intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tập tục tang ma của người Nùng huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

99
lượt xem
7
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tang ma của dân tộc Nùng là một trong những thành tố thuộc lĩnh vực văn hoá xã hội, nó biểu hiện sâu sắc đạo hiếu, đạo nghĩa của người sống dành cho người chết, người sống với người sống. Nghi lễ tang ma đã ăn sâu vào tiềm thức của đồng bào Nùng ở Đồng Hỷ và trở thành những tập tục truyền thống.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tập tục tang ma của người Nùng huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên

Lê Thị Thanh Vân<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> 63(1): 8 - 12<br /> <br /> TẬP TỤC TANG MA CỦA NGƯỜI NÙNG HUYỆN ĐỒNG HỶ<br /> TỈNH THÁI NGUYÊN<br /> Lê Thị Thanh Vân*<br /> Trường Trung học phổ thông Đồng Hỷ - Thái Nguyên<br /> <br /> TÓM TẮT<br /> Tang ma của dân tộc Nùng là một trong những thành tố thuộc lĩnh vực văn hoá xã hội, nó biểu<br /> hiện sâu sắc đạo hiếu, đạo nghĩa của ngƣời sống dành cho ngƣời chết, ngƣời sống với ngƣời sống.<br /> Nghi lễ tang ma đã ăn sâu vào tiềm thức của đồng bào Nùng ở Đồng Hỷ và trở thành những tập tục<br /> truyền thống. Sự phục hồi và suy thoái các nghi lễ đang diễn ra ở nhiều nơi khác nhau, nhiều giá<br /> trị truyền thống trong tang ma đang có nguy cơ bị mai một, nhiều lễ tục tốt đẹp đang bị trƣợt dài<br /> theo quan niệm mới của con ngƣời, song không ít các hủ tục lại có nguy cơ trỗi dậy, ngăn cản sự<br /> phát triển của xã hội. Tang ma của đồng bào Nùng ở Đồng Hỷ mặc dù vẫn tiếp thu nhƣng ảnh<br /> hƣởng của của ngƣời Tày, ngƣời Kinh, nhƣng nghi lễ tang ma của bào Nùng ở Đồng Hỷ vẫn giữ<br /> đƣợc những nét văn hoá riêng, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc.<br /> Từ khóa: Nghi lễ tang ma, bản sắc văn hoá, lịch sử, tôn giáo, tín ngưỡng, khu vực cư trú.<br /> <br /> <br /> Tang ma của dân tộc Nùng hàm chứa những<br /> giá trị văn hoá truyền thống, đặc sắc, nó không<br /> chỉ phản ánh các tập tục liên quan đến thế giới<br /> văn hoá tâm linh về thân phận con ngƣời, mà<br /> còn hàm chứa nhiều thông tin liên quan đến<br /> lịch sử tộc ngƣời, đến quan hệ giao thoa văn<br /> hoá giữa dân tộc Nùng và các dân tộc khác.<br /> Nếu không có nghiên cứu bảo tồn các giá trị<br /> tốt đẹp về văn hoá và lịch sử trong tang ma<br /> của dân tộc Nùng, chúng ta sẽ mãi mất đi<br /> những thành tố văn hoá quý giá, góp phần tạo<br /> nên bản sắc văn hoá tộc ngƣời và quốc gia.<br /> Nghi lễ tang ma đã ăn sâu vào tiềm thức của<br /> đồng bào Nùng trở thành những tập tục truyền<br /> thống, những quy ƣớc cộng đồng rất khó thay<br /> đổi. Vì tang ma “với vô vàn lễ thức của nó,<br /> nếu không phải là giải pháp cao nhất mà là<br /> một tập thể người sống đưa ra trước thân<br /> phận cuối cùng giành cho con người”(Ngƣời<br /> Mƣờng ở Hoà Bình, tác giả Trần Từ, Nxb Hội<br /> khoa học lịch sử Việt Nam 1996).