BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

-----------o0o---------

LUẬN VĂN THẠC SĨ

THỰC TRẠNG THÂM HỤT THƯƠNG MẠI HIỆN

NAY GIỮA VIỆT NAM- TRUNG QUỐC VÀ CÁC

BIỆN PHÁP ĐỂ GIẢM THIỂU THÂM HỤT THƯƠNG

MẠI CỦA VIỆT NAM

Ngành: Kinh tế quốc tế

NGUYỄN NGỌC PHƯƠNG

HÀ NỘI - 2021

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

-----------o0o---------

LUẬN VĂN THẠC SĨ

THỰC TRẠNG THÂM HỤT THƯƠNG MẠI HIỆN

NAY GIỮA VIỆT NAM- TRUNG QUỐC VÀ CÁC

BIỆN PHÁP ĐỂ GIẢM THIỂU THÂM HỤT THƯƠNG

MẠI CỦA VIỆT NAM

Ngành: Kinh tế quốc tế

Mã số: 8310106

Họ và tên học viên: Nguyễn Ngọc Phương

Người hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Văn Hồng

Hà Nội - 2021

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn do tự bản thân thực hiện và không sao chép các

công trình nghiên cứu của người khác để làm sản phẩm của riêng mình. Các thông

tin thứ cấp sử dụng trong luận văn là có nguồn gốc và được trích dẫn rõ ràng.

Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực và nguyên bản của luận văn.

Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2021

Người cam đoan

Nguyễn Ngọc Phương

ii

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành được luận văn Thạc sĩ này, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới

giáo viên hướng dẫn: PGS.TS Nguyễn Văn Hồng. Cảm ơn thầy đã luôn ủng hộ và

tận tình giúp đỡ, góp ý chi tiết cho tôi để tôi có thể hoàn thành tốt bài nghiên cứu của

mình.

Bên cạnh đó, tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Kinh tế

Quốc tế, cũng như các thầy cô trong trường Đại Học Ngoại Thương trong suốt hai

năm qua đã giảng dạy và trang bị cho tôi những kiến thức chuyên sâu hơn và các kinh

nghiệm quý giá, làm nền tảng vững chắc cho bài nghiên cứu này của tôi.

Do thời gian nghiên cứu có hạn cũng như khả năng còn nhiều hạn chế nên luận

văn khó tránh khỏi những sai sót, tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy cô

để giúp tôi hoàn thiện luận văn của mình với kết quả tốt nhất.

Trân trọng cảm ơn.

Hà Nội, ngày 5 tháng 5 năm 2021

Học viên thực hiện

Nguyễn Ngọc Phương

iii

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................. i

LỜI CẢM ƠN .................................................................................................. ii

MỤC LỤC ....................................................................................................... iii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ............................................................... vi

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ........................................................ ix

LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THÂM HỤT CÁN CÂN THƯƠNG MẠI VỀ HÀNG HÓA ............................................................................................ 10

1.1. Một số lý thuyết về thương mại quốc tế ........................................... 10

1.1.1 Khái niệm và bản chất của hoạt động thương mại quốc tế ..................... 10

1.1.2 Chủ nghĩa trọng thương ........................................................................... 10

1.1.3. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith .......................................... 12

1.1.4. Lý thuyết lợi thế tương đối (lợi thế so sánh) của David Ricardo ........... 13

1.1.5. Mô hình Hechscher-Ohlin về trang bị nguồn lực ................................... 14

1.1.6. Lý thuyết về mô hình lực hấp dẫn trong thương mại ............................. 15

1.2. Cán cân thương mại hàng hóa .......................................................... 16

1.2.1. Khái niệm cán cân thương mại .............................................................. 16

1.2.2. Đặc điểm và ý nghĩa của cán cân thương mại về hàng hóa ................... 17

1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại về hàng hóa ............... 18

1.2.4. Thâm hụt cán cân thương mại về hàng hóa ............................................ 22

1.3. Kinh nghiệm quốc tế về xử lý thâm hụt cán cân thương mại ........ 29

1.3.1. Kinh nghiệm của Mỹ .............................................................................. 29

1.3.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc ................................................................... 33

1.3.3. Kinh nghiệm của Thái Lan ..................................................................... 35

1.3.4. Bài học cho Việt Nam về việc cải thiện cán cân thương mại song

phương với Trung Quốc ................................................................................... 38

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THÂM HỤT CÁN CÂN THƯƠNG MẠI VỀ HẦNG HÓA GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC ....................... 41

iv

2.1. Lịch sử hình thành và phát triển mối quan hệ thương mại Việt Nam-Trung Quốc ...................................................................................... 41

2.1.1. Khái quát về mối quan hệ thương mại truyền thống giữa hai quốc gia . 41

2.1.2. Những bước tiến trong quan hệ song phương giữa hai nước ................. 42

2.1.3. Chính sách thương mại của mỗi quốc gia .............................................. 45

2.2. Thực trạng quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc giai đoạn 2015-2019 ................................................................................... 52

2.2.1 Các hình thức xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Trung Quốc ............. 53

2.2.2. Xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc ........................................... 54

2.2.3. Nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc ............................................... 59

2.3. Thâm hụt thương mại Việt Nam – Trung Quốc ............................. 64

2.3.1. Tổng quan về cán cân thương mại của Trung Quốc .............................. 64

2.3.2. Tổng quan về cán cân thương mại của Việt Nam .................................. 68

2.3.3. Thâm hụt thương mại Việt Nam –Trung Quốc ...................................... 74

2.3.4. Nguyên nhân của tình trạng thâm hụt thương mại Việt Nam- Trung

Quốc .................................................................................................................. 78

2.3.5. So sánh cán cân thương mại của Việt Nam - Trung Quốc với cán cân

thương mại của một số nước trong khu vực với Trung Quốc. ......................... 82

2.3.6. Đánh giá nguy cơ của tình trạng thâm hụt cán cân thương mại Việt Nam

- Trung Quốc. ................................................................................................... 86

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP TRONG VIỆC CẢI THIỆN CÁN CÂN THƯƠNG MẠI VỀ HÀNG HÓA GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC ............................................................................................................. 89

3.1. Quan điểm chỉ đạo và định hướng của Chính phủ trong việc cải thiện cán cân thương mại Việt Nam –Trung Quốc ................................ 89

3.1.1. Quan điểm chỉ đạo của Chính phủ trong việc cải thiện cán cân thương

mại Việt Nam- Trung Quốc .............................................................................. 89

3.1.2. Định hướng của Chính phủ trong giai đoạn 2016-2020 và tầm nhìn đến

năm 2030 .......................................................................................................... 94

3.2. Đề xuất các giải pháp cải thiện cán cân thương mại Việt Nam- Trung Quốc ................................................................................................ 95

v

3.3.1. Giải pháp ở cấp độ vĩ mô ........................................................................ 96

3.3.2. Giải pháp ở cấp độ vi mô ...................................................................... 103

KẾT LUẬN .................................................................................................. 107

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 110

vi

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Từ Tiếng Anh Tiếng Việt

Association of South East ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á Asian Nations

WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại thế giới

GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội

TMQT Thương mại Quốc tế

FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài

Asia -Pacific Economic Diễn đàn kinh tế Châu Á Thái Bình APEC Cooperation Dương

Khu vực mậu dich tự do ASEAN- ACFTA ASEAN-China Free Trade Area Trung Quốc

ITC International Trade Center Trung tâm thương mại quốc tế

TCTD Tổ chức tín dụng

vii

DANH MỤC BẢNG BIỂU

BẢNG:

Bảng 1.1: Cán cân thương mại của Mỹ Trong giai đoạn 2015- 2019…………...…...29

Bảng 2.1: Các mặt hàng xuất khẩu có tỷ trọng lớn từ năm 2015- 2019……………57

Bảng 2.2: Nhóm hàng Trung Quốc nhập khẩu lớn nhất từ Việt Nam 2019…….........58

Bảng 2.3: Kim ngạch nhập khẩu Việt Nam- Trung Quốc giai đoạn 2012- 2019.........59

Bảng 2.4: Thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam (2015-2019)………….......61

Bảng 2.5: Danh mục hàng hóa nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc (2015-2019)……62

Bảng 2.6: Tương quan về kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam- Trung

Quốc………………………………………………………………………...……...76

Bảng 2.7: Tình hình cán cân thương mại song phương của Việt Nam và một số nước

năm 2017- 2019…………………………………………………………..………..77

Bảng 3.1: Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam giai đoạn 2010-2019………...…91

BIỂU:

Biểu đồ 1.1: Cán cân thương mại Mỹ từ năm 1970 đến nay…………………….....25

Biểu đồ 1.2: Cán cân thương mại Thái Lan 1990-1998 ……………………………35

Biểu đồ 2.1: Kim ngạch thương mại Việt Nam- Trung Quốc (1995-2019)……..…..42

Biểu đồ 2.2: Top các thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam (2010- 2019)….53

Biểu đồ 2.3: Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam- Trung Quốc (2015- 2019)…………55

Biểu đồ 2.4: Kim ngạch nhập khẩu Việt Nam- Trung Quốc giai đoạn 2012- 2019..61

Biểu đồ 2.5: Cơ cấu hàng nhập khẩu từ thị trường Trung Quốc năm 2019………..63

Biểu đồ 2.6: Diễn biến cán cân thương mại của Trung Quốc (2001-2019)………..65

Biểu đồ 2.7: Cán cân thương mại của Trung Quốc với một số nước năm 2019…...65

Biểu đồ 2.8: Diễn biến cán cân thương mại Trung Quốc (2013-2019)………….…66

Biểu đồ 2.9: Thặng dư cán cân thương mại và tỷ giá USD/CNY 2001- 2019……..67

Biểu đồ 2.10: Diễn biến cán cân thương mại Việt Nam (2001-2019)………….......69

Biểu đồ 2.11: Tỷ trọng xuất khẩu của 2 khu vực kinh tế giai đoạn 2010-2019…….70

Biểu đồ 2.12: Diễn biến Cán cân thương mại Việt Nam giai đoạn 2011-2019……..71

Biểu đồ 2.13: Cán cân thương mại giữa Việt Nam và với một số nước năm 2019...74

viii

Biểu đồ 2.14: Diễn biến cân thương mại song phương Việt Nam-Trung Quốc giai

đoạn 2001-2019……………………………………………………...……………..75

Biểu đồ 2.15: Cán cân thương mại Việt Nam-Trung Quốc và tỷ giá CNY/VND (2003-

2019)……………………………………………………………...………….....….82

Biểu đồ 2.16: Cán cân thương mại Campuchia-Trung Quốc (2010-2019)………....84

Biểu đồ 2.17: Cán cân thương mại Lào –Trung Quốc (2008-2019)………….……85

Biểu đồ 2.18: Mức độ thâm hụt cán cân thương mại Việt Nam, Lào, Campuchia với

Trung Quốc (2010-2019)…………………………………………………………..86

ix

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Tác giả lựa chọn đề tài “Thực trạng thâm hụt thương mại hiện nãy giữa

việt Nam- Trung Quốc và các biện pháp để giảm thiểu thâm hụt thương mại của

Việt Nam” với mục tiêu có cái nhìn tổng quan về tình hình thương mại song phương

giữa hai nước, từ đó xem xét đến cán cân thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc

nhằm đánh giá mức độ thâm hụt của cán cân thương mại Việt Nam trong quan hệ

song phương so với Trung Quốc.

Chương 1: Trên cơ sở về lý luận và thực tiễn của cán cân thương mại quốc tế,

tác giả đưa ra các dẫn chứng về nguyên nhân xảy ra tình trạng thâm hụt ở một số quốc

gia trên thế giới như Mỹ, Thái Lan, Ấn Độ, Trung Quốc. Bên cạnh đó, tác giả xem

xét đến kinh nghiệm xử lý tình trạng thâm hụt cán cân thương mại của một số nước

đã áp dụng thành công điển hình.

Chương 2: Thông qua nghiên cứu về thực trạng trao đổi thương mại song

phương giữa hai nước: Việt Nam và Trung Quốc trong giai đoạn 2015- 2019, đồng

thời đánh giá mức độ thâm hụt thương mại của Việt Nam trong quan hệ thương mại

này. Từ đó, tác giả đưa ra một số so sánh với các đối tác khác có vị trí địa lý và tình

hình kinh tế- xã hội tương đồng như: Lào và Campuchia so với Trung Quốc. Từ đó,

đưa ra các nguyên nhân dẫn đến sự thâm hụt về thương mại giữa Việt Nam và Trung

Quốc. Mà nguyên ngân chủ yếu là do cơ cấu về hàng hóa xuất nhập khẩu giữa hai

nước còn nhiều bất cập, đặc biệt là ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam còn non

yếu và có sự lệ thuộc nhất định vào Trung Quốc. Điều này đồng nghĩa với việc đẩy

mạnh xuất khẩu của Việt Nam sẽ đưa ra yêu cầu về tăng cường nhập khẩu các nguyên

phụ liệu từ Trung Quốc đáp ứng cho các ngành sản xuất trong nước.

Chương 3: Xuất phát từ các nguyên nhân của tình trạng thâm hụt đã được trình

bày trong chương 2, tác giả có một số đề xuất về giải pháp nhằm hỗ trợ và cải thiện

tình hình thâm hụt cán cân thương mại của Việt Nam. Đặc biệt, giải pháp mang yếu

tố quyết định là cần phát triển ngành công nghiệp phụ trợ. Điều này sẽ giúp Việt Nam

tự chủ về nguồn nguyên phụ liệu đầu vào, làm giảm bớt áp lực về sự phụ thuộc vào

thị trường Trung Quốc. Bên cạnh đó, Việt Nam cần cải thiện về cơ cấu hàng hóa theo

x

hướng gia tăng giá trị hàng công nghiệp chế tạo như: giảm giá trị hàng nguyên liệu

thô và nâng cao năng lực của các doanh nghiệp trong nước nhằm xuất khẩu. Từ đó,

từng bước thâm nhập vào thị trường Trung Quốc rộng lớn và đẩy mạnh xuất khẩu

vào thị trường được đánh giá là một trong các thị trường lớn nhất trên thế giới..

Trong khuôn khổ của luận văn, tác giả đã có những điểm mới so với các nghiên

cứu cùng đề tài trước đây. Đó là ngoài việc phân tích thực trạng về thương mại song

phương của Việt Nam- Trung Quốc trong giai đoạn gần đây (từ 2015- 2019), tác giả

cũng đã có sự tìm hiểu về nguyên nhân thâm hụt của một số nước, từ đó so sánh về

cáncân thương mại của Việt Nam đối với các nước láng giềng. Qua đó, tác giả đánh

giá mức độ nghiêm trọng về thâm hụt thương mại của Việt Nam trong quan hệ song

phương với Trung Quốc và học hỏi tìm ra các giải pháp phù hợp với điều kiện cụ thể

của nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Mặc dù vậy, luận văn vẫn còn một số điểm hạn chế nhất định. Đầu tiên là về

khoảng thời gian nghiên cứu chưa đủ dài, mới chỉ tập trung trong 5 năm trở lại đây

từ 2015- 2019. Tuy tác giả cũng đã có sự so sánh nhất định với 1 giai đoạn trước thời

kỳ nghiên cứu 2015- 2019, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, quan hệ

song phương giữa hai nước vẫn còn rất phức tạp do phát sinh nhiều yếu tố thương

mại thông qua hình thức tiểu ngạch do biên giới của hai nước khá dài và thuận lợi

cho các hành động thương mại trái pháp luật như “nạn buôn lâu qua biên giới”. Do

vậy, tác gia cũng chưa đề cập sâu về lĩnh vực trong thương mại về biên giới giữa hai

quốc gia.

1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Đối với một quan hệ thương mại song phương giữa hai quốc gia, thì việc cân

bằng về cán cân thương mại về hàng hóa giữa hai quốc gia là điều rất khó. Đặc biệt,

quan hệ thương mại của hai quốc gia càng nhiều thì càng khó tránh khỏi sự chênh

lệch về cán cân thương mại. Hệ quả tất yếu là cán cân thương mại của nước này thặng

dư thì đồng nghĩa với sự thâm hụt của nước còn lại và ngược lại. Tuy nhiên, mức độ

thâm hụt thương mại là bao nhiêu và thời gian thâm hụt là bao lâu thì được coi là

không nguy hại cho nền kinh tế lại là sự quan tâm chính của chính phủ các nước.

Đối với Việt Nam, sự thâm hụt thương mại diễn ra đã rất lâu (từ trước năm

2000) và ngày càng có xu hướng mở rộng về giá trị thâm hụt. Tuy nhiên, ở khía cạnh

nào đó, thì việc thâm hụt trong cán cân thương mại với Trung Quốc lại có ích lợi cho

sự phát triển và tạo điều kiện đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam ra các thị trường

khác. Do đó, tuy thâm hụt thương mại với Trung Quốc ở mức cao nhưng tổng thể cán

cân thương mại của Việt Nam lại đang thặng dư do Việt Nam có sự thặng dư thương

mại với các quốc gia khác (đặc biệt là Mỹ). Xét về tổng thể, cán cân thương mại của

Việt Nam đã có sự cải thiện rất nhiều so với những năm đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên,

tình trạng thâm hụt thương mại với quốc gia láng giềng Trung quốc đã kéo dài và có

những thời điểm vượt trên 10% GDP của Việt Nam (điển hình là năm 2015) thì lại

vấn đề đáng quan tâm có tình trạng nhập siêu quá lớn từ thị trường Trung Quốc. Điều

này cho thấy Việt nam đang gia tăng về sự lệ thuộc vào thị trường Trung Quốc. Đặc

biệt, chúng ta đang không chủ động được trong quá trình sản xuất, tiêu dùng và xuất

khẩu ở một số mặt. Có thể thấy, thực tế về mặt hàng nông sản của Việt Nam đang

gặp nhiều khó khăn khi tiếp cận và xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc vì nhiều

nguyên nhân: không đủ giấy tờ về kiểm dịch; thiếu các chứng từ hàng hóa theo yêu

cầu hải quan,… Trong khi đó, sản xuất nhằm xuất khẩu cũng đang phụ thuộc nhiều

vào nguồn nguyên phụ liệu từ Trung Quốc. Do đó, Việt Nam không thể chủ động

được giá đầu vào và tạo ra giá trị gia tăng ở mức thấp do chỉ tham gia vào khâu cuối

cùng trong chuỗi sản xuất là lắp ráp thành phẩm. Đây có thể nói chỉ là mắt xích nhỏ

trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

2

Qua đó, có thể thấy Việt Nam đã nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc ở mức độ

lớn nhất trong nhiều năm qua. Và giá trị thâm thụt thương mại của Việt Nam đối với

Trung Quốc luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng giá trị thâm hụt về cán cân thương

mại cảu Việt nam trong nhiều năm qua. Trên thực tế, đã có rất nhiều bài nghiên cứu về

mối quan hệ song phương này. Tuy nhiên, tình trạng thâm hụt thương mại của Việt

Nam với Trung Quốc vẫn tiếp diễn và có chiều hướng tiếp tục gia tăng về giá trị thâm

hụt. Đặc biệt tình trạng này đang có sự gia tăng nhanh trong năm 2019 khi mức thâm

hụt cao nhất trong vòng 20 năm qua với mức thâm hụt hơn 34 tỷ USD.

Từ nhu cầu của thực tiễn, tác giả quyết định chọn đề tài “Thực trạng thâm hụt

thương mại hiện nãy giữa việt Nam- Trung Quốc và các biện pháp để giảm thiểu

thâm hụt thương mại của Việt Nam” để làm rõ hơn về các nguyên nhân dẫn đến

tình trạng thâm hụt thương mại giữa Việt Nam trong quan hệ song phương về thương

mại với Trung Quốc trong 5 năm gần đây (2015- 2019). Bên cạnh đó, tác giả có so

sánh giữa Việt Nam với một số quốc gia láng giềng có cùng trình độ phát triển và vị

trí địa lý trong khu vực như Việt Nam, từ đó có cái nhìn khách quan hơn. Thông qua

đó, tác giả cũng đưa ra một số giải pháp khả thi nhằm đề xuất đối ở cấp độ vi mô và

vĩ mô đối với nền kinh tế Việt Nam.

2. Tình hình nghiên cứu

Khi lựa chọn đề tài này, tác giả có nghiên cứu, tiềm hiểu và thấy rằng: thực tế

trước đây đã có nhiều bài nghiên cứu về tình trạng thâm hụt cán cân thương mại của

Việt Nam, đưa ra các nguyên nhân và sự tác động của thâm hụt cán cân thương mại

đến một nền kinh tế cả trong nước và ngoài nước.

Các tài liệu trong nước

Vấn đền xuất nhập khẩu, nhập siêu và cán cân thương mại đã được nhiều tác

giả phân tích, đưa ra các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan tới vấn đề này.

Có những công trình nghiên cứu về một hoặc nhiều khía cạnh của tình trạng này. Bên

cạnh đó, các tác giả có đưa ra các nguyên nhân, yếu tốt tác động tới tình trạng xuất

nhập khẩu và tình trạng thặng hay hoặc thâm hụt của cán cân thương mại qua nhiều

phương pháp tiếp cận khác nhau.

Phạm Thế Anh (2012), Bùi Trường Giang (2011),Tô Trung Thành (2014) đã

3

nghiên cứu cán cân thương mại theo cách tiếp cận liên thời kỳ và sử dụng phương

pháp OLS để ước lượng mô hình. Các biến số tới cán cân thương mại đã được các tác

giả đi sau vào phân tích và đưa ra sự tác động của các biến số này đến cán cân thương

mại. Một số kết quả nghiên cứu về định lượng đã chỉ ra sự chênh lệch tiết kiệm và

đầu tư là hai nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng cán cân thương mại của Việt

Nam bị thâm hụt trong nhiều năm. Từ các nguyên nhân trên, nhằm bổ trợ thêm để

giải quyết vấn đề về thâm hụt thương mại một cách bền vững, tác giả có đưa ra một

số khuyến nghị về sự thay đổi mô hình tăng trưởng đồng thời tái cơ cấu nền kinh tế .

Bên cạnh đó, có kết hợp thêm các giải pháp về chính sách liên quan đến FDI (đầu tư

trực tiếp nước ngoài) và chính sách về tỷ giá hối đối.

Trong bài nghiên cứu “Hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam: Thực trạng và

giải pháp” của Lê Tuấn Anh và Nguyễn Thị Bích Liên (2017) cũng đã chỉ ra rằng

“cán cân thương mại của Việt Nam thặng dư là kết quả của xuất khẩu khu vực FDI

tăng cao, cùng với nhập khẩu của khu vực kinh tế trong nước lại giảm mạnh” cho

thấy sự chênh lệch về cấn đối giữa 2 khu vực kinh tế trong nước và FDI đối với hoạt

động xuất nhập khẩu của Việt Nam.

Nhóm tác giả Đoàn Hồng Quang và Vũ Quốc Huy (2012) cho rằng nguyên nhân

của sự thâm hụt thương mại của một quốc gia có sự liên quan mật thiết đối với một

số điều kiện về kinh tế của chính quốc gia đó. Sự gia tăng về nhu cầu phục vụ sản

xuất và gia tăng các nguyên liệu đầu vào là điều kiện cần nhằm thúc đẩy sự tăng

trưởng của nền kinh tế. Nhóm tác giả đã tìm hiểu sâu về bản chất và nguyên nhân dẫn

đến sự thâm hụt thương mại của Việt Nam kéo dài trong nhiều năm trước năm 2012.

Thông qua đó, từ góc độ vĩ mô của nền kinh tế, nhiều chính sách kinh tế đã được hai

tác giả đưa ra nhằm cải thiện về năng lực cạnh tranh và sự thâm hụt về cán cân thương

mại.

Các tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân; Nguyễn Hoàng Vinh; Nguyễn Duy Minh;

Nguyễn Phương Nam (2020) trong bài nghiên cứu của mình đã cho rằng cần phát

triển ngành công nghiệp hỗ trợ trong nước có thể giúp làm giảm chi phí sản xuất của

các doanh nghiệp lắp ráp và giảm thời gian giao hàng do giảm thời gian vận chuyển

lưu kho lưu bãi trong nhập khẩu. Từ đó, Chi phí sản xuất của doanh nghiệp sẽ giảm

dần. Chi phí của một sản phẩm bao gồm chi phí nguyên vật liệu đầu vào, chi phí nhân

4

công, chi phí sản xuất và chi phí cho hoạt động logistics... Tuy nhiên, tùy vào đặc

điểm từng ngành nghề, từng sản phẩm mà tỷ lệ giữa các chi phí có thể khác nhau.

Nguyễn Thị Hà Trang và đồng sự (2011), trong bài nghiên cứu về “Thâm hụt

tài khoản vãng lai: nguyên nhân và giải pháp” đã nêu rằng thâm hụt tài khoản vãng

lai có nguồn gốc chủ yếu từ thâm hụt cán cân thương mại. Điều này nghĩa là nhập

khẩu nhiều hơn xuất khẩu. Và nguyên nhân chính dẫn đến thâm hụt thương mại ngày

càng tăng là do cơ cấu kinh tế, thâm hụt ngân sách chính phủ, mất cân đối vĩ mô giữa

tiết kiệm và đầu tư và việc sử dụng chưa hiệu quả của các dòng vốn FDI. Nghiên cứu

cũng rằng thâm hụt thương mại chưa hẳn là yếu tố tiêu cực mà còn tùy thuộc vào tình

hình kinh tế vĩ mô. Sự thâm hụt thương mại có thể là dấu hiệu tích cực và cũng thể

thể ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế.

Vũ Huyền My (2012) đã vận dụng mô hình Lực hấp dẫn trong thương mại

(Gravity Model) để phân tích các yếu tố tác động đến cán cân thương mại. Trong đó,

tác giả chỉ tập trung vào 2 nhóm yếu tố tác động đến cung và cầu bao gồm: Sức mua

của thị trường và năng lực về sản xuất. Tác giả Vũ Huyền My đã đánh giá được một

số yếu tố tác động đến thương mại song phương giữa hai nước. Tuy nhiên, tác giả

này chưa phân tích nhóm yếu tố hấp dẫn thương mại như: khoảng cách địa lý và chính

sách thương mại giữa hai quốc gia. Trong khi đây lại là các yếu tố quan trọng có tác

động trực tiếp đến tình hình trao đổi thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Dương Duy Hưng (2013) với đề tài nghiên cứu “cán cân thương mại Việt Nam

trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Trong bài nghiên cứu, tác

giả Dương Duy Hưng đã chỉ ra mối quan hệ của công nghiệp hóa, hiện đại hóa của

Việt Nam đối với cán cân thương mại. Theo tác giả, trong một số giai đoạn nhất định,

sự phát triển của nền kinh tế nhằm gia tăng sản xuất công nghiệp và gia tăng về sử

dụng khoa học công nghệ sẽ làm gia tăng sự thâm hụt. Tuy nhiên, về dài hạn, sự

chuyển mình của nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ là nhân tố

thúc đẩy sự thặng dư về thương mại.

“Báo cáo phân tích thâm hụt thương mại của Việt Nam và các điều khoản về

cán cân thanh toán của WTO” của các tác giả Paul Baker, Peter Naray, Trương Đình

Tuyển, Lê Triệu Dũng,Đinh Văn Ân và Ngô Chung Khanh (2009) có đưa ra các quan

5

điểm cụ thể gây nên tình trạng thâm hụt thương mại của nền kinh tế Việt Nam. Đầu

tiền, sự thâm hụt tăng cao do xuất phát từ sự hội nhập các khu vực mậu dịch về kinh

tế cũng như sự tham gia của Việt Nam đối với WTO. Điều này đã yêu cầu Việt Nam

phải cắt giảm nhanh chóng các hàng rào bảo hộ thương mại đã tác động đến kim

ngạch nhập khẩu gia tăng. Sang đến năm 2009, chính sách tiền tệ mở rộng và nới

lỏng đã được Chính Phủ Việt Nam thực hiện nhằm mục tiêu kích thích nền tinh tế

trong nước. Hệ quả là nền kinh tế Việt Nam đã có những tăng trưởng khá tốt trong

năm và tỷ lệ lạm phát của nền kinh tế duy trì ở mức thấp. Nhưng đồng nghĩa với đó,

sự gia tăng về nhu cầu nhập khẩu hàng hóa của Việt nam cũng tăng theo và được thể

hiện trong cơ cấu về nhập khẩu. Các nền kinh tế thương muốn sự tham gia của các

doanh nghiệp FDI vào các ngành mang tính chất sản xuất phục vụ cho nhu cầu xuất

khẩu hoặc các ngành dịch vụ mang tính chất đặc biệt như: tài chính và du lịch. Tuy

nhiên, trong thời gian qua, các doanh nghiệp có nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước

ngoài FDI lại có sự tập trung vào ngành bất động sản. Đây là nguyên nhân thúc đẩy

các nhu cầu về nguyên vật liệu xây dựng, các máy móc nhập khẩu. Trong khi đó, các

sản phẩm này lại không tạo ra sự gia tăng về xuất khẩu trong tương lại. Do đó, vô

hình chung tạo ra bất cập với cán cân thương mại. Và giải pháp là Việt Nam vẫn cần

cố gắng thu hút nguồn vốn FDI vào các ngành sản xuất.

Mất cân đối lớn giữa tiết kiệm và đầu tư ở Việt Nam cũng là một lý do cơ bản

khác dẫn tới bất cập của cán cân thương mại. Có thể xem mức đầu tư lớn tập trung

vào các hoạt động sản xuất được coi là một dấu hiệu tích cực. Nhưng đi kèm với nó,

nếu một quốc gia có sự tiết kiệm ở mức thấp thì đê phát triển các yếu tố khác sẽ yêu

cầu quốc gia đó phải đi vay các nguồn vốn từ nước ngoài nhằm phục vụ sản xuất

trong nước.

Như vậy có thể thấy, 4 yếu tố gồm: cơ cấu kinh tế; sự mất cân đối giữa đầu tư

và tiết kiệm; sự phù hợp của các chính sách kinh tế của Chính Phủ và việc sử dụng

không hiệu quả của các dòng vốn nước ngoài là các yếu tố chính ảnh hưởng trực tiếp

đến thâm hụt thương mại của một quốc gia.

Các tài liệu nước ngoài

Cũng như Việt Nam, đã có rất nhiều nghiên cứu về tình trạng cán cân thương

mại của các nước trên thế giới. Có nhiều cách tiếp cận về nghiên cứu từ tiếp cận trực

6

diện hoặc có thể tiếp cận gián tiếp thông qua các yếu tố ảnh hưởng. Dù nghiên cứu

theo cách thức nào thì các nghiên cứu trên thế giới này đều phản ánh về mối quan hệ

chặt chẽ giữa sự phát triển về kinh tế và tình trạng của cán cân thương mại. Điều này

đã được các nghiên cứu cho thấy là có tác động mật thiết dù các nghiên cứu được

thực hiện tại các quốc gia khác nhau và các nền kinh tế khác nhau.

Khi nghiên cứu về năng lực cạnh tranh quốc tế và tình hình thâm hụt thương

mại tại Mỹ trong giai đoạn những năm 80 của thế kỷ trước, Philip B.Nelson and John

C.Hilke (1987) đã nhận thấy rằng: sự thay đổi về quy mô của nền kinh tế Mỹ đã ảnh

hưởng trực tiếp và tạo nên sự gia tăng về thâm hụt thương mại tại nước này. Ví dụ

như chính sách tỷ giá hối đoái mà nước Mỹ đã sử dụng nhằm gia tăng về sự tăng

trưởng nền kinh tế chứ không phải xuất phát từ sự cạnh tranh cảu các ngành kinh tế.

Và thực tế đã chứng minh, cơ cấu về thương mại của nền kinh tế Mỹ được hình thành

từ chính sự thuận lợi và khó khăn riêng của các ngành kinh tế trong nước Mỹ ở giai

đoạn này.

Đến giai đoạn sau, David M.Goud và các cộng sự (1996) lại có quan điểm khác.

Các tác giả này cho rằng, trong ngắn hạn cán cân thương mại phản ánh tình trạng nợ

quốc tế. Hay nói cách khác, đó là ở vị thế đi vay hay cho vay của một quốc gia. Và

năng lực cạnh tranh của nền kinh tế mới là nhân tố phản ánh chính xác của cán cân

thương mại. Hay nói cách khác, trong dài hạn, nếu năng lực cạnh tranh của một nền

kinh tế tốt và trội hơn thì sự thâm hụt về thương mại càng thấp. Kéo theo nó là sự

tăng trưởng về kinh tế của chính quốc gia đó sẽ ngày càng phát triển. Ngược lại, sự

gia tăng về thâm hụt thương mại sẽ cho thấy sự yếu kém về phát triển năng lực của

nền kinh tế. Đồng thời, nó sẽ cho thấy sự phẩn bổ về nguồn lực của nền kinh tế đó là

không hiệu quả. Có thể xem chỉ số này là chỉ số quan trọng đối với sự tăng trưởng

trong dài hạn của một quốc gia.

Juan Marchetti và các đồng sự (2012) trong báo cáo “Trade Imbalances and

Mutlilateral Trade Cooperation” cũng đưa ra các nguyên nhân của tình trạng thâm

hụt thương mại. Tác giả đã tiếp cận về yếu tố là các chính sách về tỷ giá bên cạnh các

nhân tố khác của nền kinh tế. Có thể nói, việc giảm giá đồng nội tệ so với đồng ngoại

tệ có thể cải thiện cán cân thương mại. Tuy nhiên, điều này sẽ chỉ thực hiện được

7

trong ngắn hạn. Và ngược lại, sự nâng giá đồng nội tệ với đồng ngoại tệ sẽ có thể gây

khó khăn đối với cán cân thương mại. Về dài hạn, tác động của yếu tố tỷ giá vẫn còn

nhiều tranh cãi giữa các nhà kinh tế. Nguyên nhân, khi áp dụng các chính sách kinh

tế trong một môi trường là nền kinh tế hoàn hảo thì sự biến động về tỷ giá lại không

có thấy sự ảnh hưởng nhiều đến tình trạng của cán cân thương mại. Mà điều đó sẽ chỉ

xuất hiện tại các một số nền kinh tế đang phát triển.

Đinh Thị Thanh Bình và Trần Thị Anh Đào (2014) đã áp dụng mô hình Dữ liệu

Bảng (Fixed Effects & Random Effects) để đánh giá tác động trực tiếp và gián tiếp

của Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI đến cán cân thương mại ở các nước đang phát

triển. Rất nhiều các nền kinh tế đã tận dụng các lợi thế riêng biệt của các quốc gia

mình để nâng cao năng lực cạnh tranh cũng như thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài

để gia tăng về kim ngạch xuất khẩu. Có thể kể đến như: Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái

Lan,… Hai tác giả này đã nhận định rằng: sự dịch chuyển của dòng vốn đầu tư trực

tiếp nước ngoài trong ngắn hạn sẽ làm gia tăng tình trạng thâm hụt của cán cân thương

mại. Điều này là do sự nhập khẩu các máy móc, thiết bị từ bên ngoài. Tuy nhiên, việc

sử dụng hiệu quả các nguồn vốn này sẽ tạo ra các giá trị xuất khẩu lớn trong dài hạn.

Điều này sẽ thúc đẩy sự thặng dư về cán cân thương mại của chính quốc gia đó.

Qua đây, có thể thấy, dù các tác giả nghiên cứu về đề tài này xuất phát từ các

đối tượng là các nền kinh tế khác nhau, từ chính nền kinh tế Việt Nam đến các nền

kinh tế đang phát triển hay nền kinh tế đã phát triển trên thế giới. Tuy nhiên, có thể

thấy, hầu hết các tài liệu nghiện cứu đề cho ra nguyên nhân gần như là giống nhau.

Cụ thể: tình trạng thâm hụt về thương mại phụ thuộc chính vào sự điều hành về chính

sách của chính Chính phủ nước đó. Các biện pháp về kinh tế trong lĩnh vực tài chính,

tiền tệ, đầu tư, thương mại quốc tế có phù hợp hay không? Có đáp ứng được yêu cầu

và mục tiêu về sự tăng trưởng của nền kinh tế tại quốc gia đó hay không? Từ đó, có

thể thấy được sự ảnh hưởng của các chính sách đối với mức độ thâm hụt của cán cân

thương mại hay thặng dư của cán cân thương mại là tích cực hay tiêu cực.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Thông qua thực trạng về hai nền kinh tế là Việt Nam và Trung Quốc, tác giả sẽ

tập trung phân tích về thương mại quốc tế song phương đối với hàng hóa giữa hai

8

nước. Qua đó, tác giả tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến cán cân thương mại

hàng hóa của Việt Nam cũng như xem xét tình trạng thâm của cán cân thương mại

hàng hóa của nền kinh tế Việt Nam đối với Trung Quốc xuất phát từ những nguyên

nhân nào. Dựa trên các nguyên nhân đó và kinh nghiệm xử lý của một số quốc gia đề

xuất một số giải pháp để khắc phục, cải thiện cán cân thương mại về hàng hóa của

Việt Nam. Với mục đích đã nêu ở trên, tác giả tập trung nghiên cứu vào các nhiệm

vụ chính sau:

- Hệ thống hóa các kinh nghiệm của các nước trên thế giới và các lý luận cơ bản

về kinh tế đối với cán cân thương mại về hàng hóa.

- Tìm hiểu, đưa ra các phân tích và đánh giá chung về thực trạng cán cân thương

mại về hàng hóa của hai nước. Thông qua đó, tác giả sẽ xem xét các đặc điểm của

từng nước nói riêng và tổng thể quan hệ thương mại của hai nước nói chung trong

giai đoạn 2015- 2019. Từ đó, tác giả sẽ làm rõ các nguyên nhân đã dẫn đến tình trạng

thêm hụt cán cân thương mại về hàng hóa của Việt Nam trong giai đoạn này.

- Tìm hiểu các nguyên nhân đã dẫn đến tình trạng thâm hụt thương mại của một

số nước có quy mô, vị trí địa lý trên thế giới tương tự Việt Nam. Từ đó có sự so sánh

với sự thâm hụt thương mại của Việt Nam với các quốc gia này. Thông qua các tìm

hiểu về các kinh nghiệm nhằm hạn chế thâm hụt cán cân thương mại về hàng hóa của

một số quốc gia đã thành công trong khu vực.

- Xem xét các chính sách của Chính phủ về cải thiện sự thâm hụt về cán cân

thương mại của Việt nam trong thời gian qua, tác giả sẽ đề xuất một số các giải pháp

về vi mô và vĩ mô nhằm giảm thiểu tình trạng thâm hụt của Việt Nam trong quan hệ

song phương với Trung Quốc trong thời gian tới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tượng nghiên cứu:

Tình trạng thâm hụt cán cân thương mại về hàng hóa kéo dài của Việt Nam với

Trung Quốc trong các năm qua là đối tượng chính của luận văn. Qua đó, tác giả sẽ

đưa ra các nguyên nhân và có đề xuất các giải pháp nhằm giảm thiểu tình trạng thâm

hụt này.

4.2 Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi nghiên cứu của luận văn là tình trạng về cán cân thương mại hàng hóa

9

song phương Việt Nam-Trung Quốc trong giai đoạn 2015-2019 bởi trong giai đoạn

này có sự gia tăng về mức độ thâm hụt thương mại với Trung Quốc. Đặc biệt trong

đó, năm 2015 và 2019 đánh dấu 2 năm có mức độ thâm hụt thương mại lớn nhất của

Việt nam trong mối quan hệ song phương. Điều này phần nào cho thấy sự lệ thuộc

của nền kinh tế Việt Nam đối với nền kinh tế Trung Quốc.

5. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp Phân tích, tổng hợp với những thông tin và số liệu thứ cấp từ nhiều

nguồn khách nhau là phương pháp chủ yếu mà tác giả đã sử dụng để hoàn thành luận

văn này. Các nguồn số liệu chủ yếu được lấy từ các nguồn số liệu của: Tổng cục

Thống kê và Tổng Cục Hải Quan Việt Nam, Trung tâm thương mại quốc tế

(Trademap.org, ITC); Ngân hàng Thế giới (Worldbank) và Tổng cục thống kê Trung

Quốc.

Bên cạnh đó, các đề tài nghiên cứu khoa học, các nghiên cứu của các tổ chức,

cá nhân trong và ngoài nước, các bài đăng tạp chí là tài liệu thứ cấp phục vụ nghiên

cứu đối với luận văn. Thông qua các bài nghiên cứu, tác giả có thu thấp thêm về tình

trạng thực tiễn cũng như cơ sở lý luận đối với cán cân thương mại và thâm hụt cán

cân thương mại nói chung. Đồng thời, tác giả cũng có sự kế thừa một số nghiên cứu

trước đây và có tìm hiểu về các kinh nghiệm một số nước trên thế giới nhằm tăng

cường cho cơ sở khoa học, hiểu biết cần thiết cho việc nghiên cứu.

