intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tài liệu học tập Logistics và quản trị chuỗi cung ứng: Phần 2

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:181

24
lượt xem
13
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu học tập "Logistics và quản trị chuỗi cung ứng" Phần 2 được biên soạn gồm các nội dung chính sau: Logistics và thuê ngoài dịch vụ logistics; đo lường hiệu quả hoạt động chuỗi cung ứng; ứng dụng công nghệ thông tin trong quản trị chuỗi cung ứng. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tài liệu học tập Logistics và quản trị chuỗi cung ứng: Phần 2

  1. CHƯƠNG 6 LOGISTICS VÀ THUÊ NGOÀI DỊCH VỤ LOGISTICS MỤC TIÊU Sau khi nghiên cứu chương này, sinh viên cần: - Hiểu được khái niệm, vai trò và phân loại dịch vụ Logistics. - Phân tích được tầm quan trọng của dịch vụ Logistics trong chuỗi cung ứng sản phẩm và thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế quốc gia. - Phân tích được giá trị thuê ngoài trong dịch vụ logistics đối với các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Phân biệt và tính toán để có quyết định sử dụng lao động hay thuê ngoài thông qua chi phí sản xuất kinh doanh. NỘI DUNG 6.1. Dịch vụ logistics 6.1.1. Sự phát triển của dịch vụ Logistics Thuật ngữ Logistics đã xuất hiện từ rất lâu trên thế giới và bắt nguồn từ lĩnh vực quân sự. Cùng với quá trình phát triển, logistics được chuyên môn hóa và trở thành một lĩnh 229
  2. TLHT LOGISTICS VÀ QUẢN TRỊ CHUỖI CUNG ỨNG vực kinh doanh, một ngành dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong hoạt động thương mại. Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã đưa ra khái niệm về dịch vụ Logistics trên cơ sở phân loại các yếu tố cơ bản của dịch vụ này. Dịch vụ Logistics theo quan niệm của WTO gồm ba loại: (i) Dịch vụ Logistics chủ yếu (core Logistics service) là dịch vụ làm hàng, dịch vụ lưu kho, dịch vụ đại lý vận tải và các dịch vụ hỗ trợ khác; (ii) Dịch vụ liên quan đến vận tải gồm có vận tải hàng hóa (đường biển, đường thủy nội địa, đường hàng không, đường sắt, đường bộ và cho thuê phương tiện không có người vận hành) và các dịch vụ khác có liên quan đến dịch vụ Logistics như dịch vụ phân tích và thử nghiệm kỹ thuật, dịch vụ chuyển phát, dịch vụ đại lý hoa hồng, dịch vụ bán buôn và bán lẻ; (iii) Dịch vụ Logistics thứ yếu (non-core Logistics service) gồm dịch vụ máy tính và liên quan đến máy tính, dịch vụ đóng gói và dịch vụ tư vấn quản lý. Có thể nói, quá trình phát triển của dịch vụ Logistics là quá trình phát triển của những nhà cung cấp dịch vụ Logistics, các thương nhân kinh doanh dịch vụ Logistics. Xuất phát ban đầu, đó là những “người giao nhận” (Forwarder/Freight Forwarder/Forwarding Agent), chính xác hơn là người kinh doanh dịch vụ giao nhận. Cùng với sự phát triển của dịch vụ giao nhận, vai trò của người giao 230
  3. Chương 6. Những yếu tố chính tác động... nhận cũng được mở rộng ra rất nhiều. Cho đến khi Logistics được hình thành và phát triển với tính chất ngày càng phức tạp thì dẫn đến sự ra đời của một loại hình công ty là “công ty Logistics” (Logistics companies). Những năm 90 của thế kỷ XX đã chứng kiến rất nhiều công ty vận tải giao nhận và khai thác cảng đổi tên gọi thành Công ty kinh doanh Logistics. Theo Luật Thương mại ngày 14/6/2005 quy định “Dịch vụ Logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm: Nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói, bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao. Dịch vụ Logistics được phiên âm tiếng Việt là Lô-gi-stíc”. Mặc dù khái niệm dịch vụ Logistics trong Luật Thương mại nêu trên chưa hẳn đã nhận được sự nhất trí hoàn toàn của giới học thuật về tính đầy đủ và mức độ khái quát, nhưng về cơ bản khái niệm đó đã phản ánh được nội dung của dịch vụ Logistics. Hơn nữa, đây là cơ sở pháp lý hết sức quan trọng để điều chỉnh hoạt động kinh doanh các dịch vụ Logistics của các doanh nghiệp trên phạm vi toàn quốc và cũng là cơ sở quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu và hoạch định chính sách đối với từng dịch vụ trong hệ thống dịch vụ Logistics. 231