<br /> Trong khuôn khổ bài báo, tác giả giới thiệu<br /> những nét cơ bản về tập tục tang ma của<br /> ngƣời Nùng ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái<br /> Nguyên thông qua các nghi thức sau đây:<br /> NGHI LỄ MỜI THẦY TÀO (TẢNG XẢY)<br /> <br /> <br /> Tel: 0982868077, Email:<br /> thuytoctruongxd@gmail.com<br /> <br /> Việc mời Thầy tào thƣờng do một bậc cao<br /> niên và một cháu trai trong họ nội đảm<br /> nhận. Nếu Thầy tào nhận lời đến giúp đến<br /> làm lễ thì Thầy tào sẽ cắt một nhúm tóc và<br /> buộc một sợi chỉ lên đầu ngƣời cháu trai<br /> đang quỳ ngoài sân. Và sau đó đón ngƣời đó<br /> vào nhà, thầy nhận hƣơng, thắp lên bàn thờ<br /> tổ sƣ nhà mình, rồi chụp 1 mảnh giấy đỏ<br /> (hay vải đỏ) lên trên miệng một cái chén hay<br /> một cái bát không đựng gì, với ngụ ý lƣu<br /> giữ một phần âm binh của thầy ở lại canh<br /> giữ nhà. Thầy tào xin phép tổ tiên, đƣợc đi<br /> làm việc cho đám hiếu nhà ông bà (A,B), và<br /> xin đƣợc các thần linh và tổ sƣ phù trợ để<br /> hoàn thành công việc.<br /> Đoàn thầy cúng đến nơi trƣớc khi vào nhà,<br /> đƣợc tang chủ và gia quyến quỳ ở sân dâng<br /> mâm lễ mời rƣợu thầy để biểu thị lòng chân<br /> thành. Thầy tào đổ một chén rƣợu xuống đất<br /> để xin phép thổ công vào nhà hành lễ.<br /> LỄ GÁNH TỘI BÁO HIẾU<br /> Lễ gánh tội báo hiếu nhằm rửa bớt tội lỗi<br /> cho ngƣời chết ở chốn trần gian, để linh hồn<br /> ngƣời chết sớm đƣợc siêu thoát. Ở nhóm<br /> Nùng Phàn Slình ở xã Tân Long, huyện<br /> Đồng Hỷ, không diễn ra trƣớc cửa nhà, mà ở<br /> bàn cúng lễ của thầy và chỗ đặt thi hài<br /> ngƣời quá cố. Sau khi Thầy tào mặc trang<br /> <br /> 8<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.Lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Lê Thị Thanh Vân<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> phục làm lễ “cầu hổ xủng kinh” xong, cúi tạ<br /> 3 lạy trƣớc bàn thờ thánh, rồi đi tới cắt một<br /> nhúm tóc và buộc chỉ lên đầu từng ngƣời<br /> con cháu đích tôn của ngƣời chết.<br /> Sau đó, Thầy tào hỏi con cháu về tên, tuổi,<br /> ngày, tháng, năm sinh, và ngày giờ của<br /> ngƣời chết, tên tuổi con cháu trong gia đình<br /> bên nội, ngoại của ngƣời chết và tất cả các<br /> vấn đề xung quanh nội tộc của ngƣời chết.<br /> Sau khi hỏi han xong, thầy bấm chọn giờ<br /> tốt, tránh giờ xung tuổi với con cháu họ tộc<br /> và tránh giờ đại bại. Ví dụ: Thìn nếu chết<br /> vào mùa xuân, Mùi nếu chết vào mùa hạ,<br /> Tuất nếu chết vào mùa thu, Sửu nếu chết<br /> vào mùa đông..