BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO …………/…………
BỘ NỘI VỤ ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN QUANG THIỆN THẨM QUYỀN CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
– TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO …………/…………
BỘ NỘI VỤ ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
NGUYỄN QUANG THIỆN THẨM QUYỀN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH – TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 60 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ THỊ HẢI NAM
THỪA THIÊN HUẾ - NĂM 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, số liệu và
kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và chưa được công bố trong
các công trình khác. Nếu không đúng như đã nêu trên, tôi xin hoàn toàn chịu
trách nhiệm về đề tài của mình.
Thừa Thiên Huế, ngày tháng 6 năm 2018
Người cam đoan
Nguyễn Quang Thiện
LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành đề tài Luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh, bên
cạnh sự nỗ lực cố gắng của bản thân còn có sự hướng dẫn nhiệt tình của quý
Thầy Cô, cũng như sự động viên ủng hộ của gia đình và bạn bè trong suốt thời
gian học tập nghiên cứu và thực hiện luận văn thạc sĩ.
Trước hết, xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến Cô TS. Lê Thị Hải
Nam người đã hết lòng giúp đỡ, dành nhiều thời gian, công sức và tạo mọi điều
kiện tốt nhất cho em trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu và hoàn thành
đề tài Luận văn thạc sĩ.
Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể quý thầy cô trong Trường
Học viện Hành chính quốc gia đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu
cũng như tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho em trong suốt quá trình học tập
nghiên cứu và cho đến khi thực hiện đề tài luận văn.
Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Quảng Ngãi, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tư Nghĩa đã không ngừng hỗ trợ
và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian nghiên cứu và thực
hiện luận văn.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn đến gia đình, các anh chị và các
bạn đồng nghiệp đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập, nghiên
cứu và thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ một cách hoàn chỉnh.
Thừa Thiên Huế, ngày tháng 6 năm 2018
Học viên thực hiện
Nguyễn Quang Thiện
MỤC LỤC
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các hình
Lời mở đầu ........................................................................................................ 1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ THẨM QUYỀN CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN
HÀNH CHÍNH .................................................................................................. 7
1.1. Khái quát chung về giải quyết vụ án hành chính ....................................... 7
1.1.1. Khái niệm vụ án hành chính ................................................................... 7
1.1.2. Khái niệm giải quyết vụ án hành chính ................................................ 12
1.2. Thẩm quyền Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trong giải quyết vụ án hành
chính. ............................................................................................................... 15
1.2.1. Khái niệm thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trong giải
quyết vụ án hành chính ................................................................................... 15
1.2.2. Nội dung thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trong giải
quyết vụ án hành chính ................................................................................... 17
1.3. Các yếu tố tác động đến thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
trong giải quyết vụ án hành chính. .................................................................. 24
1.3.1. Đường lối, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp........................... 24
1.3.2. Trình độ, năng lực của đội ngũ kiểm sát viên ....................................... 28
1.3.3. Ý thức pháp luật và việc chấp hành pháp luật của những người tiến hành
tố tụng, người tham gia tố tụng ....................................................................... 30
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 .................................................................................. 31
Chương 2 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN THẨM QUYỀN CỦA VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH
CHÍNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI .......................................... 32
2.1. Phân tích thực trạng thực hiện thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp
huyện trong giải quyết vụ án hành chính trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi ........ 32
2.1.1. Khái quát về Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi ................................................................................................................. 32
2.1.2. Thực trạng thực hiện thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
trong giải quyết vụ án hành chính trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi ................... 35
2.2. Phân tích thực trạng các yếu tố tác động đến việc thực hiện thẩm quyền
của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trong giải quyết vụ án hành chính trên
địa bàn tỉnh Quảng Ngãi ................................................................................. 54
2.2.1. Đường lối, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp........................... 54
2.2.2. Trình độ, năng lực của đội ngũ kiểm sát viên ....................................... 57
