intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn

Chia sẻ: Trần Thị Mỹ Dung | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:19

172
lượt xem
17
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn trình bày, phân tích kĩ, hay toàn bộ đoạn trích "Việt Bắc" - Ngữ văn 12. Người viết phân tích theo bố cục SGK để HS tiện ôn tập. Đây là tài liệu hữu ích phục vụ ôn thi THPT Quốc gia năm 2018 - 2019

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn

  1. Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn                                           Năm học 2018 ­  2019 BÀI 3: VIỆT BẮC Phần 1: Tác giả Tố Hữu 1. Giới thiệu chung Nhà thơ Tố Hữu được đánh giá là ngọn cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam, được   ngợi ca là “con chim sơn ca” của cách mạng. 2. Vài nét về tiểu sử  Tên khai sinh: Nguyễn Kim Thành (1920 – 2002)  Quê quán: làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên­  Huế  Xuất thân: gia đình nhà nho nghèo  Thời thơ ấu, sinh ra và lớn lên ở Huế  Thời thanh niên, sớm giác ngộ cách mạng và hăng say hoạt động  Sau đó, ông lần lượt đảm nhiệm những nhiệm vụ  trọng yếu trên mặt trận văn hoá  văn nghệ, trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước 3. Đường cách mạng, đường thơ Tố Hữu đến với thơ ca và cách mạng cùng một lúc. Các chặng đường thơ của Tố Hữu  luôn song hành, gắn bó và phản ánh chân thực những chặng đường đấu tranh cách mạng  gian khổ, vinh quang của dân tộc, đồng thời thể  hiện sự  vận động trong tư  tưởng và   nghệ thuật của chính nhà thơ. Các tập thơ Hoàn cảnh st Đặc điểm tiêu biểu 1) Từ ấy Phong   trào   Mặt   Đánh dấu bước trưởng thành của người thanh   (1937   1946) trận   dân   chủ   và  niên quyết tâm đi theo Đảng:  cuộc   vận   động   Chia sẻ, cảm thông với cuộc đời cơ  cực của  tiến   tới   CMT8  những người nghèo khổ trong XH. năm 1945   Khao khát tự  do, quyết tâm chiến đấu trong   chốn lao tù.  Nồng nhiệt ngợi ca thắng lợi của CMT8. 2) Việt Bắc Cuộc kháng chiến    Tiếng ca hùng tráng, thiết tha về  cuộc kháng  (1946   1954) chống   Pháp   gian  chiến chống Pháp và con người kháng chiến. khổ, anh dũng của    Thể hiện những tình cảm lớn dân tộc 3) Gió lộng Miền   Bắc   đi   lên   Hướng về quá khứ để ghi sâu ân tình cách mạng (1955   1961) xây dựng CNXH và   Ngợi ca cuộc sống mới trên miền Bắc đấu   tranh   thống    Tình cảm thiết tha, sâu đậm với miền Nam  nhất đất nước ruột thịt 1
  2. Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn                                           Năm học 2018 ­  2019 4) Ra trận Cuộc kháng chiến   Bản hùng ca về miền Nam trong lửa đạn sáng  (1962   1971) chống   Mĩ   cứu  ngời 5)   Máu   và   hoa  nước   gian   khổ,    Ghi   lại  chặng   đường   CM   đầy  gian  khổ,   hi   (1972   1977) anh dũng và toàn sinh,   khẳng   định   niềm   tin,   niềm   tự   hào   phơi  thắng phới khi toàn thắng về ta 6)   Một   tiếng   Đất   nước   bước    Những suy tư, chiêm nghiệm mang tính phổ  đờn (1992) vào   thời   kì   hàn  quát về con người, cuộc đời 7)   Ta   với   ta  gắn   vết   thương    Niềm   tin   vào   lí   tưởng   và   con   đường   cách  (1999) chiến   tranh,   xây  mạng, tin vào chữ nhân luôn toả sáng trong mỗi   dựng, đổi mới tâm hồn con người III. PHONG CÁCH THƠ TỐ HỮU * Khái niệm phong cách:  Nói đến phong cách nghệ  thuật của một tác giả  là nói đến một sự  bền vững, xuyên   suốt, lặp đi lặp lại nhiều lần trong sáng tác trên các phương diện nội dung, hình thức   thể hiện, nghệ thuật. Nói cách khác, đó là sự thể hiện tài nghệ của người nghệ sĩ trong  việc đưa đến cho độc giả một cái nhìn mới mẻ về cuộc đời thông qua những phương   thức, phương tiện nghệ thuật mang đậm dấu ấn cá nhân của người sáng tạo. * Phong cách thơ Tố Hữu: 1. Về nội dung: mang tính chất trữ tình chính trị  Trong việc biểu hiện tâm hồn, thơ TH luôn hướng tới cái ta chung với lẽ  sống lớn,   tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người CM, của c ả dân tộc. (VD: những tình cảm  lớn như: tình yêu lí tưởng (Từ   ấy), tình cảm kính yêu lãnh tụ  (Sáng tháng Năm), tình  đồng bào, đồng chí, tình quân dân (Cá nước), tình cảm quốc tế  vô sản (Em bé Triều   Tiên)…; niềm vui lớn (niềm vui chiến thắng trong  Huế  tháng Tám, Hoan hô chiến sĩ   Điện Biên, Toàn thắng về ta).  Trong việc miêu tả đời sống, thơ TH mang đậm tính sử thi: + Đối tượng hướng đến của cảm xúc: các sự kiện chính trị lớn lao, những vấn đề có   tính chất lịch sử và ý nghĩa toàn dân, những biến cố rộng lớn liên quan đến vận mệnh   dân tộc. + Cảm hứng chủ đạo: cảm hứng lịch sử    dân tộc chứ không phải cảm hứng thế sự   đời tư. + Con người hiện diện trong thơ: tiêu biểu cho phẩm chất dân tộc, mang tầm vóc lịch  sử thời đại (anh vệ quốc quân, anh giải phóng quân, anh Nguyễn Văn Trỗi, chị Trần Thị  Lý…). + Giọng điệu thơ: Thơ THữu có giọng điệu riêng rất dễ nhận ra, đó là giọng tâm tình,   ngọt ngào, tha thiết, giọng của tình thương mến. (Điều này thể  hiện rõ từ  những cách  xưng hô với đối tượng trò chuyện, tâm sự (Bạn đường ơi!; Hỡi người bạn; Anh vệ quốc   quân  ơi...) cho đến cả thnhiên đất nước (Xuân  ơi xuân; Hương Giang  ơi; Đất nước ta   ơi...). 2. Về nghệ thuật: đậm đà tính dân tộc  Thể  thơ: đặc biệt thành công khi vận dụng những thể thơ truyền thống của dân tộc   như lục bát, thất ngôn, ngũ ngôn,…  Ngôn ngữ: 2
  3. Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn                                           Năm học 2018 ­  2019 + Thường sử dụng lối nói, cách diễn đạt, những phương thức chuyển nghĩa quen thuộc   của thơ  ca dân gian (Mình đi mình lại nhớ  mình – Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình   bấy nhiêu) + Thường sử dụng những ngôn từ giản dị, những thi liệu truyền thống (Ai về mua vại   Hương Canh – Ai lên mình gửi cho anh với nàng) + Tố Hữu có biệt tài trong việc sử dụng từ láy, phối hợp thanh, vần,... phát huy cao độ  tính nhạc phong phú của tiếng Việt (Em  ơi, Ba Lan mùa tuyết tan – Đường Bạch  Dương sương trắng nắng tràn/ Gió lộng xôn xao, gió biển đu đưa – Mát rượi lòng ta   ngân nga tiếng hát) Phần 2: Đoạn trích “Việt Bắc” I. TÌM HIỂU CHUNG 1. Về bài thơ “Việt Bắc” a) Xuất xứ, vị trí  Là bài thơ tiêu biểu, được coi là linh hồn của tập thơ “Việt Bắc” (1946 – 1954).  “Việt Bắc” không chỉ  là đỉnh cao của thơ Tố  Hữu mà còn là một trong những thành   công xuất sắc của thơ ca thời kì kháng chiến chống Pháp. “Việt Bắc” được coi là khúc  hùng ca và bản tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến. b) Hoàn cảnh sáng tác  Việt Bắc là khu căn cứ của cách mạng Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp.   Tháng 5/ 1954, chiến dịch Điện Biên Phủ  kết thúc thắng lợi. Tháng 7/ 1954 , hiệp  định Giơ­ne­vơ  về  Đông Dương được kí kết. Hòa bình lập lại, miền Bắc được giải  phóng và đi lên xây dựng CNXH, một trang sử mới của đất nước mở ra.  Tháng 10/ 1954 , TW Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Thủ đô Hà Nội.  