<br /> LỄ CẤP KINH (CẨU HỔ - SỦNG KINH)<br /> Đây là lễ xin phép thổ thần, tổ tiên để Thầy<br /> tào đƣa âm binh, thiên tƣớng nhập gia, mỗi<br /> đoàn âm binh có một kinh sách để hiệu<br /> triệu, vì vậy lễ này đƣợc gọi là “cẩu hổ sùng<br /> kinh”.<br /> Bàn thờ đƣợc lập theo hai hƣớng: hƣớng<br /> đông và hƣớng bắc. Trên bàn cúng thƣờng<br /> đƣợc trang trí giấy đỏ viết chữ Hán, có dán<br /> thêm tranh hổ (cẩu hổ) biểu tƣợng cho sức<br /> mạnh thầy cúng, thầy tào.<br /> Bên cạnh bàn thờ của thầy tào, gia đình còn<br /> chuẩn bị thêm một chiếc bàn thờ làm nơi để<br /> Thầy tào viết sớ gửi Ngọc hoàng và tổ tiên<br /> đón nhận linh hồn ngƣời chết. Thầy tào đặt<br /> tên hèm theo giờ, ngày tháng năm sinh của<br /> ngƣời quá cố, ghi vào tờ giấy trắng tên tuổi,<br /> ngày giờ mất, dán vào một đầu que (gọi là tờ<br /> phan), viết bài vị dán vào cây Nêu, các câu đối<br /> chuẩn bị cho lễ thiết sàng, viết dải báo tang...<br /> Thƣờng thì ngƣời chết có 3 sớ chính: Một sớ<br /> trình thập điện, một sớ giao nhà, một sớ gọi<br /> hồn. Trong mỗi lễ cúng còn có sớ phụ và lễ<br /> vật đặt trên bàn thờ của Thầy tào nhƣ một<br /> đĩa to để đốt tiền giấy, các loại sách cúng...<br /> LỄ KIỂM LIỆM THI HÀI<br /> (KIỂM NẶN SY HÀI)<br /> Gia đình của tang chủ và các thành viên<br /> hàng phƣờng, chuẩn bị đầy đủ các vận<br /> dụng cần thiết cho tang lễ và xếp đặt từng<br /> thứ gọn gàng bên thi thể ngƣời quá cố:<br /> <br /> 63(1): 8 - 12<br /> <br /> một thau đựng nƣớc, lá thảo dƣợc thơm,<br /> vải trắng, vải chàm. Thầy tào cầm 3 nén<br /> hƣơng, mặc áo hành lễ và hƣớng dẫn cho<br /> gia quyến quỳ trƣớc thi hài ngƣời quá cố.<br /> Sau đó, Thầy tào đi quanh thi hài của<br /> ngƣời chết 3 vòng và kiểm liệm thi hài<br /> bằng cách mở lớp vải trắng mà con cháu<br /> đã phủ lên mặt ngƣời chết, đặt một nhúm<br /> bông lên mũi kiểm tra xem ngƣời đó có thở<br /> hay không.<br /> LỄ RỬA MẶT CHO NGƢỜI CHẾT<br /> (SLAONẢ, SLÀO ĐANG)<br /> Đồ đựng nƣớc rửa mặt cho ngƣời chết đƣợc<br /> lót bằng một tấm vải trắng thể hiện sự tôn<br /> nghiêm, các chị gái, dâu trƣởng sẽ phụ trách<br /> việc lấy nƣớc. Thầy tào vò nát các loại lá<br /> thơm, thả vào trong chậu nƣớc dùng khăn<br /> rửa mặt, lau nhẹ vào mặt ngƣời chết 3 lần<br /> theo chiều ngƣợc lên, vừa lau vừa niệm thần<br /> chú, rũ sạch bụi trần để linh hồn mát mẻ.<br /> LỄ PHỤC HỒN NHẬP QUAN (KHẢU<br /> MẠY)<br /> Lễ này rất quan trọng vì nó liên quan đến cả<br /> ngƣời chết và ngƣời sống, chính vì thế,<br /> Thầy tào bao giờ cũng phải xem giờ nhập<br /> quan, tránh giờ kị, giờ khắc, giờ sát. Con<br /> cháu, anh em, họ hàng phải đứng đông đủ<br /> quanh thi hài. Thông thƣờng ngƣời nhà<br /> chuẩn bị 3 bát gạo để cắm hƣơng và cử một<br /> ngƣời đại diện ra thắp hƣơng. Sau đó, thầy<br /> đặt 2 bát gạo lên bàn thờ và làm lễ và đọc<br /> tên ngƣời chết, xin tổ tiên đi trƣớc dẫn<br /> đƣờng.