2.2.3. Ý thức pháp luật và việc chấp hành pháp luật của những người tiến hành
tố tụng, người tham gia tố tụng ....................................................................... 62
2.3. Đánh giá việc thực hiện thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
trong giải quyết vụ án hành chính ................................................................... 66
2.3.1. Kết quả đạt được và nguyên nhân ......................................................... 66
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân ....................................................................... 69
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 .................................................................................. 78
Chương 3 GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRONG GIẢI
QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH ................................................................... 79
3.1. Các giải pháp chung ................................................................................. 79
3.1.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ........................................................ 79
3.1.2. Nhóm giải pháp về thực hiện và hoàn thiện pháp luật .......................... 79
3.1.3. Nhóm giải pháp về công tác cán bộ ...................................................... 83
3.1.4. Nâng cao nhận thức của những người tiến hành tố tụng, người tham gia
tố tụng. ............................................................................................................. 87
3.1.5. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho Ngành kiểm sát ........................ 88
3.2. Giải pháp cụ thể cho tỉnh Quảng Ngãi ..................................................... 89
3.2.1. Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng .......................................... 89
3.2.2. Nâng cao trình độ năng lực của cán bộ, Kiểm sát viên......................... 90
3.2.3. Đổi mới công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật .............................. 93
3.2.4. Nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo điều hành công
tác kiểm sát giải quyết án hành chính ............................................................. 94
3.2.5. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc giải
quyết án hành chính ........................................................................................ 95
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 .................................................................................. 98
KẾT LUẬN CHUNG ...................................................................................... 99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 100
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ cái viết tắt Cụm từ đầy đủ
CQNN Cơ quan Nhà nước
KSND Kiểm sát nhân dân
KSV Kiểm sát viên
TAND Tòa án nhân dân
TTDS Tố tụng dân sự
TTHC Tố tụng hành chính
UBND Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Thống kê số vụ án hành chính ở cấp huyện từ năm 2015 -2017 ... 35
Bảng 2.2: Thống kê số lượng Yêu cầu, Kiến nghị, kháng nghị trong giải quyết
vụ án hành chính ở các Viện KDND cấp huyện năm 2015 ............................ 53
Bảng 2.3: Thống kê số lượng thụ lý và giải quyết đơn khởi kiện vụ án hành
chính tại các TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi ....................... 64
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.1: Số lượng thông báo Viện KSND cấp huyện kiểm sát ................... 38
Hình 2.2: Số vi phạm của Tòa án trong việc gửi thông báo .......................... 38
Hình 2.3: Thống kê số lượng bản án hành chính cấp huyện bị hủy, sửa ....... 45
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển của cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ, Bộ máy
Nhà nước và hệ thống pháp luật của nước ta cũng không ngừng phát triển và
ngày càng được hoàn thiện để đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng
trong mỗi giai đoạn cụ thể. Ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng
non trẻ, Viện Công tố (tiền thân của Viện KSND ngày nay) đã được thành lập
nằm trong hệ thống Toà án nhân dân với những chức năng, nhiệm vụ hết sức
quan trọng góp phần bảo vệ thành quả và chính quyền cách mạng. Từ đó, vai trò
cũng như thẩm quyền của Viện KSND trong các hoạt động tố tụng đã có nhiều
thay đổi lớn cùng với sự thay đổi của đất nước và đáp ứng đòi hỏi của xã hội.
Thẩm quyền của Viện KSND trong giải quyết các vụ án hành chính là
một chế định có từ sớm nhưng chưa thực sự đi vào cuộc sống khi đất nước còn
đang trong giai đoạn chiến tranh, lúc này nhiệm vụ trung tâm là giải quyết các
vụ án hình sự, cho nên các quy định của pháp luật về thẩm quyền của Viện
KSND trong giải quyết các vụ án hình sự trong giai đoạn này được quy định
chặt chẽ và đầy đủ hơn. Bước sang thời kỳ đổi mới, do đòi hỏi của thực tiễn
nên thẩm quyền của Viện KSND trong giải quyết các vụ án hành chính được
quan tâm hơn, là một nội dung rất quan trọng, một mắt xích trong công cuộc
cải cách tư pháp. Việc nghiên cứu quy định pháp luật và thực trạng thực hiện
thẩm quyền của Viện KSND trong việc giải quyết các vụ án hành chính có ý
nghĩa rất quan trọng, xét cả dưới góc độ lý luận và thực tiễn, bởi điều đó không
những góp phần vào việc xây dựng một hệ thống lý luận về hoạt động tư pháp
nói chung và tổ chức, hoạt động của Viện KSND nói riêng mà còn góp phần
vào việc xây dựng các văn bản pháp luật về Viện KSND, về TTHC cũng như
việc hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động nghiệp vụ của ngành kiểm sát. Trong khoa
học pháp lý hiện nay, những đề tài lý luận về thẩm quyền của Viện KSND trong
1
giải quyết các vụ án hành chính vẫn còn những quan điểm chưa thống nhất.
