BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO …………/…………

BỘ NỘI VỤ ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN QUANG THIỆN THẨM QUYỀN CỦA

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN

TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH

– TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO …………/…………

BỘ NỘI VỤ ……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN QUANG THIỆN THẨM QUYỀN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH – TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ THỊ HẢI NAM

THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, số liệu và

kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa được công bố trong

các công trình khác. Nếu không đúng như đã nêu trên, tôi xin hoàn toàn chịu

trách nhiệm về đề tài của mình.

Thừa Thiên Huế, ngày tháng 6 năm 2018

Người cam đoan

Nguyễn Quang Thiện

LỜI CẢM ƠN

Để có thể hoàn thành đề tài Luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh, bên

cạnh sự nỗ lực cố gắng của bản thân còn có sự hướng dẫn nhiệt tình của quý

Thầy Cô, cũng như sự động viên ủng hộ của gia đình và bạn bè trong suốt thời

gian học tập nghiên cứu và thực hiện luận văn thạc sĩ.

Trước hết, xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến Cô TS. Lê Thị Hải

Nam người đã hết lòng giúp đỡ, dành nhiều thời gian, công sức và tạo mọi điều

kiện tốt nhất cho em trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu và hoàn thành

đề tài Luận văn thạc sĩ.

Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể quý thầy cô trong Trường

Học viện Hành chính quốc gia đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu

cũng như tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho em trong suốt quá trình học tập

nghiên cứu và cho đến khi thực hiện đề tài luận văn.

Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến Viện kiểm sát nhân dân tỉnh

Quảng Ngãi, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tư Nghĩa đã không ngừng hỗ trợ

và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian nghiên cứu và thực

hiện luận văn.

Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn đến gia đình, các anh chị và các

bạn đồng nghiệp đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập, nghiên

cứu và thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh.

Thừa Thiên Huế, ngày tháng 6 năm 2018

Học viên thực hiện

Nguyễn Quang Thiện

MỤC LỤC

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt

Danh mục các bảng

Danh mục các hình

Lời mở đầu ........................................................................................................ 1

Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ THẨM QUYỀN CỦA

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN

HÀNH CHÍNH .................................................................................................. 7

1.1. Khái quát chung về giải quyết vụ án hành chính ....................................... 7

1.1.1. Khái niệm vụ án hành chính ................................................................... 7

1.1.2. Khái niệm giải quyết vụ án hành chính ................................................ 12

1.2. Thẩm quyền Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trong giải quyết vụ án hành

chính. ............................................................................................................... 15

1.2.1. Khái niệm thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trong giải

quyết vụ án hành chính ................................................................................... 15

1.2.2. Nội dung thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trong giải

quyết vụ án hành chính ................................................................................... 17

1.3. Các yếu tố tác động đến thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện

trong giải quyết vụ án hành chính. .................................................................. 24

1.3.1. Đường lối, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp........................... 24

1.3.2. Trình độ, năng lực của đội ngũ kiểm sát viên ....................................... 28

1.3.3. Ý thức pháp luật và việc chấp hành pháp luật của những người tiến hành

tố tụng, người tham gia tố tụng ....................................................................... 30

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 .................................................................................. 31

Chương 2 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN THẨM QUYỀN CỦA VIỆN KIỂM

SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH

CHÍNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI .......................................... 32

2.1. Phân tích thực trạng thực hiện thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp

huyện trong giải quyết vụ án hành chính trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi ........ 32

2.1.1. Khái quát về Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng

Ngãi ................................................................................................................. 32

2.1.2. Thực trạng thực hiện thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện

trong giải quyết vụ án hành chính trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi ................... 35

2.2. Phân tích thực trạng các yếu tố tác động đến việc thực hiện thẩm quyền

của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trong giải quyết vụ án hành chính trên

địa bàn tỉnh Quảng Ngãi ................................................................................. 54

2.2.1. Đường lối, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp........................... 54

2.2.2. Trình độ, năng lực của đội ngũ kiểm sát viên ....................................... 57

2.2.3. Ý thức pháp luật và việc chấp hành pháp luật của những người tiến hành

tố tụng, người tham gia tố tụng ....................................................................... 62

2.3. Đánh giá việc thực hiện thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện

trong giải quyết vụ án hành chính ................................................................... 66

2.3.1. Kết quả đạt được và nguyên nhân ......................................................... 66

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân ....................................................................... 69

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 .................................................................................. 78

Chương 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ HOẠT

ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRONG GIẢI

QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH ................................................................... 79

3.1. Các giải pháp chung ................................................................................. 79

3.1.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ........................................................ 79

3.1.2. Nhóm giải pháp về thực hiện và hoàn thiện pháp luật .......................... 79

3.1.3. Nhóm giải pháp về công tác cán bộ ...................................................... 83

3.1.4. Nâng cao nhận thức của những người tiến hành tố tụng, người tham gia

tố tụng. ............................................................................................................. 87

3.1.5. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho Ngành kiểm sát ........................ 88

3.2. Giải pháp cụ thể cho tỉnh Quảng Ngãi ..................................................... 89

3.2.1. Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng .......................................... 89

3.2.2. Nâng cao trình độ năng lực của cán bộ, Kiểm sát viên......................... 90

3.2.3. Đổi mới công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật .............................. 93

3.2.4. Nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo điều hành công

tác kiểm sát giải quyết án hành chính ............................................................. 94

3.2.5. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc giải

quyết án hành chính ........................................................................................ 95

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 .................................................................................. 98

KẾT LUẬN CHUNG ...................................................................................... 99

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 100

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ cái viết tắt Cụm từ đầy đủ

CQNN Cơ quan Nhà nước

KSND Kiểm sát nhân dân

KSV Kiểm sát viên

TAND Tòa án nhân dân

TTDS Tố tụng dân sự

TTHC Tố tụng hành chính

UBND Ủy ban nhân dân

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1: Thống kê số vụ án hành chính ở cấp huyện từ năm 2015 -2017 ... 35

Bảng 2.2: Thống kê số lượng Yêu cầu, Kiến nghị, kháng nghị trong giải quyết

vụ án hành chính ở các Viện KDND cấp huyện năm 2015 ............................ 53

Bảng 2.3: Thống kê số lượng thụ lý và giải quyết đơn khởi kiện vụ án hành

chính tại các TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi ....................... 64

DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 2.1: Số lượng thông báo Viện KSND cấp huyện kiểm sát ................... 38

Hình 2.2: Số vi phạm của Tòa án trong việc gửi thông báo .......................... 38

Hình 2.3: Thống kê số lượng bản án hành chính cấp huyện bị hủy, sửa ....... 45

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Cùng với sự phát triển của cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ, Bộ máy

Nhà nước và hệ thống pháp luật của nước ta cũng không ngừng phát triển và

ngày càng được hoàn thiện để đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng

trong mỗi giai đoạn cụ thể. Ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng

non trẻ, Viện Công tố (tiền thân của Viện KSND ngày nay) đã được thành lập

nằm trong hệ thống Toà án nhân dân với những chức năng, nhiệm vụ hết sức

quan trọng góp phần bảo vệ thành quả và chính quyền cách mạng. Từ đó, vai trò

cũng như thẩm quyền của Viện KSND trong các hoạt động tố tụng đã có nhiều

thay đổi lớn cùng với sự thay đổi của đất nước và đáp ứng đòi hỏi của xã hội.

Thẩm quyền của Viện KSND trong giải quyết các vụ án hành chính là

một chế định có từ sớm nhưng chưa thực sự đi vào cuộc sống khi đất nước còn

đang trong giai đoạn chiến tranh, lúc này nhiệm vụ trung tâm là giải quyết các

vụ án hình sự, cho nên các quy định của pháp luật về thẩm quyền của Viện

KSND trong giải quyết các vụ án hình sự trong giai đoạn này được quy định

chặt chẽ và đầy đủ hơn. Bước sang thời kỳ đổi mới, do đòi hỏi của thực tiễn

nên thẩm quyền của Viện KSND trong giải quyết các vụ án hành chính được

quan tâm hơn, là một nội dung rất quan trọng, một mắt xích trong công cuộc

cải cách tư pháp. Việc nghiên cứu quy định pháp luật và thực trạng thực hiện

thẩm quyền của Viện KSND trong việc giải quyết các vụ án hành chính có ý

nghĩa rất quan trọng, xét cả dưới góc độ lý luận và thực tiễn, bởi điều đó không

những góp phần vào việc xây dựng một hệ thống lý luận về hoạt động tư pháp

nói chung và tổ chức, hoạt động của Viện KSND nói riêng mà còn góp phần

vào việc xây dựng các văn bản pháp luật về Viện KSND, về TTHC cũng như

việc hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động nghiệp vụ của ngành kiểm sát. Trong khoa

học pháp lý hiện nay, những đề tài lý luận về thẩm quyền của Viện KSND trong

1

giải quyết các vụ án hành chính vẫn còn những quan điểm chưa thống nhất.

Bên cạnh đó, thực tiễn hoạt động kiểm sát đã gặp phải không ít những vướng

mắc, khó khăn khi áp dụng các quy định về thẩm quyền của Viện KSND trong

giải quyết các vụ án trong TTHC, ngay cả việc ban hành Luật TTHC năm 2015

cũng chưa giải quyết được triệt để. Luật TTHC năm 2015 đã có hiệu lực hơn

một năm với rất nhiều những thay đổi quan trọng về thẩm quyền của Viện

KSND nhưng những văn bản hướng dẫn thực hiện những quy định này vẫn

chưa đầy đủ, gây khó khăn trong quá trình điều chỉnh pháp luật và áp dụng

pháp luật. Do đó, nghiên cứu quy định pháp luật để góp phần hoàn thiện làm

tiền đề cho việc xây dựng các văn bản hướng dẫn một cách đầy đủ, toàn diện

và thống nhất là rất cần thiết.

Mặt khác, việc nghiên cứu thực tiễn giải quyết vụ án hành chính của các

Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi – nơi học viên đang công

tác để tìm ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân, đề xuất các giải pháp

nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Viện KSND cấp

huyện trong việc giải quyết vụ án hành chính, với mong muốn góp phần làm

tốt hơn công tác kiểm sát vụ án hành chính của Viện KSND cấp huyện trên địa

bàn mình công tác. Vì vậy, với các luận điểm đã nêu, học viên đã chọn vấn đề

“Thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trong việc giải quyết

vụ án hành chính – từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” làm đề tài thực hiện luận

văn thạc sĩ luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong việc giải quyết các vụ án

hành chính là vấn đề không chỉ được ngành Kiểm sát mà còn được cả xã hội

quan tâm. Do yêu cầu và đòi hỏi khách quan nêu trên, đã có một số công trình

nghiên cứu, bài viết trên tạp chí chuyên ngành, sách chuyên khảo, chuyên đề

tổng kết rút kinh nghiệm của các ngành Kiểm sát, Tòa án…liên quan đến nội

2

dung thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong việc giải quyết các vụ án

hành chính.

Nhóm bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành trong đó có:

- “Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong TTHC theo luật TTHC năm

2015” tác giả Lê Việt Sơn - Tạp chí kiểm sát số 05/2016.

- “Những lưu ý khi kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hành chính” - Tác giả

ThS. Lê Văn Hảo – Tạp chí kiểm sát số 13/2017.

Các luận văn, luận án, đề tài nghiên cứu khoa học, các sách chuyên khảo:

- “Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong TTHC – Qua thực tiễn thành

phố Hải Phòng” của ThS. Trần Thị Thu Hà – Khoa Luật Đại học quốc gia Hà

Nội, 2015.

- “Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong TTHC ở nước ta hiện nay” của

ThS. Lê Phương Thanh – Học viện khoa học xã hội, 2015.

- “Luật TTHC 2010 và thực tiễn giải quyết các vụ án hành chính” – Đề

tài nghiên cứu khoa học cấp Trường do TS. Trần Thị Hiền làm chủ nhiệm,

Trường đại học Luật Hà Nội, 2015.

Ở những khía cạnh nhất định, các công trình nghiên cứu trên đã giải

quyết những vấn đề khác nhau liên quan đến thẩm quyền của Viện KSND trong

việc giải quyết vụ án hành chính như các vấn đề lý luận chung về TTHC; chức

năng, nhiệm vụ của Viện KSND trong TTHC; các hạn chế bất cập của Luật

TTHC 2010 cũng như những khó khăn trong thực tiễn áp dụng pháp luật.... Đây

là những công trình nghiên cứu có giá trị, làm cơ sở để học viên thực hiện đề

tài nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, đến nay chưa có sự nghiên cứu một cách

có hệ thống về thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong việc giải quyết

các vụ án hành chính cấp huyện. Hơn nữa, cũng chưa có công trình nghiên cứu

nào khảo sát, đánh giá thực tiễn vấn đề này trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

3

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

3.1. Mục đích:

Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ thêm cơ sở lý luận, pháp

lý và thực tiễn thực hiện thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong việc giải

quyết các vụ án hành chính, những bất cập, khó khăn, vướng mắc để từ đó tìm

ra và đề xuất một số giải pháp góp phần bảo đảm thực hiện thẩm quyền của

Viện KSND cấp huyện trong việc giải quyết vụ án hành chính.

3.2. Nhiệm vụ:

Từ mục đích nêu trên, Luận văn tập trung phân tích, làm rõ và giải quyết

một số vấn đề:

- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thẩm quyền của Viện KSND cấp

huyện trong việc giải quyết các vụ án hành chính.

- Phân tích và đánh giá thực trạng các quy định pháp luật, thực tiễn thực

hiện, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm trong việc bảo đảm thực hiện thẩm

quyền của Viện KSND cấp huyện trong việc giải quyết các vụ án hành chính

trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

- Đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu

quả thực hiện thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong việc giải quyết các

vụ án hành chính trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

- Luận văn nghiên cứu quy định của pháp luật về thẩm quyền của Viện

KSND cấp huyện trong việc giải quyết các vụ án hành chính và thực tiễn thi

hành các quy định pháp luật này trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Trong khuôn khổ của Luận văn, Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu

trong công tác kiểm sát án hành chính của Viện KSND cấp huyện và thực tiễn

4

ở một số địa phương trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Luận văn nghiên cứu, đánh

giá tổng quan về thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong việc giải quyết

các vụ án hành chính nói chung và thực tiễn giải quyết vụ án hành chính tại địa

bàn tỉnh Quảng Ngãi trong những năm gần đây (từ năm 2015 đến năm 2017).

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn

5.1. Phương pháp luận của luận văn

Dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ

nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin; các khoa học chuyên ngành

khác đặc biệt là khoa học về Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật.

5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn

Luận văn áp dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh,

dự báo qua những tài liệu thứ cấp để làm sáng tỏ các vấn đề cần nghiên cứu

trong phạm vi đề tài.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

- Luận văn là công trình nghiên cứu chuyên sâu về thẩm quyền của Viện

KSND cấp huyện trong việc giải quyết các vụ án hành chính qua thực tiễn tại

các Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

- Việc phân tích thực trạng thực hiện thẩm quyền của Viện KSND cấp

huyện trong giải quyết các vụ án hành chính trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi chỉ ra

những tồn tại, nguyên nhân và đưa ra những giải pháp kiến nghị những vấn đề

có liên quan góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động kiểm sát việc giải

quyết vụ án hành chính của Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tư liệu tham khảo

phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy khoa học pháp lý nói chung và

đào tạo chức danh Tư pháp nói riêng. Nội dung của luận văn cũng có thể góp

phần xây dựng kỹ năng nghề nghiệp của Chuyên viên, Kiểm tra viên, KSV, kỹ

năng nghiên cứu hồ sơ, đặc biệt là đối với các KSV kiểm sát việc giải quyết vụ

5

án hành chính tại các Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi theo

Luật TTHC năm 2015.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của Luận văn gồm 03 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận, pháp lý về thẩm quyền của Viện kiểm

sát nhân dân cấp huyện trong giải quyết vụ án hành chính

Chương 2: Thực trạng thực hiện thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân

cấp huyện trong giải quyết vụ án hành chính trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

Chương 3: Giải pháp bảo đảm thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân

cấp huyện trong giải quyết vụ án hành chính từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi

6

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ THẨM QUYỀN CỦA

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRONG GIẢI QUYẾT

VỤ ÁN HÀNH CHÍNH

1.1. Khái quát chung về giải quyết vụ án hành chính

1.1.1. Khái niệm vụ án hành chính

Khi nói đến vụ án hành chính trước hết phải nói đến hoạt động quản lý

hành chính nhà nước (hoạt động hành chính nhà nước) vì đây là hoạt động chấp

hành và điều hành của nhà nước, của các chủ thể quản lý hành chính nhà nước

mà chủ yếu là các cơ quan hành chính nhà nước tác động chủ yếu bằng pháp

luật tới các đối tượng quản lý, để thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, nhằm

bảo đảm chấp hành Hiến pháp, Luật và các văn bản quy phạm pháp luật của

các CQNN cấp trên, tổ chức chỉ đạo mọi hoạt động của đời sống kinh tế, chính

trị, văn hoá - xã hội. Trong quá trình hoạt động chấp hành, điều hành, chủ thể

quản lý hành chính nhà nước có quyền nhân danh quyền lực nhà nước thực hiện

các hành vi hành chính hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật hay mệnh

lệnh cụ thể, buộc đối tượng bị quản lý có liên quan phải thực hiện.

Thông qua hoạt động ban hành các quyết định hành chính hoặc thực hiện

các hành vi hành chính, các chủ thể quản lý hành chính nhà nước vì các lý do

khác nhau, có thể gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ

quan, tổ chức (đối tượng quản lý) dẫn đến việc cá nhân, cơ quan, tổ chức khiếu

kiện yêu cầu chấm dứt, bồi thường thiệt hại, tạo nên sự tranh chấp hành chính

giữa nhà nước với công dân hoặc tổ chức. Và dù muốn hay không Nhà nước

phải thiết lập các cơ quan và ban hành các quy định pháp luật tạo cơ sở pháp lý

để xem xét và giải quyết những tranh chấp này.

7

Hoạt động giải quyết các tranh chấp hành chính là hoạt động gắn liền với

hoạt động quản lý hành chính nhà nước, nó xuất hiện như là một hiện tượng

lịch sử, gắn liền với quá trình hình thành, phát triển của Nhà nước và pháp luật.

Khi có hoạt động quản lý hành chính nhà nước thì sẽ có sự xem xét, phán quyết

về các hoạt động đó. Tùy thuộc vào truyền thống pháp luật của mỗi nước, quan

điểm chính trị - pháp lý của giai cấp cầm quyền, sự xem xét, phán quyết hoạt

động quản lý hành chính nhà nước được thực hiện bởi nhiều phương thức, do

các CQNN khác nhau thực hiện, trong đó có sự xem xét, phán quyết thông qua

hoạt động xét xử của Toà án.

Mục đích của giải quyết tranh chấp hành chính là bảo đảm quyền, lợi ích

hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức trước sự xâm phạm bởi các quyết định

hành chính, hành vi hành chính của các CQNN, người có thẩm quyền trong

CQNN trong khi thực hiện hoạt động quản lý hành chính, qua đó bảo đảm pháp

chế và kỷ luật trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước.

Hoạt động giải quyết tranh chấp hành chính do các cơ quan hành chính

nhà nước thực hiện còn được gọi là giải quyết khiếu nại hành chính. Chủ thể

giải quyết khiếu nại là các cơ quan hành chính nhà nước; đối tượng bị khiếu nại

là các quyết định hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật thuộc phạm vi

quản lý hành chính xâm phạm tới quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khiếu

nại; hoạt động giải quyết khiếu nại hành chính tuân theo trình tự, thủ tục do

pháp luật hành chính quy định hay còn gọi là thủ tục hành chính.

Ở Việt Nam, trước khi Tòa hành chính được thành lập thì vấn đề giải

quyết các tranh chấp phát sinh liên quan đến các quyết định hành chính, hành

vi hành chính của CQNN, người có thẩm quyền trong CQNN cũng đã được

quan tâm ở mức độ nhất định. Tuy nhiên do chịu ảnh hưởng của các nước xã

hội chủ nghĩa trước đây nên trong thời kỳ này các tranh chấp hành chính chủ

yếu được giải quyết thông qua thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính mà ít

8

được giải quyết theo thủ tục khởi kiện tại Tòa án. Bên cạnh đó, các văn bản luật

cũng chỉ thừa nhận các khiếu nại hành chính mà không thừa nhận khiếu kiện

hành chính phát sinh giữa công dân, cơ quan, tổ chức với các CQNN.

Từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, nhu cầu của thực tiễn đòi

hỏi nhu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam đã đặt ra vấn đề cần

phải có một cơ chế kiểm soát hữu hiệu hoạt động của CQNN, người có thẩm

quyền trong CQNN trong quá trình quản lý, điều hành xã hội, khắc phục những

biểu hiện cửa quyền, lạm quyền, lộng quyền hoặc trốn tránh trách nhiệm. Nội

dung chính là cơ chế kiểm tra, giám sát, giải quyết khiếu nại hành chính và thiết

lập hệ thống cơ quan tài phán hành chính độc lập để giải quyết các tranh chấp

hành chính bằng con đường tư pháp. Đáp ứng nhu cầu đó, các chuyên gia pháp

lý đã tập trung nghiên cứu và tiến hành khảo sát thực tế các mô hình tài phán

hành chính cũng như kinh nghiệm thực tiễn giải quyết khiếu kiện hành chính

trên thế giới, để đưa ra mô hình phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam. Nghị

quyết Hội nghị lần thứ VIII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII

ngày 23/01/1995 đã quyết định về việc thành lập Toà hành chính trong hệ thống

TAND. Ngày 28/10/1995, tại kỳ họp thứ VIII, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội

Chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật

tổ chức TAND, trong đó giao cho TAND chức năng xét xử các vụ án hành

chính (Điều 1 Luật tổ chức TAND năm 1995). Khái niệm “vụ án hành chính”

trở nên phổ biến trong học thuật từ đó đến nay.

Nếu trước ngày 01/7/1996, việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp

của cá nhân, cơ quan, tổ chức bị tác động bởi các quyết định hành chính, hành

vi hành chính chỉ được thực hiện bằng con đường khiếu nại hành chính thì từ

ngày 01/7/1996, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính chính thức

có hiệu lực, kéo theo sự ra đời của Tòa hành chính, quyền khởi kiện vụ án hành

9

chính được ghi nhận, mở rộng hơn cơ chế pháp lý cá nhân, cơ quan, tổ chức

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Thực tế có nhiều khái niệm về vụ án hành chính. Trong từ điển Tiếng

Việt, vụ án được định nghĩa là “vụ là việc, sự việc không hay, rắc rối cần giải

quyết, án là tranh chấp quyền lợi cần được xét xử trước Tòa án”. Như vậy, về

mặt thuật ngữ, “vụ án” là việc phát sinh trên cơ sở tranh chấp về quyền lợi

thuộc nhiệm vụ xét xử của Tòa án.

Từ điển Luật học cũng đưa ra định nghĩa tương tự như vậy: “Vụ án hành

chính là vụ án phát sinh tại Tòa hành chính do cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi

kiện ra Tòa án yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình”.

Các khái niệm trên chủ yếu đã khái quát sơ lược về thế nào là vụ án hành

chính. Tuy nhiên, vẫn chưa mô tả đầy đủ và đúng với bản chất của vụ án hành

chính. Bởi nếu chỉ có hành vi khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức khi cho

rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình đang bị xâm phạm bởi các quyết định

hành chính, hành vi hành chính thì chưa đủ để phát sinh vụ án hành chính mà

cần phải có sự thụ lý đơn khởi kiện của Tòa án. Toà án chỉ thụ lý đơn khởi kiện

đó khi nó đáp ứng một số điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật.

Thứ nhất, có việc khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức.

Như đã nói ở trên thì có nhiều phương thức giải quyết tranh chấp hành

chính như khiếu nại hoặc khởi kiện. Tuy nhiên, việc khiếu nại hành chính không

thể làm phát sinh vụ án hành chính mà vụ án hành chính phát sinh bằng con

đường khởi kiện Tòa án. Do đó điều kiện đầu tiên để làm phát sinh vụ án hành

chính, đó là việc khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Nếu không có hành

vi khởi kiện, sẽ không có vụ án hành chính.

Thứ hai, đơn khởi kiện được Tòa án thụ lý giải quyết.

Như vậy vụ án hành chính phát sinh khi có yêu cầu khởi kiện của cá

nhân, cơ quan, tổ chức tuy nhiên không phải tất cả các trường hợp khởi kiện

10

đều được Tòa án giải quyết. Đây là căn cứ đầu tiên để Tòa án xem xét thụ lý

đơn khởi kiện. Cụ thể, khi có đơn khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức Tòa

án sẽ xem xét các điều kiện để quyết định có thụ lý hay không thụ lý đơn khởi

kiện. Nếu thỏa mãn đầy đủ các điều kiện đó thì Tòa án sẽ thụ lý vụ án theo trình

tự tố tụng nhất định.

Như vậy, nếu nói hành vi khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức chỉ là

điều kiện cần thì việc thụ lý của Tòa án là điều kiện đủ để phát sinh vụ án hành

chính. Khởi kiện là quyền tự định đoạt thuộc về cá nhân, tổ chức, cơ quan đối

với việc yêu cầu Tòa án phán quyết về quyết định hành chính, hành vi hành

chính mà theo họ là trái pháp luật, xâm hại trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp

của mình. Khởi kiện là một sự kiện làm phát sinh quan hệ giữa người khởi kiện

với Tòa án hành chính có thẩm quyền. Chức năng của Tòa án hành chính là xét

xử các vụ án hành chính để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi

kiện. Do đó, khởi kiện vụ án hành chính là tiền đề đối với hoạt động thụ lý của

Tòa án. Kể từ thời điểm Tòa án thụ lý đơn khởi kiện vụ án hành chính chính

thức phát sinh.

Vụ án hành chính có đặc điểm sau đây:

- Thứ nhất, đối tượng tranh chấp trực tiếp trong vụ án hành chính là tính

hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật

buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh

tranh, khiếu kiện danh sách cử tri. Quyền tài sản và quyền nhân thân không

phải là đối tượng tranh chấp trực tiếp của tranh chấp hành chính.

- Thứ hai, người bị kiện trong vụ án hành chính luôn là CQNN hoặc

người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước.

- Thứ ba, người khởi kiện luôn là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị tác động

bởi các khiếu kiện.

11

Tóm lại, theo quy định của pháp luật Việt Nam thì vụ án hành chính là

vụ án phát sinh khi cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện các quyết định

hành chính và hành vi hành chính tại Toà án khi có căn cứ cho rằng các quyết

định hành chính hoặc hành vi hành chính đó là trái pháp luật, xâm phạm đến

quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Việc khởi kiện này toà án thụ lý và tiến hành

giải quyết theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.

1.1.2. Khái niệm giải quyết vụ án hành chính

Pháp luật đã quy định hai con đường để giải quyết các tranh chấp hành

chính là thông qua khiếu nại hành chính và thông qua khởi kiện tại Tòa án để

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên cá nhân, tổ chức được cho là yếu thế

hơn khi không đồng ý với sự tác động của CQNN và người có thẩm quyền

trong CQNN.

Hoạt động giải quyết tranh chấp hành chính do Toà án thực hiện có tính

độc lập, được gọi là hoạt động giải quyết vụ án hành chính, đây là một trong

những đặc điểm dùng để phân biệt với hoạt động giải quyết khiếu nại hành

chính của các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện. Và để giải quyết các vụ

án hành chính kịp thời, đúng pháp luật thì các Toà án phải tiến hành giải quyết

theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Những trình tự, thủ tục này

được gọi là thủ tục TTHC.

Như vậy, giải quyết vụ án hành chính là hoạt động giải quyết tranh chấp

hành chính do Toà án thực hiện theo trình tự thủ tục tố tụng hành chính.

Hiện nay, trong các sách báo pháp lý có hai thuật ngữ được sử dụng để

chỉ hoạt động giải quyết vụ án hành chính tại toà án là “tài phán hành chính”

và “tư pháp hành chính”.

