TS. Lê Thị TUyếT BA
223
TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TẠO MÔI TRƯỜNG THUẬN LỢI CHO VIỆC XÂY DỰNG ĐẠO ĐỨC KINH DOANH HIỆN NAY
TS. Lê Thị TUyếT BA Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng
TÓM TẮT Vấn đề đạo đức nói chung, đạo đức kinh doanh nói riêng đang trở thành mối quan tâm của toàn xã hội. Đối với Việt Nam, việc phải tăng cường vai trò của pháp luật để tạo môi trường thuận lợi cho sự hình thành và phát triển đạo đức kinh doanh đã trở thành một trong những vấn đề cấp thiết. Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả muốn làm rõ thêm mối quan hệ giữa đạo đức và pháp luật, sự tác động của pháp luật đến đời sống xã hội, đặc biệt là đời sống đạo đức. Việc thể chế hóa đường lối chính sách của Đảng thành pháp luật một cách đúng đắn, kịp thời, có tính khoa học- thực tiễn cao có ý nghĩa trong việc ổn định xã hội, phát triển kinh tế đồng thời góp phần vào việc đề ra và thực hiện những nguyên tắc, chuẩn mực, giá trị đạo đức để hình thành những phẩm chất mới của người Việt Nam. Vì vậy, việc nâng cao vai trò, hiệu quả pháp luật không chỉ là nhằm để lập lại trật tự, kỷ cương xã hội mà còn tạo môi trường thuận lợi cho việc hình thành và phát triển đạo đức mới, trong đó có đạo đức kinh doanh.
Từ khóa: Đạo đức, pháp luật, đạo đức kinh doanh, kinh tế thị trường, ý thức pháp quyền
Trong quá trình phát triển của lịch
sử nhân loại, cùng với Nhà nước, pháp luật ra đời nhằm điều chỉnh hành vi con người và các mối quan hệ xã hội. Bên cạnh đạo đức và dư luận xã hội, pháp luật là công cụ quản lý xã hội chủ yếu của Nhà nước.
Giữa pháp luật và đạo đức luôn có mối quan hệ và tác động qua lại, bổ sung cho nhau trong quá trình điều chỉnh hành vi của con người. Đó là mối quan hệ giữa hai hình thái ý thức xã hội cùng hướng tới mục tiêu chung là bảo vệ cho lẽ phải, cho sự công bằng, công lý và đạo lý làm người trong xã hội. Tất nhiên, điều này có liên quan đến vận mệnh của đất nước, của dân tộc và tùy thuộc vào quyền lợi của giai cấp cầm quyền. Trên thực tế, có rất nhiều vấn đề thuộc phạm vi đạo đức được pháp luật can thiệp, dùng sức mạnh của pháp luật để bảo vệ đạo lý, bảo vệ chính nghĩa. Điều này được phản ánh đầy đủ trong các bộ luật của Nhà nước như Luật dân sự, Luật hình sự hay Luật hôn nhân và gia đình, v.v…Tuy nhiên, không phải tất cả các mối quan hệ đạo đức đều có sự can thiệp của pháp luật. Pháp luật chỉ thực sự có vai trò và ảnh hưởng quyết định đối với một số lĩnh vực, còn các lĩnh vực tình cảm, niềm tin bên trong hay lương tâm, danh dự hoặc nỗi bất hạnh của con người thì pháp luật cũng trở nên bất lực. Nghĩa là, trong hệ thống các mối quan hệ xã hội, có nhiều nhóm quan hệ là đối tượng điều chỉnh chung
224
Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
của cả pháp luật và đạo đức nhưng cũng có nhiều mối quan hệ xã hội chỉ có thể là đối tượng điều chỉnh hoặc của pháp luật, hoặc của đạo đức mà thôi.
Mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức là mối quan hệ cùng song hành, “mối quan hệ bổ sung cho nhau, “giúp đỡ” lẫn nhau trong quá trình điều chỉnh hành vi của con người”[1]. Để nâng cao vai trò của đạo đức thì không thể thiếu vai trò của pháp luật và ý thức pháp quyền. Pháp luật càng chặt chẽ, càng đầy đủ và được thi hành nghiêm chỉnh thì đạo đức càng được đề cao, khả năng điều chỉnh và giáo dục của đạo đức càng được mở rộng và ảnh hưởng một cách toàn diện đến mọi hành vi, mọi mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội và với môi trường tự nhiên.