6. Kết cấu của đề tài

Đề tài gồm mở đầu, kết luận, danh mục các bảng biểu, tài liệu tham khảo và phụ

lục. Ngoài ra, các nội dung của đề tài được chia thành ba chương chính:

Chương 1: Tổng quan về thâm hụt cán cân thương mại về hàng hóa

Chương 2: Thực trạng thâm hụt cán cân thương mại về hàng hóa giữa Việt

Nam và Trung Quốc

Chương 3: Một số giải pháp trong việc cải thiện cán cân thương mại về hàng

hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc

10

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THÂM HỤT CÁN CÂN THƯƠNG MẠI VỀ

HÀNG HÓA

1.1. Một số lý thuyết về thương mại quốc tế

1.1.1 Khái niệm và bản chất của hoạt động thương mại quốc tế

Thương mại quốc tế (TMQT) tức là việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ (hàng hóa

hữu hình và hàng hóa vô hình) giữa các quốc gia, tuân theo nguyên tắc trao đổi ngang

giá nhằm đưa lại lợi ích cho các bên. Đối với phần lớn các nước, nó tương đương với

một tỷ lệ lớn trong GDP. Trong suốt lich sử loài người, thương mại quốc tế phát triển

mạnh cùng với sự phát triển của công nghiệp hoá, giao thông vận tải, toàn cầu hóa,

công ty đa quốc gia và xu hướng thuê nhân lực bên ngoài.

Do bản chất của TMQT là hoạt động trao đổi hàng hoá, tiền tệ vượt khỏi biên

giới lãnh thổ của một quốc gia, vi vậy nó cho phép một nước tiêu dùng tất cả các mặt

hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với giới hạn về khả năng sản xuất

trong nước khi thực hiện một nền kinh tế khép kín. Bên cạnh đó, TMQT cũng cho

phép khai thác các nguồn lực trong nước một cách có hiệu quả, tranh thủ khai thác

được mọi tiềm năng và thế mạnh về hàng hoá, công nghệ, vốn của nước ngoài nhằm

thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước.

Đã có nhiều hệ tư tưởng, các học thuyết được các tác giả đưa ra nhằm phân tích

và giải thích về thương mại được tế. Trong đó, các học thuyết đều khẳng định sự tác

động của Thương mại quốc tế đối với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Và các học

thuyết này được phát triển theo trình tự nhận thức từ thấp đến cao, từ đơn giản đến

phức tạp. Vì vậy, việc nghiên cứu các học thuyết kinh tế khác nhau của các thời kỳ

khác nhau với tính chất khác nhau có thấy sự kế thừa và phát triển về học thuyết của

hoạt động Thương mại quốc tế của thời kỳ trước. Trong nội dung của luận văn, tác

giả sẽ tìm hiểu các điểm chung và riêng của các hệ tư tưởng về thương mại quốc tế

của một số các trường phái, nhà kinh tế tiêu biểu của từng thời kỳ.

1.1.2 Chủ nghĩa trọng thương

Được hình thành ở Châu Âu vào thế kỷ thứ XV và phát triển đến giữa thế kỷ

XVIII, chủ nghĩa trọng thương là tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản trong

11

giai đoạn phương thức sản xuất phong kiến tan rã và chủ nghĩa tư bản ra đời.

Tiền là tiêu chuẩn cơ bản của của cải, là tài sản thực sự của một quốc gia là sự

xuất phát của tư tưởng về chủ nghĩa trọng thương. Có nghĩa là, quốc gia nào càng

nhiều tiền thì quốc gia đó càng được coi là giàu có. Vì vậy, mục đích chủ yếu trong

các chính sách về kinh tế của mỗi quốc gia là phải tìm cách gia tăng khối lượng tiền

tệ của mình. Các nhà kinh tế học cho rằng, đối với chủ nghĩa trọng thương, xuất khẩu

sẽ làm tăng của cải của quốc gia đó vì đem tiền (vàng) về cho nước đó. Và ngược lại,

nhập khẩu sẽ làm giảm của cải của quốc gia do phải xuất tiền (vàng) cho các quốc

gia khác. Vì vậy, hoạt động ngoại thương là hoạt động được đặc biệt coi trọng. Và

chỉ hoạt động xuất khẩu trong ngoại thương mới là nguồn gốc thực sự của của cải vì

nó làm gia tăng thêm khối lượng tiền tệ của các quốc gia xuất khẩu. Đồng nghĩa với

đó, các quốc gia nhập khẩu trong thoạt động ngoại thương sẽ bị giảm về khối lượng

tiền tệ và trở nền nghèo đi.

Điều kiện tiên quyết để d dạt được sự gia tăng về giá trị của cải của mỗi nước

một các hiệu quả thì cần có sự tham gia trực tiếp của Chính phủ vào quá trình trao

đổi hàng hóa.. Đây là luận điểm chính mà các nhà kinh tế học trọng thương nhận

định. Sự tham gia trực tiếp của chính phủ có thể thực hiện theo hai cách gồm: đầu

tiên là Chính phủ phải đề ra các biện pháp khuyến khích xuất khẩu, hỗ trợ về tài chính,

trợ giá, bù giá đối với nhà xuất khẩu thông qua việc trực tiếp tổ chức xuất khẩu và

thức hai là Chính phủ cần áp dụng các biện pháp bảo hộ mậu dịch hạn chế nhập khẩu.

Từ đó Chính phủ sẽ đưa ra các chính sách nhằm tăng cường xuất khẩu và giảm thiểu

nhập khẩu hàng hóa.

Tuy nhiên, đến cuối giai đoạn, các nhà kinh tế học trọng thương lại có một số

sự thay đổi. Trong đó, các nhà kinh tế học cho rằng có thể tăng cường mở rộng hoạt

động nhập khẩu mà thông qua đó có thể thúc đẩy xuất khẩu nhiều hơn nữa. Tuy nhiên,

các lập luận này còn rất sơ khai và đơn giản cũng như phiến diện về bản chất của hoạt

động ngoại thương. Tuy nhiên, đây vẫn là tư tưởng đầu tiên cả các nhà kinh tế học cổ

điển nghiên cứu về hiện tượng và lợi ích của hoạt động ngoại thương. Thực tế đã cho

thấy, lý luận của trường phát trọng thương là một bước tiến đáng kể trong tư tưởng

thời kỳ đó của kinh tế học. Ngoài ra, chủ nghĩa ngoại thương đã đánh giá được tầm

12

quan trọng của xuất khẩu hàng hóa và vai trò của chính phủ trong việc thúc đẩy xuất

khẩu, điều tiết hoạt động của xuất khẩu để đạt được cán cân thương mại thặng dư

thông qua một số biện pháp về bảo hộ mậu dịch trong nước và công cụ thuế quan.

Những tư tưởng của các nhà kinh tế học cổ điển này đã góp phần quan trọng trong

công tác mở rộng hoạt động thương mại quốc tế và là cơ sở lý luận để hình thành các

chính sách thương mại quốc tế của các quốc gia.

1.1.3. Lý thuyết lợi thế tuyệt đối của Adam Smith

Adam Smith là nhà kinh tế chính trị cổ điển nổi tiếng ở Anh và trên thế giới.

Ông đã phê phán quan niệm coi vàng đồng nghĩa với của cải được thể hiện trong tác

phẩm "Của cải của các dân tộc" đươc xuất bản năm 1976. Adam Smith xuất phát từ

một chân lý đơn giản là trong thương mại quốc tế song phương là lợi ích của các bên

tham gia. Trong đó, nếu như chỉ có một quốc gia có lợi và quốc gia còn lại bị thiệt

hại thì quan hệ thương mại giữa họ với nhau sẽ không tồn tại. Xuất phát từ lợi ích của

cả hai bên dựa trên cơ sở lợi thế tuyệt đối của từng nước là nền tảng cho lý thuyết

thương mại giữa hai nước mà ông đã đưa ra.

Nhà kinh tế học Adam Smith và những nhà kinh tế học cổ điển theo trường phái

của ông đều tin tưởng rằng, mọi quốc gia đều có lợi ích từ ngoại thương. Các nhà kinh

tế hoc này đã ủng hộ mạnh mẽ về sự tự do kinh doanh, hạn chế tối đa sự can thiệp của

các chính phủ vào hoạt động kinh doanh và hoạt động xuất- nhập khẩu cũng nằm trong

đó. Theo Adam Smith, lợi thế tuyệt đối trong kinh tế của một quốc gia được quyết định

bởi nhiều yếu tố gồm: điều kiện tự nhiên về địa lý, khí hậu và kỹ năng tay nghề của

nước đó. Và yếu tố được coi là quyết định trong mậu dịch quốc tế và quyết định cơ cấu

của mậu dịch quốc tế chính là kỹ năng tay nghề của nước sở tại.

Bên cạnh đó, Adam Smith cho rằng, điều tạo nên sức mạnh làm cho nền kinh tế

tăng trưởng là do sự tự do trao đổi giữa các quốc gia. Để đạt được điều này, mỗi quốc

gia phải có sự chuyên môn vào các ngành sản xuất- dịch vụ mà được coi là có lợi thế

tuyệt đối. Một hàng hóa được coi là có lợi thế tuyệt đối thì điều kiện cần và đủ là chi

phí để sản xuất ra hàng hóa đó tính theo giờ công lao động quy chuẩn của nước sản

xuất phải thấp hơn chi phí để sản xuất tại các nước khác. Do đó, các quốc gia có thể

đạt được các lợi ích nhiều hơn thông qua sự phân công lao động quốc tế nếu các quốc

13

gia này đó biết tập trung vào việc sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế tuyệt

đối. Bên cạnh đó, các quốc gia sẽ nhập khẩu những hàng hóa kém hơn về lợi thế tuyệt

đối. Có thể thấy, điểm mấu chốt trong lập luận về lợi thế tuyệt đối là sự so sánh về

chi phí sản xuất của từng mặt hàng giữa các quốc gia.

1.1.4. Lý thuyết lợi thế tương đối (lợi thế so sánh) của David Ricardo

Đối với lý thuyết lợi thế tuyệt dối của Adam Smith cho ta thấy một quốc gia có

lợi thế tuyệt đối so với quốc gia khác về một loại hàng hóa – dịch vụ thì quốc gia đó sẽ

thu được lợi ích từ hoạt động ngoại thương nếu như quốc giá đó thực hiện chuyên môn

hóa sản xuất các hàng hóa mang lại lợi thế tuyệt đối. Tuy nhiên, nhược điểm của lỹ

thuyết này lại không giải thích được vì sao quốc gia có lợi thế tuyệt đối hơn hẳn các

quốc gia khác, hoặc một quốc gia không có lợi thế tuyệt đối nào vẫn có thể tham gia

và có sự thu lợi từ quá trình hợp tác và phân cộng lao động quốc tế để phát triển mạnh

các hoạt động về thương mại quốc tế. Nhằm khách phục các hạn chế của lý thuyết lợi

thế tuyệt đối và cũng để trả lời cho các câu hỏi đã nếu trên thì nhà kinh tế học cổ điển

người Anh David Ricardo đã đưa ra lý thuyết lợi thế so sánh nhằm giải thích một cách

tổng quát và chính xác hơn về sự xuất hiện các lợi ích trong hoạt động thương mại quốc

tế. Các lý thuyết này đã được David Ricardo trình bày trong tác phaair nổi tiếng của

mình là “Những nguyên lý của kinh tế chính trị” xuất bản vào năm 1817.

Sự khác biệt giữa các nước không chỉ về điều kiện tự nhiên và tay nghề mà còn

về điều kiện sản xuất nói chung là luận điểm chinh của lý thuyết này mà David

Ricardo đã đưa ra. Điều đó có nghĩa là về nguyên tắc, bất kỳ quốc gia nào cũng có

thể tìm thấy sự khác biệt này và chuyên môn hoá sản xuất những sản phẩm nhất định

dù có hay không lợi thế về tự nhiên, khí hậu, tay nghề. David Ricardo cho rằng, trên

thực tế lợi thế tuyệt đối cuả mỗi quốc gia không có nhiều. Hơn nữa còn cho thấy là

phần lớn các quốc gia tiến hành hoạt động thương mại quốc tế với nhau không chỉ ở

những mặt hàng có lợi thế tuỵệt đối mà còn đối với cả những mặt hàng dựa trên lợi

thế tương đối. Theo đó, mọi quốc gia đều có lợi khi tham gia vào phân công lao động

quốc tế trên cơ sở khai thác lợi thế tương đối. Và ngoại thương sẽ cho phép mở rộng

khả năng tiêu dùng của một nước. Giải thích cho lợi ích trên là sự chuyên môn hoá

sản xuất một số loại sản phẩm nhất định của mình để đổi lấy hàng nhập khẩu của các

14

nước khác thông qua con đường thương mại quốc tế vì mỗi quốc gia đó đều có lợi

thế so sánh nhất định của mình về một số hàng hóa nào đó.

Một trong những điểm cốt yếu nhất của lợi thế so sánh là những lợi ích do

chuyên môn hoá sản xuất, mặt khác thương mại quốc tế phụ thuộc vào lợi thế so sánh

chứ không phải là lợi thế tuyệt đối. Có thể xem điều kiện cần và đủ đối với lợi ích

của thương mại quốc tế là lợi thế so sánh. Và lợi thế tuyệt đối của A.Smith là một

trường hợp đặc biệt của lợi thế so sánh. Về cơ bản, lý thuyết của D.Ricardo không có

gì khác với A.smith, điều đó cũng cho thấy ông ủng hộ các chính phủ tích cực thúc

đẩy, khuyến khích tự do hoá thương mại quốc tế nhằm tự do hoá xuất nhập khẩu.

(Trần Bình Trọng, 2008, tr.83-97)

1.1.5. Mô hình Hechscher-Ohlin về trang bị nguồn lực

Nếu như yếu tố sản xuất duy nhất như mô hình Ricardo giả thiết là lao động thì

lợi thế so sánh có thể tồn tại chỉ vì sự khác biệt quốc tế về năng suất lao động.

Tuy thương mại quốc tế có thể phần nào đó giải thích bằng sự khác biệt về năng

suất lao động , nhưng bên cạnh đó nó cũng phản ánh về sự khác biệt giữa nguồn lực

của các quốc gia khác nhau. Do đó, ta có thể xem xét mô hình Heckscher-Ohlin để

giải thích rõ hơn về vai trò của sự khác biệt về nguồn lực trong thương mại,. Có thể

nói, đây là lý thuyết hàng đầu khi nói về yếu tố nào quyết định mô hình thương mại

của một quốc gia. Nhà kinh tế học Thụy Điển Eli Heckscher và Bertil Ohlin đã đưa

ra lý thuyết này và phổ biến rộng rãi vào những năm 30 của thế kỷ XX.

Nội dung chính của lý thuyết này nhấn mạnh đến sự tác động lẫn nhau giữa tỷ

lệ các yếu tố sản xuất sẵn có ở các quốc gia và tỷ lệ các yếu tố đó được sử dụng để

sản xuất hàng hóa khác nhau. Do đó, cũng được gọi là học thuyết về tỷ lệ các yếu tố.

(Từ Thúy Anh,2013, tr.69)

Học thuyết về mô hình thương mại của Heckscher-Ohlin được phát biểu như

sau: “Những hàng hóa mà việc sản xuất ra chúng cần nhiều yếu tố dư thừa và cần ít

yếu tố khan hiếm được xuất khẩu để đổi lấy những hàng hóa mà việc sản xuất ra

chúng cần các yếu tố sản xuất theo tỷ lệ ngược lại. Vì vậy nói một cách gián tiếp, các

yếu tố sản xuất dư thừa được xuất khẩu và các yếu tố cung khan hiếm được nhập

khẩu” (Ohlin, 1993, tr. 92).

15

Nói ngắn gọn hơn, học thuyết này dự đoán rằng các quốc gia xuất khẩu các sản

phẩm thâm dụng yếu tố dư thừa và nhập khẩu những sản phẩm thâm dụng yếu tố

khan hiếm của quốc gia đó.

Học thuyết này đã chỉ ra tại sao những nước dư thừa lao động như Ấn Độ, Trung

Quốc, Việt Nam lại xuất khẩu sản phẩm giày dép, hàng may mặc và các hàng hóa đòi

hỏi sự dụng nhiều lao động khác. Trong khi đó, các quốc như Argentina, Australia

hay Canada là những quốc gia dư thừa đất đai lại xuất khẩu các sản phẩm như thịt,

lúa mỳ hay các sản phẩm sử dụng nhiều về nguồn tài nguyên đất đai.

Nói tóm tắt, lý thuyết Hechscher- Ohlin chỉ ra lợi thế so sánh hơn trong việc

xuất khẩu một số sản phẩm hàng hoá của một số nước xuất phát từ việc sản xuất các

sản phẩm hàng hóa đó đã sử dụng được những yếu tố sản xuất mà nước đó được ưu

đãi hơn so với nước khác. Đây có thể coi là các lợi thế tự nhiên của các yếu tố sản

xuất này (bao gồm: vốn, tài nguyên, đất đai, khí hậu, lao động,...) đã khiến cho chi

phí cơ hội của các nước này thấp hơn (so với việc sản xuất các sản phẩm hàng hoá

khác) trong sản xuất những sản phẩm nhất định. (Từ Thúy Anh,2013, tr.71-72).

Ngoài ra, mô hình Hechscher- Ohlin được coi là kế thừa và phát triển từ mô

hình đơn giản của David Ricardo do có sự bổ sung thêm một số yếu tố là vốn và đất

đai bên cạnh yếu tố lao động – vốn được coi là yếu tố cơ bản. Và học thuyết khẳng

định các quốc gia đều có lợi khi tham gia vào thương mại quốc tế ngay cả khi những

quốc gia đó không có lợi thế tuyệt đối. Học thuyết này được đánh giá là có sự tiến bộ

hơn so với lý thuyết lợi thế tương đối. Cụ thể, học thuyết Hechscher- Ohlin đã chỉ ra

được nguồn gốc lợi thế so sánh của các quốc gia chính là tỷ lệ các yếu tố sản xuất để

sản xuất sản phẩm trong khi David Ricardo lại chưa chỉ ra được điều này.

1.1.6. Lý thuyết về mô hình lực hấp dẫn trong thương mại

Đã có khá nhiều các nghiên cứu đưa ra mô hình nhằm giải thích các yếu tố ảnh

hưởng đến dòng chảy thương mại giữa hai quốc gia. Trong đó mô hình được sử dụng

rộng rãi và phổ biến nhất trong kinh tế học là mô hình mô hình lực hấp dẫn (Gravity

Model) do Jan Tinbergen (nhà kinh tế học người Hà Lan –Nobel kinh tế năm 1969)

đã lần đầu đưa ra vào năm 1962. Mô hình này được sử dụng nhằm phân tích các nhân

tố có tác động đến dòng chảy thương mại song phương giữa các quốc gia. Nội dung

16

chính mô hình lực hấp dẫn chuẩn tắc đã cho rằng giá trị về thương mại giữa hai quốc

gia sẽ tỷ lệ thuận với quy mô về kinh tế của hai quốc gia và sẽ tỷ lệ nghịch với khoảng

cách địa lý của chính hai quốc gia đó. Trong đó, ba nhóm nhân tố ảnh hưởng trực tiếp

đến luồng thương mại đã được đề cập trong mô hình gồm:

Thứ nhất, nhóm yếu tố thể hiện năng lực sản xuất của nước xuất khẩu có tác

động đến gồm: dân số nước xuất khẩu và GDP;

Thứ hai, nhóm yếu tố thể hiện sức mua của thị trường nước nhập khẩu hàng hóa

có tác động đến cầu gồm: dân số nước xuất khẩu và GDP;

Và thứ ba, nhóm yếu tố mang tính cản trở thương mại hoặc hấp dẫn thương mại

như: Khoảng cách về địa lý, đường biên giới, các chinh sách về khuyến khích và quản

lý hoạt động xuất nhập khẩu như: các chính sách về tỷ giá hay các chính sách thương

mại.

1.2. Cán cân thương mại hàng hóa

1.2.1. Khái niệm cán cân thương mại

Trong thương mại quốc tế, cán cân thương mại được hiểu như sau:

Cán cân thương mại là một bộ phận cấu thành của cán cân thanh toán và được

phản ánh cụ thể trong cán cân thường xuyên (hay còn gọi là cán cân tài khoản vãng

lai). Cán cân thường xuyên ghi lại tất cả các giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ và

các giao dịch chuyển giao đơn phương, trong đó bao gồm:

- Cán cân thương mại hàng hóa hoặc cán cân thương mại hữu hình,

- Cán cân thương mại dịch vụ hay còn gọi là cán cân thương mại vô hình, và

- Cán cân chuyển giao đơn phương.

Cán cân thương mại bằng tổng của cán cân thương mại vô hình và hữu hình.

Cán cân này phản ánh mức chênh lệch giữa giá trị hàng hóa- dịch vụ nhập khẩu và

giá trị hàng hóa xuất khẩu hàng hóa- dịch vụ của một quốc gia. Ở đây, do phạm vi

nghiên cứu chỉ tập trung vào cán cân thương mại về hàng hóa. Trong đó, có 2 trường

hợp xảy ra phổ biến gồm:

+ Nếu giá trị xuất khẩu hàng hóa (giao dịch ghi có) vượt quá giá trị nhập khẩu

hàng hóa (giao dich ghi nợ) thì cán cân thương mại được gọi là thặng dư

+ Nếu nhập khẩu hàng hóa vượt quá xuất khẩu hàng hóa thì cán cân thương mại

17

được coi là ở trong tình trạng thâm hụt (Đỗ Đức Bình, Nguyễn Thường Lạng, 2008,

tr.179).

Tuy nhiên, nếu phân chia cán cân vãng lai theo bốn cán cân tiểu bộ phận bao

gồm:

- Cán cân thương mại – Trade balance

- Cán cân dịch vụ- Services

- Cán cân thu nhập –Incomes

- Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều- Current Transfers

Khi đó cán cân thương mại được hiểu như sau: Cán cân thương mại ghi chép

các khoản thu và chi từ xuất nhập khẩu hàng hóa hữu hình của một quốc gia trong

một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh lệch giữa chúng

(xuất khẩu trừ đi nhập khẩu).

Các khoản chi được ghi nợ (-) do phát sinh nhập khẩu hàng hóa và ngược lại

các khoản thu được ghi có (+) do phát sinh xuất khẩu hàng hóa trong cán cân thanh

toán. Khi khoản chi cho nhập khẩu thì cán cân thương mại nhỏ hơn các khoản thu từ

xuất khẩu thì cán cân ở trạng thái thặng dư hay còn gọi là xuất siêu. Ngược lại khi chi

cho nhập khẩu lớn hơn thu từ xuất khẩu thì cán cân thương mại ở trạng thái thâm hụt

hay còn gọi là nhập siêu. (Nguyễn Văn Tiến 2012,tr.239).

Do sự hạn chế về số liệu nghiên cứu, tác giả chỉ tập trung phân tích cán cân thương

mại về hàng hóa trong khuôn khổ luận văn này.

1.2.2. Đặc điểm và ý nghĩa của cán cân thương mại về hàng hóa

Đặc điểm của cán cân thương mại: cán cân thương mại về hàng hóa là cân đối

giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Vi vậy, từ khái niệm cán cân thương mại về hàng hóa

đã trình bày ở trên, ta có đẳng thức sau:

TB =(X-M) (1)

Trong đó:

TB: Cán cân thương mại

X: Giá trị xuất khẩu hàng hóa

M: Giá trị nhập khẩu hàng hóa

Có thể nhận xét, có ba trạng thái tồn tại của cán cân thương mại. Gồm:

18

- Khi (X-M) >0 tức cán cân thương mại ở trạng thái thặng dư hay xuất siêu hay

thu từ xuất khẩu lớn hơn chi cho nhập khẩu.

- Khi (X-M) <0 tức là cán cân thương mại ở trạng thái thâm hụt hay nhập siêu

hay thu từ xuất khẩu thấp hơn chi cho nhập khẩu.

- Khi (X-M) = 0 tức là cán cân thương mại ở trạng thai cân bằng hay thu từ xuất

khẩu bằng chi cho nhập khẩu.

Về ý nghĩa thực tiễn

Cán cân thương mại về hàng hóa là một bộ phận chính cấu thành cán cân vãng

lai. Số liệu của cán cân thương mại được cập nhập thường xuyên bởi cơ quan hải

quan thường cung cấp kịp thời các số liệu về xuất nhập khẩu hàng hóa. Chính vì vậy,

khi phân tích tác động của cán cân thanh toán lên các biến số vĩ mô, thì trạng thái của

cán cân thương mại luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu bởi tình trạng của cán cân

thương mại (thâm hụt hay thặng dư) thể hiện trạng thái của nền kinh tế.

Thứ nhất, cán cân thương mại về hàng hóa cung cấp những thông tin liên quan

đến cung và cầu tiền tệ của một quốc gia.

Thứ hai, dữ liệu trên cán cân thương mại về hàng hóa có thể được sử dụng để

đánh giá khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế của một nước.

Thứ ba, trạng thái thâm hụt hay thặng dư cán cân thương mại về hàng hóa có

thể làm tăng về khoản nợ nước ngoài hoặc gia tăng về mức dự trữ ngoại tệ, hay nói

cách khác là thể hiện mức độ an toàn hoặc bất ổn của nền kinh tế.

Thứ tư, trạng thái thâm hụt hay thặng dư cán cân thương mại về hàng hóa đều

phản ánh hành vi tiết kiệm, đầu tư và tiêu dùng của nền kinh tế.

1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại về hàng hóa

Nhìn vào công thức (1) ở trên cho thấy hai nhân tố cấu thành lên cán cân thương

mại chính là Xuất khẩu hàng hóa và Nhập khẩu hàng hóa. Như vậy, để phân tích cán

cân thương mại của một quốc gia, ta cần phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến xuất

khẩu và nhập khẩu của quốc gia đó. Qua đó, ta sẽ thấy mức độ ảnh hưởng của các

yếu tố này đến cán cân thương mại ra sao.

Cán cân thương mại về hàng hóa được biểu thị bằng giá trị chứ không phải là

khối lượng hàng xuất khẩu và nhập khẩu. Do đó, ta sẽ phân tích các yếu tố ảnh hưởng

19

đến trị giá xuất khẩu và trị giá nhập khẩu để quan sát sự tăng giảm của cán cân. Từ

công thức cho thấy, cán cân thương mại thể hiện mối quan hệ ngược chiều giữa xuất

khẩu và nhập khẩu. Điều này có nghĩa là, cán cân thương mại sẽ thặng dư khi quốc

gia đó có giá trị xuất khẩu ròng là dương và ngược lại cán cân thương mại sẽ thâm

hụt khi giá trị xuất khẩu ròng là âm. Do vậy, một nhân tố nào đó làm tăng giá trị xuất

khẩu thì đồng thời sẽ làm giảm giá trị nhập khẩu và ngược lại, nên tác giả sẽ xét cả

yếu tố xuất khẩu và nhập khi đánh giá các nhân tố ảnh hưởng sau đây.

a) Tỷ giá hối đoái

Đây là một trong những yếu tố quan trọng nhất và ảnh hưởng trực tiếp đến cán

cân thương mại của một quốc gia. Đồng thời, tỷ giá hối đoái cũng là bộ phận chính

cấu thành lên cán cân thanh toán của quốc gia đó. Hiện nay, khi ở nhiều quốc gia trên

thế giới có cán cân thanh toán quốc tế không thuận lợi thì chính phủ của quốc gia đó

thường có mục tiêu là cải thiện cán cân thương mại. Và tỷ giá hối đoái là một trong

những công cụ nhằm thực hiện cải thiện cán cân thương mại do tính chất của tỷ giá

hối đoái. Sự ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái nhiều hay ít đến cán cân thương mại phụ

thuộc và độ co giãn của xauats khẩu và nhập khẩu đối với tỷ giá.

Khi một quốc gia phá giá đồng nội tệ hay nói cách khác là giảm tỷ giá hối đoái

mà chính phủ cam kết ủng hộ sẽ làm tăng giá hàng nhập khẩu và giảm giá hàng xuất

khẩu của quốc giá đó. Từ đó, tổng giá trị xuất khẩu tăng lên và/hoặc làm giảm tổng

giá trị nhập khẩu do độ co giãn của xuất khẩu và/hoặc nhập khẩu đối với tỷ giá hối

đoái là lớn. Điều này sẽ phần nào cải thiện được cán cân thương mại.

Tuy nhiên, trong thực tế có thể xảy ra trường hợp mà mức độ co giãn của cầu

nhập khẩu hàng hóa từ các nước khác bằng 0 hay nói cách khác người tiêu dùng của

quốc gia đó cho rằng không có một loại hàng hóa nào có thể thay thế cho hàng nhập

khẩu. Trong trường hợp đó, giá hàng nhập khẩu có sự thay đổi trong khi giá hàng hóa

nội địa vẫn giữa nguyên. Điều này sẽ không ảnh hưởng đến khối lượng hàng hóa cần

nhập khẩu và đồng thời phần nào đó còn thúc đẩy giá trị hàng nhập khẩu tăng. Trong

trường hợp này thì cán cân thương mại sẽ không cải thiện mà còn xấu đi theo hướng

tiêu cực.

Ngoài ra, Khi xem xét lý thuyết về Hiệu ứng tuyến J (Nguyễn Văn Tiến, 2012,

20

tr.270) và các vấn đề về việc cải thiện cán cân thương mại ta thấy: Phá giá đồng nội

tệ có thể làm cho khối lượng xuất khẩu tăng và khối lượng nhập khẩu giảm. Tuy nhiên

không vì thế mà cán cân thương mại sẽ phải được cải thiện. Trong ngắn hạn, cán cân

thương mại bị xấu đi do hiệu ứng giá cả sẽ có tính trội so với hiệu ứng khối lượng;

và trong dài hạn, cán cân thương mại sẽ được cải thiện do hiệu ứng khối lượng lại có

tính trội so với hiệu ứng giá cả. Ngoài ra, các nước công nghiệp phát triển có khả

năng dễ thành công khi áp dụng phá giá đồng nội tệ nhưng điều này lại không hoàn

toàn đúng đối với các nước đang phát triển. Do đó, đối với một nước đang phát triển,

để có thể áp dụng giải phép phá giá đồng nội tệ thì cần thiết phải tạo được các điều

kiện tiền đề để có thể phản ứng tích cực với những lợi thế mà phá giá đem. Có như

vậy thì trong ngắn hạn cán cân thương mại mới có thể được cải thiện.

b) Tỷ lệ Đầu tư, Tiết kiệm trong nước

Trong Kinh tế học, theo cách tiếp cận chi tiêu, thì tiêu dùng, đầu tư, chi tiêu chính

phủ và xuất khẩu ròng là 4 thành tố tạo thành tổng sản phẩm trong nước (GDP).

GDP có thể viết dưới dạng phương trình sau: GDP = C + I + G + NX (

Trong đó:

C: tiêu dùng;

I: đầu tư;

G: chi tiêu của Chính phủ;

NX: xuất khẩu ròng và còn được gọi là cán cân thương mại. Đây là khoản chênh

lệch giữa giá trị hàng xuất khẩu trừ đi giá trị hàng nhập khẩu.

Để thấy rõ được mối quan hệ giữa 3 thành tố: tiết kiệm, đầu tư và cán cân thương

mại thì chúng ta biến đổi biểu thức lại như sau:

NX = (GDP – C – G) – I (2).

Trong đó:

(GDP – C – G) chính là tổng thu nhập còn lại của nền kinh tế sau khi đã trừ đi

các khoản tiêu dùng của người dân và chi tiêu của Chính phủ. Và nó được gọi là tiết

kiệm quốc dân (Sn). Từ phương trình (2) ta có thể viết lại thành: NX = Sn - I (3).

Từ đẳng thức trên, ta có thể thấy mối quan hệ giữa tiết kiệm, đầu tư với cán cân

thương mại hay là giữa luồng vốn quốc tế sử dụng để tích lũy vốn (Sn - I) và luồng hàng

21

hóa, dịch vụ quốc tế (NX).

Cán cân thương mại sẽ bị thâm hụt khi mức tiết kiệm không đáp ứng đủ cho nhu

cầu đầu tư. Và các nước sẽ dược vào lượng vốn FDI (từ nước ngoài) để tài trợ cho các

nhau cầu đầu tư của nền kinh tế trong nước. Ngược lại, khi nhu cầu đầu tư nhỏ hơn tiết

kiệm của nền kinh tế thì nó sẽ làm thặng dư cán cân thương mại.

c) Các chính sách kinh tế của chính phủ

Trước tiên, có thể thấy, Chính sách thương mại quốc tế luôn đóng vai trò quan

trọng trong việc phát triển kinh tế nói chung của một quốc gia. Nó bao gồm rất nhiều

biện pháp được thực hiện đồng thời và là công cụ để can thiệp vào hoạt động thương

mại quốc tế của một quốc gia trong các giai đoạn. Tuy nhiên, trong đo sẽ có một số

các biện pháp và công cụ được sử dụng thường xuyên hầu hết trong mọi thời kỳ kinh

tế như: Hạn ngạch nhập khẩu; Thuế quan; Hạn ngạch thuế quan; Giấy phép; Hạn chế

xuất khẩu tự nguyện; Các rào cản kỹ thuật; Tín dụng xuất khẩu; Trợ cấp xuất khẩu;

Bán phá giá. Chính phủ thông qua các chính sách này nhằm điều chỉnh cán cân thương

mại khi cần thiết để đảm bảo mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô.

Chính sách đầu tư: Các chính sách và biện pháp liên quan đến đầu tư cũng có

tác động quan trọng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp đối với cán cân thương mại

thông qua các kênh cơ bản là:

(1) Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).

(2) Nguồn thu nhập chuyển giao từ nước ngoài như viện trợ, thu nhập ròng từ

các dự án đầu tư ngoài nước, kiều hối

(3) Nguồn vốn vay.

(4) Chính sách đầu tư trong nước.

d) Một số yếu tố cơ bản khác cũng tác động qua lại với cán cân thương mại như:

- Lạm phát

Nếu giả định các nhân tố khác không đổi, tỷ lệ lạm phát của một nước cao hơn

ở nước ngoài, làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa nước này trên thị trường quốc

tế, do đó làm cho khối lượng xuất khẩu giảm,

- Giá thế giới của hàng hóa xuất khẩu

Với giả định về các nhân tố khác không đổi, nếu giá cả trên thế giới của hàng

hóa xuất khẩu của một nước tăng. Điều này sẽ làm gia tăng về cầu nội tệ và đồng thời

22

gia tăng về cung ngoại tệ trên thị trường tài chính thế giới. Nói một cách khác, khi

giá cả trên thế giới của hàng hóa xuất khẩu tăng sẽ làm tăng giá trị xuất khẩu tính

bằng nội tệ và ngoại tệ. Điều này sẽ tác động đến cán cân thương mại của quốc gia

đó.

- Thu nhập của người không cư trú bao gồm: các cá nhân, hộ gia đình, công ty

và các nhà chức trách, các tổ chức quốc tế (Khoản 2 và 3, điều 3, Nghị định

164/1999/NĐ-CP ngày 16/11/1999 của Chính phủ)

Với các nhân tố khác không đổi, khi thu nhập thực tế của người không cư trú

tăng, làm tăng cầu xuất khẩu bởi người không cư trú, do đó làm tăng cầu nội tệ và

tăng cung ngoại tệ, tức là tăng cả giá trị xuất khẩu tính bằng nội tệ và ngoại tệ

- Thuế quan và hạn ngạch ở nước ngoài

Cũng với điều kiện các nhân tố khác không đổi, nếu áp dụng mức thuế quan cao

hoặc hạn ngạch nhập khẩu thấp với hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài thì giá trị hàng

nhập khẩu sẽ có xu hướng giảm. Ngoài ra, điều này sẽ xảy ra tương tự đối với các

hàng hóa bị áp dụng hàng rào phi thuế quan mang tính chất kỹ thuật như: yêu cầu về

chất lượng hàng hóa, yêu cầu về kiểm dịch;…. Kết quả của các biện pháp trên sẽ làm

giảm cầu ngoại tệ nước ngoài.

1.2.4. Thâm hụt cán cân thương mại về hàng hóa

1.2.4.1. Khái niệm thâm hụt cán cân thương mại về hàng hóa

Như đã trình bày ở phần trên về khái niệm chung và đặc điểm của cán cân

thương mại thì thâm hụt cán cân thương mại là một trạng thái của cán cân thương mại

mà khi đó thu từ xuất khẩu hàng hóa-sẽ thấp hơn việc chi tiêu cho nhập khẩu hàng

hóa. Hay nói cách khác là quốc gia đó đang nhập siêu hàng hóa.

1.2.4.2. Nguyên nhân của tình trạng thâm hụt cán cân thương mại về hàng hóa

Thâm hụt cán cân thương mại về hàng hóa là trạng thái nhập siêu về hàng hóa

của nền kinh tế. Và tình trạng thâm hụt của cán cân thương mại bị ảnh hưởng bởi một

hoặc nhiều yếu tố trình bày ở trên. Các yêu tố này sẽ tác động vào hai chiều của cán

cân thương mai gây ra tình trạng thặng dư hoặc thâm hụt cán cân thương mại. Ví dụ:

đồng nội tệ biến động tỷ giá theo hướng tăng giá đồng thời đồng ngoại tệ giảm giá sẽ

làm cho giá trị xuất khẩu hàng hóa giảm, đồng thời giá trị hàng nhập khẩu sẽ tăng.

Từ đó sẽ đưa đến tình trạng thâm hụt cán cân thương mại. Hay một ví dụ khác, khi

23

mức tiết kiệm không đáp ứng đủ cho nhu cầu đầu tư thì cán cân thương mại cũng sẽ

bị thâm hụt và các nước này sẽ dựa vào lượng vốn từ nước ngoài để tài trợ cho nhu

cầu đầu tư của nền kinh tế. Do vậy, trong phần này, tác giả không đề cập lại các yếu

tố trên và chỉ đề cập thêm một số nguyên nhân khác có thể là nguồn gốc của sự thâm

hụt cán cân thương mại.

Trên thực tế, tình trạng thâm hụt thương mại về hàng hóa có thể xảy ra ở bất kỳ

quốc gia nào dù là nước phát triển hay đang phát triển. Tuy nhiên, phụ thuộc vào các

nguyên nhân khác nhau và đặc điểm riêng biệt của mỗi quốc gia mà tình trạng thâm

hụt của mỗi quốc gia là khác nhau. Tìm hiểu và xác định chính xác về nguyên nhân

của tình trạng thâm hụt thương mại đối với mỗi quốc gia là điều vô cùng quan trọng,

bởi đó là kim chỉ nam để chính phủ các nước có thể có những chính sách phù hợp để

cải thiện tình trạng này.

Trước tiên, tác giả sẽ tìm hiểu và đưa ra một số các nguyên nhân dẫn đến tình

trạng thâm hụt của cán cân thương mại ở một số quốc gia đang phát triển.

a, Khả năng sản xuất trong nước còn hạn chế, không đáp ứng nhu cầu xuất khẩu

Đối với các nước đang trong quá trình phát triển công nghiệp hóa và mở cửa

hội nhập kinh tế thế giới thì việc xảy ra tình trạng thâm hụt thương mại là điều phổ

biến. Nguyên nhân chính xuất phát từ nhu cầu nhập khẩu rất lớn của quốc gia này

trong khi khả năng cạnh tranh của nền kinh tế tại quốc gia đó còn hạn chế. Dù các

quốc gia đang phát triển vẫn có sự tăng trưởng về xuất khẩu, tuy nhiên trong ngắn

hạn giá trị xuất khẩu hàng hóa- dịch vụ không thể bù đắp được thâm hụt thương mại.

