độc lập
Nhóm biến tham nhũng:
Biến tham nhũng (CPI) là chỉ số cảm nhận tham nhũng của mỗi nước nhận đầu tư qua
các năm 2001- 2012.
Chỉ số cảm nhận tham nhũng được tổ chức Minh Bạch Quốc Tế (IT) công bố hằng năm.
Chỉ số này áp dụng cho các đối tượng khảo sát là công dân, nhà đầu tư tại các nước.
Thông qua các bảng câu hỏi đóng mở nhằm thực hiện khảo sát lấy ý kiến tình trạng tham
nhũng trong khu vực công ở nước đó như thế nào. Ưu điểm của chỉ số này là việc khảo
sát tiếp cận đa chiều với nhiều đối tượng, dễ thực hiện. Bằng bảng câu hỏi mở, người trả
lời không phải phân vân giữa đ ng và sai. Tuy nhiên, hạn chế của chỉ số này việc lựa
chọn ngẫu nhiên người được hỏi và kết quả thu nhập mang vào tính chủ quan và kém tin
cậy đối với các nước hạn chế nguồn thông tin. Chỉ số cảm nhận tham nhũng phụ thuộc
nhiều yếu tố khác nhau: Chế độ xã hội, hệ thống pháp luật. Ví dụ: một hành vi biếu quà ở
nước này được đánh giá là hành vi hối lộ nhưng đối với nước khác thì đó là điều bình
thường, món quà đó chưa ở mức độ bị đánh giá là tiền đi hối lộ. Tuy còn nhiều hạn chế
như vậy nhưng trong các nghiên cứu gần đây Amarandei, 2013; Godinez & Liu, 2013;
Quazi, 2014; Quazi & cộng sự, 2014) chỉ số CPI được sử dụng phổ biến để đo lường mức
độ tham nhũng của từng nước. Chỉ số này được sắp xếp từ 0 đến 10, tương ứng với mức
độ tham nhũng từ cao xuống thấp. Nước được xếp ở mức độ 0 là nước tham nhũng cao
nhất còn nước được đánh giá ở mức độ 10 là nước trong sạch.
27
Chênh lệch tham nhũng là kết quả của phép tính lấy chỉ số cảm nhận tham nhũng của
nước đầu tư trừ đi chỉ số cảm nhận tham nhũng của nước nhận đầu tư.
Chênh lệch tham nhũng dƣơng là chỉ số cảm nhận tham nhũng ở nước đầu tư cao hơn
nước nhận đầu tư, có nghĩa là nước đầu tư được đánh giá là trong sạch hơn nước nhận đầu
tư. Biến chênh lệch tham nhũng dương corr1 là giá trị trung bình của tất các chênh lệch
tham nhũng dương giữa các nước đầu tư với nước nhận đầu tư.
Chênh lệch tham nhũng âm là chỉ số cảm nhận tham nhũng ở nước đầu tư thấp hơn
nước nhận đầu tư, có nghĩa là nước đầu tư được cho rằng tham nhũng nhiều hơn nước
nhận đầu tư. Biến chênh lệch tham nhũng âm corr2 là giá trị trung bình của tất các
chênh lệch tham nhũng âm giữa các nước đầu tư vào nước nhận đầu tư.
Các biến kiểm soát:
- Biến chỉ số phát triển con ngƣời (human) phản ánh sự phát triển của con người trên
a phương diện chính là: thu nhập phản ánh mức sống được thể hiện dưới chỉ tiêu
GDP ình quân đầu người, tri thức phản ánh trình độ học vấn thể hiện qua chỉ số giáo
dục và sức khỏe phản ánh độ dài cuộc sống thể hiện qua tiêu chí tuổi thọ trung bình
của nước nhận đầu tư. Chỉ số phát triển con người được lấy từ chương trình phát triển
liên hiệp quốc (UNDP). Biến này thu thập được ở một số năm 2005, năm 2008, năm
2010, năm 2011 và năm 2012
- Biến chỉ số pháp quyền (Law) là biến phản ánh chất lượng của việc thực thi hợp
đồng, quyền sở hữu, cảnh sát, và các tòa án, cũng như khả năng xảy ra của việc phạm
tội và bạo lực của nước nhận đầu tư. Được đánh giá từ 0 not existent đến 100
(excellent). Số liệu được tổng hợp bởi Ngân hàng thế giới (WB)
- Biến chỉ số quan liêu (Bureucracy) thể hiện thời gian để thực hiện các quy trình, thủ
tục cho việc thành lập một doanh nghiệp. Số liệu được lấy từ bộ dữ liệu của Ngân
hàng thế giới.
- Biến chỉ số cơ sở hạ tầng (Infrastruct) là chỉ số phát triển đô thị, số liệu thu thập dựa
trên tỉ lệ người sử dụng Internet của nước nhận đầu tư. Chỉ số này lấy từ bộ dữ liệu
được cung cấp bởi tổ chức Ngân hàng thế giới
28
- Biến chỉ số tự do kinh tế (EcFreedom) là biến sử dụng để đo lường các biện pháp
thương mại, tài chính và chính sách tiền tệ của nước nhận đầu tư. Chỉ số này được thể
hiện độ mở cửa thương mại, mức độ phát triển tài chính và chính sách nới lỏng tiền tệ.
Chỉ số này khảo sát dựa vào bốn tiêu chí chính: Hệ thống pháp luật có đủ hiệu quả và
công bằng trong bảo vệ tài sản người dân không? Tình hình tham nhũng thế nào; Độ
can thiệp của chính phủ, chính phủ thuế cao hay thấp, chi tiêu chính phủ có nằm trong
tầm kiếm soát hay không? Năng lực kiểm soát nền kinh tế các chính sách kinh tế được
kiểm soát như thế nào, lạm pháp được kiểm soát như thế nào? Giá cả có ổn định
không? Độ mở của thị trường: Hàng hóa có được giao dịch tự do không? Các cá nhân
hay đầu tư tiền vào đâu và đầu tư đâu thì có lợi nhất? Môi trường ngân hàng có cởi mở
và khuyến khích cạnh tranh không? Biến số có giá trị từ 0 existent đến 100
(excellent). Số liệu về chỉ số tự do kinh tế lấy từ công bố hằng năm của Quỹ di sản
(Heritage Foundation).
- Biến chỉ số giáo dục (Education) được đánh giá ằng tỉ lệ số người trong độ tuổi học
đại học được học đại học tại nước nhận đầu tư. Chỉ số này lấy từ bộ dữ liệu được cung
cấp bởi tổ chức ngân hàng thế giới
- Biến tỷ lệ lạm phát (Inflation) là tỷ lệ phần trăm thay đổi hàng năm trong chỉ số giá
tiêu dùng của nước nhận đầu tư. Số liệu được lấy từ tổ chức ngân hàng thế giới
- Biến logarit tổng GDP (LnGDP) sử dụng để đo lường sức mua của nước nhận đầu
tư. Tương tự như số liệu của FDI, GDP được lấy logarit để nhằm giảm thiếu sai số. Số
liệu GDP được lấy từ tổ chức Ngân hàng thế giới
- Biến tỷ lệ thất nghiệp (Unemployment) thể hiện tình trạng người lao động trong độ
tuổi lao động muốn có việc làm nhưng vẫn chưa tìm được việc làm. Số liệu này được
lấy từ nguồn dữ liệu của Ngân hàng Thế giới.
Kỳ vọng dấu của các biến nêu trên được trình bày chi tiết ở bảng 3.1, chi tiết như sau:
29
Bảng 3.1. Bảng tổng hợp các biến sử dụng trong mô hình nghiên cứu
Kỳ Loại Biến Cách đo lƣờng Nguồn vọng biến dấu
Dòng FDI vào bên trong các quốc gia, Ln(FDI) Biến
được đo ằng logarit tự nhiên (ln) UNCTAD phụ
thuộc
Từ 0 tham nhũng cao đến 10 (không Tham
có tham nhũng nhũng TI -
(corr)
Khoảng Giá trị của mức độ tham nhũng trung
cách tham bình giữa nước chủ đầu tư và nước
nhận đầu tư trong trường hợp nước nhũng 1 TI - Biến
nhận đầu tư có mức tham nhũng cao độc lập (Corr1) hơn so với các nước chủ đầu tư
Khoảng Giá trị của mức độ tham nhũng trung
cách tham bình giữa nước đầu tư và nước nhận
nhũng2 đầu tư trong trường hợp nước nhận đầu TI +
tư có mức tham nhũng thấp hơn so với (Corr2)
các nước chủ đầu tư
Chỉ số phát Sự kết hợp của a ph p đo lường: GDP Các
triển con ình quân đầu người, giáo dục và tuổi biến UNDP +/- người thọ trung bình. Có giá trị từ 0 (không kiểm
(Human) tồn tại đến 100 (rất tốt) soát
30
Chỉ số pháp Chất lượng của thước đo trong việc
thực thi hợp đồng, quyền sở hữu, cảnh quyền
sát, và các tòa án, cũng như khả năng WB +/- (Law) xảy ra của việc phạm tội và bạo lực. Từ
0 not existent đến 100 (excellent)
Bộ máy Xếp hạng các quốc gia dựa trên thời
gian trung ình để bắt đầu việc kinh quan liêu
WB +/- doanh (Bureucrac
y)
Chất lượng Chỉ số phát triển đô thị (urban
development index căn cứ vào tỷ lệ cơ sở
người sử dụng internet. (Infrastruct WB +/-
)
Chỉ số tự Bao gồm chính sách tài khóa, ngoại
do kinh tế thương và tiền tệ. Từ 0 existent đến Heritage +/- (EcFreedo 100 (excellent). Foundation
m)
Trình độ Tổng số sinh viên trong độ tuổi đại học
học vấn tham gia vào giáo dục đại học WB +/-
(Education)
Lạm phát Phần trăm thay đổi hàng năm trong chỉ WB +/- của nước số giá tiêu dùng
31
nhận đầu tư
(Inflation)
GDP nước Logarit tự nhiên (ln) GDP của một WB +/- nhận đầu tư quốc gia
Tỷ lệ thất Tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động
nghiệp không có việc làm
WB +/-
(Unemploy
ment)
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp
3.2.3. Giả thuyết nghiên cứu
Dựa trên các lý thuyết về mối quan hệ giữa tham nhũng và dòng vốn FDI cũng như kết
quả các bài nghiên cứu thực nghiệm trước đây, câu hỏi nghiên cứu, mô hình và kỳ vọng
dấu của các biến, bài nghiên cứu này đưa ra các giả thuyết nghiên cứu như sau:
Giả thuyết H1: Tham nhũng của nƣớc nhận đầu tƣ sẽ nghịch biến với dòng FDI.
Giả thuyết H2: Xu hƣớng khoảng cách tham nhũng có tác động tới dòng FDI
Giả thuyết H2a: Khi khoảng cách tham nhũng là dương giữa nước đầu tư và nước nhận
đầu tư, FDI chảy vào nước nhận đầu tư có nhiều khả năng sẽ giảm.
