intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thách thức với nhân lực Việt Nam trong bối cảnh tác động của cộng đồng kinh tế ASEAN và cách mạng công nghiệp 4.0

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:13

54
lượt xem
0
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bối cảnh phát triển mới của thế giới cũng như Việt Nam đang tạo ra nhiều thách thức lớn cho nguồn nhân lực của nước ta. Bài viết trình bày bối cảnh phát triển mới cùng những cơ hội và thách thức, thực trạng nguồn nhân lực tại Việt Nam hiện nay, yêu cầu đặt ra đối với nguồn nhân lực Việt Nam trong bối cảnh mới.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thách thức với nhân lực Việt Nam trong bối cảnh tác động của cộng đồng kinh tế ASEAN và cách mạng công nghiệp 4.0

  1. THÁCH THỨC VỚI NHÂN LỰC VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TÁC ĐỘNG CỦA CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN VÀ CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 Bùi Trung Hải Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Nguyễn Lê Đình Quý Trường Đại học Duy Tân Tóm tắt Bối cảnh phát triển mới của thế giới cũng như Việt Nam đang tạo ra nhiều thách thức lớn cho nguồn nhân lực của nước ta. Cùng với sự hình thành và đi vào hoạt động chính thức của Cộng đồng Kinh tế ASEAN - AEC từ 31/12/2015, cạnh tranh trên thị trường lao động trên phạm vi khu vực cũng như trong nước sẽ trở nên gay gắt. Cùng với cơ hội tìm kiếm việc làm ở các nước có nền kinh tế phát triển như Singapore, Thái Lan, Malaysia, nguồn nhân lực Việt Nam cũng phải đối diện với nhiều thách thức trong cạnh tranh với lao động các nước khác, trên chính thị trường trong nước. Bên cạnh đó, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang phát triển một cách mạnh mẽ cũng dần làm biến chuyển tư duy về đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực hiểu quả. Nó sẽ tạo ra những tác động rất lớn tới thị trường lao động và yêu cầu đối với nguồn nhân lực, cả về lượng và chất. Mặc dù những tác động này sẽ đến ở tương lai xa hơn, nhưng sự nhìn nhận và đánh giá đầy đủ về các tác động sẽ giúp xác định phương án thích nghi và phát triển một cách hiệu quả. Trong bối cảnh đó, bài viết sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp gắn với quan sát để chỉ ra những thách thức đồng thời đưa ra một số gợi ý nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam, trong đó khâu đào tạo là cực kỳ quan trọng. Từ khóa: Cộng đồng Kinh tế ASEAN, cách mạng công nghiệp 4.0, nguồn nhân lực, đào tạo định hướng nghề nghiệp 1. Bối cảnh phát triển mới cùng những cơ hội và thách thức Toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành lựa chọn mặc nhiên cho các quốc gia trong giai đoạn phát triển hiện nay. Nó là một xu thế cũng như tạo nên dòng chảy mạnh mẽ cho phát triển kinh tế toàn cầu mà không một quốc gia nào có thể tác ra được. Đi liền với những cơ hội do toàn cầu hóa mang lại luôn là rất nhiều thách thức, đặc biệt cho các quốc gia đang phát triển, cho các cộng đồng yếu thế. Toàn cầu hóa tạo và sự hội nhập kinh tế quốc tế của các quốc gia tạo ra thị trường chung, tự do và cạnh tranh cho sự lưu chuyển hàng hóa, đầu tư, lao động giữa các quốc gia. Cùng với quá trình chuyên môn hóa cao và phân công lao động sâu, rộng 71