Quan niệm về tài phán hành chính là quan niệm hết sức phong phú nhưng

đôi khi chưa có sự đồng nhất. Sự không thống nhất trong quan niệm về tài phán

hành chính xuất phát từ sự khác nhau của những hệ thống pháp luật trên thế giới

12

như hệ thống luật châu Âu lục địa hay hệ thống luật Anh – Mỹ, các nước theo

giải pháp trung gian. Hiện nay, có ba quan điểm khác nhau về khái niệm này:

- Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Tài phán hành chính theo nghĩa hiện

đại được hiểu là quyền phán xét, xử lý của cơ quan hành chính đối với các

tranh chấp cũng như các vi phạm trong quản lý nhà nước”[16, tr.101].

- Quan điểm thứ hai cho rằng tài phán hành chính là: “Xét xử các khiếu

kiện hành chính của dân đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính và

hoạt động tư vấn”[17, tr.101].

- Quan điểm thứ ba cho rằng tài phán hành chính là:

+ Hoạt động xem xét và giải quyết các khiếu nại hành chính của các

CQNN có thẩm quyền;

+ Hoạt động xét xử các tranh chấp hành chính do TAND thực hiện;

+ Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính của các cơ quan, cán bộ có

thẩm quyền. [55, tr.104].

Nhìn chung, hầu hết các công trình nghiên cứu trên các sách báo pháp lý

nước ta đều nghiên cứu tài phán hành chính với nội dung là hoạt động giải quyết

các tranh chấp hành chính phát sinh giữa nhà nước (mà đại diện là các cơ quan,

nhân viên nhà nước) và các tổ chức, cá nhân trong xã hội chỉ do các Tòa án

thực hiện theo trình tự tố tụng được pháp luật quy định [56, tr.104].

“Tư pháp hành chính” là thuật ngữ dùng để chỉ hoạt động xét xử các

tranh chấp hành chính bởi hệ thống Toà án hành chính.

Theo cách phân tích ngữ nghĩa thì tư pháp hành chính được hình thành

từ hai khái niệm "tư pháp" và "hành chính".

Nói đến tư pháp hành chính là nói đến lĩnh vực xét xử các tranh chấp

giữa các CQNN với cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quan hệ pháp luật hành

chính, được thực hiện bởi Toà án theo thủ tục tư pháp [54, tr.104].

13

Tóm lại, các khái niệm tài phán hành chính, tư pháp hành chính xét ở

một góc độ nào đó đều được hiểu là hoạt động giải quyết các tranh chấp hành

chính giữa công dân với CQNN được thực hiện bởi Toà án theo thủ tục tư pháp

nhất định. Trong quá trình nghiên cứu, tôi đề cập tới hai khái niệm này nhằm

qua đó làm rõ hơn khái niệm giải quyết vụ án hành chính đã nêu trên.

Giải quyết vụ án hành chính có đặc điểm cơ bản sau:

Một là, giải quyết vụ án hành chính là giải quyết một loại tranh chấp đặc

biệt trong đó một bên là CQNN, chủ yếu là cơ quan hành chính nhà nước, người

có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước (bên bị kiện) và một bên là

cá nhân, cơ quan, tổ chức (bên khởi kiện), trong đó, người khởi kiện yếu thế

hơn so với người bị kiện, vì người bị kiện là người có thẩm quyền ra các quyết

định hành chính hoặc thực hiện các hành vi hành chính. Còn người khởi kiện

là người phục tùng, chấp hành quyết định hành chính hoặc chịu ảnh hưởng bởi

các hành vi hành chính. Chính vì đặc điểm này nên các tranh chấp khác (dân

sự, kinh tế, lao động, hôn nhân, gia đình) được điều chỉnh trong một văn bản

pháp luật là Bộ luật TTDS còn các tranh chấp về hành chính được điều chỉnh

riêng trong một văn bản pháp luật là Luật TTHC.

Hai là, hoạt động giải quyết các vụ án hành chính được tiến hành theo

Luật TTHC tại cơ quan xét xử, tức tại Tòa án có thẩm quyền. Đây là đặc điểm

rất quan trọng để phân biệt với việc giải quyết các khiếu nại hành chính. Giải

quyết vụ án hành chính và giải quyết khiếu nại hành chính đều có chung mục

đích là giải quyết các tranh chấp hành chính và đối tượng chủ yếu là các quyết

định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước. Điểm

khác nhau cơ bản giữa hai hoạt động này là: Nếu khiếu nại và giải quyết khiếu

nại hành chính được tiến hành tại các cơ quan hành chính nhà nước và theo các

thủ tục được quy định tại Luật khiếu nại và các văn bản pháp luật có liên quan,

14

thì việc giải quyết các vụ án hành chính được tiến hành tại Tòa án theo các thủ

tục tố tụng được quy định tại Luật TTHC.

1.2. Thẩm quyền Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trong giải quyết

vụ án hành chính.

1.2.1. Khái niệm thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện

trong giải quyết vụ án hành chính

Hiện nay, trong các sách báo về khoa học pháp lý có nhiều khái niệm khác

nhau về thẩm quyền như: “Thẩm quyền là quyền xem xét để kết luận và định

đoạt một vấn đề theo pháp luật” - từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học xuất

bản năm 2003, hay trong từ điển Tiếng Việt của Trung tâm từ điển học xuất bản

năm 1998 thì “Thẩm quyền là tổng thể những quyền, nghĩa vụ mang tính quyền

lực – pháp lý do pháp luật quy định”. Nhìn chung thì các khái niệm trên đều

thống nhất cho rằng thẩm quyền được hiểu là tổng hợp các quyền của các cơ

quan, cá nhân, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy nhà nước do pháp luật quy định

Từ các khái niệm như trên, theo tôi thẩm quyền của một cơ quan bao

gồm yếu tố quyền và yếu tố nghĩa vụ. Trong thẩm quyền thì yếu tố quyền quyết

định tính chất quyền lực của cơ quan đó, nghĩa là khi thực hiện các quyền, cơ

quan này nhân danh nhà nước, đại diện cho quyền lực nhà nước. Cơ quan đó

có quyền, đồng thời có nghĩa vụ phải xem xét, giải quyết vụ việc nhất định hoặc

một vấn đề nào đó. Vậy, có thể hiểu thẩm quyền là tổng thể những quyền, nghĩa

vụ mang tính quyền lực pháp lý do pháp luật quy định.

Trong khi thực hiện thẩm quyền thì quyền phán quyết bằng việc ra các

quyết định pháp luật là yếu tố quan trọng nhất. Trên cơ sở quy định của pháp

luật, các cơ quan có thẩm quyền ra những quyết định pháp luật buộc đối tượng

phải tuân thủ. Ngoài ra, mỗi cơ quan có hình thức, phương pháp hoạt động

riêng theo quy định của pháp luật, vì thế hình thức và phương pháp hoạt động

15

của cơ quan có thẩm quyền cũng là những yếu tố quan trọng đối với thẩm quyền

của cơ quan đó.

Yếu tố nghĩa vụ trong thẩm quyền được hiểu như là trách nhiệm, bổn

phận của CQNN trong việc thực hiện quyền hạn của mình và không được vượt

qua khuôn khổ quyền hạn do pháp luật quy định. Yếu tố nghĩa vụ trong thẩm

quyền là một phương tiện để thực hiện yếu tố quyền tốt hơn, tránh hiện tượng

lạm dụng quyền lực, hiện tượng không sử dụng hết quyền của mình gây khó

khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ, hoặc không hoàn thành nhiệm vụ chức

năng của CQNN.

Như vậy, có thể thấy rằng yếu tố quyền và nghĩa vụ trong thẩm quyền có

mối quan hệ khăng khít và bổ sung cho nhau, tạo thành một tổng thể thống nhất

trong cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước của các CQNN. Các CQNN chỉ

hành động trong khuôn khổ thẩm quyền của mình.

Khái niệm “thẩm quyền trong giải quyết vụ án hành chính” là khái niệm

được dùng để chỉ thẩm quyền của các chủ thể tiến hành tố tụng khi tham gia

giải quyết vụ án hành chính. Thẩm quyền của các chủ thể này có giới hạn về

không gian, về thời gian đối với đối tượng nhất định. Giới hạn về không gian

là xem xét thẩm quyền theo khía cạnh quyền lực nhà nước trao cho cơ quan,

người có thẩm quyền được áp dụng trên lãnh thổ nhất định theo địa giới hành

chính. Giới hạn về thời gian của thẩm quyền được xác định bởi thời điểm bắt

đầu và kết thúc việc giải quyết vụ án hành chính. Thẩm quyền về thời gian hay

không gian đều luôn được xác định cụ thể. Hiến pháp và các văn bản luật về tổ

chức các CQNN hầu như không sử dụng thuật ngữ thẩm quyền, mà phổ biến là

thuật ngữ nhiệm vụ và quyền hạn. Thuật ngữ thẩm quyền thường được sử dụng

trong các văn bản có tính chất chuyên ngành, ví dụ: trong Luật TTHC năm 2015

tại Chương 2 quy định về thẩm quyền của Tòa án… Thông thường thuật ngữ

16

thẩm quyền được sử dụng khi cần để xác định những vấn đề, vụ việc thuộc

quyền quyết định, giải quyết của một chủ thể nhất định.

Tóm lại, từ các khái niệm về “thẩm quyền” và “thẩm quyền trong giải

quyết vụ án hành chính” như đã phân tích ở trên thì khái niệm “thẩm quyền của

Viện KSND cấp huyện trong giải quyết vụ án hành chính” là nhiệm vụ, quyền

hạn, trách nhiệm của Viện KSND cấp huyện nhân danh nhà nước thực hiện trong

việc giải quyết vụ án hành chính nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích công

cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; bảo đảm bản án, quyết

định của Tòa án khi giải quyết vụ án hành chính có căn cứ và đúng pháp luật.

1.2.2. Nội dung thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện

trong giải quyết vụ án hành chính

1.2.2.1. Phạm vi thực hiện thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp

huyện trong giải quyết vụ án hành chính

Trước hết khi phân tích về phạm vi thực hiện thẩm quyền của Viện KSND

cấp huyện trong giải quyết vụ án hành chính thì cần phải làm rõ vai trò cũng như

nhiệm vụ của Viện KSND cấp huyện trong việc giải quyết vụ án hành chính.

Cụ thể, để giải quyết vụ án hành chính, pháp luật quy định thẩm quyền

cho một số cơ quan hay cá nhân có quyền tiến hành những hoạt động mang tính

quyền lực nhà nước nhằm thẩm tra, xem xét và giải quyết khách quan, đúng pháp

luật vụ án hành chính. Những hoạt động này được tiến hành bởi những chủ thể

nhất định, đó là những cơ quan, cũng như những cá nhân người tiến hành tố tụng

được xác định là những chủ thể độc lập trong quan hệ TTHC.

Trong hoạt động, các chủ thể được nhân danh Nhà nước thực hiện quyền

và nghĩa vụ tố tụng để giải quyết vụ án hành chính cụ thể theo đúng quy định

của pháp luật tố tụng. Các chủ thể được áp dụng các biện pháp cần thiết theo

quy định của pháp luật để giải quyết các vụ án hành chính. Các chủ thể này bao

gồm cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.

17

Khoản 1 Điều 36 Luật TTHC năm 2015 quy định Viện KSND là cơ quan

tiến hành TTHC cùng với TAND. Như vậy, Luật TTHC năm 2015 vẫn tiếp tục

kế thừa quy định trước đây của Luật TTHC năm 2010. Việc giữ nguyên quy

định này là hợp lý bởi lẽ trong TTHC, Viện KSND nhân danh quyền lực Nhà

nước thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, cụ thể là kiểm sát tính

hợp pháp về các quyết định và hành vi của người tiến hành tố tụng và hành vi

của người tham gia tố tụng, bảo đảm mọi vi phạm pháp luật trong TTHC phải

được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh giúp cho việc giải quyết vụ án

hành chính được đúng đắn và khách quan.

Như vậy, với vai trò là cơ quan tố tụng trong việc giải quyết vụ án hành

chính, Viện KSND cấp huyện có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật

nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hành chính kịp thời, đúng pháp luật.

Đây là vai trò được xác định từ đầu khi ngành kiểm sát mới được thành lập, cụ

thể đã từng được xác định trong Tờ trình Quốc hội về Luật tổ chức Viện KSND

năm 1960: “…phải tổ chức ra Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát việc tuân

theo pháp luật nhằm giữ vững pháp chế Xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho pháp

luật được thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.

Theo đó, với vai trò và nhiệm vụ như trên thì phạm vi thực hiện thẩm

quyền Viện KSND cấp huyện trong việc giải quyết các vụ án hành chính bắt

đầu ngay từ khi thụ lý đến khi kết thúc việc giải quyết vụ án; tham gia phiên

tòa, phiên họp của Tòa án, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong công tác thi

hành án, quyết định của Tòa án: Thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng

nghị theo quy định của pháp luật.

Viện KSND cấp huyện thực hiện thẩm quyền kiểm sát vụ án hành chính

bằng quyền kháng nghị các bản án, quyết định của Tòa án khi giải quyết vụ án

hành chính mà chưa có hiệu lực pháp luật theo thủ tục phúc thẩm.

18

Khi thực hiện thẩm quyền của mình, Viện KSND cấp huyện có quyền ra

quyết định, kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu và chịu trách nhiệm trước pháp luật

về các văn bản đó. Các văn bản trên có hiệu lực bắt buộc đối với các cơ quan,

tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan.

Theo quy định của Luật TTHC năm 2015, Viện KSND cấp huyện có

thẩm quyền sau:

- Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện. Luật TTHC năm 2015 đã sửa đổi,

bổ sung quy định tại các Điều 109 và 110 Luật TTHC năm 2010 nhằm bảo đảm

để Viện KSND cấp huyện thực hiện tốt quyền này như: Đơn khởi kiện và tài

liệu, chứng cứ mà Thẩm phán trả lại cho người khởi kiện phải được sao lại và

lưu tại Tòa án để làm cơ sở giải quyết khiếu nại, kiến nghị khi có yêu cầu (Điều

123 Luật TTHC năm 2015); phiên họp xem xét giải quyết khiếu nại, kiến nghị

có sự tham gia của đại diện Viện KSND cùng cấp và đương sự có khiếu nại.

Trường hợp người khởi kiện, KSV vắng mặt thì Thẩm phán vẫn tiến hành phiên

họp (Điều 124 Luật TTHC năm 2015).

- Kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ án hành chính của Tòa án cùng cấp

(Điều 43 Luật TTHC năm 2015, Điều 27 Luật tổ chức Viện KSND năm 2014)

- Nghiên cứu hồ sơ vụ án; yêu cầu Tòa án cùng cấp xác minh, thu thập tài

liệu, chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án hoặc có thể xác minh, thu thập tài

liệu, chứng cứ để bảo đảm cho việc kháng nghị (Điều 84 Luật TTHC năm 2015).

- Tham gia phiên tòa, phiên họp, phát biểu ý kiến của Viện KSND về việc

tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng

và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án hành chính ở các thủ tục sơ thẩm

theo quy định của Luật TTHC (Điều 25, 156, 190, 200 Luật TTHC năm 2015).

- Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cùng cấp; kháng nghị

theo thủ tục phúc thẩm các bản án, quyết định giải quyết vụ án hành chính của

Tòa án theo quy định của Luật TTHC (Điều 43, 211 Luật TTHC năm 2015).

19

- Yêu cầu, kiến nghị Tòa án thực hiện hoạt động tố tụng theo quy định

của Luật TTHC; kiến nghị với Tòa án khắc phục những vi phạm pháp luật trong

việc giải quyết vụ án hành chính; kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa

vụ thi hành án hành chính và cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan,

tổ chức phải chấp hành bản án, quyết định của Tòa án; kiến nghị với Tòa án về

việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời; kiến nghị với Tòa

án về quyết định đưa vụ án ra giải quyết theo thủ tục rút gọn (Điều 27 Luật tổ

chức Viện KSND năm 2014; Điều 42, 43, 76, 248, 315 Luật TTHC năm 2015).

- Kiểm sát hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến

nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng

vi phạm pháp luật (Điều 43 Luật TTHC năm 2015).

Như vậy, trong phạm vi thẩm quyền của mình, Viện KSND cấp huyện

với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện quyền kiểm sát các hoạt động

tư pháp nhằm bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo tính trong sạch của

hoạt động quản lý hành chính, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân

khỏi bị xâm hại bởi các quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính trái

pháp luật từ phía chính quyền.

1.2.2.2. Các khiếu kiện thuộc thẩm quyền kiểm sát của Viện kiểm sát

nhân dân cấp huyện trong giải quyết vụ án hành chính

Viện KSND với vai trò kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải

quyết vụ án hành chính, có thẩm quyền kiểm sát các vụ án hành chính từ khi

thụ lý đến khi kết thúc việc giải quyết vụ án. Vì vậy, các khiếu kiện hành chính

thuộc thẩm quyền kiểm sát của Viện KSND cấp huyện sẽ luôn gắn chặt với

thẩm quyền của TAND cùng cấp. Cụ thể Điều 31 Luật TTHC 2015 quy định

Thẩm quyền của Tòa án cấp huyện như sau:

“Tòa án cấp huyện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện sau:

20

1. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan

hành chính nhà nước từ cấp huyện trở xuống trên cùng phạm vi địa giới hành

chính với Tòa án hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà

nước đó, trừ quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyện,

Chủ tịch UBND cấp huyện.

2. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ

quan, tổ chức từ cấp huyện trở xuống trên cùng phạm vi địa giới hành chính với

Tòa án đối với công chức thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức đó.

3. Khiếu kiện danh sách cử tri của cơ quan lập danh sách cử tri trên

cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án.”

Như vậy, theo quy định trên thì cơ sở xác định các khiếu kiện thẩm quyền

kiểm sát của Viện KSND cấp huyện trong việc giải quyết vụ án hành chính

luôn gắn với thẩm quyền của Tòa án cùng cấp và các quyết định, hành vi hành

chính của chính quyền cùng cấp. Bao gồm:

Thứ nhất: Quyết định hành chính, là văn bản do cơ quan hành chính nhà

nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước ban

hành hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành quyết định

về vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối

với một hoặc một số đối tượng cụ thể (Khoản 1 Điều 3 Luật TTHC năm 2015).

Theo quy định của pháp luật, chủ thể ban hành quyết định hành chính rất

rộng, không chỉ bao gồm các cơ quan hành chính nhà nước, mà còn các cơ

quan, cá nhân khác như TAND, Viện KSND, Kiểm toán Nhà nước, Văn phòng

Quốc Hội, Văn phòng Chủ tịch nước; những người có chức vụ trong tổ chức

chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp công lập... Tuy nhiên, đối với các quyết định

hành chính, hành vi hành chính mang tính chất nội bộ của từng cơ quan, tổ chức

để quản lý, điều hành chỉ đạo hoạt động của các cơ quan, tổ chức này thì không

phải là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.

21

Như vậy, thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong việc tham gia

giải quyết các vụ án hành chính, các khiếu kiện liên quan đến quyết định hành

chính là những quyết định hành chính từ cấp huyện trở xuống trên cùng phạm

vi địa giới hành chính với Tòa án hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan

hành chính nhà nước đó, trừ quyết định hành chính, hành vi hành chính của

UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện.

Thứ hai: Hành vi hành chính, là hành vi của cơ quan hành chính nhà

nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc

cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước thực hiện

hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật (Khoản 3

Điều 3 Luật TTHC năm 2015).

Theo khái niệm này, thì có hai yếu tố cấu thành nên khái niệm hành vi

hành chính, bao gồm:

Một là, chủ thể thực hiện hành vi:có thể là cơ quan hành chính nhà nước,

hoặc có thể là người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước.

Hai là, hình thức biểu hiện hành vi: hành vi hành chính được biểu hiện

trong quá trình thực hiện công vụ, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật, có thể

dưới dạng hành động hoặc không hành động.

Ví dụ: Một người giao nhiệm vụ thi hành quyết định hành chính của

người có thẩm quyền về việc cắm mốc một lô đất để làm sổ cho người dân.

Nhưng khi thực hiện nhiệm vụ, người này cắm sai vị trí, ảnh hưởng đến người

dân thì lúc này hành vi hành chính sai trái đó là hành vi hành động.

Ví dụ: Hành vi hành chính là việc không thực hiện công vụ theo quy định

của pháp luật như: Một cơ quan hoặc một người theo quy định của pháp luật

sau khi nhận đủ hồ sơ về việc xin cấp các loại giấy tờ nhưng nại nhiều lý do để

từ chối dẫn đến bị khởi kiện thì đó là kiện hành vi hành chính không hành động.

22

So với các quy định của Luật TTHC năm 2010, Điều 31 và Điều 32 Luật

TTHC năm 2015 có những sửa đổi, bổ sung cơ bản để phân định rõ thẩm quyền

giải quyết các vụ án hành chính giữa cấp huyện với cấp tỉnh. Đó là, đối với

quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyện, Chủ tịch

UBND cấp huyện thì thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm thuộc về Tòa

án cấp tỉnh chứ không còn thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện như quy

định của Luật TTHC năm 2010. Quy định này có ý nghĩa trong việc thúc đẩy

dân chủ, công khai, minh bạch nền hành chính; tạo điều kiện để Thẩm phán

thực hiện tốt nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Việc thay đổi về

thẩm quyền giải quyết này xuất phát từ những lý do sau:

- Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định tăng thẩm quyền xét xử của cấp

huyện, nhưng cần phải có lộ trình thực hiện và phải bảo đảm hiệu quả, chất

lượng giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện nhằm bảo

vệ tốt nhất quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013.

- Thực tiễn xét xử các vụ án hành chính cho thấy, đa số các khiếu kiện

đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyện, Chủ

tịch UBND cấp huyện liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai, có

tính chất phức tạp và việc giải quyết có liên quan đến người bị kiện là người có

chức vụ, quyền hạn, nên cần Thẩm phán có kiến thức chuyên sâu, có kinh

nghiệm và bản lĩnh thì việc giải quyết vụ án mới đạt hiệu quả cao. Việc giải

quyết các khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính ở cấp huyện

hiện nay chưa bảo đảm chất lượng; tỷ lệ án bị hủy, sửa cao.

- Việc giao cho Tòa án cấp tỉnh giải quyết khiếu kiện quyết định hành

chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện sẽ

khắc phục tình trạng e ngại, nể nang của Thẩm phán trong việc xét xử; nếu có

kháng cáo, kháng nghị thì sẽ do TAND cấp cao giải quyết theo thủ tục phúc thẩm,

23

giám đốc thẩm, nên tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong xét xử của các

Thẩm phán sẽ cao hơn, bảo đảm việc giải quyết khách quan, hiệu quả hơn.

Thứ ba: Quyết định kỷ luật buộc thôi việc, là quyết định bằng văn bản

của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng hình thức kỷ luật buộc thôi

việc đối với công chức thuộc quyền quản lý của mình.

Theo khái niệm này, thì quyết định kỷ luật buộc thôi việc có các đặc

điểm là văn bản thể hiện dưới dạng hình thức là quyết định, do người đứng đầu

cơ quan, tổ chức quản lý ban hành.

Trong các hình thức kỷ luật thì chỉ có hình thức kỷ luật buộc thôi việc

được quyền khởi kiện vụ án hành chính là vì:

- Mức độ nghiêm trọng của vụ việc.

- Các hình thức khác như khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương...là các

hình thức mang tính chất nội bộ.

- Do phương thức quản lý hành chính là quyền uy - phục tùng.

Ngoài ra, chỉ khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức là vì

cán bộ được bầu không có hình thức kỷ luật buộc thôi việc, viên chức do làm việc

theo hình thức hợp đồng nên được quyền khởi kiện nhưng kiện theo TTDS.

Thứ tư: Khiếu kiện danh sách cử tri, đối với loại khiếu kiện này người

khởi kiện chỉ được quyền khiếu kiện khi không có tên hoặc ghi tên sai chứ

không được khởi kiện về quy trình bầu cử và tư cách ứng cử viên. Do mức độ

quan trọng của danh sách cử tri nên đối với loại khiếu kiện này cần phải giải

quyết nhanh chóng để đảm bảo tính chính xác khi bầu cử, Luật TTHC năm

2015 đã quy định riêng một chương để điều chỉnh loại khiếu kiện này.

1.3. Các yếu tố tác động đến thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân

cấp huyện trong giải quyết vụ án hành chính.

1.3.1. Đường lối, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp

Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng, vai trò lãnh đạo của

Ðảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu của lịch sử, là nhân tố quyết định, bảo

24

đảm cho sự phát triển của sự nghiệp cách mạng nước ta. Bảo đảm sự lãnh đạo

của Ðảng là vấn đề có tính nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của bộ máy

Nhà nước ta nói chung và Viện KSND cấp huyện nói riêng.

Dưới sự lãnh đạo của Ðảng, hơn 50 năm qua, Viện KSND cấp huyện cùng

các cơ quan tư pháp đã không ngừng phấn đấu, trưởng thành, vượt qua nhiều

khó khăn, thử thách để hoàn thành nhiệm vụ của mình, góp phần không nhỏ vào

thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cũng như của sự

nghiệp đổi mới toàn diện đất nước. Trong từng thời kỳ, Ðảng đã đề ra các nhiệm

vụ chính trị cho ngành kiểm sát nhân dân, được thể hiện trong Nghị quyết các kỳ

Ðại hội Ðảng, Nghị quyết các Hội nghị Trung ương Ðảng; các chỉ thị, nghị quyết

của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác lãnh đạo nói chung của Ðảng.

Trong những năm đầu thành lập ngành, Ðảng ta còn ban hành những

nghị quyết chuyên sâu về công tác của các cơ quan tư pháp nói chung và Viện

KSND cấp huyện nói riêng, cụ thể như: Thông tri số 13-TT/TW ngày

12/12/1960 của Ban Chấp hành Trung ương về tăng cường lãnh đạo công tác

kiểm sát; Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 01/12/1963 của Bộ Chính trị về công

tác kiểm sát. Hằng năm, định kỳ hoặc bất thường, Ðảng đoàn Viện KSND tối

cao đều có báo cáo công tác với Ban Bí thư và xin chỉ đạo về đường lối công

tác. Thông qua các hình thức trên, Ðảng đã lãnh đạo toàn diện và sâu sát các

mặt công tác của ngành kiểm sát; qua đó, bảo đảm hoạt động của ngành kiểm

sát trong các thời kỳ luôn quán triệt đầy đủ, đúng đắn đường lối của Ðảng, phục

vụ tốt các nhiệm vụ chính trị.

Trong giai đoạn cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực

tiễn cấp bách. Nhiều chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp được

thể chế trong Hiến pháp, pháp luật và được triển khai đạt kết quả. Tổ chức bộ

25

máy TAND, Viện KSND, cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn; chất

lượng hoạt động của các cơ quan này có thay đổi theo chiều hướng tốt hơn.

Đảng và Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa mà nội dung cốt lõi chính là sự quản lý nhà nước và xã

hội bằng pháp luật, từ đó đòi hỏi sự tuân theo pháp luật triệt để của các CQNN,

các tổ chức và công dân. Nhà nước ban hành pháp luật, tổ chức, quản lý xã hội

bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, tăng

cường các cơ chế giám sát: “Viện KSND có chức năng thực hành quyền công

tố và kiểm sát hoạt động tư pháp như hiện nay...” [9, tr.100].

Nhìn lại quá trình phát triển của công tác kiểm sát cho thấy đã có sự

chuyển biến quan trọng trong việc nhận thức lại về chức năng của Viện KSND

nói chung và Viện KSND cấp huyện nói riêng. Điều này thể hiện rõ nét từ chủ

trương, đường lối của Đảng cụ thể là, Hội nghị Trung ương 8 khoá VII với yêu

cầu đặt ra là Viện KSND cần làm tốt 3 chức năng: Kiểm sát chung, thực hành

quyền công tố và kiểm sát tư pháp; Hội nghị Trung ương 3 khoá VIII yêu cầu

nâng cao chất lượng hoạt động của Viện kiểm sát theo cả 3 chức năng quy định

trong Hiến pháp, nhưng tập trung làm tốt chức năng thực hành quyền công tố

và kiểm sát hoạt động tư pháp. Sau đó, tại Đại hội Đảng lần IX, Nghị quyết số

08 của Bộ Chính trị khẳng định Viện KSND chỉ thực hiện tốt hai chức năng:

Thực hành quyền công tố và kiểm sát tư pháp. Báo cáo chính trị của Ban chấp

hành Trung ương Đảng Khóa X trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI yêu

cầu cần phải “bảo đảm tốt hơn các điều kiện để Viện KSND thực hiện hiệu quả

chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”. Nghị

quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tiếp tục xác

định: Viện KSND là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt

động tư pháp.