  4. TLHT LOGISTICS VÀ QUẢN TRỊ CHUỖI CUNG ỨNG 6.1.2. Đặc điểm của dịch vụ Logistics Dịch vụ Logistics là một quá trình của các hoạt động liên tục, liên quan mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau, được thực hiện một cách khoa học và có hệ thống qua các bước: nghiên cứu, hoạch định, tổ chức, quản lý, thực hiện, kiểm tra, kiểm soát và hoàn thiện. Do đó, dịch vụ Logistics xuyên suốt mọi giai đoạn trong hoạt động của doanh nghiệp, từ giai đoạn cung cấp nhân lực, thông tin, nguyên vật liệu đầu vào cho đến giai đoạn tiêu thụ sản phẩm cuối cùng. Dịch vụ Logistics là dạng hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp. Logistics hỗ trợ cho toàn bộ quá trình hoạt động của doanh nghiệp, ngay cả khi sản phẩm đã ra khỏi dây chuyền sản xuất của doanh nghiệp và đến tay người tiêu dùng. Một doanh nghiệp có thể kết hợp bất cứ yếu tố nào của Logistics với nhau hay tất cả các yếu tố Logistics tùy theo yêu cầu của doanh nghiệp mình. Dịch vụ Logistics còn hỗ trợ hoạt động của doanh nghiệp thông qua quản lý di chuyển và lưu trữ nguyên vật liệu đi vào doanh nghiệp và bán thành phẩm di chuyển trong doanh nghiệp. Dịch vụ Logistics là sự phát triển cao, hoàn thiện của dịch vụ giao nhận và dịch vụ vận tải đa phương thức, dịch vụ vận tải và giao nhận gắn liền và nằm trong Logistics. Sự phát triển của Logistics trong giao nhận vận tải bắt nguồn từ sự thay đổi trong sản xuất. Nhiều thập kỷ qua, cơ cấu công nghiệp và thương mại thế giới trải qua những biến đổi sâu sắc, nói chung người bán hàng hóa không nhất 232
  5. Chương 6. Những yếu tố chính tác động... thiết là người sản xuất và người mua cũng không nhất thiết phải là người tiêu dùng cuối cùng. Quá trình hàng hóa đi từ người sản xuất đến người tiêu dùng có nhiều người trung gian lần lượt đóng vai trò người bán, người mua và là một bộ phận của quá trình lưu thông hàng hóa từ người sản xuất đến người tiêu dùng. Tính chất phong phú của hàng hóa và sự vận động phức tạp của chúng đòi hỏi sự quản lý chặt chẽ và đặt ra những yêu cầu mới, cao hơn đối với vận tải. Đồng thời, để tránh đọng vốn, các nhà sản xuất luôn tìm cách duy trì một lượng hàng trong kho nhỏ nhất. Kết quả là hoạt động vận tải nói riêng và lưu thông phân phối nói chung, một mặt phải đảm bảo yêu cầu đúng lúc (Just in Time), mặt khác phải vận chuyển những chuyến hàng một cách hợp lý để đạt được mục tiêu không có hàng tồn kho (zero-stock). Trong thị trường cạnh tranh gay gắt, điều này dẫn đến nhu cầu vận chuyển những chuyến hàng nhỏ, đều đặn, kịp thời mà tính khả thi của cách thức này phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống thiết bị xếp dỡ - vận chuyển hàng hóa nhanh, luồng thông tin kịp thời, chính xác và sự ăn khớp giữa các quá trình. Vận tải giao nhận truyền thống có sự phát triển ngày càng đa dạng hơn, ở trình độ cao hơn. Từ chỗ chỉ thay mặt khách hàng để thực hiện các khâu rời rạc như thuê tàu, lưu cước, chuẩn bị hàng, đóng gói hàng, tái chế, làm thủ tục thông quan... cho tới cung cấp dịch vụ trọn gói từ kho đến kho (Door to Door). Từ chỗ đóng vai trò đại lý, người được ủy thác trở thành một chủ thể chính 233