Bên cạnh đó, thực tiễn hoạt động kiểm sát đã gặp phải không ít những vướng
mắc, khó khăn khi áp dụng các quy định về thẩm quyền của Viện KSND trong
giải quyết các vụ án trong TTHC, ngay cả việc ban hành Luật TTHC năm 2015
cũng chưa giải quyết được triệt để. Luật TTHC năm 2015 đã có hiệu lực hơn
một năm với rất nhiều những thay đổi quan trọng về thẩm quyền của Viện
KSND nhưng những văn bản hướng dẫn thực hiện những quy định này vẫn
chưa đầy đủ, gây khó khăn trong quá trình điều chỉnh pháp luật và áp dụng
pháp luật. Do đó, nghiên cứu quy định pháp luật để góp phần hoàn thiện làm
tiền đề cho việc xây dựng các văn bản hướng dẫn một cách đầy đủ, toàn diện
và thống nhất là rất cần thiết.
Mặt khác, việc nghiên cứu thực tiễn giải quyết vụ án hành chính của các
Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi – nơi học viên đang công
tác để tìm ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân, đề xuất các giải pháp
nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Viện KSND cấp
huyện trong việc giải quyết vụ án hành chính, với mong muốn góp phần làm
tốt hơn công tác kiểm sát vụ án hành chính của Viện KSND cấp huyện trên địa
bàn mình công tác. Vì vậy, với các luận điểm đã nêu, học viên đã chọn vấn đề
“Thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trong việc giải quyết
vụ án hành chính – từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” làm đề tài thực hiện luận
văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong việc giải quyết các vụ án
hành chính là vấn đề không chỉ được ngành Kiểm sát mà còn được cả xã hội
quan tâm. Do yêu cầu và đòi hỏi khách quan nêu trên, đã có một số công trình
nghiên cứu, bài viết trên tạp chí chuyên ngành, sách chuyên khảo, chuyên đề
tổng kết rút kinh nghiệm của các ngành Kiểm sát, Tòa án…liên quan đến nội
2
dung thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong việc giải quyết các vụ án
hành chính.
Nhóm bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành trong đó có:
- “Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong TTHC theo luật TTHC năm
2015” tác giả Lê Việt Sơn - Tạp chí kiểm sát số 05/2016.
- “Những lưu ý khi kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án hành chính” - Tác giả
ThS. Lê Văn Hảo – Tạp chí kiểm sát số 13/2017.
Các luận văn, luận án, đề tài nghiên cứu khoa học, các sách chuyên khảo:
- “Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong TTHC – Qua thực tiễn thành
phố Hải Phòng” của ThS. Trần Thị Thu Hà – Khoa Luật Đại học quốc gia Hà
Nội, 2015.
- “Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong TTHC ở nước ta hiện nay” của
ThS. Lê Phương Thanh – Học viện khoa học xã hội, 2015.
- “Luật TTHC 2010 và thực tiễn giải quyết các vụ án hành chính” – Đề
tài nghiên cứu khoa học cấp Trường do TS. Trần Thị Hiền làm chủ nhiệm,
Trường đại học Luật Hà Nội, 2015.