Nhân sự kiện có tính lịch sử ấy Tố Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc”.   Hoàn cảnh sáng tác: cho thấy rõ hơn cảm hứng chủ  đạo của bài thơ. Đó là nỗi nhớ  thương lưu luyến trong giờ phút chia tay, là nghĩa tình thắm thiết với Việt Bắc, quê hương  cách mạng, với đất nước và nhân dân, với cuộc kháng chiến nay đã trở thành kỉ niệm.  c) Kết cấu, bố cục  Kết cấu: Bài thơ được kết cấu theo hình thức đối đáp giữa mình và ta, giữa người đi   và kẻ   ở  tựa những câu hát giao duyên trong ca dao xưa. Nhưng thực ra, bên trong lớp   đối thoại của kết cấu là lời độc thoại của tâm trạng: kẻ ở   người đi, câu hỏi   lời đáp  cũng chỉ là sự phân thân của chủ thể trữ tình, là thủ pháp để nhà thơ bộc lộ nỗi niềm,  tâm trạng, tạo ra sự hô ứng, đồng vọng, vang ngân.  Bố cục: Bài thơ “Việt Bắc” gồm 2 phần: + Phần 1: Thông qua diễn tả tâm trạng nhớ nhung giữa người về xuôi với Việt Bắc   và Việt Bắc với người về xuôi, nhà thơ đã tái hiện một giai đoạn kháng chiến gian khổ  hào hùng của dân tộc, nay đã thành kỷ niệm sâu lắng trong lòng mỗi người. + Phần 2:  Nhà thơ  vẽ  lên viễn cảnh tương lai tươi sáng của đất nước và ca ngợi   công lao của Đảng, của lãnh tụ Hồ Chí Minh với dân tộc. 2. Về đoạn trích “Việt Bắc” trong SGK a) Vị trí: Văn bản trong SGK là thuộc phần 1 của bài thơ “Việt Bắc” b) Bố cục 3
  4. Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn                                           Năm học 2018 ­  2019   Từ  câu 1 đến câu 4 (Mình về  mình có nhớ  ta… Nhìn cây nhớ  núi, nhìn sông nhớ  nguồn?): Lời trăn trở, nhớ thương của người ở lại với người ra đi.   Từ  câu 5 đên câu 8 (Tiếng ai tha thiết bên cồn… Cầm tay nhau biết nói gì hôm  nay…”: Tâm trạng của người  ra đi trong giớ phút phân li  Từ câu 9 đến câu 20 (Mình đi, có nhớ những ngày… Tân Trào, Hồng Thái, mái đình,  cây đa): Lời nhắc nhớ những kỉ niệm cụ thể của người ở lại.  Từ  câu 21 đến câu 90: (Ta với mình, mình với ta… Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân   Trào): Tình cảm thuỷ chung và nỗi nhớ nhung tha thiết của người ra đi. * Lưu ý:  Phần in nghiêng: là lời người ở lại – đồng bào Việt Bắc.  Phần in đứng: là lời người ra đi – cán bộ kháng chiến. II. TÌM HIỀU VĂN BẢN 1. Lượt lời thứ nhất của người  ở lại (4 câu đầu): Lời trăn trở, nhớ  thương của  người ở lại với người ra đi. − Mở đầu bài thơ là 2 câu hỏi tu từ mang âm hưởng ca dao của người Việt Bắc dành  cho người ra đi. Hỏi không phải để mong nhận được câu trả lời mà là để  gợi nhắc   những kỉ niệm và thể hiện tâm trạng lưu luyến của người tiễn đưa. − Câu hỏi thứ nhất gợi nhắc những kỉ niệm về thời gian : “Mình về mình có nhớ ta /  Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” Trong câu hỏi này, “mình” chỉ  người ra đi, “ta” chỉ  người  ở  lại. Cách xưng hô  gợi nghĩ đến những câu ca dao tiễn bạn đầy bịn rịn : “Mình về ta chẳng cho về /   Ta nắm vạt áo, ta đề câu thơ”. Trong câu thơ  của Tố  Hữu, “mình”  ở  đầu câu thơ, “ta”  ở  cuối câu thơ, tưởng   như xa cách nhưng lại hoá ra gần gũi bởi được kết dính với nhau bằng nỗi nhớ.   Nỗi nhớ được xây dựng trên cơ sở của “mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” “Mười lăm năm” là chi tiết tả  thực, tính từ  sau khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940   cho đến tháng 10 năm 1954. Đó là khoảng thời gian lịch sử trọng đại của cách  mạng, của dân tộc. Trong khoảng thời gian đó, nhân dân Việt Bắc đã đồng cam  cộng khổ, chung sức chung lòng với cách mạng làm nên những thắng lợi vĩ đại,  giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Cũng trong khoảng thời gian này, nghĩa tình cách mạng giữa đồng bào Việt Bắc  và cán bộ  kháng chiến ngày càng keo sơn, thắm thiết. Bốn chữ “thiết tha mặn   nồng” chất chứa biết bao tình cảm sâu đậm. − Câu hỏi thứ  hai gợi nhắc những  kỉ  niệm về  không gian  : “Mình về  mình có nhớ  không / Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn ?” “cây ­ núi”, “sông ­ nguồn” trước hết là những hình ảnh tả thực của thiên nhiên.   Người  ở lại nhắn nhủ người về xuôi: về  Hà Nội rồi, nhìn cây thì hãy nhớ  đến   núi rừng chiến khu, nhìn sông thì hãy nhớ đến suối nguồn Việt Bắc. Hơn nữa, hình  ảnh “núi” và “nguồn” còn gợi mở  những miền không gian linh   thiêng, trừu tượng. Đó là miền không gian của sự khởi thuỷ, của sự lớn lao không   gì đo đếm được như trong ca dao : “Công cha như núi Thái Sơn / Nghĩa mẹ như  nước trong nguồn chảy ra”. Bởi vậy, câu hỏi thứ hai này còn là lời dặn dò kín đáo  của người ở lại đối với người về xuôi : đừng quên Việt Bắc đã từng là cội nguồn  cách mạng. Đây chính là đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” từ ngàn đời của ông cha  4
  5. Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn                                           Năm học 2018 ­  2019 ta.   Bốn câu thơ  tạo thành hai cặp câu bắt đầu với điệp ngữ  “mình về  mình có nhớ”,   cùng với các điệp từ  “nhớ”, “nhìn” vang lên như  một nỗi niềm lưu luyến khôn nguôi  của người ở lại. Sự tài tình của nhà thơ được thể hiện ở chỗ chỉ với hai câu hỏi tu từ,   một câu gợi nhớ thời gian, một câu gợi nhớ  không gian, nhà thơ  đã bao quát được cả  một thời cách mạng, một trời cách mạng với biết bao nhiêu ân tình. 2. Lượt lời thứ nhất của người ra đi (từ câu 5 đến câu 8): Tâm trạng của người ra  đi trong giờ phút phân li − Lời của trái tim sẽ chạm đến với trái tim và ngân rung thành những lời tâm tình tha   thiết. Vì vậy nếu bốn câu thơ  đầu là nỗi lòng của người  ở  lại thì bốn câu sau là  tiếng lòng đồng vọng của người ra đi : “Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi” “Ai” là đại từ  phiếm chỉ.  Ở  đây, nó chỉ  người  ở  lại nhưng không rõ là người   nào. Dường như người ra đi đang đắm chìm trong dòng hoài niệm về “mười lăm  năm” đã qua ở mảnh đất này, và bây giờ mới giật mình trở lại với hiện tại. Hiểu được nỗi lòng “tha thiết” của người ở lại nên người ra đi cũng bày tỏ tâm  trạng của mình lúc chia xa : “Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi”. Câu thơ  được ngắt nhịp 4/4 với hai vế tiểu đối đã thể hiện được sự thống nhất giữa tâm  trạng bên trong và hành động bên ngoài của người ra đi. Vì trong lòng “bâng   khuâng” − luyến tiếc, nhớ  thương xen lẫn nên bước chân cũng như  mang đầy  tâm trạng “bồi hồi bước đi”. Đó bước chân dùng dằng, bịn rịn, nửa như  muốn  bước đi, nửa như muốn quay lại, nửa không muốn xa, nửa vẫn đành phải xa. − Vào giờ phút chia li  ấy, điều đọng lại sâu đậm trong tâm trí người ra đi là hình ảnh   “áo chàm” : “Áo chàm đưa buổi phân li”. Đây là hình  ảnh hoán dụ  chỉ  người dân   Việt Bắc, đồng thời cũng gợi nhiều suy nghĩ, liên tưởng. Màu chàm trầm  ấm gợi   nghĩ đến những tấm lòng hồn hậu, chất phác và  ấm áp nghĩa tình của con người  Việt Bắc − những người đã đồng cam cộng khổ, chia ngọt sẻ  bùi với người ra đi   trong suốt mười lăm năm qua. Màu áo  ấy, điệu hồn  ấy sẽ  còn in mãi trong tâm trí   người ra đi. − Nỗi xúc động trào dâng, khiến người ra đi như  nghẹn lời, mọi cảm xúc dồn nén   trong cái cầm tay lưu luyến : “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”.  