  6. TLHT LOGISTICS VÀ QUẢN TRỊ CHUỖI CUNG ỨNG trong các hoạt động vận tải giao nhận với khách hàng, chịu trách nhiệm trước các bộ luật điều chỉnh. Ngày nay, để có thể thực hiện nghiệp vụ của mình, người giao nhận phải quản lý một hệ thống đồng bộ từ giao nhận tới vận tải, cung ứng nguyên vật liệu phục vụ sản xuất kinh doanh, bảo quản hàng hóa trong kho, phân phối hàng hóa đúng nơi, đúng lúc, sử dụng thông tin điện tử để theo dõi, kiểm tra... Như vậy, người giao nhận vận tải trở thành người cung cấp dịch vụ Logistics. Mặt khác, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin cho phép kết hợp các quá trình sản xuất, lưu kho hàng hóa, tiêu thụ, với hoạt động vận tải có hiệu quả hơn và đồng thời cũng phức tạp hơn. Công nghệ thông tin giúp người vận tải nâng cao chất lượng phục vụ đối với khách hàng của mình. Trước đây, để đi từ cơ sở của người sản xuất đến tay người tiêu dùng (đặc biệt trong ngoại thương hàng hóa đi từ nước này sang nước khác), hàng hóa thường phải qua tay nhiều người vận tải và trải qua nhiều phương thức vận tải khác nhau, vì vậy xác suất rủi ro mất mát đối với hàng hóa rất cao, người gửi hàng lại phải ký nhiều hợp đồng vận tải riêng biệt với từng người vận tải, mà trách nhiệm của mỗi người vận tải chỉ giới hạn trong chặng đường hay dịch vụ mà họ đảm nhiệm. Vào những năm 1970, cách mạng container trong ngành vận tải đã đảm bảo an toàn và độ tin cậy trong vận chuyển hàng hóa, là tiền đề và cơ sở cho sự ra đời và phát triển vận tải đa phương thức. Khi vận tải 234
  7. Chương 6. Những yếu tố chính tác động... đa phương thức MTO (Multimodal Transport Operator1) ra đời, chủ hàng chỉ phải ký một hợp đồng duy nhất (MT document) với người kinh doanh vận tải đa phương thức MTO. MTO sẽ chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện toàn bộ việc vận chuyển hàng hóa từ khi nhận hàng cho tới khi giao hàng bằng một chứng từ vận tải duy nhất cho dù bản thân họ có thể không phải là người chuyên chở thực tế. Như vậy, dịch vụ Logistics chính là sự phát triển khéo léo của dịch vụ vận tải đa phương thức. Toàn bộ hoạt động vận tải có thể được thực hiện theo một hợp đồng vận tải đa phương thức và sự phối hợp mọi chu chuyển của hàng hóa do người tổ chức dịch vụ Logistics đảm nhiệm. Điểm tương đồng là ở chỗ, trên cơ sở nhiều hợp đồng mua bán giữa người mua và người bán người tổ chức dịch vụ Logistics sẽ nhận hàng tại cơ sở của từng người bán và gom hàng lẻ thành nhiều đơn vị gửi hàng (consolidation) tại các nhà kho hay nơi xếp dỡ hàng hóa trước khi chúng được gửi tới nơi đến trên những phương tiện vận tải khác nhau. Tại nơi đến người tổ chức dịch vụ Logistics (Logistics Service Provider) thu xếp để tách các đơn vị gửi hàng đó (các lô hàng lớn) và xếp hàng hóa thành các lô hàng thích hợp (de- consolidation) để phân phối đến những địa chỉ cuối cùng. Người tổ chức dịch vụ logistics không chỉ giao nhận mà 1 Vận tải đa phương thức là vận chuyển hàng và hành khách từ điểm đầu đến điểm cuối có sử dụng các phương thức vận tải khác nhau: hàng không, đường bộ, đường thủy và đường ống; cảng, trung tâm phân phối, cảng khách, các phương tiện như xe tải và tàu thủy, xếp dỡ hàng hóa và lưu kho... 235
  8. TLHT LOGISTICS VÀ QUẢN TRỊ CHUỖI CUNG ỨNG còn làm các công việc như: lưu kho, dán nhãn hiệu, đóng gói bao bì, thuê phương tiện vận tải, làm thủ tục hải quan và có thể mua hộ cả bảo hiểm cho chủ hàng. Như vậy, nếu nhìn vào các giai đoạn phát triển có thể thấy rất rõ, Logistics trên thế giới được bắt đầu từ lĩnh vực vận tải đa phương thức, với sự hỗ trợ của những người giao nhận (Freight Forwarder). Ở các nước phát triển, người giao nhận đã dần mở rộng hoạt động, không chỉ làm những công việc đơn thuần của giao nhận vận chuyển mà còn cung cấp một số hoặc tất cả các hoạt động thuộc về Logistics, đồng thời kết nối các dịch vụ được cung cấp lại thành chuỗi dịch vụ. Họ đã trở