26

Kế thừa quan điểm của các kỳ Đại hội trước, Đại hội XII đã nhấn mạnh

tầm quan trọng của Chiến lược cải cách tư pháp và đề ra những biện pháp mạnh

mẽ nhằm bảo đảm về cơ sở chính trị cho hoạt động cải cách tư pháp cụ thể:

Đối với Viện KSND, khẳng định vị trí pháp lý của Viện KSND trong bộ

máy nhà nước với vai trò kép: Vừa là cơ quan thực hành quyền công tố vừa là

cơ quan giữ quyền kiểm sát hoạt động tư pháp. “Viện KSND thực hành quyền

công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.”[15, tr.101]. Do đó, ảnh hưởng không

ít đến tổ chức Viện KSND cấp huyện, cần tiếp tục kiện toàn nhằm phù hợp với

hệ thống tổ chức của Toà án cùng cấp để thực hiện tốt hơn chức năng công tố

và kiểm sát tư pháp đã được Hiến pháp ghi nhận. Bên cạnh đó, đòi hỏi các cán

bộ, công chức, KSV, kiểm tra viên phải tích cực, chủ động phát huy đầy đủ vai

trò, trách nhiệm khi tham gia vào hoạt động kiểm sát. Kéo theo đó là tăng quyền

và trách nhiệm cho KSV để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính

độc lập và chịu trách nhiệm về các hành vi và quyết định tố tụng của mình.

Còn về thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện thì ngày 02/6/2005, Bộ

Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp

đến năm 2020, trong đó một trong các nhiệm vụ được xác định đó là: “...mở

rộng thẩm quyền xét xử của Toà án đối với các khiếu kiện hành chính; đổi mới

mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại Toà án; tạo điều kiện

thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân

và cơ quan công quyền trước Toà án...”. Đặc biệt, quá trình xây dựng, hoàn

thiện Luật TTHC luôn bám sát các chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng

về cải cách tư pháp. Theo những quan điểm chỉ đạo này thì hoạt động kiểm sát

việc tuân theo pháp luật trong TTHC vẫn được xác định là một nguyên tắc trong

TTHC. Viện KSND cấp huyện kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm đảm bảo

việc giải quyết vụ án hành chính kịp thời, đúng pháp luật. Theo đó, Viện KSND

cấp huyện là cơ quan tiến hành tố tụng có nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát giải

27

quyết vụ án hành chính từ khi Tòa án cùng cấp nhận đơn khởi kiện tới khi kết

thúc việc giải quyết vụ án. Để hoàn thiện, nâng cao thẩm quyền của Viện KSND

cấp huyện thì rất cần sự lãnh đạo của Đảng. Khi Đảng lãnh đạo có chủ trương,

nghị quyết cụ thể nhằm hoàn thiện, nâng cao thẩm quyền của Viện KSND cấp

huyện trong tố tụng nói chung, TTHC nói riêng thì đó là tiền đề cơ sở để thẩm

quyền của Viện KSND cấp huyện được xác lập theo quy định của pháp luật.

Trong hệ thống cơ quan kiểm sát thì Viện KSND cấp huyện là cơ quan

đóng vai trò quan trọng, phần lớn các hoạt động TTHC của Toà án cần phải

kiểm sát là hoạt động tố tụng do Toà án thực hiện. Nếu thực hiện tốt được khâu

kiểm sát TTHC tại cấp cơ sở này thì sẽ hạn chế được khối lượng công việc phát

sinh ở Viện KSND cấp trên. Vì vậy, đường lối cải cách tư pháp hành chính với

định hướng nâng cao hiệu quả kiểm sát hoạt động tư pháp hành chính là yếu tố

tạo thêm sức mạnh, động lực và quyết tâm của ngành trong việc tăng cường

công tác kiểm sát án hành chính của Viện KSND.

Sự lãnh đạo của Đảng đã tạo ra sự chuyển biến thật sự về chất trong tổ

chức và hoạt động của Viện KSND, nâng cao vị trí, vai trò của Viện KSND cấp

huyện trong hệ thống chính trị để xứng đáng là một trong các "cơ quan trọng

yếu của chính quyền" có vai trò "thực hiện chế độ pháp trị, giữ vững và bảo vệ

quyền lợi của nhân dân, bảo vệ chế độ dân chủ", như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã

từng nói.

1.3.2. Trình độ, năng lực của đội ngũ kiểm sát viên

Trong mọi lĩnh vực, công tác cán bộ luôn giữ vai trò then chốt, là yếu tố

có ý nghĩa quyết định đến mức độ hoàn thành chất lượng, hiệu quả công việc.

Công tác kiểm sát nói chung và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc

giải quyết vụ án hành chính nói riêng cũng không nằm ngoài quy luật đó. Nhìn

chung, trong những năm qua, công tác cán bộ của ngành kiểm sát đã có nhiều

28

chuyển biến tích cực, làm thay đổi đáng kể đến chất lượng, hiệu quả công tác

cũng như vị thế của ngành trong khối các cơ quan tư pháp.

Việc nghiên cứu cho thấy kiểm sát án hành chính là một lĩnh vực khá phức

tạp và nhạy cảm, liên quan trực tiếp đến quyền lợi của dân. Vì vậy, trình độ, năng

lực của KSV là hết sức quan trọng, bởi vì KSV được Viện trưởng Viện kiểm sát

cùng cấp phân công có nhiệm vụ tham gia phiên tòa, sau khi những người tham

gia tố tụng tranh luận và đối đáp xong, KSV phát biểu ý kiến về việc tuân theo

pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa và của

người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến

trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết

vụ án. Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, KSV phải gửi văn bản phát biểu ý kiến

cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án. Do vậy, trình độ, năng lực của KSV là yếu

tố có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng kiểm sát án hành chính. Mặt khác,

nếu các Viện KSND cấp huyện không coi trọng nhiệm vụ công tác kiểm sát hành

chính, không có sự đầu tư cán bộ bảo đảm năng lực và phẩm chất để thực hiện

nhiệm vụ công tác này, bố trí cán bộ mới vào ngành, ít kinh nghiệm hoặc bố trí

cán bộ năng lực hạn chế để làm công tác kiểm sát hành chính thì chất lượng công

tác kiểm sát không thể đạt yêu cầu.

Tuy nhiên, trên thực tế đội ngũ KSV đang từng bước đáp ứng nhu cầu về

số lượng, đạt chuẩn về bằng cấp, văn bằng, chứng chỉ. Đa số cán bộ, KSV không

ngừng nỗ lực học hỏi, rèn luyện, phấn đấu, vươn lên trong công tác, hoàn thành

xuất sắc nhiệm vụ, đáp ứng yêu của ngành cũng như yêu cầu cải cách tư pháp

mà Đảng, Nhà nước đề ra. Mặc dù vậy, xét một cách toàn diện, đội ngũ cán bộ,

KSV ngành kiểm sát nhất là cấp huyện vẫn còn những hạn chế nhất định, đặc

biệt là trong hoạt động kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính ở cấp huyện.

29

1.3.3. Ý thức pháp luật và việc chấp hành pháp luật của những người

tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng

Trong hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp thì hoạt động tư pháp là

một trong những hoạt động đòi hỏi ý thức pháp luật cao của người thực thi quyền

lực cũng như của đối tượng bị áp dụng. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, không

phải tất cả các cơ quan, cá nhân hay người dân đều có được sự hiểu biết đầy đủ

về các quy định của pháp luật cũng như có thái độ thượng tôn pháp luật đối với

các quy định của nhà nước, nên trong quá trình thực hiện pháp luật còn có những

hạn chế khiến cho hiệu quả giải quyết vụ án hành chính đạt được là không cao.

Thực tế cho thấy, một trong những nguyên nhân dẫn đến hành vi vi phạm

pháp luật là trình độ hiểu biết pháp luật, ý thức pháp luật, sự tôn trọng pháp luật

của một bộ phận nhân dân. Bên cạnh đó, thời bao cấp với tư duy nhà nước lo cho

tất cả đã không tạo ra lối nghĩ về việc dân có thể kiện lại chính quyền, người dân

vẫn còn tâm lý xa lạ với việc “dân kiện quan”. Những thói quen, nếp nghĩ đó của

công dân và cơ quan công quyền đã hạn chế số lượng người dân yêu cầu tòa

hành chính bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Hai là, một số cán bộ, công chức kể cả cán bộ trong ngành tư pháp còn có

những nể nang trong quá trình thụ lý, xử lý vụ hành chính, ý thức tuân thủ pháp

luật chưa cao, thậm chí chưa thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật dẫn

đến quá trình thụ lý, giải quyết các vụ án hành chính chưa đúng với quy định

pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện.

30

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Trong Chương 1, Luận văn đã tập trung phân tích, luận giải một số vấn

đề lý luận về thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong việc giải quyết vụ

án hành chính như khái niệm, các yếu tố ảnh hưởng đến thẩm quyền tham gia

giải quyết vụ án hành chính của Viện KSND cấp huyện. Trong Chương này,

Luận văn đã phân tích làm quá trình hình thành và phát triển các quy định của

pháp luật Việt Nam về việc thực hiện thẩm quyền của Viện KSND trong giải

quyết vụ án hành chính. Từ đó có thể thấy rằng, mặc dù ở các giai đoạn khác

nhau, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước có

nhiều chuyển biến, kéo theo quy định trách nhiệm, quyền hạn của Viện KSND

cấp huyện trong việc giải quyết vụ án hành chính có nhiều thay đổi, song việc

bảo đảm thực hiện thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính của Viện KSND

cấp huyện là yêu cầu khách quan, gắn liền với chức năng và quá trình hình

thành và phát triển của Viện KSND. Kết quả nghiên cứu này sẽ giúp cho ta có

một cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn khi nghiên cứu pháp luật hiện hành về

thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong việc giải quyết vụ án hành chính.

Với những nội dung được trình bày trong Chương 1 sẽ là cơ sở, tiền đề

cho việc phân tích, đánh giá pháp luật hiện hành từ thực tiễn áp dụng pháp luật

về việc thực hiện thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong giải quyết vụ

án hành chính trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

31

Chương 2

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN THẨM QUYỀN CỦA VIỆN KIỂM SÁT

NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH

CHÍNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI

2.1. Phân tích thực trạng thực hiện thẩm quyền của Viện kiểm sát

nhân dân cấp huyện trong giải quyết vụ án hành chính trên địa bàn tỉnh

Quảng Ngãi

2.1.1. Khái quát về Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh

Quảng Ngãi

Tỉnh Quảng Ngãi là một tỉnh ven biển miền Trung, nằm trong vùng kinh

tế trọng điểm miền Nam Trung bộ. Tỉnh Quảng Ngãi có quá trình hình thành

và phát triển tương đối biến động, từ năm 1976 đến năm 1989 tỉnh Quảng Ngãi

và tỉnh Bình Định được sáp nhập với nhau hình thành tỉnh Nghĩa Bình [6,

tr.100]. Lúc này, cơ cấu tổ chức bộ máy Viện KSND cấp huyện, thị trên địa

bàn tỉnh Nghĩa Bình là 08 đơn vị. Đến ngày 01/7/1989, tỉnh Quảng Ngãi được

tái lập trên cơ sở tách tỉnh Nghĩa Bình thành hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định

như cũ [7, tr.100]. Cùng lúc đó, ngày 04/7/1989 Viện KSND tối cao có quyết

định số 83/QĐ thành lập Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi. Lúc này, đội ngũ cán

bộ kiểm sát có khoảng hơn 100 người với trình độ cao đẳng và đại học, số lượng

cán bộ được đào tạo chuyên môn từ các trường Cao đẳng kiểm sát và Đại học

luật chiếm 16,8%. Số lượng Viện KSND cấp huyện có 11 đơn vị gồm: Thị xã

Quảng Ngãi và 10 huyện: Ba Tơ, Bình Sơn, Đức Phổ, Minh Long, Mộ Đức,

Nghĩa Hành, Sơn Hà, Sơn Tịnh, Trà Bồng, Tư Nghĩa.

Với chức năng, nhiệm vụ của Viện KSND cấp huyện là thực hành quyền

công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong phạm vi địa phương mình nên số

lượng Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi thay đổi tùy thuộc

32

vào sự tăng giảm số lượng các huyện trên địa bàn. Cụ thể ngày 01/01/1993,

huyện đảo Lý Sơn được thành lập. Năm 1994, tiếp tục thành lập huyện Sơn Tây

trên cơ sở tách ra từ huyện Sơn Hà [10, tr.101]. Ngày 01/12/2003, thành lập

huyện Tây Trà trên cơ sở tách ra từ huyện Trà Bồng [11, tr.101]. Ngày

26/8/2005, thị xã Quảng Ngãi được nâng lên thành phố Quảng Ngãi [12, tr.101].

Như vậy, sau quá trình hình thành và phát triển, tính đến nay toàn tỉnh Quảng

Ngãi có 14 Viện KSND cấp huyện tương ứng với hệ thống chính quyền địa

phương cấp huyện trong tỉnh. Được sự quan tâm của các cấp các ngành, của

Viện KSND tối cao, sự đồng tình ủng hộ của nhân dân và cố gắng nỗ lực của

toàn ngành, qua gần 30 năm xây dựng, đội ngũ công chức của ngành kiểm sát

đã phát triển cả về chất và lượng, hệ thống tổ chức Viện KSND cấp huyện ngày

càng được kiện toàn và củng cố. Cơ cấu tổ chức của các Viện KSND cấp huyện

được thực hiện theo quy định tại Điều 48 Luật tổ chức Viện KSND năm 2014,

mỗi Viện KSND cấp huyện gồm có 03 bộ phận công tác: Bộ phận thực hành

quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử và kiểm sát việc tạm giữ, tạm

giam; bộ phận kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình,

hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật,

kiểm sát thi hành án và bộ phận Văn phòng tổng hợp, thống kê và khiếu tố.

Do là một tỉnh đang trong giai đoạn phát triển nên nhìn chung đời sống

người dân còn nhiều khó khăn, sự hiểu biết về pháp luật còn hạn chế, ý thức chấp

hành pháp luật của người dân chưa cao. Từ đó dẫn đến việc xảy ra các tranh

chấp, khiếu kiện một phần là do người dân thiếu hiểu biết pháp luật. Mặt khác,

do ảnh hưởng bởi mặt trái của cơ chế thị trường, vấn đề đô thị hóa, cơ sở hạ tầng

phát triển mạnh kéo theo giá cả đất đai biến động, nhu cầu người dân trong việc

làm ăn buôn bán ngày một tăng, dẫn đến các tranh chấp phát sinh ngày càng

nhiều. Ngoài ra, còn nhiều nguyên nhân khác dẫn tới tình trạng số lượng các vụ

việc khiếu kiện, tranh chấp về hành chính ngày một tăng.

33

Các tranh chấp khiếu kiện nổi lên trong những năm gần đây đa phần về

lĩnh vực đất đai. Trong đó, tập trung chủ yếu tranh chấp về quyền sử dụng đất,

các khiếu kiện về quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND. Có

nhiều nguyên nhân làm nảy sinh tranh chấp về đất đai đó là do kinh tế phát

triển, nhu cầu về nhà ở, đất ở ngày càng tăng lên, trong khi đó đất ngày càng có

giá trị hơn. Bên cạnh đó, do nhận thức pháp luật của người dân còn nhiều hạn

chế, dẫn đến việc giao kết các hợp đồng liên quan đến đất đai chưa đúng với

với các quy định của pháp luật. Mặt khác, do CQNN có thẩm quyền khi thực

hiện các thủ tục liên quan quyền sử dụng đất chưa thực hiện tốt các quy định

dẫn đến sai sót trong việc xác định diện tích cũng như nguồn gốc đất nên dẫn

đến tranh chấp là điều khó tránh khỏi, cùng với đó là việc giải quyết của chính

quyền địa phương về quyền sử dụng đất đối với một số các trường hợp còn

chưa thấu đáo, chưa khách quan nên đã có những tác động và làm gia tăng việc

tranh chấp quyền sử dụng đất và khiếu kiện về vấn đề này.

Việc giải quyết các tranh chấp của Toà án gặp nhiều khó khăn, bởi nhận

thức pháp luật của các bên đương sự khi tham gia tố tụng giải quyết vụ kiện

còn nhiều hạn chế làm cho công tác triệu tập, xác minh, thu thập chứng cứ, hoà

giải, đối thoại, xét xử để giải quyết dứt điểm vụ án mất nhiều thời gian, dẫn đến

một số vụ án còn kéo dài. Do vậy, khối lượng công việc mà các Viện KSND

cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi phải thực hiện việc kiểm sát là rất lớn

và cũng có những khó khăn bất cập.

Trung bình hàng năm Viện KSND cấp huyện phải giải quyết khoảng 17-

25 vụ án hành chính nhưng không phải tất cả các vụ án đều mới mà vẫn còn tồn

đọng hàng năm 1-2 vụ án, cụ thể được thể hiện qua bảng thống kê sau:

34

Bảng 2.1: Thống kê số vụ án hành chính ở cấp huyện từ năm 2015 -2017

STT Năm Tổng Số cũ Số mới Số giải Còn lại

số chuyển thụ lý quyết

sang

2015 25 10 15 24 01 1

2016 21 01 20 20 01 2

2017 17 01 16 15 01 3

Nguồn: [24, 25, 26, tr.102]

Nhìn vào bảng thống kê trên chúng ta thấy số vụ án hành chính ở cấp

huyện đã giải quyết có sự giảm dần theo các năm vì lý do theo quy định của pháp

luật thì từ ngày 01/7/2016 các quyết định hành chính, hành vi hành chính của

UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết

của Tòa án cấp tỉnh, đây là một điểm mới và khắc phục được vướng mắc mà

Luật TTHC năm 2010 đã gặp. Bởi việc Tòa án cấp huyện xét xử các quyết định

hành chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyện trong lĩnh vực quản lý

Nhà nước về đất đai là khó khả thi trên thực tế, vì vụ án sẽ do một Thẩm phán

cụ thể thụ lý, xét xử, nếu tuyên hủy quyết định hành chính của Chủ tịch UBND

cấp là cả một vấn đề rất khó khăn, do bị tác động vào quan hệ địa phương và

việc thi hành án cũng rất khó và người dân cũng nghi ngờ vào các phán quyết

của Tòa án. Vì vậy, việc chuyển cho Tòa án cấp tỉnh thụ lý, giải quyết những

quyết định hành chính do UBND cấp huyện ban hành và Tòa án cấp huyện chỉ

nên thụ lý, giải quyết những quyết định hành chính, hành vi hành chính do các

phòng, ban của của cơ quan hành chính cấp huyện là phù hợp.

2.1.2. Thực trạng thực hiện thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân

cấp huyện trong giải quyết vụ án hành chính trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

2.1.2.1. Về kiểm sát việc thụ lý và trả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính

Giải quyết vụ án hành chính là quá trình tiến hành tố tụng của cơ quan

tiến hành tố tụng. Thụ lý vụ án hành chính là một trong các bước của quá trình

35

tiến hành tố tụng, được xác định bằng hành vi ghi vào sổ thụ lý vụ án và thông

báo bằng văn bản cho đương sự biết Tòa án đã thụ lý vụ án.

Nếu như khởi kiện là quyền của cá nhân, cơ quan, tổ chức khi thấy quyền,

lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm thì thụ lý vụ án thể hiện là quyền và

nghĩa vụ của Tòa án. Việc khởi kiện vụ án hành chính của các chủ thể được pháp

luật ghi nhận và bảo vệ bằng việc Tòa án thụ lý vụ án hành chính để giải quyết

sau khi xem các điều kiện thụ lý vụ án hành chính. Thụ lý vụ án hành chính là

hoạt động đầu tiên của Tòa án trong quá trình tố tụng, làm phát sinh các hoạt

động TTHC tiếp theo. Việc thụ lý vụ án hành chính có ý nghĩa rất quan trọng,

thể hiện ở chỗ: Thời điểm thụ lý vụ án hành chính là thời điểm tính các thời hạn

tố tụng; bảo đảm việc bảo vệ kịp thời các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ

thể. Trong giai đoạn này Viện KSND thực hiện thẩm quyền của mình nhằm bảo

đảm việc thụ lý được thực hiện đúng theo các quy định của pháp luật.

Trước đây, số lượng thụ lý vụ án hành chính của Tòa án phản ánh ở Sổ

thụ lý vì vậy hoạt động kiểm sát việc thụ lý ít được chú ý. Kể từ khi Luật TTHC

năm 2015 có hiệu lực thi hành thì quy định trách nhiệm của Tòa án phải gửi

thông báo thụ lý cho Viện KSND trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ thụ lý

vụ án (Khoản 1 Điều 126 Luật TTHC năm 2015). Ngoài ra, nếu vụ án hành

chính đã được thụ lý và thông báo cho Viện KSND nhưng sau đó lại được

chuyển cho Tòa án khác có thẩm quyền giải quyết, thì Tòa án đã thụ lý phải gửi

ngay quyết định chuyển hồ sơ vụ án hành chính cho Viện KSND cùng cấp

(khoản 1 Điều 114 , khoản 1 Điều 34 Luật TTHC năm 2015).

Trong giai đoạn thụ lý vụ án, khi tiến hành xem xét việc khởi kiện, nếu

Tòa án nhận thấy đơn khởi kiện không đáp ứng đủ các điều kiện để thụ lý vụ

án thì sẽ tiến hành trả lại đơn khởi kiện. Vì vậy, để kiểm sát chặt chẽ việc trả

lại đơn khởi kiện của Tòa án thì tại khoản 5 Điều 43 Luật TTHC năm 2015 và

tại Khoản 1 Điều 27 Luật tổ chức Viện KSND năm 2014 thì Viện KSND được

36

giao nhiệm vụ kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án trong đó có việc thụ lý

và trả lại đơn khởi kiện của Tòa án. Và Điều 124 của Luật TTHC năm 2015

quy định rõ: “Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được văn bản trả lại

đơn khởi kiện, người khởi kiện có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến

nghị với Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện”.

Việc thụ lý hay trả lại đơn kiện trong công tác giải quyết vụ án rất quan

trọng. Do vậy, Viện kiểm sát ngay từ đầu phải xem xét tính hợp pháp trong việc

thụ lý, trả lại đơn khởi kiện của Toà án cả về các điều kiện để thụ lý giải quyết,

căn cứ trả lại đơn khởi kiện, thời hạn và nội dung thông báo làm cơ sở cho việc

kiểm sát vụ án sau này.

Thực hiện các quy định trên, các Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh

Quảng Ngãi đã phân công KSV theo dõi, kiểm sát ngay từ đầu việc thụ lý hoặc

trả lại đơn khởi kiện của Tòa án; áp dụng phương pháp “lập phiếu kiểm sát”

thông báo thụ lý của Tòa án. Qua kiểm sát việc thụ lý, trả lại đơn khởi kiện đã

phát hiện được nhiều vi phạm về nội dung và về thủ tục tố tụng trong quá trình

thụ lý vụ án của Tòa án. Hoạt động kiểm sát việc thụ lý của Viện KSND cấp

huyện trên địa tỉnh Quảng Ngãi được thể hiện thông qua kết quả số liệu sau:

37

35

30

25

Tổng số thông báo

20

Vi phạm về thời hạn gửi

Vi phạm khác

15

10

5

0

Năm 2015

Năm 2016

Năm 2017

Hình 2.1: Số lượng thông báo Viện KSND cấp huyện kiểm sát

[Nguồn 24, 25, 26. Tr.102]

4

3.5

Tổng số thông báo vi phạm

3

Số thông báo vi phạm thời hạn gửi

2.5

2

Số kiến nghị vi phạm thời hạn gửi thông báo

1.5

1

0.5

0

Năm 2015

Năm 2016

Năm 2017

[Nguồn 24, 25, 26. Tr.102]

Hình 2.2: Số vi phạm của Tòa án trong việc gửi thông báo

Từ số liệu nêu trên cho thấy 3 năm gần đây 2015 – 2017 số vụ việc để

xảy ra vi phạm trong việc thụ lý vụ án của Tòa án chiếm tỷ lệ thấp, khoảng

38

7.3% trên tổng số vụ việc, các vi phạm về nội dung vẫn còn xảy ra và đã được

Tòa án khắc phục, tuy nhiên vi phạm thời gian gửi thông báo vẫn tái diễn chưa

được Tòa án khắc phục, chiếm tỷ lệ lớn trong số các vi phạm của Tòa án -

chiếm 75% tổng số vi phạm. Viện KSND cấp huyện đã chú trọng việc thực

hiện kiến nghị đối với vi phạm này, số kiến nghị Viện KSND ban hành chiếm

66,67% số vi phạm phát hiện được. Tuy nhiên, vấn đề này cũng mới chỉ dừng

ở mức độ kiến nghị mà chưa có giải pháp hữu hiệu để Tòa án khắc phục triệt

để tình trạng này. Điều đó có ảnh hưởng đến việc phát hiện vi phạm và khắc

phục vi phạm trong công tác thụ lý và trả lại đơn khởi kiện của Tòa án.

Qua thực tiễn thực hiện hoạt động kiểm sát việc thụ lý của Viện KSND

cho thấy Viện KSND cấp huyện đã làm tốt công tác kiểm sát việc thụ lý vụ án

nên đã góp phần đảm bảo cho quá trình thụ lý giải quyết hầu hết các vụ án của

Tòa án được chính xác ngay từ đầu; tạo sự chủ động và là tiền đề cho KSV

nhanh chóng nắm bắt nội dung, vấn đề cơ bản của vụ án; đồng thời chủ động

phòng ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất các sai sót xảy ra ngay từ thời điểm bắt

đầu các hoạt động TTHC, tránh được tình trạng các thủ tục tố tụng kéo dài,

không cần thiết.

Ngoài những ưu điểm đã mang lại, thực tiễn thực hiện công tác này còn

có một số khó khăn, bất cập giữa pháp luật và thực tiễn đó là Luật TTHC quy

định KSV có nhiệm vụ kiểm sát việc thụ lý và trả lại đơn khởi kiện nhưng không

quy định khi Tòa án thụ lý hoặc trả lại đơn phải sao gửi cho Viện kiểm sát đơn

khởi kiện và tài liệu kèm theo, vì vậy hoạt động kiểm sát còn mang tính hình

thức, chất lượng và hiệu quả chưa cao. Thông tư liên tịch số 03/2016/TTLT-

VKSNDTC-TANDTC có quy định Tòa án phải gửi hồ sơ khi có yêu cầu của

Viện kiểm sát nên Viện kiểm sát có quyền rút hồ sơ, tài liệu để kiểm sát. Tuy

nhiên, thời hạn để kiến nghị của Viện kiểm sát chỉ có 07 ngày kể từ ngày nhận

được thông báo trả lại đơn khởi kiện nên rất khó khăn, bởi vì trên thực tế không

39

phải Viện kiểm sát có yêu cầu là có thể rút được hồ sơ ngay, việc tra tìm nghiên

cứu áp dụng pháp luật điều chỉnh tranh chấp trong lĩnh vực hành chính rất rộng

nên thời gian (07 ngày) là trở ngại trong việc thực hiện nhiệm vụ này.

2.1.2.2. Việc tham gia phiên tòa giải quyết vụ án hành chính

Trong TTHC, sự có mặt của những người tiến hành tố tụng nói chung và

của KSV nói riêng tại các phiên tòa có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình giải

quyết vụ án hành chính. Thứ nhất, sự có mặt của KSV tại các phiên tòa đảm

bảo đúng thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật TTHC tránh vi phạm

nghiêm trọng thủ tục tố tụng dẫn đến trường hợp bản án bị hủy để xét xử lại.

Thứ hai, sự có mặt của KSV giúp cho Viện KSND thực hiện chức năng kiểm

sát việc tuân thủ theo pháp luật trong hoạt động TTHC tại các phiên tòa, qua

đó phát hiện ra các sai sót trong hoạt động tố tụng, kịp thời đưa ra các quyết

định kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, thủ tục đặc biệt giúp việc giải quyết

vụ án được đúng đắn và khách quan, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của

các đương sự trong vụ án. Thứ ba, với sự có mặt của KSV góp phần nâng cao

tinh thần, trách nhiệm của Hội đồng xét xử trong hoạt động xét xử, là một trong

những cơ sở giải quyết vụ án được đúng đắn và triệt để tranh chấp giữa các bên

đương sự trong vụ án.