Bao lưu luyến vấn vương, bao yêu thương nồng đượm gửi gắm trong cái cầm tay   ấy. Nhịp trong thơ lục bát thường đều đặn và ngắt nhịp chẵn nhưng câu thơ này, Tố  Hữu lại có cách ngắt nhịp độc đáo 3/3/2 (Cầm tay nhau / biết nói gì / hôm nay).   Nhịp thơ này đã tạo ra được khoảng lặng đong đầy cảm xúc biệt li bịn rịn, dùng   dằng, lưu luyến trong lòng người ra đi.  Đoạn thơ đã thể hiện một cách tinh tế  và đầy cảm động tâm trạng của người ra đi,   từ  nỗi bâng khuâng trong lòng, sự  ngập ngừng mỗi bước chân đi, cử  chỉ  “cầm tay   nhau” thân thương, trìu mến cho đến cả sự im lặng không lời đầy xúc động... Bốn câu   thơ ngắn gọn vừa là sự đồng vọng, nhớ nhung của người về xuôi với người ở lại, vừa  tái hiện cảnh tiễn đưa bịn rịn, lưu luyến, sâu nặng nghĩa tình. 3. Lượt lời thứ 2 của người  ở lại   (câu 9   20): Lời nhắc nhớ những kỉ niệm cụ  thể và bộc bạch nỗi nhớ thương 5
  6. Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn                                           Năm học 2018 ­  2019 − Đoạn thơ gồm 12 dòng thơ, tạo thành 6 câu hỏi của người ở lại với người ra đi,  những câu hỏi dồn dập, gấp gáp bởi dường như giờ phút chia tay càng đến gần  thì những kỉ  niệm lại ùa về  mãnh liệt hơn, khiến lòng người day dứt, thương   nhớ khôn nguôi. * Nhắc nhớ những kỉ niệm − Trước hết, là kỉ  niệm về   thời tiết khắc nghiệt, đặc trưng của núi rừng Việt  Bắc: Mình đi có nhớ những ngày Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù Phép liệt kê, cùng phép điệp từ chỉ số nhiều “những” đã nhắc nhớ trong lòng người cán  bộ kháng chiến về những chuỗi ngày phải đối mặt với hàng loạt thử thách khắc nghiệt  của thiên nhiên : Đó là ”mưa” – thứ “mưa rừng chớp bể” dữ dội mà chỉ  trong chốc lát  có thể  tạo nên những cơn “lũ” lớn cuốn phăng cả  một ngôi làng, đó còn là sương, là   mây mù – thứ  sương dày đặc phủ  lấp cả  đoàn quân ( Sài Khao sương lấp đoàn quân   mỏi – Quang Dũng) và tạo nên cái “rét thấu xương” ( Ngày lại ngày qua, rét thấu xương  – Tố Hữu), “rét xé thịt da” (Đói rét bao lần xé thịt da – Thôi Hữu). − Lời người  ở  lại còn gợi nhắc  những ngày tháng với vô vàn thiếu thốn trong  cuộc kháng chiến trường chinh của dân tộc : Mình về có nhớ chiến khu Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai Ở  đây, nghệ  thuật đối đã được sử  dụng để  nhấn mạnh sự  đối lập giữa đời sống vật  chất – miếng cơm chấm muối      và gánh nặng tinh thần – mối thù nặng vai   mà “ta”  và “mình” đã cùng nhau chia sẻ. − Sự  gắn bó khiến họ  thêm thấu hiểu, thương cảm và trân trọng nhau hơn. Câu   hỏi Mình đi, có nhớ những nhà Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son gợi nhắc cho người ra đi về hình ảnh của đồng bào Việt Bắc.  “Nhà” là hoán dụ chỉ con người.  “Hắt hiu lau xám” vừa là hình ảnh thực gợi tả không gian hoang vắng, tiêu sơ, buồn   bã của núi rừng, vừa mang ý nghĩa ẩn dụ  cho cuộc sống nghèo khổ  của người dân  nơi đây “đậm đà lòng son” là chỉ tấm lòng thuỷ chung, son sắt.  Nghệ thuật đối trong câu 8 đã khắc hoạ đậm nét sự đối lập giữa cảnh sống và tấm   lòng của người dân Việt Bắc đối với cách mạng. Chính trong hoàn cảnh sống còn  nhiều khó khăn, vất vả ấy, tấm lòng thuỷ chung, gắn bó với kháng chiến của đồng  bào càng đáng quý, đáng trân trọng hơn. − Trong hai câu hỏi cuối cùng của người  ở  lại, tất cả  những kỉ  niệm trong suốt  những năm tháng ác liệt và hào hùng từ  thời Mặt trận Việt Minh, thời kháng   Nhật, tới 9 năm kháng chiến chống Pháp đều lần lượt sống dậy: Mình về, còn nhớ núi non Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh Mình đi, mình có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa + Hai câu hỏi nhắc nhớ những khoảng thời gian khó khăn nhất của cách mạng  “khi  6
  7. Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn                                           Năm học 2018 ­  2019 kháng Nhật”, “thuở còn Việt Minh” và những địa danh gắn vơi các sự kiện lịch sử trọng   đại nhất của dân tộc và kháng chiến: đình Hồng Thái là nơi họp Quốc dân Đại hội  8/1945, thành lập Uỷ ban Dân tộc giải phóng và phát lệnh Tổng khởi nghĩa; gốc đa Tân  Trào là nơi đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân làm lễ  xuất phát chuẩn bị cho   Tổng khởi nghĩa. + Câu thơ “Mình đi, mình có nhớ mình” có nhiều cách hiểu căn cứ vào nét nghĩa  khác nhau của từ  “mình”  ở  cuối câu thơ. Có thể  hiểu chữ  “mình”  ấy là người  ở  lại.  Khi  ấy, câu hỏi sẽ  trăn trở  nỗi nhớ  nhung, day dứt: mình đi, mình có còn nhớ  đến ta  nữa hay không? Đây cũng là nỗi niềm da diết trong suốt cả bài thơ. Cách hiểu này cho  thấy sự hoà hợp, gắn kết giữa người đi – kẻ ở: tuy hai mà một, không thể tách rời. Lại   cũng có thể hiểu chữ “mình” ấy là người ra đi. Và khi ấy, câu hỏi sẽ  là một lời nhắc   nhở  tha thiết, sâu xa và nghiêm nghị: mình đi, mình có nhớ  và giữ  được mãi là con   người mình ngày xưa không? Nỗi lo lắng ấy có căn cứ bởi nơi mà người đi sẽ về là Hà   Nội phồn hoa đô hội, cuộc sống thay đổi có thể làm cho con người ta đổi khác.  * Bộc bạch nỗi lòng − Lời người ở lại không chỉ có nhắc nhớ mà còn bộc bạch nỗi lòng : Mình về rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng, măng mai để già “rừng núi” là hoán dụ chỉ người dân Việt Bắc,  “ai” chính là người ra đi.  “Trám bùi” và “măng mai” là những sản vật quen thuộc và quý giá của núi rừng.  Phép điệp cấu trúc “…để rụng”, “…để già” gợi lên hình ảnh cuộc sống như ngưng  trệ, núi rừng như  hoang phế và lòng người  ở  lại thì hụt hẫng, trống trải sau bước   chân của người đi. Dường như sau khi người cán bộ về xuôi, trám bùi trên cây không  ai hái, rụng xuống đất không ai nhặt, măng mai để  già hoang phí giữa rừng sâu.  Người ra đi đã để  lại một khoảng trống mênh mông   trong lòng người Việt Bắc   giữa heo hút núi rừng. − Đoạn thơ  là lời của người  ở  lại nhưng lại có tới 7 chữ   “mình” – chỉ  người ra đi  được lặp lại, dường như  trong giờ  phút phân li này, hình  ảnh của người ra đi đã  chiếm trọn tâm trí của người ở lại. Hơn nữa, tác giả lại dùng từ “mình” kết hợp hai  từ chỉ sự di chuyển “đi” – “về” khiến cho cảm giác về sự chia li càng được tô đậm   thêm. Việc thay đổi, luyến láy “mình đi”, “mình về” không chỉ  tạo nhạc điệu tha   thiết cho đoạn thơ mà còn thể hiện một ý nghĩa sâu sắc: “Mình về” là về quê hương  miền xuôi, “mình đi” là đi khỏi quê hương Việt Bắc. Việt Bắc đã trở  thành quê  hương thứ hai thắm thiết nghĩa tình của người cán bộ kháng chiến. 4. Lượt lời thứ 2 của người ra đi  (câu 21   90): Tình cảm thuỷ chung và nỗi nhớ  nhung tha thiết của người ra đi a) 4 câu đầu (câu 21 – 24) : Tình cảm thuỷ chung  Mở  đầu lượt lời thứ  hai, người ra đi đã đưa ra câu trả  lời để  giải toả  cho nỗi băn   khoăn, trăn trở của người ở lại về việc “mình về mình có nhớ ta”:      Ta với mình, mình với ta Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh + Câu thơ “Ta với mình, mình với ta” ngắt nhịp 3/3 tạo thành 2 vế cân xứng. Nhịp  ngắt này kết hợp phép điệp đan xen cặp đại từ “mình – ta” cùng từ “với” đã gợi tả sự  quấn quýt, gắn bó không thể chia cắt giữa kẻ đi – người ở. 7