  2. đã tác động đến thị trường lao động ở các quốc gia hết sức mạnh mẽ. Không chỉ các quốc gia đang phát triển, mà ngay tại các quốc gia phát triển, cạnh tranh trên thị trường lao động đã là một vấn đề tạo ra nhiều bất ổn tiềm tàng. Vấn đề này càng trở nên nghiêm trọng hơn ở các quốc gia đang phát triển, với nguồn lực lao động có chất lượng thấp, tính cạnh tranh yếu. Ở một tương lai gần, khu vực ASEAN đang ngày càng nổi lên là một khu vực kinh tế năng động và có nhiều tiềm năng phát triển bậc nhất trong tiến trình toàn cầu hóa hiện nay. Cộng đồng Kinh tế ASEAN - AEC có tầm quan trọng đối với sự phát triển của ASEAN cũng như các nước thành viên. Sự phát triển của AEC sẽ là tiền đề thúc đẩy việc thực hiện hai trụ cột còn lại là Cộng đồng An ninh - Chính trị ASEAN (APSC) và Cộng đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN (ASCC). Trong số các trọng tâm phát triển, việc thúc đẩy thị trường được cộng đồng đặc biệt quan tâm. Các nước ASEAN chú trọng tự do hóa ba lĩnh vực lớn là: tự do hoá thương mại hàng hoá; tự do hoá thương mại dịch vụ; tự do hoá đầu tư, tài chính và lao động. ASEAN chú trọng thúc đẩy đầu tư nội khối thông qua Hiệp định Đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA) với mục tiêu là tạo ra một cơ chế đầu tư tự do, mở cửa trong ASEAN được thực hiện thông qua từng bước tự do hóa đầu tư; tăng cường bảo vệ nhà đầu tư của các nước thành viên và các khoản đầu tư của họ; cải thiện tính minh bạch và khả năng dự đoán của các quy tắc, quy định và thủ tục đầu tư; xúc tiến, hợp tác tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi và thống nhất. Để tạo điều kiện cho lao động lành nghề di chuyển trong khu vực, từ đó thúc đẩy hoạt động đầu tư và thương mại, các nước ASEAN đã ký kết các thoả thuận công nhận lẫn nhau (MRAs - Mutual Recognition Agreement), theo đó cho phép chứng chỉ của lao động lành nghề được cấp bởi các cơ quan chức năng tương ứng tại một quốc gia sẽ được thừa nhận bởi các nước thành viên khác trong khu vực. Đến nay, ASEAN đã ký kết 7 MRAs đối với lao động trong các lĩnh vực sau: dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ điều dưỡng, dịch vụ kiến trúc, thừa nhận lẫn nhau đối với chứng chỉ giám sát, người hành nghề y, người hành nghề nha khoa và kế toán... Điều này đã tạo điều kiện cho phép lao động tay nghề cao trong các nhóm ngành này được phép tự do lưu chuyển giữa các quốc gia trong khối, nâng cao tính cạnh tranh trong thị trường lao động nhóm này, đồng thời cũng tạo áp lực cạnh tranh về nhu cầu việc làm tại các quốc gia có chất lượng nguồn nhân lực còn thấp (cả về chuyên môn và kỹ năng) trong việc đáp ứng yêu cầu công việc. Trong tương lai xa hơn, hướng tới mục tiêu hội nhập sâu rộng hơn, ASEAN đã thông qua Kế hoạch Tổng thể xây dựng AEC đến năm 2025 với 5 đặc trưng: (1) Một 72
  3. nền kinh tế hội nhập cao và gắn kết; (2) Một ASEAN cạnh tranh, đổi mới và năng động; (3) Nâng cao kết nối và hợp tác chuyên ngành; (4) Một ASEAN có sức bật, phát triển toàn diện, hướng tới con người và lấy con người làm trung tâm; (5) Một ASEAN toàn cầu. Viễn cảnh đó chắc chắn tác động mạnh mẽ tới sự phát triển thị trường và phân bổ nguồn lực lao động trong khối cũng như các nước ASEAN. Cùng với đó, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với những bước tiến ban đầu nhưng được dự báo sẽ có tốc độ phát triển hết sức nhanh chóng. Bằng nền tảng là đổi mới sáng tạo trên tất cả các lĩnh vực, từ vật lý đến công nghệ vật liệu mới, sinh học, công nghệ thông tin, viễn thông… đặc biệt là sự hội tụ mạnh mẽ của các ngành sáng tạo đã tạo ra động lực phát triển và biến đổi sâu sắc đối với nguồn nhân lực theo hướng thay thế lao động phổ thông, tay nghề thấp và tăng nhu cầu đối với lao động tay nghề cao và đặc thù ở một số những lĩnh vực nhất định. Đổi mới sáng tạo không chỉ diễn ra trong các lĩnh vực sản xuất, hoạt động quản lý, kinh doanh mà đặt ra yêu cầu trong chính thị trường lao động, trong chuyên môn và kỹ năng của người lao động. Nghị quyết Đại hội Đảng khóa XII cũng đã khẳng định chủ trương “thực hiện đầy đủ các cam kết trong cộng đồng ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn nhiều so với giai đoạn trước”, “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước”, “mở rộng và đưa vào chiều sâu các quan hệ đối ngoại; tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, thực hiện hiệu quả hội nhập quốc tế trong điều kiện mới, tiếp tục nâng cao vị thế và uy tín của đất nước trên trường quốc tế”. Việc thực hiện đầy đủ hơn các cam kết AEC theo lộ trình trong giai đoạn tới sẽ mở ra nhiều cơ hội và thách thức mới cho Việt Nam. Về cơ hội, hàng rào thuế quan được loại bỏ, các hàng rào phi thuế được cắt giảm tạo điều kiện cho hàng hóa, dịch vụ, vốn, lao động kỹ năng của Việt Nam được lưu chuyển dễ dàng hơn trong khu vực ASEAN. Không chỉ mở ra cơ hội tiếp cận và mở rộng thị trường trong nội khối với khoảng 625 triệu dân và GDP hàng năm đạt gần 3000 tỷ USD, ASEAN là khu vực giao thoa của nhiều hiệp định thương mại song phương giữa ASEAN với các đối tác ngoại khối và với các khu vực khác trên thế giới. Trong bối cảnh hội nhập AEC như hiện nay, Việt Nam cần đổi mới phương pháp đào tạo để sớm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Sức nóng từ hội nhập đã thúc đẩy việc đầu tư, kinh doanh vào khu vực ASEAN gia tăng mạnh mẽ, kéo theo gia tăng nhu cầu về nhân lực. Theo thống kê của CareerBuilder, trong năm 2015, nhu cầu về tuyển dụng nhân lực tại trang web này đã tăng 47% so với năm ngoái. Số liệu khảo sát của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cũng cho thấy, năm 2014, gần 50% 73
  4. doanh nghiệp trong khu vực ASEAN có nhu cầu tuyển dụng lao động lành nghề ở nhiều lĩnh vực. Có thể thấy, AEC đang mang lại cơ hội lớn cho lao động Việt nếu nắm bắt được nhu cầu thị trường và nhà tuyển dụng. Dù vậy, một thực tế đáng buồn đang diễn ra, Việt Nam có lực lượng lao động dồi dào nhưng nguồn cung lao động hiện nay vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế của thị trường. Theo thống kê của mạng việc làm và tuyển dụng CareerBuilder, 5 nhóm ngành có nhu cầu tuyển dụng cao nhất hiện nay tại trang tuyển dụng này là Kinh doanh/Bán hàng, Tiếp thị/Marketing, CNTT/Phần mềm, Điện/Điện tử/Điện lạnh, Cơ khí/Ô tô/Tự động hóa… Thế nhưng, nguồn cung lao động hiện nay chỉ đáp ứng được ở ngành Bán hàng/Kinh doanh và Tiếp thị/Marketing, các nhóm ngành còn lại ở tình trạng thiếu hụt đáng báo động. Riêng trong ngành CNTT/Phần mềm, trong vòng 3 năm qua, các thống kê cho thấy số lượng công việc ngành này tại Việt Nam đã tăng trung bình 47%/năm, nhưng số lượng nhân sự ngành này chỉ tăng 8%/năm. Cụ thể, từ đây đến năm 2020, nếu tiếp tục tăng trưởng nhân lực IT ở mức 8%, Việt Nam sẽ thiếu hụt khoảng 78.000 kỹ sư công nghệ mỗi năm. Một kết quả khảo sát sinh viên tốt nghiệp từ các cơ sở đào tạo, các trường đại học lớn chuyên ngành kế toán - kiểm toán của Việt Nam cho thấy, kiến thức, tư duy về các vấn đề toàn cầu còn hạn chế, khó hội nhập sâu với ngành kế toán, kiểm toán quốc tế. Có tới 2/3 kết quả trả lời từ cuộc khảo sát cho hay, chưa thể nắm bắt được công việc kế toán hay kiểm toán ngay khi được giao mà phải qua đào tạo lại. Với kiến thức chủ yếu là lý thuyết hàn lâm, nhân lực ngành kế toán - kiểm toán mới tốt nghiệp chưa thể đáp ứng được ngay yêu cầu thực tế của các đơn vị kinh tế trong nước, 100% chưa thể cung ứng ngay cho các đơn vị kinh tế nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Nguyên nhân là do yếu tiếng Anh, chỉ mới biết đọc tài liệu, còn các kỹ năng nghe, nói, viết đều không đạt yêu cầu. Trước kết quả này, hệ thống giáo dục, đào tạo của Việt Nam cần sớm có sự đổi mới toàn diện, áp dụng trình độ quốc tế theo khung tham chiếu của ASEAN đã được phê duyệt, đồng thời xây dựng kế hoạch đào tạo các lĩnh vực trong 8 ngành nghề đã được AEC thỏa thuận. 2. Thực trạng nguồn nhân lực tại Việt Nam hiện nay Kết quả thống kê về lao động của Việt Nam giai đoạn 2012 - 2016 cho thấy bức tranh tổng thể về nguồn nhân lực hiện nay của nước ta. 74