Trong lịch sử, Nho giáo đã từng lấy đạo đức để răn dạy con người và từ đó ổn định xã hội. Nho giáo quan niệm đức là gốc của con người, nói đến con người là nói đến đạo đức. Theo Khổng Tử, làm người trước hết phải có đức và phải luôn luôn tu dưỡng đức. Đức không chỉ là thiện đức, là đức hạnh mà còn là lẽ sống, là biểu hiện sự tồn tại với tư cách con người.. Khổng Tử không tách rời đạo đức với chính trị mà đã “đạo đức hóa chính trị”. Và tất cả triết lý chính trị của ông gồm trong danh từ “đức trị”, mà danh từ này có nghĩa là “người trị dân, phải trị dân bằng đức chứ không bằng bạo lực…”. Với chủ trương đức trị, Nho giáo coi đức trị là Vương đạo. Thực chất của đức trị là đòi hỏi người trị dân phải có đức, quản lý xã hội bằng đức, phải nêu gương, cảm hóa, làm cho dân an tâm mà giữ đúng đạo làm người. Bản thân những nhà Nho thanh cao, có đạo đức, giàu tình nghĩa, những gia đình gia giáo, ấm êm, hòa thuận thực sự cần thiết cho một xã hội ổn định và phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh những ảnh hưởng to lớn đối với đời sống xã hội, Nho giáo cũng có những mặt hạn chế, tiêu cực và bảo thủ.
Đối lập với chủ trương đức trị là tư tưởng pháp trị. Thực tế cho thấy, đã từng có những vị vua dùng pháp luật để cai trị đất nước. Phép trị nước theo đường lối pháp trị với những chính sách thiết thực, thưởng phạt phân minh đã đưa xã hội đi vào cuộc sống có quy củ, vận hành theo khuôn khổ của phép nước. Song, trong cuộc sống, không phải tất cả mọi mối quan hệ xã hội, mọi hành vi của cá nhân đều có nhu cầu được điều chỉnh bằng pháp luật. và, nếu chỉ “dựa vào pháp luật để trị dân, sử dụng hình phạt để chỉnh đốn dân thì họ tạm thời khỏi bị phạm tội nhưng lại không có liêm sỉ” (Khổng Tử). Trên thực tế, pháp luật chỉ có vai trò điều chỉnh các mối quan hệ cơ bản và phổ biến. Cho nên, cả tư tưởng đức trị và tư tưởng pháp trị thời phong kiến, bên cạnh mặt tích cực, đều có tích chất phiến diện. Thực ra, những tư tưởng ấy chỉ là những biện pháp khác nhau của các thế lực thống trị nhằm Từ khi xuất hiện, pháp luật luôn gắn với giai cấp cầm quyền. Trong xã hội có phân chia và đối kháng giai cấp, Nhà nước của giai cấp thống trị là người đại diện cho một bộ phận, cho một thiểu số bóc lột nên pháp luật chủ yếu là nhằm bảo vệ lợi ích cho giai cấp cầm quyền. Hoạt động của đời sống xã hội được đưa vào trong khuôn khổ pháp luật cũng nhằm mang lại lợi ích cho giai cấp cầm quyền. Trên thực tế, pháp luật của những Nhà nước gắn với giai cấp tiên tiến của thời đại thì thường phù hợp với xu hướng tiến bộ vì nó bao hàm những chuẩn mực, những quy định nhằm bảo vệ lợi ích chân chính và phẩm giá con người. Đương nhiên, pháp luật trong xã hội này cũng sẽ được xây dựng trên cơ sở khuyến thiện, trừ ác, tạo điều kiện cho sự phát triển, tiến bộ của con người và cộng đồng. Ngược lại, nếu pháp luật của Nhà nước gắn với giai cấp đang suy tàn, không còn vai trò lịch sử thì thường chứa đựng yếu tố trì trệ, bảo thủ, đi ngược lại lợi ích chân chính của con người. Trong trường hợp như vậy, pháp luật sẽ không phản ánh được những yêu cầu đạo đức tiến bộ, phù hợp với xu hướng phát triển khách quan của thời đại.