Theo một thống kê của Diễn đàn kinh tế Việt Nam vào năm 2008 đã chỉ ra rằng: trong

vài thập niên gần đây, những nước đang phát triển đạt được thành công trong chiến

lược tập trung phát triển các ngành công nghiệp xuất khẩu đều đạt được tốc độ tăng

trưởng thần kỳ. Điển hình như: Hàn Quốc và Đài Loan vào những năm 60, các nước

Đông Nam Á như Malaysia, Thái Lan và Singapore vào những năm 70, Trung Quốc

vào những năm 80 và Ấn Độ vào những năm 90. Đây đều là các quốc gia nằm tại

châu Á. Tuy sau này, có nhiều quốc gia trên thế giới cũng học tập và nỗ lực đi theo

mô hình tăng trưởng của các nước này nhưng khá hiếm trường hợp có thành công

như các quóc gia trước. Nguyên nhân chính là các quốc gia đi sau chưa đáp đứng

được các điều kiện tiên quyết về thị trường nội địa và hầu như các quốc gia nhà chỉ

24

là một nhà xuất khẩu các tài nguyên thiên nhiên trong nước hoặc xuất khẩu các sản

phẩm chưa hàm lượng sức lao động cao (như gia công về may mặc). Do đó, giá trị

xuất khẩu của các mặt hàng tại các quốc gia này sẽ vẫn rất thấp và không thể bù đắp

được nhu cầu nhập khẩu của máy móc, thiết bị công nghiệp,… Nếu điều này lặp lại

liên tục thì sẽ đưa quốc gia đó vào tình trạng thâm hụt cán cân thương mại trở nên

ngày càng nghiêm trọng.

b, Khả năng sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dung trong nước đang tăng cao

Dù là quốc gia nào trên thế giới thì đều cần phải nhập khẩu hàng hóa từ các

nước khác. Tuy nhiên, khi một quốc gia không sản xuất đủ các nhu cầu của nền kinh

tế của quốc gia đó thì thường xuất hiện thâm hụt thương mại. Bên cạnh đó, khi nền

kinh tế tăng trưởng thì thu nhập người dân sẽ cũng có xu hướng tăng theo. Điều này

làm gia tăng nhu cầu tiêu dùng của người dân trong nước, đặc biệt là tình thương mại

quốc tế ngày càng phát triển thì nhu cầu tiều dùng ngày càng cao. Nếu năng lực sản

xuất của quốc gia đó không đáp ứng đủ nhu cầu trong nước vì một số giới hạn nhất

định thì người dân có thu nhập cao hơn sẽ có xu hướng gia tăng nhu cầu đối với các

sản phẩm nhập khẩu từ bên ngoài. Bên cạnh đó, đặc biệt là đối với các nước đang

phát triển, hầu hết các ngành hàng sản xuất phục vụ xuất khẩu lại là các ngành hàng

có giá trị thấp và sử dụng tập trung chủ yếu là nguồn lao động giá rẻ. Vì vậy, trong

khi trị giá xuất khẩu thấp nhưng nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng có giá trị cao có thể

dẫn đến thâm hụt cán cân thương mại.

c, Tình trạng thâm hụt kéo dài đến từ việc nâng giá đồng nội tệ

Khi một quốc gia áp dụng chính sách tiền tệ nhằm nâng giá đồng nội tệ thì kèm

theo đó sẽ có các ưu điểm và nhược điểm tương ứng. Điều này thường gặp tại các

quốc gia đang phát triển. Trong đó, việc nâng giá đồng nội tệ thường được sử dụng

tại một số quốc gia khi đến kỳ trả nợ vay đối với các chủ nợ của quốc gia đó ở bên

ngoài. Khi đó, giá trị nợ vay phải trả về mặt lý thuyết sẽ giảm theo sức mua. Tuy

nhiên, khi xét ở một khía cạnh nào đó, việc nâng giá đồng nội tệ để trả nợ vay cho

thấy nền kinh tế của quốc gia này đang có sự giảm sút về tăng trưởng. Đồng nội tệ

tăng giá sẽ làm tăng giá hàng xuất khẩu của chính quốc gia đó và giảm giá hàng nhập

khẩu từ bên ngoài. Điều này sẽ làm suy yếu khả năng xuất khẩu hàng hóa trong khi

25

làm gia tăng lượng hàng nhập khẩu từ bên ngoài. Trong bối cảnh đó, cán cân thương

mại sẽ có xu hướng thâm hụt. Kéo theo đó, nguồn vốn FDI từ nước ngoài sẽ giảm sút

làm cán cân thanh toán của quốc gia này cũng bị thâm hụt nghiêm trọng. Việc thâm

hụt tại cả 2 cán cân sẽ dẫn đến việc chi trả nợ của quốc gia đó càng khó khăn. Khi đó,

vòng lặp sẽ lại tiếp tục do áp lực từ trả nợ vay bên ngoài.

Trong khi đó, tình trạng thâm hụt thương mại ở các quốc gia phát triển lại

thường thấy khi các quốc gia này đầu tư trực tiếp ra bên ngoài. Giả sử chỉ có 2 quốc

gia tham gia vào quá trình này thì thông qua việc đặt các nhà máy sản xuất tại các

quốc gia bên ngoài thì các yếu tố hoặc nguyên liệu từ quốc gia này sang các quốc gia

gia công sẽ là mặt hàng xuất khẩu. Và khi gia công thành các thành phẩm thì chúng

được xuất ngược lại các quốc gia ban đầu và chúng được tính là hàng nhập khẩu. Về

lý thuyết, các nguyên liệu sẽ có giá trị thấp hơn giá trị của hàng thành phẩm. Vì vậy,

các quốc gia đầu tư trực tiếp sẽ thâm hụt thương mại trong trường hợp này. Đây là

cách mà hầu hết các quốc gia phát triển thực hiện sản xuất gia công tại các nước có

lợi thế sản xuất hơn và chi phí thấp hơn hẳn so với nước chủ nhà. Tuy nhiên, xét theo

một yếu tố rộng hơn về mặt thực tế thì chưa hẳn đã có sự thâm hụt tại các quốc gia

này do có thể tác động vào yếu tố là nguyên liệu đầu vào. Cũng như việc bán các

thành phẩm ra các quốc gia khác với giá cả cao hơn khi sản xuất trong nước do đã sử

dụng được lợi thế về sản xuất và chi phí ở bên ngoài thấp hơn hẳn so với nước chủ

nhà. Điều này cho thấy, thâm hụt thương mại không phải lúc nào cũng ảnh hưởng

tiêu cực. Nó còn phụ thuộc vào điều kiện và đặc điểm của mỗi quốc gia cũng như

nguyên nhân cốt lõi của tình trạng này.

Để tìm hiểu cụ thể hơn về những nguyên nhân dẫn đến tình trạng thâm hụt

thương mại đối với mỗi quốc gia. Tác giả dẫn chứng 3 quốc gia gồm 3 quốc gia: Mỹ

(đại diện cho các nước phát triển); Trung Quốc (đại diện cho các nước tiếp cận nước

phát triển) và Ấn Độ (đại diện cho các nước đang phát triển).

Trước hết là Mỹ, đây là một cường quốc hàng đầu thế giới. Tuy nhiên, tình

trạng thâm hụt thương mại ở Mỹ đã kéo dài trong nhiều năm và vẫn chưa hề cải thiện

trong các năm gần đây. Lý do chính là do việc đặt nhà máy sản xuất tại các quốc gia

bên ngoài của các tập đoàn lớn tại Mỹ như: Trung Quốc, Ấn Độ, Malaysisa, Mexico…

26

và nhập khẩu ngược lại các hàng hóa thành phẩm vào Mỹ cung cấp cho thị trường

nội địa. Khi đó, thành phẩm được di chuyển vào thị trường nội địa để bán tại Mỹ đều

được coi là hàng nhập khẩu dù do các công ty, tập đoàn của nước Mỹ sản xuất. Do

đó, dù là một nền kinh tế hàng đầu trên thế giới nhưng cán cân thương mại của Mỹ

luôn gặp tình trạng thâm hụt kéo dài từ năm 1983 đến nay (Biểu đồ 1.1). Bên cạnh

đó, thị trường lao động của Mỹ cũng bị ảnh hưởng do nhu cầu về lao động giảm sút

dẫn đến tình trạng thất nghiệp gia tăng do các nhà máy đã di dời sang các quốc gia

khác có chi phí nhân công thấp hơn tại thị trường Mỹ.

Biểu đồ 1.1: Cán cân thương mại của Mỹ từ năm 1970 đến nay

Nguồn: Investing.com

Thứ hai là Trung Quốc, đây là quốc gia có nền kinh tế thị trường công nghiệp

mới đang phát triển, có quy mô lớn thứ hai trên thế giới (sau Mỹ) nếu tính theo tổng

sản phẩm quốc nội (GDP danh nghĩa) và đứng thứ nhất nếu tính GDP sức mua tương

đương (PPP). Hiện tại, Trung Quôc là quốc gia có thặng dư thương mại với nhiều

quốc gia khác trên thế giới. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng có thời kỳ rơi vào thâm hụt

thương mại trầm trọng với Hàn Quốc trong những năm cuối thập kỷ 90. Nguyên nhân

chính không xuất phát từ phía Trung Quốc mà lại do sự ảnh hưởng của cuộc khủng

hoảng tài chính của Châu Á vào năm 1997. Cuộc khủng hoảng này bùng nổ vào Hàn

Quốc vào tháng 8/1997, khiến cho tiền tệ của Hàn Quốc nhanh chóng bị phá giá đẩy

nền kinh tế Hàn Quốc vào bế tắc. Ở trong hoàn cảnh đó, tận dụng đồng nội tệ suy

yếu, Hàn Quốc đã đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa vào thị trường Trung Quốc. Điều đó

27

phần nào đẩy thặng dư thương mại của Hàn QUốc tăng dần và cũng trong thời kỳ đó,

Trung Quốc đã chịu ảnh hưởng mạnh từ làn sóng xuất khẩu của Hàn Quốc.

Thứ ba là Ấn Độ, theo số liệu thống kê từ Ngân hàng Trung Ương Ấn Độ thì

năm 2007- 2008 thâm hụt thương mại của Ấn độ là khoảng 90,1 tỷ USD tăng khoảng

42% so với năm trước. Mức thâm hụt này ước tính bằng 7,7% GDP của Ấn Độ trong

năm đó. Nguyên nhân chính của sự gia tăng này là do Ấn Độ đang trong đà tăng

trưởng. Với đạt được mức tăng trưởng hơn 9%/năm thì nguồn máy móc trong nước

không đáp ứng đủ phục vụ cho các ngành công nghiệp sản xuất đang tăng lên.Việc

nhập máy móc có giá trị cao đã làm cán cân thương mại của Ấn Độ bị thâm hụt. Tuy

nhiên, ở một khía cạnh nào đó thì sự thâm hụt này mang tính chất trong một giai đoạn

ngắn. Khi các máy móc đã được nhập đủ thì cán cân thương mại sẽ có xu hướng giảm

thâm hụt và có khả năng thặng dư trở lại do nó đến từ cốt lõi của việc tăng trưởng của

nền kinh tế.

1.2.4.3. Tác động của thâm hụt cán cân thương mại về hàng hóa đến nền kinh tế quốc

dân

a, Tác động tích cực

Xét ở một khía cạnh nào đó, thâm hụt thương mại là nhân tố cần thiết để các

quốc gia có được sự tăng trưởng và phát triển. Tại phần 1.1.2 ở trên, ta đã nói đến ý

nghĩa thực tiễn vô cùng quan trọng của Cán cân thương mại. Trạng thái của cán cân

thương mại sẽ thể hiện trạng thái của nền kinh tế một quốc gia. Do vậy, cán cân

thương mại sẽ có ảnh hưởng sâu sắc đến sự tăng trưởng của nền kinh tế. Trong thực

tế, đặc biệt là đối với các quốc gia đang phát triển đều phải trải qua thời kỳ có sự thâm

hụt về cán cân thương mại hay nói cách khác là xuất hiện tình trạng nhập siêu từ các

quốc gia khác trong thương mại quốc tế. Đối với tình hình thực tế tại Việt Nam thì

chúng ta đang có sự thâm hụt thương mại đối với Trung Quốc. Tuy nhiên, đối với

một số quốc gia khác, chúng ta có thặng dư thương mại như Mỹ, Nhật Bản, EU. Phần

thặng dư này sẽ bù đắp phần nào thâm hụt của chúng ta đối với Trung Quốc nhằm

giữ thăng bằng cho cán cân thương mại. Có thể nói, trong những năm gần đây, cán

cân thương mại tổng thể của Việt Nam đang có chiều hướng cải thiện và là điều kiện

cho sự phát triển của nền kinh tế. Việc nền kinh tế của chúng ta đạt được xuất siêu

28

trong các năm gần đây đã thúc đẩy sản xuất trong nước và tạo thêm công ăn việc làm

cho người lao động.

Bên canh đó, khi nguồn vốn FDI đổ vào một quốc gia nào đó trong khi điều

kiện sản xuất của quốc gia đố chưa đáp ứng được thì cũng có thể xuất hiện thâm hụt

thương mại. Cùng với nguồn vốn là sự gia nhập của các doanh nghiệp FDI đến hoạt

động của nước sở tại. Khi đó, các doanh nghiệp FDI sẽ nhập khẩu các yếu tố đầu vào

từ bên ngoài làm cho giá trị hàng nhập khẩu tăng cao trong khi các doanh nghiệp này

chưa tạo được giá trị xuất khẩu tương ứng. Điều này sẽ dẫn đến thâm hụt thương mại

trong ngắn hạn. Còn nếu tính dài hạn thì khi các nguồn máy móc, nguyên liệu đầu

vào ổn định thì cán cân thương mại sẽ ngày càng cải thiện do giá trị xuất khẩu gia

tăng sang các quốc gia khác trong khi giá trị hàng hóa, máy móc không còn phát sinh

mới.

Trong ngắn hạn, thâm hụt thương mại là yếu tố cần thiết cho sự tăng trưởng của

nền kinh tế. Bên cạnh đó, đây cũng là dộng lực cho sự phát triển của nền kinh tế. Bỏi

vì, khi xuất hiện thâm hụt thương mại thì nhu cầu nhập khẩu tăng cao và dòng vốn từ

bên ngoài quốc gia đổ vào trong nước lớn. Và việc phân bổ nguồn vốn đầu tư đó sao

cho hiệu quả là yêu cầu cần thiết để cải thiện nền kinh tế. Từ đó có thể cải thiện hệ

thống hạ tầng, nền sản xuất thô sơ và tạo thêm các công việc mới cho người lao động.

Điều này sẽ giúp nền kinh tế có sự tăng trưởng thúc đẩy đời sống người dân được

nâng cao do thu nhập của người dân sẽ gia tăng.

b, Tác động tiêu cực

Như đã đề cập ở trên, nếu thâm hụt thương mại duy trì trong ngắn hạn sẽ có thể

mang lại các yếu tố tích cực cho nền kinh tế khi phân bổ và sử dụng các nguồn lực

hợp lý. Tuy nhiên, nếu sự thâm hụt này kéo dài và vượt qua các ngưỡng an toàn thì

lại mang đến sự bất ổn cho nền kinh tế. Nhập siêu dài hạn sẽ gia tăng nợ quốc tế, trực

tiếp gây giảm năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Trong khi sự tăng trưởng của nền

kinh tế chậm chạp thì lạm phát và thất nghiệp lại có nguy cơ tăng cao. Điều này về

lâu dài sẽ dẫn đến khủng hoảng kinh tế của chính quốc gia đó. Quỹ Tiền tệ quốc tế

IMF đã tính toán và cho thấy: khi thâm hụt cán cân vãng lai vượt quá 5% GDP của

một quốc gia (chủ yếu các số liệu được tính toán là số liệu dựa trên cán cân thương

mại) có thể ảnh hưởng xấu đến cán cân thanh toán và làm gia tăng nợ quốc tế khi

29

nguồn vốn đầu tư bị sử dụng kém hiệu quả và thất thoát. Khi nợ quốc tế tăng cao

trong khi giá trị xuất khẩu lại ít ỏi có thể đẩy nền sản xuất nội địa trong nước không

phát triển và lệ thuộc và thị trường bên ngoài do phải nhập khẩu. Điều này sẽ dẫn đến

những biến động bất lợi cho nền kinh tế như gia tăng tình trạng nợ quốc tế, hạn chế

khả năng cạnh tranh của hàng hóa nội địa và suy giảm tăng trưởng của nền kinh tế.

Từ đó, nền kinh tế sẽ có sự tác động ngược lại đến thu nhập và việc làm của người

dân. Và ở mức độ trầm trọng hơn nữa thì sự khủng hoảng về tài chính tiền tệ sẽ xảy

ra do thu nhập không đủ chi trả các chi phí.

Cán cân thương mại về hàng hóa có tầm quan trọng trong nền kinh tế, vì vậy,

nhiều quốc gia trên thế giới theo dõi các chỉ số kinh tế của cán cân thương mại định

kỳ và thường xuyên. Tại Mỹ, cán cân thương mại được công bố theo hàng tháng và

các dự báo của cán cân thương mại. Điều này giúp chính phủ Mỹ có thể theo dõi sát

sao và có các biện pháp về chính sách vĩ mô kịp thời phù hợp với mục tiêu ổn định

thị trường và tăng trưởng kinh tế. Nếu thâm hụt thương mại thường xuyên và kéo dài

trong nhiều năm sẽ gây sức ép lên nhập khẩu hàng hóa. Nếu phải giảm bớt nhập khẩu

hàng hóa do nhập siêu được coi là một phần của những biện pháp tài chính và tiền tệ

khắc khổ. Điều đó có thể làm nền kinh tế mất ổn đỉnh và suy giảm cũng như gia tăng

tình trạng thất nghiệp.

1.3. Kinh nghiệm quốc tế về xử lý thâm hụt cán cân thương mại

Trên đây, tác giá đã trình bày và có một số dẫn chứng về tình trạng thâm hụt

của cán cân thương mại tại một số quốc gia trên thế giới như: Mỹ, Trung Quốc và Ấn

Độ. Qua đó có thể thấy không chỉ các nước đang phát triển mà ngay cả các nước phát

triển cũng có thể gặp tình trạng thâm hụt này. Tuy nhiên, điều quan trọng là sự thâm

hụt của cán cân thương mại xuất phát từ nguyên nhân nào? Bên cạnh đó, các quốc

gia này đã có những biện pháp nào nhằm cải thiện tình hình thâm thụt? Tiếp theo đây,

tác giả sẽ đưa ra một số kinh nghiệp của các quốc gia trên thế giới mà đã có những

giải pháp được coi là biện pháp hiệu quả trong khu vực và trên thế giới.

1.3.1. Kinh nghiệm của Mỹ

1.3.1.1 Thực trạng thâm hụt thương mại của Mỹ 2015- 2019

Nói về nền kinh tế Mỹ, hầu hết mọi người dân trên thế giới trong suốt nhiều năm

qua đều khẳng định đây là nền kinh tế số một trên thế giới. Tuy nhiên, theo thống kê

30

của ITC, cán cân thương mại của Mỹ luôn trong tình trạng thâm hụt kể manh nha từ

những thập niên 70 và đến thập niên 80 trở lại đây. Đặc biệt, những năm gần đây, Mỹ

luôn gặp khó khăn trong mức độ thâm hụt thương mại đối với quan hệ kinh tế song

phương với Trung Quốc. Có thể nói, tỷ trọng thâm hụt của Mỹ đối với Trung Quốc

chiếm trên 40% trong tổng mức thâm hụt chung của quốc gia này. Điều này cho thấy:

nước Mỹ nhập siêu từ Trung Quốc hàng năm với giá trị hàng hóa rất lớn và ngược lại,

Trung Quốc là một trong những nhà cung cấp lớn nhất cho thị trường hàng hóa của

Mỹ.

Bảng 1.1: Cán cân thương mại của Mỹ trong giai đoạn 2015-2019

Đơn vị tính: Tỷ USD

Năm

Cán cân thương mại của Mỹ 2015 (812) 2016 (798) 2017 (860) 2018 (946) 2019 (923)

(388) (366) (396) (443) (366) Cán cân thương mại của Mỹ với Trung Quốc

48% 46% 46% 47% 40%

Tỷ trọng Nguồn: Trademap.org, ITC

Như đã đề cập ở trên, tại mục 1.1.3.2, tình trạng cán cân thương mại của Mỹ

luôn gặp thâm hụt từ năm 1980 trở lại đây. Nguyên nhân chính là do việc di dời các

nhà máy của các công ty, tập đoàn Đa quốc gia sang từ nước Mỹ sang các nước có

lợi thế về nguồn nhân lực giá rẻ dồi dào hoặc nguồn nguyên liệu đầu vào sẵn có để

có mức chi phí sản xuất thấp. Trong khi đó, các quốc gia phát triển, đặc biệt là Trung

Quốc, lại là quốc gia có sẵn các lợi thế này. Qua đó, các nước này có thể tranh thủ

được công nghệ tiên tiến của Mỹ trong các lĩnh vực sản xuất hàng gia công xuất khẩu

cho các nước này. Từ đó, có thể mở rộng quy mô và nâng cao năng lực sản xuất để

đẩy mạnh hàng hóa xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Đặc biệt, các mặt hàng công nghệ

là các mặt hàng đã được Trung Quốc tận dụng tốt.

Hiện nay, thị trường Mỹ chủ yếu tiêu thụ các hàng gia công sản xuất tại các

nước khác dù nó có thể là sản phẩm của chính các công ty, tập đoàn của nước Mỹ.

Điều đó lý giải vì sao nước Mỹ có sự thâm hụt trong thời gian dài từ năm 1980. Hay

nói các khác, nước Mỹ là một nước nhập siêu với các quốc gia khác trên thế giới ở

mức lớn. Trong những năm gần đây, chính phủ Mỹ đã bảy tỏ sự quan ngại về trình

tháng này, bỏi vì dù thế nào sự thâm hụt kéo dài của cán cân thương mại và với mức

31

độ lớn sẽ ảnh hưởng trở lại đến sự tăng trưởng về kinh tế. Kéo theo đó là tình trạng

thất nghiệp gia tăng làm tăng nguy cơ suy thoái kinh tế và có thể gây bất ổn cho nền

kinh tế vĩ mô.

1.3.1.2 Giải pháp xử lý thâm hụt thương mại của Mỹ

Nhằm giảm thiểu thâm hụt về cán cân thương mại, đặc biệt là trong quan hệ

song phương giữa Mỹ và Trung Quốc. Năm 2017, Tổng thống thức 45 của nước Mỹ

Donald Trump đã có một số biện pháp nhằm giảm thâm hụt thương mại của nước Mỹ

trong nhiệm kỳ của mình gồm:

Thứ nhất, gia tăng hàng rào thuế quan đối với các hàng hóa nhập khẩu từ Trung

Quốc. Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đã ký một bản ghi nhớ vào ngày 22 tháng

3 năm 2018 theo Mục 301 của Đạo luật Thương mại năm 1974, chỉ đạo Đại diện

Thương mại Hoa Kỳ (USTR) áp dụng mức thuế 50 tỷ đô la Mỹ cho hàng hóa Trung

Quốc. Trong một tuyên bố chính thức, theo yêu cầu của phần này, Trump nói rằng

các mức thuế được đề xuất là "một phản ứng đối với các hoạt động thương mại không

công bằng của Trung Quốc trong những năm qua", bao gồm cả hành vi ăn cắp sở hữu

trí tuệ của Hoa Kỳ. Vào ngày 2 tháng 4, Bộ Thương mại Trung Quốc đã áp đặt thuế

đối với 128 sản phẩm của Mỹ bao gồm phế liệu nhôm, máy bay, ô tô, sản phẩm thịt

lợn và đậu nành (có thuế suất 25%), cũng như trái cây, hạt và ống thép (15%). Ngày

hôm sau, USTR đã công bố danh sách hơn 1.300 mặt hàng nhập khẩu của Trung Quốc

trị giá 50 tỷ USD, trong đó có kế hoạch áp đặt tiền, bao gồm chi tiết máy bay, pin,

TV màn hình phẳng, thiết bị y tế, vệ tinh và vũ khí. Để trả đũa cho tuyên bố đó, Trung

Quốc áp dụng mức thuế 25% bổ sung cho máy bay, ô tô và đậu tương, là hàng xuất

khẩu nông nghiệp hàng đầu của Hoa Kỳ sang Trung Quốc. Vào ngày 5 tháng 4,

Trump đã chỉ đạo USTR xem xét 100 tỷ đô la trong các mức thuế bổ sung. Tiếp theo

Vào ngày 15 tháng 6, Trump tuyên bố trong một tuyên bố ngắn về Nhà Trắng rằng

Hoa Kỳ sẽ áp đặt mức thuế 25% trên 50 tỷ đô la xuất khẩu của Trung Quốc. 34 tỷ đô

la sẽ bắt đầu vào ngày 6 tháng 7, với thêm 16 tỷ đô la để bắt đầu vào một ngày sau

đó. Ba ngày sau, Nhà Trắng tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ áp đặt thêm 10% thuế quan đối

với hàng nhập khẩu trị giá 200 tỷ USD nếu Trung Quốc trả đũa các mức thuế của Mỹ.

Các mức thuế của Mỹ trị giá 34 tỷ USD hàng hóa Trung Quốc có hiệu lực vào ngày

6 tháng 7.

32

Thứ hai, các nhà kinh tế và các nhà hoạch định chính sách của Mỹ đã có những

đề xuất hạ giá đồng Đô la Mỹ để gây ảnh hưởng đến các nước khác như đồng Nhân

dân tệ của Trung Quốc. Tuy nhiên, cũng như biện pháp đánh thuế, trong dài hạn, hạ

giá đồng nội tệ không phải là cách phù hợp và hiệu quả sẽ gây nhiều hệ lụy cũng như

giảm mức sống của người dân. Bộ trưởng Tài chính Mỹ Steven Mnuchin ngày 5-8

(giờ Mỹ) cho biết Chính phủ Mỹ đã xác định rằng Trung Quốc đang thao túng chính

đồng tiền của mình và sẽ cùng với Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) để loại bỏ sự cạnh

tranh không lành mạnh của Bắc Kinh. Động thái này đã làm cho mối quan hệ Trung-

Mỹ vốn đã căng thẳng lại trở nên xấu đi, đồng thời cũng đã "hiện thực hóa" tuyên bố

trước đây của Tổng thống Mỹ Donald Trump rằng sẽ "gán mác" cho Trung Quốc là

"nước thao túng tiền tệ", lần đầu tiên kể từ năm 1994. Động thái của Mỹ được đưa ra

sau khi Trung Quốc cho phép đồng Nhân dân tệ của họ suy yếu vượt qua mức 7 NDT

đổi 1 USD vào ngày 5-8, lần đầu tiên trong hơn một thập kỷ qua. Bắc Kinh sau đó

tuyên bố ngừng mua các sản phẩm của Mỹ, "thêm dầu vào lửa" trong cuộc đối đầu

thương mại Mỹ-Trung. Việc đồng Nhân dân tệ giảm mạnh đến 1,4% diễn ra vài ngày

sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump làm choáng váng thị trường tài chính khi tuyên

bố sẽ áp thuế 10% đối với 300 tỷ USD hàng nhập khẩu Trung Quốc còn lại chưa bị

áp thuế kể từ ngày 1-9, đột ngột phá vỡ lệnh đình chiến thương mại ngắn ngủi của

cuộc chiến thương mại đang làm gián đoạn chuỗi cung ứng và làm chậm tăng trưởng

toàn cầu. Động thái này cũng kéo theo việc đồng USD giảm mạnh so với đồng Nhân

dân tệ.

Thứ ba, Chính phủ của tổng thống Donal Trump kêu gọi các công ty, tập đoàn

Mỹ trở về thị trường Mỹ để xây dựng nhà máy,…. Điều này đã phần nào cho thấy sự

tích cực khi tỷ lệ thất nghiệp của Mỹ trong thời kỳ của Donal Trump đã giảm mạnh

thấp nhất trong 50 năm qua xuống dưới mức 3,5% vào tháng 09 năm 2019. \

Tuy nhiên, các biện pháp này chỉ mang tính chất nhất thời và không có khả năng

sử dụng trong dài hạn vì các biện pháp này làm tăng giá thành sản phẩm vào Mỹ và

ảnh hưởng đến tiêu dung của người dân. Trong bản nghiên cứu, hai chuyên gia kinh

tế của FED là Aaron Flaaen và Justin Pierce cho rằng, hàng rào thuế quan mang đến

nhiều tác động tiêu cực hơn lợi ích, ít nhất là trong ngắn hạn. Theo đó, các ngành sử

dụng nhôm và thép phải đối mặt với sự tăng giá lớn nhất, vì mức thuế mới chiếm tới

33

17,6% chi phí đối với các nhà sản xuất tấm nhôm và 8,4% chi phí đối với các sản

phẩm thép được sản xuất từ thép nhập khẩu. Và, dù một số ngành công nghiệp có thể

cố gắng để phần nào hưởng lợi từ sự bảo vệ của hàng rào thuế quan, song điều này

cũng "chẳng thấm vào đâu" so với sự gia tăng chi phí nguyên liệu đầu vào cũng như

tác động từ các đòn thuế quan trả đũa. Bên cạnh đó, việc kêu gọi các công ty và tập

đoàn Mỹ trở lại nước Mỹ là khó khả thi vì lợi nhuận cũng như chi phí đầu tư là rất

lớn.

Như vậy, có thể thấy Mỹ đã kết hợp nhiều biện pháp để gây áp lực lên các nước

mà Mỹ có thâm hụt về thương mại ở mức lớn, đặc biệt là Trung Quốc để giảm bớt

tình trạng nhập siêu của các nước này.

1.3.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc

1.3.2.1 Thực trạng thâm hụt thương mại của Hàn Quốc trong giai đoạn 1960- 1980

Hàn Quốc từng được biết đến như một trong những nước nông nghiệp nghèo

nhất thế giới. Vào thời điểm thành lập chính phủ năm 1953, thu nhập bình quân đầu

người của Hàn Quốc ở mức 67 USD/ người. Cho đến năm 1962, khi bắt đầu bước

vào thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm lần thứ nhất (1962 -1966), GDP bình

quân đầu người là 87 USD đã phản ánh rằng Hàn Quốc vẫn chưa thể thoát khỏi cảnh

nghèo nàn, lạc hậu sau gần thập kỷ nỗ lực khôi phục lại nền kinh tế đã bị tàn phá nặng

nề bởi cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai và tiếp đó là cuộc chiến Nam - Bắc Triều

Tiên. Trong khoảng thời gian này, Hàn Quốc chưa có nền công nghiệp nặng, tài

nguyên thiên nhiên nghèo nàn và nền kinh tế khi đó chỉ có thể tồn tại được chủ yếu

là nhờ vào viện trợ nước ngoài, đặc biệt là từ sự phụ thuộc vào Hoa Kỳ để đổi lấy sự

tham gia của Hàn Quốc trong chiến tranh Việt Nam.

1.3.2.2 Giải pháp xử lý thâm hụt thương mại của Hàn Quốc

Tuy nhiên, Chính phủ Hàn Quốc đã có những chính sách kịp thời và các biện

pháp nhằm quản lý, điều tiết nền kinh tế. Chỉ trong 25 năm, vào cuối thập niên 80,

Hàn Quốc đã đạt được những thành tựu về kinh tế. Các thành tựu này được thế giới

biết đến và gọi với cái tên “Kỳ tích trên sông Hàn” đánh dấu bước ngoặt trở thành

nền kinh tế thứ 12 trên thế giới như hiện nay. Theo WB cho biết, GDP Hàn Quốc

năm 1960 chỉ vỏn vẹn 3,957 tỷ USD. Tuy nhiên, đến năm 1985, GDP quốc gia này

lần đầu vượt ngưỡng 100 tỷ USD và tiếp tục đà tăng mạnh mẽ. 21 năm sau, GDP Hàn

34

Quốc vượt mốc 1.000 tỷ USD và đạt 1.619 tỷ USD vào năm 2018.

Trong thời gian những năm 60, chính phủ Hàn Quốc đã áp dụng hàng loạt các

biện pháp nhằm quản lý, điều tiết nền kinh tế, trong đó xuất khẩu được coi là yếu tố

trọng tâm.

Chính phủ Hàn Quốc đã thực hiện chính sách hướng về xuất khẩu với 2 bước

đi quan trọng đó là khuyến khích và tăng cường tiết kiệm thông qua việc tăng lãi suất,

cải thiện thâm hụt thương mại bằng việc phá giá đồng nội tệ. Bên cạnh đó, Chính phủ

Hàn Quốc đã thực hiện hàng loạt biện pháp nhằm hỗ trợ xuất khẩu như giảm thuế

nhập khẩu, hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp xuất khẩu một cách hợp lý, ưu đãi

về tài chính cho các ngành công nghiệp mũi nhọn, điều chỉnh chế độ tỷ giá linh hoạt,

mục tiêu xuất khẩu được cụ thể hóa bởi Chính phủ và khen thưởng, động viên từ

Tổng thống Hàn Quốc.

Sau hàng loạt những chính sách của Chính phủ, kết quả đạt được là hết sức khả

quan. Hàn Quốc trở thành một trong những quốc gia có tốc độ phát triển kinh tế nhanh

nhất thế giới với kim ngạch xuất khẩu tăng từ 41 triệu USD năm 1960 lên 1.048 triệu

USD vào năm 1970.

Để hiện thực hóa các định hướng về lấy trọng tâm làm xuất khẩu, Hàn Quốc đã

sử dụng đến chinh sách tiền tệ hợp lý và được coi là thành công trong điều hành về

chính sách tỷ giá. Hàn Quốc đã sử dụng công cụ tỷ giá hối đoái để thực hiện công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thông qua chiến lược hướng vào xuất khẩu, cải

thiện cán cân thanh toán quốc tế và đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Từ thực tiễn thành

công của Hàn Quốc, một số kinh nghiệm được rút ra như sau:

Một là, kiễn nhẫn theo đuổi chính sách phá giá tiền tệ để tăng trưởng xuất khẩu.

Do tài nguyên nghèo nàn nên để phát triển mạnh về công nghiệp thì Hàn Quốc phải

nhập khẩu thiết bị máy móc, công nghệ cũng như nguồn nguyên liệu từ nước ngoài.

Bên cạnh đó, do nền kinh tế đang trong thời kỳ khó khăn nên việc vay nợ nước ngoài

để đầu tư trở lại nền kinh tế là điều bắt buộc. Hàn Quốc đã khôn ngoan khi lựa chọn

mở rộng xuất khẩu ở quy mô lớn. Đồng thời, Hàn Quốc đã kết hợp với các nhân tố

khác làm giảm chi phí hàng hóa nhập khẩu cũng như gánh nợ từ bên ngoài. Thực tế

đã cho thấy, sau khi phá giá mạnh đồng tiền nội tệ Won, Hàn Quốc đã tăng cường

35

được năng lực sản xuất của mình và đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại. Điều

này đã mang lại kết quả về sự tăng trưởng cao của nền kinh tế Hàn Quốc.

Hai là, tỷ giá KRW/USD được chính phủ điều hành theo hướng giảm giá trị

đồng nội tệ trong một thời gian dài nhằm chuyển đổi từ chế độ tỷ giá cố định sang

thả nổi. Để làm được điều đó, Hàn Quốc đã chủ động tạo ra các điều kiện thuận lợi

nhằm đảm bảo rằng tỷ giá của KRW/USD sẽ không gây cản trở tới hoạt đồng xuất

khẩu. Cụ tể: Khi USD lên giá, chính phủ sẽ để thị trường điều tiết vì khi này có lợi

cho xuất khẩu do hàng hóa của Hàn Quốc sẽ rẻ đi. Ngược lại, khi USD giảm giá,

chính phủ Hàn Quốc sẽ tăng cung đồng KRW nhằm giảm giá trị của KRW đảm bảo

tỷ giá KRW/USD ở hướng có lợi cho xuất khẩu.

Ba là, Hàn Quốc có chính sách nhằm loại trừ khả năng giảm giá dài hạn của

đồng nội tệ do chính sách của mình khi thả nổi đồng nội tệ trên thị trường. Chính phủ

Hàn Quốc củng cố các nhân tố thị trường nhằm giúp cho tỷ giá được duy trì mức ổn

định. Sự ổn định này của tỷ giá KRW/USD là do sự cần thiết để hướng các nhà đầu

tư trong nước cũng như nước ngoài có một môi trường ổn định tránh được sự ảnh

hưởng bởi tỷ giá của thị trường tiền tệ. Đây cũng là một trong số các nguyên nhân đã

giúp Hàn Quốc là một trong các quốc gia vực dậy sớm nhất do ảnh hưởng của khủng

hoảng tài chính tiền tệ cuối thập niên 90. Từ đó, tận dụng lợi thế để phát triển kinh

tế, ứng dụng các công nghệ hiện đại nâng cao chất lượng sản phẩm tiếp tục phục vụ

hướng xuất khẩu.

Bốn là, Hàn Quốc không neo giữ đồng KRW theo duy nhất một đồng ngoại tệ

mạnh nào. Một số nước ở Châu Á lúc bấy giờ như Thái Lan đã neo giữ tỷ giá với đồng

USD- một đồng tiền mạnh nhất trên thế giới. Tuy nhiên, khi khủng hoảng tài chính- tền

tệ châu Á diễn ra, đã cho thấy các nước neo giữ tỷ giá với một ngoại tệ mạnh duy nhất

như Thái Lan đã bị ảnh hưởng nặng nề và kết quả là hồi phục chậm chạp. Sự tăng giá

của đồng USD sẽ khiến các nước neo giữ tỷ giá duy nhất với USD sẽ bị yếu đi khả năng

cạnh tranh

1.3.3. Kinh nghiệm của Thái Lan

1.3.3.1 Thực trạng thâm hụt thương mại của Thái Lan trong giai đoạn 1970- 1996

Nền kinh tế Thái Lan đã có thời kỳ phát triển kinh tế nhanh do công nghiệp chế

36

tạo với tốc độ tăng trưởng trung bình đạt 9,4% từ năm 1985 đến 1996. Việc tân dụng

những nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động dồi dào giá rẻ đã giúp việc mở cửa

nền kinh tế thuận lợi và phát triển được theo hướng xuất khẩu.

Đối với cán cân thương mại, theo Worldbank, thì cán cân thương mại của Thái

Lan luôn ở tình trạng thâm hụt từ năm 1975 cho đến năm 1996. Đặc biệt trong những

năm đầu của thế kỷ 90, mức thâm hụt thương mại tiếp tục gia tăng mạnh từ 6,64 tỷ

USD năm 1990 lên 12,06 tỷ USD năm 1996. Và cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ

năm 1997 đã đưa nền kinh tế Thái Lan vào tình trạng khó khăn. Mức tăng trưởng

GDP ngay trong năm 1998 là -10,5% và nợ nước khoài ở mức 87 tỷ Đô la trong khi

GDP năm 1998 chỉ ở mức 113,7 tỷ đồng. Cùng với đó, thất nghiệp gia tăng làm áp

lực lên nền kinh tế vĩ mô ngày càng trầm trọng.

Biểu đồ 1.2: Cán cân thương mại của Thái Lan 1990- 1998

Đơn vị tính: tỷ USD

20

15

10

5

1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 0 1990 -5

-10

-15

Nguồn: Worldbank

1.3.3.2 Các giải pháp xử lý thâm hụt thương mại của Thái Lan

Để khách phục tình trạng khó khăn về nền kinh tế cũng như sự thâm hụt về cán

cân thương mại, Chính phủ Thái Lan khi đó đã xây dựng chính sách phát triển thương

mại quốc tế cho giai đoạn sau này để thoát khỏi khó khăn ngay sau khi khủng hoảng,

chính Phủ Thái Lan đã có những biện pháp nhằm khôi phục nền kinh tế. Và đặc biệt,

tình trạng cán cân thương mại của Thái Lan các năm sau đó đã được cải thiện và bắt

37

đầu thặng dư ở mức 17,39 tỷ USD vào năm 1998. Các biện pháp đã được chính phủ

Thái Lan sử dụng gồm:

Thứ nhất, tiếp tục theo đuổi chính sách thúc đẩy xuất khẩu và giảm nhập khẩu.

Đồng thời, Thái Lan đã kết hợp với tăng cường xuất khẩu dịch vụ cùng với đó là sự

liên tục tìm kiếm các mặt hàng xuất khẩu mới, các thị trường mới và đa dạng hóa các

mặt hàng nhằm gia tăng năng lực cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu. Cụ thể bao

gồm:

Thái Lan có sự chú trọng nhất định tới các nước đang phát triển, đặc biệt là các

quốc gia thuộc các Châu lục khác nhau như: Châu Á (Asean nói riêng); Trung Đông;

Châu Phi;… Đây là các thị trường mà Thái Lan đào sâu tìm kiếm nhằm mở rộng thêm

các cơ hội mở rộng thị trường mới. Đồng thời, Thái Lan sẽ đưa thêm các biện pháp

khuyến khích xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường này.

Xây dựng lại mô hình cơ cấu tổ chức hoạt động ngoại thương, theo đó xây dựng

rõ các chức năng của các trung tâm và văn phòng đại diện của Thái Lan ở nước ngoài

nhằm theo dõi sát sao về diễn biến các thị trường cũng như các vấn đề liên quan đén

thương mại.

Thứ hai, Chính phủ Thái Lan tham gia sâu hơn nữa vào các thị trường thế giới

bằng cách ký kết thêm các Hiệp định thương mại song phương và đa phương trong

khu vực và trên thế giới. Qua đó, tăng cường tự do hóa thương mại và nâng cao khả

năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu.

Thứ ba, bên cạnh các biện pháp tự do về thương mại, Thái Lan cũng đưa ra các

biện pháp bảo hộ hàng hóa ở mức hợp lý gắn với đẩy mạnh xuất khẩu. Đối với Thái

Lan, để hàng hóa vươn ra thế giới thì trước hết cần phải chinh phục thị trường nội địa.

Do vậy, các chính sách bảo hộ luôn gắn chặt chẽ với định hướng xuất khẩu và đẩy

mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho phù hợp. Vì dụ, mức thuế thấp nhất được áp dụng

cho những mặt hàng là đầu vào phục vụ các nhu cầu về sản xuất kinh doanh. Tiếp đến

mức cao hơn sẽ áp dụng cho các sản phẩm có lợi thế so sánh rõ ràng. Và các sản phẩm

có tiềm năng xuất khẩu trong tương lai gần sẽ được bảo hộ với mức thuế cao nhất.

Thông qua đó, Thái Lan sẽ hỗ trợ cách ngành sản xuất nhưng có chọn lọc và có chính

sách hỗ trợ khác nhau giữa các ngành.

Thứ tư, phá giá mạnh đồng Baht nhằm tác động cán cân thanh toán quốc tế cũng

38

được Chính phủ Thái Lan áp dụng. Dưới áp lực về trả nợ đến hạn và thâm hụt thương

mại kéo dài, Chính phủ Thái lan đã phá giá đồng Baht khiến đông tiền này mất hơn

20% giá trị và tiếp tục giảm xuống sau đó. Tuy nhiên sự phá giá này làm và giữ ổn

định trong suốt một thời gian từ 1997-2006 đã làm tăng khả năng cạnh tranh hàng

xuất khẩu của Thái Lan nói chung, nông thủy sản nói riêng, hạn chế nhập khẩu. Kết

quả là Thái Lan giảm nhập siêu từ 9,5 tỷ USD năm 1991 xuống còn 4,624 tỷ USD

năm 1997 và thặng dư là 11,973 tỷ USD năm 2007.