<br /> Sau lễ trải quan, Thầy tào làm phép thu hồn<br /> ngƣời chết vào mảnh giấy nhỏ (bùa) có ghi<br /> ngày tháng năm sinh, ngày giờ, tháng năm<br /> mất của ngƣời chết, sau đó thả những mảnh<br /> giấy bùa, tờ phan trên lớp vải lót trong quan<br /> tài coi nhƣ đã thu hồn ngƣời chết và bàn<br /> giao về thế giới âm.<br /> Sau đó Thầy tào cầm gậy tầm síc “slán cản”<br /> gõ ba tiếng vào quan tài, con cháu đứng sẵn<br /> ở 4 bên góc chiếu khiêng thi hài vào áo<br /> quan, dùng 3 đoạn vải trắng buộc ngang các<br /> bộ phận thi thể: Cổ, bụng, cổ chân để trói<br /> <br /> 9<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.Lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Lê Thị Thanh Vân<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> giữ không cho hồn ngƣời chết trở về làm hại<br /> ngƣời sống. Bên trên thi hài phủ tấm vải<br /> đen. Nếu là nam giới 7 lƣợt vải trắng, 9 tấm<br /> vải nếu ngƣời chết là nữ giới. Sau đó Thầy<br /> tào xếp theo một số đồ dùng nhƣ: Giầy dép,<br /> quần áo, chăn màn, ấm chén, dao kéo, kim<br /> chỉ..... bằng giấy, diêm, thuốc lá, túi đựng<br /> nƣớc, khăn mặt quần áo mặc hàng ngày<br /> chèn chặt vào quan tài để ngƣời chết mang<br /> về thế giới bên kia. Sau đó, thấy tào nín thở<br /> niệm chú để thu vía vào áo quan, nghe tiếng<br /> thanh la dóng lên nhịp 3, 4 thầy mới đƣợc<br /> thở và viết tƣợng trƣng chữ “phong”(đóng)<br /> trên ván thiên.<br /> Lúc này con cháu đồng loạt khóc thảm thiết,<br /> đau đớn nhìn mặt ngƣời thân lần cuối.<br /> Ngƣời hàng phƣờng hay anh em nội tộc phải<br /> khoá ván bằng đốt tre già (tuyệt đối không<br /> khoá bằng đinh sắt). Thầy tào cầm bát nƣớc<br /> đi xung quanh quan tài và ngậm nƣớc phun<br /> lên bốn góc quan tài, mỗi lần phun ông ta<br /> vung kiếm chỉ vào nơi đó, đọc thần chú để<br /> phong ấn, không cho linh hồn thoát ra ngoài<br /> nữa thậm trí họ còn buộc khoá áo quan bằng<br /> 4 cọc tre. Sau đó họ kê quan tài lên chân giá<br /> đặt ở giữa nhà, dƣới gầm đặt một lƣỡi cầy<br /> để trừ tà.<br /> LỄ THIẾT LINH SÀNG<br /> Nghi lễ này đƣợc thể hiện sau lễ nhập quan<br /> của lễ này là lễ mời cơm, lập bàn vong (thiết<br /> linh sàng), đặt bài vị (yên linh yên vị).<br /> Trong lễ dâng cơm thiết linh sàng của ngƣời<br /> Nùng, gồm lễ vật có một nải chuối, một gói<br /> kẹo, bốn chiếc chén, bát, một đĩa thịt, một<br /> con gà mái đẻ đã thịt chín, một đĩa xôi.<br /> Thầy tào lấy một cái đèn dầu đặt lên phía<br /> trƣớc đầu chết quan tài. Trên bàn vong đặt<br /> một bát cơm đầy cắm đôi đũa bông kẹp một<br /> quả trứng ở giữa, một bát gạo hay một khúc<br /> thân cây chuối để cắm hƣơng, một bài vị<br /> thiết kế đơn giản, làm bằng một thanh tre,<br /> dán giấy vàng hình chữ nhật cao khoảng 40<br /> cm làm bằng một dải vải vàng treo trên cành<br /> tre đặt trên đầu áo quan.