TS. Lê Thị TUyếT BA
225
củng cố địa vị và quyền lực của mình. Bởi vì, không thể có đức trị khi giới cầm quyền sống xa hoa, hưởng lạc trên mồ hôi, nước mắt và xương máu của nhân dân. Tương tự như vậy, cũng không thể có pháp trị theo đúng nghĩa nếu như giới cầm quyền sẵn sàng dùng mọi thủ đoạn tàn bạo để đàn áp nhân dân, coi rẻ tính mạng của người dân và bất chấp cả những quy định của luật pháp.
chất đánh giá tốt - xấu, đúng - sai, cao thượng - thấp hèn…và tồn tại bất thành văn. Mọi sự vi phạm về đạo đức sẽ bị dư luận xã hội lên án chứ không có sự trừng phạt bằng một hình thức cưỡng chế nào. Trong khi đó, pháp luật “không chỉ đánh giá và chủ yếu không phải để đánh giá tính chất của hành vi mà làm chuẩn mực lý tưởng và bắt buộc cho hành vi. Pháp luật hiện đại tồn tại chủ yếu dưới dạng thành văn, mang dấu hiệu quyền lực chính trị, thể hiện ý chí của giai cấp và được bảo đảm thực hiện bằng sự cưỡng chế Nhà nước” [3]. Mặc dù khác nhau về phương thức tồn tại và hình thức tác động nhưng cả pháp luật và đạo đức đều là những quy phạm được sử dụng để điều chỉnh hành vi con người và các mối quan hệ xã hội.
Trong điều kiện kinh tế thị trường và quá trình toàn cầu hóa mạnh mẽ như hiện nay, yêu cầu đặt ra đối với pháp luật là phải tác động tích cực đến đạo đức của xã hội. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi mỗi cá nhân trong hoạt động của mình phải tính toán chặt chẽ những điều kiện khách quan và hiệu quả kinh tế. Khi đời sống kinh tế xã hội đã và đang có những chuyển biến lớn, thì quan hệ giữa con người với con người không chỉ là “mối quan hệ trực tiếp, cảm tính, chủ yếu vẫn bị chi phối bởi những nguyên tắc và chuẩn mực của sự phát triển ưu trội về đạo đức” [4] mà còn cần phải có sự bổ sung tính kinh tế, tính hiệu quả, tính pháp lý vào những chuẩn mực, những quan niệm, những giá trị và vào cả việc đánh giá đạo đức.
Trong xã hội không còn đối kháng về mặt giai cấp, Nhà nước là người đại diện cho nhân dân lao động quản lý và điều hành tất cả mọi hoạt động của đời sống xã hội. Cho nên, hoạt động của Nhà nước và hệ thống pháp luật tự bản thân nó đã bao hàm trong đó ý nghĩa đạo đức. Đồng thời, pháp luật đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ nền đạo đức của xã hội. Có thể nói rằng, pháp luật là phương tiện không thể thiếu được cho sự tồn tại bình thường của xã hội nói chung và nền đạo đức nói riêng. Việc điều chỉnh các quan hệ xã hội bằng pháp luật là phương thức điều chỉnh thông qua các nguyên tắc, điều luật, các quy định có phạm vi và hiệu quả rõ rệt. Bởi vì, pháp luật được Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế. Nói đúng hơn, “pháp luật bao giờ cũng là một trong những biện pháp để khẳng định một chuẩn mực đạo đức và biến nó thành thói quen. Chuẩn mực càng khó khẳng định bao nhiêu thì vai trò của pháp luật càng quan trọng bấy nhiêu. Vì vậy, không thể buông lỏng pháp luật nếu việc này chưa được chuẩn bị bằng sự tiến bộ đạo đức của xã hội”[2]. Cùng với sự phát triển của xã hội thì các mối quan hệ ngày càng đa dạng và phong phú hơn. Pháp luật càng có vai trò quan trọng hơn trong việc giữ gìn trật tự của các quan hệ xã hội và tạo điều kiện cho sự phát triển của các quan hệ xã hội theo một hướng nhất định.
Quan hệ giữa đạo đức và pháp luật là mối quan hệ qua lại, bổ sung lẫn nhau trong quá trình điều chỉnh hành vi con người. Đối với đạo đức đó là những quy chuẩn mang tính Đối với Việt Nam, việc phải tăng cường vai trò của pháp luật để tạo môi trường thuận lợi cho sự hình thành và phát triển đạo đức kinh doanh đã trở thành một trong những vấn đề cấp thiết. Đã đến lúc cần phải hình thành và phát triển ý thức pháp luật, đồng thời xã hội hóa tri thức, nâng cao trình độ dân trí, tạo cơ sở nâng cao đạo đức lên trình độ duy lý pháp lý và khoa học. Quan niệm về chuẩn giá trị và đánh giá đạo đức ngày càng mang tính
226
Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
khách quan và duy lý. Sự điều chỉnh xã hội bằng pháp luật đã làm cho mỗi thành viên trong xã hội đều có thể tự do phát huy mọi khả năng sáng tạo của mình. Với ý nghĩa đó, việc quản lý xã hội bằng pháp luật và nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật sẽ là cơ sở xã hội quan trọng cho sự phát triển đạo đức kinh doanh hiện nay.