Ngoài các quốc gia đã nêu trên thì còn nhiều quốc gia nữa cũng áp dụng việc sử

dụng chinh sách tỷ giá, đặc biệt là phá giá đồng tiền nhằm thúc đẩy về tăng trưởng

kinh tế. Chính sách phá giá tiền tệ để đẩy mạnh xuất khẩu chỉ nên áp dụng trong ngắn

hạn bởi nó sẽ gây ra nhiều hệ quả như gia tăng nợ nước ngoài,lạm phát, ảnh hưởng tiêu

cực đến tiêu dùng nội địa và đời sống của người dân.

1.3.4. Bài học cho Việt Nam về việc cải thiện cán cân thương mại song phương

với Trung Quốc

Ở trên, tác giá đã có xem xét các biện pháp cải thiện về cán cân thương mại của

4 quốc gia: Mỹ, Hàn Quốc và Thái Lan, và có một số bài học kinh nghiệm được rút

ra có thể áp dung cho Việt Nam như sau:

Trước hết, cần phối hợp đồng bộ giữa các chính sách kinh tế vĩ mô bao gồm hai

chính sách nòng cốt là: chính sách tỷ giá và chính sách thương mại (như chính sách

tự do hóa thương mại, chính sách tự do hóa đầu tư). Trong đó, đặc biệt là chính sách

tỷ giá hối đoái. Đây là chính sách mà có sự ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả trong nước

và quốc tế. Vì vậy, thay đổi tỷ giá cũng là điều kiện tiên quyết trong thay đổi chính

sách thương mại, đặc biệt trong điều kiện mở cửa của nền kinh tế như hiện nay. Trong

sự phối hợp với các chính sách khác của nền kinh tế, Việt Nam cần mức điều chỉnh

phù hợp theo hướng thay đổi tỷ giá nhưng không mang tính chất cứng nhắc mà phải

phù hợp, linh hoạt với các giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế. Để đánh

giá một chính sách tỷ giá hối đoái được coi là phù hợp thì cần bao gồm các yếu tố sau

đây:

+ Lựa chọn thời điểm phù hợp để phá giá đồng nội tệ với điều kiện, hoàn cảnh

cụ thể của từng thời kỳ kinh tế Việt Nam. Thành công trong việc phá giá tiền tệ sẽ

được thể hiện rõ nét ở thời điểm phá giá và mức độ điều về chỉnh tỷ giá hối đoái.

39

Trong đó, Trung Quốc là một một ví dụ điển hình đã áp dụng chính sách điều hành

tỷ giá một cách linh hoạt và đạt được thành công trên thế giới. Nước này đã đạt được

sự ổn định về giá cả trong nước với sự nhạy bén của các công cụ trong chính sách tỷ

giá, quốc gia này đã. Đồng thời, Trung Quốc đã cân bằng về tài chính tiền tệ với bên

ngoài. Trong khi các chính sách về kinh tế khác như chính sách tiền tệ bị vô hiệu hóa

để giảm lạm phát, thì các chính sách tỷ giá là bước đệm nhằm đạt được mục tiêu là

đẩy mạnh xuất khẩu. Tuy nhiên, Việt Nam có điều kiện và xuất phát điểm khác với

Trung Quốc. Do đó Việt Nam cần học hỏi và áp dụng linh hoạt theo hoàn cảnh của

riêng mình để điều chỉnh tỷ giá phù hợp. Ở thời điểm hiện tại, Việt Nam là nước xuất

khẩu dựa vào nhập khẩu trong khi Trung Quốc lại xuất khẩu chủ động nguồn nguyên

vật liệu đầu vào nên sự linh hoạt cần thực hiện một cách khéo léo hơn bao giờ hết.

+ Cần duy trì chính sách tỷ giá phù hợp với mục tiêu phát triển theo định hướng

nhằm nâng cao hơn nữa về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam. Việc cung

ứng ngoại tệ phải được duy trì một cách thường xuyên và liên tục, đảm bảo cho sự

điều hành thành công về chính sách tỷ giá. Với mục tiêu hỗ trợ tốt nhất cho xuất khẩu

thì chính sách tỷ giá là giải pháp quan trọng. Gia tăng xuất khẩu sẽ gia tăng thu ngoại

tệ từ nước ngoài, từ đó cái thiện cán cân thanh toán quốc tế cũng như tăng dự trữ

ngoại tệ trong nước hướng tới sự bền vững trong phát triển kinh tế.

Ngoài ra, Việt Nam không thể vận dụng giống hết các biện pháp mà các nước

đi trước đã thành công do sự khác biệt về vị trí địa lý, trình độ và năng lực của nền

kinh tế nước ta,. Điều này xuất phát từ nội lực của Việt Nam còn nhiều hạn chế. Trong

những năm qua, xuất khẩu của Việt Nam vẫn chủ yếu dựa vào nhập khẩu các nguyên

liệu đầu vào từ chính Trung Quốc. Do đó nếu phá giá tiền tệ thì nó sẽ tác động ngay

đến nhập khẩu và làm gia tăng các chi phí đầu vào. Kéo theo đó là giá hàng hóa xuất

khẩu bắt buộc phải tăng. Như vậy, vô hình chung sẽ làm giảm tính cạnh tranh của

hàng xuất khẩu Việt Nam trên thị trường thế giới mà trước tiên là so với Trung Quốc.

Vì vậy, ưu tiên chú trọng phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam là ưu

tiên hàng đầu nhằm tự chủ trong sản xuất xuất khẩu và tránh bị lệ thuộc nhiều vào thị

trường bên ngoài như hiện nay.

Trong Chương tiếp theo, tác giả sẽ phân tích về thực trạng thâm hụt thương mại

giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trong đó, giai đoạn giai đoạn 2015-2019 là giai đoạn

40

chính mà tác giả tìm hiểu. Thông qua thực trạng về thâm hụt thương mại của giai

đoạn này, tác giả tìm hiểu nguyên nhân của tình trạng thâm hụt. Đồng thời có sự so

sánh với các nước láng giềng của Việt Nam như Lào, Campuchia. Từ đó đánh giá về

mức độ thâm hụt thương mại của Việt Nam trong quan hệ song phương với Trung

Quốc.

41

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THÂM HỤT CÁN CÂN THƯƠNG MẠI VỀ

HẦNG HÓA GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC

2.1. Lịch sử hình thành và phát triển mối quan hệ thương mại Việt Nam-Trung

Quốc

2.1.1. Khái quát về mối quan hệ thương mại truyền thống giữa hai quốc gia

Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, có mối quan hệ hữu nghị

truyền thống lâu đời. Trước khi hình thành quan hệ thương mại giữa hai quốc gia,

Việt Nam và Trung Quốc vốn đã hiện hữu mối quan hệ địa lý, chính trị từ rất lâu. Hai

nước đã có mối liên hệ địa chính trị đầu tiên ngay từ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên

giữa miền Trung nguyên của Trung Quốc và châu thổ Sông Hồng của Việt Nam. Mỗi

quan hệ này được thiết lập bởi quan hệ Hán-Nam Việt cho đến thời điểm Ngô Quyền

thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng (năm 938 sau Công nguyên). (Vũ Hồng

Lâm, Tạp chí nghiên cứu và thảo luận, số 2, tháng 7/2004). Từ năm 1010 đến năm

1400, dưới thời Lý- Trần, quan hệ giao lưu buôn bán hàng hóa giữa Việt Nam và

Trung Quốc khá nhộn nhịp. Các thương nhân Trung Quốc sang Việt Nam trao đổi

mua bán hàng hóa. Đồng thời các thương nhân Việt Nam cũng đã đem nhiều nông,

lâm, hải sản của nước mình sang bán ở Trung Quốc và mua về nhiều hàng hóa khác

như: lụa gấp, vải, giấy, bút và các hàng hóa tiêu dùng khác. Mặc dù, các mặt hàng đó

cung có sản xuất được ở Việt Nam nhưng vẫn còn thua kém hàng Trung Quốc về

mẫu mã và chủng loại.

Vào nửa đầu thế kỷ XIX, mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung

Quốc ngày phát triển mạnh thông qua cả 2 hình thức: đường bộ và đường biển. Bắt

đầu từ năm 1950, Việt Nam và Trung Quốc đã chính thức thiết lập mối quan hệ ngoại

giao, mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ cũng như buôn bán giữa hai nước. Đã có

nhiều văn bản được ký kết giữa hai nhà nước với mục đích tạo điều kiện trao đổi hàng

hóa giữa đôi bên. Năm 1955, Việt Nam và Trung Quốc ký Nghị định Thư buôn bán

tiểu ngạch biên giới. Năm 1957, hai bên tiếp tục ký Nghị định thư trao đổi hàng hóa

qua biên giới Việt Trung. Trong vòng 6 năm, giai đoạn từ 1954 đến 1960, kim ngạch

về buôn bán song phương đã tăng gấp 34 lần.

42

Năm 1976 đến năm 1990, Quân đội Trung Quốc vào các tỉnh dọc biên giới phía

Bắc Việt Nam từ tháng 02-1979 và kéo dài trong suốt hơn 10 năm khiến quan hệ Việt

Nam - Trung Quốc chuyển sang thời kỳ căng thẳng trong giai đoạn này. Cuộc chiến

đã gây tổn thất đối với cả hai quốc gia, đặc biệt là nhân dân sống dọc biên giới. Trong

thời kỳ này, quan hệ thương mại song phương giữa hai nước bị gián đoạn.

Quan hệ Việt Nam- Trung Quốc chính thức được bình thường hóa vào cuối năm

1991 với việc hai bên cam kết “khép lại quá khứ, hướng tới tương lại” tại cuộc gặp

cấp cao hai nước ở Thành Đô (Trung Quốc). Sau khi bình thường hóa quan hệ, Việt

Nam và Trung Quốc đã nhanh chóng nối lại quan hệ trên nhiều lĩnh vực: Kinh tế,

Văn hóa giáo dục, Chính Trị và An ninh Quốc phòng. Trong đó, phải kể để bước tiến

lớn nhất trong quan hệ hợp tác về kinh tế giữa hai nước. Kim ngạch về thương mại

của Việt Nam và Trung đã ta ưng hơn 1.800 lần từ mức 32 triệu USD vào năm 1991

lên gần 117 tỷ USD vào năm 2019. Chỉ riêng trong giai đoạn 2015- 2019 thì kim

ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam – Trung Quốc đã tăng gấp đôi từ 58,5 tỷ năm

2014 lên 116,9 tỷ năm 2019.(Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam)

Nền kinh tế Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt tình trạng khan hiếm

hàng hóa trong những năm đầu thực hiện đổi mới. Trong khi đó, Trung Quốc đã thực

hiện việc mở cửa nền kinh tế và có sự phát triển kinh tế hàng hóa sớm hơn. Vì vậy,

nhiều hàng hóa của Trung Quốc như: đồng hồ, quạt điện, xe đạp, đồ gốm sứ, phích

nước đã tràn về và xâm nhập thị trường Việt Nam. Điều này lại càng tạo áp lực và

gây khó khăn cho nền kinh tế sản xuất trong nước.

2.1.2. Những bước tiến trong quan hệ song phương giữa hai nước

Hai nước Việt Nam-Trung Quốc đã chính thức thiết lập mối quan hệ ngoại giao

từ năm 1950. Từ đó đến nay, dù hai nước đã trải qua nhiều thăng trầm trong lịch sử về

dịa lý, chính trị và điển hình như chiến tranh biên giới. Và gần đây nhất là căng thăng

về biển Đông như: Trung Quốc đặt giàn khoan 981 trên vùng biển thuộc lãnh thổ của

nước ta, bản đồ đường lưỡi bò do Trung Quốc sản xuất,… Tuy nhiên, xét về quan hệ

thương mại thì hai nước vẫn đạt được nhiều thỏa thuận hợp tác quan trọng cũng như

các thỏa thuận khác về khoa học công nghệ.

Trong hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 5 tại Brunei (06/11/2001) đã ghi

43

lại dấu mốc quan trọng trong sự hợp tác khu vực giữa Trung Quốc và các nước Đông

Nam Á. Các nhà lãnh đạo của ASEAN và Trung Quốc đã đồng ý thành lập khu vực

mậu dịch tự do. Đến năm 2004, Trung Quốc và ASEAN ký kết Hiệp định tự do

thương mại và có hiệu lực từ năm 2005. Đây là dấu mốc quan trọng cho sự phát triển

quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai nước Việt -Trung nói riêng. Theo thống kê của Trung

tâm Tổ chức thương mại thế giới (Trung tâm WTO), tính đến năm 2016 Việt nam và

Trung Quốc đã ký kết được 12 Hiệp định song phương. Trong đó đến 7 Hiệp định

hợp tác trong lĩnh vực kinh tế. Và hiệp định đầu tiên được ký kết là Hiệp định Hợp

tác kinh tế -kỹ thuật giữa chính phủ nước Việt Nam và Chính phủ nước Trung Quốc

ký vào ngày 02/12/1992. Bên cạnh đó, nhằm đáp ứng cho các nhu cầu phát triển kinh

tế của Việt Nam, Trung Quốc đã giành cho Việt Nam khoản tín dụng trị giá 80 triệu

Nhân dân tệ không lấy lãi nhằm sử dụng cho các công trình, dự án, hạng mục hợp tác

mà hai nước đã thỏa thuận. Khoản tiền dụng này sẽ được Chính phủ Việt Nam thanh

toán dần bằng chính hàng hóa xuất khẩu sang Trung Quốc hoặc bằng ngoại tệ khác

có thể chuyển đổi.

Chính phủ hai nước ký kết Thỏa thuận thành lập Ủy ban hợp tác kinh tế thương

mại Việt Trung vào năm 1994. Trong đó, nhiệm vụ chính của Ủy ban này là thúc đẩy

cho sự phát triển về kinh tế thương mại giữa hai nước.

Ngày 19/10/1998, Hai nước tiếp tục ký kết Hiệp định Việt Nam - Trung Hoa về

Mua bán hàng hóa ở vùng biên giới nhằm tăng cường quan hệ hữu nghị láng giềng

giữa hai nước và thúc đẩy hợp tác thương mại ở vùng biên giới giữa hai nước trên cơ

sở bình đẳng, cùng có lợi. Bên cạnh đó, mỗi nước sẽ tạo một hành lang pháp lý đối

với hoạt động thương mại quanh biên giới nhằm kiểm soát các mặt hàng xuất nhập

khẩu của nước mình, đồng thời hạn chế các mặt hàng cấm xuất khẩu tùy thuộc vào

tình hình của mỗi nước. Hai nước cũng đã có thỏa thuận về mở các “chợ biên giới”

năm ở sáu tỉnh gồm: Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu

của Việt Nam và hai tỉnh Vân Nam, Quảng Tây của Trung Quốc. Với mục tiêu nhằm

khuyến khích thúc đẩy các hoạt động mua bán hàng hóa ở vùng biên giới phát triển

một cách lành mạnh, liên tục, ổn định và có biện pháp hữu hiệu tăng cường phối hợp

chống buôn lậu gian lận thương mại.

Và gần đây nhất, hai nước đã tiến hành ký kết Hiệp định Thương mại Biên giới

44

Việt nam-Trung Quốc vào ngày 12/09/2016 thay thế Hiệp định về Mua bán Hàng hóa

ở vùng biên giới năm 1998. Hiệp định mới sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động thương

mại biên giới song phương và tăng cường quản lý kiếm soát về chất lượng hàng hóa

đảm bảo sự phát triển lạnh mạnh và ổn định.

Ngoài các Hiệp định song phương trong các lĩnh vực cụ thể mà hai bên ký kết

riêng, hai nước còn hợp tác sâu rộng hơn nữa về lĩnh vực thương mại quốc tế thông

qua nhiều Hiệp định ký kết đa phương khác.

Tổng kim ngạch thương mại giữa hai nước ngày càng cải thiện đã minh chứng

cho hiệu quả mà các Hiệp định thương mại song phương giữa hai nước mang lại. Nếu

như năm 1995, tổng kim ngach song phương của hai nước chỉ đạt 691,6 triêu USD,

thì các năm sau đó liên tục tăng. Sau 5 năm, tổng kim ngạch thương mại hai chiều đã

tăng gần 4,2 lần đạt mức 2.937,50 triệu USD. Đến năm 2010, con số này đã tăng hơn

40 lần đạt 27.946,50 triệu USD. Và đến năm 2019, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu

giữa Việt Nam và Trung Quốc đã đạt 117 tỷ USD. Nhìn vào biểu đồ dưới đây, ta dễ

dàng nhận thấy giai đoạn 1995-2005, tổng kim ngạch thương mại hai chiều của Việt

Nam và Trung Quốc tăng chậm không đáng kể. Tuy nhiên, từ sau khi Trung Quốc và

Asean ký kết Hiệp định khung về hợp tác toàn diện thì tổng kim ngạch thương mại

hai chiều giữa Việt Nam và Trung Quốc tăng lên nhanh chóng. Điều này xuất phát

chủ yếu là do nhập khẩu gia tăng tăng, và tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu nhanh

hơn tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu.

Biểu đồ 2.1: Kim ngạch thương mại Việt Nam-Trung Quốc (1995 -2019)

140 .00

140

120 .00

120

100 .00

100

80.0 0

80

60.0 0

60

40.0 0

40

20.0 0

20

-

0

Đơn vị: Tỷ USD

Trị giá xuất khẩu hàng hóa

Trị giá nhập khẩu hàng hóa

Tổng kim ngạch XNK

Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam

45

Qua biểu đồ 2.1, có thể thấy, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam – Trung

Quốc tăng hàng năm và đều đặn từ năm 1995. Tuy nhiên, trị giá xuất khẩu hàng hóa

của Việt Nam sang Trung Quốc vẫn thấp hơn nhiều so với con số của trị hàng nhập

khẩu từ Trung Quốc vào Việt Nam. Như vậy, Việt Nam vẫn nhập siêu từ Trung Quốc

trong 25 năm trở lại đây. Đây là một khoảng thời gian không phải là ngắn. Tuy nhiên,

những năm trở lại đây thì tỷ trọng của hàng xuất khẩu của Việt Nam có xu hướng gia

tăng trong tổng kim ngạch. Cụ thể, ở năm 2015 thì tỷ trọng giá trị hàng xuất khẩu của

Việt Nam chỉ ở mức 25% trong tổng kim ngạch thì sang năm 2019, con số này đã ở

mức 35-38%. Nếu tính theo tốc độ tăng trưởng bình quân của giai đoạn này thì tốc

độ tăng trưởng của giá trị hàng xuất nhẩu ở mức 25,7% gấp đôi giá trị hàng nhập khẩu

chỉ ở mức 11,1%.

Trung Quốc cũng là một quốc gia đầu tư mạnh vào Việt Nam. Dự án đầu tư FDI

đầu tiên mà Trung Quốc tham gia tại Việt Nam là vào tháng 11/1991. Tiếp đó, FDI

của Trung Quốc đổ vào Việt Nam liên tục tăng cả về số vốn, số lượng dự án và mở

rộng lĩnh vực đầu tư, địa điểm đầu tư được đánh dấu bởi hai dấu mốc quan trọng là

Trung Quốc gia nhập WTO (2001) và Hiệp định khung về Hợp tác toàn diện ASEAN

–Trung Quốc (2002) . Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2004, tổng số dự án

FDI thực hiện là 391 dự án với tổng số vốn đăng ký là 774.90 triệu USD. Hai năm

tiếp theo 2005,2006 số dự án FDI vào Việt Nam sụt giảm mạnh xuống còn 40 dự án

(2005) với tổng số vốn đăng ký 65.8 triệu USD và 77 dự án (2006) với tổng vốn đăng

ký đạt 401.30 triệu USD. Năm 2007 Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức Thương

mại thế giới WTO, FDI của Trung Quốc trở lại với số dự án là 550 và liên tục tăng

từ đó đến nay. Tính đến năm 2015, Trung Quốc là quốc gia đứng thứ 5 trong số 34

quốc gia đầu tư FDI tại Việt Nam. Tổng số số dự án mà Trung Quốc thực hiện là

1.296 với tổng số vốn đăng ký 10.174,2 triệu USD. Năm 2019 , con số này tiếp tục

tăng đạt 2.826 dự án với tổng số vốn đăng ký 16.284,4 triệu USD. Như vậy, trong 4

năm 2015- 2019, Trung Quốc đã tăng trưởng 118% về dự án đầu tư và 60% về số vốn

đầu tư. (Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam)

2.1.3. Chính sách thương mại của mỗi quốc gia

Một trong ba nhóm chính sách thương mại nói chung của quốc gia về vơ bản

46

gồm: Chính sách thương mại nội địa; Chính sách thương mại xuất nhập khẩu và Chính

sách hội nhập kinh tế quốc tế. Với mỗi vai trò khác nhau nhưng bổ trợ cho nhau thì

các chính sách này là các chính sách cơ bản nhằm tạo nên sự phát triển bền vững của

quốc gia đó. Và để phù hợp với trình độ phát triển kinh tế cũng như tình hình thực

tiễn thì các chính sách này cần phải sử dụng linh hoạt nhằm đạt được các mục tiêu

phát triển kinh tế của giai đoạn đó.

2.1.3.1. Chính sách thương mại của Trung Quốc

Trước khi thực hiện cải cách mở cửa (1982), về cơ bản, ngoại thương của Trung

Quốc do các công ty chuyên ngành về ngoại thương của Trung Ương quản lý. Tuy

nhiên, thể chế kinh doanh ngoại thương kiểu tập trung cao dộ đã dần dần bị xóa bỏ

trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường. Năm 1984 đánh dấu thể chế ngoại

thương của Trung Quốc chính thức bước vào cải cách. Từ đó, tiến tới xóa bỏ độc

quyền về quản lý ngoại thương và xóa bỏ về tình trạng bao cấp trong kinh doanh xuất

nhập khẩu. Các đơn vị ngoại thương được tự do hơn trong kinh doanh và đóng vai

trò chủ thể của thị trường đối với cơ chế mới. Đặc biệt, cơ chế quản lý sẽ phát huy

tính năng chủ động, tự chủ và tự chịu trách nhiệm về hiệu quả trong sản xuất kinh

doanh của các tổ chức kinh tế.

Về xuất khẩu, Cơ chế định giá xuất nhập khẩu được áp dụng linh hoạt, thích

ứng với sự thay đổi của quan hệ cung cầu và hệ thống giá cả trên thị trường quốc tế.

Trung Quốc đã áp dụng tỷ giá hối đoái thống nhất dựa theo tỷ giá giao dịch trên thị

trường liên ngân hàng từ năm 1994. Cũng trong năm đó, Trung Quốc cũng thông qua

Luật Ngoại thương.

Về nhập khẩu, Trung Quốc đã thay đổi chính sách nhập khẩu thiết bị kỹ thuật.

Chỉ những thiết bị đã được chọn lọc nhằm phục vụ cho các công trình lớn, cá biệt

mới được Trung Quốc nhập khẩu trong thời điểm này. Sự ưu tiên đối với nhập khẩu

hàng hóa được Trung Quốc giành cho các kỹ thuật và công nghệ để cải tạo các xí

nghiệp cũ đã lạc hậu. Với quan điểm như trên, Trung Quốc đã nhập công nghệ và kỹ

thuật của trên nước, chủ yếu là của các nước tư bản phát triển như CHLB Đức, Anh,

Mỹ, Pháp…

Về hợp tác quốc tế, Trung Quốc chủ động và tích cực tham gia vào các tổ chức

47

thương mại quốc tế. Năm 1991, Trung Quốc tham gia APEC. Việc này góp phần thúc

đẩy Trung Quốc hội nhập kinh tế vào khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Việc bình

thường hóa quan hệ Trung –Mỹ và ký kết Hiệp ước thương mại Trung –Mỹ (1999)

đã tạo tiền để để Trung Quốc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO năm 2001

sau 16 năm đàm phán. Sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc đã tiến hành rà soát 2300

Luật, quy tắc, và quy định của chính phủ trước đó. Đối với các văn bản nào không

phù hợp với quy tắc của WTO và cam kết khi gia nhập WTO của Trung Quốc đều bị

bãi bỏ hoặc sửa đổi.

Giai đoạn đầu thế kỷ 21 nhằm gia tăng sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu

và cải thiện đời sống cho hơn 1,4 tỷ dân số của nước này, Trung Quốc đã định hướng

về thương mại quốc tế của nước mình theo hướng hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân.

Trong những năm gần đây, lợi thế về đinh hương xuất khẩu càng yếu thế do sự

gia tăng về chi phí nhân công và biến động giá nguồn nguyên liệu trong nước, năng

lượng và các yếu tố sản xuất khác. Với sự gia tăng chi phí nhân công và biến động

giá nguồn nguyên liệu trong nước, năng lượng và các yếu tố sản xuất khác, lợi thế chi

phí thấp của các ngành sản xuất định hướng xuất khẩu càng yếu thế. Trước tình hình

mới, Trung Quốc đã đặt ra mục tiêu về chiến lược chuyển hướng mô hình thương mại

quốc tế từ phát triển các yếu tố bên trong sang phát triển các yếu tố bên ngoài. Trong

giai đoạn 2006-2010, Sự điều chỉnh về các chính sách thuế xuất nhập khẩu và thực

hiện các chiến lược khuyến khích thương mại quốc tế đã được Chính phủ Trung Quốc

thực hiện. Trong đó, các vấn đề trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật nhằm đa dạng hóa

thị trường và ưu tiên chất lượng là vấn đề trọng tâm của sự điều chỉnh. Bên cạnh đó,

Trung Quốc đã tiến hành thêm các dự án thử nghiệm nhằm chuyển đổi và cải tiến quy

trình trao đổi thương mại quốc tế, nâng cấp dịch vụ tài chính và bảo hiểm cho các

doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp tập trung cải

tiến kỹ thuật và tối ưu về sản phẩm tạo lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu. Với những

biện pháp này, nền kinh tế Trung Quốc đã đạt được các hiệu quả tốt, được thể hiện ở

sau cuộc khủng khoảng tài chính quốc tế năm 2009. Phần lớn các doanh nghiệp xuất

nhập khẩu Trung Quốc đều đứng vững trước những khó khăn của khủng hoảng kinh

tế mang lại. Điều này đã góp phần thúc đẩy ngành ngoại thương của Trung Quốc

48

nhanh chóng phục hồi.

Trong giai đoạn 2011-2015, Trung Quốc tiếp tục nỗ lực duy trì các lợi thế cạnh

tranh trong xuất khẩu. Các định hướng nhằm tập trung về phát triển công nghệ,

thương hiệu, chất lượng cũng các dịch vụ mới với tốc độ nhanh hơn. Đồng thời, Trung

Quốc cũng đẩy mạnh việc chuyển đổi trong lĩnh vực công nghiệp và nâng cấp, mở

rộng các chuỗi cung ứng thương mại gia tăng giá trị cũng như năng lực cạnh tranh và

giá trị gia tăng của các doanh nghiệp và sản phẩm. Bên cạnh đó, sự mở rộng các dịch

vụ thương mại ở quy mô quốc tế và đặc biệt đẩy mạnh dịch vụ cung ứng nhân lực

cũng được thực hiện. Với các định hướng như trên, Chính phủ Trung Quốc Đã ban

hành thêm các chính sách trong nhiều lĩnh vực như tài chính, thuế quan, ngân hàng,

bảo hiểm, quản lý ngoại hối, thủ tục hải quan và vận tải.

Như vậy có thể thấy, Chính phủ Trung Quốc đã sớm nhìn nhận và đánh giá lợi

thế của quốc gia này. Từ đó, Trung Quốc đã đưa những cơ chế chính sách phù hợp

với từng giai đoạn, nhằm mục tiêu phát triển kinh tế của nước này trên cơ sở định

hướng xuất khẩu. Đồng thời, tích cực tiếp thu, học hỏi và nhập khẩu các công nghệ

tiên tiến từ các nước công nghiệp hàng đầu thế giới. Để từ đó biến nó thành thế mạnh

của nền sản xuất trong nước phục vụ hàng xuất khẩu. Nhờ vậy, Trung Quốc đã từ

một nước đang phát triển và có thể nhanh chóng vươn lên trở thành nước xuất khẩu

hàng đầu trên thế giới. Theo báo cáo Thương mại thế giới, năm 2010, Trung Quốc

đứng đầu danh sách các nước xuất khẩu lớn nhất thế giới và đạt giá trị xuất khẩu đạt

gần 1,6 tỷ USD, vượt qua các cường quốc như Mỹ, Đức, Nhật Bản, và Pháp. Trong

5 năm tiếp theo, Trung Quốc đã liên tục đứng vị trí số 2 thế giới về giá trị xuất khẩu,

chỉ sau các nước thuộc khối Liên minh Châu Âu EU.

2.1.3.2. Chính sách của Việt Nam

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, đây là xu thế khách quan của nền kinh tế thế giới

đầu thập niên 80 thì hầu hết các nước trên thế giới đã có sự điều chỉnh hoặc cải cách

kinh tế ở các mức độ và hình thức khác nhau. Các làn sóng về cải cách kinh tế rộng

khắp trên thế giới vô hình chung đã tạo nên áp lực mạnh đối với nền kinh tế Việt Nam

đang còn chập chững bước vào công cuộc đổi mới. Trong báo cáo Chính trị của Ban

Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội VI đã chỉ rõ “Cùng với việc mở rộng xuất

49

khập khẩu, tranh thủ vốn viện trợ và vay dài hạn cần vận dụng nhiều hình thức đa

dạng để phát triển kinh tế đối ngoại”. Nhằm thực hiện chủ trương đó, Chính phủ Việt

Nam đã ban hành các chính sách “mở cửa” nhằm thu hút vốn đầu tư và kỹ thuật từ

nước ngoài, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại, từng bước gắn

nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới, thị trường trong nước với thị trường

quốc tế.

Về ngoại thương, cải cách ngoại thương được thực hiện theo hướng từng bước

mở cửa và hội nhập quốc tế. Chủ trương chính sách của Nhà nước tập trung đẩy mạnh

xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu, coi xuất khẩu là một trong ba chương trình

trọng điểm của chặng đường đầu tiên.

Kim ngạch ngoại thương tăng rất nhanh từ sau khi đổi mới chính sách quản lý

kinh tế. Nước ta đã có một số mặtt hàng xuất khẩu chủ lực như dầu thô, dệt may, giày

dép, gạo, thủy sản, cao su, cà phê, than đá với số lượng lớn và chất lượng các mặt

hàng ngày càng được cải thiện.

Nhà nước tiếp tục thực hiện các chính sách xóa bỏ chế độ độc quyền ngoại

thương trong giai đoạn từ 1990- 1998. Thời giai đoạn này, kim ngạch xuất nhập khẩu

có bước tăng trưởng đáng kể và có sự thu hẹp dần khoảng cách xuất- nhập. Mối quan

hệ kinh tế nước ngoài được mở rộng đã hình thành thị trường thống nhất trong cả

nước gắn liền với thị trường thế giới. Nền kinh tế từ chỗ phải bù lỗ thì ngân sách nhà

nước đã bắt đầu có khoản thu đáng kể từ thuế xuất nhập khẩu. Quốc hội khoá IX đã

thông qua Luật Thương mại vào ngày 10/5/1997; ngày 23/5/1997, Chủ tịch nước ký

Lệnh số 58L/CTN công bố ban hành, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1998. Sau

đó đó, Chính phủ ra Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 quy định chi tiết

về thi hành Luật Thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý

mua, bán hàng hoá với nước ngoài. Có thể nói, đây là một bước tiến nhằm tiếp tục

hoàn thiện cơ chế, tạo hành lang pháp lý ổn định cho hoạt động xuất nhập khẩu.

Năm 1997 đã xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á. Trước tình hình

đó, để tránh việc nhập khẩu quá mức bình thường hàng hoá rẻ của các nước, bảo hộ

sản xuất trong nước, hạn chế mức nhập siêu, Chính phủ chủ trương hạn chế nhập

khẩu những mặt hàng trong nước đã sản xuất đáp ứng đủ nhu cầu. Nghị định

50

57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ đã thúc đẩy hoạt động xuất nhập

khẩu trong giai đoạn 1998 – 2001.

Giai đoạn 2001-2010, điều kiện trình độ phát triển kinh tế, công nghệ nước ta

còn thấp, chính sách nhập khẩu đã tạo thuận lợi để Việt Nam tiếp cận công nghệ tiên

tiến, giải quyết sự thiếu hụt về nguyên, nhiên liệu, máy móc thiết bị. Nhập khẩu đã

góp phần thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu, cải thiện trình độ công nghệ của nền kinh

tế, ổn định đời sống nhân dân. Người tiêu dùng được tiếp cận hàng hóa và dịch vụ rẻ

hơn và tốt hơn. Tuy nhiên, chính sách phát triển xuất khẩu của Chính phủ Việt nam

trong giai đoạn này đang còn quá chú trọng đến chỉ tiêu về số lượng và chưa thật sự

quan tâm đến chất lượng cũng như hiệu quả xuất khẩu. Ngoài ra, hoạt động xuất khẩu

chưa khai thác một cách hiệu quả lợi thế cạnh tranh về xuất khẩu như dựa vào công

nghệ, trình độ lao động, quản lý… để tạo ra các nhóm hàng xuất khẩu có khả năng

cạnh tranh cao, có hàm lượng khoa học, công nghệ cao và có khả năng tham gia vào

khâu tạo ra giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Trong giai đoạn 2011-2020, theo Quyết định số 2471/QĐ-TTg về Phê duyệt

Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011-2020, định hướng đến năm 2030

đã nêu rõ:

Về mục tiêu:

- Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đến năm 2020 tăng gấp trên 3 lần năm

2010, bình quân đầu người đạt trên 2.000 USD, cán cân thương mại được cân bằng.

- Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa bình quân 11 – 12%/năm trong thời

kỳ 2011 – 2020, trong đó giai đoạn 2011 – 2015 tăng trưởng bình quân 12%/năm;

giai đoạn 2016 – 2020 tăng trưởng bình quân 11%/năm. Duy trì tốc độ tăng trưởng

khoảng 10% thời kỳ 2021 – 2030.

- Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu thấp hơn tăng trưởng xuất khẩu; tốc độ tăng

trưởng nhập khẩu hàng hóa bình quân 10 – 11%/năm trong thời kỳ 2011 – 2020, trong

đó giai đoạn 2011 – 2015 tăng trưởng bình quân dưới 11%/năm; giai đoạn 2016 –

2020 tăng trưởng bình quân dưới 10%/năm.

- Giảm dần thâm hụt thương mại, kiểm soát nhập siêu ở mức dưới 10% kim

ngạch xuất khẩu vào năm 2015 và tiến tới cân bằng cán cân thương mại vào năm

51

2020; thặng dư thương mại thời kỳ 2021 – 2030.

Về xuất khẩu:

- Tập trung phát triển xuất khẩu những mặt hàng có lợi thế về điều kiện tự nhiên

và lao động rẻ như thuỷ sản, nông sản, dệt may, điện tử, các sản phẩm chế tác công

nghệ trung bình. đồng thời chuẩn bị điều kiện để gia tăng tỷ trọng xuất khẩu hàng chế

biến.

- Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng giảm xuất khẩu hàng thô, nông

sản, thuỷ sản, tăng tỷ trọng hàng công nghiệp, đặc biệt là hàng công nghiệp chế tạo

như điện tử, viễn thông, vật liệu xây dựng, đồ gỗ…

- Không khuyến khích phát triển sản xuất, xuất khẩu các mặt hàng thu hút nhiều

lao động rẻ, ô nhiễm môi trường, giá trị gia tăng thấp. Chú trọng phát triển các mặt

hàng xuất khẩu thân thiện môi trường, hạn chế sử dụng năng lượng và tài nguyên.

- Tập trung phát triển thị trường cho các sản phẩm có sức cạnh tranh lớn, có giá

trị gia tăng cao hoặc các nhóm sản phẩm có tỷ trọng kim ngạch lớn. Trước hết là khai

thác cơ hội mở cửa thị trường từ các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế để đẩy mạnh

xuất khẩu và các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc,

ASEAN. Khai thác các thị trường tiềm năng như Nga, Đông Âu, châu Phi và châu

Mỹ La tinh.

Về nhập khẩu:

- Khuyến khích nhập khẩu công nghệ cao, công nghệ tiên tiến, công nghệ nguồn

trên cơ sở khai thác lợi thế từ các hiệp định thương mại tự do với các nước có nền

công nghiệp phát triển.

- Hạn chế nhập khẩu các loại hàng hóa sản xuất trong nước, nhập khẩu hàng xa

xỉ, có chính sách phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ và các ngành công nghiệp thay

thế nhập khẩu.

Áp dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu để bảo vệ sản xuất trong nước, hạn

chế ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến sức khỏe, thông qua việc xây dựng các

biện pháp phi thuế quan phù hợp với các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, các biện

pháp tự vệ khẩn cấp, áp thuế chống bán phá giá, các tiêu chuẩn kỹ thuật, các biện

pháp kiểm dịch động thực vật.

52

- Ngăn chặn việc nhập lậu hàng từ các nước ASEAN và Trung Quốc để bảo vệ

hàng sản xuất trong nước. Tranh thủ mở cửa thị trường trong các FTA mới để đa dạng

hóa thị trường nhập khẩu và nhập khẩu công nghệ nguồn

Khi nghiên cứu hai nước về các chính sách thương mại xuất nhập khẩu trong

từng giai đoạn lịch sử khác nhau, tác giả thấy răng, cả Trung Quốc và Việt Nam đều

có những chính sách riêng định hướng phát triển xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu các

mặt hàng có thể sản xuất được trong nước và khuyến khích nhập khẩu công nghệ kỹ

thuật cao của các nước tiên tiến. Điều này nhằm nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật

của nước sở tại. Tuy nhiên, thực tế là các chính sách thương mại quốc tế của Trung

Quốc luôn đi trước Việt Nam và đã đón nhận những thành công trước khi Việt Nam

áp dụng những chính sách này. Điều này sẽ đưa trình độ phát triển về khoa học kỹ

thuật, các công nghệ tân tiến được áp dụng của Trung Quốc đã vượt xa Việt Nam.

Nhưng nếu nhìn vào các điều kiện là tiền đề cho sự phát triển thương mại quốc tế như

hiện nay của mỗi quốc gia thì rõ ràng Trung Quốc có nhiều thuận lợi hơn Việt Nam

bởi nguồn tài nguyên của nước này rất phong phú và dồi tào nguồn nhân lực. Do đó,

khi Trung Quốc tiến hành mở cửa nền kinh tế đã dễ dàng thu hút được các doanh

nghiệp đầu tư nước ngoài FDI để đặt các nhà máy sản xuất gia công tại đây. Chỉ trong

thời gian ngắn, Trung Quốc đã trờ thành “công xưởng” của thế giới như ngày nay.

Điều này đã tạo điều kiện cho Trung Quốc có thể sớm tiếp cận với các nền sản xuất

tiên tiến và hiện đại trên thế giới. Từ đó, phát triển thêm các hoạt động thương mại

quốc tế thông qua xuất khẩu hàng hóa thành phẩm và nhập khẩu các máy móc, công

nghệ nhằm phục vụ sản xuất trong nước.

2.2. Thực trạng quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc giai đoạn

2015-2019

Nhằm đánh giá sâu hơn về quan hệ thương mại song phương giữa Việt nam-

Trung Quốc, đặc biệt là thực trạng về tình hình thâm hụt thương mại giữa hai quốc

gia trong thời gian qua nhất là trong năm 2015 và 2019. Đây là hai năm mà thâm hụt

thương mại của Việt Nam trong quan hệ thương mại ở mức cao nhất trong 20 năm

qua. Tình trạng Việt Nam liên tiếp thâm hụt thương mại với Trung Quốc, tác giả sẽ

phân tích kỹ hơn về hoạt động xuất nhập khẩu của từng nước trong quan hệ thương

53

mại trong phương. Đồng thời sẽ có so sánh trong các hệ quy chiếu với các thị trường

lớn của từng nước trong một giai đoạn 2015-2019 để làm rõ hơn vấn đề này.

2.2.1 Các hình thức xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Trung Quốc

Trong xuất khẩu hàng hóa, có 2 trường hợp hàng hóa xuất nhập khẩu phổ biến

gồm: hàng hóa mậu dịch và hàng hóa phi mậu dịch.

Hàng mậu dịch có hợp đồng mua bán, số lương xuất nhập khẩu không giới hạn.

Doanh nghiệp nhập về mục đích sản xuất kinh doanh và phải chịu trách nhiệm trước

pháp luật về tính chất hàng hóa,giao dịch được xác nhận sẽ xuất hóa đơn, đóng các

lại thuế. Hàng mậu dịch được công nhận là hàng xuất, nhập chính ngạch không phải

đi “tiểu ngạch” – mua bán không xuất hóa đơn.

Hàng phi mậu dịch là hàng hóa không phải thanh toán có tính chất hàng hóa

không phải dùng nhằm mục đích thương mại gồm:

- Quà biếu, tặng của tổ chức, cá nhân ở nước ngoài gửi cho tổ chức, cá nhân ở

Việt Nam; của tổ chức, cá nhân ở Việt Nam gửi cho tổ chức, cá nhân ở nước ngoài.