Ở những khía cạnh nhất định, các công trình nghiên cứu trên đã giải
quyết những vấn đề khác nhau liên quan đến thẩm quyền của Viện KSND trong
việc giải quyết vụ án hành chính như các vấn đề lý luận chung về TTHC; chức
năng, nhiệm vụ của Viện KSND trong TTHC; các hạn chế bất cập của Luật
TTHC 2010 cũng như những khó khăn trong thực tiễn áp dụng pháp luật.... Đây
là những công trình nghiên cứu có giá trị, làm cơ sở để học viên thực hiện đề
tài nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, đến nay chưa có sự nghiên cứu một cách
có hệ thống về thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong việc giải quyết
các vụ án hành chính cấp huyện. Hơn nữa, cũng chưa có công trình nghiên cứu
nào khảo sát, đánh giá thực tiễn vấn đề này trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
3
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích:
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ thêm cơ sở lý luận, pháp
lý và thực tiễn thực hiện thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong việc giải
quyết các vụ án hành chính, những bất cập, khó khăn, vướng mắc để từ đó tìm
ra và đề xuất một số giải pháp góp phần bảo đảm thực hiện thẩm quyền của
Viện KSND cấp huyện trong việc giải quyết vụ án hành chính.
3.2. Nhiệm vụ:
Từ mục đích nêu trên, Luận văn tập trung phân tích, làm rõ và giải quyết
một số vấn đề:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thẩm quyền của Viện KSND cấp
huyện trong việc giải quyết các vụ án hành chính.
- Phân tích và đánh giá thực trạng các quy định pháp luật, thực tiễn thực
hiện, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm trong việc bảo đảm thực hiện thẩm
quyền của Viện KSND cấp huyện trong việc giải quyết các vụ án hành chính
trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
- Đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu
quả thực hiện thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong việc giải quyết các
vụ án hành chính trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu quy định của pháp luật về thẩm quyền của Viện
KSND cấp huyện trong việc giải quyết các vụ án hành chính và thực tiễn thi
hành các quy định pháp luật này trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Trong khuôn khổ của Luận văn, Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu
trong công tác kiểm sát án hành chính của Viện KSND cấp huyện và thực tiễn
4
ở một số địa phương trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Luận văn nghiên cứu, đánh
giá tổng quan về thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong việc giải quyết
các vụ án hành chính nói chung và thực tiễn giải quyết vụ án hành chính tại địa
bàn tỉnh Quảng Ngãi trong những năm gần đây (từ năm 2015 đến năm 2017).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận của luận văn
Dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin; các khoa học chuyên ngành
khác đặc biệt là khoa học về Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn áp dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh,
dự báo qua những tài liệu thứ cấp để làm sáng tỏ các vấn đề cần nghiên cứu
trong phạm vi đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn là công trình nghiên cứu chuyên sâu về thẩm quyền của Viện
KSND cấp huyện trong việc giải quyết các vụ án hành chính qua thực tiễn tại
các Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
- Việc phân tích thực trạng thực hiện thẩm quyền của Viện KSND cấp
huyện trong giải quyết các vụ án hành chính trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi chỉ ra
những tồn tại, nguyên nhân và đưa ra những giải pháp kiến nghị những vấn đề
có liên quan góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động kiểm sát việc giải
quyết vụ án hành chính của Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tư liệu tham khảo
phục vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy khoa học pháp lý nói chung và
đào tạo chức danh Tư pháp nói riêng. Nội dung của luận văn cũng có thể góp
phần xây dựng kỹ năng nghề nghiệp của Chuyên viên, Kiểm tra viên, KSV, kỹ
năng nghiên cứu hồ sơ, đặc biệt là đối với các KSV kiểm sát việc giải quyết vụ
5
án hành chính tại các Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi theo
Luật TTHC năm 2015.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận, pháp lý về thẩm quyền của Viện kiểm
sát nhân dân cấp huyện trong giải quyết vụ án hành chính
Chương 2: Thực trạng thực hiện thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân
cấp huyện trong giải quyết vụ án hành chính trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
Chương 3: Giải pháp bảo đảm thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân
cấp huyện trong giải quyết vụ án hành chính từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, PHÁP LÝ VỀ THẨM QUYỀN CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRONG GIẢI QUYẾT
VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
1.1. Khái quát chung về giải quyết vụ án hành chính
1.1.1. Khái niệm vụ án hành chính
Khi nói đến vụ án hành chính trước hết phải nói đến hoạt động quản lý
hành chính nhà nước (hoạt động hành chính nhà nước) vì đây là hoạt động chấp
hành và điều hành của nhà nước, của các chủ thể quản lý hành chính nhà nước
mà chủ yếu là các cơ quan hành chính nhà nước tác động chủ yếu bằng pháp
luật tới các đối tượng quản lý, để thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, nhằm
bảo đảm chấp hành Hiến pháp, Luật và các văn bản quy phạm pháp luật của
các CQNN cấp trên, tổ chức chỉ đạo mọi hoạt động của đời sống kinh tế, chính
trị, văn hoá - xã hội. Trong quá trình hoạt động chấp hành, điều hành, chủ thể
quản lý hành chính nhà nước có quyền nhân danh quyền lực nhà nước thực hiện
các hành vi hành chính hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật hay mệnh
lệnh cụ thể, buộc đối tượng bị quản lý có liên quan phải thực hiện.