thành người cung cấp dịch vụ Logistics service providers. Có thể nói, Logistics là hình thức phát triển cao, hoàn thiện của dịch vụ giao nhận và dịch vụ vận tải đa phương thức, trên cơ sở tận dụng các ưu điểm của công nghệ tin học để điều phối hàng hóa từ khâu tiền sản xuất tới tận tay người tiêu dùng cuối cùng qua các công đoạn: dịch chuyển, lưu kho và phân phối hàng hóa. Dịch vụ Logistics ưu việt hơn các dịch vụ vận tải thông thường ở chỗ tồn tại một nhà cung cấp giải pháp vận tải dựa trên việc lập kế hoạch, thực thi và quản lý chặt chẽ các luồng hàng hóa, ứng dụng công nghệ thông tin để thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Trong quá trình lưu chuyển hàng hóa, đồng thời cũng có sự lưu chuyển của các dòng thông tin về dịch vụ Logistics. Vì vậy, ở nhiều nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, khi nói đến Logistics người ta thường diễn tả 236
  9. Chương 6. Những yếu tố chính tác động... nó như là vận tải giao nhận và nhiều công ty, hiệp hội giao nhận kho vận ở các nước ngày nay đã đổi tên thành công ty cung cấp dịch vụ Logistics, hiệp hội Logistics (như đã dẫn chứng ở trên). Logistics không phải là một dịch vụ đơn lẻ mà là một chuỗi các dịch vụ liên hoàn. Cụ thể, Logistics là một chuỗi hệ thống dịch vụ (logistics system chain) liên quan đến vận tải, giao nhận hàng hóa như: làm các thủ tục giấy tờ, tổ chức vận tải, bao bì đóng gói, ghi nhãn hiệu, lưu kho lưu bãi, phân phối hàng hóa tới các địa chỉ khác nhau, chuẩn bị hàng hóa luôn sẵn sàng. Với hệ thống chuỗi dịch vụ này, cung cấp dịch vụ logistics (logistics service provider) sẽ giúp khách hàng tiết kiệm chi phí trong khâu dịch chuyển, lưu kho, lưu bãi và phân phối hàng hóa (nguyên liệu, bán thành phẩm, thành phẩm), cũng như chi phí dịch vụ logistics. Chuỗi các dịch vụ Logistics đó cũng chính là khái niệm Logistics hợp nhất (Integrated Logistics) thường được được nhắc đến hiện nay, với ý nghĩa là tổng hợp của tất cả những hoạt động Logistics cần thiết như vận tải, đóng gói, xếp dỡ hàng hóa, lưu kho, dự trữ, giao hàng/phân phối đến các nơi theo yêu cầu, làm các thủ tục trong quá trình giao nhận hàng hóa, cung cấp thông tin và dịch vụ khách hàng… để đảm bảo hỗ trợ một cách hiệu quả nhất và kinh tế nhất cho các doanh nghiệp. Có thể nói, với tính chất và đặc điểm của một dịch vụ “trọn gói” và “khép kín” như trên, Logistics là một trong 237
  10. TLHT LOGISTICS VÀ QUẢN TRỊ CHUỖI CUNG ỨNG những “dịch vụ chất lượng cao” hết sức cần thiết với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường hiện đại. 6.1.3. Phân loại dịch vụ Logistics Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau, người ta có thể phân loại dịch vụ logistics một cách khác nhau. Nếu căn cứ vào phạm vi không gian, người ta có thể phân loại thành: Dịch vụ Logistics toàn cầu (Global Logistics) và Dịch vụ Logistics quốc gia. Nếu căn cứ vào phạm vi hoạt động trong nền kinh tế, có thể phân loại dịch vụ logistics thành: Dịch vụ logistics tổng thể và dịch vụ logistics hẹp (có tính chất chuyên ngành, theo đối tượng hàng hóa, ví dụ logistics trong ngành may mặc, ngành ô tô, ngành công nghiệp thực phẩm...). Nếu căn cứ vào chủ thể tham gia, người ta có thể phân dịch vụ logistics thành: + Logistics bên thứ nhất (1PL) hay còn gọi là Logistics tự cung cấp: Công ty là chủ sở hữu hàng hóa tự tổ chức và thực hiện các dịch vụ logistics như vận tải, giao nhận, lưu kho… để đáp ứng yêu cầu của mình. Công ty sở hữu các phương tiện vận tải, nhà xưởng, thiết bị xếp dỡ và các nguồn lực khác bao gồm cả con người để thực hiện các hoạt động logistics. Logistics bên thứ nhất được áp dụng phổ biến ở Việt Nam thời kỳ trước những năm 1990, khi đó các nhà sản xuất tự vận chuyển hàng hóa, tự tổ chức 238