Giả thuyết H2b: Khi khoảng cách tham nhũng là âm giữa nước đầu tư và nước nhận đầu
tư, FDI chảy vào nước nhận đầu tư có nhiều khả năng sẽ tăng
Hình 3.1 cho thấy khoảng cách tham nhũng và tác động của nó lên FDI. Phần trên đại
diện cho tình huống trong đó nước đầu tư thường là nước phát triển) có mức độ tham
nhũng tương đối thấp bị cản trở đầu tư vào nước có tham nhũng cao hơn thường là nước
đang phát triển). Vì vậy, công ty đa quốc gia dự kiến sẽ gặp khó khăn do sự không chắc
chắn chi phí tham gia vào tham nhũng địa phương và để có được đồng thời duy trì tính
hợp pháp. Chi phí tách mình khỏi sự can thiệp của chính phủ là cao.
32
Mặt khác phần dưới của hình cho thấy FDI từ các nước có mức độ tham nhũng cao đến
các nước nhận đầu tư có mức độ tham nhũng thấp hơn. Trong trường hợp này, các công ty
đa quốc gia cảm thấy ít bị áp lực bởi rủi ro thể chế hơn, vì họ đã tham gia vào quá trình
lâu dài và tốn k m để phát triển kiến thức về cách đối phó với tham nhũng tại nước nhà và
có thể sử dụng lợi ích mà họ học được từ tham gia các cơ quan tham nhũng tại chính
quốc.
Hình 3.1. Giả thuyết của bài nghiên cứu
H2A
Tham nhũng nƣớc chủ đầu tƣ thấp hơn
Nghịch biến đến FDI
Khoảng cách tham nhũng dƣơng
FDI
Tham nhũng nƣớc nhận đầu tƣ
H1
Khoảng cách tham nhũng âm
Đồng biến đến FDI
Tham nhũng nƣớc chủ đầu tƣ cao hơn
H2B
Nguồn: Godinez & Liu (2013) và tác giả tự nghiên cứu
3.3. Phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu sử dụng kết hợp hai phương pháp chính như sau:
Đầu tiên, tác giả thực hiện phương pháp thống kê mô tả bằng cách tổng hợp, phân tích số
liệu về FDI, chỉ số cảm nhận tham nhũng, chênh lệch tham nhũng và các iến kiểm soát
như chỉ số phát triển con người, biến luật pháp, biến quan liêu, biến chỉ số tự do kinh tế,
biến lạm phát, biến phát triển cơ sở hạ tầng, biến thất nghiệp và biến GDP lấy từ nguồn
33
dữ liệu của Tổ chức ngân hàng thế giới, Liên hiệp Quốc, Quỹ Di sản thế giới, Hiệp Hội
Thương Mại và phát triển Liên hiệp Quốc và Tổ chức Minh Bạch thế giới
Tiếp theo, tác giả thực hiện phương pháp nghiên cứu thực nghiệm. Để lượng hóa các tác
động các yếu tố ảnh hưởng đến việc thu hút nguồn vốn FDI vào khu vực các nước Đông
Nam Á, đề tài phân tích dữ liệu bảng, tính toán và chạy các mô hình hồi quy theo trình tự
như sau: Mô hình hiệu ứng cố định (Fixed effect model - FEM) và mô hình hiệu ứng ngẫu
nhiên (Random effect model - REM) nhằm ước lượng tác động của tham nhũng, chênh
lệch tham nhũng đến lượng vốn FDI vào các nước.
Theo Gujarati (1995), việc sử dụng dữ liệu bảng để phân tích có một số ưu điểm so với dữ
liệu chéo hoặc dữ liệu chuỗi thời gian như: Thứ nhất, dữ liệu bảng xem xét thông tin các
quốc gia trong thời gian nhiều năm nên sẽ có tính không đồng nhất trong các đơn vị này.
Các kỹ thuật dựa trên dữ liệu bảng có thể tính đến tính không đồng nhất này một cách rõ
ràng. Thứ hai, bằng cách kết hợp chuỗi thời gian của các quan sát chéo, dữ liệu bảng cho
ta dữ liệu chứa nhiều thông tin hơn, tính iến thiên nhiều hơn, giảm hiện tượng đa cộng
tuyến, tăng ậc tự do và hiệu quả cao hơn. Thứ ba, việc nghiên cứu lặp đi lặp lại các quan
sát dữ liệu chéo theo thời gian, dữ liệu bảng sẽ phù hợp hơn cho việc nghiên cứu sự năng
động của các thay đổi theo thời gian của nhiều đối tượng khác nhau. Thứ tư, dữ liệu bảng
gi p theo dõi và đo lường những tác động mà dữ liệu chéo hoặc dữ liệu chuỗi thời gian
thuần túy không thể quan sát hết được, giúp nghiên cứu các mô hình phức tạp hơn. Thứ
năm, việc kết hợp yếu tố không gian và thời gian sẽ gi p tăng số quan sát lên đáng kể,
làm giảm các sai số ngẫu nhiên có thể xảy ra trong việc phân tích các mô hình. Tóm lại,
nhờ những ưu điểm trên, việc sử dụng dữ liệu bảng trong các ô hình nghiên cứu của đề tài
được kỳ vọng có thể đem lại hiệu quả cao hơn.
Mô hình hiệu ứng cố định (Fixed effect model - FEM) xem xét ảnh hưởng của các
nhân tố cố định, có thể xét mô hình ảnh hưởng cố định theo nước hoặc theo thời gian hoặc
cố định cả hai nhân tố. Nhược điểm của FEM là giảm bậc tự do của mô hình, đặc biệt khi
số biến giả lớn.
34
Mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên (Random effect model-REM) được sử dụng khi chúng
ta quan tâm đến sự khác biệt của các nước ảnh hưởng đến mô hình chung. Sự khác biệt về
điều kiện đặc thù của các nước này được chứa đựng trong phần sai số ngẫu nhiên.
Kiểm định lựa chọn mô hình phù hợp:
Mỗi mô hình đều có những ưu, nhược điểm riêng, việc lựa chọn mô hình FEM hay REM
phụ thuộc vào sự khác nhau về tung độ gốc của mô hình hồi quy đối với mỗi nước và sự
khác biệt này có tương quan với biến độc lập trong mô hình hay không. Vì vậy, để lựa
chọn mô hình nào phù hợp và hiệu quả nhất trong hai mô hình bài nghiên cứu đề cập, tác
giả thực hiện kiểm định Hausman để lựa chọn mô hình. Sau khi ước lượng với FEM và
REM, sử dụng kiểm định Hausman Hausman, 1978 dưới giả thuyết H0: Cov(Xit, ui) =
0. Nếu kết quả không bác bỏ H0 nghĩa là ước lượng REM và FEM đều vững, nhưng chỉ
có REM là hiệu quả.
Kiểm định đa cộng tuyến:
Một mô hình lý tưởng là các biến độc lập không có tương quan với nhau, mỗi biến chứa
đựng một số thông tin riêng về biến phụ thuộc và thông tin đó không có trong iến độc
lập khác. Khi đó hệ số hồi quy riêng cho biến ảnh hưởng đến từng biến độc lập đối với
biến phụ thuộc trong điều kiện các biến độc lập còn lại không đổi. Có nhiều nguyên nhân
dẫn đến đa cộng tuyến, trong đó một số nguyên nhân chính như: do phương pháp thu thập
số liệu (mẫu không đặc trưng cho tổng thể, do bản chất của các mối quan hệ giữa các biến
đã ngầm chứa hiện tượng đa cộng tuyến, do đặc trưng của mô hình, do mô hình xác định
quá mức (số biến giải thích nhiều hơn cỡ mẫu).
Trong dữ liệu bảng, dữ liệu nghiên cứu gồm các quan sát ở các nước khác nhau, trong
khoảng thời gian 12 năm 2001-2012) nên có thể dẫn đến hiện tượng đa cộng tuyến và
phương sai thay đổi. Để tăng độ tin cậy của ước lượng, đề tài sử dụng ma trận hệ số tương
quan và nhân tử phóng đại VIF để kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến trong mô hình
nghiên cứu. Kết quả kiểm định nếu hệ số ma trận tương quan quan hơn 0,8 hoặc hệ số
phóng đại phương sai của các biến giải thích đều hơn 10, có nghĩa tồn tại mối quan hệ
tuyến tính rất nhỏ giữa các biến giải thích trong mô hình (hiện tượng đa cộng tuyến không
hoàn hảo, có thể chấp nhận trong mô hình . Ngược lại mô hình sẽ bị đa cộng tuyến.
35
3.4. Quy trình nghiên cứu
Để thực hiện nghiên cứu, bài nghiên cứu tiến hành các hoạt động nghiên cứu theo trình tự
các ước trong hình 3.1, cụ thể được trình ày như sau: Thứ nhất, bài nghiên cứu trình
bày về vấn đề nghiên cứu; Thứ hai, tác giả trình bày về cơ sở lý luận của vấn đề nghiên
cứu bằng việc xem xét các lý thuyết liên quan đến lượng vốn FDI và tham nhũng, chênh
lệch tham nhũng giữa các nước. Đồng thời, xem xét các nghiên cứu thực nghiệm đã được
thực hiện trong và ngoài nước liên quan đến đề tài; Tiếp đến, tác giả trình ày phương
pháp nghiên cứu. Dựa trên cơ sở các lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm đã được xem
xét ở ước hai, tác giả xây dựng mô hình kinh tế lượng, mô tả biến và dữ liệu được sử
dụng để thực hiện nghiên cứu. Đồng thời, tác giả cũng xây dựng quy trình nghiên cứu cho
đề tài; Thứ tư, tác giả thực hiện thống kê mô tả dữ liệu để xem xét một cách tổng quan về
dữ liệu và mối tương quan giữa các biến trong mô hình thông qua đồ thị cũng như ma trận
hệ số tương quan; Thứ năm, tác giả tiến hành kiểm định đa cộng tuyến của các biến trong
mẫu (thông qua ma trận hệ số tương quan và hệ số phóng đại phương sai VIF . Trường
hợp nếu có đa cộng tuyến, tác giả tiến hành điều chỉnh lại mô hình cho đến khi không còn
hiện tượng này; Thứ sáu, tác giả thực hiện hồi quy và phân tích dữ liệu với hai mô hình
sau: Mô hình hiệu ứng cố định (FEM) và mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên (REM); Thứ bảy,
tác giả tiến hành kiểm định lựa chọn mô hình phù hợp trong đề tài nghiên cứu: sử dụng
kiểm định Hausman Hausman, 1978 để lựa chọn giữa mô hình FEM và mô hình REM;
Thứ tám, sau khi lựa chọn được mô hình phù hợp, tác giả hồi quy lại và bổ sung thêm
ro ust error để làm vững hơn kết quả của mô hình; Cuối cùng, tác giả giải thích và đánh
giá kết quả hồi quy.