lĩnh hơn trong đấu tranh vì công bằng và lẽ phải; biết trân trọng và hướng tới cái đúng, cái tốt và cái đẹp. Có thể nói rằng, sự điều chỉnh mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội từ chỗ chủ yếu bằng đạo đức chuyển sang điều chỉnh chủ yếu bằng pháp luật là một trong những yêu cầu quan trọng trong đời sống xã hội. Bởi vì, sự gắn bó giữa pháp luật và đạo đức, việc hình thành ý thức pháp luật của mỗi công dân là điều kiện để nâng cao nhận thức đạo đức và năng lực thực hiện những nhu cầu đạo đức của mối cá nhân, là cơ sở để phát triển đạo đức của xã hội, trong đó có đạo đức kinh doanh.
Đạo đức kinh doanh là vấn đề khá mới ở Việt Nam. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều ý kiến với nhiều góc nhìn khác nhau. Đạo đức kinh doanh được hiểu là một tập hợp các nguyên tắc, chuẩn mực có tác dụng điều chỉnh, đánh giá, hướng dẫn và kiểm soát hành vi của các chủ thể kinh doanh. Nói cách khác, trong quá trình tìm kiếm lợi nhuận, chủ thể kinh doanh luôn trung thực, giữ chữ tín với khách hàng, tôn trọng pháp luật, tôn trọng môi trường… là cách thức kinh doanh có đạo đức hay có thể gọi là đạo đức kinh doanh. Đạo đức kinh doanh có tính đặc thù, là một dạng đạo đức nghề nghiệp, luôn chịu sự chi phối bởi một hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức xã hội nói chung.
Công cuộc đổi mới đất nước diễn ra trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ. Thực tế đó luôn đòi hỏi và thúc đẩy nâng cao trình độ dân trí, trình độ đào tạo cho lực lượng lao động và xã hội hóa tri thức khoa học. Cho nên, trình độ nhận thức của mỗi cá nhân và của toàn xã hội cũng được nâng lên làm cho trình độ phản ánh và khả năng điều chỉnh của đạo đức cũng biến đổi và phát triển. Sự biến đổi đó được biểu hiện ở tính duy lý cao hơn trong việc đánh giá, lựa chọn những giá trị và chuẩn mực đạo đức. Nói cách khác, con người Việt Nam đã dần chuyển từ thói quen theo “lệ” sang ý thức tuân thủ theo luật. Mọi hoạt động của cá nhân và xã hội đang dịch chuyển từ cách ứng xử duy cảm, duy tình sang lối ứng xử “có lý có tình”, trong khuôn khổ “kỷ cương, tình thương và trách nhiệm”. Mỗi con người trong hoạt động của mình đã có ý thức hơn trong việc tôn trọng pháp luật, có bản Cả pháp luật và đạo đức đều góp phần bảo vệ các giá trị chân chính, đều liên quan đến hành vi và đụng chạm đến lợi ích của con người và xã hội. Pháp luật tham gia vào việc điều chỉnh quan hệ xã hội bằng những quy phạm, điều khoản quy định các quyền và nghĩa vụ của chủ thể. Các quy phạm pháp luật quy định chi tiết các hành vi được phép và hành vi bị cấm đoán. Đồng thời, chúng còn nêu cụ thể cách cư xử lẫn những hình phạt sẽ áp dụng nếu chủ thể vi phạm. Nhận thức được tầm quan trọng của luật pháp, cho nên lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cập và coi trọng vai trò của pháp luật trong điều hành và quản lý xã hội. Theo Người, pháp luật luôn chi phối, chỉ đạo mọi hành vi, mọi hoạt động của bộ máy và cơ quan nhà nước; còn môi trường pháp lý thì luôn bao trùm mọi mặt, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Ngay từ những ngày đầu lập nước cho đến sau này, trong quá trình giữ nước, Hồ Chủ tịch luôn quan tâm đến vai trò của pháp luật. Người đã từng chủ trương sửa đổi, ban hành hiến pháp phù hợp với từng giai đoạn cách mạng. Người quan niệm: một khi điều kiện kinh tế - xã hội thay đổi thì pháp luật, đặc biệt là các đạo luật gốc – Hiến pháp cũng phải thay đổi để bảo đảm khả năng điều chỉnh hợp lý các quan hệ xã hội đã phát sinh và định hình trong quá trình phát triển. Điều đó đã góp phần lý giải tại sao từ năm 1945 đến 1969, ngoài hai bản Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm
TS. Lê Thị TUyếT BA
227
1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã “chỉ đạo soạn thảo, ký quyết định công bố 16 đạo luật và 1300 văn bản dưới luật”.
bên trong hoặc bởi sự cắn rứt của lương tâm. Sự khác biệt nhưng lại thống nhất này là cơ sở bổ sung và hỗ trợ cho nhau giữa đạo đức và pháp luật.