Viện KSND tham gia tố tụng với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp

luật trong quá trình giải quyết vụ án hành chính và được quy định tại Điều 25

Luật TTHC năm 2015. Đây được xem là một trong những nguyên tắc cơ bản

của hoạt động TTHC. Như vậy, qua quy định trên thì tại các phiên tòa xét xử

sơ thẩm về việc giải quyết các vụ án hành chính phải có sự tham gia của KSV.

Nội dung cơ bản của nguyên tắc này đã được Luật TTHC quy định chi tiết tại

các chương liên quan. Về sự có mặt của KSV tại phiên tòa cấp sơ thẩm được

quy định tại Điều 156 Luật TTHC năm 2015.

40

Việc thông báo KSV tham gia phiên toà, phiên họp được thực hiện như

sau: Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản thông báo

của Tòa án cấp sơ thẩm về việc thụ lý vụ án, Viện trưởng Viện KSND phân công

KSV tham gia phiên toà (Khoản 4 Điều 128 Luật TTHC năm 2015). Trường hợp

vụ án phức tạp, phiên toà có thể phải kéo dài nhiều ngày và xét thấy cần thiết thì

Viện trưởng Viện KSND có thể phân công KSV dự khuyết.

Việc cụ thể hóa hoạt động tham gia phiên tòa đã được Viện KSND tỉnh

hướng dẫn cụ thể bằng những nội dung chi tiết như: Thực hiện nhiệm vụ, quyền

hạn của KSV trước và tại phiên tòa sơ thẩm [27, tr.102].

- Để chuẩn bị tham gia phiên tòa, trong giai đoạn này KSV đã đảm bảo

thực hiện các công việc như:

+ Chủ động yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu

tham gia phiên tòa sơ thẩm là quy định bắt buộc của pháp luật hiện hành (khoản

2 Điều 146 và Điều 147 Luật TTHC năm 2015). Theo luật quy định thì việc

chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát là nghĩa vụ của Tòa án, tuy nhiên thực tiễn tại

các Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi thì việc KSV đã chủ

động yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ theo quy định và bước đầu đã đem lại nhiều

hiệu quả như: Tránh tình trạng Tòa án chuyển hồ sơ sang chậm, đảm bảo việc

nắm nội dung vụ án, kịp thời tiếp cận trực tiếp đối với các tài liệu chứng cứ có

trong vụ án, KSV đã kịp thời nghiên cứu để chuẩn bị tham gia phiên tòa. Thực

hiện nội dung này trên thực tế đòi hỏi phải có sự phối hợp trong công tác giữa

Viện kiểm sát và Tòa án nhưng trong một số trường hợp việc yêu cầu chuyển hồ

sơ của Viện kiểm sát đã không được Tòa án đáp ứng vẫn còn.

+ Xây dựng báo cáo hồ sơ kiểm sát bao gồm: Tóm tắt lời khai, trình bày

của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người tham gia

tố tụng khác (nếu có) về nội dung quan hệ pháp luật tranh chấp. Xem xét quá

trình tố tụng giải quyết vụ án hành chính từ khi thụ lý vụ án đến khi có quyết

41

định đưa vụ án ra xét xử (việc chấp hành pháp luật về trình tự, thủ tục tố tụng);

nắm vững nội dung, các tình tiết, và chứng cứ của vụ án, điều khoản của Luật

TTHC và các văn bản pháp luật khác được dự kiến áp dụng để giải quyết vụ án;

đề xuất quan điểm giải quyết vụ án. Báo cáo hồ sơ kiểm sát giải quyết vụ án hành

chính ở các Viện KSND cấp huyện sẽ được toàn thể công chức của Viện KSND

thông qua bằng hình thức họp báo cáo án, hình thức này đã đem lại nhiều kết quả

tích cực như: Thông qua số đông sẽ dễ dàng phát hiện những thiếu sót mà KSV

được phân công chưa phát hiện được, làm rõ những điểm KSV còn phân vân,

đưa ra hướng giải quyết vụ án có tính chính xác cao hơn… Tuy nhiên, có một số

vụ án có tình tiết đơn giản nhưng vẫn phải tổ chức họp báo cáo án nên gây lãng

phí thời gian và không thiết thực.

+ Dự kiến tình huống và kiểm sát giải quyết tình huống tại phiên tòa sơ

thẩm; xây dựng kế hoạch tham gia hỏi, KSV đã nắm chắc quy định về nguyên

tắc hỏi tại phiên tòa, được hỏi cả về tố tụng và nội dung và cuối cùng là chuẩn

bị nội dung phát biểu của KSV tại phiên tòa; dự kiến bài phát biểu tại phiên tòa.

Qua thực tiễn tiến hành các bước trên thì nhận thấy các tình huống bất ngờ tại

phiên tòa khó xảy ra hơn, KSV xử lý tình huống nhanh nhạy hơn, chất lượng

câu hỏi của KSV được nâng cao… Bên cạnh đó, một thực tế cho thấy khi Luật

TTHC năm 2015 có hiệu lực, nhận thức tại phiên tòa sơ thẩm KSV chỉ phát

biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tiến hành tố tụng và người

tham gia tố tụng tại phiên tòa, không quan tâm đến việc chấp hành pháp luật tố

tụng của Thẩm phán kể từ khi thụ lý, dẫn đến tình trạng không nghiên cứu sâu

nội dung vụ án, nên dự thảo bài phát biểu không đề cập được toàn bộ nội dung

vụ án, căn cứ pháp luật liên quan để giải quyết vụ án. Đây cũng là một bất cấp

hiện nay cần phải khắc phục.

- Tại phiên tòa, KSV đã cơ bản thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ quyền hạn

theo quy định của pháp luật hiện hành như:

42

+ KSV đã kiểm sát việc chấp hành thủ tục tố tụng của Hội đồng xét xử,

của Thư ký Tòa án và những người tham gia tố tụng từ khi bắt đầu cho đến khi

kết thúc phiên tòa. Thậm chí có lúc, có khi tại phiên tòa, khi phát hiện vi phạm,

sai sót thì KSV xin phép Hội đồng xét xử yêu cầu Hội đồng xét xử khắc phục

kịp thời vi phạm, thiếu sót. Điển hình như tại Viện KSND huyện Đức Phổ [23,

tr.102], Chủ tọa phiên tòa trong khi điều khiển phiên toà đã có sự nhầm lẫn

trong việc điều khiển thứ tự trình bày của đương sự, KSV đã có ý kiến và Chủ

tọa phiên tòa đã khắc phục. Một điểm hạn chế còn tồn tại ở các Viện KSND

cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi là KSV chỉ mới chú trọng phát biểu ý

kiến về kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng và

hầu như bỏ qua việc chấp hành pháp luật tố tụng của những người tham gia tố

tụng, điển hình nhiều phiên tòa các đương sự làm mất trật tự, không tuân theo

sự điều khiển của Chủ tọa hoặc thậm chí gây rối nhưng KSV không yêu cầu

Chủ tọa nhắc nhở khắc phục dẫn đến phiên tòa không đảm bảo sự tôn nghiêm.

+ Tham gia hỏi tại phiên tòa để góp phần làm sáng tỏ sự thật của vụ án.

Để tránh tình trạng đặt câu hỏi không trọng tâm, các KSV cấp huyện đã xác

định trường hợp cần thiết phải hỏi là khi phát hiện những tình tiết, nội dung

liên quan đến việc giải quyết vụ án nhưng người tham gia tố tụng trình bày, trả

lời chưa rõ. Tại phiên tòa, người tham gia tố tụng nêu ra tình tiết, chứng cứ mới

hoặc lời khai tại phiên tòa mâu thuẫn hoặc phủ nhận lời khai trong hồ sơ nhưng

Hội đồng xét xử không yêu cầu giải thích lý do thì KSV phải hỏi để làm rõ.

Mặt khác, qua việc hỏi nếu thấy chứng cứ, tình tiết mới được làm rõ tại phiên

tòa dẫn tới việc làm thay đổi quan điểm đã dự kiến thì KSV đã bổ sung, điều

chỉnh nội dung phát biểu quan điểm giải quyết vụ án. Bên cạnh những điểm

tích cực, vẫn còn một số ít KSV cấp huyện cứng nhắc trong kiểm sát xét xử,

phụ thuộc vào đề cương chuẩn bị trước phiên tòa, tham gia hỏi quá nhiều hoặc

quá ít, đặt câu hỏi trùng lắp với nội dung, tình tiết của vụ án mà Hội đồng xét

43

xử đã hỏi dẫn đến diễn biến phiên tòa có nhiều tình tiết dư thừa gây kéo dài

thời gian xét xử.

+ Phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, đây được xem là giai

đoạn quan trọng nhất trong toàn bộ hoạt động tham gia giải quyết vụ án hành

chính, bài phát biểu của KSV dựa trên cơ sở phân tích, đánh giá, nhận định về

các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ; diễn biến phiên tòa; pháp luật áp dụng để

giải quyết vụ án. Thực tiễn các Viện KSND cấp huyện trong giai đoạn Luật

TTHC năm 2015 vừa mới có hiệu lực, một số bài phát biểu của KSV cấp huyện

còn đơn giản khi nhận định việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán,

Hội đồng xét xử và người tham gia tố tụng; đề nghị đường lối giải quyết vụ án

còn chung chung, chưa rõ ràng thậm chí không sát với nội dung vụ kiện, bài

phát biểu chưa được chỉnh sửa cho phù hợp với diễn biến tại phiên tòa từ đó

dẫn đến bài phát biểu chưa được đảm bảo theo quy định của pháp luật (Điều

190 Luật TTHC năm 2015 và Điều 27 Thông tư liên tịch số 03/2016/TTLT

ngày 31/8/2016 của Viện KSND tối cao và TAND tối cao).

- Theo quy định sau khi kết thúc phiên tòa, KSV tiến hành kiểm tra biên

bản phiên toà, yêu cầu bổ sung, sửa đổi những vấn đề sai sót so với sự việc đã

thực hiện công khai tại phiên toà sơ thẩm (khoản 4 Điều 166 Luật TTHC năm

2015). Tuy nhiên quá trình thực hiện nhiệm vụ này có nhiều bất cập xảy ra như:

Biên bản phiên tòa đa phần được thư ký phiên hoàn thành xong khá lâu sau khi

phiên tòa kết thúc (thông thường là một buổi) nên việc KSV kiểm tra biên bản

phiên tòa rất khó khăn và một phần là do KSV cấp huyện chưa thật sự đánh giá

đúng mức độ quan trọng của biên bản phiên tòa, nên hầu hết các phiên tòa sau

khi kết thúc KSV không yêu cầu xem biên bản phiên tòa theo quy định.

Theo báo cáo tổng kết công tác trong 03 năm liên tiếp (từ năm 2015 đến

năm 2017) của Phòng 10 - Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi, thì số phiên tòa xét

xử vụ án hành chính Viện KSND cấp huyện là 29 phiên tòa và toàn bộ các

44

phiên tòa đều có sự tham gia của KSV. Các vụ án đều không kéo dài và quá

phức tạp nên chỉ có một KSV tham gia từ đầu đến khi kết thúc.

Quy định pháp luật về thời gian KSV nghiên cứu hồ sơ vụ án hành chính

là 15 ngày (Điều 147 Luật TTHC năm 2015). Thực tế cho thấy, quy định về

khoảng thời gian như thế không đủ để KSV nghiên cứu và phân tích các tài

liệu, chứng cứ có trong vụ án dẫn đến bỏ sót các tình tiết . Vì vậy để khắc phục

hạn chế trong việc giải quyết các vụ án hành chính giữa Viện KSND và Tòa án

trên địa bàn đã có sự phối hợp cho phép KSV thâm nhập hồ sơ ngay từ đầu

(tiếp cận chứng cứ từ ban đầu) để từ đó tại phiên tòa, khi KSV phát biểu ý kiến

về việc giải quyết vụ án cũng như việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá

trình giải quyết vụ án sẽ đưa ra những ý kiến sâu sát, đi vào trọng tâm của vụ

án góp phần giúp cho Hội đồng xét xử đưa ra những phán xét đúng đắn hơn.

Điều này thể hiện qua 03 năm gần đây việc tham gia TTHC của các Viện KSND

cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi bước đầu đã mang lại hiệu quả tích

cực; tỷ lệ bị cấp phúc thẩm hủy, sửa có chiều hướng giảm cụ thể.

12

10

8

6

Tổng số bản án Số Bản án bị sửa Số bản án bị hủy

4

2

0

Năm 2015

Năm 2016

Năm 2017

Hình 2.3: Thống kê số lượng bản án hành chính cấp huyện bị hủy, sửa

[Nguồn 24, 25, 26. Tr.102]

45

Nhìn vào bảng thống kê trên ta thấy, số Bản án hủy, sửa có chiều hướng

giảm dần qua các năm. Ngoài nguyên nhân xuất phát từ việc số Bản án Tòa án

cấp huyện ban hành giảm dần mà một phần còn do việc thực hiện tốt thẩm

quyền của Viện KSND trong kiểm sát giải quyết vụ án hành chính của Tòa.

Việc giải quyết án của Tòa án tiến hành nhanh chóng hơn, hạn chế được tình

trạng để án quá hạn luật định, giảm thiểu sai sót trong quá trình giải quyết án,

hạn chế được đơn khiếu nại của đương sự.

Từ nghiên cứu các vụ án hủy, sửa cho thấy mặc dù việc hủy, sửa án hành

chính sơ thẩm ở cấp phúc thẩm có thể do phát sinh tình tiết mới hoặc do chuyển

biến của tình hình nhưng một phần vẫn do sai sót trong việc đánh giá chứng cứ,

việc áp dụng pháp luật của cấp sơ thẩm. Số lượng kháng nghị phúc thẩm ban

hành còn ít không phải hoàn toàn do chất lượng án sơ thẩm đã nâng lên, mà có

phần do vi phạm của án sơ thẩm chưa được Viện KSND cấp huyện phát hiện.

Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót có nhiều nhưng tập trung ở những

nguyên nhân cơ bản như trình độ, năng lực và trách nhiệm của một số cán bộ

và KSV còn hạn chế; công tác tổ chức cán bộ, phân công phân nhiệm chưa tốt,

chưa hợp lý; điều kiện, phương tiện làm việc và chế độ, chính sách đối với cán

bộ, KSV chưa bảo đảm.

2.1.2.3. Về kiểm sát bản án, quyết định về hành chính của Tòa án

Để đảm bảo bản án, quyết định của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ

án hành chính có căn cứ và đúng pháp luật, Luật TTHC quy định các bản án,

quyết định của Tòa án phải được gửi kịp thời cho Viện KSND để thực hiện

chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật.

Xác định tầm quan trọng của công tác kiểm sát bản án, quyết định, các

Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đã tăng cường hoạt động

kiểm sát trong công tác này để phát hiện kiến nghị và kháng nghị đối vi phạm,

hạn chế thấp nhất các sai sót, vi phạm trong việc ban hành bản án, quyết định

46

của Tòa án. Cụ thể, hoạt động kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án được thể

hiện qua số liệu sau đây:

- Về kiểm sát bản án, quyết định vụ án hành chính của Toà án:

+ Năm 2015, các Viện KSND cấp huyện đã kiểm sát 24 Bản án và Quyết

định, trong đó có 12 Bản án và 12 Quyết định đình chỉ.

Số bản án, quyết định Tòa án gửi cho Viện KSND đúng hạn 21; quá hạn

03. Số bản án, quyết định Viện KSND phát hiện có vi phạm 04 vụ; Viện KSND

cấp huyện đã ban hành 02 kiến nghị; số bản án, quyết định Viện KSND kháng

nghị 01 bản án.

Cụ thể các vi phạm là: 03 Quyết định của Tòa án Thành phố Quảng Ngãi,

huyện Đức Phổ gửi trễ; có 01 trường hợp bản án của Tòa án huyện Bình Sơn

không xác định đầy đủ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia vụ án

[24, tr. 102].

+ Năm 2016, các Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

đã kiểm sát 20 Bản án và Quyết định; trong đó, tạm đình chỉ 03 vụ, đình chỉ 06

vụ, xét xử 10 vụ, chuyển nơi khác 01 vụ.

Số bản án, quyết định Tòa án gửi cho Viện KSND đúng hạn 18; quá hạn

02. Số bản án, quyết định Viện KSND phát hiện có vi phạm 03 vụ; Viện KSND

cấp huyện đã ban hành 02 kiến nghị; số bản án, quyết định Viện KSND kháng

nghị 01 Quyết định.

Cụ thể các vi phạm là: 01 Quyết định của Tòa án Thành phố Quảng Ngãi

đình chỉ nhưng ghi sai căn cứ đình chỉ; 02 Bản án của Tòa án huyện Tư Nghĩa,

Bình Sơn gửi trễ hạn [25, tr. 102].

+ Năm 2017, các Viện KSND cấp huyện đã kiểm sát 15 Bản án và Quyết

định; trong đó, 08 Quyết định đình chỉ, xét xử 07 vụ.

Số bản án, quyết định Tòa án gửi cho Viện KSND đúng hạn 12; quá hạn

03. Số bản án, quyết định Viện KSND phát hiện có vi phạm 08 vụ; Viện KSND

47

cấp huyện đã ban hành 04 kiến nghị; số bản án, quyết định Viện KSND kháng

nghị 01 Quyết định.

Cụ thể các vi phạm là: 01 bản án, 02 Quyết định của Tòa án TP Quảng

Ngãi, Bình Sơn, Ba Tơ không gửi đúng thời hạn; 02 Quyết định của Tòa án huyện

Tư Nghĩa, Mộ Đức đình chỉ do người khởi kiện rút đơn khởi kiện không ghi

quyền khởi kiện lại của đương sự và không đúng mẫu theo Nghị quyết 01/2017;

không ghi đầy đủ ý kiến của Viện KSND trong 03 bản án [26, tr. 102].

Kết quả trên thể hiện sự giảm dần về số lượng vụ án của Tòa án đã giải

quyết. Tuy nhiên, sau khi Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 10/CT-VKSTC ngày 06/4/2016 của Viện trưởng

Viện KSND tối cao về tăng cường công tác kiểm sát phát hiện kịp thời những vi

phạm, thiếu sót trong quá trình giải quyết án của tòa án để kiến nghị, kháng nghị

thì tỷ lệ bản án, quyết định bị Viện KSND phát hiện những vi phạm và kiến nghị,

kháng nghị qua mỗi năm có chiều hướng tăng dần, góp phần làm cho chất lượng

bản án, quyết định của Tòa án ngày một cải thiện, bảo đảm sự chính xác, có căn

cứ, đúng pháp luật của bản án, quyết định, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của

công dân, tổ chức, góp phần bảo đảm pháp luật thực hiện thống nhất.

Mặt khác, cũng có một số trường hợp trong quá trình kiểm sát giải quyết

vụ án hành chính, KSV được phân công nhiệm vụ khi phát hiện vi phạm của

Tòa án với tinh thần trách nhiệm chưa cao nên không kịp thời báo cáo Lãnh

đạo Viện KSND ban hành kiến nghị hoặc kháng nghị đối với bản án, quyết định

của Tòa án có vi phạm. Điều này cũng làm ảnh hưởng đến hiệu quả công tác

kiểm sát hiện nay.

2.1.2.4. Về việc thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị trong

giải quyết vụ án hành chính

Quyền yêu cầu, kháng nghị, kiến nghị của Viện KSND trong công tác

kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính được quy định chung tại Khoản

48

2 Điều 25 Luật TTHC năm 2015 là“Viện kiểm sát nhân dân có quyền yêu cầu

theo quy định của pháp luật trong quá trình kiểm sát giải quyết vụ án hành

chính từ khi thụ lý đến khi kết thúc việc giải quyết vụ án. Tham gia các phiên

tòa, phiên họp của Tòa án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong công tác thi

hành bản án, quyết định của Tòa án; thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị,

kháng nghị theo quy định của pháp luật”.

Trên thực tế, nhận thức được tầm quan trọng của các quyền yêu cầu, kháng

nghị, kiến nghị, Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi đã chủ động tổ chức các hội nghị

triển khai, quán triệt đầy đủ và kịp thời nội dung của Luật TTHC tới toàn thể

Lãnh đạo, KSV, Kiểm tra viên, Chuyên viên trực tiếp làm công tác kiểm sát trong

lĩnh vực giải quyết vụ án hành chính với nhiều phương thức đa dạng như: Phổ

biến, quán triệt, tuyên truyền tại các hội nghị trực tiếp, trực tuyến, hội thảo, hội

nghị tập huấn, tuyên truyền.... Trong đó, đặc biệt chú trọng quán triệt về thực

hiện các quy định mới của luật về quyền yêu cầu, kháng nghị, kiến nghị của Viện

KSND trong TTHC để Lãnh đạo, KSV, Kiểm tra viên, Chuyên viên nhận thức

đầy đủ về các quyền năng pháp lý liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của Viện

kiểm sát, xác định quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị của Viện KSND trong

TTHC là ba quyền năng pháp lý cơ bản của Viện KSND khi thực hiện chức năng

kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải quyết các vụ án hành chính, qua đó

xác định thực hiện tốt các quyền yêu cầu, kháng nghị, kiến nghị của Viện kiểm

sát là biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả công tác kiểm sát

việc giải quyết các vụ án hành chính của Tòa án.

- Năm 2015, tổng số yêu cầu Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh

Quảng Ngãi đã ban hành là 11 yêu cầu. Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền

đã thực hiện 10 yêu cầu của Viện kiểm sát, đạt 91%; trong đó:

+ Về yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ: 8 yêu cầu.

49

+Về các yêu cầu khác: 01 yêu cầu Tòa án sửa đổi, bổ sung biên bản phiên

tòa; 01 yêu cầu Tòa án công bố tài liệu (ngay tại phiên tòa), 01 yêu cầu đương

sự cung cấp tài liệu chứng cứ nhưng không thực hiện được.

+ Tổng số kháng nghị Viện KSND cấp huyện đã ban hành là 02 kháng

nghị đối với Tòa án cùng cấp: 02 kháng nghị được Tòa án chấp nhận.

+ Tổng số Kiến nghị Viện KSND cấp huyện đã ban hành là 05 kiến nghị

đối với Tòa án cùng cấp và được chấp nhận [24, tr. 102].

- Năm 2016, tổng số yêu cầu Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh

Quảng Ngãi đã ban hành là 05 yêu cầu. Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền

đã thực hiện 05 yêu cầu của Viện kiểm sát, đạt 100%. Trong đó:

+ Về yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ: 03 yêu cầu

+ Về các yêu cầu khác: 02 yêu cầu thu thập chứng cứ.

+ Tổng số kháng nghị Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng

Ngãi đã ban hành là 01 kháng nghị đối với Tòa án cùng cấp và được chấp nhận.

+ Tổng số Kiến nghị Viện KSND cấp huyện đã ban hành là 04 kiến nghị

đối với Tòa án cùng cấp và được chấp nhận [25, tr.102].

- Năm 2017, tổng số yêu cầu Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh

Quảng Ngãi đã ban hành là 17 yêu cầu. Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền

đã thực hiện 16 yêu cầu của Viện kiểm sát, đạt 94%. Trong đó:

+ Về yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ: 08 yêu cầu

+ Về các yêu cầu khác: 05 yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ

vụ án; 02 yêu cầu Tòa án xác định lại tư cách tham gia tố tụng; 01 yêu cầu Tòa

án sửa đổi, bổ sung biên bản phiên tòa; 01 yêu cầu Tòa án cho sao chụp hồ sơ

trong trường hợp trả lại đơn khởi kiện.

+ Tổng số kháng nghị Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng

Ngãi đã ban hành là 02 kháng nghị đối với Tòa án cùng cấp và được chấp nhận.

50

+ Tổng số Kiến nghị Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

đã ban hành là 06 kiến nghị đối với Tòa án cùng cấp và được chấp nhận 05 kiến

nghị, 01 kiến nghị Tòa án không trả lời chấp nhận hay không [26, tr.102].

Từ số liệu trên cho thấy việc thực hiện đầy đủ có trách nhiệm các quyền

yêu cầu, kháng nghị, kiến nghị của các Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh

Quảng Ngãi trong việc giải quyết vụ án hành chính đã giúp cho việc giải quyết

vụ án hành chính trên địa bàn tỉnh được đảm bảo thực hiện chính xác, khách

quan đồng thời nâng cao trách nhiệm của KSV trong thực hiện nhiệm vụ, quyền

hạn theo luật định.

Các Viện KSND cấp huyện trên địa bàn đã chú trọng và xác định thực

hiện tốt quyền yêu cầu, kháng nghị, kiến nghị là thực hiện tốt chức năng của

Viện kiểm sát được pháp luật quy định, từng bước nâng cao chất lượng, hiệu

quả công tác kiểm sát, góp phần nâng cao vị trí, vai trò của Viện KSND cấp

huyện nói riêng và ngành kiểm sát nói chung.

Để nâng cao chất lượng công tác, các Viện KSND cấp huyện đã xác định

đây là nhiệm vụ đồng thời cũng là chỉ tiêu thi đua, căn cứ đánh giá trách nhiệm,

trình độ, năng lực của KSV hàng năm. Do đó, trong những năm gần đây đã

nâng cao chất lượng công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính theo quy

định của pháp luật, ban hành được nhiều kháng nghị, kiến nghị với Toà án và

được chấp nhận với tỷ lệ năm sau cao hơn năm trước.

Ngoài ra, 100% các Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

đã tăng cường tính chủ động trong việc phối hợp công tác với Tòa án và các cơ

quan có liên quan bằng các biện pháp xây dựng quy chế liên ngành, họp giao

ban. Qua các hội nghị giao ban trực tuyến tuần, tháng, 06 tháng, năm hai cấp

kiểm sát vào sáng thứ hai hằng tuần tại 15 điểm cầu, Lãnh đạo Viện KSND tỉnh

đã kịp thời chỉ đạo, nhắc nhở công việc, xử lý những ý kiến phát sinh, rà soát

51

lại những việc đã chỉ đạo, giúp cho hoạt động kiểm sát được thuận lợi và đạt

kết quả cao, nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan tố tụng.

Tuy đã đạt được một số kết quả nhất định nhưng việc thực hiện quyền

yêu cầu, kháng nghị, kiến nghị còn hạn chế, số lượng ban hành yêu cầu, kiến

nghị, kháng nghị chưa nhiều trong quá trình thực hiện công tác kiểm sát. Bên

cạnh những lý do như công tác giải quyết các vụ án hành chính đã dần dần đi

vào nề nếp nhưng một phần cũng do công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, đánh

giá, rút kinh nghiệm về việc thực hiện quyền yêu cầu có lúc, có nơi, có việc

chưa được kịp thời, sát sao, quyết liệt. Lực lượng KSV, Kiểm tra viên, Chuyên

viên còn thiếu; KSV ở một số đơn vị nghiên cứu số lượng hồ sơ, tham gia phiên

tòa bình quân trong tháng bị quá tải (như Thành phố Quảng Ngãi số lượng án

hành chính, dân sự, kinh doanh thương mại, lao động cần giải quyết trung bình

trong 03 năm là 861 vụ); số KSV, Kiểm tra viên, Chuyên viên ở các Viện

KSND cấp huyện được phân công chuyên khâu này còn phải kiêm nhiệm nhiều

công việc khác nên chưa thực hiện tốt quyền yêu cầu, kháng nghị, kiến nghị.