  11. Chương 6. Những yếu tố chính tác động... giao nhận… để thực hiện việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa của mình. + Logistics bên thứ hai (2PL): Người cung cấp dịch vụ không phải là chủ hàng như Logistics bên thứ nhất mà là một nhà cung cấp dịch vụ, nhưng chỉ cung cấp một dịch vụ đơn lẻ (vận chuyển, giao nhận, kho bãi, dự trữ…) trong hệ thống dịch vụ logistics. Logistics bên thứ hai được áp dụng phổ biến khi các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics chưa đủ mạnh để tổ chức đồng bộ chuỗi các dịch vụ trong hệ thống dịch vụ logistics. + Logistics bên thứ ba (3PL): Người cung cấp dịch vụ logistics bên thứ ba là nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp, người thay mặt cho chủ hàng quản lý và thực hiện các dịch vụ logistics. Do vậy, logistics bên thứ ba tích hợp các dịch vụ khác nhau, kết hợp chặt chẽ việc lưu chuyển hàng hóa và xử lý thông tin trong dây chuyền cung ứng. Hình thức này được áp dụng phổ biến ở các nước có nền kinh tế phát triển và đang được phát triển mạnh ở các nước ASEAN. + Logistics bên thứ tư (4PL) hay Logistics chuỗi phân phối: Người cung cấp dịch vụ logistics bên thứ tư là người tích hợp, chịu trách nhiệm quản lý, thực hiện quản trị cả quá trình lưu chuyển của dòng hàng hóa như: Nhận hàng từ nơi sản xuất, làm thủ tục xuất nhập khẩu, đưa hàng đến nơi tiêu thụ cuối cùng. Có nghĩa là Logistics bên thứ tư không chỉ tự tích hợp nhiều hoạt động mà còn gắn các dịch vụ của mình 239
  12. TLHT LOGISTICS VÀ QUẢN TRỊ CHUỖI CUNG ỨNG với những người cung cấp dịch vụ logistics khác, và cung cấp các giải pháp chuỗi logistics. 4PL là một khái niệm phát triển trên nền tảng của 3PL nhằm tạo ra sự đáp ứng dịch vụ, hướng về khách hàng và linh hoạt hơn. 4PL quản lý và thực hiện các hoạt động Logistics phức hợp như quản lý nguồn lực, trung tâm điều phối kiểm soát và các chức năng kiến trúc và tích hợp các hoạt động Logistics. 4PL bao gồm lĩnh vực rộng hơn gồm cả các hoạt động của 3PL, các dịch vụ công nghệ thông tin, và quản lý các tiến trình kinh doanh. 4PL được xem là một điểm liên lạc duy nhất, nơi thực hiện việc quản lý, tổng hợp các nguồn lực và giám sát các chức năng 3PL trong suốt chuỗi phân phối nhằm vươn tới thị trường toàn cầu, lợi thế chiến lược và các mối quan hệ lâu bền. Dịch vụ logistics bên thứ tư được áp dụng phổ biến ở các nước có các Công ty, tập đoàn kinh doanh Logistics đủ mạnh, có phạm vi hoạt động và hệ thống văn phòng đại diện hay các công ty con ở nhiều nước trên thế giới. + Logistics bên thứ năm (5PL): Mới xuất hiện những năm gần đây, logistics gắn với sự phát triển của thương mại điện tử, trên cơ sở ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại, không chỉ cung cấp các dịch vụ truyền thống mà còn cung cấp và phục vụ cho thị trường vận tải trực tuyến thông qua Internet. Trong lĩnh vực thương mại (cả thương mại nội địa và xuất nhập khẩu), logistics bao gồm mọi dịch vụ liên quan 240
  13. Chương 6. Những yếu tố chính tác động... đến vận chuyển hàng hóa (bằng đường biển, đường bộ, đường hàng không, đường thủy nội địa…), lưu kho, lưu bãi, sắp xếp hàng hóa, bao bì đóng gói, ghi kí hiệu, nhãn hiệu và phân phối cho người tiêu dùng. Nói cách khác, dịch vụ logistics phục vụ quá trình phát triển thương mại thực chất là việc tổ chức và quản lý quá trình vận chuyển hàng hóa qua nhiều công đoạn, chặng đường, phương tiện và địa điểm khác nhau. Các hoạt động này phải tuân thủ sự thống nhất và liên tục của dây chuyền: Vận chuyển - lưu kho - phân phối và phải đáp ứng yêu cầu của tính kịp thời. Thừa nhận vai trò của dịch vụ logistics trong phát triển thương mại nội địa và xuất nhập khẩu nên các nước trên thế giới rất chú trọng phát triển dịch vụ này. Đối với các công ty cung cấp dịch vụ Logistics, người ta có thể phân loại theo các nhóm như sau: + Các Công ty cung cấp dịch vụ vận tải: Các công ty cung cấp dịch vụ vận tải đơn phương thức. VD: Công ty cung cấp dịch vụ vận tải đường bộ, đường sắt, hàng không, đường biển. Các công ty cung cấp dịch vụ vận tải đa phương thức. Các công ty cung cấp dịch vụ khai thác cảng. Các công ty môi giới vận tải. + Các Công ty cung cấp dịch vụ phân phối: Công ty cung cấp dịch vụ kho bãi. 241