Thông qua hoạt động ban hành các quyết định hành chính hoặc thực hiện
các hành vi hành chính, các chủ thể quản lý hành chính nhà nước vì các lý do
khác nhau, có thể gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ
quan, tổ chức (đối tượng quản lý) dẫn đến việc cá nhân, cơ quan, tổ chức khiếu
kiện yêu cầu chấm dứt, bồi thường thiệt hại, tạo nên sự tranh chấp hành chính
giữa nhà nước với công dân hoặc tổ chức. Và dù muốn hay không Nhà nước
phải thiết lập các cơ quan và ban hành các quy định pháp luật tạo cơ sở pháp lý
để xem xét và giải quyết những tranh chấp này.
7
Hoạt động giải quyết các tranh chấp hành chính là hoạt động gắn liền với
hoạt động quản lý hành chính nhà nước, nó xuất hiện như là một hiện tượng
lịch sử, gắn liền với quá trình hình thành, phát triển của Nhà nước và pháp luật.
Khi có hoạt động quản lý hành chính nhà nước thì sẽ có sự xem xét, phán quyết
về các hoạt động đó. Tùy thuộc vào truyền thống pháp luật của mỗi nước, quan
điểm chính trị - pháp lý của giai cấp cầm quyền, sự xem xét, phán quyết hoạt
động quản lý hành chính nhà nước được thực hiện bởi nhiều phương thức, do
các CQNN khác nhau thực hiện, trong đó có sự xem xét, phán quyết thông qua
hoạt động xét xử của Toà án.
Mục đích của giải quyết tranh chấp hành chính là bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức trước sự xâm phạm bởi các quyết định
hành chính, hành vi hành chính của các CQNN, người có thẩm quyền trong
CQNN trong khi thực hiện hoạt động quản lý hành chính, qua đó bảo đảm pháp
chế và kỷ luật trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước.
Hoạt động giải quyết tranh chấp hành chính do các cơ quan hành chính
nhà nước thực hiện còn được gọi là giải quyết khiếu nại hành chính. Chủ thể
giải quyết khiếu nại là các cơ quan hành chính nhà nước; đối tượng bị khiếu nại
là các quyết định hành chính, hành vi hành chính trái pháp luật thuộc phạm vi
quản lý hành chính xâm phạm tới quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể khiếu
nại; hoạt động giải quyết khiếu nại hành chính tuân theo trình tự, thủ tục do
pháp luật hành chính quy định hay còn gọi là thủ tục hành chính.
Ở Việt Nam, trước khi Tòa hành chính được thành lập thì vấn đề giải
quyết các tranh chấp phát sinh liên quan đến các quyết định hành chính, hành
vi hành chính của CQNN, người có thẩm quyền trong CQNN cũng đã được
quan tâm ở mức độ nhất định. Tuy nhiên do chịu ảnh hưởng của các nước xã
hội chủ nghĩa trước đây nên trong thời kỳ này các tranh chấp hành chính chủ
yếu được giải quyết thông qua thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính mà ít
8
được giải quyết theo thủ tục khởi kiện tại Tòa án. Bên cạnh đó, các văn bản luật
cũng chỉ thừa nhận các khiếu nại hành chính mà không thừa nhận khiếu kiện
hành chính phát sinh giữa công dân, cơ quan, tổ chức với các CQNN.
Từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, nhu cầu của thực tiễn đòi
hỏi nhu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam đã đặt ra vấn đề cần
phải có một cơ chế kiểm soát hữu hiệu hoạt động của CQNN, người có thẩm
quyền trong CQNN trong quá trình quản lý, điều hành xã hội, khắc phục những
biểu hiện cửa quyền, lạm quyền, lộng quyền hoặc trốn tránh trách nhiệm. Nội
dung chính là cơ chế kiểm tra, giám sát, giải quyết khiếu nại hành chính và thiết
lập hệ thống cơ quan tài phán hành chính độc lập để giải quyết các tranh chấp
hành chính bằng con đường tư pháp. Đáp ứng nhu cầu đó, các chuyên gia pháp
lý đã tập trung nghiên cứu và tiến hành khảo sát thực tế các mô hình tài phán
hành chính cũng như kinh nghiệm thực tiễn giải quyết khiếu kiện hành chính
trên thế giới, để đưa ra mô hình phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ VIII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII
ngày 23/01/1995 đã quyết định về việc thành lập Toà hành chính trong hệ thống
TAND. Ngày 28/10/1995, tại kỳ họp thứ VIII, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
tổ chức TAND, trong đó giao cho TAND chức năng xét xử các vụ án hành
chính (Điều 1 Luật tổ chức TAND năm 1995). Khái niệm “vụ án hành chính”
trở nên phổ biến trong học thuật từ đó đến nay.
Nếu trước ngày 01/7/1996, việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân, cơ quan, tổ chức bị tác động bởi các quyết định hành chính, hành
vi hành chính chỉ được thực hiện bằng con đường khiếu nại hành chính thì từ
ngày 01/7/1996, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính chính thức
có hiệu lực, kéo theo sự ra đời của Tòa hành chính, quyền khởi kiện vụ án hành
9
chính được ghi nhận, mở rộng hơn cơ chế pháp lý cá nhân, cơ quan, tổ chức
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Thực tế có nhiều khái niệm về vụ án hành chính. Trong từ điển Tiếng
Việt, vụ án được định nghĩa là “vụ là việc, sự việc không hay, rắc rối cần giải
quyết, án là tranh chấp quyền lợi cần được xét xử trước Tòa án”. Như vậy, về
mặt thuật ngữ, “vụ án” là việc phát sinh trên cơ sở tranh chấp về quyền lợi
thuộc nhiệm vụ xét xử của Tòa án.
Từ điển Luật học cũng đưa ra định nghĩa tương tự như vậy: “Vụ án hành
chính là vụ án phát sinh tại Tòa hành chính do cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi
kiện ra Tòa án yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình”.
Các khái niệm trên chủ yếu đã khái quát sơ lược về thế nào là vụ án hành
chính. Tuy nhiên, vẫn chưa mô tả đầy đủ và đúng với bản chất của vụ án hành
chính. Bởi nếu chỉ có hành vi khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức khi cho
rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình đang bị xâm phạm bởi các quyết định
hành chính, hành vi hành chính thì chưa đủ để phát sinh vụ án hành chính mà
cần phải có sự thụ lý đơn khởi kiện của Tòa án. Toà án chỉ thụ lý đơn khởi kiện
đó khi nó đáp ứng một số điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật.
Thứ nhất, có việc khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Như đã nói ở trên thì có nhiều phương thức giải quyết tranh chấp hành
chính như khiếu nại hoặc khởi kiện. Tuy nhiên, việc khiếu nại hành chính không
thể làm phát sinh vụ án hành chính mà vụ án hành chính phát sinh bằng con
đường khởi kiện Tòa án. Do đó điều kiện đầu tiên để làm phát sinh vụ án hành
chính, đó là việc khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Nếu không có hành
vi khởi kiện, sẽ không có vụ án hành chính.
Thứ hai, đơn khởi kiện được Tòa án thụ lý giải quyết.