Lưu đồ Quy trình nghiên cứu được trình bày ở Hình 3.2 dưới đây
36
Hình 3.2. Lƣu đồ Quy trình nghiên cứu
1. Vấn đề nghiên cứu
2. Tổng quan lý thuyết
3. Phương pháp nghiên cứu
4. Thống kê mô tả
Mean VIF < 10
Không có đa cộng tuyến
Đa cộng tuyến VIF
5. Kiểm định đa cộng tuyến
và điều chỉnh lại mô hình
Mean VIF > 10
Đa cộng tuyến
6. Hồi quy với mô hình
Fix Effect và Random Effect
Chọn FEM
P-Value < 0.1
Kiểm định Hausman
7. Kiểm định lựa chọn
P-Value > 0.1
mô hình phù hợp
Chọn REM
8. Hồi quy mô hình được lựa chọn, bổ sung
ro ust error để làm vững thêm mô hình
Nguồn: Tác giả tự nghiên cứu
9. Giải thích, đánh giá kết quả hồi quy
37
CHƢƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Phần tiếp theo sẽ trình bày, phân tích và thảo luận về kết quả thực nghiệm của đề tài. Phần
này gồm ba nội dung chính. Nội dung thứ nhất sẽ trình bày tổng quan về tình hình thu hút
vốn FDI và tham nhũng của các nước khu vực Đông Nam Á. Nội dung thứ hai sẽ phân
tích thống kê mô tả, mối tương quan giữa các biến trong mô hình và thực hiện các kiểm
định cần thiết. Cuối cùng, phần này sẽ trình bày về kết quả hồi quy kinh tế lượng.
4.1. Đánh giá tổng quan thực trạng tham nhũng và dòng vốn FDI vào các nước khu
vực Đông Nam Á
4.1.1. Nguồn vốn FDI trong khu vực Đông Nám Á
Khu vực Đông Nam Á hiện đang có một nền kinh tế năng động. Tổ chức hợp tác kinh tế
(OECD) dự báo, mức tăng trưởng kinh tế trung bình từ năm 2013 -2017 của 10 nước
ASEAN sẽ đạt 5,5%. Dự báo của Ngân hàng phát triển châu Á ADB tăng trưởng GDP
Đông Nam Á sẽ vượt mức 4,4% năm 2015, lên 4,5% năm 2016 và 4,8 % năm 2017. Các
nước đã thực hiện các biện pháp để cải thiện môi trường đầu tư, tăng tính minh ạch, cải
cách thể chế chính sách, tạo nhiều ưu đãi về thuế quan, tinh giảm các thủ tục hành chính,
thành lập các khu kinh tế, phát triển cơ sở hạ tầng. Ngoài ra, các nước Đông Nam Á đã
đang và sẽ tham gia các hiệp ước hợp tác đầu tư song phương, đa phương và khu vực như
khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á ASEAN Free Trade Area - AFTA), cộng đồng
kinh tế khu vực Đông Nam Á ASEAN Economic Community – AEC), Hội nghị Liên
hiệp quốc tế về Thương mại và phát triển (Trans-Pacific Partnership – TTP). Cùng với đó
lợi thế về vị trí địa lý, nguồn tài nguyên phong ph và lượng lực lao động rẻ, các nước đã
tạo nhiều thuận lợi để các công ty đa quốc gia đầu tư vào khu vực.
38
Biểu đồ 4.1. Biều đồ thể hiện lƣợng FDI vào khu vực Đông Nam Á qua các năm từ
2001 đến 2012
60000
Brunei
50000
Cambodia
Indonesia
40000
Laos
30000
Malaysia
Myanmar
20000
Philippines
10000
Singapore
Thailand
0
Viet Nam
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
-10000
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ nguồn UNTACD
Xét trong khoảng thời gian từ năm 2001 đến năm 2012, dòng vốn FDI trong khu vực
Đông Nam Á có xu hướng tăng. Giai đoạn năm 2007, 2008 do chịu ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tài chính lượng FDI có giảm, nhưng các năm sau đó dòng FDI đã được cải
thiện đáng kể. Năm 2012, trong khi FDI toàn cầu và các khu vực khác giảm thì FDI chảy
vào khu vực Đông Nam Á tiếp tục tăng 2% và lên đến 108 tỷ đô la. Singapore là nước thu
hút dòng FDI lớn nhất, năm 2012 là 56,659 tỷ đô la, trong khi đó Lào là nước thu hút FDI
thấp nhất với khoảng 294 triệu đô la. Việt Nam năm 2001 thu h t được 1,3 tỷ đô la, năm
2012 là 8,368 tỷ đô la, tăng 543% so với năm 2001. Tuy nhiên, trong năm 2012 so với các
nước trong khu vực Việt Nam vẫn thua Thái Lan với 9,168 tỷ đô la Maylaysia 9,238 tỷ đô
la, Indonesia 19,137 tỷ đô la và Singapore 56,659 tỷ đô la.
Dòng FDI đang có xu hướng dịch chuyển vào các nước ở khu vực ASEAN. Trong báo
cáo ―Cuộc dịch chuyển vĩ đại: FDI đã chuyển hướng sang các nước Đông Nam Á và Ấn
Độ như thế nào?‖ của ngân hàng HSBC (2013) có nhận định. Trước khủng hoảng tài
chính châu Á, dòng vốn vào ASEAN rất lớn, chiếm khoảng 8% tổng nguồn vốn lưu
chuyển trên thế giới. Trong năm năm sau khủng hoảng, dòng vốn này giảm khoảng 2%
trên tổng vốn lưu chuyển trên thế giới. Nhưng trong hai năm 2012, 2013 các nhà đầu tư
đã quay lại ASEAN bởi cả hai lý do: tiềm năng tăng trưởng và lợi thế chi phí rẻ. Với sự
39
tăng trưởng nhân kh u học tương đối tốt hơn, phần vốn FDI vào ASEAN sẽ có khả năng
tăng lên trong thập kỷ tới.
Xét về nguồn gốc của lượng FDI chảy vào khu vực Đông Nam Á thì hai phần a lượng
đến từ những nước có nền kinh tế phát triển như Liên minh châu Âu EU , Nhật Bản, Mỹ,
Trung Quốc. Ngoài ra còn đến từ nội bộ khối ASEAN. Tổng lượng FDI đến từ EU trong
khoảng thời gian từ 2001 đến 2012 là 140,483 tỷ đô la, đến từ Mỹ là 53,352 tỷ đô la, đến
từ Nhật Bản là 88,306 tỷ đô la, Trung quốc 33,026 tỷ đô la và trong nội bộ khối ASEAN
là 102,392 tỷ đô la.
Tóm lại, cùng với sự phát triển của nền kinh tế ở khu vực ASEAN, nguồn vốn FDI luôn
được coi là nguồn vốn quan trọng. Nguồn vốn tạo động lực th c đ y cải thiện môi trường
đầu tư trong nước, cơ hội để các nước tiếp cận công nghệ mới, cải thiện sản xuất, gia tăng
hiệu quả lao động. Các nước khu vực Đông Nam Á đã đang có nhiều chính sách để thu
hút nguồn vốn này, và Đông Nam Á cũng đang là điểm đến của dòng vốn quan trọng này.
40
Bảng 4.1 Tình hình thu hút FDI ở các khu vực trên thế giới, từ giai đoạn 2001 đến 2012 ( triệu USD)
YEAR
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
Thế giới
684070.9
591385.7
551992.6
682749.3
927402.3
1393034
1871702
1489732
1186513
1328215
1564935
1403115
Các nền kinh tế phát triển
460725.9
414570.2
337648.1
389511.8
565423.2
930174.6
1254988
787760.8
652306.2
673223.4
828446.7
678960.2
215594.2
166731.8
196307.7
264079.9
330178
403881.1
528535.5
585647.3
463637
579890.6
639135.2
639021.5
Các nền kinh tế đang phát triển
Châu Phi
19947.47
14693.05
18230.83
17737.8
29505.55
34528.28
50206.3
57769.55
54379.24
44072.22
47704.97
56435.44
Châu Mỹ La tinh và Caribe
72636.81
56156.1
46122.04
68009.37
75344.92
73480.42
116593.5
137681.1
83513.58
131727.1
163867.7
178049.3
Châu Á
122807
95755.78
131603.7
177939.2
224983.4
294410.2
360562
387838.5
323792.5
401851.2
425308.2
400839.6
Đông Á
86788.75
63764.19
79500.5
105750.7
123211
132988.1
161264.4
186726.2
163839.7
201824.6
233878
212428.3
Nam Á
6837.045
10575.17
8419.245
10874.78
14182.11
28589.53
34557.48
56655.47
42403.42
35024.13
44538.99
32414.63
Đông Nam Á
21866.67
17006.96
31352.16
40151.11
43176.04
64558.06
85974.66
50307.38
46134.08
105150.8
93535.37
108135
Tây Á
7314.556
4409.464
12331.78
21162.51
44414.27
68274.54
78765.47
94149.43
71415.3
59851.69
53355.83
47861.68
Châu Đại dương
202.9195
126.9124
351.1081
393.5909
344.1983
1462.148
1173.745
2358.188
1951.625
2240.075
2254.282
3697.198
Các nền kinh tế chuyển đổi
7750.781
10083.61
18036.82
29157.6
31801.1
58977.95
88177.77
116324
70569.71
75101.29
97352.78
85133.74
Nguồn: UNCTAD
41
Bảng 4.2: Lƣợng FDI chảy vào khu vực Đông Nam Á, giai đoạn 2001-2012 (triệu USD
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
526.4257
1035.528
3298.074
205.6085
289.4836
434.0295
260.1671
322.5866
370.0819
480.7225
691.1703
864.905528
Brunei
149.397
145.106
83.981
131.416
381.18
483.209
867.289
845.2758
928.3936
1342.161
1372.48
1835.22268
Cambodia
-2977.39
146.032
-596.92
1896.083
8336.257
4914.221
6928.471
9318.454
4877.369
13770.58
19241.25
19137.873
Indonesia
23.9
4.5
19.4
17
27.7
187.4
323.5
227.7
189.5
278.8
300.75
294.38
Laos
553.9474
3203.421
2473.158
4624.211
4065.311
6060.253
8594.666
7171.828
1452.972
9060.042
12197.58
9238.83061
Malaysia
15.29
17.709
1855.15
729.93
110.35
724.245
2.194
603.425
27.15
6669.403
1117.686
496.877
Myanmar
195
1542
491
688
1854
2921
2916
1544
1963
1298
1852
2033
Philippines
17006.9
6157.244
17051.45
24390.29
18090.3
36923.97
47733.26
12200.71
23821.29
55075.8
48001.72
56659.2248
Singapore
5073.202
3355.416
5222.348
5858.576
8066.551
9501.254
11359.42
8454.701
4854.395
9146.777
1194.667
9168.14963
Thailand
1300
1400
1450
1610
1954
2400
6981
9578.997
7600
8000
7519
8368
Viet Nam
Nguồn: UNCTAD
42
4.1.2. Thực trạng tham nhũng của các nước trong khu vực Đông Nam Á
Hằng năm, Tổ chức minh bạch quốc tế (Transparency International - TI đều công bố
bảng xếp hạng chỉ số cảm nhận tham nhũng (Corruption Perception Index - CPI các nước
trong khu vực Đông Nam Á hiện diện đầy đủ ở cả các nhóm nước tham nhũng ít nhất thế
giới (Singapore) và nhiều nhất trên thế giới (Myanmar, Campuchia). Theo báo cáo công
bố ngày 24 tháng 04 năm 2014 của tổ chức Minh bạch Quốc tế đã đưa ra lời cảnh báo:
vấn nạn tham nhũng tại Đông Nam Á đe dọa sẽ làm suy yếu các kế hoạch th c đ y hội
nhập kinh tế trong khu vực. Tham nhũng là một vấn nạn đối với các quốc gia ASEAN.