Ngoài ra việc thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị còn hạn

chế, chưa đồng đều số lượng ban hành yêu cầu, kháng nghị, kiến nghị chưa

nhiều trong quá trình thực hiện công tác kiểm sát (tập trung ở một số nơi như

TP Quảng Ngãi, Bình Sơn, Đức Phổ). Điển hình như năm 2015, số lượng ban

hành yêu cầu, kháng nghị, kiến nghị trong quá trình thực hiện công tác kiểm

sát giải quyết vụ án hành chính được thống kê như sau:

52

Bảng 2.2:Thống kê số lượng Yêu cầu, Kiến nghị, kháng nghị trong giải quyết vụ án hành chính ở các Viện KDND cấp huyện năm 2015

Năm 2015

Đơn vị Viện

Yêu cầu

Kiến nghị

Kháng nghị

ST

KSND cấp

T

Thực

Không

Chấp

Không

Chấp

Không

huyện

hiện

thực hiện

nhận

chấp nhận

nhận

chấp nhận

TP Quảng Ngãi

0

0

0

1

6

1

1

Tư Nghĩa

0

0

0

0

2

1

1

Mộ Đức

0

0

0

0

0

0

3

Đức Phổ

0

0

0

4

2

1

1

Ba Tơ

0

0

0

0

0

0

5

Minh Long

0

0

0

0

0

0

6

Sơn Hà

0

0

0

0

0

0

7

Sơn Tây

0

0

0

0

0

0

8

Sơn Tịnh

0

0

0

0

0

0

9

Bình Sơn

0

0

0

0

10

2

1

Tây Trà

0

0

0

0

0

0

11

Trà Bồng

0

0

0

0

0

0

12

Lý Sơn

0

0

0

0

0

0

13

Nghĩa Hành

0

0

0

0

0

14

1

[Nguồn 24, 25, 26. Tr.102]

Qua kết quả thống kê trên nhận thấy, có sự không đồng đều và mất cân

bằng trong việc ban hành các yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị ở các Viện KSND

cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Điều này xuất phát từ nguyên nhân là

lượng án hành chính thụ lý các địa phương không đồng đều, tập trung ở các nơi

như: Thành phố Quảng Ngãi, Bình Sơn, Đức Phổ, dẫn đến các cán bộ KSV ở

những nơi ít có án hành chính như Minh Long, Sơn Tây, Tây Trà...không chú

trọng đến việc bồi dưỡng kiến thức chuyên môn về án hành chính, kinh nghiệm

giải quyết vụ án hành chính dường như không có từ đó việc thực hiện các quyền

yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị không được bảo đảm thực hiện tốt nhất.

53

Bên cạnh đó, một bộ phận KSV chưa phát huy hết tinh thần trách nhiệm,

chưa vận dụng triệt để các quyền năng pháp lý được pháp luật quy định trong

quá trình kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính còn nể nang, ngại va chạm

với Thẩm phán nên không ra văn bản yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị. Một số

Viện kiểm sát địa phương khi thực hiện kiểm sát còn thiếu chủ động, sáng tạo,

chưa tích cực thực hiện quyền yêu cầu nhằm phát hiện vi phạm để kiến nghị,

kháng nghị. Ngoài ra, việc cập nhật các văn bản pháp luật cũng như các tài liệu

để áp dụng vào công tác chuyên môn của một số KSV đôi lúc chưa kịp thời để

áp dụng trong thực tiễn công tác. Các hạn chế này đã ảnh hưởng rất lớn đến công

tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính của Viện KSND, làm cho việc giải

quyết một số vụ án khó tránh khỏi việc thiếu chính xác, chưa khách quan.

2.2. Phân tích thực trạng các yếu tố tác động đến việc thực hiện thẩm

quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trong giải quyết vụ án hành

chính trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

2.2.1. Đường lối, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp

Hiện nay, theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của

Bộ Chính trị về chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 đã định hướng cho

việc đổi mới tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát như sau: “Trước mắt, Viện

kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công

tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù

hợp với hệ thống tổ chức của Toà án”.

Quán triệt những nội dung trên, các Viện KSND cấp huyện trên địa bàn

tỉnh Quảng Ngãi khi thực hiện thẩm quyền của mình trong việc giải quyết các

vụ án hành chính đã chủ động bố trí lực lượng cán bộ, tập trung kiểm sát chặt

chẽ việc giải quyết các vụ án, vụ việc, trong đó chú trọng kiểm sát các bản án,

quyết định của tòa án; tích cực, chủ động tham gia các phiên tòa, phiên họp giải

quyết vụ án hành chính, ở giai đoạn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Qua

54

công tác kiểm sát giải quyết các vụ án các Viện KSND cấp huyện kháng nghị,

kiến nghị, yêu cầu khắc phục nhiều vi phạm pháp luật, đồng thời tổng hợp tình

hình và kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền có biện pháp giải quyết các “điểm

nóng”, khiếu kiện bức xúc, kéo dài; giúp cho các CQNN thực hiện tốt hơn công

tác quản lý nhà nước của mình.

Điều trước tiên là sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của KSV, lãnh

đạo các đơn vị, cụ thể là các Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

đã đánh giá đúng vai trò và tầm quan trọng của hoạt động kiểm sát việc giải quyết

vụ án hành chính.Từ sau khi có Nghị quyết số 08/NQ-TW và 49/NQ-TW của

Bộ chính trị thì vấn đề kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính đã tác động rất

lớn đến nhận thức của Lãnh đạo và KSV toàn ngành kiểm sát. Quán triệt chỉ thị

số 01/2007/CT- VKSTC ngày 18/1/2007 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân

dân tối cao, ngay từ năm đầu năm 2007 lãnh đạo Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi

đã quyết định giao cho Phòng 10 phụ trách chuyên đề “Công tác kiểm sát xét xử

tại phiên toà hành chính theo tinh thần cải cách tư pháp” mà chúng ta vẫn quen

gọi là Chuyên đề về “Phiên toà mẫu”. Đến năm 2011 thì tên gọi Chuyên đề đã

được thay đổi thành “Tổ chức các phiên toà rút kinh nghiệm để nâng cao chất

lượng hoạt động kiểm sát xét xử của KSV”.

Bên cạnh Chuyên đề này lãnh đạo Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi còn chỉ

đạo xây dựng nhiều chuyên đề khác phục vụ công tác kiểm sát việc giải quyết

vụ án hành chính như Chuyên đề: “Nâng cao kỹ năng xét hỏi của Kiểm sát viên

tại phiên toà hành chính”, tổ chức nhiều lớp tập huấn về các kỹ năng hoạt động

trước phiên tòa, tại phiên tòa quán triệt tới lãnh đạo, KSV của các Viện KSND

cấp huyện do vậy đã đảm bảo chất lượng việc thực hiện thẩm quyền của Viện

KSND cấp huyện trong giải quyết vụ án hành chính. Đặc biệt là chuẩn bị các

dự kiến phát sinh tại phiên tòa từ phần thủ tục đến suốt quá trình xét xử; đề

cương xét hỏi. Các KSV cấp huyện đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng ở giai đoạn

55

trước khi xét xử như nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, chuẩn bị đề cương xét hỏi, dự

thảo bài phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án. Các bài phát biểu ngày

một chi tiết, cẩn thận hơn để có thể chủ động trong các tình huống phát sinh tại

phiên tòa. Do có sự chuẩn bị tốt các nội dung nên tại phiên tòa KSV đã chủ

động tham gia xét hỏi, KSV ngày càng thể hiện tính dân chủ, đúng luật, hợp

tình, hợp lý nhiều phiên toà đã đạt được đúng những yêu cầu về cải cách tư

pháp, được dư luận quần chúng nhân dân, cấp uỷ địa phương đánh giá cao. So

với thời điểm trước khi có Nghị quyết 08/NQ-TW và Nghị quyết 49/NQ-TW

của Bộ chính trị tình trạng KSV không tham gia xét hỏi, không theo dõi ghi

chép diến biến phiên tòa thì đến nay tình trạng này đã được khắc phục. Nhiều

vụ án phức tạp, các Viện KSND cấp huyện đã phối hợp với Tòa án xét xử đạt

chất lượng tốt, đã khẳng định vai trò của KSV đó là sự thể hiện được bản lĩnh

vững vàng, bám sát các quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích của

người tham gia tố tụng.

Thái độ khi tham gia phiên tòa của KSV thể hiện khiêm tốn, khách quan,

bình đẳng và tôn trọng ý kiến của những người tham gia tố tụng. Quá trình xét

hỏi không lan man dài dòng mà luôn đi vào trọng tâm, ngắn gọn, dễ hiểu. Kết

quả của việc làm này không chỉ tranh thủ được sự đồng tình của dư luận mà

còn tranh thủ được sự ủng hộ đồng tình của Hội đồng xét xử đối với Viện kiểm

sát trong việc giải quyết vụ án.

Nhiều bài phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án và xét hỏi KSV

đã dựa vào chứng cứ của vụ án gắn với tình hình thực tế của địa phương để

tuyên truyền giáo dục pháp luật và chủ trương chính sách pháp của Đảng và

Nhà nước. Qua đó nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân, góp phần phòng

ngừa vi phạm pháp luật ở địa phương.

Việc bảo đảm thực hiện thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong

giải quyết vụ án hành chính trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi theo tinh thần của

56

Nghị quyết 08/NQ-TW và 49/NQ-TW thực sự đã tác động rất lớn đến nhận

thức của KSV. Song khi nói đến sự nỗ lực cố gắng của KSV tại phiên tòa thì

chúng ta cũng cần phải nói đến sự ảnh hưởng của Nghị quyết đối với những

người bào chữa, họ đầu tư tốt hơn trong quá trình nghiên cứu hồ sơ để chuẩn

bị cho việc tranh tụng, nội dung bài bào chữa sắc sảo hơn, quan tâm đến sự

thiếu sót của tố tụng hơn. Nhiều Luật sư có kỹ năng bào chữa rất tốt, linh hoạt

biết khai thác và vận dụng triệt để, để tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Đối

với Thẩm phán chủ tọa cũng đã nhận thức rõ hơn vai trò và trách nhiệm của

mình trong hoạt động điều hành phiên tòa, đảm bảo tốt hơn các quyền và nghĩa

vụ của Luật sư, đương sự...đồng thời tạo điều kiện cho các bên được tranh tụng

và đối đáp, đảm bảo sự dân chủ, bình đẳng trong tranh tụng. Nội dung các bản

án gần đây đã có sự thay đổi căn bản so với trước đây. Nhiều bản án đã giành

một phần nội dung đáng kể để đưa ra hững nhận định đánh giá về những quan

điểm của KSV và của Luật sư, người tham gia tố tụng.

Ngoài ra từ khi có Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến

lược cải cách tư pháp đến năm 2020 thì sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng địa phương

đối với các Viện kiểm sát nhân dân huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi trong

thời gian qua là rất sâu sát. Cấp uỷ Đảng ở địa phương thường xuyên quan tâm

chỉ đạo các cơ quan tư pháp quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc, đồng

thời báo cáo kết quả thực hiện về các trọng tâm công tác tư pháp về việc thực

hiện nhiệm vụ chính trị được giao; về củng cố kiện toàn tổ chức bộ máy, đào

tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ năng lực cho đội ngũ cán bộ, KSV. Hàng năm,

Cấp uỷ đều có báo cáo kết quả công tác cải cách tư pháp và đề ra nhiệm vụ

trọng tâm của năm tới. Sự lãnh đạo của Cấp uỷ hiện nay đối với các Viện KSND

cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi là ổn định.

2.2.2. Trình độ, năng lực của đội ngũ kiểm sát viên

Bên cạnh việc hình thành tổ chức kiểm sát cấp huyện, nhà nước ta cũng

đã quan tâm đảm bảo nguồn nhân lực để có thể đảm nhiệm tốt công tác kiểm

57

sát, một trong số đó là nguồn nhân lực KSV. Pháp luật hiện hành quy định

“Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để thực

hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp” (Điều 74

Luật tổ chức Viện KSND năm 2014) và tiêu chuẩn chung của KSV như sau:

“Là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực,

bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ

nghĩa; Có trình độ cử nhân luật trở lên; Đã được đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát;

Có thời gian làm công tác thực tiễn theo quy định của Luật này; Có sức khỏe

bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao” (Điều 75 Luật tổ chức Viện KSND

năm 2014). Đây là những tiêu chuẩn về đạo đức, đạo đức chính trị, về chuyên

môn nghiệp vụ, thời gian công tác và sức khỏe đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ.

Trước đây, yêu cầu về bằng cấp đối với người được tuyển chọn bổ nhiệm

KSV chỉ dừng lại ở trình độ cao đẳng, mà cụ thể là tốt nghiệp Cao đẳng kiểm

sát [58, tr.105], điều này chưa đảm bảo được trình độ chuyên môn và kiến thức

pháp luật cần thiết. Để khắc phục tình trạng trên, pháp luật hiện hành quy định

một trong những tiêu chuẩn của KSV là phải có trình độ cử nhân luật. Thực tế

tại các Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cho thấy quy định

về trình độ cử nhân luật đối với người được bổ nhiệm làm KSV đã góp phần

thống nhất mặt bằng trình độ của KSV, khắc phục được tình trạng bổ sung công

chức làm nghiệp vụ không theo quy định, ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng kiểm

sát trong một thời gian tương đối dài. Điều này bảo đảm cho các KSV có kiến

thức pháp lý sâu rộng, được đào tạo bài bản, giúp KSV có sự nhìn nhận, đánh

giá vấn đề khách quan, chính xác, đầy đủ hơn. Ngoài ra, quy định về thời gian

công tác thực tiễn đối với KSV là vấn đề hết sức quan trọng. Trình độ chuyên

môn nghiệp vụ sẽ được thực tiễn kiểm nghiệm và có thêm những kinh nghiệm,

58

trau dồi thêm kiến thức, hoàn thiện khả năng của bản thân, đáp ứng tốt nhất yêu

cầu của thực tế đặt ra.

Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, thực hiện nghiêm chỉnh quy

định của pháp luật về tiêu chuẩn KSV, công tác cán bộ của ngành kiểm sát đã

được chú trọng về cả chất và lượng. Trong những năm qua, nhất là những năm

gần đây Ban cán sự Đảng, lãnh đạo Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi luôn quan

tâm đến công tác tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng công chức nhằm xây dựng đội

ngũ công chức, KSV ngày càng “Vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh

thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm”. Hàng

năm, Viện KSND tỉnh luôn bám sát kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng của Viện

KSND tối cao để xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với tình hình

thực tế của đơn vị. Từ năm 2015 đến năm 2017, Viện kiểm sát tỉnh đã cử gần

100 lượt công chức đi đào tạo các lớp: Đào tạo nghiệp vụ kiểm sát, cao học

luật, cao cấp lý luận chính trị, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát, bồi dưỡng chuyên

sâu về nghiệp vụ…

Hiện nay, cơ cấu tổ chức bộ máy Viện KSND cấp huyện gồm 01 Viện

KSND thành phố trực thuộc tỉnh và 13 Viện KSND huyện với tổng số 132 biên

chế chính thức, cụ thể có 14 Viện trưởng là KSV trung cấp, 01 Phó viện trưởng

là KSV trung cấp, 15 Phó viện trưởng là KSV sơ cấp, 41 KSV sơ cấp, 28 Kiểm

tra viên, 18 Chuyên viên và 15 cán sự văn thư, kế toán [67, tr.105]. Trong đó

số lượng phụ trách công tác giải quyết vụ án hành chính là 21 KSV cùng với

12 Kiểm tra viên, chuyên viên giúp việc [28, tr.102] chiếm 32% số lượng công

chức giải quyết án. Qua kết quả nghiên cứu cho thấy trình độ KSV của các Viện

KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi tương đối đồng đều, tất cả đều

được đào tạo qua các lớp đào tạo nghiệp vụ kiểm sát, ngoài ra đa phần KSV

đều tham các hội nghị tập huấn chuyên sâu về công tác giải quyết vụ án hành

chính thông qua các hội nghị mà Viện KSND tối cao và tỉnh tổ chức. So với

59

mức trung bình của các tỉnh, thành trong cả nước có thể nhận thấy số lượng

công chức làm công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính của các Viện

KSND cấp huyện là ở mức trên trung bình, cụ thể thì tổng số KSV cấp huyện

phụ trách công tác giải quyết vụ án hành chính trong toàn nước là 1073 KSV

[68, tr.105], trung bình mỗi tỉnh thành là 17 KSV. Như vậy có thể nhận thấy

các Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đã chủ động trong

việc quản lý và sử dụng công chức đảm bảo hoàn thành tốt chức năng, nhiệm

vụ được giao, tạo sự hài hòa giữa quản lý biên chế công chức với tuyển dụng,

sử dụng công chức.

Một khía cạnh khác, việc nghiên cứu so sánh tỷ lệ về số lượng các vụ án

hành chính mà Tòa án thụ lý giải quyết hàng năm trên địa bàn với số KSV hiện

có của các Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, có thể thấy số

lượng công việc mà KSV phải gánh vác là vừa phải, cụ thể trung bình 03 năm

số lượng vụ án hành chính mà Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng

Ngãi cần phải giải quyết là 21 vụ án, như vậy trung bình 01 KSV sẽ kiểm sát

giải quyết 01 vụ án hành chính. Tuy nhiên, ngoài công tác kiểm sát giải quyết

các vụ án hành chính thì các KSV ở cấp huyện còn phải kiêm nhiệm nhiều khâu

công tác do sự phân công của Viện trưởng. Đơn cử tại Viện KSND huyện Tư

Nghĩa, là một huyện thuộc nhóm III, có lượng án trung bình trên 250 đến dưới

350 vụ/năm, tổng lượng án Dân sự – Hành chính – Kinh doanh thương mại –

Lao động phải giải quyết năm 2015 là 211 vụ, năm 2016 là 257 vụ, năm 2017

là 302 vụ, trung bình 03 năm là 257 vụ [28, tr. 102], căn cứ vào Quyết định phân

công công tác của Viện trưởng Viện KSND huyện Tư Nghĩa số 33/QĐ-VKS

(ngày 23/11/2015) và 42/QĐ-VKS (ngày 28/11/2016) thì số lượng KSV phụ

trách bộ phận dân sự hành chính là 02 KSV (trong đó có 01 Phó viện trưởng là

lãnh đạo bộ phận). Như vậy, trung bình 01 KSV sẽ kiểm sát 128 vụ án. Từ thực

tiễn như trên đòi hỏi KSV cấp huyện không chỉ hiểu sâu về án hành chính mà

60

còn phải hiểu và cập nhật kiến thức pháp luật về các án khác để đáp ứng được

nhu cầu xử lý công việc được giao rất lớn.

Để nâng cao năng suất lao động, chất lượng hiệu quả công việc, nhằm

khắc phục tình trạng thiếu hụt nhân lực, Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi cũng như

Viện KSND cấp huyện đã tổ chức các cuộc thi, các lớp tập huấn nhằm nâng cao

trình độ, năng lực, kỹ năng của đội ngũ công chức làm công tác kiểm sát đối với

tất cả các loại án như hành chính, dân sự, kinh doanh thương mại… Theo báo

cáo tổng kết năm của Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi, trong năm 2015, toàn tỉnh

đã cử 18 công chức tham dự các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ do ngành

và các cơ quan liên quan tổ chức, 02 đồng chí tham dự lớp Trung cấp chính trị,

Viện KSND tỉnh tổ chức 01 cuộc tập huấn kỹ năng kiểm sát tại phiên tòa Dân

sự – Hành chính – Kinh doanh thuơng mại – Lao động cho toàn bộ công chức

đang công tác trong bộ phận này [65, tr.105]. Hay trong năm 2017, Viện KSND

tỉnh Quảng Ngãi đã cử 09 công chức tham gia các lớp bồi dưỡng kỹ năng về

nghiệp vụ, đào tạo nghiệp vụ Kiểm sát cho 11 người, đào tạo trung cấp chính trị

cho 04 người, đào tạo thạc sỹ Luật cho 02 người; Viện KSND tối cao tổ chức

04 hội nghị về hướng dẫn nghiệp vụ; Viện KSND tỉnh tổ chức 01 hội thảo trao

đổi kinh nghiệm trong công tác kiểm sát giải quyết án dân sự, hôn nhân gia đình,

hành chính, kinh doanh, thương mại và lao động, 01 hội nghị tập huấn giải quyết

án hành chính, kinh doanh, thương mại [66, tr.105]. Điều này đã giúp cho đội

ngũ công chức kiểm sát kịp thời cập nhật kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ

chuyên sâu về án hành chính và các chuyên ngành khác ngoài án hành chính để

đáp ứng cho yêu cầu công việc.

Việc đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chức làm công tác giải quyết

vụ án hành chính đã cải thiện đáng kể trình độ chuyên môn nghiệp vụ của KSV

góp phần đạt được những thành công nhất định như: Kết quả đánh giá, phân loại

công chức năm 2016 và 2017 trong toàn ngành không có trường hợp nào công

61

chức làm công tác giải quyết vụ án hành chính bị xếp vào nhóm không hoàn

thành nhiệm vụ; tỷ lệ giải quyết vụ án hành chính trong các năm đều ở mức rất

cao (trên 88%); không để xảy ra tình trạng án quá hạn… Bên cạnh những kết

quả đạt được, việc đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ còn có một số hạn chế như: Các

hội nghị tập huấn của Viện KSND tối cao đa phần bằng hình thức trực tuyến

toàn quốc. Điều này dẫn đến một số nội dung tập huấn của hội nghị chưa đi sâu

sát vào giải quyết các vấn đề thực tế ở từng địa phương đang đòi hỏi; các hội

nghị tập huấn mà Viện KSND tối cao cũng như Viện KSND tỉnh tổ chức thường

thời gian tập huấn rất ngắn, khoảng một đến hai ngày dẫn đến tình trạng không

thể truyền đạt hết những nội dung. Đối với các lớp tập huấn tập trung, số lượng

được cử đi rất ít vì kinh phí mà địa phương chi ra lớn. Mặt khác, các lớp tập huấn

tập trung này thường tổ chức ở ngoài tỉnh, việc quản lý sỉ số chưa nghiêm, cộng

thêm ý thức tham gia học tập, học hỏi của một số học viên còn hạn chế nên chất

lượng lớp học mang lại không cao. Bên cạnh đó, số lượng KSV trung cấp trên

địa bàn toàn tỉnh đang trong tình trạng thiếu hụt do chủ trương tinh giảm biên

chế. Số lượng KSV trung cấp đa phần được điều động về tỉnh dẫn đến số lượng

KSV làm công tác giải quyết vụ án hành chính ở các Viện KSND cấp huyện đa

phần đều là trình độ sơ cấp nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giải

quyết vụ án hành chính ở cấp huyện trong giai đoạn hiện nay.

2.2.3. Ý thức pháp luật và việc chấp hành pháp luật của những người

tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng

Trong những năm gần đây, ý thức pháp luật và việc chấp hành pháp luật

của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong quá trình giải

quyết vụ án hành chính ở cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đang ngày

càng được chú trọng và quan tâm hơn. Cụ thể, trong những năm gần đây, hoạt

động chấp hành pháp luật trong trong giải quyết các vụ án hành chính ở cấp

huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi bước đầu đã đạt những chuyển biến tích cực.

62

Đội ngũ cán bộ, công chức người tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hành

chính đều là những người có khả năng nhận thức, trình độ hiểu biết và thái độ

thượng tôn pháp luật. Từ sự hiểu biết pháp luật một cách rõ ràng như thế những

người tiến hành tố tụng đã nắm bắt được những nội dung của pháp luật và thực

hiện pháp luật một cách chính xác, nhanh chóng, thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền

hạn của mình trong việc giải quyết vụ án hành chính tránh được các trường hợp

vi phạm pháp luật trong khi thực hiện thẩm quyền của mình. Ngoài ra, thái độ

của họ đối với pháp luật cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc thực

hiện pháp luật trong giải quyết vụ án hành chính, với thái độ thượng tôn pháp

luật, những người tiến hành tố tụng đã thể hiện sự khách quan, công bằng trong

việc giải quyết vụ án hành chính, phục vụ tận tụy hết mình với công việc, đặt lợi

ích bản thân dưới lợi ích của xã hội từ đó làm giảm tình trạng tham nhũng, quan

liêu và cụ thể nhất là việc giải quyết các vụ án hành chính ở cấp huyện trên địa

bàn tỉnh Quảng Ngãi ngày càng được tốt hơn.

Thời gian gần đây, chính quyền địa phương cấp huyện, các cấp Ủy trên

địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi, TAND tỉnh Quảng

Ngãi đã luôn quan tâm, tích cực tuyên truyền, giáo dục và bồi dưỡng pháp luật

cho đội ngũ người tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hành chính nhằm

nâng cao trình độ pháp luật cho họ; tăng cường giám sát, kiểm tra hoạt động

của các cán bộ, công chức như Mặt trận Tổ quốc và các thành viên hằng năm

đều thực hiệnchức năng giám sát kết quả công tác của các Viện KSND, TAND

huyện, thành phố thông qua tham gia các Đoàn kiểm tra của Ban pháp chế thuộc

Hội đồng nhân dân, phối hợp với các Viện KSND cấp huyện huyện trong việc

tuyên truyền giáo dục pháp luật ở địa phương, qua việc cử KSV làm thành viên

Ban tư vấn pháp luật…. Từ đó đã đạt được một số kết quả tích cực như chất

lượng các vụ án hành chính ngày càng được bảo đảm, các vụ án đều được giải

quyết nhanh chóng đúng thời hạn luật đinh.

63

Bên cạnh đó ý thức pháp luật và việc chấp hành pháp luật của những

người tham gia tố tụng cũng có những ảnh hưởng tích cực rõ rệt trong việc giải

quyết vụ án hành chính. Các địa phương đã thực hiện tốt công tác phổ biến giáo

dục pháp luật đã khiến cho ý thức pháp luật của những người tham gia tố tụng

mà cụ thể là sự hiểu biết, thái độ tôn trọng và niềm tin với pháp luật được nâng

lên một cách rõ rệt, điều này thể hiện qua việc số lượng khiếu kiện hành chính

không đúng thẩm quyền giảm rõ rệt; các cơ quan, tố chức, cá nhân khởi kiện

biết thu thập, cung cấp chứng cứ theo yêu cầu thụ lý của Tòa án; số lượng vụ

án được giải quyết mà không bị kháng cáo phúc thẩm tăng cao... cụ thể được

thể hiện trong bảng thống kê sau:

Bảng 2.3: Thống kê số lượng thụ lý và giải quyết đơn khởi kiện vụ án hành chính tại các TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi

Số không thụ lý STT Năm Tổng Số Số số đơn Do không Do không cung Lý thụ giải khởi đúng thẩm cấp tài liệu, chứng do lý quyết kiện quyền cứ khởi kiện khác

23 04 01 02 15 14 1 2015

32 07 02 03 20 20 2 2016

18 01 0 01 16 15 3 2017

Nguồn: [24, 25, 26, tr.102]

Nhìn vào bảng thống kê trên ta thấy số vụ việc mà Tòa án cấp huyện

không thụ lý do không đúng thẩm quyền ở năm 2015 từ năm 2017 có sự thay

đổi liên tục. Cụ thể, năm 2016 do Luật TTHC năm 2015 chính thức có hiệu lực

nên người khởi kiện chưa năm bắt được hết các quy định về thẩm quyền giải

quyết vụ án dẫn đến số tỷ lệ vụ việc Tòa án không thụ lý do không đúng thẩm

quyền tăng cao từ 17,5 % (năm 2015) lên 21,8%, đến năm 2017 qua công tác

phổ biến giáo dục pháp luật đã khiến cho người khởi kiện có hiểu biết cơ bản

64

về Luật TTHC năm 2015 từ đó tỷ lệ vụ việc Tòa án không thụ lý do không đúng

thẩm quyền giảm mạnh, chỉ còn 5,5%. Bên cạnh đó do ý thức pháp luật và việc

chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng được nâng cao nên việc giải

quyết các vụ án được tiến hành nhanh chóng thể hiện qua tỷ lệ giải quyết các

vụ án thụ lý mới trong năm luôn đạt từ 93% trở lên.

Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực thì ý thức pháp luật và việc chấp hành

pháp luật trong giải quyết vụ án hành chính còn có những ảnh hưởng tiêu cực

đến quá trình thực hiện thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung

và Viện KSND cấp huyện nói riêng. Như một bộ phận cán bộ, công chức thiếu

ý thức và tính kỷ luật: đi muộn, về sớm, lợi dụng giờ làm việc để giải quyết việc

riêng, cùng với đó là tư tưởng cá nhân của nhiều cán bộ, công chức là người có

thẩm quyền tự coi mình là người có quyền hách dịch với người khởi kiện...dẫn

đến làm giảm chất lượng xét xử, gây tốn kém về mặt vật chất và tạo nên tâm lý

ngại ngùng của một bộ phận người dân khi khởi kiện vụ án hành chính.