Thực tế những năm vừa qua ở nước ta, hệ thống pháp luật và việc thi hành pháp luật đã có những tác động rõ rệt đến đời sống xã hội. Có thể nói rằng, những quy định trong Hiến pháp, những đạo luật và những văn bản dưới luật luôn “đề cao tính nhân đạo và nhân văn, bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp của nhà nước mà nhân dân là chủ và do nhân dân làm chủ [5]. Nói đúng hơn, đó là hệ thống pháp luật phục vụ cho việc thực thi các lợi ích cơ bản của con người, mà đạc biệt là lợi ích của người lao động. Vì vậy, các nguyên tắc định hướng cho việc xây dựng nội dung của hệ thống pháp luật như công bằng, nhân đạo, vì sự phát triển tiến bộ của con người và xã hội cũng chính là những nguyên tắc, những chuẩn mực đạo đức cơ bản mà nhân loại tiến bộ đã, đang và sẽ hướng tới. Do đó, pháp luật sẽ góp phần rất lớn trong việc hình thành ý thức tôn trọng và chấp hành những quy phạm chung và giúp con người sẽ có những hành vi ứng xử văn minh, phù hợp với chiều hướng phát triển tiến bộ của thời đại.
Trên thực tế, pháp luật là công cụ định hướng hành vi và điều chỉnh các quá trình xã hội, ngoài ra, pháp luật còn phản ánh các quy luật khách quan, các giá trị mà con người đạt được trong cuộc sống. Từ trước đến nay, trong hệ thống văn bản pháp luật của nước ta, kể cả Hiến pháp, các bộ luật và văn bản dưới luật thường có nhiều quy phạm pháp luật ghi nhận những giá trị, những chuẩn mực đạo đức được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế bởi các cơ quan pháp luật của Nhà nước. Đặc biệt, trong Hiến pháp năm 1992 của nước ta đã từng nhấn mạnh: “Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân; xây dựng đất nước giàu mạnh, thực hiện công bằng xã hội, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”[6]. Hiến pháp cũng đã quy định rõ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Trong việc xử lý mối quan hệ giữa quyền và nghĩa vụ, Hiến pháp vừa thể hiện các quyền, lợi ích của công dân nhưng cũng quy định rõ các nghĩa vụ mà người dân phải thực hiện trên cơ sở đường lối chính sách của Đảng và đạo lý truyền thống của dân tộc. Cho nên, Hiến pháp khẳng định: “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân” và quy định: “Công dân phải trung thành với Tổ quốc, phản bội Tổ quốc là tội lớn nhất”[7]. Ngoài ra, các bộ luật như Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự, Luật hôn nhân và gia đình, Luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em…đều được xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc, những chuẩn mực đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Vì vậy, có thể nhấn mạnh rằng, pháp luật vừa là công cụ hữu hiệu trong việc bảo tồn những giá trị truyền thống, vừa góp phần bồi đắp nên những giá trị mới, trong đó có đạo đức kinh doanh. Pháp luật thực hiện điều chỉnh mối quan hệ giữa con người và xã hội bằng sự bắt buộc, cưỡng chế từ bên ngoài. Có thể coi pháp luật là một bước phát triển cao hơn của đạo đức, góp phần điều chỉnh những quan hệ cơ bản và quan trọng nhất liên quan tới lợi ích và vận mệnh quốc gia. Pháp luật có tính bao quát, toàn diện và giúp nhà cầm quyền cai trị trên một diện rộng, đồng thời, nó còn có khả năng chuẩn bị cho những cái mới trong tương lai. Trên thực tế, một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ sẽ góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, đẩy lùi các tệ nạn, các hiện tượng tiêu cực để ổn định xã hội. Vì vậy, pháp luật còn có thể được coi là một trong những yếu tố quan trọng, tạo điều kiện cho sự phát triển tiến bộ của một quốc gia. Trong khi đó, đạo đức lại điều chỉnh các mối quan hệ bằng dư luận xã hội, bằng sự giác ngộ, sự thôi thúc từ
228
Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta còn kém phát triển, một bộ phận nhân dân ít hiểu biết về pháp luật cộng với những bất cập của hệ thống pháp luật đã dẫn đến tình trạng vi phạm kỷ cương xã hội, coi thường pháp luật. Không ít những trường hợp khi tham gia thị trường đã vì lợi nhuận mà bất chấp tất cả, coi thường đạo lý, vi phạm pháp luật, làm đảo lộn các giá trị đạo đức. Hiện tượng buôn lậu, trốn thuế; nạn làm hàng giả, buôn bán hàng giả đang ngày càng có chiều hướng gia tăng. Nhiều người vì đồng tiền, vì lợi nhuận mà bất chấp cả tính mạng người tiêu dùng; tàn phá môi trường; lừa đảo cả đối tác của mình bằng những hành vi rất xảo quyệt và phi nhân… Những biểu hiện xuống cấp và suy thoái đạo đức, hiện tượng xa hoa, lãng phí trong một bộ phận dân cư đang là nỗi bất bình của toàn xã hội. Thực tế nhức nhối đó chắc chắn là do nhiều nguyên nhân, trong đó có phần do pháp luật chưa đầy đủ hoặc thiếu chặt chẽ và việc thi hành pháp luật còn chưa nghiêm, chưa công bằng và hiệu quả. Trong hoàn cảnh như vậy, đòi hỏi luật pháp phải tỏ rõ sức mạnh của mình để lập lại trật tự kỷ cương. Bởi vì, “nếu đạo lý không đủ mạnh để thuyết phục thì pháp lý phải ra tay. Nếu dư luận xã hội chưa đủ độ để lên án thì luật pháp phải kết án”[8].
rõ ràng có phần đóng góp to lớn của hệ thống pháp luật. Phải thừa nhận rằng, những năm vừa qua, pháp luật đã góp phần đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, duy trì và tạo được một số chuyển biến khả quan về mặt xã hội. Pháp luật cũng đã góp phần không nhỏ trong việc củng cố tiềm lực quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, góp phần vào việc cải cách một bước nền hành chính quốc gia, đồng thời đưa nước ta từng bước hội nhập khu vực và thế giới. Chúng ta cũng đang từng bước xây dựng, sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật. Nhiều văn bản pháp luật và dưới luật được ban hành và đang đi vào cuộc sống, đáp ứng được nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân, được quần chúng hoan nghênh, đồng tình đón nhận và nghiêm túc thực hiện. Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu, càng nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp. Cho nên, việc thể chế hóa đường lối chính sách của Đảng thành pháp luật một cách đúng đắn, kịp thời, có tính khoa hoc – thực tiễn cao không những có ý nghĩa trong việc ổn định xã hội, phát triển kinh tế mà còn góp phần vào việc đề ra và thực hiện những nguyên tắc, chuẩn mực, giá trị đạo đức để hình thành những phẩm chất mới của người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Có thể nói rằng, việc ban hành Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp sửa đổi, bổ sung (2011) và hàng loạt các văn bản pháp luật mới để thể chế hóa đường lối chủ trương của Đảng một cach kịp thời, trên thực tế đã và đang thúc đẩy việc xây dựng các quan hệ xã hội ngày càng lành mạnh ở nước ta. Điều đó càng khẳng định một thực tế là, nếu như pháp luật ngày một hoàn thiện hơn, hoạt động tuyên truyền pháp luật được phổ biến rộng rãi hơn thì ý thức pháp luật sẽ được nâng cao hơn và định hướng hành vi cho mọi công dân sẽ tốt hơn.
Những năm gần đây, các cơ quan chức năng đã có nhiều nỗ lực trong việc thanh tra, khám phá và đưa ra xét xử công khai nhiều vụ trong án, đã kiên quyết trừng trị thích đáng những kẻ phạm tội, thu về cho Nhà nước một lượng tài sản không nhỏ. Việc đưa ra ánh sáng và xử lý nghiêm khắc nhiều vụ án điển hình không những được quần chúng hoan nghênh, dư luận xã hội đồng tình ủng hộ cái đúng, cái thiện, lên án cái sai, bài trừ cái ác mà còn chứng tỏ vai trò vô cùng quan trọng của luật pháp trong việc bảo vệ nền đạo đức và lành mạnh hóa đời sống xã hội.