Theo chỉ số cảm nhận tham nhũng CPI năm 2014, 9 quốc gia trong khu vực chỉ đạt
điểm số trung ình là 3,8/10 trong đó 10 là rất trong sạch và 0 đồng nghĩa với tham
nhũng nghiêm trọng). Khoảng 50% người dân ASEAN khi được hỏi đã cho rằng tình
trạng tham nhũng vẫn tiếp tục tăng, và chỉ có 1/3 đánh giá các nỗ lực chống tham nhũng
của chính phủ là có hiệu quả.
Biểu đồ 4.2. Biểu đồ thể hiện chỉ số tham nhũng của các nƣớc qua các năm từ 2001
đến 2012
10
9
Cambodia
8
Indonesia
7
Laos
6
Malaysia
5
Myanmar
4
Philippines
3
Singapore
2
Thailand
1
Viet Nam
0
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ TI
Xét trong khoảng thời gian từ năm 2001 đến năm 2012, chỉ số cảm nhận tham nhũng
trung bình ở các nước khu vực Đông Nam Á là 3,64. Có thể nhận thấy, ở khu vực này
mức độ tham nhũng tương đối cao.
43
Chỉ số cảm nhận tham nhũng ở Malaysia có xu hướng xấu đi. Năm 2001, Malaysia là 5
điểm và giảm dần xuống còn 4,3 năm 2011 năm 2012 được cải thiện lên 4,9 điểm. Tuy
nhiên chỉ số này vẫn được xem là khá tốt so với các nước còn lại trong khu vực, trừ
Singapore.
Trong khi đó, có sự tiến bộ lớn ở khu vực Đông Nam Á thuộc về Indonesia. Với 1,9 điểm
năm 2001, còn đứng sau cả Việt Nam 2,6 điểm) và Philipin 2,9 điểm). Tới năm 2012
Indonesia đã đạt 3,2 điểm trên cả Việt Nam và Philipin. Kết quả này đến từ những nỗ lực
không ngừng của chính phủ Indonesia. Năm 2003, Ủy ban bài trừ tham nhũng Indonesia
KPK được thành lập. Ủy an này trong vòng 4 năm làm việc đã đưa hơn 70 quan chức
cấp cao vào tù, kết án ít nhất là 4 năm đối với mỗi trường hợp bị khởi tố. Trong năm
2008, Indonesia cũng đã thành lập một trường chống tham nhũng mang tên Pangieran
Diponegoro, trường nhằm xây dựng một thế hệ trẻ có đức tính trung thực và ý thức bài trừ
tham nhũng. Cùng với các cải cách mạnh mẽ trong lực lượng cảnh sát, trong ngành tư
pháp, đặc biệt là các đạo luật mới đã tạo chuyển biến rõ rệt trong chính phủ Indonesia.
Người dân tin tưởng và hỗ trợ chính phủ trong việc điều tra các vụ án tham nhũng (Hoàng
Thư, 2012)
Các nước trong khu vực hầu như không có thay đổi lớn. Singapore vẫn là nước có mức độ
tham nhũng thuộc hàng thấp nhất trên thế giới, luôn là một trong năm nước có chỉ số xếp
hạng cao nhất do TI công bố. Myanmar vẫn là nước có chỉ số cảm nhận tham nhũng thấp.
Năm 2003 là 1,6 năm 2012 là 1,3. Đối với Việt Nam chỉ số cảm nhận tham nhũng có
được cải thiện nhưng không đáng kể, năm 2001 là 2,6 điểm, năm 2008 là 2,7 điểm, năm
2012 là 3,1 điểm. Những biện pháp để cải thiện tình trạng tham nhũng ở Việt Nam dường
như chưa đem lại kết quả cho xã hội.
Nhìn chung, tình trạng tham nhũng ở các nước ASEAN có xu hướng cải thiện dần qua các
năm nhưng không đáng kể, năm 2007 là 3,37 điểm, năm 2010 là 3,41 điểm năm 2012 là
3,63 điểm. Do đó, để tạo điều kiện môi trường đầu tư thuận lợi đòi hỏi các nước phải nỗ
lực cải thiện hệ thống pháp luật, thể chế chính sách giảm dần tình trạng tham nhũng trong
khu vực. Đồng thời, các quốc gia trong khu vực nên học hỏi mô hình cải thiện tình hình
tham nhũng ở Indonesia và hệ thống dịch vụ công của Singapore. Singapore được đánh
44
giá là một trong những nước có hệ thống dịch vụ công trong sạch và hiệu quả nhất thế
giới.
Thông qua việc đánh giá tổng quan số liệu tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài và
tham nhũng của các nước trong khu vực Đông Nam Á, ch ng ta có thể nhận thấy được
rằng mối quan hệ giữa tham nhũng và lượng vốn FDI. Những nước có lượng vốn FDI vào
càng cao thì mức độ tham nhũng càng thấp và ngược lại. Tuy nhiên, đó chỉ là cái nhìn
khái quát mối quan hệ này thông qua những con số tương đối. Muốn biết được bản chất
thực sự ên trong như thế nào, chúng ta phải thực hiện các kiểm định thông qua mô hình
để có câu trả lời chính xác nhất.
4.2. Thống kê mô tả
Bảng 4.3 trình bày kết quả thống kê mô tả các biến được đưa vào mô hình hồi quy. Chỉ số
cảm nhận tham nhũng ở khu vực Đông Nam Á trong giai đoạn 2001-2012 là khoảng 3,63
/10 điểm, trong đó chỉ số cảm nhận tham nhũng thấp nhất là 1,3 điểm ở nước Myanmar
năm 2008, chỉ số cảm nhận tham nhũng cao nhất là 9,4 điểm thuộc về trường hợp của
Singapore ở các năm 2003, 2005, 2006. Chỉ số cảm nhận tham nhũng của các nước tương
đối thấp, đa số là từ 2,5 điểm cho đến 4,5 điểm. Chỉ số càng thấp thì tình trạng tham
nhũng càng cao, như vậy tình trạng tham nhũng ở khu vực Đông Nam Á, đối với các
nước được khảo sát, còn khá cao (ngoại trừ Singapore).
Chỉ số phát triển con người là trong những chỉ số được sử dụng để đánh giá một quốc gia
là nước phát triển, nước đang phát triển và nước kém phát triển. Ở khu vực Đông Nam Á,
hầu hết các nước được đánh giá là nước đang phát triển (trừ Singapore). Đều đó được thể
hiện rõ khi chỉ số phát triển con người trung bình ở khu vực là 0,6496. Trong đó, cao nhất
thuộc về nước Singapore vào năm 2012 là 0,8994 và thấp nhất thuộc về nước Campuchia,
năm 2005 là 0,4658.
Việc thực thi pháp luật, quyền sỡ hữu và tội phạm ở các nước trong khu vực còn khá thấp,
giá trị trung ình đánh giá pháp quyền ở khu vực là 39,13 điểm. Nước có điểm pháp
quyền thấp nhất thuộc về nước Myanmar năm 2001 với 2,392 điểm trong khi đó
Singapore là nước thực thi pháp quyền tốt nhất năm 2005 với 95,73 điểm. Một sự chênh
lệch khá lớn giữa nước thực thi pháp quyền cao nhất và thấp nhất.
45
Dựa vào số chỉ số quan liêu, tác giả nhận thấy rằng trong giai đoạn 2001- 2012, thời gian
trung ình để thực hiện các quy trình thủ tục, thành lập một doanh nghiệp ở Đông Nam Á
là 46 ngày. Trong khi Singapore chỉ mất khoảng 2,5 ngày thì Lào cần tới 108 ngày để
hoàn tất các thủ tục để một doanh nghiệp được thành lập. Đặc biệt, có sự chuyển biến
mạnh mẽ nhất là nước Malaysia, năm 2003, doanh nghiệp phải chờ đợi đến 37 ngày
nhưng năm 2012 doanh nghiệp chỉ cần khoảng ngày 5 để hoàn tất các thủ tục thành lập.
Chỉ số tự do kinh tế ở Đông Nam Á là 60,01 điểm, môi trường đầu tư ở khu vực thuộc
loại trung bình. Vẫn có sự chênh lệch lớn giữa các nền kinh tế trong khu vực, Singapore
là nước có nền kinh tế tự do nhất với 88,9 điểm năm 2004 và Lào là nước có nền kinh tế
hầu như không tự do với 33,5 điểm năm 2001. Sự cải thiện của môi trường kinh doanh
theo xu hướng tốt lên, nhưng vẫn chưa có chuyển biến mạnh mẽ ở mỗi nước.
Tỷ lệ người sử dụng internet ở khu vực trung ình là 18,72%, điều này cho thấy rằng cơ
sở hạ tầng ở Đông Nam Á còn nghèo nàn. Đây vừa là cơ hội cũng như vừa là trở ngại cho
các hoạt động đầu tư của các nước trên thế giới vào các nước sở tại.
Ngoài ra, thông qua các chỉ số về lnFDI, LnGDP, tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ số
lượng người trong độ tuổi học đại học được học đại học cũng phản ánh phần nào tình hình
các nước trong khu vực. Giá trị lnFDI trung bình ở khu vực là 7,244, giá trị lnGDP trung
bình là 11,175, tỷ lệ lạm phát trung bình là 6,542%, tỷ lệ người học đại học trong độ tuổi
học đại học là 22,76%.
Bảng 4.3. Bảng thống kê mô tả các biến trong mô hình
46
Obs
Mean
Std.Dev
Min
Max
7,724418
2,081409
2,347558
10,59258
lnfdi
91
3,631676
2,337075
1,300000
9,400000
cpi
98
3,097721
1,123734
0,100000
4,219672
corr1
97
-1,274564
1,391036
-8,100000
-0,10000
corr2
91
0,649640
0,113307
0,465884
0,899417
humnan
45
39,13753
27,01434
2,392344
95,73460
law
99
71
bureaucracy
46,16197
30,98373
2,392344
108,0000
ecfreedom
96
60,01042
12,42958
2,500000
88,90000
education
85
22,76233
13,290450
33,500000
52,58113
inflation
108
6,542771
8,302809
2,366690
57,07451
infrastruct
108
18,72866
22,426410
-0,845716
72,00000
unempl
108
3,852778
2,895322
0,0002893
11,90000
lngdp
97
11,17547
1,635608
0,1000000
13,72981
Nguồn: Tác giá tổng hợp từ UNCTAD,WB,TI,UNDP, Heritage Foundation
Tóm lại, bảng 4.3 cho thấy dữ liệu ít biến thiên, độ lệch chu n không quá lớn so với giá
trị trung bình và cỡ mẫu thống kê không quá nhỏ. Dữ liệu đầu vào phù hợp thực hiện hồi
quy định lượng.