- Hàng hóa của cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế tại Việt Nam và

những người làm việc tại các cơ quan, tổ chức trên;

- Hàng viện trợ nhân đạo;

- Hàng hóa tạm nhập khẩu của những cá nhân được Nhà nước Việt Nam cho

miễn thuế;

- Hàng mẫu không thanh toán;

- Dụng cụ nghề nghiệp, phương tiện làm việc của người xuất nhập cảnh;

- Tài sản di chuyển của tổ chức, cá nhân;

- Hành lý cá nhân của người nhập cảnh gửi theo vận tải đơn, hàng hóa mang

theo người của người nhập cảnh vượt tiêu chuẩn miễn thuế;

- Hàng phi mậu khác.

Với chi phí vận chuyển thấp và thủ tục thông quan đơn giản, dễ dàng nên đa số

các tiểu thương, thương lái của Việt Nam đều chọn con đường xuất khẩu phi mậu

dịch thông qua tiểu ngạch của hàng hóa Việt Nam vào Trung Quốc. Chỉ cần một tờ

khai tiểu ngạch, chịu phí biên mậu là có thể xuất được hàng, không cần hóa đơn,

chứng từ thanh toán, hợp đồng ngoại thương như qua đường chính ngạch. Nhưng,

54

xuất nhập khẩu tiểu ngạch thường không có tính ổn định, giá trị mỗi giao dịch

nhỏ…Các mặt hàng thường buôn bán qua đường tiểu ngạch gồm: nông sản, các mặt

hàng tiêu dùng như quần áo, vải vóc,…

Luật pháp Việt Nam quy định, dù thương lái có tham gia vào xuất khẩu hàng

hóa thông qua tiểu ngạch, các cá nhân vẫn phải đóng thuế và chịu sự kiểm tra nghiêm

ngặt về chất lượng hàng hóa, kiểm dịch động thực vật, an toàn vệ sinh thực phẩm và

tiêu chuẩn… bởi các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành trước khi thông quan.

Thực tế, hiện nay nhiều doanh nghiệp, cá nhân cũng lợi dụng xuất nhập khẩu tiểu

ngạch để tránh thuế. Họ có thể thuê mướn nhiều người dân ở vùng biên giới thực hiện

việc mua bán để không phải nộp thuế nhiều. Tuy nhiên, hành vi này cũng có thể bị

bắt và liệt vào trốn thuế.

Mặc dù kim ngạch xuất khẩu nông sản, hoa quả chiếm tỷ trọng lớn nhưng nhiều

năm qua hoạt động giao thương chủ yếu diễn ra bằng loại hình giao dịch tự do, mua

bán trên sự tin tưởng lẫn nhau giữa các đối tác của Việt Nam và Trung Quốc (mua

bán trao đổi hàng hóa cư dân biên giới theo loại hình tiểu ngạch), chỉ có ít doanh

nghiệp, tư thương ký kết Hợp đồng ngoại thương (HĐNT). Việc mua bán hàng hóa

tự do, không có HĐNT, đã dẫn đến nhiều rủi ro, tiềm ẩn thiệt hại cho doanh nghiệp,

tư thương trong quá trình xuất khẩu hàng nông sản qua biên giới, đặc biệt là đối với

người bán.

Thực tế cho thấy, do mua bán tiểu ngạch nên nhiều doanh nghiệp, tư thương

Việt Nam đã gặp rủi ro trong giao dịch mua bán trao đổi hàng hóa như: rủi ro trong

thanh toán, chậm giao nhận hàng, bị ép giá sản phẩm; bị trừ tiền, trả lại hàng do mẫu

mã, chất lượng không bảo đảm, không đáp ứng đúng yêu cầu…. Trong số các doanh

nghiệp, tư thương xuất nhập khẩu nông sản, trái cây thì có tới 90% doanh nghiệp, tư

thương có thói quen giao dịch tự do "thuận mua, vừa bán", tại chợ biên giới mà không

thực hiện ký kết HĐNT với đối tác Trung Quốc.

2.2.2. Xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc

2.2.2.1 Kim ngạch xuất khẩu qua các năm 2015-2019

Giai đoạn 2010- 2015 là giai đoạn chịu ảnh hưởng nghiêm trọng từ suy thoái về

kinh tế toàn cầu mà xuất phát từ cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ của Mỹ vào năm

55

2008. Tuy Việt Nam có ảnh hưởng nhất định do cuộc khủng hoảng gây ra, nhưng so

với một số nước khác trong khu vực thì sự ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế Việt

Nam là không nhiều. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, Việt Nam vẫn đạt được tốc

độ tăng trưởng GDP trung bình giai đoạn này sấp xỉ 6%, trong đó năm 2015 đạt mức

tăng trưởng cao nhất là 6,68%. Bên cạnh đó, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam

trong giai đoạn này vẫn giữ được xu hướng tăng trưởng với mức tăng trưởng bình

quân đạt 18% hàng năm và cao hơn khoảng 3 lần khi so sánh với tốc độ tăng trưởng

GDP.

Bước sang giai đoạn 2015- 2019, tăng trưởng GDP tiếp tục phục hồi rõ nét sau

giai đoạn 2011-2015, duy trì được tốc độ cao, đặc biệt là trong các năm 2017-2019

(với tốc độ tăng tương ứng đạt 6,81% năm 2017; 7,08% năm 2018 và khoảng 7,1%

năm 2019). Quy mô nền kinh tế tiếp tục được mở rộng, đạt khoảng 266,5 tỷ USD,

năm 2019 bình quân đầu người đạt 2.786 USD (năm 2018 là 2.590 USD). Đáng chú

ý là lạm phát tiếp tục được kiểm soát, giảm từ 7,7% bình quân giai đoạn 2011-2015

xuống 3,1% ước bình quân giai đoạn 2016-2017, năm 2018 là 3,54%, năm 2019 là

2,79% (vượt kế hoạch đặt ra). Lạm phát cơ bản bình quân được duy trì ở mức thấp,

năm 2017 và 2018 lần lượt là 1,41%, 1,48%; năm 2019 là 2,01%. Trong đó xuất nhập

khẩu đóng vai trò quan trọng và là động lực chính để thúc đẩy nền kinh tế. Theo thống

kê của Trung tâm thương mại quốc tế ITC, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu năm 2019

đạt khoảng 518 tỷ USD tăng khoảng 3,3 lần so với năm 2010 ở mức 157 tỷ đồng. Cụ

thể:

Năm 2010, xuất khẩu cả nước đạt 72,2 tỷ USD thì đến năm 2019, con số này đã

tăng 3,66 lần vượt 264 tỷ USD (nguồn: ITC, Trademap.org, ITC) tương ứng với mức

tăng trưởng bình quân khoảng 15,5%/ năm trong 9 năm qua. Trong đó, các thị trường

có quan hệ thương mại với Việt Nam gồm: Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc

vẫn là 4 thị trường lớn nhất về nhập khẩu hàng hóa.

56

Biểu đồ 2.2: Các thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt nam (2010-2019)

Hoa Kỳ

Trung Quốc

Nhật Bản

Hàn Quốc

70

60

50

40

30

20

10

0

2 0 1 0

2 0 1 1

2 0 1 2

2 0 1 3

2 0 1 4

2 0 1 5

2 0 1 6

2 0 1 7

2 0 1 8

2 0 1 9

Đơn vị tính: Tỷ USD

Nguồn: Trademap.org, ITC

Nhìn vào Biểu đồ trên, ta thấy Mỹ vẫn là thị trường hàng đầu về tiêu thụ các

mặt hàng gia công chế biến của Việt Nam. Bên cạnh đó, các nước Trung Quốc, Nhật

Bản và Hàn Quốc có giá trị xuất khẩu là do nguồn vốn FDI từ các nước này đổ vào

Việt Nam trong giai đoạn này là rất lớn. Trong đó, hai quốc gia đi đầu về đầu tư trực

tiếp vào VIệt Nam là Hàn Quốc và Nhật Bản với tổng số vốn đăng ký lần lượt của

Hàn Quốc là khoảng 68,1 tỷ USD, của Nhật Bản là xấp xỉ 59,3 tỷ USD (Nguồn số

liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam). Tính đến năm 2019, mặc dù chỉ đứng thứ 7

về đầu tư trực tiếp nhưng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc đang

có nhiều chuyển biến với xu hướng tăng và mang tính đột biến, đặc biệt là từ năm

2016.

Năm 2015 là một năm có nhiều bất ổn đối với thị trường toàn cầu. Tăng trưởng

kinh tế của khu vực đồng Euro và Nhật Bản còn thấp, biến động giảm giá của đồng

Nhân dân tệ và tăng trưởng chậm lại của kinh tế Trung Quốc đã tác động lớn đến kinh

tế thế giới trong đó có Việt Nam. Thêm vào đó, xung đột ở một số nước Trung Đông

khiến giá dầu thô giảm mạnh kéo theo giá các sản phẩm từ dầu mỏ giảm. Giá các

nguyên vật liệu, nông sản, hàng hóa thế giới hầu hết đều chịu tác động giảm mạnh.

Tuy nhiên, trong bối cảnh đó, mức tăng trưởng về kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt

Nam vẫn tăng khoảng 8,1% so với cùng kỳ và đạt mức 162 tỷ USD. Nhưng đây lại

là mức tăng thấp nhất trong giai đoạn 2010- 2015. Và nếu xét chung thì mức tăng

trưởng này chưa ½ tốc độ tăng trưởng bình quân là 18%. Trong đó, xuất vào thị trường

57

Trung Quốc của Việt Nam đạt gần 16,6 tỷ USD và Trung Quốc vẫn tiếp tục là thị

trường tiêu thụ lớn thứ 2 của nước ta.(Nguồn niên giám thống kê hải quan và thống

kê của ITC).

Đến năm 2019, giá trị hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam vào Trung Quốc đạt

41,43 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng của giá trị hàng xuất khẩu vào thị trường này

đạt 25,6% (giai đoạn 2015- 2019) và tiếp tục đứng thứ hai về giá trị hàng hóa. Ta có

thể thấy sự gia tăng về kim ngạch xuất khẩu của Việt nam sang thị trường Trung Quốc

liên tục qua từng năm như sau:

Biểu đồ 2.3: Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam -Trung Quốc (2015-2019)

70.0 %

45

Đơn vị tính: Tỷ USD

61.2%

40

50.0 %

41.43

41.37

35

32.5%

35.39

30.0 %

30

16.9%

11.0%

25

10.0 %

0.2%

20

21.95

-10.0%

15

16.57

10

-30.0%

5

-50.0%

-

2015 2016 2017 2018 2019

Giá trị xuất khẩu Tăng trưởng hàng năm

Nguồn: Tổng cục hải quan Việt Nam

Tuy tốc độ tăng trưởng bình quân của xuất khẩu Việt Nam sang Trung Quốc đạt

25,6% giai đoạn 2015-2019 nhưng đây là con số đã đạt được phần lớn trong 3 năm

từ 2015- 2017. Cụ thể: năm 2017, giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc

đạt 35,4 tỷ USD tăng 2,1 lần tương ứng với mức tăng trưởng là 132% so với năm

2015. Sau đó, thì giá trị xuất khẩu của Việt Nam có xu hướng chậm lại. Đến năm

2019, giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc đạt 41,4 tỷ USD nhưng chỉ

tăng trương 17% so với năm 2017 và gần như không tăng trưởng so với năm 2018

chỉ ở mức 0,2%

Theo Tổng cục Hải Quan, hàng năm có hơn 3.000 doanh nghiệp cả nước thường

58

xuyên hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa qua các cửa khẩu của tỉnh, lưu lượng xe

chở hàng xuất nhập khẩu khoảng 1.500 xe/ngày; tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua

Lạng Sơn những năm gần đây đều đạt mức tăng trưởng khá, bình quân một năm kim

ngạch XNK hàng hóa qua địa bàn đạt gần 5 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu

đạt hơn 2,5 tỷ USD chủ yếu là hàng hóa hoa quả, nông sản của Việt Nam xuất khẩu

sang Trung Quốc. Hàng nông sản được xuất qua cửa khẩu Tân Thanh, Cốc Nam (Văn

Lãng); cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị, Đồng Đăng (Cao Lộc)... chiếm hơn 80%, một số

mặt hàng chủ lực có kim ngạch lớn như: thanh long, dưa hấu, xoài, mít, nhãn, vải

thiều… Cụ thể, riêng năm 2019, tổng kim ngạch Xuất nhập khẩu đạt gần 4,8 tỷ đồng,

trong đó kim ngạch xuất khẩu nông - lâm sản khoảng 2,4 tỷ USD, chiếm hơn 80%

tổng kim ngạch xuất khẩu.

2.2.2.2. Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc

Theo số liệu thống kê từ Tổng Cục Hải quan năm 2015 thì Trung Quốc vẫn giữ

vị trí đứng đầu trong quan hệ thương mại hai chiều với Việt Nam. Tổng mức lưu

chuyển ngoại thương năm 2015 đạt 66 tỷ USD, tăng 12,7% (7,4 tỷ USD) so với năm

2014, trong đó, xuất khẩu đạt 16,6 tỷ USD, tăng 11% (1,6 tỷ USD). Kim ngạch xuất

khẩu một số mặt hàng đạt giá trị cao như: Máy điện và thiết bị điện và các bộ phận

của chúng; máy ghi và tái tạo âm thanh, máy ghi và tái tạo hình ảnh và âm thanh

truyền hình, bộ phận và phụ kiện của các loại máy trên đạt 3,72 tỷ tăng 39%; Bông

đạt 1,18 tỷ USD tăng 13%; Cao su và các sản phẩm bằng cao su đạt 0,83 tỷ USD

giảm 0,7%; Quả và quả hạch (nut) ăn được, vỏ quả thuộc họ cam quýt hoặc các loại

dưa đạt 0.69 tỷ USD tăng 50,7%; Dụng cụ, thiết bị quang học, nhiếp ảnh, điện ảnh,

đo lường, kiểm tra, chính xác, y tế hoặc phẫu thuật; các bộ phận và phụ kiện của

chúng đạt 0,18 tỷ USD tăng 310%.

Cũng theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan năm 2019, tổng kim ngạch

xuất nhập khẩu hàng hóa của cả nước năm 2019 đạt 517,26 tỷ USD, tăng 7,6% (tương

ứng tăng 36,69 tỷ USD) so với năm 2018. Trong đó trị giá hàng hóa xuất khẩu đạt

264,19 tỷ USD, tăng 8,4%. Trung Quốc vẫn là đối tác lớn của Việt Nam khi chiếm

khoảng 15,67% tỷ trọng xuất khẩu của nước ta. Tuy nhiên, khi nhìn vào cơ cấu các

mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc lại có sự thay đổi lớn. Đặc biệt

59

các mặt hàng về máy móc và thiết bị điện (linh kiện điện tử) có giá trị xuất khẩu năm

2019 đạt 18,76 tỷ tăng hơn 5 lần trong 4 năm chiếm tỷ trọng 45,3% giá trị xuất khẩu

của Việt Nam sang Trung Quốc. Đây là điều dễ hiểu do một số nhà máy của nước

ngoài về sản xuất các thiết bị điện tử, đặc biệt là Samsung đã có sự đầu tư mạnh vào

Việt Nam ở các giai đoạn trước nhằm tận dụng được các lợi thế về chi phí nhân công

của nước ta.

57

Tỷ trọng (%) Danh mục 2015 Trị giá xuất khẩu (tỷ USD) 2018 2017 2016 2019 2015 2019

5.61 14.47 18.77 18.76 22.5% 45.3% 3.72

2.79 1.62 3.93 2.00 3.53 2.12 2.90 2.32 11.5% 8.0% 7.0% 5.6% 1.91 1.33

1.66 2.83 2.85 1.80 4.6% 4.4% 0.76

1.06 1.53 1.47 1.65 5.0% 4.0% 0.83

0.67 1.06 1.00 1.21 2.6% 2.9% 0.44

0.83 1.05 1.16 1.13 4.2% 2.7% 0.70

1.49 1.24 0.94 0.97 6.1% 2.3% 1.01

0.65 0.67 0.72 0.81 4.9% 2.0% 0.81

Máy điện; thiết bị điện; máy ghi và tái tạo âm thanh, máy ghi và tái tạo hình ảnh và âm thanh truyền hình Quả và ngũ cốc Bông Dụng cụ, thiết bị quang học; nhiếp ảnh, điện ảnh, đo lường, kiểm tra, chính xác, y tế hoặc phẫu thuật Cao su và các sản phẩm bằng cao su Cá và động vật giáp xác, động vật thân mềm và động vật thuỷ sinh không xương sống khác Lò phản ứng hạt nhân, nồi hơi, máy và thiết bị cơ khí; các bộ phận của chúng Nhiên liệu khoáng, dầu khoáng Các sản phẩm xay xát; malt; tinh bột; inulin; gluten lúa mì Muối; lưu huỳnh; đất và đá; thạch cao, vôi và xi măng Plastic và các sản phẩm bằng plastic Quần áo, giày, dệt và sản phẩm may mặc khác Gỗ và các mặt hàng từ gỗ (bao gồm than) Các mặt hàng khác

Tổng cộng 0.02 0.23 1.59 1.08 2.65 21.95 0.07 0.35 2.03 1.11 3.06 35.39 0.41 0.65 2.76 1.10 3.86 41.37 0.70 0.61 3.14 1.21 4.22 41.43 0.1% 1.7% 8.2% 6.2% 14.4% 100% 1.7% 1.5% 7.6% 2.9% 10.2% 100% 0.02 0.28 1.35 1.03 2.38 16.57

Bảng 2.1: Các mặt hàng xuất khẩu có tỷ trọng lớn từ năm 2015- 2019 (Nguồn: Tổng cục Hải quan)

58

Theo số liệu thống kê của ITC năm 2019 về thương mại song phương giữa Việt

Nam và Trung Quốc, các nhóm hàng Việt Nam xuất khẩu nhiều nhất vào thị trường

Trung Quốc trong năm 2019 như sau:

Bảng 2.2: Nhóm hàng Trung Quốc nhập khẩu lớn nhất từ Việt Nam năm 2019

Đơn vị tính: Tỷ USD

STT

Danh mục

Nhập khẩu TQ

TQ nhập khẩu từ VN

Tỷ trọng VN so với TG

Cá và động vật giáp xác, thân mềm và thủy sinh

1 Máy điện và thiết bị điện và linh kiện điện tử 2 Giày, dép Bông 3 4 Cao su và các sản phẩm bằng cao su 5 Gỗ và các mặt hàng bằng gỗ; than từ gỗ 6 7 Muối; lưu huỳnh; đất và đá; vôi và xi măng 8 Quả và quả hạch 9 Quần áo và các hàng may mặc phụ trợ 10 Các sản phẩm xay xát; tinh bột lúa mì 11 Ngũ cốc 12 Đồ nội thất; bộ đồ giường, đệm, khung đệm, nệm

35.40 2.56 2.40 1.58 1.21 0.98 0.91 0.89 1.61 0.31 0.24 0.18

496.83 5.63 9.23 15.37 21.98 15.41 8.14 11.66 8.13 1.33 5.06 3.53

7.1% 45.4% 26.0% 10.3% 5.5% 6.3% 11.2% 7.6% 19.8% 23.5% 4.8% 5.1%

Nguồn: Trademap.org, ITC

Như đã đề cập ở trên, linh kiện điện từ là mặt hàng có trị giá xuất khẩu lớn nhất

trong số các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu vào Trung Quốc và chiếm 7,1% tỷ trọng

nhập khẩu của Trung Quốc từ nước ngoài. Tuy nhiên, có 5 quốc gia chiếm 80% tỷ

trọng trị giá hàng xuất khẩu mặt hàng này từ nước ngoài vào Trung Quốc thì có Việt

Nam (đứng thứ 5). Điều này cho thấy sự tích cực nhất định của nước ta. Bên cạnh đó,

nhìn tổng quan trong cả giai đoạn 2015-2019, cơ cấu ngành hàng xuất khẩu của Việt

Nam vào thị trường Trung Quốc vẫn còn khá đơn điệu, chủ yếu là nhóm hàng thô, tỷ

trọng nhóm hàng công nghiệp, chế tạo, nhóm hàng công nghệ và chất xám còn thấp

và hầu như ít thay đổi qua các năm. Bên cạnh đó, các nhóm hàng hóa cơ bản và

nguyên liệu thô và những ngành hàng thâm dụng lao động lớn, chủ yếu dựa vào khai

thác các yếu tố về điều kiện tự nhiên và nguồn lao động rẻ và xu thế không còn tăng

nhanh trên thị trường thế giới với mức độ cạnh tranh về chi phí với các đối thủ vẫn

đang là lợi thế của Việt Nam. Cụ thể một số mặt hàng có tỷ trọng nhập từ Việt Nam

59

khá cao so với tỷ trọng nhập khẩu của Trung Quốc từ Thế giới như: Giày dép chiếm

45,4%; bồn chiếm 26%; các sản phẩm tinh bọt chiếm 23.5%; Quần áo chiếm

19,8%...... Đây là các mặt hàng có trị giá không cao khi xuất khẩu và rất cạnh tranh

với chính các doanh nghiệp nội địa Trung Quốc. Do vậy, trong thời gian tới, các mặt

hàng này sẽ tiếp tục gặp nhiều khó khăn để mở rộng nhanh quy mô tiếp cận vào thị

trường Trung Quốc.

2.2.3. Nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc

2.2.3.1. Kim ngạch nhập khẩu qua các năm 2015-2019

Theo thống kê của ITC, năm 2019, tổng kim ngạch nhập khẩu cả năm của Việt

Nam đạt 253,44 tỷ USD. Xét chung giai đoạn từ 2015- 2019 thì kim ngạch nhập khẩu

của Việt Nam tăng 1,52 lần tương ứng với mức tăng trưởng bình quân hàng năm đạt

11,2%/năm. Trong đó, trị giá hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc vào Việt Nam năm

2019 đạt 75,58 tỷ USD chiếm tỷ trọng 29,8% kim ngạch nhập khẩu cả năm của nước

ta. Và xét chung giai đoạn 2015- 2019 thì trị giá hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc

cũng tăng khoảng 1,52 lần tương ứng với mức tăng trưởng bình quân là 11,2%/ năm.

Điều này khá trùng hợp khi mức tăng trưởng của kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam

nói chung và nhập khẩu từ Trung Quốc nói riêng lại có mức tăng trưởng gần như

nhau. Đồng nghĩa với đó thì tỷ trọng hàng nhập khẩu của Trung Quốc vào nước ta

biến động khá ít và ở mức 27,5%-30% tùy vào từng năm.

Bảng 2.3: Kim ngạch nhập khẩu Việt Nam- Trung Quốc giai đoạn 2012- 2019

ĐVT: tỷ USD

Năm

Nhập khẩu từ Trung Quốc

Kim ngạch nhập khẩu Việt Nam

Tỷ trọng nhập khẩu từ Trung Quốc

2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019

29,03 36,89 43.64 49.44 50.03 58.53 65.51 75.58

25,5% 27,9% 29.5% 29.8% 28.6% 27.5% 27.7% 29.8%

113,78 132,03 147.84 165.77 174.97 213.21 236.86 253.44

Nguồn: Trademap, ITC

60

Trong khi đó, theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam, nếu tính riêng kim

ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc trong 20 năm từ năm 2000 đến 2019

(Biểu đồ: 2.6 dưới đây) có thể thấy nhập khẩu từ Trung Quốc liên tục tăng và tăng rất

nhanh. Một phần nguyên nhân của sự gia tăng liên tục này do nhập khẩu nhiều loại

vật tư, nguyên liệu, máy móc, thiết bị để phục vụ cho đầu tư xây dựng và cho sản

xuất, trong đó kể cả cho gia công để xuất khẩu. Đặc biệt trong ngành là trong ngành

dệt may, da giày, điện tử, năng lượng. Tận dụng lợi thế giá rẻ, chi phí vận tải thấp

nên những loại hàng hóa này của Trung Quốc đã thuận lợi và có nhiều lợi thế khi xâm

nhập vào thị trường Việt Nam. Ngoài ra, một phần nguyên nhân là do sự định hướng

chính sách của Chính phủ trong giai đoạn này như tác giả đã đề cập ở phần trên. Với

mục đích khuyến khích nhập khẩu công nghệ, phát triển các ngành sản xuất gia công

xuất khẩu phục vụ nhu cầu tiêu dùng cho các thị trường lớn ở phương Tâynhư EU,Mỹ,

Anh, Pháp. Trong khi nguồn nguyên liệu đầu vào trong nước còn hạn chế và không

đủ sức cạnh tranh về chi phí, giá thành với nguyên liệu, công nghệ nhập khẩu từ

Trung Quốc. Chính vì vậy nhu cầu nhập khẩu tăng cao trong giai đoạn này. Một

nguyên nhân khác là Việt Nam vẫn chủ yếu xuất khẩu thô với giá trị thấp sang thị

trường Trung Quốc và ngược lại nhập khẩu chủ yếu là máy móc công nghệ với giá

trị cao từ nước này nên gây ra sự chênh lệch giữa giá trị nhập khẩu và xuất khẩu và

ảnh hưởng trực tiếp đến cán cân thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Trong 10 năm đầu của thế kỷ 21, kim ngạch nhập khẩu tăng khoảng 18,8 tỷ

USD về trị giá thì 10 năm sau kim ngạch nhập khẩu của giai đoạn này đã tăng gần

55,3 tỷ USD gần gấp 3 lần giai đoạn trước. Và nếu so với kim ngạch xuất khẩu tăng

trong giai đoạnh 2010-2019 ở mức 33,7 tỷ USD thì mức tăng về kim ngạch nhập khẩu

từ Trung Quốc cao gấp 1,65 lần.

Tuy nhiên, nếu xét 2 giai đoạn 2010- 2015 và 2015-2019 thì có thể thấy mức

tăng về kim ngạch nhập khẩu có sự tăng chậm lại. Cụ thể, bình quân tốc độ tăng kim

ngạch nhập khẩu giai đoạn 2010- 2015 là 19,6% thì giai đoạn 2015- 2019 chỉ ở mức

11,1%. Bên cạnh đó, kim ngạch xuất khẩu vẫn có xu hướng tăng khi tốc độ tăng

trưởng kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2015- 2019 là 25,75% cao hơn giai đoạn 2010-

2015 là 16,43%. Đây có thể coi là dấu hiệu tích cực của nền kinh tế Việt Nam

61

Biểu đồ 2.4: Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc (2000-2019)

80

Đơn vị tính: Triệu USD

75.49

70

60

49.46

50

40

30

20.20

20

10

5.90

1.40

-

2000

2005

2010

2015

2019

Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam

Ngoài ra, Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, trong vòng 5 năm kể từ năm

2015 đến năm 2019, Trung Quốc vẫn liên tục là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt

Nam. Điều đó cho thấy, Việt Nam đang lệ thuộc vào thị trường cung cấp về hàng hóa

nhập khẩu. Nhìn vào Bảng 2.3 dưới đây, ta có thấy các thị trường quen thuộc nằm trong

số 5 nước nhập khẩu vào Việt Nam lớn nhất. Hầu như không có sự thay đổi nhiều trong

4 nước ở vị trí đầu. Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Thái Lan và Hoa Kỳ

đều là các nước có vốn đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Trong vòng 20 năm trở lại đây,

người dân Việt Nam không còn xa lạ đối với các doanh nghiệp lớn từ các nước này và

chính họ đã góp phần giúp nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng tốt trong thời gian qua.

Bảng 2.4: Thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam (2015-2019)

Xếp hạng 1 2 3 4 5

Năm 2015 Trung Quốc Hàn Quốc Nhật Bản Đài Loan Thái Lan

Năm 2016 Trung Quốc Hàn Quốc Nhật Bản Đài Loan Thái Lan

Năm 2017 Năm 2019 Năm 2018 Trung Quốc Trung Quốc Trung Quốc Hàn Quốc Hàn Quốc Hàn Quốc Nhật Bản Nhật Bản Nhật Bản Đài Loan Đài Loan Đài Loan Hoa Kỳ Hoa Kỳ Thái Lan

Nguồn: Niên giám thống kê hải quan các năm 2015-2019

62

2.2.3.2. Cơ cấu hàng hoá nhập khẩu

Giai đoạn 2015- 2019, hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc chủ yếu vẫn là các

máy móc và nguyên liệu đầu vào nhằm phụ vụ sản xuất trong nước. Điều này được

thể hiện qua danh sách 10 mặt hàng nhập khẩu có giá trị nhập khẩu lớn nhất gồm:

Linh kiện điện tử và hàng gia dụng; máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng kèm theo;

cất dẻo và các sản phẩm từ chất dẻo; Sắt thép và các sản phẩm từ sắt thép; Xơ, sợi ,

vải và các mặt hàng dệt kim; Nhôm và các sản phẩm bằng nhồm; Xăng đầu và các

chế phẩm từ xăng dầu.

Bảng 2.5: Danh mục hàng hóa nhập khẩu chủ yếu từ Trung Quốc (2015-2019)

Đơn vị tính: Tỷ USD

Danh mục

2015 2017 2016 15,34 15,31 20,12 2018 2019 21,44 25,99

6,88 6,97 7,53 7,95 10,14

1,79 4,52 1,65 1,32 1,13 2,26 4,57 1,95 1,07 1,53 2,95 4,29 2,37 1,25 0,96 3,32 4,67 2,72 1,58 1,38 4,13 3,39 3,17 1,97 1,79

1,48 0,98 1,20 1,83 1,78

0,89 1,47 0,94 1,37 1,12 1,53 1,44 1,78 1,70 1,64

Hàng điện gia dụng và linh kiện Máy móc, thiết bị,dụng cụ phụ tùng các loại Chất dẻo và các sản phẩm từ chất dẻo Sắt và thép Các loại hàng dệt kim hoặc móc Các sản phẩm bằng sắt hoặc thép Nhôm và các sản phẩm bằng nhôm Xăng dầu và các sản phẩm khai khoáng khác Sợi filament nhân tạo Xơ sợi staple nhân tạo Nguồn: Trademap.org, ITC

Bên cạnh đó, khi nhìn vào các mặt hàng có giá trị nhập khẩu trong giai đoạn

này thì có thể thấy sự ổn định tương đối trong suốt giai đoạn. Gần như các mặt hàng

đều không có sự thay đổi nhiều và cơ cấu hàng hóa gần như không thay đổi. Điều này

cũng phù hợp với nền kinh tế Việt Nam hiện tại đang tập trung gia công và phát triển

cho các doanh nghiệp từ nước ngoài, đặc biệt là các doanh nghiệp từ các nước có

nguồn vốn đầu tư trực tiếp (FDI) vào Việt Nam như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật

Bản; Đài Loan;…. Để nhìn rõ hơn, tác giả đã tổng hợp số liệu từ ITC về cơ cấu hàng

hóa trong năm 2019 để đánh giá chung về tính ổn định của danh mục hàng hóa nhập

khẩu từ Trung Quốc vào Việt Nam.

63

Biểu đồ 2.5: Cơ cấu hàng nhập khẩu từ thị trường Trung Quốc năm 2019

Hàng điện gia dụng và linh kiện

Máy móc, thiết bị,dụng cụ phụ tùng

Đơn vị: %

26.3%

Chất dẻo và các sản phẩm từ chất dẻo Sắt và thép

34.4%

Các loại hàng dệt kim hoặc móc

Các sản phẩm bằng sắt hoặc thép

2.2%

Nhôm và các sản phẩm bằng nhôm

2.3%

2.4%

Xăng dầu và các sản phẩm khai khoáng Sợi filament nhân tạo

2.4%

13.4%

2.6%

Xơ sợi staple nhân tạo

5.5%

Khác

4.2% 4.5%

Nguồn: Trademap.org, ITC

Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam, có thể thấy về cơ cấu hàng hóa buôn

bán thương mại giữa hai nước, Việt Nam chủ yếu xuất khẩu các nguyên liệu thô sơ

chế từ khu vực kinh tế nội địa và một số nhóm hàng công nghiệp từ các doanh nghiệp

FDI sang thị trường Trung Quốc. Và ngược lại, Việt Nam chủ yếu nhập khẩu nhóm

hàng nguyên phụ liệu đầu vào của các ngành sản xuất gia công chế biến phục vụ sản

xuất xuất khẩu. Qua đó, cho thấy xuất khẩu Việt Nam đang khá lệ thuộc vào thị trường

Trung Quốc. Nguyên do chính là Trung Quốc vẫn đang là quốc gia có nhiều lợi thế

về nguồn nguyên liệu: đa dạng các nguyên liệu; giá rẻ và thuận tiện trong công tác

vận chuyển do giáp Việt Nam. Có một thực tế rằng, khi xuất khẩu tăng thì nhu cầu

nhập khẩu đối với các nguồn nguyên liệu phục vụ cho xuất khẩu sẽ tăng tương ứng.

Vì vậy, do chính sách về định hướng xuất khẩu của nền kinh tế Việt Nam đã đưa ra

yêu cầu cần phải đẩy mạnh nhu cầu nhập khẩu từ Trung Quốc phục vụ cho xuất khẩu

hàng hóa của nước ta. Khi mà Việt Nam đang phần lớn thực hiện công việc gia công,

lắp ráp thì việc xuất khẩu sẽ vẫn phụ thuộc vào nhập khẩu là chủ yếu. Đó là nguyên

nhân dẫn đến sự chênh lệch giữa kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu. Đặc biệt, khi

tốc độ nhập khẩu tăng nhanh hơn tốc độ xuất khẩu thì sẽ gây ra sự thâm hụt thương

64

mại giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây là kết quả khách quan không thể tránh khỏi

đối với các nước phát triển theo định hướng như Việt Nam hiện tại.

2.3. Thâm hụt thương mại Việt Nam – Trung Quốc

2.3.1. Tổng quan về cán cân thương mại của Trung Quốc

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Trung Quốc, kể từ năm 1995 cán cân

thương mại của Trung Quốc liên tục thặng dư. Nếu tính riêng trong thế kỷ 21 thì

thặng dư cán cân thương mại Trung Quốc tại năm 2019 là 429,6 tỷ USD gấp gần 20

lần thặng dư cán cân thương mại năm 2001 ở mức 22,5 tỷ USD. Trong vòng 19 năm

qua, giá trị thặng dư cán cân thương mại của Trung Quốc có sự tăng giảm tùy thuộc

vào từng thời kỳ. Tuy nhiên, có thời điểm thặng dư cán cân thương mại đạt mức hơn

600 tỷ đồng vào năm 2015. Thế nhưng năm 2015, tổng kim ngạch thương mại của

Trung Quốc lại có sự sụt giảm 8% so với năm 2014, trong đó kim ngạch xuất khẩu

giảm 2,8% và nhập khẩu giảm 14,1%. Nguyên nhân chính của sự sụt giảm này là do

Trung Quốc tác động phá giá đồng Nhân dân tệ của Trung Quốc trong năm 2015 và

làm giảm giá cả hàng hóa. Điều này đã đẩy cán cân thương mại của Trung Quốc lên

mức cao nhất trong 19 năm qua. Nhưng do nhược điểm của chính sách chỉ có tác

động nhất định trong một khoảng thời gian và tác động từ bên ngoài đã đẩy thặng dư

thương mại các năm tiếp theo giảm sút dần về mức 429,6 tỷ vào năm 2019.

Nhìn vào biểu đồ 2.8 về diễn biến cán cân thương mại của Trung Quốc giai đoạn

2001- 2019 thì chỉ có 2 giai đoạn là thặng dự cán cân thương mại của Trung Quốc có

xu hướng giảm so với trước đó là giai đoạn 2008- 2011 và 2016-2018. Trong đó, giai

đoạn 2008- 2011, Trung Quốc cũng bị ảnh hưởng chung bởi khủng hoảng tài chính

toàn cầu và giai đoạn 2016- 2018 là sự ảnh hưởng từ cuộc chiến tranh thương mại

Mỹ- Trung. Và sự tích cực của cán cân thương mại Trung Quốc đã có phần nào trở

lại vào năm 2019 khi thặng dư của năm 2019 đã tăng khoảng 70,3 tỷ USD so với năm

2018 tương ứng với tỷ lệ tăng khoảng 19%. Theo ý kiến nhiều chuyên gia và nhà kinh

tế thì Trung Quốc vẫn là nền kinh tế có khả năng và tốc độ phục hồi tốt sau giai đoạn

chiến tranh thương mại Mỹ- Trung. Vì vậy, dự kiến giai đoạn tới sẽ chu kỳ mới về

thặng dư thương mại của nền kinh tế Trung Quốc.

65

Biểu đồ 2.6: Diễn biến cán cân thương mại của Trung Quốc (2001-2019)

700

600

500

400

300

200

100

0

2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019

Đơn vị tính: Tỷ USD

Nguồn: Tổng cục thống kê Trung Quốc

Năm 2019, mức thặng dư thương mại của Trung Quốc được ghi nhận trong

thương mại song phương cùng với: Mỹ (295,3 tỷ USD); Hồng Kông (270,5 tỷ USD);

Hà Lan (62,8 tỷ USD); Ấn Độ (56,9 tỷ USD); Anh (38,5 tỷ USD); Việt Nam (33,9 tỷ

USD);…. Bên cạnh đó, thâm hụt lớn nhất trong thương mại song phương giữa Trung

Quốc gồm: Đài Loan (117,7 tỷ USD); Úc (71,5 tỷ USD); Hàn Quốc (62,5 tỷ USD);

Brazil (43,7 tỷ USD); Tiểu vương quốc Ả Rập (30,3 tỷ USD);…

Biểu đồ 2.7: Cán cân thương mại của Trung Quốc với một số nước năm 2019

350 .0

Đơn vị: Tỷ USD

295.3

300 .0

270.6

250 .0

200 .0

150 .0

100 .0

62.7

57.0

38.4

50.0

-

Mỹ

Hồng Kông Hà Lan

Ấn Độ

Anh

Bra-xin Hàn Quốc

Úc

Đài Loan

(5 0.0)

Ả Rập (30.3)

(43.7)

(1 00.0)

(62.6)

(71.5)

(1 50.0)

(117.7)

Nguồn: Trademap.org, ITC

66

Về tình hình cán cân thương mại nói chung của Trung Quốc trong giai đoạn

2015-2019, theo số liệu của ITC được thể hiện trong Biểu đồ 2.10 dưới đây, có thể

thấy trong giai đoạn 2015- 2019 thì kim ngạch về xuất khẩu của Trung Quốc vẫn tăng

và chỉ chững lại vào năm 2016 sau khi đạt thặng dư thương mại cao nhất trong lịch

sử trên 600 tỷ USD. Trong đó, kim ngạch năm 2019 đạt gần 2.499 tỷ cao hơn năm

2015 khoảng 216,7 tỷ tương ứng tỷ lệ tăng khoảng 9,5%. Tuy nhiên thặng dư thương

mại lại chỉ đạt ở mức 429,6 tỷ USD thấp hơn thặng dư thương mại năm 2015 là 170,6

tỷ USD tương ứng tỷ lệ giảm khoảng 28,4%. Điều này chứng tỏ, các năm gần đây,

đặc biệt là giai đoạn 2015-2019, kim ngạch nhập khẩu của Trung Quốc đã tăng nhanh

hơn tốc độ tăng của kim ngạch xuất khẩu. Cụ thể: tốc độ tăng trưởng bình quân về

kim ngạch nhập khẩu của Trung Quốc giai đoạn 2015- 2019 là gần 5,32% cao gấp

2,3 lần so với tốc độ tăng trưởng binh quân về kim ngạch xuất khẩu chỉ ở mức 2,29%.

Biểu đồ 2.8: Diễn biến cán cân thương mại Trung Quốc (2013-2019)

700

3,0 00

Đơn vị tính: Tỷ USD

2,499

600

2,494

2,5 00

2,342

2,282

2,272

2,209

2,135

2,119

2,069

500

1,959

1,949

2,0 00

1,841

1,682

400

1,589

1,5 00

300

1,0 00

200

500

100

0

-

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

KN Xuất khẩu

KN nhập khẩu

Cán cân thương mại

Nguồn: Trademap.org, ITC

Biểu đồ 2.11 dưới đây cho thấy năm 2010 và 2011, thặng dư thương mại đang

trên đà giảm dần. Sau khi Trung Quốc điều chỉnh Đồng Nhân dân tệ (NDT) linh hoạt

hơn vào năm 2010, tăng giá đồng NDT so với USD (tỷ giá hối đoái giảm) hàng hóa

67

trong nước trở lên đắt tương đối so với hàng hóa nước ngoài. Tình hình kim ngạch

xuất – nhập khẩu của Tủng Quốc đều có sự tăng trưởng, tuy nhiên mức tăng trưởng

của kim ngạch nhập khẩu lại cao hơn mức tăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu. Do

đó, cán cân thương mại năm tiếp theo (2011) tiếp tục giảm. Sau khi sự điều tiết của

thị trường được ổn định vào năm 2012 thì kim ngạch về xuất khẩu đã nhanh chóng

tăng trưởng trở lại và mức tăng trưởng lớn hơn nhiều so với kim ngạch nhập khẩu.

Điều này đã đưa đến kết quả tất yếu là tình trạng thặng dư của cán cân thương mại.