  5. Biểu đồ 1. Thống kê lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên phân theo nhóm tuổi chia theo nhóm tuổi từ năm 2012 đến năm 2016 Đơn vị tính: tỷ lệ % 2016, 13.79% 2015, 14.84% 2016, 26.66% 2014, 14.11% 2015, 25.94% 2013, 14.87% 2014, 26.20% 2012, 15.07% 2013, 25.21% 2012, 23.77% 2012, 61.16% 2013, 59.92% 2014, 59.69% 2015, 59.22% 2016, 59.54% 15-24 25-49 Trên 50 Nguồn: Tổng cục Thống kê Từ Biểu đồ 1 cho thấy lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ở nhóm từ 25 đến 49 tuổi chiếm số lượng rất cao luôn ở mức xấp xỉ 60% và có xu hướng ổn định. Tuy nhiên lực lượng lao động ở nhóm tuổi từ 15-24 ở mức thấp (thấp nhất trong nhóm tuổi lao động), xung quanh mức 14%, và có xu hướng giảm, trong khi lực lượng lao động ở nhóm tuổi trên 50 có xu hướng gia tăng và đang tiệm cận mức 30%. Điều này thể hiện Việt Nam hiện tại đang có một lợi thế lớn về lực lao động khi sở hữu một nguồn nhân lực dồi dào, hay nói theo cách khác đang ở giai đoạn dân số Vàng, nhưng xu hướng già hóa dân số đang diễn ra và viễn cảnh trong 5-10 năm tới cơ cấu lao động của Việt Nam sẽ có sự biến động mạnh mẽ theo hướng tăng tỷ lệ lao động ở độ tuổi cao và giảm lực lượng lao động ở nhóm tuổi trẻ. Hiện tại, lực lượng lao động của Việt Nam có thể sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu tuyển dụng, làm việc và tận dụng tốt lợi thế về tự do luân chuyển lao động trên một thị trường lớn như AEC, nhưng trong trong tương lai, nhiều dấu hiệu cho thấy lực lượng lao động Việt Nam sẽ phải đối diện với nhiều thách thức. Nghiên cứu lực lượng lao động Việt Nam hiện nay theo cơ cấu giới tính cho thấy, tỷ lệ nữ giới trong lực lượng lao động luôn cao hơn tỷ lệ nam giới và có xu hướng ổn định ở xung quanh mức 51,5%. Điều này cho thấy chênh lệch về giới trong lực lượng lao động ở Việt Nam là không quá lớn, tương đồng với tỷ lệ giới tính trong cơ cấu dân số của Việt Nam. Số liệu thống kê này cũng cho thấy sự tham gia của lao động nữ vào thị trường lao động của Việt Nam hiện nay là tương đối bình đẳng và 75
  6. không sự phân biệt rõ ràng về giới trong việc tiếp cận cơ hội việc làm. Tuy nhiên, trong bối cảnh luân chuyển lao động trong AEC, điều này cũng gây ra những hạn chế nhất định cho lao động Việt Nam, bởi với vốn văn hóa vẫn còn mang nặng đặc trưng Á Đông, lao động nữ gặp khó khăn trong luân chuyển tới các khu vực và quốc gia khác hơn so với lao động là nam giới. Biểu đồ 2. Thống kê lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc hàng năm phân theo giới tính từ năm 2012 – 2016 Đơn vị tính: nghìn người Nguồn: Tổng cục Thống kê Xem xét thống kê lực lượng lao động phân theo vùng kinh tế từ năm 2012 đến năm 2016 cho thấy sự phân bố không đều giữa các vùng và xu hướng tập trung tại các vùng kinh tế trọng điểm có mức độ phát triển cao và hạn chế tại các vùng kém phát triển. Biểu đồ 3. Thống kê lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên phân theo theo vùng từ năm 2012 đến năm 2016 Đơn vị tính: nghìn người Nguồn: Tổng cục Thống kê 76