<br /> <br /> 63(1): 8 - 12<br /> <br /> Trên đầu quan tài thƣờng đặt có hai chữ<br /> phúc lộc hay hai câu thơ viết bằng chữ Hán:<br /> Bóng hạc xe mây về cõi phật<br /> Để lại trần gian phúc cháu con<br /> LỄ PHÁT TANG, ĂN CHAY (CẤP HÁO)<br /> Thầy tào tụng kinh, phát tất cả quần áo tang<br /> cho con trai trƣởng ôm ra ngoài sân, nín thở<br /> vái tứ phƣơng rồi chạy 3 vòng quanh áo<br /> tang, khóc 3 tiếng gọi cha (mẹ), rồi chia<br /> quần áo cho từng ngƣời, không mặc áo trái,<br /> con gái, con dâu đội mũ chào mào, con cháu<br /> đều có dải vải thắt lƣng, buộc trƣớc bụng.<br /> Sau lễ phát tang, con cháu nội tộc không ăn<br /> mỡ, không ăn thịt chỉ ăn rau, đậu chấm<br /> muối.<br /> LỄ DÂNG CƠM (SẬU CHẬU, SẬU<br /> NGÀI)<br /> Bữa cơm đầu tiên còn gọi là lễ tế đầu, lễ vật<br /> có thủ lợn hay cả con lợn, mâm xôi, bánh<br /> dầy, gà đã thịt, để sống hoặc luộc, một bát<br /> thịt, một bát gạo để cắm hƣơng, 3 chén<br /> rƣợu, gạo nếp, gạo tẻ bầy trƣớc quan tài<br /> (dƣới chân ngƣời chết), con cháu quỳ xung<br /> quanh quan tài, Thầy tào ngồi trƣớc toàn thể<br /> gia quyến cúng bài mới cơm.<br /> NGHI LỄ THẮP ĐÈN (HẤT TƢNG)<br /> Quy trình thực hiện nghi lễ thắp đèn vào đầu<br /> hôm của cả ngày thứ nhất quy trình làm ma<br /> 3 ngày, nhằm mục đích cấp đèn khai lộ cho<br /> ngƣời chết thấy đƣờng đi về thế giới tổ tiên.<br /> Đèn biểu trƣng cho linh hồn trên quan tài<br /> phải luôn cháy nhỏ ngọn lửa, tuyệt đối<br /> không để đèn (ở đầu ngƣời chết) tắt.<br /> LỄ TRA NHÀ TÁNG “CỨP SLƢỜN”<br /> Nhà táng là một căn nhà khung bằng tre<br /> nứa, trang trí cầu kì bằng giấy màu với các<br /> họa tiết khác nhau để chụp lên quan tài<br /> trong tang lễ. Ngay từ khi có ngƣời chết,<br /> những ngƣời đƣợc cử làm nhà tang đã phải<br /> hết sức khẩn trƣơng tới nhà tang chủ, đo<br /> kích thƣớc áo quan, hoàn thành khung,<br /> chuyển lên nhà sàn, vách dán giấy màu<br /> trang trí biểu trƣng cho tín ngƣỡng ngƣời<br /> Nùng, vẽ mái ngói, dán tƣờng hoa.....<br /> <br /> 10<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.Lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Lê Thị Thanh Vân<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> Lúc lễ trao nhà táng thì trƣởng tộc hoặc chú<br /> bác trong nhà thƣờng lấy một tấm vải sạch<br /> che toàn bộ bàn thờ tổ tiên lại.<br /> LỄ CHỌN ĐẤT ĐÀO<br /> Đồng bào Nùng ở Đồng Hỷ quan niệm: mộ<br /> phần rất quan trọng, có thể làm cho con<br /> cháu phát đạt, cũng có thể làm lụi bại huyết<br /> thống<br /> Chọn khu đất để mai táng thƣờng nhờ Thầy<br /> tào tìm kiếm trên cơ sở của thuật phong thủy,<br /> nghĩa là hƣớng đất phải căn cứ vào hƣớng gió<br /> lành và mạch đất để thi thể nhận đƣợc sự mát<br /> mẻ.