  8. Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn                                           Năm học 2018 ­  2019 + Câu thơ tiếp theo với nhịp ngắt 2/2/2/2 chắc khoẻ là một lời khẳng đinh chắc  chắn: “Lòng ta/ sau trước/ mặn mà/ đinh ninh” – dù là trước đây hay sau này thì tấm  lòng của “ta” dành cho “mình” vẫn mặn mà, bền chặt, không thay đổi hay nhạt nhoà.  Hai câu kế tiếp như một lời thề chung thuỷ:        Mình đi, mình lại nhớ mình Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu + Nếu  ở  phía trên, người  ở  lại băn khoăn, trăn trở  trong câu hỏi: “Mình đi, mình  có nhớ mình” thì người đi cũng trả lời trong một sự hô ứng, đồng vọng: “Mình đi, mình  lại nhớ mình”. Từ “lại” diễn tả sự lặp lại. Nghĩa là nỗi “nhớ mình” đã xuất hiện nhiều  lần trong tâm trí của người ra đi. Từ  “mình” cuối cùng trong câu thơ  cũng có thể  hiểu  theo nhiều cách. Nếu nó chỉ người ở lại thì ý thơ thể hiện nỗi nhớ nhung tha thiết của   những con người có sự  gắn bó, hoà hợp sâu sắc; nếu nó chỉ  người ra đi thì câu thơ là   lời khẳng định: cuộc sống phồn hoa đô hội sẽ không bao giờ khiến người trở về quên  quá khứ đẹp đẽ, nghĩa tình, càng không bao giờ đánh mất chính mình. + Và để  cụ  thể  hoá nỗi nhớ, người đi đã dùng cách so sánh, cách đo đếm mang   đậm màu sắc dân gian: “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”. Nước trong   nguồn là vô cùng vô tận, giống như  ân tình của người cách mạng dành cho đồng bào  Việt Bắc là đầy ắp, vô hạn. Hơn nữa, hình ảnh nước trong nguồn còn gợi những suy  nghĩ sâu xa về nguồn cội, về đạo lí thuỷ chung tình nghĩa “uống nước nhớ nguồn” của  dân tộc. Hình  ảnh so sánh này như  thầm đáp lại lời dặn dò kín đáo của người Việt   Bắc: “Mình về mình có nhớ không/ Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn” b) Từ  câu 25 đến câu 42: Nỗi nhớ  sâu sắc của người ra đi với thiên nhiên, con   người và cuộc sống sinh hoạt thời kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc * Từ câu 25 đến câu 30: Nỗi nhớ sâu đậm của người  ra đi với những vẻ đẹp của   thiên nhiên Việt Bắc Cả  3 cặp câu lục bát đều bắt đầu bằng một chữ “Nhớ” thật tha thiết. Sắc thái  và mức độ của nõi nhớ được miêu tả qua một so sánh ngọt ngào, thấm thía: Nhớ gì như nhớ người yêu “Nhớ người yêu” là một nỗi nhớ ám ảnh, thường trực, không thể nguôi ngoai, một nỗi  nhớ nhiều khi mãnh liệt đến phi lí như cảm nhận của Xuân Diệu:  Uống xong lại khát là tình      Gặp rồi lại nhớ là mình với ta Đó là nỗi nhớ từng khiến cho chính Tố Hữu ngạc nhiên: Lạ chưa, vẫn ở bên em   Mà anh vẫn nhớ, vẫn thèm gặp em Bằng phép so sánh nỗi nhớ  dành cho đồng bào Việt Bắc với nỗi nhớ  người yêu, Tố  Hữu đã bộc lộ  sự  gắn bó sâu nặng và nỗi nhớ  thương da diết của người về xuôi với  mảnh đất và con người Việt Bắc. Và có lẽ chính sự liên tưởng đến tình yêu đã khiến cho những hình ảnh sau đó của   thiên nhiên và con người Việt Bắc hiện lên đầy gợi cảm và thi vị. Từng cảnh vật của Việt  Bắc trong mọi thời gian và không gian liên tiếp, dồn dập hiện lên trong nỗi nhớ của người  đi: Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm hôm bếp lửa người thương đi về 8
  9. Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn                                           Năm học 2018 ­  2019 Nhớ từng rừng nứa bờ tre Ngòi Thia, sông đáy, suối Lê với đầy. Việt Bắc khi thơ mộng với ánh trăng bàng bạc thấp thoáng nơi đầu núi, khi ấm áp lung   linh trong ánh nắng chiều lưng nương, lúc mơ hồ huyền ảo giữa những bản khói cùng  sương, và nhất là luôn nồng đượm ân tình bởi sự  quấn quýt với hình  ảnh “người  thương” “sớm hôm đi về”. Người Việt Bắc đã trở  thành “người thương” trong lòng  người về  xuôi. Những cảnh vật của Việt Bắc, dù là có tên như  ngòi Thia, sông Đáy,   suối Lê hay không có tên như rừng nứa, bờ tre,… đều in đậm trong tâm trí của người ra   đi. Từ “nhớ” và cụm từ “nhớ từng” điệp lại nhiều lần trong một đoạn thơ cho thấy nỗi   nhớ da diết, sâu đậm của người đi không chỉ dành cho những cảnh vật cụ thể mà còn   như bao trùm cả lên tất cả những gì thuộc về Việt Bắc thân thương. * Từ câu 31 đến câu 42: Nỗi nhớ dành cho con người và cuộc sống sinh hoạt thời   kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc Nếu  ở  đoạn thơ  trên, nỗi nhớ  của người ra đi chủ  yếu hướng về  thiên nhiên,   cảnh vật, con người mới chỉ thấp thoáng ở hình ảnh “sớm hôm bếp lửa người thương   đi về” thì đến đoạn thơ này, hình ảnh người Việt Bắc trực tiếp qua những hoài niệm  xúc động về cuộc sống sinh hoạt thời kháng chiến. Nhớ con người: Trước hết là một lời khẳng đinh đầy tri ân với con người Việt Bắc: Ta đi ta nhớ những ngày Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi Câu thơ được chia thành 2 vế tạo sự đăng đối, song hành: “mình đây ta đó” – “đắng cay  ngọt bùi”. “đắng cay ngọt bùi” là ẩn dụ  cho gian khổ và niềm vui. 15 năm gắn bó với  mảnh đất Việt Bắc là 15 năm “ta” có “mình” cùng chia sẻ đắng cay, chung hưởng ngọt   bùi. Những ngày tháng đó, “ta” sẽ mãi mãi khắc cốt ghi tâm. Những ngày tháng của quá khứ hiện về trong tâm trí của người ra đi với cả gian   truân và tình nghĩa:  Thương nhau chia củ sắn lùi Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng Trong những năm tháng kháng chiến gian khổ, người cách mạng không chỉ  phải đối  diện với kẻ thù mà còn có cả cái đói, cái rét. Điều này đã được nhiều nhà thơ thể hiện  trong các tác phẩm của họ: Cuộc đời cát bụi pha xương máu Đói rét bao lần xé thịt da     (Lên Cấm Sơn – Thôi Hữu) Nhưng bên cạnh họ luôn có đồng bào Việt Bắc kề vai sát cánh, cùng họ vượt qua mọi   khó khăn. Những động từ  “chia”, “sẻ  nửa”, “đắp cùng” đã diễn tả  đầy cảm động về  tình cảm của đồng bào Việt Bắc và cán bộ  kháng chiến. Họ  đã cùng nhau chia sẻ  từ  miếng ăn ngày đói đến hơi ấm chăn sui giữa mùa đông buốt giá của núi rừng. Cái đói,  cái rét đã bị đẩy lùi, chỉ còn lại sự ấm áp của tình người, để rồi tình thương ấy đã tạo  nên sức mạnh khiến họ làm “nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”.   Và trong số  những con người  ân tình  ấy, hình  ảnh khắc sâu nhất trong tâm   khảm của người đi là hình ảnh người mẹ Việt Bắc: Nhớ người mẹ nắng cháy lưng Địu con lên rấy bẻ từng bắp ngô 9