4.3. Kết quả kinh tế lượng
4.3.1. Kiểm định sự tương quan giữa các cặp biến
47
Nguồn: Kết quả tổng hợp phần mền Stata12
Bảng 4.4 Kết quả ma trận tự tƣơng quan
Bảng kết quả phân tích ma trận tự tương quan giữa các biến trong mô hình cho thấy, tồn
tại các hệ số tương quan giữa các biến tương đối lớn hơn 0,8. Biến chỉ số phát triển con
người có mối tương quan khá cao đối với biến pháp quyền (0,9488), biến quan liêu
(0,8522), biến giáo dục (0,8409), biến cơ sở hạ tầng (0,8979). Biến pháp quyền tương
quan cao với biến quan liêu (0,9008), biến tự do kinh tế (0,8706), biến giáo dục (0,8409),
biến cơ sở hạ tầng 0,8979 . Điều này có thể dễ hiểu bởi số liệu được thu thập trong thời
gian tương đối ngắn 12 năm 2001-2012, biến động giữa các năm có thể chưa đủ lớn, đây
lại là số liệu vĩ mô nên ch ng có thể có mối tương quan với nhau.
Mặt khác, tác giả đã thực hiện kiểm định đa cộng tuyến với nhân tử phóng đại phương sai
với mô hình 1 (phụ lục 3) kết quả cho thấy trung bình VIF của các biến trong mô hình là
23,73 lớn hơn 10.
Tác giả đã chọn phương pháp loại bỏ bớt biến để xử lý hiện tượng đa cộng tuyến. Kết quả
kiểm định đa cộng tuyến với nhân tử phóng đại phương sai với mô hình 1 sau khi loại bỏ
3 biến human, biến education và biến law cho thấy trung bình VIF của các biến trong mô
48
hình 5,57 nhỏ hơn 10. Mô hình sau khi ỏ 3 biến human, education và biến law (mô hình
1 và mô hình1*) là mô hình phù hợp hơn mô hình an đầu.
Tương tự với các mô hình 2 và 3 ta cũng tiến hàng loại bỏ 3 biến education, biến law,
biến human để xử lý hiện tượng đa cộng tuyến, mô hình kinh tế lượng phù hợp hợp. Ta có
mô hình đánh giá mức độ ảnh hưởng chênh lệch tham nhũng dương và chênh lệch âm
giữa nước nhận đầu tư và nước đầu tư với nguồn vốn FDI chảy vào khu vực Đông Nam Á
mới :
Mô hình 1 *: Đánh giá tác động của mức độ tham nhũng ở nước nhận đầu tư đối với
dòng vốn FDI chảy vào chính quốc gia đó.
Mô hình 2*: Đánh giá tác động của mức độ chênh lệch tham nhũng dương giữa nước đầu
tư và nước nhận đầu đối với dòng vốn FDI chảy vào quốc gia nhận đầu tư nước đầu tư ít
tham nhũng hơn nước nhận đầu tư .
Mô hình 3*: Đánh giá tác động của mức độ chênh lệch tham nhũng âm giữa nước đầu tư
và nước nhận đầu đối với dòng vốn FDI chảy vào quốc gia nhận đầu tư nước đầu tư tham
nhũng nhiều hơn nước nhận đầu tư .
49
4.3.2. Kết quả hồi quy mô hình 1* bằng mô hình FEM và REM
Thực hiện hồi quy ở hai mô hình hiệu ứng cố định và mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên (phụ
lục 5 và phụ lục 6) chỉ ra rằng đa số hệ số ước lượng của các biến đều có ý nghĩa.
Đối với mô hình FEM, các biến cpi, biến bureaucracy, biến infrastruct, biến lngdp có ý
nghĩa thống kê. Trong đó iến cpi, biến bureaucracy, biến infrastruct có tác động tiêu cực
và biến lngdp có tác động tích cực đến thu hút nguồn vốn FDI của nước nhận đầu tư.
Đối với mô hình REM, ngoại trừ biến bureaucracy, biến inflation không có ý nghĩa thống
kê thì các biến còn lại đều có ý nghĩa thống kê. Trong đó, biến ecfreedom, biến
infrastruct, biến lngdp có tác động tích cực và biến unempl có tác động tiêu cực đến thu
hút nguồn vốn FDI vào nước nhận đầu tư.
Để có cái nhìn tổng thể về kết quả hồi quy của hai mô hình, mô hình FEM và REM, tác
giả trình bày bảng tổng hợp kết quả hồi quy từ phụ lục 5, phụ lục 6 thành bảng 4.5 như
sau:
Bảng 4.5: Kết quả ƣợc lƣợng của mô hình 1* với FEM và REM
Biến phụ thuộc lnFDI
Mô hình hồi quy hệ số
Biến giải thích
FEM
REM
-0,3012079 ***
-0,317941***
CPI
-0,0176852*
0,0084625
Bureaucracy
-0,0171257
0,1139393***
Ecfreedom
-0,0079607
0, 249317
Inflation
-0,0377654**
0,195397***
Infrastruct
-0,0689021
-0,2262574***
Unempl
1,591356***
0,816299***
LnGDP
50
Ghi chú: ***, **, * là mức lần lượt có ý nghĩa ở mức ở mức 1%, 5% và 10%
Nguồn: Kết quả phân tích từ phầm mền Stata 12
Để lựa chọn giữa hai mô hình FEM và REM, tác giả sử dụng kỹ thuật kiểm định
Hausman, kết quả kiểm định bảng 4.6 Theo kết quả kiểm định từ bảng 4.6 cho thấy P-
value <0,01, bác bỏ giả thuyết Ho hay nói cách khác mô hình hiệu ứng cố định (FEM)
thích hợp hơn mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên (REM). Vì vậy, trong trường hợp này giữa
hai mô hình FEM và REM tác giả chọn mô hình FEM vì không làm mất nhiều bậc tự do
và giảm hiện tượng đa cộng tuyến.
Nhằm tăng độ tin cậy của ước lượng, khắc phục hiện tượng phương sai thay đổi, tác giả
tiến hành hồi quy đa iến kết hợp với robust error. Kết quả hồi quy đa iến theo mô hình
hiệu ứng cố định FEM đã khắc phục hiện tượng phương sai thay đổi như sau Bảng 4.7)
Bảng 4.6 Kết quả kiểm định Hausman đối với mô hình 1*
Biến phụ thuộc lnFDI
Hệ số
Biến
FEM
REM
CPI
-0,3012709
-0,317941
Bureaucracy
-0,0176852
-0,0084625
Ecfreedom
-0,017257
0,1139393
Inflation
-0,0079607
0,0249317
Infrastruct
-0,0377654
0,0195397
Unempl
-0,0689021
-0,2262574
LnGDP
1,591356
0,8016299
Chi2(7)=40,77
Prob>chi2=0,0000
Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm stata 12
Bảng 4.7 Kết quả hồi quy mô hình 1* theo mô hình hiệu ứng cố định điều chỉnh
đã khắc phục hiện tƣợng phƣơng sai thay đổi.
51
lnFDI
Robust
Hệ số ước lượng
Sai số
P-value
CPI
-0,3012709
0,733141
0,006
Bureaucracy
-0,0176852
0,0084305
0,081
Ecfreedom
-0,017257
0,0372834
0,662
Inflation
-0,0079607
0,014705
0,608
Infrastruct
-0,0377654
0,0089872
0,006
Unempl
-0,689021
0,027039
0,044
LnGDP
1,591356
0,2173593
0,000
Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm Stata 12
4.3.3. Kết quả hồi quy mô hình 2* bằng mô hình FEM và REM
Để đánh giá tác động của chênh lệch tham nhũng dương đối với nguồn vốn FDI chảy vào
khu vực Đông Nam Á, tác giả sử dụng mô hình 2*. Tương tự như mục 4.3.2, tác giả tiến
hành chạy mô hình FEM và mô hình REM. Kết quả của hai mô hình FEM và REM được
trình bảy ở bảng 4.8
Bảng 4.8: Kết quả ƣớc lƣợng của mô hình 2* với FEM và REM
Biến phụ thuộc lnFDI
Mô hình hồi quy hệ số
Biến giải thích
FEM
REM
CPI
0,430093
0,777268
Bureaucracy
-0,017629
0,0098114
Ecfreedom
0,164689
0,12772061***
Inflation
-0,009236
0,0277087
Infrastruct
-0,423532**
0,0212287**
Unempl
-0,710324
-0,2319056***
LnGDP
1,802642***
0,8213372***
Ghi chú: ***, **, * là mức lần lượt có ý nghĩa ở mức ở mức 1%, 5% và 10%
Nguồn: Kết quả phân tích từ phầm mềm Stata 12
Đối với kết quả chạy mô hình FEM (phụ lục 9), hầu hết các biến đều không có ý nghĩa
thống kê. Đặc biệt là biến corr1, biến đang được quan tâm thì lại không có ý nghĩa thống
kê. Chỉ có biến infrastruct và biến lngdp có ý nghĩa thống kê
52
Kết quả chạy mô hình REM (phụ lục 10) cho thấy các biến corr1, biến ecfreedom, biến
infrastruct, biến unempl, biến lngdp có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên, biến corr1 có hệ số
ước lượng trái với kỳ vọng. Chênh lệch tham nhũng dương tác động tích cực đến nguồn
vốn FDI, tức nếu nước đầu tư có chỉ số cảm nhận tham nhũng cao hơn nước nhận đầu tư
nước đầu tư tham nhũng ít hơn nước nhận đầu tư thì sẽ có tác động tích cực đến nguồn
vốn FDI vào nước nhận đầu tư.
Tác giả tiến hành kiểm định Hausman để lựa chọn giữa mô hình FEM và REM, kết quả
kiểm định được trình bày ở phụ lục 11. Kết quả cho thấy P-value > 0.1, như vậy tác giả
chấp nhận giả thuyết Ho hay mô hình REM thích hợp hơn mô hình FEM.
Bảng 4.9 Kết quả kiểm định Hausman đối với mô hình 2*
Biến phụ thuộc lnFDI
Hệ số
Biến
FEM
REM
CPI
0,430093
0,77268
Bureaucracy
-0,170629
0,0098114
Ecfreedom
0,0164689
0,1272061
Inflation
-0,009236
0,0277087
Infrastruct
-0,0423532
0,0212287
Unempl
-0,0710324
-0,2319056
LnGDP
1,802642
0,8213372
Chi2(7)= -2,59
Prob>chi2
Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm Stata 12
Tương tự như mục 4.3.2 sau khi lựa chọn mô hình REM, tác giả tiến hành hồi quy đa iến
kết hợp với ro ust error để có kết quả ước lượng đạt độ tin cậy cao nhất. Kết quả mô hình
hiệu ứng ngẫu nhiên điều chỉnh, đã khắc phục phương sai thay đổi được trình bảy ở bảng
4.10.