Tuy nhiên, trên thực tế hệ thống pháp luật của Nhà nước ta vẫn còn thiếu những quy định cần thiết trong lĩnh vực quản lý kinh tế và các quy định về quyền cơ bản của công dân.. Việc tăng cường hiệu lực pháp luật trong Công cuộc đổi mới ở nước ta đang ngày càng có những chuyển biến tích cực. Tình hình chính trị - xã hội về cơ bản là ổn định,
TS. Lê Thị TUyếT BA
229
quản lý đời sống xã hội, đặc biệt là đời sống tinh thần vẫn còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, việc phổ biến, giáo dục pháp luật chưa được chú trọng nếu không nói là còn bị xem nhẹ. Trước đây, Hồ Chủ tịch luôn nhắc nhở rằng, hiệu lực của pháp luật chỉ có được khi mọi người đều nghiêm chỉnh chấp hành. Để pháp luật được thực thi trong đời sống xã hội thì phải chú trọng giáo dục pháp luật một cách thường xuyên và rộng rãi trong quần chúng. Nghĩa là, phải làm cho pháp luật đến được với dân, với tất cả mọi đối tượng. Pháp luật phải “đi vào giữa dân gian” để cho mọi người dân đều biết luật, tôn trọng luật và có ý thức làm đúng luật. Những năm vừa qua ở nước ta, tình trạng vi phạm pháp luật có chiều hướng gia tăng là do nhiều nguyên nhân, trong đó không thể không nói đến công tác giáo dục pháp luật. Trong điều kiện ở nước ta khi trình độ dân trí còn thấp, văn hóa chính trị, văn hóa pháp luật còn hạn chế thì việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật càng trở nên hết sức cần thiết.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: pháp luật của ta là pháp luật dân chủ, pháp luật không phải là để trừng trị con người mà là công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con người. Đáng tiếc là trong đời sống xã hội ở nước ta vẫn còn một bộ phận trong dân chúng coi pháp luật là sự trói buộc mình nên đã có tâm lý trốn tránh pháp luật. Thực tế đó cũng đã góp phần làm cho việc thực thi pháp luật càng trở nên phức tạp hơn và ít hiệu quả hơn. Ngoài ra, sự bất cập trong hoạt động của một số cơ quan bảo vệ pháp luật, sự yếu kém trong lĩnh vực thực hiện đã có ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả pháp luật. Sự sơ hở trong quản lý kinh tế đã đẻ ra những kẻ sống phè phỡn trên sự bất công, làm cho xã hội ngày càng phân hóa rõ rệt và tệ hơn là những hành vi vi phạm pháp luật, đạo đức ngày càng có đà sinh sôi nảy nở. Đội ngũ cán bộ trực tiếp thực thi luật pháp không những còn hạn chế về chuyên môn mà còn chưa thực sự công tâm, nghiêm minh và gương mẫu trong việc chấp hành pháp luật cộng với tình trạng pháp luật bị buông lỏng đã tạo điều kiện cho những hiện tượng phản đạo đức xuất hiện và lây lan nhanh chóng, gây ảnh hưởng xấu đến việc xây dựng các quan hệ xã hội lành mạnh và tiến bộ.
Pháp luật không loại trừ một ai và không phân biệt đối xử với bất kỳ ai. Đứng trước pháp luật thì mọi công dân đều có quyền và nghĩa vụ ngang nhau. Nói đúng hơn, pháp luật không chỉ có giá trị ràng buộc đối với công dân mà còn đối với cả giới cầm quyền, đối với người bị quản lý và cả người quản lý. Pháp luật là công cụ hữu hiệu “nhằm ngăn chặn, đẩy lùi cái xấu, cái ác, khuyến khích, nâng đỡ, phát huy cái tốt, cái thiện vốn có trong mỗi con người, chứ không đơn thuần trừng phạt, răn đe”[9]. Cho nên, trong cuộc đời hoạt động của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở: pháp luật không chỉ dừng lại ở các quyền con người được ghi trong các văn bản mà phải thấm đượm lòng nhân ái, “nghĩa đồng bào”, phải thể hiện sự Không những lơi lỏng trong công tác giáo dục pháp luật mà công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thi hành luật của các cơ quan chức năng còn nhiều bất cập. Trên thực tế, nước ta xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế nông nghiệp, sản xuất nhỏ lẻ, lạc hậu lại trải qua nhiều năm chiến tranh, cho nên những kinh nghiệm xây dựng hệ thống pháp luật và quản lý xã hội bằng pháp luật còn nhiều hạn chế. Tâm lý tiểu nông, thói quen của người làm nông nghiệp, sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, tự cấp, tự túc và tự do lại chưa hề trải qua nền dân chủ tư sản nên đại đa số nhân dân chưa có được ý thức pháp luật, thậm chí còn mang nặng tư tưởng “phép vua thua lệ làng”. Điều đó đã góp phần lí giải tại sao trong đời sống xã hội vẫn còn không ít người chưa có thói quen sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Cá biệt ở một số địa phương, không chỉ là người dân mà cả đội ngũ cán bộ cơ sở vẫn còn coi trọng tập tục, “lệ làng” hơn pháp luật của Nhà nước.