  10. Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn                                           Năm học 2018 ­  2019 Câu thơ  miêu tả  một hình  ảnh cụ  thể, quen thuộc trong cuộc sống hằng ngày của  người dân Việt Bắc: những người mẹ địu con cùng đi làm rẫy, làm nương. Hình ảnh   này, về sau cũng được nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm khắc hoạ trong bài thơ  “Khúc hát   ru những em bé lớn trên lưng mẹ”: Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka­Lưi Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ Em ngủ cho ngoan đừng làm mẹ mỏi Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng Cụm từ  “nắng cháy lưng” gợi ra hình  ảnh cả  một vạt nương đầy nắng – những tia   nắng gay gắt, chói chang làm cháy rát cả lưng người. Giữa không gian núi rừng, trong   cái thời tiết khắc nghiệt như thế, bóng dáng người mẹ trở nên nhỏ bé vô cùng. Vậy mà  công việc của người mẹ ấy lại chẳng hề nhẹ nhàng. Câu thơ tiếp theo liệt kê một loạt   những công việc: địu con/ lên rẫy/ bẻ từng bắp ngô. Cơ cực, vất vả là vậy nhưng thành  quả  lao động chỉ  là “từng bắp ngô” nhỏ  nhoi, ít  ỏi. Bởi lúc này mẹ  đâu phải chỉ  lao  động để  nuôi con, nuôi gia đình mà còn là để  phục vụ  kháng chiến, phục vụ  cách   mạng. Lời thơ vừa thấm thía nỗi thương xót, lẫn sự  cảm phục và tri ân của người đi   đối với đồng bào Việt Bắc. Cũng như nhà thơ Chế Lan Viên đã từng viết: Con nhớ mế lửa hồng soi tóc bạc Năm con đau mế thức một mùa dài Con với mế không phải hòn máu cắt Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi Nhớ cuộc sống sinh hoạt thời kháng chiến   Trong hoài niệm của người ra đi, cuộc sống ở chiến khu trong những năm tháng  kháng chiến tuy gian nan, vất vả song cũng rất sôi động và đầy lạc quan: Nhớ sao lớp học i tờ Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan Hình ảnh “lớp học i tờ” gợi lên những tiếng đánh vần ngọng ngịu, những nét chữ  viết  vụng về, những say mê, háo hức của người dân miền núi khi được học con chữ  của  cách mạng, của Bác Hồ trong những lớp học “Bình dân học vụ” do cán bộ kháng chiến  giảng dạy. Rồi hình  ảnh “Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan” gợi lên những   đêm liên hoan văn nghệ giữa đồng bào và cán bộ kháng chiến được tổ chức ngay trên   cánh đồng, sau những giờ lao động và chiến đấu. Ánh sáng của những ngọn đuốc hay   ánh sáng của niềm vui tươi náo nức đã làm sáng rực cả cánh đồng khuya? Những hoạt   động ấy không chỉ siết chặt tình quân dân mà còn giúp họ có thêm niềm vui, niềm lạc  quan vào cuộc đời và cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc: Nhớ sao ngày tháng cơ quan Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo Gian nan, thử thách không làm sờn lòng người kháng chiến. Ngày ngày tiếng hát của họ  vẫn vang khắp núi đèo.   Không chỉ có tiếng hát lạc quan của con người, núi đèo Việt Bắc còn vang vọng  những âm thanh bình dị mà rất đỗi gợi cảm: Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều Chày đêm nện cối đều đều suối xa… Đó là tiếng mõ trâu khua vang rừng chiều, tiếng chày giã gạo đều đều mỗi đêm khuya,  10
  11. Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn                                           Năm học 2018 ­  2019 tiếng suối thoảng xa vời vợi… Những âm thanh đó vừa gợi cảm giác êm đềm, yên ả,  vừa phảng phất chút hoang vắng tiêu sơ, cho thấy tình cảm thắm thiết, nỗi nhớ thương   sâu đậm, nỗi bùi ngủi xao xuyến của người ra đi với cuộc sống và con người nơi chiến   khu Việt Bắc. c) Từ câu 43 – câu 52: Bức tranh tứ bình về cảnh và người Việt Bắc * Hai câu đầu: Giới thiệu cảm xúc chung của đoạn thơ. Mở đầu đoạn thơ là hai câu giới thiệu nội dung bao quát đoạn: “Ta về mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người” Câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta” vừa là lời đối thoại, vừa là cái cầu nối xuống câu   dưới và đấy cũng là cái cớ để bày tỏ tấm lòng, nỗi niềm của mình. Với Tố Hữu, người   cán bộ  ra đi không chỉ  nhớ đến những ngày tháng gian khổ “bát cơm sẻ  nửa, chăn sui   đắp cùng” mà còn nhớ  đến vẻ  đẹp đáng yêu của “hoa cùng người”.  Ở  đây, “hoa”  tượng trưng cho cái đẹp của thiên nhiên Việt Bắc, “người” chỉ  đồng bào Việt Bắc.  “Hoa” ở bên “người” để “người” mang gương mặt sắc màu của “hoa”. “Người” ở bên  “hoa” để cho “hoa” mang hồn “người”. “Hoa” và “người” quấn quýt với nhau trong vẻ  đẹp hai hoà, đằm thắm để tạo nên nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất này. Chính điều  ấy đã tạo nên cấu trúc đặc sắc của đoạn thơ. Trong bốn cặp lục bát còn lại, câu 6 dành   cho nhớ “hoa”, nhớ cảnh; câu 8 dành cho nhớ “ngừời”. Cảnh và người trong mỗi câu có   những sắc thái, đặc điểm riêng làm nên một bộ  tranh tứ  bình về  bốn mùa trong năm   thật hấp dẫn. * Đầu tiên là bức tranh Việt Bắc giữa mùa đông: “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng” Hai câu thơ  đã mở  ra một khoảng không gian khoáng đạt với chiều rộng mênh  mông của rừng xanh, chiều cao ngút ngàn của đèo núi, chiều cao vời vợi của bầu trời.   Trên cái nền khoáng đạt ấy, Tố Hữu đã vẽ những nét vẽ thần tình về cảnh rừng đông  Việt Bắc: Đông về với màu xanh thăm thẳm, trầm mặc của rừng già đại ngàn. Trên cái  nền xanh thẳm ấy nổi bật lên những bông hoa chuối đỏ tươi như những đốm lửa bập   bùng. Cái màu đỏ  tươi tắn của hoa chuối, cùng với màu vàng nhẹ  nhàng của nắng  đông, và đặc biệt là ánh phản quang của nắng trên nước thép sáng loáng của con dao   người đi rừng đã làm cho khu rừng trở nên tươi sáng, ấm áp và như  tiềm ẩn một sức   sống, xua đi cái hoang sơ, lạnh giá, hiu hắt vốn có của núi rừng. Trên nền thiên nhiên khoáng đạt ấy, sự xuất hiện của con người càng làm tăng   thêm vẻ   ấm áp, thơ  mộng của mùa đông Việt Bắc. Đó là con người của vùng chiến   khu lên núi phát nương làm rẫy: “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Ở đây, bút pháp   chấm phá của hội hoạ  đã được vận dụng một cách tài tình. Nhà thơ  không miêu tả  dáng người, mặt người mà chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt   trời chớp loé trên lưỡi dao rừng  ở  ngang lưng. Con người như một tụ điểm của ánh  sáng. Con người  ấy cũng đã xuất hiện  ở  một vị trí, tư  thế  đẹp nhất – nơi “đèo cao”,  giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la với rừng xanh mênh mang. Câu thơ  làm ta nhớ  đến hình ảnh anh bộ đội trong một bài thơ khác của Tố Hữu: “Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo Núi không đè nổi vai vươn tới 11