  14. TLHT LOGISTICS VÀ QUẢN TRỊ CHUỖI CUNG ỨNG Các công ty cung cấp dịch vụ phân phối. + Các công ty cung cấp Dịch vụ hàng hóa: Các công ty môi giới khai thuê hải quan. Các công ty giao nhận, gom hàng lẻ. Các công ty chuyên ngành hàng nguy hiểm. Các công ty dịch vụ đóng gói vận chuyển. + Các công ty cung cấp Dịch vụ Logistics chuyên ngành: Các công ty công nghệ thông tin. Các công ty viễn thông. Các công ty cung cấp giải pháp tài chính, bảo hiểm. Các công ty cung cấp dịch vụ giáo dục và đào tạo. Các công ty cung cấp dịch vụ Logistics cũng lại có thể được chia thành 2 loại: Các công ty cung cấp dịch vụ Logistics có và không có tài sản. Các công ty sở hữu tài sản thực sự có riêng đội vận tải, nhà kho... và sử dụng chúng để quản lý tất cả hay một phần các hoạt động Logistics cho khách hàng của mình. Các công ty Logistics không sở hữu tài sản thì hoạt động như một người hợp nhất các dịch vụ Logistics và phần lớn các dịch vụ là đi thuê ngoài. Họ có thể phải đi thuê phương tiện vận tải, nhà kho, bến bãi... Việc thuê ngoài đã nhanh chóng phát triển trong vài năm gần đây. Ngày nay có rất nhiều loại hình dịch vụ Logistics nhằm đáp ứng yêu cầu 242
  15. Chương 6. Những yếu tố chính tác động... đa dạng khác nhau của các ngành hàng khác nhau. Khác với trước đây, không chỉ các dịch vụ Logistics cơ bản như vận tải và kho vận mà các loại dịch vụ phức tạp và đa dạng khác cũng đã xuất hiện. Việc thuê ngoài các dịch vụ Logistics gọi theo thuật ngữ chuyên ngành là Outsourcing. 6.1.4. Vai trò của dịch vụ Logistics Phát triển dịch vụ logistics là một tất yếu trong nền kinh tế thị trường hiện đại, nó là kết quả của quá trình chuyên môn hóa và phân công lao động sâu sắc. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới theo hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa, dịch vụ logistics ngày càng đóng vai trò hết sức quan trọng. Sự phát triển dịch vụ logistics có tác dụng to lớn thúc đẩy sự phát triển sản xuất, thương mại, nâng cao hiệu quả phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế của từng doanh nghiệp cũng như của các quốc gia. Vai trò của Logistics thể hiện cả ở cấp độ vĩ mô và vi mô. a. Vai trò của Logistics đối với nền kinh tế Thứ nhất, Logistics hỗ trợ cho luồng chu chuyển các giao dịch kinh tế trong sản xuất, lưu thông, phân phối; nâng cao hiệu quả hoạt động Logistics sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của đất nước. Đối với nền kinh tế quốc dân, logistics đóng một vai trò quan trọng không thể thiếu trong sản xuất, lưu thông, phân phối. Nếu xem xét ở góc độ tổng thể thì Logistics là mối liên kết kinh tế xuyên suốt gần như toàn bộ quá trình sản xuất, lưu thông và phân phối hàng hóa. Mỗi hoạt động Logistics đều có một vị trí và 243