Cụ thể: cán cân thương mại của Trung Quốc đã bắt đầu thặng dư từ mức 154,9 tỷ

USD năm 2011 đến 230,58 tỷ USD năm 2012 và tiếp tục đà tăng. Đến năm 2014,

mức thặng dư thương mại của nước này tiếp tục tăng 48 % so với năm 2013. Và đỉnh

điểm là năm 2015 với mức tăng trưởng đạt 56% so với cùng kỳ 2014. Tuy nhiên, sau

đó, vào năm 2016 thì mức thặng dư thương mại của Trung Quốc lại giảm 15,07%.

Cán cân thương mại

Tỷ giá USD/CNY

700

9

8

600

6.95

6.88 6.96

7

500

6

6.51

6.05

400

5

4

300

3

200

2

100

1

0

0

2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019

Biểu đồ 2.9: Thặng dư cán cân thương mại và tỷ giá USD/CNY 2001- 2019

Nguồn: Trademap.org, ITC và Macrotrend.net

Từ năm 2016 đến năm 2019, Trung Quốc duy trì ổn định tỷ giá ở mức 6,88-

6,96 CNY đổi 1 USD. So với giai đoạn trước đó thì đồng nhân dân tệ đã giảm giá

khoảng 15%. Sự giảm giá này đã thể hiện mặt tích cực khi thặng dư thương mại của

giai đoạn này vẫn có giá trị cao hơn giai đoạn 2011- 2015 khi mà đồng Nhân dân tệ

có xu hướng tăng giá. Có thể thấy, chính sách điều hành tỷ giá năm 2015 đã tác động

tích cực và rõ rệt tới tình hình xuất nhập khẩu và cán cân thương mại của Trung Quốc

68

đồng thời góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Trung Quốc trở thành nên kinh tế

lớn thứ 2 Thế giới. Với cơ chế xác định tỷ giá mới, Trung Quốc đã liên tiếp hạ giá NDT

và cũng trong những năm 2013- 2015, đây là các đợt phá giá mạnh nhất từ sau khi thành

lập hệ thống quản lý ngoại hối hiện đại năm 1994. Thông qua hành động phá giá NDT,

chính phủ Trung Quốc mong muốn nhanh chóng lấy lại đà tăng trưởng kinh tế, tăng

tính cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu Trung Quốc và nâng cao vị thế của NDT trên

toàn thế giới. Khi đạt được lợi thế nhất định với thặng dư thương mại cao kỷ lục vào

năm 2015 thì giai đoạn tiếp theo 2016- 2019, Trung Quốc đã duy trì tỷ giá có lợi cho

nền kinh tế để thúc đẩy hoạt động động đầu tư từ nước ngoài và hoạt động xuất nhập

khẩu của nền kinh tế.

2.3.2. Tổng quan về cán cân thương mại của Việt Nam

Từ năm 2002 trở lại đây, thâm hụt thương mại của Việt Nam đã có những giai

đoạn thâm hụt ở mức trầm trọng. Đặc biệt là trong giai đoạn 2001- 2011. Nguyên

nhân chính của tình trạng này là do Việt Nam có thực hiện cải cách kinh tế một cách

mạnh mẽ và mở cửa đối với thương mại quốc tế đồng thời nhằm thu hút vốn đầu tư

từ nước ngoài. Khi Việt Nam tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN, ASEAN-

Hàn Quốc, ASEAN- Trung Quốc và là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới

(WTO) thì Việt Nam phải cắt giảm nhanh chóng đối với các hàng rào bảo hộ trong

nước. Tuy nhiên, Việt Nam cũng đã đạt được các thành tựu về kinh tế như mức tăng

trưởng kinh tế cao, đầu tư gia tăng và đã hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới.

Và điều này đã phần nào đưa nền kinh tế của Việt Nam trở nên nóng hơn bao giờ hêt.

Hoạt động thương mại tự do quốc tế diễn ra ngày càng sôi động đã kéo theo tình trạng

nhập siêu bùng nổ. Và năm 2008 là năm đỉnh điểm về nhập siêu với mức thâm hụt

12,3 tỷ USD chiếm trên 11,8% GDP của năm 2008. Theo tổ chức Quỹ tiền tệ quốc tế

IMF, mức độ thâm hụt cán cân vãng lai vượt quá mức 5% GDP của nước đó thì được

coi là nghiêm trọng và vượt ngưỡng an toàn về kinh tế. Đây cũng là năm mà Việt

Nam vừa gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế WTO. Tiếp đó, cuộc khủng hoảng tài

chính toàn cầu vào năm 2009 đã xảy ra và tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu

giữa các quốc gia trên thế giới. Vô hình chung, nhập siêu của Việt Nam giảm dần và

làm giảm tình trạng thâm hụt thương mại xuống mức 8,78 tỷ USD. Và đến năm 2012,

69

sau gần 12 năm cải cách, cán cân thương mại cảu Việt Nam đã có thặng dư với mức

thặng dư hơn 748 triệu USD. Tình trạng này tiếp tục duy trì trong 2 năm tiếp theo

gồm 2012 thặng dư 323 nghìn USD; 2014 thặng dư 2,378 tỷ USD. Tuy nhiên, sang

đến năm 2015, tình trạng thâm hụt về cán cân thương mại của Việt Nam quay trở lại

ở mức 3,759 tỷ USD. Nhưng ngay sau đó, từ năm 2016 trở đi thì chúng ta ghi nhận

thặng dư thương mại trở lại. Đặc biệt năm 2016, thặng dư thương mại của Việt Nam

ghi nhận là 1,602 tỷ USD thì năm 2019 mức thăng dự thương mại đã đạt 11,168 tỷ

USD tăng gấp gần 7 lần năm 2016. Có thể nói đây là giai đoạn mà cán cân thương

mại của Việt Nam có bước tăng trưởng thần tốc.

Biểu đồ 2.10: Diễn biến cán cân thương mại Việt Nam (2001-2019)

300

15

10

250

5

200

0

2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019

150

-5

100

-10

50

-15

0

-20

Cán cân thương mại

Kim ngạch xuất khẩu

Đơn vị: Tỷ USD

Nguồn: Tradingeconomics.com

Để đạt được kết quả như trên thì không thể không kể đến các chính sách của

chính phủ Việt Nam đã thực hiện từ năm 2011 là kiềm chế lạm phát ổn định kinh tế

vĩ mô. Không để lạm phát tăng cao và các chỉ số kinh tế như: tỷ lệ nhập siêu, tỷ giá

hối đoái, lãi suất bất ổn trong nèn kinh tế. Từ đó, tổng cầu đầu tư và tổng cầu tiêu

dùng giảm. Điều này đã làm giảm nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài. Bên cạnh đó,

xuất khẩu của Việt Nam vẫn tăng ổn định đã góp phần đưa kinh tế Việt Nam xuất

siêu trong 3 năm từ 2011 đến 2014. Thêm vào đó, từ năm 2010- 2015, tỷ trọng xuất

khẩu hàng hóa đối với khu vực có vốn đầu tư từ nước ngoài liên tục tăng. Trong khi

năm 2010, tỷ trọng xuất khẩu tại khu vực này chiếm 54,2% tổng kim ngạch thì đến

70

năm 2015, tỷ trọng xuất khẩu tại khu vực này đã tăng lên 70,5% tổng kim ngạch xuất

khẩu. Và trong suốt giai đoạn 2016- 2019, tỷ trọng xuất khẩu tại khu vực này khá ổn

định và có mức tăng nhẹ. Cụ thể: năm 2016 là 70,8%; năm 2017 là 72,1%; năm 2018

là 71,8% và năm 2019 là 68,4%. Và hầu hết các mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn vẫn

là nhóm hàng về gia công như: hàng linh kiện điện tử, công nghệ và dệt may. Các

mặt hàng này ngày càng chiếm ưu thế về tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu.

Trong năm 2015, nhóm hàng này mới chỉ chiếm gần 50% tổng kim ngạch xuất khẩu

thì năm 2019, tỷ trọng các ngành hàng này đã chiếm đến 56,4%. Và có thể nói, tuy

đây là các mặt hàng thuộc các khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài nhưng là

nhân tố quan trọng góp phần đưa cán cân thương mại của Việt Nam ở mức thặng dư

và có sự tăng thần kỳ gần 7 lần từ năm 2016 đến 2019.

Biểu đồ 2.11: Tỷ trọng xuất khẩu của 2 khu vực kinh tế giai đoạn 2010-2019

100

90

80

70

60

50

40

30

20

10

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

0 2010

Đơn vị tính: %

Khu vực kinh tế trong nước

Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài

Nguồn: Niên giám hải quan các năm 2010-2019

Các lợi thế của Việt Nam gồm: nguồn nhân lực dồi dào và giá rẻ, môi trường

đầu tư ổn định và hấp dẫn đã đưa ngày càng nhiều các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư

vào thị trường Việt Nam. Đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực chế biến chế

tạo linh kiện điện tử, trong đó không thể không kể đến Tập đoàn Samsung. Việc gia

tăng về số lượng các doanh nghiệp FDI sẽ kéo theo các nhu cầu về phát triển các

ngành công nghiệp phụ trợ tại Việt Nam. Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong nước lại

chưa đáp ứng được các yêu cầu về kỹ thuật của các doanh nghiệp FDI. Bên cạnh đó,

71

các doanh nghiệp nước ngoài về sản xuất phụ trợ lại chỉ hoạt động tại Việt Nam theo

hình thức tạm nhập tái xuất, có nghĩa là nhập khẩu toàn bộ các linh kiện, thiết bị từ

nước thức 3 về Việt Nam. Sau đó, tận dụng nguồn nhân lực giá rẻ tại Việt Nam để

gia công, lắp ráp hoàn thiện và xuất khẩu sản các nước khác để hoàn chỉnh sản phẩm.

Chính quy trình sản xuất này của các doanh nghiệp FDI không làm gia tăng nhiều về

thặng dư sản xuất mà ngược lại có thể đưa Việt Nam dẫn đến tình trạng nhập siêu khi

nhu cầu nhập khẩu trong nước có xu hướng tăng trở lại. Điều này phần nào đã được

phản ánh khi cán cân thương mại của Việt Nam thâm hụt vào năm 2015.

Bên cạnh đó, giai đoạn 2010- 2019, cán cân thương mại của Việt Nam dẫn được

cải thiện đã góp phần nào tích cực vào sự tăng trưởng kinh tế. Và đây là một trong

các tác nhân quan trọng giúp giảm áp lực tăng tỷ giá, đồng thời cải thiện cán cân tổng

thể (thể hiện trong biểu đồ 2.14 dưới dây).

Trong giai đoạn 2015- 2019, cán cân thương mại được cải thiện góp phần tích

cực vào tăng trưởng kinh tế và là một trong những tác nhân quan trọng giúp giảm áp

lực tăng tỷ giá và cải thiện cán cân tổng thể ( thể hiện trong Biểu đồ 2.13 dưới đây).

Tuy nhiên, sự giảm sút do suy giảm từ sản xuất trong nước (gồm: giảm kim ngạch

nhập khẩu các mặt hàng nguyên liệu sản xuất, máy móc, thiết bị, hàng tiêu dùng) và

sự tăng trưởng từ doanh nghiệp FDI mới là nguyên nhân làm cho tỷ lệ nhập siêu giảm

trong giai đoạn này.

Biểu đồ 2.12: Diễn biến Cán cân thương mại Việt Nam giai đoạn 2011-2019

15

300

10

200

5

100

0

0

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

-5

-100

-10

-200

Xuất khẩu VN

Nhập khẩu VN

Cán cân thương mại

Đơn vị tính: Tỷ USD

Nguồn: Trademap.org, ITC

72

Trong giai đoạn 2015- 2019, xuất khẩu hàng hóa Việt Nam đã đạt tốc độ tăng

trưởng cao. Trong khi đó, nhập khẩu có tốc độ tăng trưởng thấp hơn đã làm tỷ trọng

của xuất khẩu trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng dần. Điều này đã tạo ra kết

quả về sự cải thiện cán cân thương mại Việt Nam. Bên cạnh các yếu tố về tích cực

thì sự cải thiện cán cân thương mại vẫn chưa có sự bền vững khi mà thặng dư thương

mại chưa cao và có thể thâm hụt khi diễn ra sự không thuận lợi về các yếu tố khác.

Đến hiện tại, cán cân thương mại của Việt Nam đã có 4 năm liên tiếp thặng dư và có

mức thặng dư cao so với thời kỳ trước. Có 3 nguyên nhân chính tạo ra sự thặng dư

của cán cân thương mại Việt Nam ở hiện tại nhưng cũng là 3 yếu tố mà có khả năng

tạo ra sự không bền vững đối với thặng dư cán cân thương mại của Việt Nam gồm:

Một, xuất khẩu của khu vực FDI vẫn là tỷ trọng chính trong cơ cấu xuất nhập

khẩu của Việt Nam. Với xu hướng ngày càng tăng, sự lấn át của các doanh nghiệp

FDI cho thấy các doanh nghiệp trong nước chưa có sự bứt phá hoặc có thể xem là

yếu thế. Từ năm 2000 cho đến nay, kim ngạch về xuất khẩu của khu vực nước ngoài

FDI liên tục gia tăng với tốc độ tăng trưởng cao. Đặc biệt là từ sau năm 2008, khu

vực. Điều này là một trong các nguyên nhân khiến cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu

của Việt Nam có những thay đổi. Tỷ trọng nhập khẩu đối với mặt hàng nguyên phụ

liệu cho khu vực FDI liên tục tăng trong khi tỷ trọng nhập khẩu của khi vực trong

nước lại có sự giảm sút.

Hai, cơ cấu hàng hóa mà Việt Nam xuất khẩu chủ yếu vẫn là các mặt hàng có

giá trị gia tăng thấp như: linh kiện diện tử, dệt may, … Đây lại chính là các mặt hàng

mà doanh nghiệp tại Việt Nam chỉ đóng góp được ít nhất vào chuỗi gia trị của sản

phẩm. Như đã đề cập ở trên, với lợi thế về nguồn lao động rẻ và dồi dào thì việc gia

công cũng như lắp ráp là điểm thu hút các doanh nghiệp nước ngoài. Tuy nhiên, nếu

chỉ gia công và lắp ráp mà không phát triển được các ngành phụ trợ thì tỷ lệ giá trị

gia tăng của sản phẩm tại ra tại Việt Nam rất thấp trong chuỗi giá trị sản phẩm.

Ba, cơ cấu thị trường xuất khẩu không thay đổi nhiều trong các năm qua. Các

thị trường mà Việt Nam xuất khẩu hàng hóa chính vẫn là thị trường thuộc khu vực

Asean, Mỹ, Nhật Bản và đặc biệt là Trung Quốc. Điều này đã dẫn đến sự lệ thuộc của

73

Việt Nam đối với các quốc gia này, đặc biệt trong đó là thị trường Trung Quốc. Tỷ lệ

trị giá hang hoá nhập siêu từ Trung Quốc so với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của

Việt Nam và Trung Quốc lên tục tăng trong giai đoạn 2001- 2015. Cụ thể, năm 2001

tỷ lệ này ở mức 6,2% thì năm 2008 là 53,4% và giữ ổn định quanh mức này cho đến

năm 2015 là 49,8%. Trong các năm 2016 trở lại đây, tỷ lệ giá trị nhập siêu so với tổng

kim ngạch xuất nhập khẩu đã có dấu hiệu tích cực và chững lại. Điều này được thể

hiện bằng sự giảm dần qua các năm như sau: năm 2016 là 39%; năm 2017 là 24,6%;

năm 2018 là 22,6% và năm 2019 có dấu hiệu tăng lại là 29,1%. Tuy nhiên, cũng cần

lưu ý rằng năm 2019 là năm mà Trung Quốc và Mỹ có sự căng thẳng lớn về thương

mại giữa hai nước. Vì thế, đây có thể là nguyên nhân mà làm gia tăng hàng hoá tạm

nhập tái xuất của Việt Nam từ Trung Quốc để sang các thị trường khác. Bằng chứng

là khi nhìn vào cán cân thương mại giữa Việt Nam- Mỹ và Việt Nam- Trung Quốc sẽ

cho thấy phần nào điều lý giải trên. Cụ thể: trong năm 2019, thặng dư thương mại

giữa Việt Nam – Mỹ đạt 47 tỷ USD tăng 12,2 tỷ USD tương ứng với tỷ lệ tăng so với

năm 2018 là 35%. Đây là con số cao nhất trong 20 năm qua với mức tăng hang năm

chỉ từ 2-4 tỷ USD. Tuy nhiên, thâm hụt thương mại giữa Việt Nam- Trung Quốc cũng

gia tăng. Cụ thể: thâm hụt thương mại năm 2019 của Việt Nam đối với quan hệ song

phương này là 34,1 tỷ USD tăng thâm hụt 10 tỷ USD tương ứng tỷ lệ tăng so với năm

2018 là 41,4%. Đây cũng là mức thâm hụt cao nhất trong 20 năm qua đối với thương

mại song phương giữa hai nước.

Bên cạnh sự thâm hụt với quan hệ song phương của Việt Nam đối với một số

quốc gia nêu trên thì nền kinh tế Việt Nam đồng thời cũng ghi nhận sự thặng dư

thương mại lớn nhất với các nước như: Mỹ, Hồng Kông; Anh Quốc; Campuchia và

Ả rập. Theo số liệu thống kê gần nhất của ITC năm 2019 thể hiện trong biểu đồ dưới

thì Trung Quốc vẫn là quốc gia có thâm hụt lớn nhất và Mỹ vẫn là quốc gia có thặng

dư thương mại lớn nhất đối với quan hệ song phương với Việt Nam. Đặc biệt, với

một phần nguyên nhân xuất phát từ cuộc chiến thương mại song phương giữa Mỹ và

Trung Quốc đã vô tình đẩy mạnh sự thặng dư của Việt Nam với Mỹ cũng như sự

thâm hụt của Việt Nam đối với Trung Quốc trong chính năm 2019.

74

Biểu đồ 2.13: Cán cân thương mại giữa Việt Nam và với một số nước năm 2019

Đơn vị tính: Tỷ USD

Trung Quốc

(34.2)

Hàn Quốc

(27.2)

Đài Loan

(10.8)

(6.6)

Thái Lan

Ả Rập

4.4

Anh

4.9

Hồng Kông

5.8

Hà Lan

6.2

Mỹ

47.0

(40.0)

(30.0)

(20.0)

(10.0)

-

10.0

20.0

30.0

40.0

50.0

60.0

Nguồn: Trademap.org, ITC

Có thể nói, về tổng thể thì thương mại của Việt Nam trong giai đoạn 2015- 2019

tương đối ổn định và phát triển theo chiều hướng tích cực nhất định khi mà thặng dư

của cán cân thương mại liên tiếp tăng. Việc tăng cường ký kết các Hiệp định thương

mại song phương với các đối tác trong khu vực của Chính phủ Việt Nam đã hỗ trợ

cho việc xuất nhập khẩu hàng hoá Việt Nam trong giai đoạn này. Đầu tư trực tiếp của

nước ngoài vào Việt Nam liên tục tăng cũng phần nào gia tăng sức cạnh tranh về hang

hoá của Việt Nam. Bên cạnh đó, nhập khẩu máy móc và công nghệ từ nước ngoài

cho các doanh nghiệp FDI, các dự án nước ngoài cũng là yếu tố làm gia tăng về cầu

nhập khẩu. Đặc biệt, nhu cầu về hàng tiêu dùng xa xỉ gia tăng trong tỷ trọng hàng

nhập khẩu của Việt Nam (ô tô)-tuy rằng còn khá nhỏ nhưng đã phần nào cho thấy sự

tích cực của nền kinh tế trong giai đoạn này.

2.3.3. Thâm hụt thương mại Việt Nam –Trung Quốc

Tại hai phần trên, tác giá đã nghiên cứu về thực trạng cán cân thương mại tổng

thể của Việt Nam và Trung Quốc. Trong đó, Trung Quốc bắt đầu thặng dư thương

mại từ năm 1995 và hầu hết các nước có quan hệ song phương với Trung Quốc đều

nhập siêu. Và Việt Nam cũng nằm trong số các quốc gia đó. Từ đầu những năm thế

75

kỳ 21, Trung Quốc đã trở thành quốc gia có thị trường cung cấp nguồn liệu phụ liệu,

công nghệ máy móc và các thiết bị phục vụ sản xuất cho hầu hết các quốc gia đang

phát triển trên thế giới. Trong đó, Việt Nam cũng nhập phần lớn các hàng hóa này từ

thị trường Trung Quốc. Biểu đồ 2.16 dưới đây đã phản ảnh diễn biến kim ngạch xuất

nhập khẩu trong quan hệ song phương về thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc

từ năm 2001 đến năm 2019. Đồng thời, biểu đồ cũng cho thấy về tình trạng cán cân

thương mại giữa hai nước trong khoảng thời gian này.

Biểu đồ 2.14: Diễn biến cân thương mại song phương Việt Nam-Trung Quốc

giai đoạn 2001-2019

130

110

90

70

50

30

10

-10

-30

-50

Cán cân thương mại

Xuất khẩu VN

Nhập khẩu VN

Tổng kim ngạch

Đơn vị tính: Triệu USD

Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam

Đầu tiên, về tốc độ tăng trưởng giữa nhập khẩu và xuất khẩu cho thấy tốc độ tăng

trưởng của nhập khẩu cao hơn xuất khẩu của Việt Nam trong mỗi quan hệ song phương

giữa hai nước. Cụ thể, trong giai đoạn 2001- 2019 thì tốc độ tăng trưởng bình quân của

nhập khẩu là 22,5% cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân của xuất khẩu chỉ ở mức

19,4%. Về giá trị hàng hóa thì giá trị hàng hóa nhập khẩu vào năm 2019 đạt 75,6 tỷ

USD cao gấp 47,06 lần năm 2011. Trong khi đó giá trị hàng hóa xuất khẩu vào Trung

Quốc năm 2019 chỉ đạt 41,4 tỷ USD và gấp 29,23 lần năm 2001. Theo Thống kê từ

Tổng cục Hải Quan, Trung Quốc đã là đối tác lớn nhất trong quan hệ song phương của

Việt Nam từ 10 năm trở lại đây. Nếu tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu với Trung

76

Quốc của Việt Nam so với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam chỉ chiếm tỷ

trọng 9,7% vào năm 2001 thì đến hết năm 2019, con số này đã là 22,6%. Đặc biệt trong

đó, kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc đã tăng mạnh trong gần 20 năm

qua. Trong khi, kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam chỉ tăng 15,63 lần thì riêng kim

ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc đã tăng 47 lần và gia tăng tỷ trọng nhập khẩu từ Trung

Quốc từ 9,9% năm 2001 lên 29,8% năm 2019 để đạt con số 75,6 tỷ USD. Bên cạnh đó,

về xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc trong giai đoạn này cũng có sự tăng

trưởng ở mức 19,4% cao hơn mức tăng trưởng binh quân của kim ngạch xuất khẩu của

Việt Nam ở mức 16,3%. Trong đó, từ năm 2016 trở lại đây, tỷ trọng kim ngạch xuất

khẩu sang Trung Quốc so với kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã có bước cải thiện

và tăng dần. Cụ thể: giai đoạn 2001- 2015 thì mức tỷ trọng này chỉ từ 9- 12% thì giai

đoạn 2016- 2019 đã tăng lên trong mức 12,5%- 17% ( năm 2019 ở mức 15,7%). Tuy

nhiên, tính đến năm 2019, kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 41,4 tỷ USD và

là đối tác lớn thứ 2 về xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam ra nước ngoài nhưng vẫn chưa

tương xứng với lượng hầng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc của Việt Nam. Để làm rõ

hơn về vấn đề này ta có thể nhìn vào bảng 2.5 dưới đây. Giai đoạn 2001- 2015 thì tỷ lệ

kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Trung quốc chỉ gấp 1,13 lần kim ngạch xuất

khẩu hàng hóa từ Việt Nam sang Trung Quốc. Và tỷ lệ này tăng dần trong giai đoạn

này và đạt đỉnh ở năm 2015 với tỷ lệ 2,98 lần. Tiếp theo sau đó, giai đoạn 2016- 2019

thì tỷ lệ này đang có xu hướng thu hẹp lại tuy nhiên vẫn đang cao hơn mức tỷ lệ năm

2001 với gần gấp đôi.

Bảng 2.6: Tương quan về kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam-

Trung Quốc

Đơn vị tính: Tỷ USD

2001

2015

2016

2017

2019

1.61 1.42 1.13

49.44 16.57 2.98

50.04 21.95 2.28

58.53 35.39 1.65

2018 65.52 41.37 1.58

75.59 41.43 1.82

Kim ngạch nhập khẩu Kim ngạch xuất khẩu Tỷ lệ KNXK/KNNK

Với giá trị nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc luôn lớn hơn giá trị xuất khẩu hàng

hóa vào Trung Quốc của Việt Nam thì kết quả tất yếu là nền kinh tế Việt Nam sẽ bị

thâm hụt trong quan hệ song phương giữa hai nước. Khi so sánh cán cân thương mại

Việt Nam - Trung Quốc và cán cân thương mại của Việt Nam với một số đối tác chính

77

trong năm 2019 dưới đây, cho thấy thâm hụt thương mại của Việt Nam đối với Trung

Quốc cũng là lớn nhất.

Bảng 2.7: Tình hình cán cân thương mại song phương của Việt Nam và một số

nước năm 2017- 2019

Đơn vị tính: Triệu USD

STT Nước/ vùng lãnh thổ

2018

2019

2019/2018

Trung Quốc Hàn Quốc Thái Lan Đài Loan

2017 (23,14) (32,14) (5,90) (10,14) (1,74)

(24,15) (29,34) (6,78) (10,08) (3,39)

(34,15) (27,21) (6,63) (10,78) (3,50)

41,4% -7,3% -2,2% 6,9% 3,3%

1 2 3 4 5 Ma-lai-xi-a

Nguồn: Niên giám thống kê hải quan năm 2019

Có thể thấy, kể từ năm 2001 cho đến nay, Việt Nam đã bắt đầu thâm hụt thương

mại với Trung Quốc và tình trạng thâm hụt này tiếp diễn với chiều hướng gia tăng,

niến thiên ngược chiều với tổng kim ngạch của hai nước thể hiện trong biểu đồ 2.15.

Trong giai đoạn 2016- 2018 thì sự thâm hụt có chiều hướng tích cực khi thâm hụt có

sự giảm dần trong giai đoạn này từ mức 32,9 tỷ USD năm 2015 về 24,1 tỷ USD năm

2018. Tuy nhiên, sang năm 2019 thì mức thâm hụt đã tăng trở lại và đánh đấu cao

nhất trong gần 20 năm qua ở mức 34,2 tỷ USD với mức tăng gần 10 tỷ USD so với

năm 2018 và tương ứng tỷ lệ tăng là 41,4%. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là năm 2019

là năm mà Mỹ- Trung có căng thẳng về thương mại nên việc một số hàng hóa từ

Trung Quốc đã tạm nhập và tái xuất tại Việt Nam trước khi sang thị trường Mỹ làm

gia tăng hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc. Đây là sự đột biến về nhập

khẩu và cần quan sát thêm các năm tiếp theo để đánh giá về việc tăng đột biến của

năm 2019 chỉ là xảy ra trong một thời gian ngắn hay là điểm bắt đầu cho một chu kỳ

mới. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận Chính phủ Việt Nam cũng đã có những

chính sách nhằm giảm thiểu thâm hụt này trong quan hệ song phương giữa hai nước.

Các biện pháp và định hướng khuyến khích nhập khẩu từ các thị trường khác như

Hàn Quốc, Thái Lan để từng bước giảm lệ thuộc vào thị trường Trung Quốc. Điều

này sẽ cần có phương án và từng bước cải thiện dần qua các năm trong một thời gian

dài. Đến thời điểm hiện tại, nền kinh tế Trung Quốc vẫn là nền kinh tế lớn và có thể

xem đây là công xưởng của thế giới. Vì vậy, việc nhập các nguồn nguyên vật liệu để

đáp ứng nhu cầu sản xuất trong nước là không thể giảm thiểu và thậm chí sẽ gia tăng

khi kinh tế thế giới đạt được sự ổn định về tăng trưởng. Với sự phụ thuộc nhiều vào

78

khối kinh tế khu vực FDI cũng như ngành phụ trợ trong nước vẫn chưa phát triển đáp

ứng được nhu cầu của khối kinh tế này thì đây vẫn sẽ là bài toán khó đối với nền kinh

tế Việt Nam. Dưới dây, tác gia sẽ đề cập đến các nguyên nhân chính đã gây ra tình

trạng thâm hụt kéo dài của Việt Nam đối với quan hệ song phương giữa hai nước

trong suốt gần 20 năm trở lại đây.

2.3.4. Nguyên nhân của tình trạng thâm hụt thương mại Việt Nam- Trung

Quốc

Thứ nhất, chưa có sự hợp lý về cơ cấu xuất nhập khẩu giữa hai nước, chưa thể

hiện rõ trình độ kỹ thuật và đặc điểm riêng về tình trạng phát triển của từng nước.

Công cuộc cải cách kinh tế và mở cửa kinh tế của Trung Quốc hay được gọi là “Mở

cửa Trung Quốc” đã được nước này thực hiện từ năm 1978. Trong khi Việt Nam đánh

dấu việc mở cửa nền kinh tế được coi là bước đầu mở cửa vào những năm 95 khi

tham gia các hiệp định thương mại tự do vơi Asean tức là sau Trung Quốc khoảng 20

năm. Với việc mở cửa nền kinh tế và các lợi thế sẵn có cửa mình, đặc biệt là nguồn

lao động dồi vào và thị trường rộng lớn, Trung Quốc đã có bước phát triển mạnh mẽ

trên nhiều lĩnh vực. Từ lâu, Trung Quốc cũng đã được coi là “công xưởng của thế

giới”. Hẩu như các tập đoàn đa quốc gia, các tập đoàn và công ty xuyên quốc gia hàng

đầu thế giới trong các lĩnh vực về: sản xuất, cơ khí, công nghệ như: General Motor,

Ford, Apple, IBM, HP,... đều đặt các nhà máy sản xuất chính tại Trung Quốc. Trong

khi đó, quá trình đổi mới ở Việt Nam diễn ra sau và chậm hơn Trung Quốc, nền công

nghiệp và công nghệ còn lạc hậu, chậm tiến so với nước bạn. Vì vậy, tuy là nước

đang phát triển nhưng xuất phát điểm của Việt Nam thấp hơn nhiều so với Trung

Quốc trong quan hệ song phương giữa hai nước. Việc nhập khẩu hàng hóa, đặc biệt

là các sản phẩm công nghiệp, linh kiện và nguyên liệu phục vụ cho sản xuất từ Trung

Quốc của Việt Nam là điều tất yếu và bắt buộc. Bên cạnh đó, như đã đề cập chi tiết

về cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc ở phần trên, có

thể cho thấy các mặt hàng chính mà Việt Nam vẫn tập trung ở các sản phẩm thô hoặc

mới sơ chế, hay các sản phẩm có mức độ sử dụng yếu tố lao động là chủ yếu, những

sản phẩm mang yếu tố đặc trung của một nền kinh tế ở giai đoạn đầu của sự phát

triển. Với cơ cấu hàng hóa như vậy, việc gia tăng về giá trị xuất khẩu từ Việt Nam

sang Trung Quốc nói riêng và các nước khác nói chung là hết sức khó khăn. Việc

79

đóng góp vào giá trị chuỗi sản phẩm thấp và không sử dụng các yếu tố kỹ thuật cao

là bước cản trở lớn đối với vấn đề này. Mặt khác, nguồn cung về hàng nông sản và

các hàng hóa là tài nguyên của Việt Nam cũng khó có thể tăng mạnh. Điều này phụ

thuộc lớn vào bản chất của việc sản xuất nông nghiệp cũng như yếu tố khách quan về

trữ lượng tài nguyên của Việt Nam. Việc khai thác sẽ ngày càng làm giảm các nguồn

cung này. Bên cạnh đó, những mặt hàng này chủ yếu là các mặt hàng thuộc phân kỳ

giá thấp nên khi cung hạn chế thì giá trị xuất khẩu cũng hạn chế theo do giá cả hàng

hóa không được gia tăng. Có thể nói,sản xuất nông nghiệp cũng như công nghiệp của

Việt Nam đều phụ thuộc lớn vào các yếu tố đầu vào nhập khẩu từ nước bạn như: phân

bón, thức ăn gia súc, thuốc trừ sâu và các loại máy móc, thiết bị, nguyên nhiên liệu.

Điều này dẫn đến hàng hóa thành phẩm của Việt Nam sẽ gặp khó về cạnh tranh với

chính những nước cung cấp đầu vào sản xuất những thành phẩm này là Trung Quốc.

Về cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc và Việt Nam, tác giả đã có

đề cập ở trên, ta có thấy rõ ràng các thiết bị về điện gia dụng, máy móc dụng cụ và

các phụ tùng cùng với các yếu tố đầu vào phụ vụ cho sản xuất như: xăng dầu, sắt thép

đều là các mặt hàng nhập khẩu lớn từ Trung Quốc qua các năm và chưa có dấu hiệu

giảm. Bởi lẽ đây là nhưng mặt hàng mà Việt Nam chưa đủ năng lức để sản xuất lâu

dài và mặt khác Việt Nam chưa phát triển được các ngành công nghiệp phụ trợ nhằm

phục vụ nhu cầu cảu sản xuất giành cho xuất khẩu thì sẽ khó khăn khi cạnh tranh với

Trung Quốc về yếu tố giá thành của các sản phẩm này trên thị trường quốc tế. Và

thực tế đã cho thấy Trung Quốc là quốc gia chiếm ưu thế tuyệt đối về giá cả nguyên

vật liệu và thành phẩm so với Việt Nam. Do vậy, với cơ cấu nhập khẩu như hiện tại,

thì khi cần thúc đẩy gia tăng sản xuất trong nước hay gia tăng về sản xuất để xuất

khẩu hàng hóa thì đồng nghĩa với việc nhập khẩu từ Trung Quốc vào Việt Nam cũng

sẽ gia tăng là tất yếu do phải nhập khẩu các đầu vào phục vụ sản phẩm. Điều này lý

giải vì vao, xuất khẩu các năm gần đây tăng mạnh nhưng nhập khẩu của Việt Nam

cũng tăng tương ứng, đặc biệt giai đoạn 2010 trở lại đây.

Thứ hai, các nhà thầu lớn đến từ Trung Quốc đã tham gia vào các dự án tại Việt

Nam. Nhằm hướng đến công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, Việt Nam đã đầu

tư nhiều dự án liên quan đến cở sở hạ tầng như: các khu công nghiệp; các nhà máy

điện năng lượng (Nhiệt điện, Thủy điện), các khu chễ xuất và lọc dầu, xây dựng thêm

80

đường xá, nhà cao tầng và hệ thống phương tiện giao thông vân tải. Khi các nhà thầu

xây dựng dự án đến Việt Nam, họ cần sẽ mang theo số lượng lớn về máy móc thiết

bị để phục vụ các nhu cầu về xây lắp các công trình. Điều này vô hình chung làm

tăng giá trị về kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam rất lớn ở thời điểm đó. Theo số

liệu của Tổng cục Thống kê, tính đến hết năm 2019, tổng số dự án mà Trung Quốc

đã thực hiện tại Việt Nam lên đến 3.086 dự án và có tổng số vốn đăng ký là 18 tỷ

USD. Tuy không thể phủ nhận sự đóng góp về dài hạn vào phát triển kinh tế của Việt

Nam nhưng cũng góp phần đẩy kim ngạch nhập khẩu tăng cao trong một thời điểm.

Thứ ba, sự hiểu biết về thị trường Trung Quốc đối với các doanh nghiệp Việt

Nam còn khá hạn chế. Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp Trung Quốc đã quan tâm về

thị trường và tìm hiểu kỹ con người Việt Nam khi tham gia hợp tác cùng Việt Nam.

Các doanh nghiệp này đã có sự nắm bắt về nhau cầu, về thay đổi và xu hướng vận

động chung của thị trường cũng như tâm lý của người mua hàng ở Việt Nam,... Trong

khi đó, Việt Nam vẫn chưa hình thành được các hệ thống nhằm khai thác thông tin

về nước bạn một cách hiệu quả. Chính điều này mà thời gian qua, nhiều mặt hàng

nông sản của Việt Nam đã gặp khó khăn về các thủ tục giấy tờ, không thực hiện theo

đúng yêu cầu cơ quan hải quan và cơ quan kiểm dịch của Trung Quốc đã dẫn đến tình

trạng tắc nghẽn và không được thông quan khi xuất vào thị trường Trung Quốc. Tình

trạng này là kết quả của sự thụ động trong thương mại với Trung Quốc và sự thiếu

hiểu biết về thị trường nước bạn của chính các doanh nghiệp Việt Nam.

Thứ tư, ngành sản xuất và công nghiệp hỗ trợ trong nước còn rất yếu kém. Đầu

tiên phải kể đến sự thiếu hụt tư liệu sản xuất. Nguyên nhân chính là do ngành công

nghiệp hỗ trợ trong nước đã trì trệ trong thời gian dàn và chưa có cải thiện. Đối với

ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam, chủ yếu vẫn tập trung ở các doanh nghiệp

vừa và nhỏ, khá manh mún. Do vậy, việc hỗ trợ còn ở mức hỗ trợ thấp. Trong khi đó,

một số ngành công nghiệp hỗ trợ quan trọng mà doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò

chủ đạo thì lại không có khả năng chuyên môn hóa từng khâu. Thay vào đó, các doanh

nghiệp này chỉ sản xuất ở khâu thành phẩm của sản phẩm nên không có tính kinh tế

cao theo quy mô và hoạt động kém hiệu quả. Điều này đã dẫn đến các sản phẩm hỗ

trợ của Việt Nam khó có khả năng cạnh tranh với các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ

81

mà nhập khẩu từ Trung Quốc về nhiều mặt, từ chất lượng sản phẩm không ổn định,

giá cả thì cao hơn mà khả năng đáp ứng về số đông cũng như về thời gian lại khá

chậm, ít khi đáp ứng đúng thời hạn đề ra. Do vậy, nhu cầu nhập khẩu các ngành này

từ Trung Quốc vẫn ở mức cao tạo đã gây nên vấn đề nhập siêu cảu Việt Nam. Khi

ngành công nghiệp hỗ trợ còn yếu kém và không đáp ứng được nhu cầu trong nước

thì các ngành sản xuất sẽ gặp khó khăn về cung nguyên liệu đầu vào, từ đó làm suy

giảm khả năng hấp thục về công nghệ và kỹ năng quản lý từ nguồn vốn đầu tư trực

tiếp từ nước ngoài. Tình trạng này lâu dài sẽ dẫn đến việc thu hút nguồn vốn đầu tư

nước ngoài gặp hạn chế và vô hình chung tạo nên rào cản đối với việc cải thiện năng

lượng sản xuất cũng như gia tăng xuất khẩu. Về hệ quả theo sau đó là nền kinh tế sẽ

gặp khó khăn trong việc thu hút nguồn ngoại tệ nhằm bù đắp vào thâm hụt.

Thứ năm, chính sách thương mại của chính phủ vẫn còn nhiều điểm chưa hợp

lý. Bên cạnh các mặt hàng mà không thể sản xuất trong nước thì còn rất nhiều mặt

hàng mà chính nước ta vẫn có thể sản xuất được. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn nhập khẩu

đối với các mặt hàng này. Một phần nguyên nhân có thể do chính sách thuế chưa hợp

lý. Bên cạnh đó, việc gia nhập các khu mậu dịch tự do thì bắt buộc Việt Nam phải có

cam kết đối với cắt giảm thuế nhập khẩu để mở cửa kinh tế cũng như hạn chế tối đa

đến gỡ bở hoàn toàn hàng rào thuế quan. Tuy có thể thực hiện theo từng bước và giai

đoạn nhưng vô hình chung điều này đã khuyến khích tâm lý mua hàng nhập khẩu

trong các giai đoạn này và tương lai của người tiêu dùng trong nước.

Cuối cùng là chính sách về tỷ giá của Việt Nam. Ngoài các yếu tố mang tính

chất trung và dài hạn như năng suất của nền kinh tế Việt Nam còn thấp, cơ cấu các

ngành hàng xuất nhập khẩu còn nhiều bất cập, hay như chính sách thuế trong ngắn

hạn thì còn một yếu tố nữa tạo áp lực hạn chế xuất khẩu và thúc đẩy nhập khẩu chính

là đồng tiền Việt Nam bị định giá ở mức cao hơn giá thị trường. Chính sách tiền tệ

nới lỏng kéo dài cho đến tháng 11/2010 của Việt nam đã dẫn đến áp lực làm giảm giá

đồng Việt Nam so với các đồng tiền khác. Trong bối cảnh đó, Việt Nam đã áp dụng

chính sách tỷ giá khá cứng nhắc cho đến trước ngày 11/02/2011: mức tỷ giá cố định

được duy trì trong một thời gian dài hoặc nếu điều chỉnh thì cũng chỉ là những mức

điều chỉnh nhỏ, biên độ dao động thấp. Điều này đã khiến cho hàng hóa nhập khẩu

từ nước ngoài vào Việt Nam rẻ đi tương đối và thúc đẩy nhập khẩu tăng lên. Đồng

82

thời làm hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam lại trở nên đắt đỏ trên thị trường thế giới, giảm

tính cạnh tranh trong xuất khẩu. Cụ thể: Năm 2010, đồng Việt Nam đã bị định giá cao

15% so với đồng USD trong khi đồng nhân dân tệ lại mất giá 30% so với USD, như vậy

đồng Việt Nam đã lên giá mạnh so với đồng Nhân dân tệ, đây có thể cũng là lý do giải

thích cho việc nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc tăng đột biến trong những năm

2010 đến 2015. Sang đến giai đoạn 2016- 2019, tỷ giá giữa Việt Nam Đồng và Nhân dân

tệ đã có sự neo giá chung. Đồng Nhân dân tệ không có quá nhiều biến động với đồng

USD (theo biểu đồ 2.11 thì đồng Việt Nam Đồng cũng neo giá và không có nhiều biến

động so với đồng Nhân dân tệ. Và cũng trong giai đoạn này, thâm hụt thương mại của

Việt Nam và Trung Quốc và tỷ giá giữa CNY/VND cũng dao động biến thiên cùng chiều

với nhau (ngoại trừ năm 2019 có yếu tố bất thường như tác giả đã đề cập ở trên).