<br /> Khi chọn đất đào huyệt, Thầy tào phải dựa<br /> vào tuổi tác ngƣời chết kết hợp với sách<br /> phong thuỷ để tìm hƣớng tốt, điều chỉnh<br /> đƣợc tam sát. Sau đó là đến nghi thức chọn<br /> đất. Ngƣời con trai cả cho bài vị vào ôm<br /> trong vạt áo, anh em trong nhà bƣng một<br /> chiếc sàng đựng lễ vật đến khu huyệt đƣờng.<br /> Đến nơi, con cháu đặt sàn lễ vật xuống:<br /> thủ lợn, một con gà, 1 đĩa xôi, một ống<br /> gạo, rƣợu, vàng hƣơng, 1 đến 3 chiếc<br /> chén, Thầy tào lấy sách xem hƣớng rồi<br /> khấn xin thần thổ địa cho đào huyệt.<br /> LỄ TẾ MINH TINH<br /> Lễ tế minh tinh (lễ tế “tẻ cái”) của các cô<br /> con gái lễ tế cây tiền, cây bạc (co xèn, co<br /> ngần). Trong lễ này, lễ vật tế gồm có gà,<br /> một con lợn mổ phanh bụng, đầu vắt mỡ<br /> chài, cắm một con dao, một mâm lục phủ<br /> ngũ tạng, một bát cơm, ba mâm bánh dầy,<br /> một mâm bánh bỏng, một mâm bánh ngọt<br /> gạo, rƣợu, (rƣợu rót vào ba đến bốn chén<br /> rƣợu), cây minh tinh và các cây vàng, cây<br /> tiền, cây bạc, mỗi ngƣời con gái phải sắm<br /> cho cha mẹ một hòm tủ bằng giấy trong đó<br /> chứa đủ đựng các loại vật dụng trang phục<br /> cho cuộc sống hàng ngày nhƣ vải vóc, quần<br /> áo nồi niêu, xoong chảo bằng giấy để cha<br /> mẹ mang về thế giới bên kia. Thầy tào rƣớc<br /> bài vị của ngƣời quá cố ra sân để làm lễ, các<br /> con gái, con rể ngồi quỳ trƣớc cây minh<br /> tinh. Thầy tào cần cành phan khấn mời cha<br /> mẹ về nhận lễ, các con lần lƣợt tế rƣợu 3 lần<br /> <br /> 63(1): 8 - 12<br /> <br /> mời vong linh bố mẹ về ăn cơm trong tiếng<br /> nhạc chuông, thanh la nhịp 3,4 .<br /> LỄ TẾ ĐẠI “CHỦNG TẾ”<br /> Đây là lễ tế của con trai thờ tự, trƣờng hợp<br /> không có con trai thì con gái phải đứng chủ<br /> tang. Lễ này cũng là dịp cho các con cháu ở<br /> về chịu tang và dâng rƣợu lần cuối. Lễ vật<br /> cúng tế gồm có: 1con lợn, (khoảng một tạ<br /> trở lên) bày phủ phục trƣớc mâm lễ, trên có<br /> phủ mỡ chài, một mâm có chín hạt đựng lục<br /> phủ ngũ tạng của con lợn nhƣ: Lòng, gan,<br /> phổi, tiết, bánh dầy, một mâm vàng mã.<br /> Ngoài ra, Thầy tào còn làm động tác rắc gạo<br /> xung quanh quan tài rồi mang bát gạo ra<br /> ngoài của úp xuống sàn, chiếc bát biểu trƣng<br /> cho ngƣời vợ mang thai, hoạt động úp bát<br /> làm phép biểu trƣng của ngƣời thầy là sự vỡ<br /> ối, đau đẻ tái sinh ra linh hồn, thầy khấn xin<br /> các quan âm đón nhận lấy linh hồn. Toàn bộ<br /> anh em họ hàng tập trung rót rƣợu, cúng<br /> vĩnh biệt ngƣời quá cố lần cuối.<br /> LỄ TRA CỦA CẢI (TẾ LỤC PÁO VÀ TẾ<br /> LY TÀNG)<br /> Đây chính là nghi lễ chia của cải, nhà ở, đất<br /> đai cho ngƣời chết nhận sử dụng, tiếp tục<br /> làm ăn sinh sống ở thế giới bên kia và phù<br /> hộ cho gia đình. Lễ vật gồm một con lợn<br /> sống đã đƣợc làm sạch, đầu lợn phủ lá mỡ<br /> chài, cắm một con dao nhọn trên gáy, một<br /> mâm bánh dầy, một thúng gạo tẻ,1 đến 2 lít<br /> rƣợu trắng và một ít tiền lẻ.