  16. TLHT LOGISTICS VÀ QUẢN TRỊ CHUỖI CUNG ỨNG chiếm một khoản chi phí nhất định. Vì vậy, nếu nâng cao hiệu quả hoạt động Logistics thì sẽ góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội. Bên cạnh đó, Logistics hỗ trợ cho luồng chu chuyển các giao dịch kinh tế, giúp các nguồn tài nguyên được biến đổi thành sản phẩm. Nền kinh tế chỉ có thể phát triển nhịp nhàng, đồng bộ một khi dây chuyền Logistics hoạt động liên tục, thông suốt. Và cuối cùng, hàng loạt các hoạt động kinh tế liên quan diễn ra trong chuỗi Logistics, theo đó các nguồn tài nguyên được biến đổi thành sản phẩm, và điều quan trọng là giá trị được tăng lên cho cả khách hàng lẫn người sản xuất, giúp thỏa mãn nhu cầu của mỗi người. Thứ hai, Logistics là công cụ liên kết các hoạt động trong chuỗi giá trị toàn cầu GVC (Global Value Chain) như cung cấp, sản xuất, lưu thông phân phối, mở rộng thị trường cho các hoạt động kinh tế. Khi thị trường toàn cầu phát triển với các tiến bộ công nghệ, đặc biệt là việc mở cửa thị trường ở các nước đang và chậm phát triển, Logistics được các nhà quản lý coi như là công cụ, phương tiện liên kết các lĩnh vực khác nhau trong chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Logistics tạo ra sự hữu dụng về thời gian và địa điểm cho các hoạt động của doanh nghiệp. Thứ ba, Logistics phát triển góp phần mở rộng thị trường trong buôn bán quốc tế, tiêu chuẩn hóa chứng từ trong kinh doanh quốc tế. Sản xuất có mục đích là phục vụ tiêu dùng, cho nên trong sản xuất kinh doanh vấn đề thị 244
  17. Chương 6. Những yếu tố chính tác động... trường luôn là vấn đề quan trọng và luôn được các nhà sản xuất và kinh doanh quan tâm. Các nhà sản xuất kinh doanh muốn chiếm lĩnh và mở rộng thị trường cho sản phẩm của mình phải cần sự hỗ trợ của dịch vụ Logistics. Dịch vụ Logistics có tác dụng như chiếc cầu nối trong việc chuyển dịch hàng hóa trên các tuyến đường mới đến các thị trường mới đúng yêu cầu về thời gian và địa điểm đặt ra. Dịch vụ Logistics phát triển có tác dụng rất lớn trong việc triển khai và mở rộng thị trường kinh doanh cho các doanh nghiệp. Kinh tế thị trường phát triển, khối lượng và giá trị hàng hóa trao đổi trên thị trường giữa các quốc gia, các nền kinh tế tăng nhanh chóng. Các dịch vụ Logistics phục vụ cho quá trình vận chuyển hàng hóa cũng ngày càng phát triển. Các công ty, doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế... kinh doanh dịch vụ Logistics xuất hiện ngày càng nhiều, từ chỗ chỉ chuyên kinh doanh một loại dịch vụ (dịch vụ vận chuyển hay dịch vụ giao nhận, kho bãi...) nay đã phát triển thành các công ty, tập đoàn lớn kinh doanh tất cả các dịch vụ phục vụ cho quá trình lưu chuyển hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ cuối cùng. Logistics phát triển, cung cấp các dịch vụ đa dạng, trọn gói đã có tác dụng giảm thiểu các loại chi phí giấy tờ, chứng từ trong buôn bán quốc tế (một giao dịch thương mại quốc tế thường tiêu tốn các loại giấy tờ, chứng từ mà theo đánh giá của Liên hợp quốc, chi phí về giấy tờ phục vụ mọi mặt giao dịch thương mại quốc tế hàng năm đã vượt quá 420 tỷ USD; chi phí và sự rườm rà của giấy tờ, chứng từ 245
  18. TLHT LOGISTICS VÀ QUẢN TRỊ CHUỖI CUNG ỨNG ảnh hưởng lớn tới các hoạt động buôn bán quốc tế). Dịch vụ vận tải đa phương thức do nhà kinh doanh Logistics đảm nhận đã loại bỏ rất nhiều chi phí cho giấy tờ thủ tục, nâng cấp và chuẩn hóa chứng từ cũng như giảm khối lượng công việc văn phòng trong lưu thông hàng hóa, Từ đó, nâng cao hiệu quả buôn bán quốc tế. Thêm nữa, cùng với sự phát triển E-Logistics sẽ tạo ra cuộc cách mạng trong dịch vụ vận tải và giao nhận, chi phí cho giấy tờ, chứng từ trong lưu thông hàng hóa càng được giảm đến mức tối đa, chất lượng dịch vụ Logistics ngày càng được nâng cao, thu hẹp hơn nữa mọi cản trở về không gian và thời gian trong dòng lưu chuyển hàng hóa và dịch vụ. Các quốc gia sẽ xích lại gần nhau hơn trong hoạt động sản xuất và lưu thông. b. Vai trò của Logistics đối với doanh nghiệp Nhà quản trị doanh nghiệp Peter Drucker coi Logistics là “châu lục trong bóng tối của nền kinh tế”, vì Logistics là lĩnh vực dễ bị lãng quên nhất, nhưng cũng chính lại là lĩnh vực hứa hẹn nhiều ích lợi nhất. Quan điểm này đã được đưa ra từ năm 1962 nhưng cho đến nay vẫn đúng, và các nhà kinh doanh vẫn không ngừng tìm kiếm cách thức khai thác Logistics một cách hiệu quả nhất. Thứ nhất, Logistics có vai trò quan trọng trong việc tối ưu hóa chu trình lưu chuyển của sản xuất kinh doanh từ khâu đầu vào nguyên vật liệu, phụ kiện... tới sản phẩm cuối cùng đến tay khách hàng sử dụng. Các cuộc khủng hoảng năng lượng xảy ra liên tiếp từ thập niên 1970 buộc các 246