Không chỉ đối với đội ngũ cán bộ, công chức người tiến hành tố tụng mà

ý thức pháp luật và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng trên địa

bàn tỉnh Quảng Ngãi vẫn còn nhiều yếu kém. Nhiều người chưa nhận thức đúng,

đầy đủ về pháp luật nên không tôn trọng, thực hiện pháp luật một cách nghiêm

chỉnh, dẫn đến một số phiên hòa giải, công khai chứng cứ thậm chí là tại phiên

tòa diễn ra tình trạng ồn ào, mất trật tự, không tuân theo sự điều khiển của Chủ

tọa phiên tòa... Phổ biến hơn là việc giải quyết vụ án, việc tranh tụng gần như

không diễn ra vì đặc thù các vụ án hành chính thường chỉ có một bên (người khởi

kiện) tham gia – có mặt tại tòa, còn bên người bị kiện thì thường vắng mặt (có

đơn xin vắng mặt hợp lệ), việc đối thoại trực tiếp giữa hai bên cũng không thực

hiện được vì lý do này. Việc xác minh thu thập tài liệu chứng cứ cũng rất khó

khăn, vì tài liệu xác minh lại là tài liệu do chính bên người bị kiện đưa ra. Tại

phiên tòa, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ đọc được ý kiến của bên bị kiện và

bên khởi kiện có phản hồi lại chứ không có kết quả tranh tụng và không thực

65

hiện được trình tự hỏi đáp. Tất cả những điều này đều dẫn đến không đảm bảo

nguyên tắc tranh tụng cũng như không thực hiện được việc tranh tụng.

2.3. Đánh giá việc thực hiện thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân

cấp huyện trong giải quyết vụ án hành chính

2.3.1. Kết quả đạt được và nguyên nhân

2.3.1.1. Kết quả đạt được

Xác định công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính là khâu công

tác hết sức phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực, ảnh hưởng trực tiếp đến

quyền và lợi ích của đương sự, hàng năm Viện KSND tối cao có văn bản hướng

dẫn công tác đưa ra các chỉ tiêu cụ thể. Từ đó Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi ban

hành chương trình công tác, hướng dẫn thực hiện chương trình cho các Viện

KSND cấp huyện để thuận lợi cho quá trình triển khai công tác và quản lý, chỉ

đạo. Bên cạnh đó còn Thông báo rút kinh nghiệm các vụ án hành chính bị cấp

trên hủy; Tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công

tác kiểm sát giải quyết các án hành chính nhằm tạo điều kiện nâng cao kiến

thức, chuyên môn và trách nhiệm của người cán bộ Kiểm sát.

Về phía các cơ quan có liên quan như: UBND, các phòng, ban luôn có

sự hỗ trợ và phối hợp chặt chẽ với Viện KSND cấp huyện và Tòa án cùng cấp,

đặc biệt là sự phối hợp công tác giữa Tòa án với Viện KSND trong công tác

giải quyết án hành chính, góp phần rất lớn trong việc giải quyết các vụ án hành

chính đúng quy định pháp luật, đảm bảo tính nghiêm minh và hiệu quả.

Các quy định của Luật TTHC năm 2015 và các văn bản pháp luật có liên

quan đã quy định tương đối đầy đủ và chi tiết về chức năng, nhiệm vụ cũng như

thẩm quyền của Viện KSND, thể hiện sự tiến bộ trong quá trình lập pháp. Đặc

biệt, hằng năm Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi đều xây dựng và ban hành được

văn bản Hướng dẫn Công tác kiểm sát giải quyết các vụ án Hành chính theo

quy định pháp luật để cụ thể các điều khoản của luật. KSV cấp huyện làm công

66

tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính đã nắm được chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn được pháp luật quy định để chủ động thực hiện chức trách nhiệm

vụ được giao. KSV đã sử dụng các biện pháp nghiệp vụ ngay từ giai đoạn đầu

của quá trình TTHC (kiểm sát việc thụ lý vụ án, kiểm sát việc trả lại đơn khởi

kiện), trong suốt quá trình giải quyết vụ án cho tới kiểm sát bản án, quyết định

của Tòa án theo quy định pháp luật hiện hành.

KSV cấp huyện đã chuẩn bị và tham gia đầy đủ các phiên tòa theo quy

định của Luật TTHC năm 2015. Tại phiên tòa sơ thẩm, KSV đã căn cứ vào các

quy định của Luật TTHC năm 2015 và các pháp luật có liên quan, căn cứ vào

thực tế việc giải quyết vụ án hành chính để phát biểu ý kiến đánh giá toàn diện,

có căn cứ về quan điểm giải quyết vụ án cũng như việc tuân theo pháp luật về

tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người

tham gia TTHC.

KSV đã kịp thời phát hiện những vi phạm pháp luật của các chủ thể trong

quá trình tham gia, giải quyết vụ án hành chính, trong bản án, quyết định của

Tòa án, báo cáo Viện trưởng Viện KSND thực hiện các quyền yêu cầu, kiến

nghị, kháng nghị để khắc phục vi phạm pháp luật, góp phần bảo đảm cho việc

giải quyết vụ án hành chính nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật. Điều đó

khẳng định vai trò của Viện KSND, của KSV trong TTHC là thực sự cần thiết,

từng bước đáp ứng yêu cầu của thực tiễn hiện nay khi mà ngày càng có nhiều

cá nhân, tổ chức lựa chọn khởi kiện vụ án hành chính để Tòa án giải quyết.

2.3.1.2. Nguyên nhân

Luật TTHC năm 2015 đã quy định tương đối đầy đủ và xác định rõ ràng

hơn thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong giải quyết vụ án hành chính

so với các quy định trước đây. Trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án hành chính

đã được quy định chặt chẽ, đầy đủ hơn và đã được quy chuẩn, thống nhất thực

hiện theo quy định của Luật TTHC năm 2015. Bên cạnh đó, các quy định về

67

pháp luật nội dung cũng được sửa đổi hoặc ban hành mới như Bộ luật dân sự,

Luật đất đai…theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn.

Chị thị số 04 của Viện trưởng Viện KSND tối cao được ban hành trong

giai đoạn chức năng, nhiệm vụ của ngành có thay đổi theo quy định mới của

Luật TTHC đã có tác động tích cực trong nhận thức cũng như hành động Viện

KSND cấp huyện. Chị thị 04 tạo ra sự thống nhất trong hành động, là cơ sở để

Lãnh đạo Viện KSND cấp huyện tăng cường chỉ đạo, lãnh đạo trong việc thực

hiện thẩm quyền của mình; đồng thời nâng cao tinh thần trách nhiệm của KSV.

Chị thị số 04 đã có tác động tích cực trong việc nâng cao vị thế của Viện KSND

và nâng cao uy tín của ngành cũng như giữ vững và tăng cường niềm tin của

nhân dân đối với ngành Kiểm sát nhân dân.

Công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính của toàn tỉnh luôn được

Viện trưởng Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi đặc biệt quan tâm, trực tiếp lãnh đạo,

chỉ đạo sâu sát. Bên cạnh đó, tại Viện kiểm sát cấp tỉnh công tác này luôn có sự

thống nhất, thông suốt từ cấp trên xuống cấp dưới; bảo đảm luôn bám sát đường

lối, chủ trương của Đảng, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị địa phương.

Viện KSND tỉnh đã làm tốt công tác tổng kết thực tiễn để thông báo rút

kinh nghiệm, hướng dẫn nghiệp vụ cho Viện KSND cấp huyện. KSV, cán bộ

đã tích cực học tập, không ngừng trau dồi, tích lũy kinh nghiệm cũng như kỹ

năng để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ qua từng vụ việc.

Về cơ cấu tổ chức, biên chế cán bộ đã được tăng cường cho công tác giải

quyết vụ án hành chính. 100% KSV, cán bộ làm công tác kiểm sát giải quyết án

hành chính đã được tập huấn về nghiệp vụ và nhiều đồng chí được cử đi đào tạo

về kỹ năng, kiến thức pháp luật do Viện KSND tối cao tổ chức hàng năm.

Công tác phối hợp giữa các Viện KSND cấp huyện với Tòa án và các cơ

quan liên quan trong các hoạt động TTHC cũng được các đơn vị làm tốt. Hàng

năm, thông qua Hội nghị tổng kết hoặc các Hội nghị liên ngành, Viện kiểm sát

và Tòa án cả hai cấp đều thống nhất với nhau về nhận thức áp dụng pháp luật,

68

hỗ trợ, tạo điều kiện cho mỗi bên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, để bảo đảm

việc ra bản án của Tòa án khách quan, chính xác, đúng pháp luật.

2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân

2.3.2.1. Hạn chế

Trong quá trình thực hiện thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong

việc giải quyết vụ án hành chính thấy Luật TTHC năm 2015 đã quy định tương

đối đầy đủ thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện nói chung cũng như nhiệm

vụ, quyền hạn của KSV trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính

nói riêng, tạo cơ sở pháp lý cho Viện KSND cấp huyện thực hiện chức năng,

nhiệm vụ của mình.

Tuy nhiên, qua thực tiễn vẫn còn những tồn tại, bất cập gây khó khăn,

vướng mắc trong việc thực hiện thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong

việc giải quyết vụ án hành chính. Đó là:

- Về tổ chức bộ máy và cán bộ:

+ Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính có phạm vi rất

rộng, đòi hỏi phải tìm hiểu chuyên sâu văn bản pháp luật trên nhiều lĩnh vực,

hệ thống văn bản quy phạm pháp luật áp dụng rộng lớn, chính vì vậy nhiều đơn

vị ở cấp huyện còn thiếu cán bộ có năng lực chuyên sâu, có kinh nghiệm trong

lĩnh vực này.

+ Số lượng công chức như KSV, Kiểm tra viên, Chuyên viên ở các đơn

vị Viện KSND cấp huyện, chưa tương ứng với số lượng vụ án mà đơn vị thụ lý

kiểm sát. Việc bố trí sắp xếp KSV, Kiểm tra viên, Chuyên viên phải kiêm nhiệm

công việc khác, chưa có tính ổn định, tính chuyên sâu để thực hiện tốt thẩm

quyền của Viện kiểm sát.

+ Công tác quản lý, chỉ đạo điều hành của Viện KSND các cấp đối với án

hành chính tuy được quan tâm nhưng chưa đúng mức, chưa thường xuyên. Việc

phối hợp giữa cấp trên, cấp dưới và việc kiểm tra nghiệp vụ tuy đã thực hiện

69

nhưng chưa kịp thời, thường xuyên (2 năm 1 lần) dẫn đến kết quả thực hiện chức

năng kiểm sát đối với lĩnh vực án hành chính hiệu quả đạt được chưa cao.

+ Việc chủ động cập nhật các văn bản pháp luật cũng như các tài liệu để

áp dụng vào công tác chuyên môn của một số KSV, Kiểm tra viên, Chuyên

viên chưa kịp thời nên khi áp dụng trong thực tiễn công tác gặp nhiều khó khăn,

vướng mắc, chất lượng hiệu quả công việc không cao.

- Cơ sở vật chất, điều kiện làm việc: Cơ sở vật chất, điều kiện làm việc

chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra ở một số đơn vị Viện KSND cấp huyện nên

ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng công tác. Các điều kiện vật chất như kinh

phí và phương tiện phục vụ công tác, lưu trữ tài liệu, vận chuyển hồ sơ, thiết bị

và bảo mật thông tin chưa đáp ứng đủ yêu cầu của công tác.

- Việc phối hợp giữa Viện kiểm sát với Tòa án và các cơ quan hữu quan:

Quan hệ công tác giữa Viện kiểm sát với Toà án chưa dựa trên cơ sở chức năng,

nhiệm vụ của từng ngành, còn nể nang, khi phát hiện vi phạm nhưng không tiến

hành kiến nghị hoặc kháng nghị mà mới dừng ở việc trao đổi.

- Khó khăn, vướng mắc khi áp dụng Luật TTHC năm 2015

+ Về điều kiện thực hiện quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật: Khoản

2 Điều 25 Luật TTHC năm 2015 quy định: Viện KSND kiểm sát vụ án hành

chính từ khi thụ lý đến khi kết thúc việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên, Điều 147

Luật TTHC năm 2015 lại quy định: Viện KSND được nghiên cứu hồ sơ vụ án

từ khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử nên việc thực hiện thẩm quyền

của Viện KSND bị hạn chế.

+ Về kiểm sát việc thụ lý và trả lại đơn khởi kiện: Theo quy định tại Điều

126 Luật TTHC năm 2015, khi Tòa án thụ lý vụ án thì phải thông báo cho Viện

kiểm sát về việc thụ lý vụ án và Điều 123 Luật TTHC năm 2015 thì khi trả lại

đơn khởi kiện, Tòa án phải có văn bản ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện và văn

bản trả lại đơn khởi kiện được gửi ngay cho Viện kiểm sát. Tuy nhiên, quy định

70

như trên thì Viện kiểm sát không kiểm sát được căn cứ của việc trả lại đơn khởi

kiện cũng như thụ lý. Tòa án chỉ ra thông báo trả lại đơn hoặc thụ lý nhưng lại

không có kèm theo đơn khởi kiện hoặc tài liệu liên quan để Viện kiểm sát xem

xét việc trả lại đơn, thụ lý có đúng theo quy định của pháp luật hay không.

+ Tương tự như trên, về kiểm sát quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ: Kiểm

sát quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án hành chính (Điều 145

Luật TTHC năm 2015) quy định trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết

định, Tòa án phải gửi quyết định cho Viện kiểm sát cùng cấp. Tuy nhiên luật

không quy định khi Tòa án ra quyết định thì chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát

nghiên cứu. Vì vậy, rất khó khăn cho KSV kiểm sát việc Tòa án ra quyết định

có đảm bảo tính căn cứ và đúng pháp luật không.

+ Về việc phân công KSV tham gia phiên họp: Theo quy định tại Điều

124 Luật TTHC năm 2015, trong trường hợp người khởi kiện có khiếu nại về

việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án thì Tòa án phải mở phiên họp xem xét,

giải quyết khiếu nại và phiên họp có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát.

Tuy nhiên, Luật không quy định việc Tòa án khi nhận được khiếu nại về việc

trả lại đơn khởi kiện của người khởi kiện phải thông báo cho Viện kiểm sát nên

việc phân công KSV tham gia phiên họp gặp khó khăn.

+ Về thời hạn nghiên cứu hồ sơ: Luật TTHC năm 2015 và Thông tư liên

tịch số 03/2016 không quy định cụ thể về thời điểm, thời hạn Viện kiểm sát

được nhận tài liệu, hồ sơ ban đầu cũng như việc sao chụp các tài liệu để nghiên

cứu bên cạnh đó thời hạn Viện kiểm sát nghiên cứu hồ sơ trong vòng 15 ngày

là quá ngắn (Điều 231 Luật TTHC), bởi vì vụ án hành chính rất phức tạp liên

quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau nên cần nhiều thời gian để xem xét, nghiên

cứu làm ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện việc kiểm sát của Viện kiểm sát.

+ Về việc yêu cầu thu thập tài liệu, chứng cứ: Theo quy định tại khoản

6 Điều 84 Luật TTHC năm 2015 quy định Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Tòa

71

án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án. Tuy

nhiên, vấn đề đặt ra là sau khi nhận được văn bản yêu cầu của Viện kiểm sát,

nếu Tòa án cho rằng không cần thiết phải xác minh, thu thập thêm chứng cứ thì

Thẩm phán chỉ cần thông báo cho Viện kiểm sát về việc không thực hiện theo

yêu cầu của Viện kiểm sát. Như vậy, không phải trường hợp nào Viện kiểm sát

có yêu cầu thu thập, xác minh chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án thì Tòa

án bắt buộc phải thực hiện. Đây là một trong những vướng mắc khi Viện kiểm

sát thực hiện quyền yêu cầu của mình đối với Tòa án trong hoạt động TTHC.

+ Về quyền xác minh, thu thập chứng cứ: Luật TTHC chỉ quy định Viện

kiểm sát có quyền xác minh thu thập chứng cứ để thực hiện việc kháng nghị

theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, Viện kiểm sát không có quyền

xác minh thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn sơ

thẩm. Đây là khó khăn và bất cập đang cản trở đối với KSV cần sửa đổi cho

phù hợp với thực tế.

+ Sự có mặt của KSV: Khoản 2 Điều 25 Luật TTHC năm 2015 quy định:

Viện KSND kiểm sát từ khi thụ lý đến khi kết thúc việc giải quyết vụ án; tham

gia các phiên tòa, phiên họp của Tòa án. Tuy nhiên, tại Khoản 1 Điều 156 Luật

TTHC năm 2015 quy định về việc có mặt của KSV: KSV được Viện trưởng

Viện kiểm sát phân công có trách nhiệm tham gia phiên tòa, nếu vắng mặt thì

Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử. Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 162

Luật TTHC, thì các trường hợp luật quy định hoãn phiên tòa không có trường

hợp vắng mặt của KSV. Các quy định như trên rất bất cập, KSV sẽ không kiểm

sát được diễn biến tại phiên tòa để có quan điểm chính xác về tố tụng cũng như

nội dung vụ án. Trên thực tế, do khối lượng công việc tại địa phương nhiều nên

trong một số trường hợp một KSV có 02 hoặc nhiều vụ án cùng lên lịch xét xử

cùng một thời điểm hoặc cũng có trường hợp do tham gia xét xử vụ án khác

còn kéo dài thời gian nghị án.

72

+ Về thời hạn chuẩn bị xét xử: Khoản 1, 2 Điều 130 của Luật TTHC năm

2015 quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử: 04 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án đối

với trường hợp quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 116 của luật này; 02 tháng

kể từ ngày thụ lý vụ án đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều

116 của luật này. Như vậy, Khoản 1, 2 Điều 130 Luật TTHC năm 2015 chỉ quy

định thời hạn chuẩn bị xét xử đối với các trường hợp quy định tại điểm a, b

Khoản 2 Điều 116; còn các trường hợp quy định tại điểm a, b Khoản 3 Điều

116 lại không có quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử. Khi thụ lý giải quyết

đối với các trường hợp này có Tòa án áp dụng thời hạn chuẩn bị xét xử là 02

tháng, có nơi áp dụng 04 tháng dẫn đến việc kiểm sát tuân theo pháp luật của

Thẩm phán về thời hạn chuẩn bị xét xử còn gặp khó khăn.

+ Khoản 1 Điều 175 Luật TTHC năm 2015 quy định: “Tranh tụng tại

phiên tòa bao gồm việc trình bày chứng cứ, hỏi, đối đáp, trả lời và phát biểu

quan điểm lập luận, đánh giá chứng cứ, tình tiết vụ án, quan hệ pháp luật tranh

chấp và pháp luật áp dụng để giải quyết yêu cầu của đương sự trong vụ án”.

Trên thực tế giải quyết vụ án, việc tranh tụng gần như không diễn ra vì đặc thù

các vụ án hành chính thường chỉ có một bên (người khởi kiện) tham gia – có mặt

tại tòa, còn bên người bị kiện thì thường vắng mặt (có đơn xin vắng mặt hợp lệ),

việc đối thoại trực tiếp giữa hai bên cũng không thực hiện được vì lý do này.

Việc xác minh thu thập tài liệu chứng cứ cũng rất khó khăn, vì tài liệu xác minh

lại là tài liệu do chính bên người bị kiện đưa ra. Tại phiên tòa, Thẩm phán chủ

tọa phiên tòa chỉ đọc được ý kiến của bên bị kiện và bên khởi kiện có phản hồi

lại chứ không có kết quả tranh tụng và không thực hiện được trình tự hỏi đáp.

Tất cả những điều này đều dẫn đến không đảm bảo nguyên tắc tranh tụng cũng

như không thực hiện được việc tranh tụng.

+ Về việc gửi bản phát biểu của KSV: Điều 190 Luật TTHC năm 2015

quy định: “Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, KSV phải gửi văn bản phát biểu ý

73

kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án” là không phù hợp bởi vì bài phát biểu

của KSV không những căn cứ vào hồ sơ vụ án mà còn căn cứ nội dung xét hỏi,

kết quả tranh luận, các tài liệu, chứng cứ phát sinh tại phiên tòa từ đó KSV mới

có thể xây dựng bài phát biểu đầy đủ và đưa ra được quan điểm giải quyết vụ

án được chính xác nhất nên ngay sau khi kết thúc phiên tòa KSV không thể gửi

ngay bài phát biểu được.

+ Về thẩm quyền ban hành kháng nghị: Khoản 2 Điều 42 Luật TTHC

quy định khi Viện trưởng vắng mặt, một Phó Viện trưởng được Viện trưởng ủy

nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng trừ quyết định kháng

nghị quy định tại điểm d khoản 1 Điều này. Tuy nhiên, Điều 2 Thông tư liên

tịch số 03/2016/TTLT-VKSTC-TANDTC ngày 31/8/2016 của Viện KSND tối

cao và TAND tối cao thì quy định Phó Viện trưởng được quyền ký quyết định

kháng nghị. Như vậy hai quy định trên mâu thẫn với nhau.

+ Về việc đảm bảo thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị: Luật

TTHC năm 2015 đã quy định nhiệm vụ, quyền hạn của KSV tuy có rõ ràng, cụ

thể hơn nhưng không quy định các biện pháp bảo đảm cho KSV thực hiện

quyền của mình như chưa có hướng dẫn cụ thể việc thực hiện yêu cầu của Viện

kiểm sát, thời hạn thực hiện yêu cầu của Viện kiểm sát là bao lâu, nếu Tòa án,

cơ quan tổ chức không thực hiện những nội dung mà Viện kiểm sát đã yêu cầu,

kháng nghị, kiến nghị thì biện pháp tác động của Viện kiểm sát cụ thể như thế

nào, và sẽ có chế tài ra sao.

2.3.3.2. Nguyên nhân

Việc còn tồn tại những sai sót như trên trong quá trình kiểm sát việc giải

quyết các vụ án hành chính của Viện KSND do những nguyên nhân sau:

Thứ nhất, nhóm nguyên nhân do quy định của pháp luật

- Cơ sở pháp lý trong quá trình thực hiện công tác kiểm sát giải quyết

các vụ án hành chính còn có chồng chéo, mâu thuẫn và bất cập, vướng mắc;

74

chưa quy định đầy đủ, rõ ràng trách nhiệm của cá nhân, tổ chức có liên quan;

Một số quy định hiện nay không còn phù hợp với sự chuyển biến của nền kinh

tế, xã hội hiện tại, chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn nên một số trường hợp

phát sinh, vẫn chưa có quy định cụ thể để xem xét điều chỉnh.

- Các khiếu kiện hành chính hiện nay chủ yếu liên quan đến lĩnh vực

quản lý đất đai như việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi, hỗ

trợ tái định cư... Đây là lĩnh vực mà pháp luật điều chỉnh, chế độ chính sách có

liên quan luôn thay đổi, liên quan đến quyền và nghĩa vụ của đương sự trong

một thời gian dài. Vì vậy, khó khăn trong công tác kiểm sát giải quyết nếu cán

bộ thụ lý vụ án không kịp thời cập nhật đầy đủ các quy định pháp luật về lĩnh

vực này nằm ở nhiều văn bản pháp luật.

- Các vụ án hành chính đều là những vụ án phức tạp, có phạm vi rất rộng

để giải quyết chính xác phải nghiên cứu toàn diện các văn bản pháp luật trên

nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong lĩnh vực đất đai, xây dựng,... vốn là những văn

bản pháp luật còn nhiều bất cập, chồng chéo, chưa có hướng dẫn cụ thể khiến

công tác thực thi và áp dụng pháp luật chưa thống nhất.

- Luật TTHC năm 2015 còn có một số nội dung quy định chưa phù hợp

với thực tiễn, thậm chí có điều luật chưa rõ ràng, dẫn đến việc thực hiện có

những vướng mắc trong quá trình kiểm sát án hành chính.

Thứ hai, nhóm nguyên nhân xuất phát từ các cơ quan liên quan

- Quan hệ phối hợp với Tòa án trong công tác có lúc có việc còn chưa

được thực hiện tốt do còn tư tưởng nể nang, khi phát hiện vi phạm không kịp

thời thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định mà mới chỉ

dừng lại ở việc trao đổi, góp ý và cho khắc phục.

- Ý thức tuân thủ pháp luật của các cán bộ, công chức trong các cơ quan

hành chính Nhà nước chưa cao, dẫn đến tình trạng xâm phạm đến quyền lợi

của công dân nên việc khiếu kiện hành chính ngày càng nhiều và phức tạp, kéo

75

dài. Bên cạnh đó, các cơ quan hành chính nhà nước thường lợi dụng các mối

quan hệ, tác động đến việc giải quyết vụ án hành chính của Tòa án làm ảnh

hưởng đến việc thực thi pháp luật không nghiêm.

Thứ ba, nhóm nguyên nhân xuất phát từ nội bộ Viện KSND cấp huyện

- Tinh thần, trách nhiệm của KSV, Kiểm tra viên, Chuyên viên trong

thực hiện công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính ở các Viện KSND

cấp huyện có lúc, có nơi chưa thể hiện hết trách nhiệm, thiếu kinh nghiệm, một

số cán bộ chưa cập nhật đầy đủ các quy định pháp luật liên quan đến vụ án cần

giải quyết dẫn đến việc kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính đạt hiệu quả

chưa cao.

- Sự thay đổi nhận thức về chức năng nhiệm vụ của ngành trong thời gian

dài đã khiến cho các cán bộ, KSV chưa xác định đầy đủ vị trí và tầm quan trọng

của công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính.

- Các vụ án hành chính liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng

năng lực, kỹ năng nghề nghiệp của KSV còn hạn chế, chưa cập nhật kịp thời

các văn bản pháp luật có liên quan; một số KSV chưa nhận thức và thực hiện

đúng và đầy đủ quyền và trách nhiệm của mình.

- Một số đơn vị có án hành chính không nhiều nên các KSV lơ là, không

chịu khó học tập, nghiên cứu văn bản trong lĩnh vực giải quyết án hành chính,

dẫn đến khi phải giải quyết vụ án hành chính thì lúng túng, vướng mắc, thiếu

tự tin dẫn đến chất lượng công tác kiểm sát giải quyết án chưa tốt.

- Tại Viện KSND huyện, KSV phải kiêm nhiệm nhiều khâu công tác, cụ

thể phải giải quyết các vụ án trong nhiều lĩnh vực khác nhau như hình sự, dân

sự, hôn nhân gia đình, hành chính, kinh doanh thương mại, lao động....và tham

gia kiểm sát các hoạt động tư pháp như: Thi hành án hình sự, thi hành án dân

sự, khiếu tố, tin báo tố giác tội phạm... Do đó, tính chuyên sâu về mặt nghiệp

vụ đối với lĩnh vực án hành chính còn hạn chế.

76

Thứ tư, nhóm nguyên nhân do hoạt động chỉ đạo, điều hành

- Một số cán bộ lãnh đạo ở một vài Viện KSND cấp huyện còn thiếu

quan tâm, chỉ đạo, đôn đốc công việc đối với hoạt động của cán bộ thuộc đơn

vị mình quản lý, chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của công tác kiểm sát việc

giải quyết các vụ án hành chính. Lãnh đạo một số Viện KSND cấp huyện chưa

thực sự quan tâm, đầu tư cho công tác này, chưa bố trí đủ KSV, hoặc bố trí

KSV chưa có kinh nghiệm, năng lực để làm công tác kiểm sát giải quyết các

vụ án hành chính.

- Công tác quản lý, chỉ đạo điều hành của lãnh đạo Viện KSND cấp tỉnh

có lúc còn chưa sâu sát, chưa thường xuyên. Công tác đào tạo và bồi dưỡng có

chuyển biến tích cực nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhiều so với yêu cầu ngày

càng cao của công cuộc cải cách tư pháp. Công tác hướng dẫn nghiệp vụ của

Viện KSND cấp tỉnh một số nội dung chưa kịp thời, chưa thường xuyên, chưa

bám sát yêu cầu thực tiễn cấp thiết ở cơ sở.

77

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Xuất phát từ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật nói chung và

kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết vụ án hành chính nói

riêng, Luật TTHC đã quy định thẩm quyền giải quyết vụ án của Viện KSND

cấp huyện nhằm làm cho tất cả các hoạt động của TAND, người tiến hành tố

tụng và những người tham gia tố tụng trong việc giải quyết vụ án hành chính ở

cấp huyện luôn có sự kiểm sát của Viện KSND để đảm bảo cho việc giải quyết

nghiêm chỉnh và thống nhất.

Trong Chương này, Luận văn đã tập trung làm rõ thực tiễn áp dụng pháp

luật trong việc thực hiện thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính của Viện

KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Cụ thể Luận văn đã phân tích

làm rõ những ưu điểm, hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện

thẩm quyền kiểm sát thụ lý vụ án hành chính, kiểm sát việc ra bản án, quyết

định tố tụng, tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ án hành chính, thực

hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị đối với Toà án.