  7. Biểu đồ 3 cho thấy nguồn lao động tập trung chủ yếu tại các vùng có kinh tế phát triển, nhiều cơ sở nhà máy, xí nghiệp cũng như các cơ hội việc làm hấp dẫn như Vùng Đồng bằng sông Hồng có các trung tâm kinh tế như Hà Nội, Hải Phòng; vùng Bắc Trung Bộ và Duyên Hải miền Trung với trung tâm kinh tế như TP. Đà Nẵng; và vùng Đông Nam Bộ với trung tâm kinh tế như TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương. Nguồn nhân lực phân bố tập trung tại các trung tâm kinh tế lớn góp phần tạo động lực để người lao động nâng cao năng lực tay nghề, tiếp cận với các khoa học kĩ thuật mới nhằm gia tăng chuyên môn nghề nghiệp. Thống kê nguồn nhân lực của Việt Nam qua đào tạo và phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật cho thấy điểm chung là tỷ lệ lao động qua đào tạo có xu hướng tăng lên nhưng vẫn chiếm một mức khá thấp, xấp xỉ 20% lực lượng lao động. Bảng 1. Thống kê tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế đã qua đào tạo phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật từ năm 2012 đến năm 2016 Đơn vị tính: % Năm 2012 2013 2014 2015 2016 Trình độ Chưa đào tạo 83,4 82,1 81,8 80,1 79,4 Đã đào tạo 16,6 17,9 18,2 19,9 20,6 Trong đó 1. Dạy nghề 4,7 5,3 4,9 5,0 5,0 2. Trung cấp 3,6 3,7 3,7 3,9 3,9 3. Cao đẳng 1,9 2,0 2,1 2,5 2,7 4. Đại học trở lên 6,4 6,9 7,6 8,5 9,0 Nguồn: Tổng cục Thống kê Bảng 1 cho thấy Việt Nam có trình độ chuyên môn kĩ thuật chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ rất lớn (hơn 80%) mặc dù tỷ lệ này có giảm qua các năm từ 2012 - 2016. Điều này phản ánh thực trạng đáng báo động của nguồn nhân lực tuy đông đảo nhưng lại yếu kém về chuyên môn, điều này là trở ngại lớn cho lao động Việt Nam tham gia vào thị trường lao động chung của AEC. Bên cạnh đó, lực lượng lao động qua đào tạo của Việt Nam ở trình độ đại học trở lên lại chiếm tỷ lệ cao so với lao động dạy nghề, trung cấp hoặc cao đẳng. Điều này dẫn đến tình trạng thừa thầy, thiếu 77
  8. thợ đồng thời còn gây ra sự lãng phí nguồn lực xã hội cho đào tạo cũng như tạo ra sự phi hiệu quả trong sử dụng nguồn nhân lực. Thống kê lực lượng lao động đang làm việc hàng năm phân theo nghề nghiệp nổi bật lên bức tranh về sự chênh lệch giữa lao động trong các ngành nghề giản đơn so với lao động có tay nghề cao, mặc dù sự chênh lệch này đang có xu hướng thu hẹp lại. Biểu đồ 4. Thống kê lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc phân theo nghề nghiệp từ năm 2012 – 2016 Đơn vị tính: tỷ lệ % Nguồn: Tổng cục Thống kê Biểu đồ 4 cho thấy một tỷ lệ lớn áp đảo trong lực lượng lao động đang tham gia vào nhóm ngành nghề giản đơn (luôn ở mức từ 35% - 40%), nếu tính cả nhóm lao động làm việc trong lĩnh vực dịch vụ cá nhân, bảo vệ, bán hàng (cũng được coi là nhóm lao động có trình độ tay nghề thấp) thì tỷ lệ lao động có trình độ tay nghề nhưng ở thấp lên đến trên 50%. Trong khi đó tỷ lệ lao động có chuyên môn kỹ thuật bậc cao đang có xu hướng tăng lên, nhưng cũng vẫn còn ở mức khá thấp (xấp xỉ 7%). Đánh giá trên tổng thể về nguồn nhân lực cho thấy, Việt Nam hiện có 53 triệu người trong độ tuổi lao động, đây được xem là thế mạnh so với các nước trong khu vực để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Năm 2015, số liệu từ Tổng cục Thống kê cho biết, thu nhập bình quân của lao động Việt Nam đạt 79,3 triệu đồng/năm (khoảng 3.657 USD/năm). Khoảng thu nhập này ở mức thấp so với các nước trong khu vực và không đồng đều giữa các ngành, lĩnh vực. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam đang rất thiếu đội ngũ lao động lành nghề và công nhân kỹ thuật bậc cao. Về 78