  12. Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn                                           Năm học 2018 ­  2019 Lá nguỵ trang reo với gió đèo” (Lên Tây Bắc) Đấy là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững chãi của con người trước thiên   nhiên đất trời rộng lớn. * Đông qua mùa xuân lại về: Mùa xuân về  mang điều tốt lành cho con người, báo hiệu những niềm vui, sức  sống âm thầm đang trỗi dậy. Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân Việt Bắc là màu trắng   dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ: “Ngày xuân mơ nở trắng rừng” “Trắng rừng” được viết theo lối đảo ngữ  và từ  “trắng” được dùng như  một  động từ, nó có tác dụng nhấn mạnh vào sự vận động của màu sắc. Nghĩa là bức tranh   mùa xuân Việt Bắc không tĩnh lặng mà là bức tranh động. Ở đó, hoa mơ đang bung nở,  màu trắng của nó đang lan toả, đang dần dần lấn át những màu sắc khác của núi rừng.  Để  rồi cuối cùng, cả rừng Việt Bắc sẽ  chìm trong sắc trắng mơ  màng, bâng khuâng,   dịu mát. Cái màu trắng tinh khôi ấy sẽ mãi mãi được lưu giữ trong tâm trí của người ra  đi. Sau này (1972), khi nhớ  về mùa xuân năm 1941 – thời điểm Bác Hồ  trở  về  nước  trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước, Tố Hữu cũng đã nhớ về sắc trắng  hoa mơ ấy: “Ôi sáng xuân nay, Xuân 41  Trắng rừng biên giới nở hoa mơ  Bác về... Im lặng. Con chim hót  Thánh thót bờ lau, vui ngẩn ngơ...” (Theo chân Bác) Nổi bật trên nền của hoa mơ nở trắng  ấy, là hình ảnh con người với công việc   của mùa xuân: đan nên những chiếc nón tình nghĩa gửi tặng bộ đội, dân công: “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang” Hai chữ “chuốt từng” vừa khắc hoạ vẻ đẹp cần mẫn, cẩn trọng, tài hoa của người   Việt Bắc, lại vừa làm cho hành động “đan nón” có tinh thần chủ động chứ không vô cảm  và bị động. Dường như bao nhiêu yêu thương, bao nhiêu nỗi niềm của người Việt Bắc  dành cho người kháng chiến đều được kết giữ  trong từng sợi giang mà kết thành vành   nón. * Mùa hè của Việt Bắc trong nỗi nhớ của người đi tràn đầy âm thanh và màu sắc: “Ve kêu rừng phách đổ vàng” Tiếng ve là dấu hiệu của mùa hạ, hình  ảnh rừng phách vàng là đặc trưng của   mùa hè Việt Bắc. Trên thực tế thì đây chỉ là hai hiện tượng thiên nhiên cùng xuất hiện  vào thời điểm mùa hè chứ hoàn toàn không có mối quan hệ gì với nhau. Thế nhưng, qua  cách cảm nhận và thể hiện của Tố Hữu thì giữa chúng dường như có một mối tương  quan kì diệu: tưởng như sau sự giục giã của tiếng ve, có một sự náo nức kì lạ của thiên   nhiên, rồi cả một dòng thác vàng đổ  ào từ  trời cao xuống rừng phách khiến khu rừng   phút chốc được khoác tấm áo vàng lộng lẫy; cũng có thể  hiểu chính vì sắc vàng kiêu   sa, rực rỡ của rừng phách mà bầy ve rừng không thể cầm lòng được, phải náo nức cất   tiếng gọi hè về. Cảnh vật thiên nhiên như có linh hồn và sự giao cảm. Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm   cần mẫn đi hái búp măng rừng, cung cấp cho bộ đội kháng chiến: “Nhớ cô em gái hái măng một mình” 12
  13. Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn                                           Năm học 2018 ­  2019 “Cô em gái” là cách gọi thân thương, trìu mến trong quan hệ  gia đình. Cách gọi  này cho thấy giữa người kháng chiến và đồng bào Việt Bắc đã được gắn kết với nhau   bởi tình cảm thiêng liêng, bền chặt như những người thân ruột thịt. Động tác “hái măng   một mình” gợi dáng vẻ  cắm cúi, thầm lặng. Thông thường thì cái dáng vẻ   ấy sẽ  gợi  lên cảm giác cô đơn, lẻ loi, hiu hắt: “Cô hái mơ ơi! Cô gái ơi! Chẳng trả lời tôi lấy một lời Cứ lặng mà đi rồi khuất bóng Rừng mơ hiu hắt, lá mơ rơi” (Nguyễn Bính) Thế nhưng câu thơ của Tố Hữu lại không mang đến cảm giác như vậy. Cô gái đi  hái măng một mình nhưng vẫn không lẻ loi bởi cô gái ấy đang lao động giữa khúc nhạc   rừng rừng rộn rã, hái măng để góp phần nuôi quân phục vụ kháng chiến. Cô gái là một  trong vô số những con người lao động, cống hiến trong thầm lặng, không cần ai phải   biết đến hay ngợi ca mà nhà Nguyễn Khoa Điềm đã nói đến trong thơ của ông: “Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất Nước” (Nguyễn Khoa Điềm) * Hai câu cuối là hình ảnh Việt Bắc khi mùa thu tới: Thông thường các bộ  tranh tứ  bình bắt đầu là bức tranh mùa xuân và kết laị   bằng bức tranh mùa đông. Nhưng trong bộ tranh tứ bình bằng thơ ca cua minh, T ̉ ̀ ố Hữu   ̣ ở đầu bằng canh mùa đông và k lai m ̉ ết lai b ̣ ằng môt ḅ ức họa phẩm mùa thu, bởi mùa  thu là thời điểm kết thúc cuộc kháng chiến gian nan, oanh liệt, thời điểm của cuộc chia  li giữa những người kháng chiến với Việt Bắc. Đó là mùa của hoà bình: “Rừng thu trăng rọi hoà bình” “Trăng rọi hoà bình” là ánh trăng chiếu sáng không khí thanh bình nơi chiến khu  kháng chiến. Những ai đã từng trải qua những tháng ngày mưa bom bão đạn,  “khoét núi  ngủ  hầm, mưa dầm cơm vắt… máu trộn bùn non” thì mới hiểu hết sự  xúc động của  lòng người trong những đêm trăng hoà bình đó. Hình ảnh thơ gợi nghĩ đến một câu thơ  của Hồ Chí Minh cũng viết về trăng rừng Việt Bắc: “Tiếng suối trong như tiếng hát xa Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa” (Cảnh khuya) Cái hay của những câu thơ trên là ở chỗ tả ánh trăng giữa rừng già bao la mà hoàn   toàn không gây cảm giác vắng lặng, lạnh lẽo, trái lại vẫn gợi lên không khí yên bình,  thanh khiết. Mùa thu càng ngọt ngào hơn bởi có tiếng hát của con người: “Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung” Nếu ở những bức tranh mùa đông, mùa xuân, mùa hạ, người ra đi hướng nỗi nhớ  tới những người lao động cụ thể: người phát nương làm rẫy, người đan nón, người hái   măng… thì  ở  bức tranh cuối cùng của bộ  tứ  bình Việt Bắc, nỗi nhớ  hướng tới “ai”.  “Ai” là một đại từ  phiếm chỉ, nó không chỉ  đối tượng cụ  thể  nào mà là tất cả  những  người dân Việt Bắc nghèo khổ, trung hậu, nghĩa tình. Dường như, giờ  phút chia tay   13
  14. Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn                                           Năm học 2018 ­  2019 càng tới gần thì nỗi nhớ càng trở nên sâu đậm hơn. Miêu tả tiếng hát gợi ân tình của người ở lại, nhắc nhở sự thuỷ chung của người   ra đi trên nền ánh trăng hoà bình có lẽ là dụng ý nghệ thuật sâu sắc của nhà thơ. Thông   qua 2 câu kết đoạn tứ  bình này, người đi như  thầm nhắn gửi: những đổi thay trong  cuộc sống hoà bình sẽ  không bao giờ có thể  làm người đi thay lòng đổi dạ, người về  xuôi sẽ mãi thuỷ chung, không bao giờ quên ân tình của người Việt Bắc.  Tóm lại, đây là một đoạn thơ  vừa sâu sắc về  nội dung, vừa độc đáo về  nghệ  thuật. Nó xứng đáng là đoạn thơ  hay nhất của bài “Việt Bắc”. Đoạn thơ  cũng cho ta   thấy rõ phong cách thơ Tố Hữu: trữ tình, sâu lắng, tha thiết, ân tình mang đậm tính dân   tộc. Những câu thơ lục bát đậm đà âm hưởng ca dao nhịp nhàng, uyển chuyển cứ tuôn   trào và dạt dào cảm xúc qua cách xưng hô “mình” và “ta”, một cách xưng hô truyền  thống thắm thiết nghĩa tình. Nhạc điệu dịu dàng, trầm bổng khiến cho cả  doạn thơ  mang âm hưởng bâng khuâng, êm ái như  một khúc hát ru kỉ  niệm. Đặc biệt từ  “nhớ”   được láy lại nhiều lần, mỗi lần một khác và sắc độ  tăng dần lên làm cụ  thể  hơn tấm  lòng của người ra đi đối với cảnh và người Việt Bắc. d) Từ câu 53 – câu 62: Nhớ thiên nhiên Việt Bắc đã cùng con người chiến đấu và   chiến thắng kẻ thù Đoạn thơ mở đầu bằng một câu thơ gợi lên cảnh tao loạn: Nhớ khi giặc đến giặc lùng “giặc đến” là thời điểm nguy kịch, “giặc lùng” sục sạo khắp nơi là tình thế  nguy biến  dễ dẫn đến cảnh tan tác, loạn lạc: Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây Một bàn cờ thế phút sa tay Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy Mất tổ đàn chim dáo dác bay (Chạy giặc – Nguyễn Đình Chiểu) Thế nhưng ở Việt Bắc, ta không thấy cảnh loạn lạc ấy bởi con người không chỉ  đoàn kết với nhau mà còn có sự chung sức của cả thiên nhiên núi rừng trong cuộc chiến  chống ngoại xâm: Rừng cây núi đã ta cùng đánh Tây Ở  đoạn thơ  này, đại từ  “ta” không mang ý nghĩa chỉ  người đi hay kẻ   ở  như  trong  những đoạn thơ  trước nữa. Nó mang ý nghĩa chỉ  “chúng ta” – bao hàm cả  người dân  Việt Bắc và bộ đội, cán bộ  kháng chiến, thậm chí bao hàm cả  “rừng cây núi đá”. Núi  rừng đã vào cuộc chiến đấu: Núi giăng thành luỹ sắt dày Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù Mênh mông bốn mặt sương mù Đất trời ta cả chiến khu một lòng Chỉ trong 5 câu thơ mà “núi” được lặp lại 2 lần, “rừng” được lặp lại 3 lần, kết hợp với   các động từ ‘giăng’, “vây” đã gợi lên sự trùng điệp của địa hình núi rừng Việt Bắc. Tất   cả  lại được bao phủ trong “Mênh mông bốn mặt sương mù” càng đem đến cảm giác   về chốn thiên la địa võng của chiến trường Việt Bắc. Nghệ thuật nhân hoá khiến cho  rừng cây núi đá không còn là thứ thiên nhiên vô tri vô giác, không còn là thứ tĩnh tại bất  biến ngàn đời nữa mà chúng như cũng có cảm xúc, cũng vận động chuyển mình trong   cuộc chiến đấu chung: núi rừng che chở cho bộ đội và “đánh”, “giăng”, “vây” bắt quân   14
  15. Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn                                           Năm học 2018 ­  2019 thù. “Đất trời” và “ta” – thiên nhiên và con người cùng chung sức một lòng đánh giặc,   khiên mảnh đất quê hương thành đất chết của kẻ  thù như  Nguyễn Đình Thi đã từng   viết: “Những làng xóm đã mọc lên luỹ thép Những cánh đồng thành bể dầu sôi Quân giặc kinh hoàng đi trên đất chết Mỗi bước đi lạnh toát mồ hôi” Từ  đó mà chúng ta có những chiến thắng đầu tiên gắn liên v ̀ ới cac đ ́ ịa danh làm naó   nức lòng người: Ai về ai có nhớ không? Ta về ta nhớ Phủ Thông, Đèo Giàng Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng Nhờ từ Cao Lạng, nhớ sang Nhị Hà… Sau câu hỏi gợi nhớ “Ai về ai có nhớ không?” là lời khẳng định quen thuộc: “Ta về, ta  nhớ…”. Rồi điệp từ  “nhớ” gắn liền với hàng loạt các địa danh được lặp lại liên tiếp  trong những dòng thơ  sau cho thấy nỗi nhớ  đã hoà quyện với niềm phấn khích của  chiến thắng đang ào  ạt trào dâng trong dòng hoài niệm của người đi. Mỗi địa danh  nhắc nhớ một trận đánh lớn. Đã có biết bao máu đổ xương rơi, biết bao anh hùng ngã   xuống mới có thể đưa tên núi, tên sông, tên đèo, tên phố nơi Việt Bắc vào lịch sử. Nhăć   ̣ lai nh ưng đ ̃ ịa danh, những chiên thăng ây trong môt niêm hao sang cung chinh la biêu ́ ́ ́ ̣ ̀ ̀ ̉ ̃ ́ ̀ ̉   ̣ ủa sự tri ân của người ra đi đối với thiên nhiên va con ng hiên c ̀ ươi Viêt Băc đa h ̀ ̣ ́ ̃ ợp sưc, ́   giúp đỡ trong những năm tháng kháng chiến gian lao mà anh dũng không thể nào quên.  e) Từ câu 63 – câu 74: Nhớ khung cảnh Việt Bắc ra trận * Trước hết là ấn tượng chung về sức mạnh tổng hợp của dân tộc ta trong cuộc kháng   chiến:   Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung “Những” – một từ chỉ số nhiều không xác định, cùng với đại từ “của ta” vang lên  dõng dạc, đầy từ  hào. Trăm ngả đường hướng về  Việt Bắc, trăm nẻo đường từ  Việt   Bắc tỏa đi muôn nơi đều là “của ta”. Hai tiếng “của ta” giản dị  mà vô cùng thiêng  liêng. Chúng thể hiện rõ ý thức làm chủ đất nước cũng như niềm tự hào về sự bất khả  xâm phạm của vùng căn cứ. Cảm hứng này đã nhiều lần xuất hiện trong thơ ca cách  mạng, như: Mây của ta, trời thắm của ta Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (Ta đi tới – Tố Hữu) Hoặc câu: Trời xanh đây là của chúng ta Núi rừng đây là của chúng ta Những cánh đồng thơm mát Những ngả đường bát ngát Những dòng sông đỏ nặng phù xa (Đất nước – Nguyễn Đình Thi) Trong dòng hoài niệm của người ra đi, những con đường  ấy đẹp vô cùng, bởi   chúng là những con đường kháng chiến: Đêm đêm rầm rập như là đất rung 15
  16. Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn                                           Năm học 2018 ­  2019 “Đêm đêm” nghĩa là đêm nối tiếp đêm, hết đêm này đến đêm khác. Hồi kháng  chiến chống Pháp, máy bay giặc chủ  yếu hoạt động ban ngày nên ta phải hành quân  đêm. Trên khắp các nẻo đường Việt Bắc, đêm nối đêm từng đoàn quân cứ  “rầm rập”  tiến ra trận. “Rầm rập” là một từ  láy tượng thanh rất gợi cảm. Nó không chỉ  diễn tả  được âm thanh nhanh, mạnh, dồn dập của tiếng bước chân mà còn thể  hiện được cái   khí thể  hăng hái và sức mạnh áp đảo của một tập thể  người đông đảo, có đội ngũ  chỉnh tề. Nó gợi liên tưởng đến một cuộc duyệt binh, diễu binh hoành tráng. Sự  so sánh “như  là đất rung” mang đậm màu sắc thần thoại. Đoàn quân ta như  mang sức mạnh làm rung chuyển cả đất trời. Không khí ấy gợi nhớ tới hào khí Đông A  ngút trời thuở nào: Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu (Ba   quân   sức   mạnh   như   hổ   báo,   khí   thế   lấn   át   cả   sao   Ngưu) (Tỏ lòng – Phạm Ngũ Lão) * Sức mạnh  ấy được tạo nên bởi sự  hợp sức của cả dân tộc. Trước hết là của đoàn   quân vệ quốc: Quân đi điệp điệp trùng trùng Các từ láy “điệp điệp, trùng trùng” thật giàu ý nghĩa diễn tả, vừa cực tả khí thế,   vừa có giá trị gợi hình. Nó gợi lên hình ảnh những đoàn quân ra trận nối dài vô tận và  hùng vĩ như  những dãy núi trùng điệp. Sau này, trong cuộc kháng chiến chống Mĩ,   Phạm Tiến Duật cũng đã miêu tả cảnh những đoàn quân ra trận bằng những hình ảnh  thơ tương tự: Từ nơi em gửi tới nơi anh Những đoàn quân trùng trùng ra trận Như tình yêu nối lời vô tận Như  vậy, một lần nữa, sức mạnh, khí thế  của đoàn quân ra trận lại được nâng  lên ngang tầm với sức mạnh của thiên nhiên sông núi. Trong hồi  ức của người đi, không chỉ  lưu giữ  những  ấn tượng về  sức mạnh   hoành tráng, đông đảo của đoàn quân ra trận mà còn lưu giữ những hình ảnh khó quên   về người chiến sĩ đi giữa hàng quân trên những con đường Việt Bắc: Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan Ánh sao nơi đầu súng làm bạn cùng chiếc mũ nan của người chiến sĩ. Một hình  ảnh lung linh được đặt cạnh một hình ảnh đơn sơ, giản dị. Câu thơ vừa mang ý nghĩa   tả thực, vừa mang ý nghĩa khái quát tượng trưng sâu xa. Trước hết, nó diễn tả hình ảnh  người chiến sĩ vai bồng súng hành quân trong đêm, đầu súng lấp lánh ánh sao trời. Nó   gợi liên tưởng đến một hình  ảnh thơ  rất đẹp trong thơ  Chính Hữu: “Đầu súng trăng  treo” (Đồng chí). Nhưng hình  ảnh “ánh sao đầu súng” còn là biểu tượng cho lí tưởng  chiến đấu của người lính. Các anh cầm súng, cầm vũ khí chiến đấu là theo sự  soi   đường chỉ lối của “ánh sao” – lí tưởng cộng sản, vì hoà bình, tự do cho dân tộc: Anh đi bộ đội sao trên mũ Mãi mãi là sao sáng dẫn đường (Núi đôi – Vũ Cao) Hình  ảnh tươi sáng  ấy kết hợp với hình  ảnh chiếc mũ nan giản dị, trang bị  còn   thiếu thốn của anh bộ đội tạo cho anh một vẻ đẹp bình dị mà cao cả, bình thường mà   vĩ đại. * Tiếp theo những binh đoàn bộ đội là dân công tiếp tế  lương thực, đạn dược. Cũng   như những người chiến sĩ rầm rập lên đường, những nam nữ dân công cũng vào trận   16