<br /> LỄ ĐƢA MA “ỌC TANG”<br /> Lễ đƣa ma (đƣa vong) của đồng bào Nùng<br /> thƣờng diễn ra vào lúc sáng sớm. Trƣớc giờ<br /> đƣa ma, con cháu, họ hàng tập trung đông<br /> đủ trƣớc linh cữu. Thầy tào làm phép quét<br /> nhà tiễn linh vong hồn ngƣời chết, rồi xuất<br /> ngựa hoặc xuất kiệu cho cõng hình nhân<br /> (tƣợng trƣng cho ngƣời cõng linh hồn ngƣời<br /> chết về mƣờng trời) giao cho con cháu mang<br /> ra sân chuẩn bị hoá. Đến giờ xuất vong, Thầy<br /> tào làm lễ trải dài vải trắng từ quan tài đến bàn<br /> thờ thánh để tế lễ, xin phép đƣa hồn cho ngƣời<br /> chết đi. Con trai trƣởng thay mặt cho gia đình<br /> hoặc thầy phụ buộc một dây vải trắng gói bài<br /> vị bên trong, vòng dấu nhân qua lƣng, thắt<br /> trƣớc ngực thầy tƣợng trƣng cho chiếc địu<br /> <br /> 11<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.Lrc-tnu.edu.vn<br /> <br /> Lê Thị Thanh Vân<br /> <br /> Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ<br /> <br /> cõng hồn ngƣời mất sang thế giới bên kia.<br /> Thầy niệm chú vào chiếc thuổng và bó đuốc,<br /> dùng thuổng xỏ vào quai dậu, lấy con gà, bát<br /> hƣơng trên nắp quan tài thả vào dậu, giao cho<br /> ngƣời con gái gánh đi trƣớc để dọn đƣờng ra<br /> huyệt và một ngƣời con gái khác bỏ tiền vàng<br /> mã vào vạt áo cùng đi, vừa đi vừa sắc để tống<br /> khứ ma quỷ bám vào làm trì nặng quan tài,<br /> đồng thời để ngăn linh vong hết đƣờng về với<br /> tổ tiên.<br /> Các anh em, con cháu bám vào dải vải đi<br /> vòng quanh quan tài 3 lƣợt, một vòng, con<br /> cháu cúi lạy một lần. Thầy tào thổi đèn,<br /> ngƣời con gái cả lại thắp lại với ý níu giữ,<br /> không muốn rời xa cha mẹ. Nếu cả bố mẹ đã<br /> mất, Thầy tào đi quanh quan tài 3 vòng và<br /> thổi tắt 4 đèn trên 4 góc quan tài. Bên ngoài<br /> tiếng trống vang nổi lên, con cháu vội vàng<br /> thu dải vải trắng, ngƣời hàng phƣờng cùng<br /> nhấc quan tài ra cửa, Sau đó, ngƣời con trai<br /> nằm thủ phục dƣới đất tƣợng trƣng bắc cầu<br /> 3 lƣợt (hai lần trƣớc quay ngƣời hƣớng mặt<br /> về nhà, một lần quay vào, một lần quay<br /> mình hƣớng mặt ra hƣớng mộ) sau mỗi lƣợt<br /> đứng đây, con trai cả phải đi thẳng dƣới sự<br /> hỗ trợ của thầy, không đƣợc ngoái đầu lại,<br /> vừa đi vừa vãi tiền giấy dọc đƣờng, dẫn linh<br /> hồn đi, không về quấy quả gia đình<br /> Các chàng rể mang các loại cây tiền, cây<br /> vàng bạc ra nghĩa địa, đứng cạnh huyệt<br /> xong chờ ở đó, các cô con gái mang dậu,<br /> vại, bát, hƣơng đặt cạnh huyệt rồi đi lấp kín,<br /> vì sợ linh hồn tản mạn do xúc động dễ bị tổn<br /> hại.