53
Bảng 4.10 Kết quả hồi quy mô hình 2* theo mô hình hiệu ứng ngẫu nhiên điều chỉnh
đã khắc phục hiện tƣợng phƣơng sai thay đổi.
lnFDI
Robust
Hệ số ước lượng
Sai số
P-value
0,5320735
0,144
0,777268
Corr1
0,0062742
0,118
0,0098114
Bureaucracy
0,0433806
0,003
0,1272061
Ecfreedom
0,0209413
0,186
0,0277087
Inflation
0,0096871
0,028
0,0212287
Infrastruct
0,0360742
0,000
-0,2319056
Unempl
0,110028
0,000
0,8213372
LnGDP
Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm Stata 12
4.3.4. Kết quả hồi quy mô hình 3* bằng mô hình FEM và REM
Tác giả sử dụng mô hình 3* để đánh giá tác động của chênh lệch tham nhũng âm đến
nguồn vốn FDI vào các nước nhận đầu tư. Bảng 4.11 Trình bày kết quả ước lượng của mô
hình 3* với REM và FEM
Bảng 4.11: Kết quả ƣợc lƣợng của mô hình 3* với FEM và REM
Biến phụ thuộc lnFDI
Mô hình hồi quy hệ số
Biến giải thích
FEM
REM
-0,4853885
0,04428864
Corr1
-0,0263374**
0,0116631
Bureaucracy
0,0193335
0,01078336***
Ecfreedom
-0,0058506
0,025647
Inflation
-0,0577314***
0,0143827
Infrastruct
0,079159
-0,2345126***
Unempl
1,903451***
0,892836***
LnGDP
Ghi chú: ***, **, * là mức lần lượt có ý nghĩa ở mức ở mức 1%, 5% và 10%
Nguồn: Kết quả phân tích từ phầm mền Stata 12
Mô hình FEM (phụ lục 13) cho thấy chỉ có các biến bureaucracy, biến infrastruct, biến
lngdp có ý nghĩa thống kê. Biến corr2, biến thể hiện chênh lệch tham nhũng âm giữa nước
54
đầu tư và nước nhận đầu tư, iến cần quan tâm nhiều nhất lại không có ý nghĩa thống kê,
và hệ số ước lượng lại có dấu trái với kỳ vọng.
Mô hình REM (phụ lục 14), các biến ecfreedom, biến unempl, biến gdp có ý nghĩa thống
kê, và hệ số ước lượng của các biến này có dấu thuận với kỳ vọng. Biến corr2 mặc dù hệ
số ước lượng có dấu thuận với kỳ vọng, tức nếu chênh lệch tham nhũng âm của các nước
tăng thì sẽ thu hút nguồn vốn FDI, hay nước đầu tư tham nhũng nhiều hơn nước nhận đầu
tư thì nguồn vốn FDI vào nước nhận đầu tư sẽ có xu hướng tăng. Tuy nhiên, iến corr2 lại
không có ý nghĩa thống kê.
Tác giả tiến hành thực hiện kiểm định Hausman để lựa chọn giữa mô hình FEM và mô
hình REM. Kết quả thực hiện kiểm định trình bày ở phụ lục 15. P-value <0.01 nên mô
hình được lựa chọn là mô hình FEM.
Bảng 4.12 Kết quả kiểm định Hausman đối với mô hình 3*
Biến phụ thuộc lnFDI
Hệ số
Biến
FEM
REM
Corr2
-0,4853885
0,04428864
Bureaucracy
-0,0263374
0,0116631
Ecfreedom
0,0193335
0,01078336
Inflation
-0,0058506
0,025647
Infrastruct
-0,0577314
0,0143827
Unempl
0,079159
-0,2345126
LnGDP
1,903451
0,892836
Chi2(7)= 46,45
Prob>chi2=0,0000
Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm stata 12
Tác giả chạy lại mô hình FEM kết hợp với robust error, kết quả hồi quy mô hình như sau
Bảng 4.13 Kết quả hồi quy mô hình 3* theo mô hình hiệu ứng cố định điều chỉnh đã
khắc phục hiện tƣợng phƣơng sai thay đổi.
55
lnFDI
Robust
Hệ số ước lượng
Sai số
P-value
0,83236482
-0,4853885
0,577
Corr2
0,0146576
-0,0263374
0,122
Bureaucracy
0,0407173
0,0193335
0,652
Ecfreedom
0,0139068
-0,0577314
0,689
Inflation
0,0180013
-0,0577314
0,018
Infrastruct
0,0436937
-0,0796159
0,118
Unempl
0,3392757
1,903451
0,001
LnGDP
Nguồn: Kết quả phân tích từ phần mềm Stata 12
4.3.5. Thảo luận kết quả nghiên cứu
Từ các kết quả bảng 4.7, bảng 4.10, bảng 4.13 đánh giá được mức độ ảnh hưởng của tham
nhũng và chêch lệch tham nhũng lên nguồn vốn FDI chảy vào khu vực Đông Nam Á.
Bảng 4.7 thể hiện kết quả hồi quy của mô hình 1* thể hiện ảnh hưởng của mức độ tham
nhũng ở nước nhận đầu tư đến nguồn vốn FDI chảy vào các nước đó. Hệ số hồi quy -
0,301 cho thấy chỉ số cảm nhận tham nhũng ở nước nhận đầu tư có tác động ngược chiều
với nguồn vốn FDI chảy vào các nước ở khu vực Đông Nam Á. Nếu chỉ số tham nhũng
cảm nhận tăng 1 đơn vị thì sẽ làm dòng vốn chảy vào khu vực giảm 0,301%. Tức là nếu
nước nhận đầu tư trở nên trong sạch hơn thì dòng vốn FDI chảy vào nước đó có xu hướng
giảm. Điều này trái với nghiên cứu của Al-Sagid (2009), Godinez và Liu (2013), Quazi
(2014), cho rằng tình trạng tham nhũng có tác động tiêu cực đến nguồn vốn FDI đến các
nước nhận đầu tư. Tuy nhiên, kết quả trên không phải là không có cơ sở, các nghiên cứu
của Egger và Winner (2005), Quazi và cộng sự 2014 đã chỉ ra rằng tình trạng tham
nhũng ở nước nhận đầu tư tác động tích cực đến lượng vốn FDI thu h t được. Theo tác
giả, kết quả này có thể được giải thích rằng ở các nước Đông Nam Á, đặc biệt là các nước
có tình trạng pháp luật còn lỏng lẻo, các chính sách còn chồng chéo với nhau, chưa rõ
ràng, tình trạng tham nhũng sẽ gi p ôi trơn các giao dịch, th c đ y các giao dịch này
diễn ra nhanh hơn. Cụ thể, tại khu vực này, thời gian để một doanh nghiệp kể từ khi nộp
đơn để xin thành lập đến khi nhận được giấy đăng ký kinh doanh phải chờ đợi trong 46,16
ngày, một con số khá cao. Mặt khác, chỉ số pháp quyền trung bình chỉ đạt 39,13 điểm, thể
56
hiện chất lượng thực thi pháp luật còn k m, đây có là một kẽ hở cho tình trạng tham
nhũng có cơ hội phát triển. Trong tình trạng pháp luật thiếu minh bạch, thiếu chặt chẽ như
vậy, doanh nghiệp nhận thấy rằng chi phí cho việc ― ôi trơn‖ sẽ thấp hơn thiệt hại do việc
chờ đợi để được thực hiện các dự án đầu tư. Chính vì thế, tham nhũng đôi khi lại mang
đến lợi thế cho doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nhanh chóng thực hiện dự án, thu hồi
vốn nhanh hơn. Ngoài ra, khi quyết định đầu tư vào một nước nào đó, nhà đầu tư quan
tâm các yếu tố khác như giá nhân công rẻ, nguồn tài nguyên dồi dào đây là một trong
những lợi thế lớn ở khu vực Đông Nam Á , tham nhũng chỉ là một trong những yếu tố nhr
để lựa chọn kết quả có đầu tư hay không. Tuy nhiên, tác giả cũng nhận định, đây chỉ là tác
động tích cực trong thời gian ngắn, về lâu dài tham nhũng ngày càng lớn, chi phí phải bỏ
ra để ôi trơn ngày càng tăng, điều này sẽ cản trở dòng vốn đầu tư.
Kết quả hồi quy của mô hình 2* (bảng 4.10) thể hiện khoảng cách tham nhũng ảnh hưởng
đến dòng vốn FDI chảy vào các nước nhận đầu tư khi nước đầu tư có mức độ tham nhũng
thấp hơn nước nhận đầu tư theo kết quả mô hình, giả thuyết H2a không có ý nghĩa thống
kê. Hệ số ước lượng dương, cho thấy chênh lệch tham nhũng càng tăng thì lượng FDI
càng tăng. Như vậy, nước đầu tư càng ít tham nhũng thì lượng FDI chảy vào nước nhận
đầu tư càng tăng. Nước nhận đầu tư có chỉ số tham nhũng cao, thường là các nước có nền
kinh tế kém phát triển, do đó, năng lượng cạnh tranh của các công ty nội địa kém so với
các công ty đa quốc gia. Điều này, càng làm cho sức hấp dẫn thị trường của các nước
nhận đầu tư thu h t các công ty đa quốc gia nhiều hơn.
Kết quả hồi quy của mô hình 3* (bảng 4.13) thể hiện khoảng cách tham nhũng tác động
như thế nào đến dòng vốn FDI chảy vào các nước nhận đầu tư khi mức độ tham nhũng ở
nước đầu tư cao hơn nước nhận đầu tư. Kết quả chạy hồi quy cho thấy không có ý nghĩa
thống kê. FDI từ nước đầu tư có mức độ tham nhũng cao không th c đ y dòng vốn FDI
chảy vào các nước nhận đầu tư có mức độ tham nhũng thấp hơn. Thực tế cho thấy, các
công ty ở nước đầu tư có mức độ tham nhũng cao, năng lực cạnh tranh của họ kém, không
đủ sức cạnh tranh bình đẳng ở các nước có môi trường kinh doanh trong sạch. Mặt khác,
bản thân các nước nhận đầu tư, các nước ASEAN (trừ Singapore , đang ở mức tham
nhũng cao. Do đó, những nước chủ đầu tư thỏa mãn được giả thuyết H2 này không đáng
57
kể, lượng FDI chảy từ các quốc gia này so với tổng lượng FDI chảy vào khu vực không
nhiều, nên sẽ không phản ánh được những ảnh hưởng mà nó đem lại cho các nước nhận
đầu tư.
Ngoài ra, các biến kiểm soát trong các mô hình 1*, mô hình 2* và mô hình 3* một số biến
có ý nghĩa thống kê như iến cơ sở hạ tầng, biến tỷ lệ thất nghiệp, biến chỉ số quan liêu,
biến chỉ số phát triển kinh tế và biến GDP
Mối tương tác giữa cơ sở hạ tầng và FDI là mối tương quan âm, điều này cho thấy các
nước đang có chất lượng cơ sở hạ tầng thấp thì càng thu hút nguồn vốn FDI. Các công ty
đa quốc gia thường chú ý những nơi như vậy để khai thác các dự án xây dựng lớn dự án
công cộng, siêu quy mô. Mặc khác, có quan điểm cho rằng cơ sở hạ tầng tốt là một điểm
thu h t FDI nhưng ít có ằng chứng cho thấy ở các nước phát triển thì cơ sở hạ tầng là
yếu tố quan trọng để thu hút FDI (Wheeler & Mody,1992).