Dựa trên những hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện thẩm

quyền giải quyết vụ án hành chính qua thực tiễn của công tác tại địa phương

Luận văn sẽ đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của

pháp luật. Vấn đề này sẽ được triển khai nghiên cứu cụ thể tại Chương 3 của

bản Luận văn.

78

Chương 3

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG

CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRONG GIẢI

QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH

3.1. Các giải pháp chung

3.1.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng

Hiện nay Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện cải cách hành chính, tư

pháp, trong khi đó công tác giải quyết án hành chính liên quan đến các CQNN

ban hành các quyết định hành chính và thực hiện các hành vi hành chính là người

có chức vụ quyền hạn trong hệ thống chính trị. Vì vậy, cần phải tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của ngành KSND, thường xuyên và toàn

diện để công tác kiểm sát giải quyết án hành chính đạt hiệu quả.

Trên cơ sở quán triệt các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội về công tác tư

pháp và cải cách tư pháp, Ban cán sự Đảng ở các cấp cần tiếp tục kịp thời xây

dựng và ban hành các Nghị quyết, Chỉ thị về lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực

hiện các nhiệm vụ trọng tâm trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành

chính, chú trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao bản lĩnh chính

trị, phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm cho cán bộ, KSV. Tăng cường công

tác thanh tra, kiểm tra nghiệp vụ tập trung vào việc khắc phục những hạn chế,

thiếu sót vẫn còn tồn tại, tránh để tình trạng vụ án bị kéo dài, gây bức xúc và

đơn thư khiếu nại vượt cấp.

3.1.2. Nhóm giải pháp về thực hiện và hoàn thiện pháp luật

- Về thực hiện pháp luật

Để khắc phục những hạn chế, tồn tại nêu trên, nhằm nâng cao chất lượng,

hiệu quả của công tác kiểm sát của Viện KSND cấp huyện trong việc giải quyết

vụ án hành chính, trước hết mỗi cá nhân cán bộ ngành kiểm sát và các Viện KSND

79

cấp huyện cần thực hiện nghiêm túc các quy định của Luật tổ chức Viện KSND

năm 2014, Luật TTHC năm 2015 và các văn bản pháp luật có liên quan, bảo đảm

thực hiện đúng, đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của Viện KSND cấp huyện.

- Về hoàn thiện pháp luật

+ Về điều kiện thực hiện quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật:

Cần bổ sung quy định Viện KSND có quyền kiểm tra, sao chép tài liệu

có trong hồ sơ vụ án từ khi thụ lý đến khi kết thúc việc giải quyết vụ án. Như

vậy sẽ đảm bảo chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHC của

Viện KSND theo quy định tại Khoản 2 Điều 25 Luật TTHC năm 2015.

+ Về kiểm sát việc thụ lý và trả lại đơn khởi kiện, kiểm sát quyết định

tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án

Cần bổ sung quy định khi Tòa án ban hành các thông báo thụ lý vụ án,

văn bản trả lại đơn khởi kiện, Quyết định tạm đình chỉ và Quyết định đình chỉ

vụ án theo các Điều 123, 126, 141, 143 Luật TTHC năm 2015 thì cần phải sao

gửi các căn cứ để ban hành các thông báo, quyết định trên. Điều này sẽ tránh

được tình trạng Viện KSND chỉ kiểm sát về mặt hình thức của các thông báo,

quyết định mà sẽ kiểm sát được nội dung các thông báo, quyết định Tòa án ban

hành có đúng hay không, đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của công dân, tổ

chức khi tham gia vụ án hành chính.

+ Về sự tham gia phiên họp giải quyết khiếu nại, kiến nghị việc trả lại

đơn khởi kiện của KSV.

Cần sửa đổi Khoản 3 Điều 124 Luật TTHC năm 2015 theo hướng nếu

đương sự hoặc KSV vắng mặt tại phiên họp giải quyết khiếu nại, kiến nghị việc

trả lại đơn khởi kiện thì Thẩm phán phải ra quyết định hoãn phiên họp. Bên cạnh

đó cần có quy định khi Tòa án nhận được khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện

của người khởi kiện phải thông báo ngay trong ngày cho Viện kiểm sát. Như vậy

sẽ đảm bảo sự khách quan, công bằng, đúng theo quy định của pháp luật.

80

+ Về sự tham gia phiên tòa của KSV

Cần sửa đổi Khoản 1 Điều 156, Điều 162, Điều 232 Luật TTHC năm

2015 theo hướng nếu KSV vắng mặt tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử phải ra

quyết định hoãn phiên tòa. Điều này sẽ phù hợp với các quy định của pháp luật

về chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện KSND, đảm bảo KSV thực

hiện tốt chức năng, nhiệm vụ kiểm sát hoạt động tố tụng của Thẩm phán, Hội

đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, các đương sự tham gia tố tụng.

+ Về quyền thu thập tài liệu, chứng cứ của KSV

Cần bổ sung quy định tại Khoản 6 Điều 84 Luật TTHC năm 2015 theo

hướng Viện KSND có quyền tự mình xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ khi

Tòa án không thực hiện theo yêu cầu thu thập tài liệu, chứng cứ của Viện KSND.

Bên cạnh đó bổ sung các biện pháp cụ thể để KSV thực hiện quyền thu thập, tài

liệu chứng cứ. Bổ sung quy định xử lý hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu

thập chứng cứ của Viện KSND; xử lý hành vi của cơ quan, tổ chức, cá nhân

không thi hành quyết định của Viện KSND về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ

cho Viện KSND. KSV là người trực tiếp tiến hành tố tụng, quá trình thu thập tài

liệu, chứng cứ đóng vai trò rất quan trọng trong việc giải quyết vụ án một cách

đúng đắn, chính xác. Chính vì vậy, cần có chế tài xử lý những hành vi cản trở,

không thực hiện yêu cầu của Viện KSND trong hoạt động này.

+ Việc tham gia phiên tòa của người bị kiện

Có chế tài riêng biệt đối với người bị kiện không tham gia phiên tòa trong

các vụ án hành chính yêu cầu hủy quyết định hành chính, hành vi hành chính của

UBND, Chủ tịch UBND, các quyết định hành chính, hành vi hành chính của

CQNN bị khởi kiện. Khắc phục được hạn chế này thì nguyên tắc tranh tụng của

các đương sự mới phát huy hiệu quả trong thực tế. Cần sửa đổi, bổ sung Điều 60

Luật TTHC theo hướng bắt buộc người bị kiện là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, Uỷ

ban nhân dân phải tham gia phiên tòa và quy định biện pháp để thực hiện.

81

+ Về thời hạn chuẩn bị xét xử:

Cần sửa đổi, bổ sung quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử với những vụ

án thuộc điểm a, b Khoản 3 Điều 116 Luật TTHC năm 2015.

+ Về việc gửi bài phát biểu của KSV

Sửa đổi, bổ sung Điều 190 Luật TTHC năm 2015 về thời hạn cụ thể gửi

bài phát biểu của KSV tham gia phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm lưu trong hồ

sơ vụ án là 05 ngày làm việc kể từ khi kết thúc phiên tòa.

+ Về thẩm quyền ban hành kháng nghị:

Cần sửa đổi Điều 2 Thông tư liên tịch số 03/2016/TTLT-VKSTC-

TANDTC ngày 31/8/2016 của Viện KSND tối cao và TAND tối cao theo

hướng Phó viện trưởng không được quyền ký kháng nghị theo thủ tục phúc

thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Tòa án để phù hợp với

quy định của Luật TTHC năm 2015.

+ Về việc đảm bảo thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị:

Cần bổ sung quy định đảm bảo thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng

nghị cũng như có hướng dẫn cụ thể việc thực hiện yêu cầu của Viện kiểm sát

như thời hạn thực hiện yêu cầu của Viện kiểm sát là bao lâu, nếu Tòa án, cơ

quan tổ chức không thực hiện những nội dung mà Viện kiểm sát đã yêu cầu,

kháng nghị, kiến nghị thì biện pháp tác động của Viện kiểm sát cụ thể như thế

nào, và sẽ có chế tài ra sao.

Để thực hiện có hiệu quả giải pháp này thì Viện KSND tối cao cần tăng

cường tổ chức tập huấn nghiệp vụ, nhất là tập huấn Bộ luật TTHC năm 2015

và các thông tư liên tịch của Viện KSND tối cao - TAND tối cao hướng dẫn thi

hành luật này. Quán triệt sâu sắc chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát theo

tinh thần mới của Bộ luật TTHC. Nâng cao nhận thức đúng và đầy đủ quyền

yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị là quyền năng cơ bản và quan trọng nhất của

Viện kiểm sát trong TTHC để thường xuyên rèn luyện, tích lũy kinh nghiệm,

82

kỹ năng thực hiện quyền này, bảo đảm có chất lượng, đúng pháp luật và hiệu

quả cao. Bên cạnh đó Viện KSND tối cao cần nghiên cứu đề xuất với các

CQNN có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc phối hợp với TAND tối cao hướng

dẫn, giải đáp những khó khăn, vướng mắc nêu trên, tạo điều kiện thuận lợi để

các Viện KSND cấp dưới có nhận thức đúng đắn, đầy đủ và áp dụng thống nhất

pháp luật, bảo đảm việc giải quyết các vụ án hành chính và những việc khác

theo quy định của pháp luật có căn cứ, đúng pháp luật.

3.1.3. Nhóm giải pháp về công tác cán bộ

Thứ nhất, cần thực hiện tốt công tác tuyển dụng, quy hoạch, bổ nhiệm,

bố trí và sử dụng cán bộ, KSV.

Cần xác định rõ, cán bộ Kiểm sát là những người làm việc trong môi

trường công việc đặc thù, với áp lực công việc cũng như yêu cầu, đòi hỏi về

trách nhiệm rất cao. Chính vì vậy, trong quá trình thi, tuyển dụng cán bộ, trước

hết cần cải cách phương thức thi tuyển để có thể chọn được những cán bộ có

trình độ, hiểu biết sâu về kiến thức pháp luật và kiến thức xã hội, có khả năng

về ngoại ngữ, tin học, có phẩm chất đạo đức và bản lĩnh chính trị. Mặt khác,

phải tính tới việc cán bộ được tuyển dụng tương lai sẽ là những KSV thực hiện

việc tranh luận tại phiên tòa, vì vậy cần chú trọng đến công tác sơ tuyển, bảo

đảm không bị khiếm khuyết về hình thể, không nói lặp, nói nhịu, có khả năng

diễn thuyết, hùng biện trước đám đông. Có như vậy mới có thể thực hiện tốt

hoạt động tranh luận tại phiên tòa khi được bổ nhiệm KSV.

Công tác quy hoạch cán bộ phải được thực hiện thường xuyên, nhằm tạo

nguồn cán bộ cho việc thực hiện nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài của

ngành, đảm bảo được tính liên tục, kế thừa, khắc phục tình trạng thiếu hụt, chắp

vá trong công tác cán bộ. Muốn vậy, phải chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng

KSV trẻ, KSV chủ chốt của ngành, tạo điều kiện cho cán bộ trẻ có cơ hội, môi

trường thuận lợi để rèn luyện, thử thách, phát triển.

83

Quá trình bố trí, sử dụng cán bộ phải tính tới sự phù hợp về năng lực

chuyên môn, phẩm chất đạo đức của từng cán bộ, bảo đảm tính hợp lý, khoa

học trong việc bố trí, sử dụng cán bộ. Quá trình công tác cần phân công cán bộ

thử thách qua nhiều nhiệm vụ, nhiều khâu công tác cũng như cương vị công tác

khác nhau, tránh việc “đóng khung” cán bộ tại một khâu công tác nhất định,

vừa dễ nảy sinh tình trạng tiêu cực, vừa làm giảm ý chí phấn đấu, học hỏi, gây

nên tâm lý nhàm chán trong quá trình công tác.

Quá trình triển khai thi hành Luật Tổ chức Viện KSND năm 2014, đặc

biệt là các quy định về tuyển chọn, bổ nhiệm KSV, thực hiện tốt việc thi tuyển

KSV Viện KSND các cấp, đảm bảo sự công bằng, minh bạch trong công tác

tuyển dụng và bổ nhiệm cán bộ, bảo đảm sàng lọc được những cán bộ thực sự

có năng lực, trình độ cho công tác kiểm sát.

Thứ hai, phát động và thực hiện có hiệu quả phong trào tự học, tự nghiên

cứu, tự rèn luyện của đội ngũ KSV, đảm bảo đáp ứng yêu cầu về xây dựng đội

ngũ KSV “vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công

tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm”.

Hoạt động kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính là lĩnh vực công tác

đặc thù, phải nghiên cứu rất nhiều nguồn văn bản quy phạm pháp luật khác

nhau, ngoài ra, trong từng vụ việc cụ thể còn phải nghiên cứu nhiều văn bản

quy định về chủ trương, chính sách, chế độ... do Đảng và Nhà nước ban hành,

trong khi đó hệ thống văn bản quy phạm pháp luật thường xuyên thay đổi. Vì

vậy, ngoài kiến thức cơ bản được đào tạo tại các trường đại học, tại các lớp tập

huấn, bắt buộc KSV phải luôn tự tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu nhằm cập nhật,

nắm vững hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hướng dẫn liên

quan. Mặt khác, hoạt động tranh luận tại phiên tòa là kỹ năng riêng có của từng

người, hệ thống các trường đại học hiện nay chưa thực sự quan tâm đào tạo về

kỹ năng này. Do đó, để có thể tranh luận tốt tại phiên tòa, bắt buộc KSV phải

84

tự học, tự rèn luyện về kỹ năng hùng biện, đối đáp, kỹ năng nghiên cứu hồ sơ,

tổng hợp chứng cứ để có thể vận dụng, sử dụng có hiệu quả trong quá trình

tranh luận tại phiên tòa.

Thứ ba, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, nâng cao ý thức chính

trị cho đội ngũ cán bộ, KSV.

Đội ngũ cán bộ, KSV là lực lượng nòng cốt của ngành Kiểm sát trong quá

trình cải cách tư pháp, xây dựng ngành. Cải cách bộ máy nhà nước nói chung,

cải cách tư pháp nói riêng trước hết phải bắt đầu từ vấn đề con người. V.I. Lênin

đã chỉ rõ: Cán bộ phải là người có phẩm chất cao quý, hiểu theo nghĩa là họ có

lòng trung thành với sự nghiệp và có năng lực, trách nhiệm. Như Chủ tịch Hồ

Chí Minh đã từng nói: “Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó

do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như

ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Chính vì vậy, rèn luyện

phẩm chất đạo đức, lối sống là đòi hỏi có tính thường xuyên, liên tục đối với

người cán bộ kiểm sát. Thực hiện yêu cầu này, đòi hỏi người cán bộ kiểm sát

phải tự rèn luyện ý thức chính trị, phải nhận thức được tính chính trị trong công

việc của mình, phải luôn quán triệt đường lối, chính sách của Đảng vận dụng vào

công tác kiểm sát để thực hiện tốt chức năng của mình, phục vụ nhiệm vụ chính

trị trong từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng.

Bên cạnh việc rèn luyện về phẩm chất đạo đức, lối sống, cần phải tăng

cường rèn luyện ý thức chính trị cho đội ngũ cán bộ, KSV. Xuất phát từ đặc thù

công tác và nhiệm vụ chính trị của ngành cũng như yêu cầu của công cuộc đấu

tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ chế độ, đòi hỏi mỗi KSV không chỉ là

những người chuẩn mực trong đạo đức, lối sống mà phải thấm nhuần lý tưởng

cách mạng và ý thức chính trị. Muốn vậy, phải nâng cao hoạt động tuyên truyền,

giáo dục rèn luyện của các cấp ủy Đảng và lãnh đạo Viện kiểm sát các cấp

thông qua công tác Đảng và quản lý cán bộ. Việc phổ biến, tuyên truyền các

85

Nghị quyết của Đảng phải được thực hiện thường xuyên, thực chất và chú trọng

đến hiệu quả thực tiễn. Cần đổi mới cả về mặt nội dung và phương thức thực

hiện tuyên truyền. Mặt khác, cần phải đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, chỉnh đốn

Đảng, tăng cường quản lý cán bộ, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm điều

lệ Đảng, nội quy, quy chế của đơn vị, của ngành, các trường hợp có biểu hiện

suy thoái… Đó là những mầm mống tiêu cực cần phải phát hiện, ngăn ngừa

ngay từ đầu, vừa răn đe, vừa giáo dục nhằm rèn luyện phẩm chất chính trị và

phòng ngừa suy thoái đạo đức lối sống cho đội ngũ cán bộ KSV.

Để thực hiện tốt giải pháp này thì trước tiên Viện KSND tối cao cần tăng

cường bồi dưỡng, giáo dục về trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ KSV

để xây dựng hình ảnh người cán bộ kiểm sát mẫu mực, vững về chính trị, giỏi về

nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, không bị chi phối vì

bất kì lý do gì. Tiếp tục quan tâm chỉ đạo, tăng cường năng lực tổ chức bộ máy

và cán bộ, bảo đảm tính chuyên sâu về tổ chức tương quan với ngành TAND.

Bên cạnh đó Viện KSND tối cao cần tăng cường công tác hướng dẫn

pháp luật và tổng kết rút kinh nghiệm theo hướng tổng hợp và hệ thống những

dạng vi phạm, thông báo rút kinh nghiệm đối với những sai sót trong việc giải

quyết các vụ án hành chính trên toàn quốc, để cho các Viện kiểm sát cấp dưới

nghiên cứu vận dụng trong quá trình giải quyết án. Tăng cường tổng kết thực

tiễn, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra nghiệp vụ của Viện KSND cấp dưới; ban

hành thông báo rút kinh nghiệm, xây dựng các chuyên đề, tài liệu tập huấn

nghiệp vụ sát với yêu cầu của cán bộ kiểm sát địa phương.

Ngoài ra Văn phòng Viện KSND tối cao và Vụ nghiệp vụ nghiên cứu bổ

sung hệ thống chỉ tiêu cơ bản đánh giá chất lượng công tác kiểm sát giải quyết

các vụ án hành chính theo hướng bổ sung các chỉ tiêu thể hiện kết quả thực hiện

thẩm quyền của Viện KSND (bên cạnh các chỉ tiêu về kháng nghị, kiến nghị);

đảm bảo hệ thống chỉ tiêu có thể đánh giá được các đơn vị nghiệp vụ đã thực

86

hiện tốt thẩm quyền của Viện KSND trong quá trình giải quyết vụ án hành chính,

góp tích cực vào nâng cao chất lượng giải quyết án hành chính của Tòa án.

3.1.4. Nâng cao nhận thức của những người tiến hành tố tụng, người

tham gia tố tụng.

Nhà nước ta là nhà nước pháp chế xã hội chủ nghĩa, nghĩa là tất cả các

CQNN, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, nhân viên

nhà nước và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện Hiến pháp, pháp luật

một cách nghiêm chỉnh, triệt để, chính xác. Bởi vậy, nâng cao nhận thức của

người tham gia tố tụng, người tiến hành tố tụng nói riêng, cũng như của người

dân nói chung là mục tiêu quan trọng hàng đầu trong công cuộc xây dựng nhà

nước pháp quyền.

Việc tăng cường nhận thức pháp luật của nguời tiến hành tố tụng, người

tham gia tố tụng có tầm ý nghĩa rất quan trọng trong việc thực hiện các quy

định của pháp luật. Trong TTHC, bằng việc nâng cao nhận thức của người tham

gia tố tụng về vai trò của Toà án, Viện kiểm sát, người bào chữa, KSV, các

nguyên tắc bảo đảm tranh tụng…cũng góp phần nâng cao chất lượng của hoạt

động giải quyết vụ án hành chính. Để thực hiện được điều đó thì công tác phổ

biến, giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên của quá trình thi hành pháp luật và có

ý nghĩa, vai trò hết sức quan trọng trong việc tăng cường pháp chế, xây dựng

Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân

và vì nhân dân. Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa quan trọng đó Đảng và Nhà nước

ta luôn quan tâm đến công tác này. Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị chỉ rõ:

“Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật với nhiều hình

thức phong phú, sinh động, đặc biệt là thông qua các phiên toà xét xử lưu động

và bằng những phán quyết công minh để tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp

luật cho cán bộ và nhân dân”. Chỉ thị số 32 - CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban

Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác

87

phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ,

nhân dân đã khẳng định: “Phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của

công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính

trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng”.

Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật phải được thực hiện có trọng

điểm và gắn chặt với nhiệm vụ chính trị, có thể tập trung tuyên truyền trên báo,

đài, trang thông tin điện tử... Để nâng cao hiệu quả của công tác này, nhân tố con

người là quan trọng nhất, bởi vậy cần thường xuyên bồi dưỡng và định hướng

nội dung giáo dục pháp luật thường xuyên cho đội ngũ làm công tác giáo dục

pháp luật. Công tác này cũng cần đổi mới, đa dạng hóa nội dung, hình thức,

phương pháp. Phổ biến giáo dục pháp luật phải thường xuyên, liên tục, có tính

kế thừa, tập trung tuyên truyền những vẫn đề mang tính cấp bách; hình thức và

biện pháp tổ chức thực hiện phải dễ hiểu, dễ tiếp cận, phù hợp với đặc điểm tình

hình từng vùng, địa bàn, đối tượng, bảo đảm hiệu quả và thiết thực.

Đối với những người tiến hành tố tụng nói riêng, cần phải xây dựng đội

ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế; có phẩm chất

đạo đức trong sáng; có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, công tâm

thực hiện nhiệm vụ, bản lĩnh và có kỷ cương, ý thức tổ chức kỷ luật.

3.1.5. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho Ngành kiểm sát

Hoạt động áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ án cụ thể là một công

việc đặc biệt, đòi hỏi những người tiến hành tố tụng phải đầu tư nhiều thời gian,

công sức vào học tập nghiên cứu pháp luật, nghiên cứu hồ sơ vụ án. Chính vì

vậy, để đảm bảo hiệu quả cho hoạt động này, việc quan tâm tăng cường cơ sở

vật chất cho ngành Kiểm sát nhân dân là một yêu cầu cấp thiết. Trong những

năm qua, mặc dù đã được Đảng, Nhà nước quan tâm đến điều kiện vật chất

công tác, sinh hoạt, nhưng đến nay cơ sở vật chất chất phục vụ cho công tác

của ngành Kiểm sát nhân dân vẫn còn hạn hẹp. Vì vậy, hoạt động kiểm sát cũng

88

bị ảnh hưởng nhất định. Mặt khác, yêu cầu chất lượng, hiệu quả công việc ngày

càng tăng cao, số vụ án thụ lý tăng lên nhanh chóng, trọng trách “người bảo vệ

pháp luật” mà nhân dân giao phó đang đè nặng lên vai mỗi cán bộ, KSV Ngành

Kiểm sát nhân dân. Để đáp ứng được những yêu cầu trên, cần thiết phải tăng

cường điều kiện cơ sở vật chất cho Ngành như: Tăng cường việc cung cấp tài

liệu, văn bản pháp luật, sách báo về khoa học pháp lý; tăng cường trang thiết

bị, máy móc phục vụ việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác kiểm sát

giải quyết án...

3.2. Các giải pháp cụ thể cho tỉnh Quảng Ngãi

3.2.1. Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng

Thời gian qua, nhờ sự chỉ đạo sâu sát và kịp thời đúng đắn của các cấp ủy

Đảng trên toàn tỉnh, nhận thức của các cấp ủy, Đảng, của mỗi đảng viên và của

mỗi tổ chức Đảng, các đoàn thể và của toàn xã hội về vị trí vai trò của công tác

tư pháp nói chung, về thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong giải quyết

vụ án hành chính nói riêng có sự thay đổi lớn và nhờ đó đã có những thay đổi

trong cách nhìn nhận đánh giá, trong chính sách đối với các cơ quan tư pháp, với

Viện KSND, tạo những điều kiện thuận lợi để Viện KSND triển khai thực hiện

có hiệu quả công tác cải cách của ngành, đạt được những kết quả thành công

bước đầu có ý nghĩa rất quan trọng. Vì vậy để nâng cao hơn nữa chất lượng thực

hiện thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong giải quyết vụ án hành chính

thì cần phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, cụ thể:

- Các Viện KSND cấp huyện phải biết luôn gắn việc thực hiện thẩm

quyền của mình trong giải quyết vụ án hành chính không tách rời sự lãnh đạo

của Đảng, tranh thủ ý kiến chỉ đạo của các cấp ủy, Đảng mà trực tiếp là Thường

vụ huyện ủy, đảm bảo gắn việc thực hiện công tác chuyên môn với việc phục

vụ nhiệm vụ chính trị địa phương. Có như vậy các Viện KSND cấp huyện mới

89

được sự đồng tình và ủng hộ của cấp ủy, Đảng địa phương, sự tạo điều kiện của

các ngành và các cấp chính quyền, đoàn thể.

- Cần phải hoàn thiện hơn nữa các Chỉ thị, đường lối của Đảng về cải

cách tư pháp nói chung, về công tác kiểm sát nói riêng để công cuộc cải cách

tư pháp ngày một sâu rộng và hiệu quả. Trước mắt là tập trung quán triệt Nghị

quyết 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư

pháp đến năm 2020.

- Các cấp ủy, Đảng địa phương cần quan tâm hơn nữa tới công tác tư pháp

trong đó có công tác kiểm sát, phải sâu sát và kịp thời nắm bắt, có hướng chỉ đạo

công tác kiểm sát về đường lối, quan điểm trong việc thực hiện thẩm quyền của

ngành; cần chỉ đạo các phòng ban có chức năng phối hợp tốt với Viện KSND,

tạo điều kiện về mọi mặt để giúp Viện KSND tháo gỡ và khắc phục các khó

khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ; cần sâu sát với các tổ chức cấp ủy Viện KSND

cấp huyện để nắm bắt tâm tư của quần chúng, đảng viên; quản lý, kiểm tra và

đánh giá thường xuyên, chính xác tư cách đạo đức chính trị của đảng viên, chăm

lo công tác tổ chức cán bộ, giáo dục, bồi dưỡng, chọn lọc để giới thiệu cho ngành

kiểm sát những cán bộ lãnh đạo tốt có trình độ chuyên môn vững vàng, có lập

trường kiên định, phẩm chất đạo đức tốt, "vừa hồng vừa chuyên".

3.2.2. Nâng cao trình độ năng lực của cán bộ, Kiểm sát viên

3.2.2.1. Nâng cao chất lượng hoạt động của Kiểm sát viên tại phiên tòa

Một là, khi tham gia phiên tòa, KSV cần phải chuẩn bị cho mình tác

phong đàng hoàng, trang phục gọn gàng, trang nghiêm, đúng quy định của

Ngành. Nếu KSV có sự chuẩn bị chu đáo, đầy đủ, nắm vững hồ sơ vụ án, nắm

vững các quy định pháp luật, trạng thái tinh thần, sức khỏe tốt thì tính chủ động,

linh hoạt, nhạy bén, tự tin sẽ thể hiện ra bên ngoài qua tác nghiệp tại phiên tòa.

Đặc biệt, đối với các Viện KSND như: thành phố Quảng Ngãi, Đức Phổ, Bình

Sơn, đây là những địa phương có số lượng án lớn, các vụ án phức tạp, có Luật

90

sư tham gia hay có nhiều đương sự khiếu nại, khiếu kiện kéo dài thì KSV cần

phải lưu ý có sự chuẩn bị chu đáo hơn nữa, đặt ra nhiều tình huống để ứng phó.

Hai là, thực tế cho thấy việc không lập dự thảo kế hoạch tham gia hỏi và

đặc biệt các biên bản theo dõi phiên tòa của một số KSV ở các Viện KSND cấp

huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi còn sơ sài, không thể hiện được diễn biến

phiên tòa. Vì vậy, để thực hiện tốt phần xét hỏi thì KSV cần phải lập kế hoạch

hỏi với các câu hỏi dự kiến và phải tiến hành ghi chép đầy đủ ngay từ khi bắt

đầu phiên tòa. Nếu trong phần xét hỏi và tranh luận, KSV càng ghi chép đầy

đủ, chi tiết càng tốt, bởi thực tế không có gì khẳng định được rằng chúng ra sẽ

nhớ hết tất cả các câu hỏi, câu trả lời và các ý kiến trình bày của đương sự trong

quá trình xét hỏi, tranh luận. Do đó ghi chép đầy đủ và có sự đối chiếu với danh

sách câu hỏi dự kiến sẽ giúp KSV rà soát, tìm ra những mâu thuẫn, những điểm

"chốt" cần làm sáng tỏ để kịp thời bổ sung các câu hỏi thêm cũng như loại bỏ

câu hỏi trùng lặp.