Biểu đồ 2.15: Cán cân thương mại Việt Nam-Trung Quốc và tỷ giá CNY/VND

(2003-2019)

4000

40

3500

35

3000

30

2500

25

2000

20

1500

15

1000

10

500

5

0

0

2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019

Thâm hụt thương mại

Tỷ giá CNY/VND

Đơn vị: Tỷ USD

2.3.5. So sánh cán cân thương mại của Việt Nam - Trung Quốc với cán cân thương

mại của một số nước trong khu vực với Trung Quốc.

Trong phần này, tác giả sẽ xem xét về cán cân thương mại của một số nước có

vị trị địa lý tương tự Việt Nam như Lào, Campuchia với Trung Quốc trong cùng giai

đoạn nêu trên. Từ đó có thêm các đánh giá đa chiều về mức độ thâm hụt thương mại

83

giữa Việt Nam- Trung Quốc.

a) Cán cân thương mại Campuchia-Trung Quốc

Theo thống kê về số liệu của ITC, tổng kim ngạch thương mại giữa Campuchia

và Trung Quốc cũng có sự tăng trưởng theo từng năm. Cụ thể: năm 2010, kim ngạch

xuất nhập khẩu giữa hai nước đạt 1,44 tỷ USD thì đến năm 2019 con số này đã tăng

6,55 lần đạt 9,44 tỷ USD. Tuy nhiên, việc tăng trưởng về kim ngạch xuất nhập khẩu

giữa Campuchia và Trung Quốc lại phụ thuộc phần lớn vào kim ngạch nhập khẩu của

Campuchia từ Trung Quốc. Trong mức tăng 8 tỷ USD về kim ngạch xuất nhập khẩu

giữa hai nước trong gần 10 năm qua thì kim ngạch nhập khẩu của Campuchia từ

Trung Quốc đã tăng 6,65 tỷ USD chiếm 83% tỷ trọng phần tăng thêm của kim ngạch

xuất nhập khẩu. Và kim ngạch xuất khẩu của Campuchia sang thị trường Trung Quốc

chỉ tăng 1,35 tỷ USD chiếm tỷ trọng 18% tỷ trọng phần tăng thêm còn lại. Khi nhìn

vào con số tăng trưởng về từng kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu có thể thấy kim

ngạch xuất khẩu năm 2019 đã tăng 14,52 lần so với năm 2010 cao hơn rất nhiều so

với mức tăng 5,94 lần của kim ngạch nhập khẩu. Nhưng do tỷ trọng của giá trị hàng

hóa xuất khẩu từ Campuchia sang Trung Quốc là rất thấp – chỉ chiếm 6,5% tỷ trọng

kim ngạch xuất nhập khẩu- nên con số tăng này không mang nhiều ý nghĩa. Ngược

lại, do tổng kim ngạch tăng trưởng phụ thuộc phần lớn vào kim ngạch nhập khẩu nên

hệ quả tất yếu là cán cân thương mại giữa Campuchia và Trung Quốc ngày càng thâm

hụt nặng nền. Kết thúc năm 2019, mức thâm hụt cán cân thương mại với Trung Quốc

của Campuchia đã đạt 6,56 tỷ USD tăng 5,23 lần so với mức thâm hụt 1,25 tỷ USD

của năm 2010. Và cho đến hiện tại, mức độ thâm hụt ngày càng lớn về con số và chưa

có dấu hiệu hạ nhiệt trong vòng gần 10 năm qua.

Biểu đồ 2.17 dưới đây cho thấy rõ ràng về sự biến động trong kim ngạch thương

mại xuất nhập khẩu và sự thâm hụt thương mại ngày càng lớn của Campuchia trong

quan hệ song phương với Trung Quốc. Đây là con số đáng báo động vì sự lệ thuộc

của Campuchia vào thị trường Trung Quốc trong 10 năm qua. Điều này có thấy sự

khó khăn của Campuchia trong thời gian tới vì khoảng cách về thâm hụt gia tăng quá

lớn sẽ ảnh hưởng nhiều chiều đối với nền kinh tế Campuchia nói riêng và đất nước

84

Campuchia nói chung.

Biểu đồ 2.17: Cán cân thương mại Campuchia-Trung Quốc (2010-2019)

12

10

8

6

4

2

0

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

-2

-4

-6

-8

Cán cân thương mại

Xuất khẩu

Nhập khẩu

Tổng kim ngạch XNK

Đơn vị: Tỷ USD

Nguồn: Trademap.org, ITC

b) Cán cân thương mại Lào-Trung Quốc

Tiếp theo, tác giả xem xét thêm trường hợp về quan hệ song phương và cán cân

thương mại giữa lào vào Trung Quốc. Theo thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Lào,

trong giai đoạn 2011-2016, trị giá thương mại hai chiều giữa Lào và Trung Quốc có

xu hướng tăng lên hàng năm từ 1,3 tỷ USD năm 2011 lên 1,7 tỷ USD năm 2012 và

3,6 tỷ USD năm 2014. Tuy nhiên, hai năm tiếp theo 2015, 2016 kim ngạch thương

mại Lào –Trung Quốc lại giảm mạnh xuống còn 2,5 tỷ USD (2015) và 1,9 tỷ USD

(2016). Nguyên nhân của sự sụt giảm mạnh này là do tác động của suy thoái kinh tế

toàn cầu khi giá cả hàng hóa thế giới sụt giảm như giá khoáng sản, cao su. Tuy vậy,

cán cân thương mại của Lào-Trung Quốc lại thặng dư và có chiều hướng tăng trong

hai năm qua. Và trong 3 năm trở lại đây, 2017- 2019, kim ngạch xuất nhập khẩu của

Lào và Trung Quốc vẫn tiếp tục tăng trưởng. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu vào

cuối năm 2019 đạt 3,95 tỷ USD tăng khoảng 1,59 tỷ USD so với năm 2016 tương

ứng với tỷ lệ tăng là 68%. Bên cạnh đó, Lào có được thăng dư thương mại trong 3

năm trở lại đây với Trung Quốc, tuy con số không ở mức cao (2017 là 0,15 tỷ; 2018

85

là 0,57 tỷ và năm 2019 là 0,37 tỷ).

Khi nhìn vào biều đồ 2.17 dưới đây, có thể thấy Lào đang cải thiện rất tốt tình

hình về cán cân thương mại giữa Lào và Trung Quốc. Tuy có những năm Lào vẫn ghi

nhận sự thâm hụt, tuy nhiên vào các năm tiếp theo Lào đã có sự thặng dư trở lại. Cụ

thể: năm 2013, Lào có thâm hụt thương maị với Trung Quốc là 712 triệu USD nhưng

các năm 2014- 2019 thì con số thâm hụt giảm dần và thặng dư trở lại vào năm 2015.

Bên cạnh đó, Lào cũng đã cân đối rất tốt về vấn đề xuất – nhập khẩu song phương

giữa Lào và Trung Quốc. Giữa tình trạng nhập xuất siêu dù không lớn và không bị

phụ thuộc quá lớn vào thị trường Trung Quốc như Campuchia.

Biểu đồ 2.17: Cán cân thương mại Lào –Trung Quốc (2008-2019)

5

4

3

2

1

0

2008

2009

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

-1

Cán cân thương mại

Xuất khẩu

Nhập khẩu

Tổng kim ngạch XNK

Đơn vị tính: Tỷ USD

Nguồn: Trademap.org, ITC

Nhìn vào Biểu đồ 2.18 dưới đây phản ánh về cán cân thương mại giữa 3 nước

Việt Nam, Lào và Campuchia trong quan hệ song phương với Trung Quốc cùng giai

đoạn 2010- 2019. Xét về mức độ thâm hụt, có thể thấy mức độ thâm hụt của Việt

Nam với Trung Quốc là lớn nhất và có tốc độ thâm hụt là cao nhất. So với mức thâm

hụt của Campuchia vào năm 2019 thì mức thâm hụt 34,15 tỷ USD của Việt Nam với

Trung Quốc gấp 5,21 lần. Điều này cho thấy, trong 3 quốc gia kể trên thì Việt Nam

cũng là quốc gia có quan hệ thương mại lớn nhất với Trung Quốc và cũng là quốc gia

86

có mực độ phụ thuộc lớn nhất đối với thị trường này. Đây là dấu hiệu tốt hay không

tốt sẽ phụ thuộc vào cách hành xử của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.

Biểu đồ 2.18: Mức độ thâm hụt cán cân thương mại Việt Nam, Lào,

Campuchia với Trung Quốc (2010-2019)

Đơn vị tính: Tỷ USD

Campuchia

Lào

Việt Nam

5

0.37

0

2 0 1 0

2 0 1 1

2 0 1 2

2 0 1 3

2 0 1 4

2 0 1 5

2 0 1 6

2 0 1 7

2 0 1 8

2 0 1 9

-5

-10

(6.56)

-15

-20

-25

-30

-35

(34.15)

-40

Nguồn: Trademap.org, ITC

2.3.6. Đánh giá nguy cơ của tình trạng thâm hụt cán cân thương mại Việt Nam -

Trung Quốc.

Tác giả đã nghiên cứu về các tác động của thâm hụt thương mại bao gồm cả

tích cựu và tiêu cực đến nền kinh tế trong Chương 1. Có thể thấy, thâm hụt thương

mại không hoàn toàn xấu mà nó là quá trình tất yếu đối với các quốc gia có nền kinh

tế đang phát triển. Nó là hệ quả cần thiết cho giai đoạn đầu của sự tăng trưởng đối

với một nền kinh tế. Tuy nhiên, tác giả cũng đã nêu ra nếu tình trạng thâm hụt thương

mại bị kéo dài và liên tục trong nhiều năm sẽ mang lại các hậu quả xấu cho nền kinh

tế. Nó làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức cạnh tranh của hàng hóa nội địa, hàng hóa

xuất khẩu của một quốc gia. Từ đó ảnh hưởng trực tiếp về vị thế của quốc gia đó trên

thế giới.

Trong 19 năm qua, Trung Quốc luôn là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt

Nam từ các mặt hàng là nguyên phụ liệu đầu vào cho các ngành công nghiệp- nông

nghiệp cho đến các hàng hóa tiêu dùng nội địa trong nước. Và Việt Nam cũng đã xuất

87

khẩu nhiều mặt hàng cùng loại sang Trung Quốc như: các mặt hàng dệt may, da giày,

cơ khí chế tạo, linh phụ kiện điện tử…. Có thể thấy mối quan hệ hai chiều này phần

nào đã khiến hàng hóa của Việt Nam khó có thể cạnh tranh lại hàng hóa của Trung

Quốc về nhiều mặt như: giá thành, thời gian cung ứng, chi phí sản xuất, nguồn hầng

có sẵn,… Sự chiếm ưu thế tuyệt đối này không chỉ diễn ra tại thị trường Trung Quốc

mà ngay cả trên sân nhà của Việt Nam. Chúng ta có thể dễ dàng nhận ra sự có mặt

của các mặt hàng tiêu dùng từ Trung Quốc với các mẫu mã đa dạng, tính năng ưu việt

và nhiều mặt hàng cần sử dụng các công nghệ cao như máy móc, thiết bị công

nghệ,…. Những năm gần đây, Chính phủ Việt Nam đã nhiều lần phát động các chiến

dịch như: “Người Việt ưu tiên dùng hàng Việt”, chương trình “Thương hiệu quốc

gia” nhằm gia tăng sức cạnh tranh của hầng nội địa Việt Nam và hướng người tiêu

dùng trong nước lựa chọn các hàng hóa nội địa thay vì hàng hóa nhập khẩu, đặc biệt

có nguồn gốc xuất xứ từ Trung Quốc. Tuy vậy, với các yếu tố kém hơn về giá thành,

mẫu mã và cả chất lượng sản phẩm đã tạo ra sự yếu thế, giảm sức cạnh tranh của hàng

hóa Việt Nam so với hàng hóa do Trung Quốc sản xuất ngay tại sân nhà của Việt

Nam.

Sự thâm hụt thương mại của Việt Nam trong mối quan hệ song phương về

kinh tế giữa hai nước kéo dài sẽ gia tăng các nguy cơ phụ thuộc của nền kinh tế Việt

Nam vào thị trường Trung Quốc. Điều này có thể tạo ra cú sốc kinh tế từ bên ngoài.

Dễ dàng nhận ra, tình trạng thâm hụt không được cải thiện sẽ làm cho nền kinh tế

Việt Nam ngày càng lệ thuộc vào các nguồn cung ứng từ thị trường Trung Quốc,

thậm chí là các ngành sản xuất có thế mạnh của chính chúng ta. Và khi đó, bất kỳ sự

biến động nào xuất phát từ thị trường Trung Quốc cũng có thể gây tác động ngược

đến tình hình sản xuất và xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam, đó chính là các cú sốc

từ bên ngoài. Ví dụ: khi biến động giá nguyên vật liệu tại Trung Quốc tăng cao sẽ

xuất hiện tình trạng khan hiếm nguồn cung đầu vào như: xăng dầu, bông sợi, sắt

thép…. sẽ kéo theo các giá thành sản xuất có sử dụng các mặt hàng này tăng theo.

Bên cạnh đó, các mặt hàng phụ trợ khác trong nước cũng sẽ tăng theo, gây ra áp lực

cho nền kinh tế khi giá cả hàng hóa tăng cao. Điều này tác động trực tiếp đến tiêu

dùng nội địa và gây khó khăn cho xuất khẩu hàng hóa. Nếu tình trạng này tiếp tục

kéo dài và không có sự cải thiện sẽ dẫn đến tình trạng lạm phát tăng cao, các doanh

88

nghiệp làm ăn thua lỗ và gia tăng tình trạng thất nghiệp. Vì vậy, các nhà hoạch định

chính sách của Việt Nam cần phải theo sát những thay đổi trong cơ chế chính sách và

biến động tại thị trường Trung Quốc. Từ đó, có sự điều chỉnh cần thiết về chính sách

phù hợp với sự biến động này từ nước bạn. Điều này sẽ giảm thiểu các tác động tiêu

cực đến các doanh nghiệp thương mại- sản xuất trong nước và hạn chế tình trạng thất

nghiệp có thể xảy ra đối với người lao động.

Tóm lại, sau khi có sự nghiên cứu về phân tích các số liệu thống kê của kịm

ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam và Trung Quốc nói riêng cũng như cán cân

thương mại giữa hai nước trong giai đoạn 2016- 2019 nói chung, bên cạnh đó việc

tìm hiểu thêm các cán cân thương mại giữa các nước lân cận có cùng vị trí địa lý như:

cán cân thương mại giữa Lào với Trung Quốc; Campuchi với Trung Quốc và so sánh

với mức độ thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc. Tác gia có thấy răng

thâm hụt thương mại với Trung Quốc đã kéo dài trong 19 năm qua (từ năm 2001) và

đến năm 2015 con số thâm thụ thương mại đã lên đến mức kỷ lục, tăng 172 lần so

với mức thâm hụt thương mại năm 2001. Các năm sau đó, 2016- 2018 đã có dấu hiệu

tích cực khi thâm hụt thương mại giảm với mức giảm khoảng 25-30%. Tuy nhiên,

năm 2019, mức thâm hụt lại gia tăng trở lại đạt 34,2 tỷ USD và là mức cao nhất trong

20 năm trở lại đây. Có thể thấy, Việt Nam đang và đã có những nỗ lực nhất định nhằm

giảm bớt sự phụ thuộc về thương mại đối với quan hệ song phương giữa hai nước.

Tuy nhiên, Việt nam sẽ vẫn phải nhập khẩu từ Trung Quốc là chủ yếu và chưa thể

phát triển lĩnh vực sang thị trường đông dân số 1 thế giới này trong vài năm tới.

Nhưng điều đó sẽ đưa rac các thách thức và Chính phủ cần phải có những giải pháp

phù hợp hơn nữa. Các định hướng cần rõ ràng và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp

Việt Nam, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân phát triển và có đủ điền kiện đẩy mạnh

xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc. Điều này sẽ tăng cường nội lực của chính nền

kinh tế và giảm dần sự phụ thuộc vào thị trường này. Trong Chương tiếp theo, tác giã

sẽ tìm hiểu rõ hơn về các chủ trương của Chính phủ trong việc cải thiện cán cân

thương mại của Việt Nam với Trung Quốc, đồng thời học hỏi kinh nghiệm từ một số

các nền kinh tế điển hình nhằm đưa ra các giải pháp cho vấn đề này.

89

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP TRONG VIỆC CẢI THIỆN CÁN CÂN

THƯƠNG MẠI VỀ HÀNG HÓA GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC

3.1. Quan điểm chỉ đạo và định hướng của Chính phủ trong việc cải thiện cán

cân thương mại Việt Nam –Trung Quốc

3.1.1. Quan điểm chỉ đạo của Chính phủ trong việc cải thiện cán cân thương mại

Việt Nam- Trung Quốc

Nhập siêu từ Trung Quốc vẫn đang là vấn đề nan giải cho các nhà hoạch định

chính sách Việt Nam trong nhiều năm trở lại đây. Nếu tính từ năm 2000 trở về trước,

Việt Nam xuất siêu sang Trung Quốc thì từ năm 2001 trở đi, Việt Nam hoàn toàn

nhập siêu từ quốc gia này và thậm chí còn tăng nhanh chóng.Trong chương 2, tác giả

đã nghiên cứu thực trạng của cán cân thương mại Việt Nam – Trung Quốc trong một

giai đoạn dài và cụ thể thời kỳ 2010-2019. Qua đó cho thấy chính sự thâm hụt cán

cân thương mại kéo dài cùng khoảng cách chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu

của Việt Nam với Trung Quốc ngày càng lớn đã đẩy nền kinh tế Việt Nam ngày càng

lệ thuộc nhiều hơn vào thị trường Trung Quốc trong quá trình hội nhập kinh tế quốc

tế. Giai đoạn 2016-2018, tình hình cán cân thương mại của Việt Nam có nhiều chuyển

biến tích cực trong đó mức thâm hụt thương mại song phương với Trung Quốc cũng

có chiều hướng giảm dần và có tăng lại vào năm 2019. Tuy vậy, điều này cho thấy

những chủ trương định hướng của Chính phủ trong giai đoạn này được đã ít nhiều

thành công đối với “Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011- 2020, định

hướng đến năm 2030” theo Quyết định số 2471/QĐ-TTg ngày 28 tháng 12 năm 2011

đã nêu rõ các vấn đề trọng điểm sau:

Một là thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu:

Đây được coi là giải pháp chủ yếu, lâu dài để giảm nhập siêu từ Trung Quốc.

Để thúc đẩy xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc, Bộ Công Thương đã chủ động

đàm phán và ký kết với phía Trung Quốc các thỏa thuận hợp tác nhằm tạo hành lang

pháp lý quan trọng, minh bạch và ổn định cho hàng xuất khẩu của Việt Nam, đặc biệt

90

là các nhóm hàng có thế mạnh như nông sản, thủy sản. Trong đó, Bộ Công Thương

đặc biệt tăng cường cải cách thủ tục hành chính nhằm giảm thiểu các thủ tục thông

quan hàng hóa, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, thông

qua các văn phòng Xúc tiến thương mạị tiếp cận và có thể thành lập một số các văn

phòng moliws tại các địa phương trọng điểm tại thị trường Trung Quốc nhằm tạo cầu

nối xúc thiến thương mại với từng vùng như: thành phố Thành Đô (tỉnh Tứ Xuyên),

Hàng Châu (tỉnh Chiết Giang), Hải Khẩu (tỉnh Hải Nam), Trùng Khánh và thành phố

Nam Kinh (tỉnh Giang Tô)...để đẩy mạnh xuất khẩu.

Hai là đơn giản hóa thủ tục xuất nhập khẩu chuyên ngành

Bộ Công Thương cần liên tục phối hợp với các bộ ngành khác thuộc Chính Phủ

để rà soát các danh mục quản lý để loại bỏ các thủ tục không cần thiết, rườm rà. Thông

qua các diễn đàn tiếp xúc và trao đổi thông tin nhằm tư vấn, tháo gỡ các khó khăn của

doanh nghiệp đang vướng mắc. Bên cạnh đó, cần tái cơ cấu lại các doanh nghiệp nhà

nước trì trệ, nâng cao về năng lực quản trị, đẩy mạnh hiệu quả về kinh doanh.

Bên cạnh đó, Chính phủ cũng cần rà soát lại các thủ tục về hành chính, cắt giảm

các thủ tục không cần thiết, đặc biệt chú trọng cải cách hành chính về các lĩnh vực ảnh

hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu và doanh nghiệp như: lĩnh vực hải quan,

thuế, Chứng nhận xuất xứ hàng hóa, thủ tục cấp Giấy phép kinh doanh, Giấy chứng

nhận đầu tư, và giải quyết các thủ tục đầu tư cho sản xuất hàng xuất khẩu.

Ba là các biện pháp xử lý nhập siêu

Thực tế cho hàng nhập khẩu từ Trung Quốc liên tục tăng mạnh trong các năm

qua cho thấy nhu cầu nhập khẩu các loại hàng hoá từ Trung Quốc của Việt Nam rất

lớn. Bên cạnh đó, cùng với chính sách miễn giảm thuế theo khuôn khổ ACFTA, điều

này càng khó khăn hơn bao giờ hết. Trong khi đó, hàng hóa xuất khẩu sang thị trường

Trung Quốc này thể hiện sự chậm chạp trong tăng trưởng. Một phần nguyên nhân là

do các giải pháp hạn chế nhập siêu của Việt Nam chưa thể phát huy hiệu quả. Nhìn

về cán cân thương mại của Việt Nam có thể thấy sự gia tăng về mức độ thâm hụt cán

cân thương mại với Trung Quốc, trong giai đoạn 2016- 2019. Tuy nhiên, hạn chế

nhập siêu bằng mọi giá không phải là vấn đề mà Chính phủ cần siết chặt bằng mọi

biện pháp. Chính phủ cần khống chế mức nhập siêu trong giới hạn cho phép, tức là

91

mức nhập siêu có nhưng không ảnh hưởng lớn đến ổn định kinh tế vĩ mô như nợ nước

ngoài, cán cân thanh toán.

Mặc dù giai đoạn 2010-2015 là giai đoạn nền kinh tế thế giới đang trong thời

kỳ phục hồi sau suy thoái toàn cầu năm 2008-2009 nên tăng trưởng chậm và nhu cầu

nhập khẩu giảm so với giai đoạn trước thời kỳ nghiên cứu. Nền kinh tế Việt Nam

cũng bị ảnh hưởng bởi suy thoái kinh tế. Tuy mức độ tác động từ cuộc suy thoái này

đến Việt Nam không nhiều nhưng việc tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam có

phần giảm sút so với giai đoạn trước nhưng ở mức không đáng kể ( Bảng 3.1 dưới

đây). Từ năm 2015 đến 2019, nền kinh tế Việt Nam đã hồi phục và trở lại tăng trưởng

như thời điểm trước thời kỳ khủng hoảng. Có được điều này một phần do đóng góp

của tổng kim ngạch xuất nhập khẩu vào tăng trưởng chung của nền kinh tế.

Bảng 3.1: Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam giai đoạn 2010-2019

Đơn vị tính: %

Năm 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019

Tăng trưởng 6,24 5,25 5,42 5,98 6,68 6,21 6,81 7,08 7,02

Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam

Theo báo cáo tình hình kinh tế xã hội của Thủ Tướng Chính Phủ qua các năm

từ năm 2011 đến 2015, có thể thấy Chính phủ đã thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế,

chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tập trung vào các nội dung trọng điểm trong đó ưu

tiên phát triển công nghiệp theo hướng nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh, giảm

tỷ trọng công nghiệp khai thác, tăng tỷ trọng công nghiệp chế tạo có giá trị gia tăng

cao và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu; tiến tới chấm dứt xuất khẩu khoáng sản

thô; phát triển công nghiệp hỗ trợ, chủ động hợp tác sản xuất các thiết bị công nghệ

cao trong một số ngành công nghiệp mà nước ta có thế mạnh. Nhờ đó cơ cấu kim

ngạch hàng hóa xuất khẩu liên tục tăng từ năm 2010 đến 2019 (Biểu đồ 2.3, chương

2) và tỷ trọng các ngành công nghiệp trọng điểm cũng có nhiều chuyển biến tích cực:

Năm 2011, tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản chiếm 35,2% là

nhóm hàng đóng góp vào mức tăng kim ngạch xuất khẩu cao nhất với mức 47,5%;

nhóm hàng công nghiệp nhẹ chiếm 40,6%. Trong năm 2012, nhiều sản phẩm thuộc

92

nhóm hàng công nghiệp có kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh như: Điện thoại và linh

kiện 12,6 tỷ USD, tăng 97,7%; điện tử máy tính đạt 7,9 tỷ USD, tăng 69.1%; máy

móc, thiết bị phụ tùng 5.5 tỷ USD, tăng 26.9%. Năm 2012 là năm đầu tiên xuất khẩu

gạo đạt trên 8 triệu tấn, tương đương 3.7 tỷ USD. Cơ cấu kim ngạch hàng hóa xuất

khẩu năm 2012 cũng có sự thay đổi so với năm 2011: Tỷ trọng nhóm hàng công

nghiệp nặng và khoáng sản đạt 51,7 tỷ USD, tăng 49,9% và chiếm 45,1% (Năm 2011

là 35.6%), chủ yếu do tăng kim ngạch của điện thoại và linh kiện, tăng 97,7%. Năm

2014, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu đạt 150 tỷ USD, tăng 13,6% so với năm 2013.

Về cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu năm 2014, tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp nặng và

khoáng sản đạt 66,5 tỷ USD, tăng trưởng 12% so với năm trước. Các mặt hàng thuộc

nhóm này đã chiếm 44,3% về tỷ trọng của tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu. Các

mặt hàng chính thuộc nhóm này là điện thoại và linh kiện ước đạt 24,1 tỷ USD, tăng

trưởng 13,4% so với cùng kỳ và chiếm 16,1% về tỷ trọng kim ngạch hàng hóa xuất

khẩu

Năm 2015, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 9,8%. Đây là mức tăng cao nhất

trong vòng 5 năm trở lại. Điều này đã đóng góp quan trọng vào mức tăng trưởng

chung của nền kinh tế. Sự chuyển dịch về cơ cấu công nghiệp trong nền kinh tế đã đi

đúng hướng. Cụ thể là tăng tỷ trọng giá trị các mặt hàng về công nghiệp chế biến, chế

tạo. Trong khi đó, các mặt hàng về khai khoáng, gia công có xu hướng giảm về tỷ

trọng. Chính Phủ đã kiểm soát tốt mức nhập siêu ở mức 2%, dưới mức kế hoạch 5%

đẫ được Quốc hội thông qua. Bên cạnh đó, Chính phủ đảm bảo về an ninh năng lượng

cho nền kinh tế, đặc biệt là là điện cho các huyện đảo, vùng sâu, vùng xa. Đồng thời,

Chính phủ đã tích cực đẩy mạnh về tái cơ cấu ngành, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà

nước thuộc Bộ Công Thương đạt 93% kế hoạch đề ra.

Năm 2016, lần đầu tiên cán cân thương mại với Trung Quốc có dấu hiệu phục

hồi và giảm mức thâm hụt thương mại 13,4% so với mức đỉnh điểm của năm 2015.

Tình trạng tâm thụt thương mại được cải thiện do tốc độ tăng về giá trị hàng hóa nhập

khẩu giảm mạnh trong năm này. Bên canh đó, cơ cấu hàng hóa cho thấy sự dịch

chuyển nguồn nhập khẩu từ Trung Quốc sang một số thị trường khác trong đó điển

hình là Hàn Quốc (tốc độ tăng nhập khẩu 14,6% so với 2015) phục vụ các doanh

nghiệp FDI Hàn Quốc tại Việt Nam.

93

Năm 2019, tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt kết quả ấn tượng, với tốc độ

tăng 7,02%, vượt mục tiêu của Quốc hội đề ra từ 6,6-6,8%. Động lực chính của tăng

trưởng kinh tế năm nay tiếp tục là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (tăng 11,29%)

và các ngành dịch vụ thị trường (như ngành vận tải, kho bãi tăng 9,12%; bán buôn và

bán lẻ tăng 8,82%; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 8,62%). Cơ cấu

kinh tế năm 2019 cũng có những chuyển biến tích cực với tỉ trọng khu vực nông, lâm

nghiệp và thủy sản giảm xuống 13,96% GDP, so với mức 14,68% của năm 2018. Tỉ

trọng khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 34,49%; khu vực dịch vụ chiếm

41,64% và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,91%.

Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa vượt mốc 500 tỉ USD. Năm 2019,

tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa vượt mốc 500 tỉ USD, trong đó ghi nhận sự

tăng trưởng mạnh mẽ của khu vực kinh tế trong nước với tốc độ cao hơn rất nhiều

khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Cán cân thương mại với Trung Quốc tuy có sự

thâm hụt tiếp so với năm 2018, tuy nhiên xét tổng thể thì cán cân thương mại của Việt

Nam vẫn thặng dư 11,1 tỷ USD tăng 63,5% so với mức thặng dư 6,83 tỷ USD của

năm 2018.

Bốn là cần có giải pháp nhằm tăng cường quản lý đối với các hoạt động

thương mại tiểu ngạch giữa hai quốc gia, đặc biệt là thương mại giữa biên giới hai

nướ. Đặc biệt ngăn chăn các hoạt động buôn lậu và các mặt hàng cấm, ảnh hưởng

đến tình hình an ninh quốc gia.

Trong hoạt động kinh doanh thương mại với Trung Quốc, hình thức buôn bán

thấp nhất trong thương mại quốc tế, thiếu tính ổn định và rất phức tạp là hình thức

buôn bán tiểu ngạch qua biên giới. Bên cạnh đó, hình thức buôn bán này chứa đựng

nhiều yếu tố của kinh tế ngâm, bất hợp pháp và gây ảnh hưởng bất lợi đối với an sinh

xã hội do không được bảo hộ nhiều từ Nhà nước. Các vấn đề như buôn lậu hàng hóa

trái phép đã làm tràn ngập thị trường trong nước những hàng kém chất lượng, các mặt

hàng độc hại và thậm chí là cả những loại ma tuý tinh chế… gây thiệt hại lớn cho nền

kinh tế nói chung và doanh nghiệp kinh doanh thương mại trong nước nói riêng. Đây

cũng là một trong các nguyên nhân dẫn đến sự bất ổn đối với an ninh quốc gia nếu

vấn nạn về buôn bán bất hợp pháp và vận chuyển hàng hóa qua biên giới hai nước

không được kiểm soát tại các cửa khẩu. Có thể nói, những hành vi này đã xâm phạm

94

đến chủ quyền quốc gia đối với cả Việt Nam và Trung Quốc. Tuy rằng, Chính phủ

hai nước cũng đã có nhiều biện pháp nhằm kiểm soát và ngăn chặn trong thời gian

qua nhưng vẫn còn đâu đó tồn tại nhiều bất cập, trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động

về thương mại song phương giữa hai nước.

3.1.2. Định hướng của Chính phủ trong giai đoạn 2016-2020 và tầm nhìn đến năm

2030

Căn cứ vào định hướng và mục tiêu tổng quát về hoạt động xuất nhập khẩu trong

“ Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011-2020, định hướng đến năm 2030”

theo Quyết định số 2471/QĐ-TTg của Thủ Tướng Chính phủ ban hành ngày

28/12/2011, trong giai đoạn tiếp theo (2016-2020), Chính phủ vẫn tiếp tục định hướng

đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng có thế mạnh của Việt nam và tranh thu công nghệ

kỹ thuật tiên tiến của các nước nhằm mở rộng các ngành công nghiệp chế biến chế

tạo với mục tiêu tốc độ tăng trưởng nhập khẩu thấp hơn tăng trưởng xuất khẩu với

mức tăng trưởng bình quân dưới 10%/ năm. Trong đó:

Định hướng xuất khẩu

Giai đoạn tiếp theo vẫn cần tập trung phát triển các mặt hàng công nghiệp mới

có giá trị gia tăng cao, hàm lượng công nghệ và chất xám cao, trên cơ sở thu hút mạnh

đầu tư trong nước và nước ngoài vào các ngành sản xuất định hướng xuất khẩu, những

ngành chế tạo công nghệ trung bình và công nghệ cao.

Cần chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu hướng mạnh vào các ngành chế

biến sâu, phát triển các hàng hóa xuất khẩu được ứng dụng khoa học công nghệ tiên

tiến. Dần tiến tới giảm dần xuất khẩu các nhóm hàng khoáng sản thô tuy có lợi thế

nhưng hạn chế về nguồn cung nguyên phụ liệu.

Tiếp tục phát triển công nghiệp ngành hỗ trợ, nâng cao tỷ lệ giá trị hàng hóa

trong nước, giảm phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu từ nước ngoài.

Định hướng nhập khẩu

Chủ động điều chỉnh nhịp độ tăng trưởng nhập khẩu hàng hóa đồng thời phát

triển sản xuất nguyên, nhiên liệu phục vụ các ngành hàng xuất khẩu, đáp ứng các nhu

cầu trong nước và phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, kiểm soát chặt việc nhập khẩu

các mặt hàng không khuyến khích nhập khẩu, góp phần giảm giá trị nhập siêu trong

dài hạn.

Cần khuyến khích nhập khẩu công nghệ cao, công nghệ tiên tiến trên cơ sở khai

95

thác lợi thế từ các hiệp định thương mại tự do với các quốc gia có nền công nghiệp phát

triển

Cần hạn chế nhập khẩu hàng hóa mà có thể sản xuất nội địa, các mặt hàng xa xỉ

và đặc biệt ngăn chặn việc nhập lậu hàng hóa từ Trung Quốc để bảo về hàng nội địa.

Áp dụng các biện pháp hạn chế nhập khẩu để bảo vệ nền sản xuất trong nước, hạn

chế về ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến sức khỏe. Thông qua việc xây dựng các

biện pháp phi thuế quan phù hợp với Hiệp định thương mại tự do đã ký kết giữ Việt

Nam- Trung Quốc như biện pháp tự vệ khẩn cấp, áp thuế chống bán phá giá hàng

hóa, các tiêu chuẩn kỹ thuật như các biện pháp kiểm dịch động vật.

Để thực hiện mục tiêu chiến lược này, Bộ Công thương cần triển khai một cách

đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp và có sự phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành và các

địa phương. Trong đó tiếp tục hoàn thiện các thể chế pháp luật; các cơ chế chính sách,

chiến lược; tiếp tục quy hoạch, thu hút đầu tư từ nước ngoài và tạo thuận lợi cho

doanh nghiệp cũng như người dân phát triển sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị

trường. Luật phát triển công nghiệp phụ trợ phải được nghiên cứu xây dựng để bảo

đảm về tính pháp lý cao hơn, hỗ trợ thúc đẩy đối với phát triển công nghiệp phụ trợ.

Đây đang là nguyên nhân chính làm gia tăng thâm hụt của Việt Nam. Hiện tại, các ngành

hàng xuất khẩu thế mạnh của Việt Nam đang phải nhập các nguồn nguyên liệu đầu vào

từ thị trường Trung Quốc. Như vậy, cần đồng thời phát triển các ngành công nghiệp hỗ

trợ mới cùng với việc đẩy mạnh xuất khẩu mới có thể hạn chế nhập siêu mới giúp cải

thiện tình trạng thâm hụt cán cân thương mại của Việt Nam đối với Trung Quốc nói riêng

và cán cân thương mại tổng thế nói chung. Bên cạnh đó, việc này sẽ tạo thêm công ăn

việc làm trong nước và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

3.2. Đề xuất các giải pháp cải thiện cán cân thương mại Việt Nam- Trung Quốc

Trong chương 1, tác giả nhận xét rằng nhập siêu không hoàn toàn tiêu cực đối

với các nền kinh tế và thậm chí các quốc gia đang phát triển có thể phải chấp nhận

thâm hụt thương mại trong quá trình chuyển đổi khi có nhu cầu lớn đối với nguyên

vật liệu, thiết bị máy móc hay công nghệ của nước ngoài trong khi khả năng và trình

độ sản xuất trong nước còn thấp kém, điều kiện nguồn vốn trong nước còn hạn chế.

Tuy nhiên, nếu quy mô nhập siêu tăng cao và kéo dài, thì cũng đồng nghĩa với quá

trình tích lũy tư bản, công nghệ từ nước ngoài trước đã chuyển hóa không hiệu quả.

Nhập siêu kéo dài được coi là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến bất

96

ổn kinh tế vĩ mô, làm sâu thêm vòng xoáy tỷ giá - lạm phát – tỷ giá và đẩy nền kinh

tế ở trạng thái dễ bị tổn thương từ những cú sốc bên ngoài. Do vậy, thu hẹp nhập siêu

và tiến tới cân bằng cán cân thương mại phải được coi là một trong những ưu tiên

hàng đầu. Mặc dù Việt Nam xuất siêu lớn với các nước như EU và Hoa Kỳ, Nhật Bản

nhưng phần lớn những mặt hàng có kim ngạch cao như dệt may, da giày . Đây lại là

những ngành mà có nhập khẩu các nguyên liệu đầu vào nhập khẩu từ Trung Quốc.

Điều đó có nghĩa rằng là xuất khẩu đang phụ thuộc vào nhập khẩu. Đó chính là

nguyên nhân chính càng khiến cho yêu cầu thu hẹp tình trạng nhập siêu ngày càng

cấp bách và cần thiết hơn bao giờ hết nhằm giảm bớt sự phụ thuộc của Việt Nam vào

thị trường Trung Quốc . Bên cạnh đó, sẽ tạo được giá trị gia tăng lớn hơn trong hàng

hóa xuất khẩu của Việt Nam.

Nhằm tiếp tục góp phần giảm thâm hụt thương mại với Trung Quốc trong thời

gian tới, dựa trên các tìm hiểu của các nghiên cứu trước đây về vấn đề này kếp hợp

cùng với sự phân tích của tác giả về nguyên nhân thực trạng thâm hụt thương mại của

Việt Nam trong quan hệ song phương với Trung Quốc (gồm 5 nguyên nhân đã được

đề cập trong chương 2), tác giả đề xuất về 2 nhóm giải pháp ở cấp độ vi mô và cấp

độ vĩ mô.

3.3.1. Giải pháp ở cấp độ vĩ mô

3.3.1.1 Hoàn thiện các chính sách về thương mại của Chính phủ

Để có thể đạt được mục tiêu về giảm thâm hụt thương mại với Trung Quốc,

Chính phủ cần phải có các chính sách nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp nội địa trong

nước và các cơ chế đặc thù để các doanh nghiệp có sự tham gia vào chu trình luân

chuyển hàng hóa toàn cầu. Đầu tiên, cần phải phát triển các doanh nghiệp sản xuất về

các nguyên phụ liệu đầu vào như: công nghiệp điện tử, công nghiệp dệt may, công

nghiệp chế biến,.. Để đạt được mục tiêu trên, tác giả đề xuất một số giải pháp như

sau:

+ Chính phủ cần rà soát và hoàn thiện môi trường pháp lý để tạo điều kiện thuận

lợi cho hoạt động của doanh nghiệp. Rà soát, hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý

hoạt động xuất nhập khẩu, tăng cường công tác kiểm tra thi hành pháp luật, kịp thời

phát hiện những vấn đề phát sinh để đề xuất phương hướng chỉnh sửa, bổ sung phù

hợp với thực tế.

97

+ Đẩy mạnh đơn giản hóa thủ tục hành chính, hoàn thiện thể chế, hoàn thiện

môi trường đầu tư, kinh doanh và xuất nhập khẩu, tạo thuận lợi và giảm chi phí cho

DN; Tăng cường dịch vụ công trực tuyến, triển khai cơ chế một cửa quốc gia. Đặc

biệt, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, đặc biệt là thủ tục thuế và hải quan nhằm

tạo điều kiện thuận lợi cao nhất cho DN xuất khẩu. Thống kê cho thấy, trong thời

gian qua, các giải pháp về cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, hải quan

đã giúp DN tiết kiệm được 10 - 20% chi phí và 30% thời gian thông quan hàng hóa

xuất nhập khẩu, hỗ trợ DN nâng cao năng lực cạnh tranh.