Cũng như cơ sở hạ tầng, tỷ lệ thất nghiệp, chỉ số quan liêu cũng có mối tương quan âm
với nguồn vốn FDI được thu h t. Điều này đã củng cố thêm bằng chứng thực nghiệm về
mối quan hệ này. Bộ máy nhà nước càng quan liêu, các thủ tục hành chính càng phức tạp,
thời gian doanh nghiệp bỏ ra càng nhiều thì càng làm nản lòng các nhà đầu tư. Do đó,
lượng FDI có thể bị ảnh hưởng. Mặt khác, tỷ lệ thất nghiệp cũng là một trong những chỉ
số cho thấy tình trạng sức khỏe của nền kinh tế các nước. Nước có nền kinh tế bất ổn thì tỉ
lệ thất nghiệp càng cao, môi trường kinh doanh kém hấp dẫn đối với nguồn vốn FDI.
Chỉ số tự do kinh tế, tăng trưởng kinh tế thể hiện mối tương quan dương đối với nguồn
vốn FDI. Chỉ số tự do kinh tế, tăng trưởng kinh tế thể hiện trình độ phát triển của mỗi
quốc gia. Các nước ở khu vực Đông Nam Á càng có nền kinh tế phát triển thì lượng vốn
FDI thu h t được càng cao. Điều này phù hợp với các nghiên cứu của các tác giả trước
đây như Amarandei (2013); Quazi (2014); Quazi và cộng sự (2014); Godinez và Liu
(2013), Habib và Zurawicki (2002).
58
CHƢƠNG 5: KẾT LUẬN
Trong bài nghiên cứu, tác giả tiến hành nghiên cứu thực nghiệm tác động của tham nhũng
và chênh lệch tham nhũng ở giữa nước đầu tư và nước nhận đầu tư đối với nguồn vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài trong đó có sự kiểm soát các yếu tố môi trường vĩ mô ở các nước
khu vực Đông Nam Á. Bài nghiên cứu sử dụng mô hình hiệu ứng cố định (FEM) và mô
hình hiệu ứng ngẫu nhiên (REM) cho bộ dữ liệu bảng đến từ 9 quốc gia Đông Nam Á
trong giai đoạn từ 2001 đến 2012.
Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng tham nhũng ở nước nhận đầu tư có tác động tích cực
đến thu h t lượng FDI vào các nước khu vực Đông Nam Á. Đồng thời, cũng không có
mối quan hệ rõ ràng giữa mức độ chênh lệch tham nhũng giữa các nước đầu tư và nước
nhận đầu tư việc thu hút nguồn vốn FDI vào các nước trong khu vực. Hầu hết các nước
trong khu vực Đông Nam Á ngoại trừ Singapore) có mức độ tham nhũng tương đối cao,
đây cũng có thể là một điểm thuận lợi để các công ty đa quốc gia đầu tư vào các quốc gia
này. Các công ty đa quốc gia có tiềm lực tài chính mạnh hơn so với các công ty nội địa,do
đó họ sẵn sàng bỏ ra chi phí ôi trơn nhiều hơn, đ y nhanh việc khai thác có dự án, đặc
biệt là các dự án lớn, dự án công cộng, dự án cấp nhà nước. Tham nhũng sẽ là chất bôi
trơn các loại chi phí giao dịch, giảm dần thời gian giao dịch, từ đó th c đ y lượng vốn
FDI chảy vào các nước.
Tuy vậy, quan điểm của tác giả là không ủng hộ cho việc tham nhũng. Bởi vì, tùy vào
từng giai đoạn phát triển của mỗi quốc gia, tùy vào điều kiện chính trị xã hội, tùy môi
trường thể chế, hiện tại tham nhũng đang có ảnh hưởng tích cực nhưng trong thời gian dài
tham nhũng có thể không còn tác động này nữa. Mặt khác, tham nhũng lại đem đến những
ảnh hưởng tiêu cực khác về mặt xã hội mà ai cũng có thể dễ dàng nhận ra. Tham nhũng
cao làm mất niềm tin của xã hội, người dân không còn tin tưởng vào các chính sách của
nhà nước, người dân không yên tâm sản xuất kinh doanh, đời sống nhân dân gặp nhiều
khó khăn do nhiều thủ tục hành chính rườm rà, phí tổn xã hội cao.
Qua bài nghiên cứu này, tác giả hy vọng cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm để các
nhà hoạch định chính sách có thể tham khảo để đưa các quyết định thu hút vốn đầu tư
nước ngoài ở từng giai đoạn phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia. Mặt khác, đề tài nghiên
cứu mới chỉ nghiên cứu tham nhũng ảnh hưởng về mặt ―số lượng‖ dòng vốn FDI chảy
59
vào khu vực Đông Nam Á, vậy về mặt ―chất lượng‖ dòng vốn này ra sao khi có sự tồn tại
của tình trạng tham nhũng vẫn còn bỏ ngỏ.
Bài nghiên cứu đã tìm ra mối quan hệ giữa các biến tham nhũng, thể chế cũng như các
nhân tố vĩ mô khác và dòng vốn FDI chảy vào các quốc gia Đông Nam Á. Tuy nhiên, bài
nghiên cứu vẫn còn một số hạn chế như sau:
Thứ nhất, đề tài nghiên cứu ảnh hưởng của tham nhũng đối với lượng với nguồn vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài ở khu vực Đông Nam Á còn khá ít nên chưa có điều kiện để so
sánh với kết quả thực nghiệm. Ngoài ra, việc so sánh với các nghiên cứu trên so với thế
giới vẫn còn hạn chế vì đặc điểm, tính chất tham nhũng ở mỗi nước là khác nhau. Nếu có
so sánh thì so sánh này chỉ mang tính chất tương đối.
Thứ hai, đề tài chỉ xem xét nguồn vốn của toàn bộ nền kinh tế, chưa xem x t xu hướng
tác động của tham nhũng đến dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo từng ngành, từng
lĩnh vực.
Thứ ba, đề tài nghiên cứu dựa vào chỉ số cảm nhận tham nhũng từ tổ chức Minh Bạch
Quốc tế, chỉ số này hiện nay được các nghiên cứu trên thế giới ưa sử dụng. Tuy nhiên,
vẫn còn hạn chế nhất định như phụ thuộc vào đơn vị thực hiện khảo sát, đối tượng thực
hiện khảo sát, chế độ xã hội, luật pháp và các quan hệ xã hội.
Thứ tƣ, về mặt dữ liệu nghiên cứu chỉ cập nhật đến năm 2012 nên nghiên cứu chưa phản
ánh đến thời điểm hiện tại. Các kết quả nghiên cứu có thể không phù hợp với tình hình
hiện tại.
Thứ năm, trong phần mô hình nghiên cứu, việc tách riêng biệt từng phần chênh lệch
tham nhũng âm, chênh lệch tham nhũng dương và iến CPI (chỉ số cảm nhận tham
nhũng có thể làm cho kết quả nghiên cứu phản ánh mối quan hệ giữa các biến này với
nhau kém hiệu quả hơn. Ngoài ra, với cách tính biến FDI dựa vào tổng lượng FDI vào
mỗi nước nhận đầu tư, không phân biệt là lượng FDI đó là của nước nào có thể làm giảm
sự phản ánh mối quan hệ giữa tham nhũng và FDI hơn so với nếu xét riêng từng trường
hợp lượng FDI của mỗi nước đầu tư vào nước nhận đầu tư.
Để khắc phục những hạn chế này,các nghiên cứu có thể thực hiện dựa trên số liệu nguồn
vốn đầu tư trực tiếp theo từng ngành từng lĩnh vực để chỉ rõ tác động của tham nhũng,
60
chênh lệch tham nhũng đối với lượng FDI vào mỗi ngành. Từ đó, có các chính sách phát
triển kinh tế phù hợp hơn với mỗi nước. Mặt khác, một hướng nghiên cứu khác là có thể
tính riêng lượng FDI của từng nước đầu tư chảy vào mỗi nước đầu tư, như vậy kích thước
mẫu tăng, kết quả mô hình chính xác hơn. Ngoài ra, có thể so sánh kết quả đánh giá tham
nhũng, chênh lệch tham nhũng dựa vào các chỉ số khác nhau như chỉ số cảm nhận tham
nhũng TI , chỉ số đo lường tham nhũng WB để cho thấy một cách toàn diện và tổng
quát hơn về tình trạng tham nhũng ở các nước trên thế giới và mức độ ảnh hưởng của
tham nhũng đối với nền kinh tế các nước, đặc biệt là việc thu hút nguồn vốn FDI vào
quốc gia đó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Danh mục tài liệu Tiếng việt:
Cao Thanh Hà, 2016. Tác động của tham nhũng đến thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại
các quốc gia Asean, Trung quốc và Ấn độ. Luận văn Thạc sĩ, Đại học kinh tế TP Hồ Chí
Minh
Bùi Thị Tuyết Nhung, 2015. Nghiên cứu mối quan hệ giữ tham nhũng và đầu tư trực tiếp
nước ngoài: trường hợp ở các quóc gia Đông Nam Á. Luận văn Thạc sĩ, Đại học kinh tế
TP Hồ Chí Minh
H. Anh, 2013. FDI chuyển hướng sang Ấn Độ và Đông Nam Á như thế nào, Báo diễn đàn
doanh nghiệp. < http://enternews.vn/fdi-chuyen-huong-sang-dong-nam-a-va-an-do-nhu-
the-nao.html> [Truy cập ngày 31 tháng 02 năm 2015]
Hoàng Thư, 2012. Bài học chống tham nhũng từ Indonesia, Báo Pháp luật online <
http://plo.vn/the-gioi/bai-hoc-chong-tham-nhung-tu-indonesia-31081.html> [Truy cập
ngày 31 tháng 02 năm 2015]
Quốc Hội, 2005. Luật Đầu tư. Hà Nội
Quốc Hội, 2005. Luật Phòng, chống tham nhũng. Hà Nội
Trần Thị Thu Thảo, 2015. Nghiên cứu sự tác động chênh lệch tham nhũng lên nguồn vốn
FDI chảy vào khu vực châu Á Thái Bình Dương. Luận văn Thạc sĩ, Đại học kinh tế TP Hồ
Chí Minh
Danh mục tài liệu Tiếng anh
Akçay, S.,2001. Is Corruption an Obstacle for Foreign Investors in Developing
Countries? A Cross-Country Evidence, Yapi Kredi Economic Review, vol.12, no.2, pp.
27–34.
Al-Sagid, A.,2009. The effects of Corruption on FDI Inflows. Cato Journal,29 (2),267-
294
Amarandei. C. M.,2013. Corruption and Foregin Direct Investment evidence from
central and eastern european. Statesces Working Papers – Volume V, Issue 3,311-322
Anderson, E., & Gatignon, H.,1986. Modes of foreign entry: A transaction cost analysis
and propositions. Journal of International Business Studies, 1–26.
Anechiarico, F., & Jacobs, J. ,1996. The pursuit of absolute integrity: How corruption
control makes government ineffective. Chicago: University of Chicago Press.
Appelbaum, E., Katz, E., 1987.Seeking Rents by Setting Rents: The Political Economy of
Rent Seeking, Economic Journal, Royal Economic Society, Vol. 97, Issue 387, pp. 685-
699.
Bardhan,P. 1997. Corrruption and Development: A Review of Issues. Journal of
Economic Literature, 35 (3),1320-46.