230
Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
bất bình cho dân chúng. Trên thực tế, vẫn còn tình trạng kẻ phạm pháp nhưng lại sống nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật hoặc chưa bị pháp luật trừng trị một cách thích đáng. Điều đó đã góp phần làm giảm sút lòng tin của quần chúng vào pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho những hành vi phạm pháp và những hiện tượng phản đạo đức, phản luân lý. Cho nên, một nền đạo đức tiến bộ không thể không dựa trên sự hình thành một đạo luật đúng đắn, chặt chẽ và toàn diện. Ngược lại, pháp luật là điều kiện không thể thiếu cho sự tồn tại của đạo đức.
quan tâm, chăm lo cho ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nếu vi phạm pháp luật mà không xử phạt là không đúng, song cái gì cũng trừng phạt cả thì cúng là không đúng. Nghĩa là, không nên quá lạm dụng pháp luật. Việc thực thi pháp luật là nhằm đi đến một xã hội có trật tự kỷ cương, văn minh, tiến bộ vì con người và cho con người. Do đó, tính nghiêm minh và hiệu lực của pháp luật không chỉ phụ thuộc vào sự đúng đắn, công tâm của pháp luật mà trong quan hệ thực tế còn phụ thuộc vào cái tâm của chính người đại diện cho pháp luật và thực thi pháp luật. Với ý nghĩa như vậy thì rõ ràng pháp luật và việc thực thi pháp luật là môi trường nuôi dưỡng và phát triển các giá trị đạo đức, kể cả đạo đức kinh doanh.
Hiện nay trong đời sống xã hội nước ta, vẫn còn ý thức, tâm lý thờ ơ với pháp luật, thiếu tin tưởng vào pháp luật của một bộ phận nhân dân. Tình trạng vi phạm pháp luật đang có chiều hướng gia tăng một phần là do ý thức pháp luật của người dân còn hạn chế. Nhiều người coi pháp luật là sự trói buộc chứ chưa có ý thức tự giác. Việc chấp hành pháp luật nhiều khi và nhiều nơi chỉ vì sợ bị trừng phạt chứ không phải vì trách nhiệm, nghĩa vụ công dân. Ngoài ra, việc xét xử thiếu nghiêm minh, công bằng, xét xử không đúng người, đúng tội, nhiều trường hợp oan sai đã gây không ít Vì vậy, việc nâng cao vai trò, hiệu quả pháp luật không chỉ là nhằm để lập lại trật tự, kỷ cương xã hội mà còn tạo môi trường thuận lợi cho việc hình thành và phát triển đạo đức mới, trong đó có đạo đức kinh doanh. Nghĩa là, cùng với quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường trong bối cảnh hội nhập, chúng ta phải biết kế thừa, phát huy và đổi mới những giá trị truyền thống của dân tộc, đồng thời phải biết tiếp nhận và nuôi dưỡng những giá trị mới được bổ sung trong sự phát triển của thế giới ngày nay. Để làm được điều đó, đòi hỏi chúng ta phải tiến hành một cách đồng bộ nhiều biện pháp quan trọng cùng với việc đổi mới và hoàn thiện nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền.
TÀI LIỆU ThAM KhẢO
[1] Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (1995). Những vấn đề lý luận cơ bản về Nhà nước và pháp luật.
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 152
[2] G.Bandzeladze (1985) Đạo đức học, tập I. Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr 177 [3] Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (1995), Sđd, tr 152 [4] Phạm Thị Ngọc Trầm (1995) Bước chuyển đổi và mối quan hệ giữa các giá trị “chân” và “thiện” trong nền
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Tạp chí triết học Số 1, tr 25
[5] Tô Huy Rứa 2005). Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân,
do nhân dân và vì nhân dân. Tạp chí Cộng sản, Số 22, tr 24
[6] Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (1992). Nxb Sự thật – Nxb Pháp lý, Hà
Nội, tr 13
[7] Hiến pháp (1992) , Sđd, tr 38 [8] Nhị Lê (1999) Đạo lý. Tạp chí Cộng sản, số 13, tr 55 [9]Tô Huy Rứa (2005), Sđd, tr 26