  17. Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn                                           Năm học 2018 ­  2019 đầy khí thế và sức mạnh: “Dân công đỏ đuốc từng đoàn Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay” Câu thơ “Dân công đỏ  đuốc từng đoàn” sử dụng phép đảo ngữ. Cấu trúc đảo ấy  tạo  ấn tượng về sự  trùng điệp của những đoàn dân công. Hình  ảnh phóng đại “Bước   chân nát đá” vừa gợi lên được những gánh hàng nặng, vừa nói lên được bước chân đầy   sức mạnh tiến công. Nhớ về ngày xưa, cha ông ta đã mơ ước đến cháy bỏng:  “Trông trời, trông đất, trông mây  Trông mưa, trông nắng, trông ngày, trông đêm  Trông cho chân cứng đã mềm”  thì giờ đây, niềm mơ  ước ấy đã trở thành hiện thực kì diệu ở chiến trường Việt Bắc.  Hình  ảnh thơ  “đỏ  đuốc từng đàn” và “muôn tàn lửa bay” là những hình  ảnh rất đẹp.  Đoàn dân công đi dưới ánh đuốc có “muôn tàn lửa bay”. Đó là lửa của bó đuốc đang  bay, hay có cả ánh lửa từ trái tim của anh chị dân công hoả tuyến ? Ở hai câu thơ này,   tác giả  sử  dụng nhiều hình  ảnh giàu màu sắc tạo hình, vừa chân thực vừa bay bổng.   Đoàn dân công đi vào chiến dịch mà như thể đi trong hội hoa đăng. Thật đẹp biết bao,  mà cũng tự hào biết bao về khí thế và niềm tin ra trận của quân dân ta. * Trong dòng thác ra trận ấy còn có những đoàn xe cơ giới : “Nghìn đêm thăm thẳm sương dày Đèn pha bật sáng như ngày mai lên” Hai câu thơ miêu tả đoàn xe chở đạn dược, vũ khí và cao xạ pháo ra chiến trường,  xe nối đuôi nhau, đèn pha bật sáng trưng như ánh sáng ban ngày, phá tan lớp sương dày,  xua đi màn đêm tăm tối. Chỉ bằng hình ảnh ấy, Tố Hữu đã diễn tả được sự trưởng thành   vượt bậc của quân đội ta. Mới ngày nào ta còn phải mai phục nơi rừng núi “thăm thẳm   sương dày” hàng ngàn đêm tăm tối gian khổ, vậy mà giờ đây, ta đã có cả những đoàn xe  cơ giới mang sức mạnh quật khởi. Hình ảnh “nghìn đêm thăm thẳm sương dày” còn là  ẩn dụ  cho đêm trường nô lệ  của dân tộc. Sự  tương phản giữa quá khứ  “thăm thẳm   sương dày” với ánh sáng của “ngày mai lên” đã làm nổi bật giá trị  của những đêm dài  kháng chiến và thể hiện niềm tin tưởng mãnh liệt vào tương lai huy hoàng, sáng chói của   dân tộc. * Khúc hùng ca Việt Bắc ra trận được khép lại bằng tiếng reo ca khi toàn thắng về ta :   Tin vui thắng trận trăm miền  Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về  Vui từ Đồng Tháp, An Khê  Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng  Điệp từ “vui” được lặp đi lặp lại nhiều lần cùng với nhịp thơ ngắn, nhanh, mạnh   tạo nên âm hưởng hào sảng, hùng tráng. Những cụm từ :  vui từ, vui về, vui lên thể hiện  sự  lan toả của chiến thắng, của niềm vui đến khắp mọi miền Tổ  quốc.  Ở  đây, việc  liệt kê các địa danh chiến thắng cũng chứa đựng những giá trị  nghệ  thuật − tư  tưởng  của tác giả. Đó là sự  sắp xếp nhằm làm thể  hiện ý nghĩa: tin vui như  bay đi với một  tốc độ “siêu tốc”. Vừa mới là Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên, ngay sau đó đã là Đồng   Tháp (Nam Bộ), An Khê (Tây Nguyên), rồi lại đã là Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.  Nếu ở đoạn thơ đầu nói về nỗi nhớ, tiết tấu của câu thơ dìu dặt, ngân nga như  những khúc hát ru kỉ niệm thì ở đoạn này cảm hứng thơ chuyển sang mạnh mẽ, mang   màu sắc anh hùng ca, tác giả đã phá vỡ tính cân xứng để tạo ra nhịp thơ mạnh, dồn dập   như âm hưởng của những bước hành quân vũ bão. 17
  18. Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn                                           Năm học 2018 ­  2019 f) Từ câu 75 – câu 90: Hoài niệm về một cuộc họp của Chính phủ  trong hang núi   và khẳng định vai trò của Việt Bắc * Hoài niệm giản dị mà trang trọng về cuộc họp của Chính phủ trong hang núi: Ai về ai có nhớ không Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang Nắng trưa rực rỡ sao vàng Trung ương Chính phủ luận bàn việc công Không gian của cuộc họp là hang núi chật hẹp, vậy mà vẫn lồng lộng gió núi,   vẫn rực rỡ cờ đỏ sao vàng, vẫn chan hoà ánh nắng… Cảnh tượng mang vẻ đẹp nghiêm   trang và phóng khoáng trong ngọn gió của thời đại mới. Đó là nơi mà những quyết định  vừa lớn lao, thiêng liêng, vừa cụ thể, thiết thực của cách mạng đã được đưa ra:  Điều quân chiến dịch Thu – đông Nông thôn phát động, giao thông mở đường Giữ đê, phòng hạn, thu lương Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu… * Kết thúc đoạn thơ lại là hình ảnh Việt Bắc, Thủ đô kháng chiến, nơi có Đảng và Bác   Hồ, nơi quy tụ  niềm tin và hi vọng của mọi người Việt Nam từ mọi miền đất nước,   đặc biệt là những nơi còn “u ám quân thù”.  Cũng  ở đoạn thơ cuối cùng này, vị trí của Việt Bắc đã được người đi khẳng định rõ  ràng. Việt Bắc là “quê hương cách mạng”.  Kết thúc đoạn thơ vẫn là nỗi nhớ ngân nga trong lòng kẻ ở ­ người đi: Mình về mình lại nhớ ta Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào. III. TỔNG KẾT 1. Nội dung:   Vẻ đẹp thiên nhiên và con người Viêt B ̣ ắc; tái hiên l ̣ ại cuộc kháng chiến gian khổ mà   hào hùng của dân tộc.     Khẳng định ân tình cách mạng thủy chung son sắt giữa đồng bào Việt Bắc với cán  bộ miền xuôi.   Nuôi dương tinh yêu quê h ̃ ̀ ương đất nước cho các thế hê sau.  ̣ 2. Nghệ thuật:   Kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trữ tình và chính trị. ̣ ắc đậm đà tính dân tộc:  Viêt B + Thể thơ lục bát là thể thơ quen thuộc của dân tộc, đã được sử dụng thành công. + Kết cấu đối đáp thường được thấy trong ca dao, dân ca truyền thống, được  dùng một cách sáng tạo để diễn tả nội dung, tình cảm phong phú về quê hương,   con người, Tổ quốc và Cách mạng. + Cặp đại từ nhân xưng “mình – ta” với sự biến hoá linh hoạt và những sắc thái   ngữ nghĩa biểu cảm phong phú vốn có của nó được khai thác rất hiệu quả. + Những biện pháp tu từ: so sánh, ẩn dụ, hoán dụ, tượng trưng… quen thuộc của   quần chúng được dùng nhuần nhuyễn. MỘT SỐ DẠNG ĐỀ CƠ BẢN Đề 1: Phân tích/ Cảm nhận về các đoạn thơ. Đề  2:  Nhận xét về  trích đoạn Việt Bắc (Tố  Hữu), có ý kiến cho rằng: “Đoạn trích   đậm đà tính dân tộc, không chỉ trong nội dung mà còn ở hình thức nghệ thuật”. Anh/chị  18
  19. Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia môn Ngữ Văn                                           Năm học 2018 ­  2019 hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. Đề 3: Tìm hiểu phong vị dân gian và màu sắc cổ điển trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Đề  4:  “Việt Bắc” là bài thơ  tiêu biểu cho phong cách nghệ  thuật thơ  Tố  Hữu. Anh   (chị) hãy làm sáng tỏ điều đó. Trọn bộ  tài liệu kiến thức cơ  bản các tác phẩm Ngữ  Văn 12 phục vụ ôn thi THPT Quốc gia, biên soạn công  phu. Ai có nhu cầu, vui lòng liên hệ  số   điện thoại  0978075007 hoặc email: vinaphone89@gmail. com 19
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
21=>0