Ba là, cần nhận thức đúng rằng việc đương sự đặt câu hỏi với các đương

sự khác trong phần hỏi hoàn toàn không đồng nhất với việc đương sự trình bày

ý kiến phản bác quan điểm đối phương trong phần tranh luận. Do đó, trong tình

huống Chủ tọa phiên tòa không cho phép đương sự đặt câu hỏi, KSV cần đặt câu

hỏi đối với đương sự về việc có yêu cầu được đặt câu hỏi đối với đương sự khác

hay không? Nếu có thì đề nghị Hội đồng xét xử cho phép đương sự được thực

hiện quyền của mình theo quy định của pháp luật. Cũng theo quy định của Luật

TTHC, đương sự có quyền và nghĩa vụ tự bảo vệ mình thông qua việc thực hiện

các quyền và nghĩa vụ tố tụng tại phiên tòa. Để kiểm sát quá trình này, KSV có

thể đặt câu hỏi đối với các đương sự về việc Tòa án có đảm bảo cho đương sự

được thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình trong suốt quá trình giải

quyết vụ án hay không? Bên cạnh đó, đối với những vụ án mà đương sự có thái

độ chấp hành pháp luật không tốt, không hợp tác với Tòa án như không chấp

91

hành giấy triệu tập của Tòa án, từ chối tham gia các hoạt động tố tụng trong quá

trình giải quyết vụ án thì KSV cũng cần có câu hỏi xác định lại sự việc trước khi

phát biểu quan điểm về việc chấp hành pháp luật của đương sự.

Bốn là, về bài phát biểu của KSV tại phiên tòa. Cách thức trình bày bài

phát biểu hiện nay được xây dựng thống nhất theo mẫu do Viện KSND tối cao

ban hành, KSV cần lồng ghép việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật thì sẽ có

giá trị thuyết phục hơn. Thông qua bài phát biểu, KSV phải là người chứng

minh và phải thể hiện cho đương sự thấy được vai trò, trách nhiệm của Viện

kiểm sát thực sự là một người gác cổng tố tụng nhằm đảm bảo cho đương sự

được thực hiện đúng và đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của mình tại phiên tòa, từ

đó, nâng cao vị thế của ngành kiểm sát nhân dân.

3.2.2.2. Tăng cường công tác hướng dẫn nghiệp vụ

Với thực trạng chất lượng hoạt động kiểm sát việc giải quyết vụ án hành

chính và nhu cầu công việc hiện nay, việc nâng cao trình độ, kỹ năng cho đội

ngũ KSV ở các Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi là đòi hỏi

khách quan và cấp thiết. Để thực hiện được mục tiêu này đòi hỏi Viện KSND

tỉnh Quảng Ngãi cần tăng cường công tác hướng dẫn nghiệp vụ cho đội ngũ

KSV cấp huyện. Ngoài ra công tác ban hành các thông báo rút kinh nghiệm của

Phòng 10 – Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi cũng cần phải tăng cường chứ không

phải chỉ dừng lại ban hành vừa đủ số lượng chỉ tiêu của ngành. Điều này ngoài

việc giúp các các KSV ở các địa phương nhiều án hành chính trong việc hạn

chế sai sót mà còn giúp các KSV ở những địa phương ít án có điều kiện để tiếp

xúc với các vụ án hành chính thực tế, tránh tình trạng bỡ ngỡ khi tham gia giải

quyết loại án này. Bên cạnh đó cần tổ chức các hội nghị trực tuyến hoặc các

lớp tập trung tập huấn cho các Viện KSND cấp huyện, nội dung tập huấn tập

trung vào việc rèn luyện kỹ năng viết, trình bày bài phát biểu, nâng cao kỹ năng

phân tích, tổng hợp chứng cứ, kỹ năng nói, hùng biện, diễn đạt trước đông

người. Tài liệu tập huấn được lấy từ nguồn các vụ án có thật trong tỉnh và ngoài

92

tỉnh, bảo đảm tính thiết thực và có thể vận dụng vào thực tiễn. Trước mắt, giao

cho một phòng nghiệp vụ chủ trì tổ chức tập huấn chuyên sâu kỹ năng viết bài

phát biểu cho KSV Viện KSND cấp huyện. Sau tập huấn cần yêu cầu KSV viết

báo cáo thu hoạch bằng 01 bài phát biểu từ thực tiễn xét xử để tổng hợp, đánh

giá, rút kinh nghiệm. Việc tập huấn được duy trì hàng năm, trước khi tập huấn

phải khảo sát số liệu thực tiễn, chuẩn bị tài liệu kỹ lưỡng, công phu, bảo đảm

thực chất, hiệu quả cao.

3.2.2.3. Nâng cao nhận thức của cán bộ, Kiểm sát viên

Năm 2018, các Viện KSND cấp huyện đã xác định việc nâng cao chất

lượng, hiệu quả công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính là “Nhiệm vụ trọng

tâm”. Điều này khẳng định về mặt nhận thức, đã có bước đổi mới then chốt và

quan trọng. Cụ thể các Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đã

thống nhất xác định công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính là “công tác

đột phá”. Bởi công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính là một bộ phận quan

trọng của chức năng Kiểm sát hoạt động tư pháp và là công việc rất khó khăn,

phức tạp. Do vậy, để bảo đảm thực hiện tốt công tác này, cần có sự đánh giá, nhìn

nhận, quan tâm đúng mức và sự chỉ đạo sát sao của Lãnh đạo Viện kiểm sát các

cấp, nhất là các đồng chí Lãnh đạo Viện kiểm sát cấp huyện. Cụ thể:

- Mỗi đơn vị cần xây dựng Kế hoạch riêng để thực hiện công tác đột phá;

trong đó xác định rõ mục đích, yêu cầu, trách nhiệm; phân công nhiệm vụ và

đề ra giải pháp cụ thể; thời gian, tiến độ thực hiện và cơ chế kiểm tra, giám sát,

đôn đốc việc thực hiện.

- Từng cán bộ, KSV cần tiếp tục quán triệt, nhận thức đúng và đầy đủ về

thẩm quyền của Viện KSND theo quy định mới của Luật TTHC năm 2015 để

nâng cao trách nhiệm trong thực thi công vụ, nhiệm vụ.

3.2.3. Đổi mới công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật

Trong nhiều năm gần đây, Viện KSND hai cấp trên địa bàn tỉnh Quảng

Ngãi luôn chú trọng và đẩy mạnh việc thông tin, tuyên truyền. Hoạt động này đã

93

lan tỏa đến mọi tầng lớp nhân dân hiểu được trách nhiệm của cơ quan tố tụng

trong việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân; giúp

người dân nâng cao nhận thức về pháp luật, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng

và nền Pháp chế Xã hội chủ nghĩa. Đồng thời đây cũng là giải pháp góp phần

quan trọng nâng cao vị thế của Viện KSND trước Đảng, Nhà nước và Nhân dân.

Do vậy, để phát huy tốt thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong giải quyết

án hành chính, Viện KSND hai cấp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cần tiếp tục phát

huy sức mạnh của “Kênh thông tin, tuyên truyền”, với tần suất nhiều hơn, sâu sắc

hơn về nội dung, về vai trò của người KSV Viện KSND trong việc đồng hành

cùng với người dân “Bảo vệ pháp luật”, “công bằng, lẽ phải”. Khi người dân biết

được, hiểu được và nhận thức được vị trí, vai trò của Viện kiểm sát là “Cơ quan

Bảo vệ pháp luật”, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân và được sử

ủng hộ, tin cậy của nhân dân, cũng như của toàn xã hội sẽ góp phần rất lớn cho

việc thực hiện có hiệu quả thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong giải

quyết vụ án hành chính cũng như thực hiện tốt chức năng kiểm sát hoạt động tư

pháp mà Đảng và Nhà nước đã giao phó.

3.2.4. Nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo điều hành

công tác kiểm sát giải quyết án hành chính

Lãnh đạo Viện KSND hai cấp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cần tiếp tục

quán triệt và nhận thức sâu sắc về chủ trương, chiến lược cải cách tư pháp của

Đảng, quan tâm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát giải quyết án hành chính.

Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành toàn bộ hoạt động, thao tác

nghiệp vụ của KSV trong việc áp dụng pháp luật đúng quy định, đúng quy chế

nghiệp vụ của Ngành. Người lãnh đạo phải sâu sát, linh hoạt trong quá trình

điều hành, thường xuyên nắm bắt được khối lượng công việc, mức độ phức tạp

của công việc, yêu cầu của công việc phải thực hiện trong từng thời gian cụ thể

để đôn đốc cán bộ, công chức trong đơn vị thực hiện. Để làm tốt công việc này

94

người lãnh đạo phải nắm được năng lực, khả năng, thế mạnh, sở trường cũng

như những hạn chế, nhược điểm của từng KSV để có thể phân công trong những

vụ án cụ thể nhằm phát huy tốt nhất sở trường của họ trong quá trình giải quyết

án. Chủ động trong công tác kiểm tra nhằm phát hiện những thiếu sót, tồn tại

của đơn vị, của KSV. Trên cơ sở đó định hướng, thống nhất biện pháp khắc

phục. Thực hiện nghiêm túc công tác báo cáo, trả lời thỉnh thị, kịp thời ban

hành những văn bản thông báo rút kinh nghiệm trong toàn ngành.

Lãnh đạo Viện KSND cấp huyện phải biết gắn chặt vai trò của mình là

lãnh đạo song cũng đồng thời là người quản lý. Bên cạnh đó lãnh đạo Viện

KSND cấp huyện phải trau dồi đạo đức cách mạng, nắm vững các chủ trương,

đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Thường xuyên học

tập, cập nhật những kiến thức mới, những vấn đề về lý luận, thực tiễn mới được

bổ sung nhằm nâng cao kiến thức tổng hợp, phục vụ cho hoạt động lãnh đạo,

quản lý của người Viện trưởng đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai

đoạn hiện nay. Trước yêu cầu mới của xã hội học tập, người lãnh đạo không

chỉ hô hào mọi người học tập thường xuyên mà phải là tấm gương cho cán bộ

đơn vị về việc học tập.

Cuối cùng Lãnh đạo Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng

Ngãi phải tuân thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên, đồng thời cũng phải biết

tranh thủ sự ủng hộ của cấp ủy, chính quyền địa phương; tranh thủ sự giúp đỡ về

nghiệp vụ của các phòng nghiệp vụ chuyên môn. Xây dựng và duy trì tốt mối

quan hệ phối hợp công tác với các cơ quan hữu quan, đặc biệt là với các cơ quan

trong khối nội chính. Xây dựng kế hoạch tự đào tạo, đào tạo tại chỗ để nâng cao

chất lượng đội ngũ cán bộ, KSV của đơn vị. Làm tốt công tác quy hoạch để kịp

thời bổ sung nguồn cán bộ lãnh đạo quản lý cho đơn vị mình và cho ngành.

3.2.5. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong

việc giải quyết án hành chính

95

Để ngày càng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giải quyết án hành

chính, các Viện KSND trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cần tiếp tục duy trì và tăng

cường sự phối hợp giữa Viện KSND các cấp, trao đổi kinh nghiệm với các đơn

vị làm tốt, có nhiều sáng kiến, kinh nghiệm hoặc cách làm đạt chất lượng cao

trong công tác kiểm sát giải quyết án hành chính.

Hằng năm, Viện KSND hai cấp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi phải phối

hợp với Tòa án xây dựng kế hoạch xét xử các phiên tòa rút kinh nghiệm, để rút

kinh nghiệm về nghiệp vụ nhằm nâng cao chất lượng tham gia phiên tòa, kiểm

sát hoạt động xét xử của KSV trong việc giải quyết vụ án hành chính.

Các Viện KSND và Tòa án cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi theo

định kỳ công tác hoặc đột xuất nên tổ chức họp liên ngành để cùng bàn bạc, tháo

gỡ những khó khăn vướng mắc trong quá trình giải quyết án hành chính để tiến

đến hoàn thiện Quy chế phối hợp trong công tác giải quyết án hành chính, nhằm

tăng cường, nâng cao trách nhiệm, hiệu quả trong công tác giữa các bên.

Tăng cường sự phối hợp liên ngành giữa Tòa án và Viện kiểm sát về việc

khi Tòa án chuyển thông báo thụ lý, thông báo trả lại đơn khởi kiện cho Viện

kiểm sát thì Tòa án gửi kèm theo đơn khởi kiện và các tài liệu liên quan làm

căn cứ trả lại đơn cho Viện kiểm sát.

Viện KSND hai cấp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cần sớm cụ thể hóa nội

dung “Tăng cường quan hệ phối hợp với Tòa án cùng cấp xây dựng, sửa đổi, bổ

sung Quy chế phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân phù

hợp với quy định mới của pháp luật và chức năng, nhiệm vụ của mỗi ngành, bảo

đảm để Kiểm sát viên, Kiểm tra viên thực hiện tốt nhiệm vụ” mà Viện KSND tối

cao đã chỉ đạo theo Chỉ thị số 04 ngày 22/3/2018 của Viện KSND tối cao.

Hiện nay các Quy chế phối hợp giữa Viện KSND và TAND cấp huyện

trong việc giải quyết các vụ án hành chính trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi chưa

phù hợp với thực tế, các quy chế phối ở cấp huyện có nơi chỉ kế thừa từ quy

chế phối hợp ở cấp tỉnh mà không có sự cải biên phù hợp với tình hình từng địa

96

phương. Cá biệt có địa phương chưa ký kết quy chế phối hợp trong việc giải

quyết các vụ án hành chính theo Luật TTHC năm 2015 như: Tây Trà, Minh

Long, Sơn Tây. Vì vậy, đề nghị các Viện KSND và TAND cấp huyện cần chủ

động phối hợp sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành Quy chế phối hợp giữa Viện

KSND và TAND cấp huyện để phù hợp với quy định mới của pháp luật và chức

năng, nhiệm vụ của mỗi ngành, bảo đảm để cán bộ, KSV thực hiện tốt tốt hơn

nhiệm vụ và khắc phục những bất cập như đã nêu trên khi xem xét xử lý các án

hành chính trong thời gian qua.

Tăng cường sự giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp đối với công tác

giải quyết án hành chính; thường xuyên theo dõi, giám sát chặt chẽ việc thực

hiện chức năng của các Viện KSND cấp huyện, đặc biệt là chức năng kiểm sát

các hoạt động tư pháp trong TTHC. Chỉ đạo các ngành chức năng có liên quan

phối hợp trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ giúp cho quá trình thụ lý, giải

quyết vụ án hành chính của Tòa án được kịp thời, chính xác.

Thường trực cấp ủy Đảng ở địa phương cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo

các cơ quan, tổ chức, đoàn thể trong hệ thống chính trị ở cấp mình nêu cao tinh

thần trách nhiệm trong việc thực hiện công vụ, nhiệm vụ, phối hợp chặt chẽ,

đồng bộ với các cơ quan tiến hành tố tụng, tạo điều kiện cung cấp chứng cứ, tài

liệu liên quan để giải quyết vụ án nhưng không can thiệp, tác động vào việc

giải quyết vụ án hành chính để góp phần giải quyết những khó khăn, vướng

mắc, đặc biệt là đối với những trường hợp mà đương sự cố tình chống đối, ngăn

cản, không hợp tác với Tòa án và các cơ quan liên quan khi thực hiện công tác

đo đạc, định giá… làm cho vụ án kéo dài không được giải quyết dứt điểm, gây

ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các đương sự và ảnh hưởng đến chất lượng

việc giải quyết vụ án.

Khắc phục tâm lý thụ động, e ngại, né tránh, sợ bị ảnh hưởng bởi cơ chế

giám sát, quản lý hành chính của chính quyền địa phương, đề cao tính độc lập

của KSV trong việc kiểm sát giải quyết án hành chính.

97

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Chương 3 của Luận văn đã đưa ra các giải pháp chung và các giải pháp

cụ thể cho tỉnh Quảng Ngãi nhằm bảo đảm việc thực hiện thẩm quyền của Viện

KSND cấp huyện trong giải quyết vụ án hành chính đạt được hiệu quả cao nhất.

Ngoài ra, các giải pháp này còn góp phần giúp TAND cấp huyện có thể giải

quyết và xét xử đạt chất lượng tốt, là cơ sở để Tòa án ra bản án, quyết định

chính xác, khách quan; góp phần hạn chế kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm

hoặc đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; giải quyết dứt

điểm tranh chấp giữa người dân với các CQNN; ổn định trật tự xã hội. Qua đó,

quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức được bảo vệ kịp

thời, ý thức pháp luật của người dân được nâng cao, pháp chế xã hội chủ nghĩa

được bảo đảm, tăng cường pháp chế và bảo vệ tốt hơn lợi ích của Nhà nước,

của tập thể, các quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức.

98

KẾT LUẬN CHUNG

Trong những năm qua, với chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp

của mình, Viện KSND với vị trí, vai trò là một cơ quan tiến hành tố tụng và

kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ án hành chính đã

bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, góp phần

bảo vệ Nhà nước, chế độ và quyền dân chủ của công dân, đóng góp to lớn đối

với sự nghiệp cách mạng, xây dựng đất nước của Đảng và nhân dân ta. Tuy

nhiên trong quá trình thực hiện thẩm quyền của mình, các Viện KSND cấp

huyện còn tồn tại, thiếu sót cả về nhận thức lẫn về nghiệp vụ chuyên môn.

Luận văn đã phân tích, luận giải một số vấn đề lý luận và thực tiễn về việc

tham gia giải quyết vụ án hành chính của Viện KSND cấp huyện. Thông qua

việc phân tích pháp luật hiện hành và tình hình áp dụng pháp luật trên thực tế

của địa phương, Luận văn đã làm rõ những nội dung cơ bản về việc tham gia giải

quyết vụ án hành chính của Viện KSND cấp huyện, các quy định về kiểm sát thụ

lý vụ án hành chính; kiểm sát việc ra bản án, quyết định tố tụng; tham gia phiên

tòa giải quyết vụ án hành chính, kiểm sát thông qua việc thực hiện quyền yêu

cầu, kiến nghị, kháng nghị đồng thời chỉ ra một số bất cập, hạn chế của pháp luật

TTHC gây khó khăn đối với việc thực hiện thẩm quyền giải quyết vụ án hành

chính của Viện KSND để tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.

Trên cơ sở mục tiêu phát triển của đất nước, công cuộc cải cách tư pháp

đã đặt ra những yêu cầu ngày càng cao cho ngành Kiểm sát, dựa theo một số

phân tích, kết quả nghiên cứu của luận văn, học viên đã đề xuất một số giải

pháp nhằm hoàn thiện về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính của Viện

KSND cấp huyện, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay, nâng cao vai trò

của ngành Kiểm sát để góp phần cùng ngành Toà án ban hành các bản án, quyết

định đúng pháp luật. Để đạt được điều đó đòi hỏi công tác kiểm sát giải quyết

các vụ án hành chính của Viện KSND cần cố gắng nhiều hơn nữa, phát huy

những kết quả đạt được, khắc phục những thiếu sót, tồn tại góp phần hoàn thành

nhiệm vụ chung của ngành Kiểm sát./.

99

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban bí thư (2003), số: 32 - CT/TW Chỉ thị về tăng cường sự lãnh đạo

của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức

chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân, Hà Nội.

2. Ban Chấp hành Trung ương (1960), số 13-TT/TW Thông tri về việc tăng

cường lãnh đạo công tác kiểm sát, Hà Nội.

3. Ban Chấp hành Trung ương (2005), số: 49-NQ/TW Nghị quyết của Bộ

Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

4. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1995), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8

Ban chấp hành trung ương khóa VII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện

Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách

một buớc nền hành chính, Hà Nội.

5. Bộ Chính trị (1963), số: 68-NQ/TW ngày 01/12/1963 Nghị quyết của Bộ

chính trị về công tác kiểm sát, Hà Nội.

6. Bộ chính trị (1975), Nghị quyết số 245/NQ-TW Nghị quyết về việc bãi bỏ

cấp khu, hợp nhất các tỉnh, Hà Nôị.

7. Bộ chính trị (1989), Quyết định số 83-QĐ/TW Quyết định về việc chia

tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định, Hà Nội. kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa VIII

ra nghị quyết chia tỉnh Nghĩa Bình để tái lập tỉnh Bình Định và tỉnh

Quảng Ngãi, Hà Nội.

8. Bộ Chính trị (2002), số 08 – NQ/TW Nghị quyết về “một số nhiệm vụ

trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”. Hà Nội.

9. Bộ Chính trị (2010), Kết luận số 79-KL/TW Về Đề án đổi mới tổ chức và

hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra theo Nghị quyết

49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020, Hà Nội.

100

10. Chính phủ (1994), Nghị định 83-CP Nghị định về việc chia huyện Sơn Hà

thành huyện Sơn Tây và huyện Sơn Hà thuộc tỉnh Quảng Ngãi, Hà Nội.

11. Chính phủ (2003), Nghị định 145/2003/NĐ-CP Nghị định về việc thành

lập huyện Tây Trà; mở rộng thị trấn, thành lập xã và đổi tên xã thuộc

các huyện Bình Sơn, Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, Hà Nội.

12. Chính phủ (2005), Nghị định 112/2005/NĐ-CP Nghị định về việc thành

lập Thành phố Quảng ngãi thuộc tỉnh Quảng Ngãi, Hà Nội.

13. Chủ tịch nước (1945), số: 41 Sắc lệnh của Chủ tịch nước sô 41 ngày

03/10/1945, Hà Nội.

14. Chủ tịch nước (1957), số 004/SLT Sắc luật số 004/SLT ngày 20/7/1957

về bầu cử Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp, Hà Nội.

15. Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.

16. Bùi Xuân Đức (1995), “Phân định tài phán hành chính và tư pháp hành

chính”, Nhà nước và pháp luật, số 3, tr. 3.

17. Nguyễn Duy Gia (1995), Thiết lập tài phán hành chính ở nước ta, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

18. Trần Thị Thu Hà (2015), Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong

TTHC – Qua thực tiễn thành phố Hải Phòng, Luận văn Thạc sỹ luật học,

Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, Hải Phòng.

19. Lê Văn Hảo (2017), “Những lưu ý khi kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án

hành chính”, Tạp chí kiểm sát, số 13/2017.

20. Trần Thị Hiền (2015), Luật TTHC 2010 và thực tiễn giải quyết các vụ

án hành chính, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường, Trường đại học

Luật Hà Nội, Hà Nội.

21. Hội đồng Nhà nước (1989), số: không số Pháp lệnh thủ tục giải quyết

các vụ án dân sự, Hà Nôị.

101

22. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2016), số: 02/2016/NQ-

HĐTP Nghị quyết hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết

số 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ

luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 104/2015/QH13 của Quốc hội về

việc thi hành Luật tố tụng hành chính, Hà Nội.

23. Phiên tòa rút kinh nghiệm ngày 21/02/2017 của TAND huyện Đức Phổ.

24. Phòng 10 – Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi (2015), Báo cáo số 2054/BC-

VKS-P10 Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 2015 của Phòng 10 –

Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Ngãi.

25. Phòng 10 – Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi (2016), Báo cáo số 2195/BC-

VKS-P10 Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 2016 của Phòng 10 –

Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Ngãi.

26. Phòng 10 – Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi (2017), Báo cáo số 2434/BC-

VKS-P10 Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 2017 của Phòng 10 –

Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Ngãi.

27. Phòng 10 – Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi (2017), Hướng dẫn số

432/HD-VKS-P10 Hướng dẫn Công tác kiểm sát giải quyết các vụ án

Hành chính theo quy định pháp luật năm 2017, Quảng Ngãi.

28. Phòng 10 – Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi (2018), Báo cáo số 223/BC-

VKS-P10 Báo cáo số lượng biên chế kiểm sát giải quyết vụ án hành chính

của Phòng 10 – Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Ngãi.

29. Quốc hội (1946), Hiến pháp nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa, Hà

Nội.

30. Quốc hội (1959), Hiến pháp nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa, Hà

Nội.

31. Quốc hội (1960), số: Không số Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.

102

32. Quốc hội (1960), số: Không số Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà

Nội.

33. Quốc hội (1980), Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt

Nam năm 1980, Hà Nội.

34. Quốc hội (1981), số: Không số Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.

35. Quốc hội (1981), số: Không số Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà

Nội.

36. Quốc hội (1992), Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt

Nam năm 1992, Hà Nội.

37. Quốc hội (1992), số: Không số Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.

38. Quốc hội (1992), số: Không số Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà

Nội.

39. Quốc hội (1995), số: 43-L/CTN Luật số 43-L/CTN ngày 28/10/1995 sửa

đổi bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân.

40. Quốc hội (2001), Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt

Nam năm 1992, Hà Nội.

41. Quốc hội (2002), số: 33/2002/QH10 Luật của Quốc hội Tổ chức Tòa án

nhân dân, Hà Nội.

42. Quốc hội (2002), số: 34/2002/QH10 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân

dân, Hà Nội.

43. Quốc hội (2003), số 19/2003/QH11 Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.

44. Quốc hội (2010), số 64/2010/QH12 Luật tố tụng hành chính, Hà Nội.

45. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt

Nam, Hà Nội.

46. Quốc hội (2014), số: 62/2014/QH13 Tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.

47. Quốc hội (2014), số: 63/2014/QH13 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân

dân, Hà Nội.

103

48. Quốc hội (2015), Luật số 101/2015/QH13 Bộ luật tố tụng hình sự, Hà

Nội.

49. Quốc hội (2015), Luật số 92/2015/QH13 Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội.

50. Quốc hội (2015), Luật số 93/2015/QH13 Luật tố tụng hành chính, Hà

Nội.

51. Quốc hội (2015), Số: 104/2015/QH13 Nghị quyết về việc thi hành Luật

tố tụng hành chính, Hà Nội.

52. Lê Việt Sơn (2016), “Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong TTHC

theo luật TTHC năm 2015”, Tạp chí kiểm sát, số 05/2016.

53. Lê Phương Thanh (2015), Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong TTHC

ở nước ta hiện nay, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã

hội, Hà Nội.

54. Vũ Thư (2003), “Sự hình thành và phát triển của tư pháp hành chính ở

nước ta”, Nghiên cứu lập pháp, số 8, tr. 23.

55. Trường Đại học Luật Hà Nội (2000), Giáo trình lý luận về nhà nước và

pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

56. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật TTHC Việt Nam,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

57. Đào Trí Úc (2002), Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam

hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

58. Ủy ban thường vụ Quốc hội (1993), Pháp lệnh về Kiểm sát viên Viện

kiểm sát nhân dân, ban hành ngày 12/5/1993.

59. Ủy ban thường vụ Quốc hội (1996), số: không số Pháp lệnh thủ tục giải

quyết các vụ án hành chính, Hà Nội.

60. Ủy ban thường vụ Quốc hội (1998), số 10/1998/PL-UBTVQH10 Pháp

lệnh sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ

án hành chính, Hà Nội.

104

61. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2006), số 29/2006/PL-UBTVQH11 Pháp

lệnh sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ

án hành chính, Hà Nội.

62. Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao (2016), số:

03/2016/TTLT-VKSTC-TANDTC Thông tư liên tịch quy định việc phối

hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân trong việc thi hành

một số quy định của Luật tố tụng hành chính, Hà Nội.

63. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2016), số: 10/CT-VKSTC Chỉ thị về

tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các

vụ việc dân sự, vụ án hành chính, Hà Nội.

64. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2018), số: 04/CT-VKS Chỉ thị về tăng

cường các biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát

việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình,

kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của

pháp luật, Hà Nội.

65. Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi (2015), Báo cáo số 2212/BC-VKS Báo cáo

tổng kết công tác kiểm sát năm 2015 của Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi,

Quảng Ngãi.

66. Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi (2017), Báo cáo số 40/BC-VKS Báo cáo

tổng kết công tác kiểm sát năm 2017 của Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi,

Quảng Ngãi.

67. Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi (2017), Phụ lục báo cáo số lượng án và dự

kiến biên chế các đơn vị trực thuộc ban hành kèm theo Đề án kiện toàn tổ

chức bộ máy Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi 2018-2021, Quảng Ngãi.

68. Vụ 10 – Viện KSND Tối cao (2018), Phụ lục III ban hành kèm theo Dự

thảo báo cáo sơ kết 06 tháng đầu năm 2018 về việc thực hiện quy định

pháp luật

105