  19. Chương 6. Những yếu tố chính tác động... doanh nghiệp phải quan tâm hơn tới chi phí, đặc biệt là chi phí vận chuyển. Lãi suất ngân hàng cao trong nhiều giai đoạn cũng khiến các doanh nghiệp có nhận thức sâu sắc hơn về vốn, vì vốn sẽ bị đọng lại do việc duy trì quá nhiều hàng tồn kho. Chính trong giai đoạn này, cách thức tối ưu hóa quá trình sản xuất, lưu kho, vận chuyển hàng hóa được đặt lên hàng đầu. Với sự trợ giúp của công nghệ thông tin, Logistics chính là công cụ đắc lực để thực hiện điều này. Có thể nói, Logistics đóng vai trò to lớn trong việc giải quyết bài toán đầu vào và đầu ra một cách có hiệu quả trong doanh nghiệp. Logistics có thể thay đổi nguồn tài nguyên đầu vào hoặc tối ưu hóa quá trình chu chuyển nguyên vật liệu, hàng hóa, dịch vụ... Sự phát triển dịch vụ Logistics có ý nghĩa đảm bảo cho việc vận hành sản xuất, kinh doanh được chính xác về thời gian và chất lượng. Thứ hai, Logistics góp phần giảm thiểu chi phí trong quá trình sản xuất, tăng cường sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Logistics là một chuỗi các hoạt động liên tục, có liên hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Dịch vụ Logistics xuất hiện trong hầu như toàn bộ quá trình sản xuất, lưu thông và phân phối hàng hóa. Chi phí Logistics bao gồm các chi phí giao thông vận tải, đóng gói, dự trữ, kiểm kê, hành chính và quản lý. Việc kiểm soát tất cả các chi phí này trong chuỗi dịch vụ Logistics quốc tế giữ vai trò rất quan trọng, bởi vì giảm chi phí này nghĩa là: giảm chi phí đầu vào của các hàng hóa, dịch vụ và giảm những rủi ro trong hoạt động kinh tế giữa các quốc gia; 247
  20. TLHT LOGISTICS VÀ QUẢN TRỊ CHUỖI CUNG ỨNG giúp các công ty giành được ưu thế trong cạnh tranh, Từ đó, dẫn đến tăng trưởng thương mại quốc gia; thúc đẩy tính hiệu quả không chỉ trong hoạt động sản xuất mà cả trong hoạt động phân phối giữa các cơ sở sản xuất và từ trung tâm phân phối tới nơi tiêu dùng; giảm sự cách biệt giữa giá tiêu dùng và sản xuất; khuyến khích sự phân phối lao động một cách hiệu quả trong khu vực. Như vậy, Logistics phát triển tốt sẽ mang lại khả năng tiết giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đã thành công lớn nhờ khai thác Logistics đúng đắn. Nhưng cũng không ít doanh nghiệp gặp khó khăn, thậm chí thất bại vì có những quyết định sai lầm trong hoạt động Logistics như: chọn sai vị trí, chọn nguồn cung cấp tài nguyên sai, dự trữ không phù hợp, tổ chức vận chuyển không hiệu quả... Chi phí dịch vụ Logistics là rất lớn (chiếm khoảng trên 10% ở các nước phát triển và 15-20%, thậm chí đến 25% ở các nước đang phát triển), do đó giảm chi phí Logistics hay chi phí Logistics thấp đồng nghĩa với việc có được giá cả xuất nhập khẩu cạnh tranh. Vì vậy, việc phát triển dịch vụ Logistics sẽ giúp các doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế giảm được chi phí trong chuỗi Logistics, làm cho quá trình sản xuất kinh doanh tinh giản hơn và đạt được hiệu quả cao hơn. Thứ ba, Logistics hỗ trợ cho các nhà quản lý ra quyết định chính xác trong hoạt động sản xuất kinh doanh, qua đó nâng cao hiệu quả quản lý. Trong quá trình sản xuất 248
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0