  9. chất lượng nguồn nhân lực, Việt Nam mới đạt 3,79/10 điểm, xếp thứ 11/12 nước châu Á tham gia xếp hạng của WB. Sức nóng từ hội nhập đã thúc đẩy việc đầu tư, kinh doanh vào khu vực ASEAN gia tăng mạnh mẽ, kéo theo gia tăng nhu cầu về nhân lực. Theo thống kê của CareerBuilder, trong năm 2015, nhu cầu về tuyển dụng nhân lực tại trang web này đã tăng 47% so với năm ngoái. Số liệu khảo sát của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cũng cho thấy, năm 2014, gần 50% doanh nghiệp trong khu vực ASEAN có nhu cầu tuyển dụng lao động lành nghề ở nhiều lĩnh vực. 3. Yêu cầu đặt ra đối với nguồn nhân lực Việt Nam trong bối cảnh mới Theo thống kê mới nhất, Việt Nam hiện có lực lượng lao động chiếm khoảng 15% trong ASEAN. Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) khi khảo sát tác động của AEC đến thị trường lao động đã chỉ ra: Đến năm 2025, AEC có thể thúc đẩy tăng trưởng GDP của Việt Nam thêm 14,5% so với kịch bản cơ sở khi không có sự thành lập AEC, đồng thời tạo ra hàng triệu việc làm mới. Lao động trình độ cao có xu hướng di chuyển đến những vùng, thành phố và khu vực có thị trường lao động sôi động nhất (TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội là 2 địa phương có lượng lao động trình độ cao di chuyển đến nhiều nhất, tương ứng là 67,9% và 19,1%; chủ yếu làm việc ở khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chiếm 36% số lao động di chuyển). Nguồn nhân lực chất lượng cao của Hà Nội chiếm 30% nguồn nhân lực chất lượng cao của cả nước, có điều kiện thuận lợi để hội nhập vào thị trường lao động trong khu vực. Con số này được kỳ vọng sẽ tiếp tục tăng lên trong thời gian tới khi AEC đã chính thức được hình thành. Khi đó các ngành nghề lao động có tay nghề (bao gồm: kế toán, kiến trúc sư, nha sĩ, bác sĩ, y tá, vận chuyển và nhân viên du lịch) dự kiến trong ASEAN được tự do lưu chuyển qua các thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau (MRAs). Đây sẽ là cơ hội để người lao động tại Hà Nội ở những ngành này dịch chuyển sang các nước trong khối để bù đắp sự thiếu hụt nhân lực, cải thiện thu nhập và tích lũy kinh nghiệm cho bản thân. Mặt khác, các doanh nghiệp tại Hà Nội sẽ có cơ hội thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao từ các nước trong khu vực; đồng thời, với thị trường lao động rộng lớn và tự do hóa, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động có thể đẩy mạnh phát triển xuất khẩu nguồn nhân lực ra các nước ASEAN. Nhưng đồng thời, việc lao động tay nghề tự do dịch chuyển trong nội khối sẽ làm cho sự cạnh tranh trên thị trường lao động trở nên gay gắt và sự tham gia của lao động nước ngoài trên thị trường lao động Việt Nam cũng là một điều tất yếu. Triển vọng AEC đang mang lại cơ hội lớn cho lao động Việt Nam, nếu nắm bắt được nhu cầu thị trường và nhà tuyển dụng đồng thời chuẩn bị sẵn sàng và đầy đủ các điều kiện để tiếp nhận cơ hội. Tuy nhiên, một thực tế đáng buồn đang diễn ra, Việt 79
  10. Nam có lực lượng lao động dồi dào nhưng nguồn cung lao động, nhất là lao động có trình độ tay nghề, hiện nay vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế của thị trường. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với những đặc trưng về tốc độ và sự hội tụ của các ngành công nghiệp công nghệ cao và đổi mới sáng tạo sẽ định hình lại thị trường lao động một cách mạnh mẽ. Tác động mạnh mẽ nhất là sự giảm sút nhu cầu lao động với tay nghề bậc trung và lao động trong một số các ngành nghề như tư vấn về tài chính, kế toán, nhân viên văn phòng… Đặc biệt trong tương lai, với sự hội tụ của các ngành kinh tế sáng tạo, đòi hỏi ở người lao động không chỉ chuyên môn và kỹ năng sáng tạo mà còn là chuyên môn và kỹ năng đa ngành, liên ngành. Trong bối cảnh đó đặt ra cho nguồn nhân lực và công tác phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam những yêu cầu cần phải điều chỉnh cụ thể là: Thứ nhất: Thực hiện công tác thông tin định hướng phát triển nguồn nhân lực một cách phù hợp trên cơ sở xem xét lợi thế so sánh của Việt Nam với các quốc gia khác trong sự tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0 qua từng giai đoạn. Theo dự báo của Diễn đàn Kinh tế Thế giới, cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ tác động đến thị trường lao động qua hai giai đoạn, trong giai đoạn đầu (trong vòng 10 năm tới, những ngành tư vấn tài chính sẽ chịu tác động nhiều nhất về việc giảm sút nhu cầu lao động do sự thay thế của trí tuệ nhân tạo, nhưng đồng thời với đó là nhu cầu về lao động tay nghề cao tăng lên. Trong giai đoạn tiếp theo, nhu cầu về lao động sẽ giảm mạnh nhưng vẫn có những ngành robot không thể thay thế được lao động con người, trong đó có những ngành mà Việt Nam có lợi thế như điều dưỡng và chăm sóc người cao tuổi. Điều đó cho thấy, mặc dù phải đối mặt với nhiều thách thức nhưng cũng không thiếu cơ hội. Điều quan trọng nhất là phải hiểu rõ và dự báo được xu hướng phát triển, sự tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng như quá trình phát triển của AEC để có thể xây dựng chiến lược phát triển và sử dụng nguồn nhân lực một cách phù hợp và hiệu quả. Thứ hai: Tập trung đào tạo một số ngành mũi nhọn và có tính đa ngành, liên ngành, tích hợp đào tạo theo chương trình riêng mang tính đổi mới sáng tạo và hội tụ các ngành công nghệ mới. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với đặc trưng dựa trên đổi mới sáng tạo và sự hội tụ của các ngành công nghiệp sáng tạo, do vậy để nhân lực đáp ứng được nhu cầu của quá trình phát triển cần phải đảm bảo đáp ứng tốt các đặc trưng đó. Bên cạnh các chương trình đào tạo trong nước, cần nghiên cứu và nhập khẩu các chương trình đào tạo nước ngoài để đảm bảo tính cập nhật với kiến thức mới của thế giới, qua đó thúc đẩy tính đổi mới sáng tạo đối với nguồn lao động trong nước. Ngoài các chương trình đào tạo mang tính truyền thống, cần phát triển các chương tình đào tạo theo hình thức từ xa và online để thuận tiện cho việc nhập 80
  11. khẩu các chương trình đào tạo từ các quốc gia tiên tiến, đồng thời còn tạo thuận lợi cho quá trình đào tạo lại và đào tạo liên tục cho nguồn nhân lực, qua đó giúp cập nhật thường xuyên các kiến thức và tri thức mới của thế giới. Trong điều kiện nguồn lực có hạn, cần lựa chọn một số chương trình và ngành nghề mang tính mũi nhọn phù hợp với định hướng phát triển của quốc gia trong điều kiện nhận diện rõ vị trí và định hướng phát triển giữa bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng như hội nhập AEC. Nhưng bên cạnh đó cũng khuyến khích phát triển các chương trình và hình thức đào tạo, đặc biệt đào tạo từ xa trực tuyến để nâng cao tính cạnh tranh giữa các tổ chức và chương trình đào tạo, tạo ra nguồn lao động có chất lượng và tay nghề cao để không chỉ tham gia vào thị trường lao động trong nước mà còn có đủ năng lực tham gia cạnh tranh trên thị trường quốc tế, gần hơn là thị trường lao động AEC. Thứ ba: Đổi mới mạnh mẽ mô hình giáo dục đặt trọng tâm giáo dục đại học định hướng nghề nghiệp ứng dụng. Trước thực trạng tỷ lệ lao động qua đào tạo của Việt Nam hiện nay còn thấp, mặt khác trong số đó lao động có trình độ đại học lại chiếm tỷ lệ cao, lao động nghề nghiệp từ trình độ trung cấp đến cao đẳng chiếm tỷ lệ thấp, điều này đặt ra yêu cầu cần tăng cường đào tạo lao động có trình độ tay nghề đặc biệt đối với lao động có trình độ đại học hoặc cao đẳng cần tập trung vào định hướng nghề nghiệp để. Mô hình giáo dục đại học định hướng nghề nghiệp ứng dụng Việt Nam được triển khai thí điểm lần đầu từ năm 2005 với sự hỗ trợ kỹ thuật của nhóm các trường đại học hàng đầu Hà Lan do Đại học Khoa học ứng dụng Saxion điều phối thông qua Tổ chức Phát triển năng lực giáo dục đại học. Trong khuôn khổ Dự án POHE Giai đoạn 1 (2005 - 2009), chỉ có 10 chương trình POHE được thực hiện tại 8 trường đại học. Đó là: Đại học Kinh tế Quốc dân, Học viện Nông nghiệp, Đại học Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên, Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Đại học Sư phạm Thái Nguyên, Đại học Nông Lâm Huế, Đại học Vinh và Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh. Tại thời điểm dự án kết thúc Giai đoạn 1, đã có hơn 3.000 SV theo học trong các chương trình đào tạo được thiết kế lại theo tinh thần POHE. Tại thời điểm dự án kết thúc Giai đoạn 2 (2013 - 2015) cũng tại 8 trường đại học trên cả nước đã có hơn 10.000 sinh viên theo học khoảng 50 chương trình POHE được triển khai. Mô hình đào tạo theo định hướng ứng dụng tại Việt Nam đang có hiệu quả rất tích cực trong phạm vi nghiên cứu 8 trường đại học thuộc dự án POHE (6 tháng đầu năm 2015, 85% SV ra trường có việc làm). Điều này đã góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, có năng lực làm việc thực tiễn, vừa đảm bảo nhu cầu nguồn nhân lực có tay nghề cao trong phát triển kinh tế giai đoạn tới cũng như nâng cao năng lực cạnh tranh trong thị trường lao động liên thông nội khối của AEC. 81
  12. Thứ tư: Xây dựng chiến lược phù hợp và hiệu quả để khai thác và sử dụng lực lượng lao động của Việt Nam hiện nay cũng như theo xu hướng biến động và dự báo những năm tới. Tình trạng già hóa dân số sẽ diễn ra trong khoảng sau 10 năm tới và ngày càng tăng lên, trong khi đó lực lượng lao động ra nhập thị trường sẽ có xu hướng giảm đi về số lượng. Điều này tạo cơ sở cho việc tập trung vào đào tạo chuyên môn sâu cho lực lượng lao động, đồng thời cũng đặt ra yêu cầu và nhu cầu giải quyết việc làm cùng với các chính sách an sinh cho đối tượng lao động hết tuổi theo quy định. Thực tế cho thấy, lực lượng lao động đã hết tuổi theo quy định vẫn nhiều khả năng và nguyện vọng đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế nếu có chính sách sử dụng một cách phù hợp. Đồng thời điều này cũng giúp giảm bớt áp lực cho hệ thống an sinh xã hội. Ở khía cạnh khác, có thể coi phát triển ngành dịch vụ chăm sóc cho người cao tuổi ở Việt Nam là một hướng vừa góp phần giải quyết các vấn đề cho lực lượng lao động quá tuổi theo quy định, đồng thời còn tạo thêm việc làm cho lực lượng lao động, nhất là đối tượng lao động tay nghề thấp và giản đơn. Với vị trí địa lý đặc biệt có nhiều lợi thế cho việc chăm sóc sức khỏe, phát triển ngành dịch vụ chăm sóc người cao tuổi tại Việt Nam sẽ đồng thời thu hút người có tuổi tại các quốc gia khác, qua đó phát triển ngành dịch vụ chăm sóc người cao tuổi, tạo thêm nhiều việc làm cho lực lượng lao động của Việt Nam, đây cũng được coi là lĩnh vực mà khó bị thay thế bởi robot trong tương lai của cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Cùng với đó, quá trình hội nhập AEC mang lại lợi thế về luân chuyển lao động tay nghề cao trong nội khối, vừa là cơ hội cũng là thách thức khi lao động Việt Nam hiện nay có năng lực cạnh tranh yếu trong khu vực. Đồng thời, tỷ lệ lao động nữ cao cũng gây ra những cản trở cho quá trình luân chuyển. Chính vì vậy, bên cạnh việc chuẩn bị lực lượng lao động có trình độ tay nghề cao để có thể cạnh tranh và luân chuyển trong nội khối, cần đào tạo và nâng cao trình độ tay nghề của lao động nữ để đảm bảo năng lực cạnh tranh ngay tại thị trường trong nước. 82
  13. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 Schwab, K. (2017). The fourth industrial revolution. Crown Business. 2 Ommeren, E. (2014). The Fourth Industrial Revolution. Things Tighten. 3 Chia, S. (2013). The ASEAN economic community: Progress, challenges, and prospects. 4 Số liệu thống kê Dân số và Lao động, Trung tâm Tư liệu và Dịch vụ Thống kê - Tổng cục Thống kê. 5 http://www.trungtamwto.vn/cachiepdinhkhac/tom-luoc-cong-dong-kinh- te-asean-aec 83
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2