<br /> LỄ TẾ THỔ THẦN HẠ HUYỆT “TỂ SAN<br /> TỲ LY” (NÙNG PHÀN SLÌNH)<br /> Trƣớc khi hạ huyệt, ngƣời Nùng cũng nhƣ<br /> các dân tộc khác đều phải làm lễ cúng thổ<br /> thần, mời thổ thần ăn cỗ xin phép đƣợc an<br /> táng ngƣời chết tại địa điểm này, sau đó<br /> giao nhà của ngƣời chết cho ông thần thổ<br /> địa cai quản để ngƣời chết về với tổ tiên có<br /> nơi ăn chốn ở, hạ huyệt xong thƣờng làm lễ<br /> tế. Sau khi hạ huyệt tang quyến cùng thầy<br /> làm lễ hoá sớ, nhà táng, linh sa, tiền giấy,<br /> vàng mã, tƣ trang, vật dụng để ngƣời chết<br /> đem vật dụng mà ngƣời chết đem theo về<br /> <br /> 63(1): 8 - 12<br /> <br /> trời, thầy làm lễ tế thổ thần bàn giao linh<br /> hồn cho thổ địa, nhờ thần cho linh hồn về<br /> với tổ tiên. Trong nghi lễ tế thổ thần hạ huyệt<br /> của ngƣời Nùng Phàn Slình ở Đồng Hỷ, thầy<br /> chủ và trƣởng nam hoặc một cháu nội trong<br /> gia đình phải xuống huyệt làm lễ, con cháu<br /> đƣa lễ vật xuống huyệt mộ, thầy thắp hƣơng<br /> tế tổ thần xin cho phép đƣợc hạ huyệt, sau<br /> đó thầy cởi bỏ bài vị giao cho ngƣời con trai<br /> cả hay ngƣời cháu và hoá tờ sớ.<br /> Ngoài ra, còn có một số lễ khác nhƣ: Lễ hồi<br /> phúc lộc "thói phúc thói lộc", tục để tang<br /> (Lễ dựng lều "khay tu mả", Lễ cúng bốn<br /> mươi ngày, bốn chín ngày, Lễ cúng một 100<br /> ngày "pác dần rè ăn ", Lễ cúng một năm<br /> "khúp bẩy", Lễ cúng mãn tang, Tết đắp mộ,<br /> Lễ quất mả (cải táng) ).<br /> TÓM LẠI<br /> Đám tang của ngƣời Nùng không chỉ mang<br /> tính chất tôn giáo tín ngƣỡng mà điều nổi<br /> bật vẫn là quan niệm về đạo hiếu, việc đến<br /> công, báo đức vẫn là điểm chủ yếu xuyên<br /> suất từ đầu đến cuối của một đám ma. Ngày<br /> nay với chủ trƣơng thực hiện nếp sống văn<br /> hoá mới, mặc dù những lễ nghi đó về cơ bản<br /> vẫn đƣợc duy trì, song nhiều thủ tục, nghi lễ<br /> rƣờm rà đã giảm, bớt không còn nặng nề<br /> nhƣ trƣớc.<br /> TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> [1]. Ba mươi năm gìn giữ và phát huy vốn di sản<br /> văn hoá các dân tộc Việt Nam (1995), Nxb Văn<br /> hoá dân tộc, Hà Nội.<br /> [2]. Ban Tƣ tƣởng - Văn hoá Trung ƣơng, Vấn<br /> đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng cộng<br /> sản Việt Nam (2001), Nxb Giáo dục, Hà Nội.<br /> [3]. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Đồng Hỷ,<br /> Lịch sử Đảng bộ huyện Đồng Hỷ (1930 - 1945),<br /> (1997), Huyện uỷ Đồng Hỷ.<br /> [4]. GS Bế Viết Đẳng, PGS Khổng Diễn, PTS<br /> Phạm Quang Hoan, PGS Nguyễn Văn Huy,<br /> Nguyễn Anh Ngọc, Các dân tộc Tày – Nùng ở<br /> Việt Nam(1992), Viện Dân tộc học, Hà Nội.<br /> [5]. Bộ văn hoá Thông tin- Bảo Tàng văn hoá<br /> các dân tộc Việt Nam, 45 năm Bảo Tàng văn<br /> hoá các dân tộc Việt Nam, Thái Nguyên (2005).<br /> <br /> 12<br /> <br /> Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên<br /> <br /> http://www.Lrc-tnu.edu.vn<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2