Birkinshaw, J., Hood, N., & Jonsson, S.,1998. Building firm-specific advantages in
multinational corporations: The role of subsidiary initiative. Strategic Management
Journal, 221–241, 23.
Brouthers, K.,2013. A retrospective on: Institutional, cultural and transaction cost
influences on entry mode choice and performance. Journal of International Business
Studies, 14–22.
Brouthers, K., & Brouthers, L. ,2001. Explaining the national cultural distance paradox.
Journal of International Business Studies, 177–189.
Buckley, P., & Casson, M. ,1998. Analyzing foreign market entry strategies: Extending
the internalization approach. Journal of International Business Studies, 539–561.
Buckley, P., Clegg, J., Liu, X., Voss, H., & Zheng, P. 2007. The determinants of Chinese
outward foreign direct investment. Journal of International Business Studies, 499– 518.
Calhoun, M. ,2002. Unpacking liability of foreignness: Identifying culturally driven
external and internal sources of liability for the foreign subsidiary. Journal of
International Management, 301–321.
Cazurra, A.,2008. Better the devil you don’t know: Type of corruption and FDI in transition economies. Journal of International Management, 12–27.
Coase, Ronald H., 1993.The Nature of the Firm, Economica.
Cuervo-Cazurra, A.,2006. Who cares about corruption. Journal of International Business
Studies, 807–822.
Cuervo-Cazurra, A.,2008. Better the devil you don’t know: Type of corruption and FDI in
transition economies. Journal of International Management, 12–27
Dawar, N., & Frost, T. (1999). Competing with giants. Survival strategies for local
companies in emerging markets. Harvard Business Review, 77(2), 119–129.
Driffield, N., Jones, C., & Crotty, J.,2013. International business research and risky
investments, an analysis of FDI in conflict zones. International Business Review, 22(1),
140–155.
Dunning, J. ,1981. Toward an eclectic theory of international production: Some empirical
test. Journal of International Business Studies, 11, 9–31.
Dunning, J.,1993. Multinational enterprises and the global economy. Wokingham:
Addison Wesley.
Dunning, J. ,1998. Location and the multinational enterprise: A neglected factor. Journal
of International Business Studies, 45–66.
Dunning, J., & Lundan, S. ,2008. Institutions and the OLI paradigm of the multinational
enterprise. Asia Pacific Journal of Management, 25(4), 573–593
Eden, L., & Miller, S.,2004. Distance matters: Liability of foreignness,
institutionaldistance and ownership strategy. Advances in International Management,
187–221.
Egger, P., & Winner, H.,2005. Evidence on corruption as an incentive for foreign direct
investment. European Journal of Political Economy, 21, 932–952
Glynn, M., & Abzug, K.,2002. Institutionalizing identity: Symbolic isomorphism and
organizational names. The Academy of Management Journal, 45, 267–280.
Godinez J. R. & Liu L.,2013. Corruption distance and FDI flows into Latin America,
International Business Review.
Habib, M., & Zurawicki, L.,2001. Country-level investments and the effect of corrup-
tion—Some empirical evidence. International Business Review, 10(6), 687–700.
Habib, M., & Zurawicki, L.,2002. Corruption and foreign direct investment. Journal of
International Business Review, 33(2), 291–307.
Harzing, A. ,2002. Acquisitions versus greenfield investments: International strategy and
management of entry modes. Strategic Management Journal.
Henisz, W.,2000. The institutional environment for multinational investment. The Journal
of Law, Economics and Organization, 16, 334–364
Heritage Foundation (2015). index of economic freedom.. [Online] Available at:
http://www.heritage.org/index/explore [Accessed 15 February 2016]
Holmes, R., Miller, T., Hitt, M., & Salmador, M.,2012. The interrelationships among
informal institutions, formal institutions, and inward foreign direct investment.
Hosseini, H. ,1994. Foreign direct investment decision. Humanomics.
IMF ,1993. Balance of payments maunal (fifth ed.). IMF
IMF (2015). World economic outlook.. [Online] Available at: < https://www.imf.org >
[Accessed 15 February 2016]
Johanson, J., & Vahlne, J.-E. ,1977. The internationalization process of the firm-A model
of knowledge development and increasing foreign market commitments. Journal of
International Business Studies, 8, 23–32.
Judge, W., McNatt, B., & Xu, W.,2011. The antecedents and effects of national
corruption: A meta-analysis. Journal of World Business, 46, 93–103.
Khanna, T., & Palepu, K.,2010. Winning in emerging markets: A road map for strategy
and execution. Cambridge: Harvard Business Press Books.
Kostova, T.,1996. Success of the transnational transfer of organizational practices within
multinational companies. Minnesota: University of Minnesota (Doctoral disserta-tion).
Kostova, T., & Zaheer, S.,1999. Organizational legitimacy under conditions of com-
plexity: The case of the multinational enterprise. Academy of Management Review, 64–
81.
Kostova, T., & Roth, K. ,2002. Adoption of an organizational practice by subsidiaries of
multinational corporations: Institutional and relational effects. Academy of Man-agement
Journal, 215–233.
Kwok, C., & Tadesse, S.,2006. The MNC as an agent of change for host-country
institutions: FDI and corruption. Journal of International Business Studies, 767–785
Lambsdorff, J. G. ,2003. How corruption affects persistent capital flows. Economics of
Governance, 4(3),229-243.
Lui, F.T. ,1985. An equilibrium queuing model of bribery, Journal of Political Economy,
vol. 93, issue 4, pp. 760–781.
Meyer, K. ,2001. Institutions, transactions and entry mode choice in Eastern Europe.
Journal of International Business Studies, 32(2), 357–367.
Mudambi, R., & Navarra, R.,2002. Institutions and international business: A theoreti-cal
overview. International Business Review, 635–646.
Murphy, K., Shleifer, A., & Vishny, R.,1993. Why is rent-seeking so costly to growth.
American Economic Review, 409–414.
North, D.,1990. Institutions, institutional change and economic performance. Cam-
bridge: Cambridge University Press
Peng, M., Wang, D., & Jiang, Y.,2008. An institution-based view of international
business strategy: A focus on emerging economies. Journal of International Business
Studies, 39, 920–936
Quazi, R.,2014. Corruption and Foreign Direct Investment in East Asia and South Asia:
An Econometric Study.International Journal of Economics and Financial Issues,231-242
Quazi.R, Vemuri1, V. & Soliman,M.,2014. Impact of Corruption on Foreign Direct
Investment in Africa. International Business Research.
Rodriguez, P., Siegel, D., Hillman, A., & Eden, L. (2006). Three lenses on the
multinational enterprise: Politics, corruption and corporate social responsibility. Journal
of International Business Studies, 37, 733–746.
Rose-Ackerman, S.,1999. Corruption and government: Causes, consequences and
reform. London: Cambridge University Press.
Rose-Ackerman, S.,2008. Corruption and government. Journal of International Peace-
keeping, 328–343 (Special issue on Post- conflict Peacebuilding and Corruption)
Rugman, A.,2010. Reconciling internalization theory and the eclectic paradigm.
Multinational Business Review, 1–12.
Rugman, A., & Verbeke, A.,1992. A note on the transnational solution and the transaction
cost theory of multinational strategic management. Journal of Interna-tional Business
Studies, 23(4), 761–771.
Shan, W., & Song, J.,1997. Foreign direct investment and the sourcing of technological
advantage: Evidence from the biotechnology industry. Journal of International Business
Studies, 267–284
Svensson, J.,2005. Eight questions about corruption. The Journal of Economic Perspec-
tives, 19(3), 19–42.
Tanzi, V., Davoodi, H.,2000. Corruption, Growth, and Public Finances, IMF Working
Paper No.00/182.
Tihanyi, L., Griffith, D., & Russell, C.,2005. The effect of cultural distance on entry mode
choice, international diversification, and MNE performance: A meta-analysis. Journal of
International Business Studies, 270–283.
Transparency International (2015). Corruption perception index. [online] Available at
Ufere, N., Perelli, S., Boland, R., & Carlsson, B.,2012. Merchants of corruption: How
entrepreneurs manufacture and supply bribes. World Development, 40(12), 2440–2453.
UNDP,2015. Human Developmemt Index. [online] Available at
[Accessed 15 February 2016]
Verbeke, A., & Kano, L. ,2012. The transaction cost economics (TCE) theory of trading
favors. Asia Pacific Journal of Management, 1183–1205.
Voyer, P., & Beamish, P.,2004. The effect of corruption on Japanese foreign direct
investment. Journal of Business Ethics, 50, 211–224.
Wang, C., Hong, J., Kafouros, M., & Boateng, A.,2012. What drives the internationali-
zation of Chinese firms? Testing the explanatory power of three theoretical frameworks.
International Business Review, 426–438.
Wei, S. ,2000a. How taxing is corruption on international investors? Review of Economics
and Statistics, 82(1), 1–11
Wei, S.,2000b. Local corruption and global capital flows. Brookings Papers on Economic
Activity, 303–354
Wheeler, D., & Mody, A.,1992. International investment location decisions: The case of
US firms. Journal of International Economics, 33, 57–76.
Williamson, O.,1985. The economic institutions of capitalism: Firms, markets, relational
contracting. New York: Free Press.
Williamson, O. ,1993. Opportunism and its critics. Managerial and Decision Economics,
14, 97–107
WTO News,1996, Press releases, Trade and foreign direct investment. Availalble at.
World bank, 2009. Detering Corruption and Improving Governance
in Road
Construction and Maintenance, Washington, DC.
World bank, 2015. [online] Available at < http://data.worldbank.org/indicator> [Accessed
15 February 2016]
Xu, D., & Shenkar, O. 2002. Note: Institutional distance and the multinational enterprise.
Academy of Management Review, 608–618.
Zaheer, S. ,1995. Overcoming the liability of foreignness. The Academy of Management
Journal, 38(2), 341–363.
Zaheer, S. ,2002. The liability of foreignness, redux: A commentary. Journal of Inter-
national Management, 351–358 (Special issue on the Liability of Foreigness).
PHỤ LỤC
Phụ lục 1. Hệ số tƣơng quan giữa các nhóm biến với mức độ đô la hóa
Phụ lục 2. Kiểm định đa cộng tuyến
Phụ lục 3. Kết quả kiểm định đa cộng tuyến sau khi loại bỏ một số biến
Phụ lục 4. Kết quả hồi quy 1* với FEM
Phụ lục 5. Kết quả hồi quy hồi quy 1* với REM
Phụ lục 6. Kết quả kiểm định Hausman với mô hình 1*
Phụ lục 7. Kết quả hồi quy mô hình 1* với FEM robust
Phụ lục 8. Kết quả hồi quy mô hình 2* với FEM
Phụ lục 9. Kết quả hồi quy mô hình 2* với REM
Phụ lục 10. Kết quả kiểm định Hausman mô hình 2*
Phụ lục 11. Kết quả hồi quy mô hình 2* với REM robust
Phụ lục 12. Kết quả hồi quy mô hình 3* với FEM
Phụ lục 13. Kết quả hồi quy mô hình 3* với REM
Phụ lục 14. Kết quả kiểm định Hausman với mô hình 3*