+ Xây dựng các chính sách hỗ trợ DN đầu tư đổi mới thiết bị, đổi mới công nghệ

và đổi mới quy trình sản xuất sản phẩm đạt chất lượng, tiêu chuẩn của các thị trường

xuất khẩu. Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và triển khai, ứng dụng khoa học và công

nghệ, đặc biệt là công nghệ cao, nhằm nhanh chóng chuyển sang phương thức sản

xuất và phương thức quản trị tiên tiến theo các hướng phát triển của cuộc Cách mạng

công nghiệp 4.0.

+ Chính phủ phải là cầu nối, xây dựng các chương trình xúc tiến thương mại hỗ

trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường Trung Quốc. Các văn phòng, trung tâm xúc tiến

thương mại cần cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết không chỉ cho các doanh

nghiệp Việt Nam mà cả các doanh nghiệp Trung Quốc. Bên cạnh đó, cần hỗ trợ giải

quyết những tranh chấp hay vướng mắc của doanh nghiệp Việt Nam với đối tác Trung

Quốc trong quá trình trao đổi thương mại. Tăng cường công tác thông tin thị trường

để tạo điều kiện cho các DN khai thác tốt cơ hội xuất khẩu. Nâng cao hiệu quả và đổi

mới phương thức xúc tiến thương mại, tập trung vào các hàng hóa có lợi thế xuất

khẩu, các thị trường tiềm năng và các thị trường ngách để mở ra các thị trường mới

nhằm đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Tăng cường công tác nghiên cứu, phân tích,

dự báo thị trường hỗ trợ DN.

+Chính phủ và các cơ quan chức năng như Bộ Công Thương cũng cần nghiên

cứu, xây dựng và ban hành tiêu chuẩn chất lượng đối với các loại hàng hoá xuất khẩu,

cần khẩn trương nghiên cứu, xây dựng và ban hành các quy định về hàng rào kỹ thuật,

đặc biệt về vấn đề kiểm dịch động thực vật nhằm kiểm soát và hạn chế nhập khẩu.

Bên cạnh đó, biện pháp phòng vệ thương mại vẫn cần tiếp tục tăng cường nhằm tạo

98

môi trường cạnh tranh công bằng, giảm tối đa sự thua thiệt trong xuất khẩu và bảo vệ

chính các doanh nghiệp nội địa.

3.3.1.2 Phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ

Trong cơ cấu nhập khẩu của Việt Nam, tỷ lệ nhập tư liệu sản xuất rất cao (trên

90%). Tuy nhiên, tỷ trọng nhập khẩu là nguyên vật liệu phụ liệu cho sản xuất trong

nước và xuất khẩu còn rất lớn. Theo báo cáo ngành dệt may của FPT Securities tháng

4/2018, giá trị nhập khẩu nguyên liệu ngành dệt may từ Trung Quốc sử dụng cho xuất

khẩu năm 2017 có tỷ lệ giá trị gia tăng đạt 48,1%. Trung Quốc cũng là nhà cung cấp

máy móc dệt may và trang thiết bị cho 80% thị trường máy móc dệt may trong nước.

Đầu vào nhập khẩu của ngành da giày cũng chiếm từ 65 đến 70%. Trong các ngành

công nghiệp chế tạo khác như ô tô, xe máy, điện tử, hóa chất… thì vấn đề nguyên

phụ liệu cũng hết sức khó khăn do ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam còn non

yếu và chưa đáp ứng được nhu cầu trong nước.

Phát triển công nghiệp phụ trợ được xem là giải pháp thiết thực để giúp các

ngành sản xuất chủ động được các nguyên vật liệu đầu vào. Các doanh nghiệp nội địa

có thể chủ động lựa chọn nhà cung cấp và cắt giảm chi phí sản xuất cũng như giảm

giá thành sản phẩm của mình. Thông qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng

hóa xuất khẩu của chính doanh nghiệp. Đây được xem là biện pháp nhằm giải quyết

gốc rễ tình trạng xuất khẩu dựa vào nhập khẩu của Việt Nam hiện nay.

Để phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ, tác giả Hoàng Văn Châu và các

đồng tác giả (2010) đã đề xuất 9 nhóm giải pháp đối với chính sách phát triển của

Việt Nam bao gồm:

 Xây dựng thể chế phát triển công nghiệp hỗ trợ

 Tăng cường phổ biến thông tin doanh nghiệp

 Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ

 Tăng cường liên kết doanh nghiệp

 Phát triển nguồn nhân lực công nghiệp hỗ trợ

 Phát triển cụm công nghiệp hỗ trợ

 Xây dựng chính sách thuế và thuế quan hợp lý

 Hỗ trợ phát triển khoa học công nghệ

99

Trong đó, giai đoạn 2011-2012 là giai đoạn chuẩn bị về thể chế và cơ sở hạ tầng;

và giai đoạn 2012-2015 là giai đoạn về xây dựng các doanh nghiệp tiên phong. Giai

đoạn tiếp theo 2016-2020 sẽ là giai đoạn tăng cường liên kết các doanh nghiệp công

nghiệp hỗ trợ. Về nguồn lực tham gia ngành công nghiệp hỗ trợ: Có thể thu hút các

nhà đầu tư nước ngoài và tiếp nhận công nghệ nước ngoài; hoặc nhóm các doanh

nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam. Hiện nay, tại nhiều quốc gia trên thế giới, các doanh

nghiệp vừa và nhỏ là nguồn chính để hình thành các doanh nghiệp hỗ trợ. Tuy nhiên,

ở Việt Nam ngành công nghiệp này chưa phát triển. Xuất phát từ nhiều nguyên nhân

về năng lực sản xuất và trình độ quản lý của hệ thống các doanh nghiệp vừa và nhỏ

còn yếu kém. Chính vì vậy, để thúc đẩy ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam cần

thực hiện các giải pháp như sau:

- Trước hết phải thu hút đầu tư nước ngoài bằng cách cải thiện hệ thống hạ tầng cơ

sở như điện, nước, thông tin liên lạc, giao thông vận tải để tạo điều kiện thuận lợi cho

ngành công nghiệp phụ trợ đáp ứng yêu cầu về tiến độ sản xuất hàng hóa. Tiếp đó, phát

triển dịch vụ logistics nhằm đưa hàng hóa xuất khẩu tới các tỉnh, thành lớn của Trung

Quốc với chi phí và thời gian tiết kiệm nhất. Bởi đây là các yếu tố liên quan mật thiết

đến chi phí, thời gian giao hàng và quyết định ưu thế trong kinh doanh.

- Xây dựng các chính sách ưu đãi đầu tư giành cho các doanh nghiệp nằm trong

cụm công nghiệp. Có thể kể đến các ưu đãi như: ưu đãi về Thuế, đất đai, thủ tục hành

chính và các chính sách hỗ trợ đặc biệt khác. Hoàn thiện các chính sách hỗ trợ tín

dụng với lãi suất ưu đãi để khuyến khích xuất khẩu sang thị trường này nhằm góp

phần vào tăng trưởng kinh tế chung của cả nước và hạn chế nhập siêu đã tồn tại và

kéo dài hơn 20 năm qua. Bên cạnh đó, Chính phủ cần triển khai đồng bộ, quyết liệt

các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn và tạo điều kiện cho DN nhằm tiếp cận nguồn

vốn ngân hàng một cách hiệu quả như chỉ đạo các TCTD thực hiện miễn, giảm lãi,

cơ cấu lại thời hạn trả nợ, kéo dài thời hạn cho phép các TCTD được cho vay bằng

ngoại tệ đối với một số nhu cầu vốn của DN xuất khẩu… Bên cạnh đó, Chính phủ

cần tiếp tục hướng dòng vốn tín dụng vào sản xuất, chỉ đạo các TCTD tập trung vốn

cho các lĩnh vực ưu tiên, triển khai các chương trình cho vay liên kết.

- Bên cạnh đó Chính phủ cũng cần có kế hoạch từng bước nâng cao năng lực

100

của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước. Cần hỗ trợ các doanh nghiệp này dần

thay thế các doanh nghiệp FDI trong ngành công nghiệp hỗ trợ cũng như tạo các điều

kiện để các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển thông qua các biện pháp khác nhau.

Ví dụ: hỗ trợ đặc biệt về vốn, ưu đãi hay hỗ trợ về Thuế như miễn thuế nhập khẩu,

hay bãi bỏ các thuế quan đánh vào linh kiện nhập khẩu.

- Hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể nhập khẩu công nghệ tiên tiến từ

các quốc gia có nền công nghệ phát triển như Mỹ, EU và Nhật Bản. Đây là giải pháp

quan trọng mà kinh nghiệm từ Trung Quốc đã thực hiện ngay từ đầu những năm thập

kỷ 90 để phát triển về năng lực sản xuất các ngành công nghiệp hỗ trợ của nước này

đáp ứng nhu cầu xuât khẩu.

3.3.1.3 Cải thiện cơ cấu về hàng xuất nhập khẩu

Hàng với mục đích xuất khẩu phải cần có sự đa dạng về mẫu mã, phong phú về

chủng loại sản phẩm mới có thể thỏa mẫn nhu cầu thị hiếu của các thị trường khác

nhau, khu vực khác nhau trên thế giới và các quốc gia khác nhau. Thực tế đã cho thấy

hàng Trung Quốc rất đa dạng, phong phú về mẫu mã cũng như chất lượng sản phẩm

cũng ở mức tốt mà giá thành phù hợp. Do đó, không chỉ các doanh nghiệp xuất khẩu

mà ngay cả các doanh nghiệp nội địa cũng chật vật đối với hàng có nguồn gốc từ

Trung Quốc.

Cần có các biện pháp để giảm bớt áp lực này của hàng hóa Việt Nam như:

+ Cần nghiên cứu thị trường một cách kỹ lưỡng hơn nữa nhằm thu thập thêm

các thông tin khách hàng, các phong tục tập quán của thị trường. Chính phủ (Bộ Công

Thương) cần phối hợp với các hiệp hội ngành hàng, các DN đánh giá hoạt động sản

xuất, xuất khẩu và các Vụ thị trường ngoài nước đánh giá nhu cầu nhập khẩu của từng

mặt hàng cụ thể ở từng địa phương của Trung Quốc. Từ đó có chiến lược tập trung

vào một số hàng hóa xuất khẩu chính mới có thể định hướng phát triển các dịch vụ

gia tăng hỗ trợ cho xuất khẩu hàng hóa.

+ Cần chủ động xây dựng các mạng lưới cung cấp nguyên vật liệu, bán thành

phẩm tại chỗ cho doanh nghiệp với giá rẻ và ít rủi ro hơn để thay thế dần các nguyên

phụ liệu nhập khẩu.

+ Hàng hóa xuất khẩu phải phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế và đảm bảo các

yếu tố kỹ thuật. Đặc biệt, cần phải kiểm soát cả yếu tố đầu vào cũng như đầu ra của

101

hàng hóa nhằm đảm bảo về chất lượng của hàng hóa. Tiến tới áp dụng các hệ thống

về quản lý tiêu chuẩn đo lượng về chất lượng sản phẩm; không nên có sự phân biệt

giữa hàng tiêu thụ nội địa trong nước và hàng xuất khẩu. Cần phải có sự nhất quán

về chất lượng giữa hai thị trường tiêu thụ. Việc chấp nhận của thị trường nội địa sẽ là

tiền đề nhằm nâng cao tính cạnh trạnh của hàng hóa và tạo điều kiện thuận lợi cho

xuất khẩu hàng hóa. Tránh tình trạng về hàng xuất khẩu sang các thị trường nước

ngoài thì có chất lượng tốt còn chất lượng hàng nội địa thì kém chất lượng và không

chú trọng đầu tư về kiểu dáng, mẫu mã. Kinh nghiệm từ Trung Quốc, nước này đã

quản lý nghiêm ngặt và có các quy định rất chặt chẽ đối với doanh nghiệp sản xuất

ngay trong thời kỳ đầu về định hướng xuất khẩu. Thực tế cho thấy Việt Nam vẫn còn

rất lỏng lẻo và chưa quyết liệt như nước bạn đối với tình trạng này.

+ Từng bước nâng cao hàm lượng nội địa của sản phẩm bằng cách quy hoạch

các vùng chuyên canh nguyên phụ liệu đầu vào phục vụ cho ngành dệt may, giày da

ngành sản xuất công nghiệp nặng. Bởi đây là những nhóm hàng nhập khẩu lớn từ

Trung Quốc để nhằm phục vụ sản xuất xuát khẩu. Trong thời gian gần đây, Chính

phủ Việt Nam đã bắt đầu có áp dụng tỷ lệ nội địa hóa bắt buộc trong các sản phẩm về

điện tử- cơ khí- điện trong xuất khẩu thông qua các biện pháp thuế quan. Đây là biện

pháp hữu hiệu mà một số quốc gia đã thực hiện thành công.

3.3.1.4 Nâng cao vai trò của thương mại Biên giới

Trung Quốc và Việt Nam là hai nước láng giềng có chung đường biên giới.

Nhìn vào lịch sử hai nước có thể thấy việc trao đổi thương mại biên giới đã hình thành

từ rất lâu và đang diễn ra rất sôi nổi trong nhiều năm nay. Đến thời điểm hiện tại, Chính

phủ hai nước đã ký kết nhiều Hiệp định thương mại Biên giới giữa hai nước và đã từng

bước kiểm soát quản lý đối với hoạt động này. Tuy nhiên, về thực tế vẫn còn nhiều bất

cập và kẽ hở trong kiểm soát hàng hóa như: hàng cấm, buôn lậu qua biên giới ảnh

hưởng đến kim ngạch trao đổi hàng hóa giữa hai nước. Đây là một trong các nguyên

nhân khiến cho các số liệu ghi nhận về thương mại của Việt Nam và Trung Quốc chưa

thực sự chính xác so với thực tế các giao dịch buôn bán hai chiều. Vì vậy, yêu cầu cấp

bách là xây dựng các chiến lược phát triển thương mại Biên giới Việt Trung nhằm phát

huy lợi thế về địa lý giữa hai quốc gia.

102

3.3.1.5 Về chính sách tỷ giá hối đoái

Việt Nam đang thực hiện một chính sách tỷ giá thả nổi có điều tiết. Về cơ bản,

tỷ giá hối đoái phải do thị trường quyết định nhưng ngân hàng nhà nước vẫn phải can

thiệp khi cần thiết nhằm hạn chế những biến động quá nhanh của tỷ giá hối đoái.

Trong đó, từng bước thực hiện chế độ lưu hành duy nhất đồng tiền Việt Nam trên

lãnh thổ Việt Nam và tạo điêu kiện để tiền Việt Nam chuyển đổi được là một trong

số các giải pháp cần thực hiện để nâng cao hiệu quả quản lý tỷ giá hối đoái ở nước ta

trong thời gian tới. Bên cạnh đó, Chính phủ cần có phương án hoàn thiện hệ thống

thị trường hối đoái trên cơ sở có sự phối hợp đồng bộ giữa chính sách tỷ giá hối đoái

với các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Đến thời điểm hiện tại chưa có nghiên cứu nào

phát hiện mối quan hệ của việc phá giá đồng tiền Việt Nam đối với việc cải thiện

thâm hụt cán cân thương mại. Vì vậy, phải cân nhắc một cách thận trong khi thực

hiện phá giá đồng nội tệ. Trong điều kiện nợ nước ngoài của Việt Nam đang ở mức

cao mà giá cả hàng hóa trên thế giới có sự biến động mạnh, việc thực hiện chính sách

phá giá đồng nội tệ có thể dẫn đến tình trạng gia tăng nợ nước ngoài và lạm phát

nghiêm trọng.

Bên cạnh đó, việc điều chỉnh về cán cân thương mại tránh tình trạng nhập siêu

còn có vai trò rất quan trọng trong việc ổn định kinh tế vĩ mô thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế. Trong bối cảnh hiện nay về toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang

diễn ra sâu rộng và phức tạp, để đảm bảo tăng trưởng kinh tế, nâng cao khả năng cạnh

tranh của hàng hóa xuất khẩu và thay thế nhập khẩu mà không làm ảnh hưởng đến ổn

định kinh tế vĩ mô như nợ nước ngoài, biến động về giá cả và thực hiện các cam kết

hội nhập kinh tế quốc tế thì điều chỉnh cán cân thương mại cần phải theo hướng làm

thế nào là một câu hỏi khó cần giải đáp. Trong thời gian tới, Việt Nam có thể sẽ tiếp

tục gia tăng mức thâm hụt cán cân thương mại vơí Trung Quốc do đẩy nhanh quá

trình hội nhập kinh tế quốc tế và mở cửa thương mại. Khi đó, Việt Nam cần phải có

những nghiên cứu tổng thể hơn nữa đánh giá các mặt về tình trạng thâm hụt cán cân

thương mại với Trung Quốc nói riêng và cán cân thổng thể nói chung của nước ta

hiện nay ở nước ta đang ở mức độ nào? Liệu rằng sự thâm hụt về cán cân thương mại

có ở trong khả năng chịu đựng? Từ đó, Chính phủ cần có những chính sách và biện

pháp thế nào dể lành mạnh hóa cán cân thương mại, vừa đảm bảo mục tiêu tăng khả

103

năng cạnh tranh của nền kinh tế, vừa ổn định kinh tế vĩ mô và đẩy mạnh hộii nhập

kinh tế quốc tế?

3.3.2. Giải pháp ở cấp độ vi mô

3.3.2.1 Đối với các hiệp hội doanh nghiệp trong nước:

Các Hiệp hội doanh nghiệp ở Việt Nam hiện hoạt động dưới nhiều tên gọi khác

nhau, như Hội, Hiệp hội, Liên đoàn, Liên minh, Đoàn, Hội liên hiệp... Theo ước tính

của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), đến hết tháng 12/2014,

có khoảng 450 Hiệp hội doanh nghiệp (trên trang WEB của Bộ Công thương hiện có

khoảng 120 Hội và Hiệp hội doanh nghiệp với địa chỉ cụ thể), tạo ngôi nhà chung thu

hút và đại diện cho tổng số khoảng nửa triệu doanh nghiệp đang hoạt động, đang đóng

thuế trên cả nước…

Theo pháp luật hiện hành, Hiệp hội các doanh nghiệp là một tổ chức xã hội -

nghề nghiệp của các doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản

riêng (tài khoản tiền Việt và ngoại tệ) tại ngân hàng; tổ chức và hoạt động theo nguyên

tắc tự nguyện, tự quản, tự chịu trách nhiệm, tự trang trải về tài chính phù hợp với

pháp luật Việt Nam và điều lệ Hiệp hội được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê

duyệt. Vai trò của Hiệp hội doanh nghiệp là yếu tố cần thiết và là nơi kết nối giữa các

doanh nghiệp đến Chính phủ. Vì mục tiêu chung đẩy mạnh xuất khẩu nhằm giảm

thâm hụt giữa quan hệ song phương Việt Nam- Trung Quốc, tác giả đề xuất một số

giải pháp đối với các hiệp hội doanh nghiệp tại Việt Nam như sau:

Thứ nhất, thông qua các đại biểu, đại diện của Hiệp hội trong các cơ quan lập

pháp, tư vấn, hoạch định chính sách và quản lý nhà nước, Hiệp hội chủ động đề xuất

và phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng và hoàn thiện một khuôn khổ pháp

lý hỗ trợ các doanh nghiệp trực thuộc. Với vai trò là nhân tố trung gian, Hiệp hội cần

tìm hieur các khó khăn của Doanh nghiệp và đề xuất với Chính phủ các giải pháp,

các hỗ trợ doanh nghiệp theo từng thời kỳ. Qua đó, cùng với Chính phủ thúc đẩy các

doanh nghiệp trong Hiệp hội nói chung cũng như các ngành sản xuất trong kinh tế

nói riêng.

Thứ hai, Hiệp hội cần phối hợp với Chính phủ, đặc biệt là các Trung tâm xúc

tiến thương mại, Vụ hợp tác quốc tế,… nhằm tổ chức các hội chợ nhằm quảng bá, hỗ

trợ doanh nghiệp trong nước tiếp xúc với các doanh nghiệp nước ngoài. Thông qua

104

các biện pháp như chắp mối và giới thiệu bạn hàng, cung cấp thông tin, hướng dẫn

và tư vấn cho doanh nghiệp, tổ chức nghiên cứu, khảo sát thị trường, hội thảo, hội

nghị, hội chợ triển lãm, quảng cáo và các hoạt động xúc tiến khác; động viên các đơn

vị thành viên hỗ trợ, giới thiệu đơn hàng cho nhau, xây dựng các chính sách giá bán

hàng phù hợp; đào tạo, tập huấn nghiệp vụ sát với nhu cầu công việc của các doanh

nghiệp, như quản trị tài chính, thương hiệu, thuế… điều tra, khảo sát, tập hợp, nghiên

cứu những ý kiến của doanh nghiệp, của hội viên để tham mưu xây dựng kế hoạch

chính sách phát triển doanh nghiệp cả cấp vi mô và vĩ mô. Từ đó, xây dựng được mối

liên kết và thúc đẩy đưa hàng hóa Việt Nam vào thị trường Trung Quốc.

Cuối cùng, trong thời gian tới, nhằm chuyển tải mục tiêu phát triển bền vững

trong chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, Hiệp hội cần hỗ trợ các doanh nghiệp

hội viên nghiên cứu học tập các mô hình phát triển xuất khẩu trên thế giới để áp dụng.

Qua đó góp phần thực hiện tốt việc gắn kết mục tiêu phát triển bền vững trong chiến

lược kinh doanh, phù hợp với mô hình kinh doanh của từng doanh nghiệp theo quy

định của pháp luật, phù hợp với thông lệ quốc tế; tăng cường trách nhiệm của doanh

nghiệp nội địa.

3.3.2.2 Đối với các doanh nghiệp nội địa

Trên cơ sở là các hỗ trợ về chính sách của Chính phủ, bản thân các doanh nghiệp

nội địa cũng cẫn phải gia tăng về năng lực của doanh nghiệp ở nhiều mặt nhằm tăng

sức cạnh tranh của sản phẩm. Đây là yếu tố cốt lõi nhằm thâm nhập vào thị trường

rộng lớn nhất thế giới như thị trường Trung Quốc. Tiềm năng của thị trường sẽ đi

cùng với các khó khăn mà doanh nghiệp nội địa Việt Nam cần phải đối mặt. Với định

hướng như trên, tác giả đề xuất một số biện pháp như sau:

Các doanh nghiệp vần phối hợp với Chính phủ, các Hiệp hội doanh nghiệp

nhằm đẩy mạnh nghiên cứu thị trường, giá cả, phân phối, xúc tiến thương mại và tiếp

cận thị trường. Điều này có thể thực hiện thông quan việc tham gia các hội chợ quốc

tế, hội chợ chuyên ngành thường được tổ chức hàng năm giữa hai nước, đặc biệt là

các hội chợ tổ chức ở Trung Quốc. Đây chính là nới mà doanh nghiệp nội địa Việt

Nam có thể gặp gỡ tiếp xúc và quảng bá các sản phẩm ở thị trường Trung Quốc. Qua

đó, tạo ra các cơ hội để tiếp cận thị trường rộng lớn với 1,4 tỷ dân số này.

Xây dựng các biện pháp về phát triển kênh phân phối tại thị trường Trung Quốc.

105

Dự báo trong tương lai, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập các mặt hàng về nông sản

và thủy hải sản. Do vậy, nếu có thể xây dựng được mạng lưới phân phối tại thị trường

Trung Quốc thì các doanh nghiệp Việt Nam có thể chủ động trong hàng hóa đầu ra.

Ví dụ như, đối với các sản phẩm là thực phẩm, nông sản, đồ uống cần phải xây dựng

phân phối qua các hệ thống bán lẻ (đại lý bán lẻ, hệ thống siêu thị,…). Bên cạnh đó,

người nông dân và tiểu thương có thể thông qua các doanh nghiệp này để đảm bảo

cho nguồn hàng hóa của mình không bị chèn ép đầu ra. Đồng thời, việc kinh doanh,

buôn bán qua tiểu ngạch không được bảo hộ nhiều từ Nhà nước sẽ giảm đồng nghĩa

với hàng hóa xuất khẩu qua đường chính ngạch sẽ gia tăng.

Nâng cao về năng lực quản lý, kỹ năng làm việc và đặc biệt là kỹ thuật công

nghệ và các nước tiên tiến khác. Từng bước nâng cao vị thế của các doanh nghiệp

Việt Nam trên trường quốc tế. Thực tế hiện nay, đa số các doanh nghiệp xuất khẩu

nội địa là các doanh nghiệp sản xuất chủ yếu các sản phẩm như: gạo, gỗ, cao su… có

quy mô nhỏ, vốn ít và đặc biệt là chưa có nhiều kinh nghiệm về việc xây dựng; quảng

bá thương hiệu, xúc tiến thương mại và giới thiệu sản phẩm của mình ra thị trường

quốc tế. Còn các doanh nghiệp xuất khẩu các mặt hàng về công nghệ và có yếu tố kỹ

thuật cao lại phần lớn là các doanh nghiệp nước ngoài FDI.

Xây dựng quan hệ về liên kết giữa các doanh nghiệp xuất khẩu. Bắt đầu từ các

doanh nghiệp cung cấp các yếu tố đầu vào cho sản xuất đến các doanh nghiệp thương

mại tiêu thụ sản phẩm, giúp doanh nghiệp chủ động hơn trong hoạt động xuất khẩu.

Trên thế giới, một số các công ty, Tập đoàn Đa quốc gia đều có chuỗi liên kết về cung

ứng sản phẩm. Ví dụ, điển hình tại Việt Nam chính là Samsung. Việc Samsung

chuyển một số nhà máy sang Việt Nam đã đưa thêm một số các doanh nghiệp phụ trợ

cần thiết cho việc sản xuất mặt hàng chính của Samsung về linh kiện điện tử như: sản

xuất bán mạch dẫn, camera modul, pin điện thoại,…. Ngoài ra, không thể không kể

đến các doanh nghiệp về Logitics, bảo hiểm, tài chính- ngân hàng,….

Phát triển nguồn nhân lực của khối doanh nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu của

thời đại mới. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, Việt Nam muốn tham gia vào chuỗi cung

ứng toàn cầu và nâng cao năng lực xuất khẩu thì các doanh nghiệp Việt Nam cần

nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực cần phải đáp ứng về trình độ

chuyên môn nghiệp vụ, khả năng giao tiếp ngôn ngữ để hoàn thành yêu cầu đối với

106

các công việc mới. Xét về thực trạng hiện nay, chất lượng nguồn lực lao động của

Việt Nam vẫn còn tương đối thấp, hiệu suất công việc chưa cao thậm chí là thấp và

thua xa chất lượng nguồn nhân lực của Thái Lan, Singapore và đặc biệt là Trung

Quốc.

Phát triển thêm về các dịch vụ sau bán hàng. Đây là nhân tố quan trọng nhằm

giữa chân khách hàng và nâng cao năng lực cạnh tranh của chính hàng hóa Việt Nam.

Từ các kinh nghiệm nội địa và quốc tế cho thấy, dịch vụ sau bán hàng là nơi giữa mối

dây liên hệ giữa khách hàng và doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp có thể

tiếp tục cung cấp hàng hóa các mặt hàng sẵn có, các sản phẩm mới cũng như các sản

phẩm gia tăng. Đồng thời, thông qua khách hàng, doanh nghiệp sẽ theo dõi và kiểm

soát được chất lượng sản phẩm của mình. Ngoài ra, dựa trên hành vi tiêu dung của

khách hàng, các doanh nghiệp sẽ có đánh giá về thị hiếu và nhu cầu của từng thị

trường khác nhau nhằm đưa ra các sản phẩm có tính cạnh tranh cao.

107

KẾT LUẬN

Nhìn chung qua nghiên cứu, tác giá thấy rằng quan hệ thương mại song phương

giữa Việt Nam –Trung Quốc trong những năm qua đã có sự tăng trưởng rõ rệt. Kim

ngạch xuất nhập khẩu hai chiều ngày càng tăng và Trung Quốc trở thành đối tác

thương mại hàng đầu của Việt Nam cả về xuất khẩu và nhập khẩu. Tuy nhiên vấn đề

được đặt ra trong hệ thương mại giữa Việt Nam-Trung Quốc trong những năm gần

đây là mức độ nhập siêu của Việt Nam từ thị trường Trung Quốc ngày càng gia tăng.

Những phân tích về quan hệ thương mại song phương giữa hai nước đã cho thấy: tuy

kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc và kim ngạch nhập khẩu từ

Trung Quốc về Việt Nam đều tăng mạnh trong thời gian qua nhưng tốc độ về tăng

trưởng của kim ngạch xuất khẩu lại nhỏ hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng của kim

ngạch nhập khẩu. Điều này đã gây ra tình trạng nhập siêu ngày càng lớn, đồng thời

khiến cho khoảng cách giữa xuất khẩu và nhập khẩu ngày càng gia tăng. Bên cạnh

đó, dưới tác động của toàn cầu hóa và tự do hóa đầu tư, việc mở cửa thị trường đã

mang lại cho Việt Nam sự thu hút các dòng vốn đầu tư trực tiếp FDI. Từ đó nâng cao

về giá trị hàng hóa xuất khẩu ra các thị trường quốc tế như: Mỹ, EU, Nhật Bản, Đài

Loan. Tuy nhiên, năng lực sản xuất của các doanh nghiệp nội địa còn nhiều hạn chế,

các ưu thế về chi phí giá rẻ và tiến độ của việc cung cấp nguồn nguyên phụ liệu để

phục vụ gia công sản xuất xuất khẩu vẫn nghiêng về nhập khẩu từ thị trường Trung

Quốc. Điều này đã đưa đến kết quả là kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc tăng lên

với tốc độ rất nhanh. Tính đến năm 2019, cán cân thương mại của Việt Nam ở trạng

thái nhập siêu lớn nhất với Trung Quốc trong hơn 19 năm qua. Mà muốn đẩy mạnh

xuất khẩu hàng hóa bao nhiêu thì Việt Nam sẽ gia tăng nhu cầu nhập khẩu nguyên

phụ liệu từ Trung Quốc càng lớn. Mặc dù năm 2016- 2018 đã có sự cải thiện tình

trạng thâm hụt thương mại với Trung Quốc nhưng chưa đáng kể nhưng lại vụt tăng

vào năm 2019. Xuất phát của tình trạng này là do cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu

giữa hai nước còn nhiều bất cập, luồng vốn đầu tư nước ngoài từ Trung Quốc vào

Việt Nam ngày càng tăng, sức cạnh tranh cao hơn của hàng hóa Trung Quốc và sự

tham gia của các nhà thầu Trung Quốc trong các công trình lớn ở Việt Nam trong khi

năng lực sản xuất của Việt Nam vẫn còn yếu kém nhất là lĩnh vực công nghiệp hỗ

108

trợ. Do vậy, để có thể giảm dần thâm hụt thương mại của Việt Nam trong quan hệ

song phương về kinh tế với Trung Quốc là điều không hề đơn giản và cần có lộ trình

rõ ràng Một trong số những biện pháp quan trọng để giảm thâm hụt thương mại với

Trung Quốc là Việt Nam cần thúc đẩy xuất khẩu đi kèm với việc phát triển sản xuất

các ngành công nghiệp hỗ trợ để giảm dần sự phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc,

hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng và những mặt hàng mà sản xuất trong nước có khả

năng thay thế. Bên cạnh đó, cần gia tăng thêm các hoạt động về xúc tiến thương mại

với Trung Quốc để đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng vốn là thế mạnh của Việt Nam

vào Trung Quốc. Có thể nói, Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi, quan hệ hợp tác của

đôi bên ngày càng được đẩy mạnh sẽ là lợi thế của chúng ta khi tiến vào một trong

các thị trường lớn nhất thế giới. Ngoài mục đích hợp tác phát triển thì trai đổi thương

mại với Trung Quốc còn là cơ hội để Việt Nam học hỏi kinh nghiệm quản lý điều tiết

nền kinh tế cũng như công nghệ và kỹ thuật của nước bạn để từng bước phát triển nền

sản xuất trong nước nhất là ngành công nghiệp hỗ trợ phục vụ sản xuất nội địa và

xuất khẩu đi các thị trường lớn trên thế giới.

Chính phủ đã có những chủ trương, hành động cụ thể và đã đạt được nhiều kết

quả khả quan trước những diễn biến của tình trạng thâm hụt thương mại kéo dài với

Trung Quốc. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều tồn tại và hạn chế và chưa có sự đồng bộ trong

việc thực thi các chính sách của Chính phủ. Do vậy, tình trạng thâm hụt do nhập siêu

với Trung Quốc nói riêng và ảnh hưởng đến sự mất cân bằng trong cán cân thương

mại tổng thể của Việt Nam nói chung vẫn chưa được cải thiện.

Thông qua phân tích các nguyên nhân dẫn đến tình trạng thâm hụt về thương mại

của một số nước trên thế giới và một số các giải pháp nhằm cải thiện cán cân thương

mại của một số nền kinh tế điển hình, tác giả cũng có một số đề xuất về cải thiện tình

trạng thâm hụt của Việt Nam. Mà trong đó, trọng tâm là giải pháp phát triển các ngành

công nghiệp hỗ trợ phục vụ cho sản xuất xuất khẩu các sản phẩm thế mạnh của Việt

Nam. Bên cạnh đó, cần phải nâng cao về năng lực sản xuất, kỹ năng quản lý và chất

lượng nguồn lao động của chính doanh nghiệp nội địa nhằm tìm kiếm cơ hội xuất khẩu

vào thị trường Trung Quốc. Các nhóm giải pháp này sẽ từng bước giảm nhập siêu và

109

gắn kết nền kinh tế hai nước theo hướng bổ sung hỗ trợ cho nhau thay vì cạnh tranh

như bây giờ. Và quan trọng hơn nữa là đảm bảo mối quan hệ bền vững cả về kinh tế

và chính trị giữa hai quốc gia.

110

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. PGS.TS Từ Thúy Anh, Giáo trình Kinh tế học quốc tế, NXB Thống kê, Hà Nội

2013, tr.43-68; tr 69-90; tr.342.

2. Nguyễn Trí Dĩnh, Phạm Thị Quý,Giaó Trình Lịch sử kinh tế, NXB Đại học Kinh

tế Quốc Dân, Hà Nội 2010, tr.215-217;tr.489-490.

3. Đỗ Đức Bình, Nguyễn Thường Lạng, Giáo trình Kinh tế quốc tế, NXB Đại học

Kinh tế quốc dân, Hà Nội 2008, tr.179.

4. Báo cáo về tình hình kinh tế xã hội các năm 2011, 2012, 2013, 2014, 2015,

2016, 2017, 2018, 2019 Cổng thông tin Chính phủ.

5. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam thời kỳ 2011-2020, Văn kiện đại

hội Đảng toàn quốc lần thứ XI.

6. Hoàng Văn Châu và cộng sự, Chính sách phát triển công nghiệp phụ trợ của

Việt Nam, NXB Thông tin và Truyền Thông, Hà Nội 2010.

7. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam thời kỳ 2011-2020, Văn kiện đại

hội Đảng toàn quốc lần thứ XI.

8. Federal Reserve Bank of Dallas, Trade Deficits: Causes and Consequences,

Quarter 4/1996, page 10-20.

9. Thi Anh-Dao Tran, Thi Thanh Binh Đinh, FDI inflows and Trade balances:

Evidence from developing Asia, The European Journal of Comparative

10. Lê Tuấn Anh và Nguyễn Thị Bích Liên, Hoạt động xuất nhập khẩu của Việt

Nam: Thực trạng và giải pháp, tạp chí công thương ngày 07/06/2017 tại địa chỉ

http://tapchicongthuong.vn/bai-viet/hoat-dong-xuat-nhap-khau-cua-viet-nam-

thuc-trang-va-giai-phap-27077.htm

11. Nguyễn Thị Thanh Xuân và cộng sự, Cán cân thương mại Việt Nam - ASEAN

trong bối cảnh căng thẳng thương mại Mỹ - Trung, tạp chí công thương ngày

08/04/2020 tại địa chỉ

https://tapchicongthuong.vn/bai-viet/can-can-thuong-mai-viet-nam-asean-

trong-boi-canh-cang-thang-thuong-mai-my-trung-70199.htm

12. Hiệp định Hợp tác kinh tế-Kỹ thuật giữa chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ

111

nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 1992

13. Hiệp định Việt Nam-Trung Hoa về mua bán hàng hóa ở vùng biên giới năm

1998

14. Hiệp định Hợp tác kinh tế Kinh tế giữa Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam và Chính phủ nước cộng hòa xã hội nhân dân Trung Hoa năm 1992

15. Hiệp định thương mại Biên giới giữa Chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa năm 2016

16. John.C Hilke and Philip B.Nelson, International competitiveness and the Trade

Deficit, Bureau of Economics staff Report to the Federal Trade Commission,

1987.

17. Nguyễn Thị Quỳnh Hoa, Xuất nhập khẩu của Việt Nam năm 2014 và triển vọng

năm 2015, Tạp chí Tài chính số 1/2015, tại địa chỉ:

http://tapchitaichinh.vn/bao-cao-va-thong-ke-tai-chinh/xuat-nhap-khau-hang-

hoa-dich-vu-nam-2015-74525.html, truy cập ngày 07/04/2021

18. Số liệu của ITC, tại địa chỉ:

http://www.Trademap.org,ITC/Bilateral.aspx?nvpm=1|704||156||TOTAL|||2|1|

1|2|1||1|1| , ngày truy câp, 27/04/2021

http://www.Trademap.org,ITC/Bilateral_TS.aspx?nvpm=1|704||156||TOTAL|||

2|1|1|3|2|1|1|1|1 truy cập ngày 13/05/2021

19. Nguyễn Đình Liêm, China FDI in Vietnam after Twenty Years No. 6 (170),

Vietnam Social Sciences, 2015 tại địa chỉ:

http://www.vjol.info/index.php/VSS/article/view/22914/19583

20. Vũ Huyền My, Thâm hụt thương mại Việt Nam-Trung Quốc giai đoạn 2001-

2011: Nguyên nhân và giải pháp, Khóa luận tốt nghiệp, Đại Học Ngoại Thương,

Hà nội năm 2012.

21. Juan Marchetti, Michele Ruta, Robert Teh, Trade Imbalances and Multilateral

Trade Cooperation, Economic Research and Statistics Division, World Trade

Organization, 2012.

22. Peter Naray, Paul Baker , Trương Đình Tuyển , Đinh Văn Ân, Lê Triệu Dũng,

112

và Ngô Chung Khanh, Báo cáo phân tích thâm hụt thương mại của Việt Nam

và các điều khoản về cán cân thanh toán của WTO, Dự án hỗ trợ thương mại đa

biên Việt Nam – Mutrap III, , 2009.

23. Amitendu Palit, India’s trade deficit: Increasing fast but still manageable, ISAS

Brief no.72, National University of Singapore, 2008.

24. Nguyễn Văn Tiến, Giáo trình Tài chính quốc tế, NXB Thống kê, Hà Nội

2012,tr.25; 239-260;270-278.

25. Tổng cục Hải quan, Niên giám thống kê hải quan về hàng hóa XNK Việt Nam,

các năm 2011,2012,2013,2014,2015,2016.

26. Tổng cục thống kê Việt Nam, địa chỉ :

http://www.gso.gov.vn/Default.aspx?tabid=706&ItemID=13412 truy cập ngày

01/05/2021

27. Nguyễn Thị Hà Trang và đồng sự, Thâm hụt tài khoản vãng lại: Nguyên nhân và

giải pháp, Trung tâm nghiên cứu Chính sách và Phát triển (DEPOCEN), 2011

28. Trần Bình Trọng, Lịch sử các Học thuyết Kinh tế, NXB Đại học kinh tế quốc

dân, Hà Nội 2008, tr 47-52;71-82;83-97

29. Cổ Tiểu Tùng, Việt Nam và quan hệ Trung Việt đến năm 2020, Viện nghiên

cứu Trung Quốc, tại địa chỉ:

http://www.hids.hochiminhcity.gov.vn/c/document_library/get_file?uuid=2ddf

1efa-0947-479d-b93f-cd9730ac2049&groupId=13025 truy cập ngày

28/04/2021

30. National Bureau of Statistic of China, China Statistic yearbook 2014, tại địa

chỉ: http://www.stats.gov.cn/tjsj/ndsj/2015/indexeh.htm truy cập ngày

05/04/2021

31. Hà Thị Hồng Vân và Đỗ Tiến Sâm, Vietnam-China Trade,FDI and ODA

Relations (1998-2008) and the Impacts upon Vietnam, China Embassy , tại địa

chỉ: http://www.china-embassy.org/eng/zt/bps/t943740.htm, truy cập ngày

14/03/2021

32. World Economy Profile_16,11,12,15 tại địa chỉ:

https://www.wto.org/english/res_e/statis_e/world_commodity_profiles16_e.pdf

https://www.wto.org/english/res_e/statis_e/world_commodity_profiles11_e.pdf

113

https://www.wto.org/english/res_e/statis_e/world_commodity_profiles12_e.pdf

https://www.wto.org/english/res_e/statis_e/world_commodity_profiles15_e.pdf

truy cập ngày 18/04/2021

33. World Trade Report 2010 tại địa chỉ:

https://www.wto.org/english/res_e/booksp_e/anrep_e/wtr11-1_e.pdf, truy cập

ngày 24/04/2021