Như vậy vụ án hành chính phát sinh khi có yêu cầu khởi kiện của cá
nhân, cơ quan, tổ chức tuy nhiên không phải tất cả các trường hợp khởi kiện
10
đều được Tòa án giải quyết. Đây là căn cứ đầu tiên để Tòa án xem xét thụ lý
đơn khởi kiện. Cụ thể, khi có đơn khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức Tòa
án sẽ xem xét các điều kiện để quyết định có thụ lý hay không thụ lý đơn khởi
kiện. Nếu thỏa mãn đầy đủ các điều kiện đó thì Tòa án sẽ thụ lý vụ án theo trình
tự tố tụng nhất định.
Như vậy, nếu nói hành vi khởi kiện của cá nhân, cơ quan, tổ chức chỉ là
điều kiện cần thì việc thụ lý của Tòa án là điều kiện đủ để phát sinh vụ án hành
chính. Khởi kiện là quyền tự định đoạt thuộc về cá nhân, tổ chức, cơ quan đối
với việc yêu cầu Tòa án phán quyết về quyết định hành chính, hành vi hành
chính mà theo họ là trái pháp luật, xâm hại trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp
của mình. Khởi kiện là một sự kiện làm phát sinh quan hệ giữa người khởi kiện
với Tòa án hành chính có thẩm quyền. Chức năng của Tòa án hành chính là xét
xử các vụ án hành chính để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi
kiện. Do đó, khởi kiện vụ án hành chính là tiền đề đối với hoạt động thụ lý của
Tòa án. Kể từ thời điểm Tòa án thụ lý đơn khởi kiện vụ án hành chính chính
thức phát sinh.
Vụ án hành chính có đặc điểm sau đây:
- Thứ nhất, đối tượng tranh chấp trực tiếp trong vụ án hành chính là tính
hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật
buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh, khiếu kiện danh sách cử tri. Quyền tài sản và quyền nhân thân không
phải là đối tượng tranh chấp trực tiếp của tranh chấp hành chính.
- Thứ hai, người bị kiện trong vụ án hành chính luôn là CQNN hoặc
người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước.
- Thứ ba, người khởi kiện luôn là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị tác động
bởi các khiếu kiện.
11
Tóm lại, theo quy định của pháp luật Việt Nam thì vụ án hành chính là
vụ án phát sinh khi cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện các quyết định
hành chính và hành vi hành chính tại Toà án khi có căn cứ cho rằng các quyết
định hành chính hoặc hành vi hành chính đó là trái pháp luật, xâm phạm đến
quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Việc khởi kiện này toà án thụ lý và tiến hành
giải quyết theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định.
1.1.2. Khái niệm giải quyết vụ án hành chính
Pháp luật đã quy định hai con đường để giải quyết các tranh chấp hành
chính là thông qua khiếu nại hành chính và thông qua khởi kiện tại Tòa án để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên cá nhân, tổ chức được cho là yếu thế
hơn khi không đồng ý với sự tác động của CQNN và người có thẩm quyền
trong CQNN.
Hoạt động giải quyết tranh chấp hành chính do Toà án thực hiện có tính
độc lập, được gọi là hoạt động giải quyết vụ án hành chính, đây là một trong
những đặc điểm dùng để phân biệt với hoạt động giải quyết khiếu nại hành
chính của các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện. Và để giải quyết các vụ
án hành chính kịp thời, đúng pháp luật thì các Toà án phải tiến hành giải quyết
theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Những trình tự, thủ tục này
được gọi là thủ tục TTHC.
Như vậy, giải quyết vụ án hành chính là hoạt động giải quyết tranh chấp
hành chính do Toà án thực hiện theo trình tự thủ tục tố tụng hành chính.
Hiện nay, trong các sách báo pháp lý có hai thuật ngữ được sử dụng để
chỉ hoạt động giải quyết vụ án hành chính tại toà án là “tài phán hành chính”
và “tư pháp hành chính”.
Quan niệm về tài phán hành chính là quan niệm hết sức phong phú nhưng
đôi khi chưa có sự đồng nhất. Sự không thống nhất trong quan niệm về tài phán
hành chính xuất phát từ sự khác nhau của những hệ thống pháp luật trên thế giới
12
như hệ thống luật châu Âu lục địa hay hệ thống luật Anh – Mỹ, các nước theo
giải pháp trung gian. Hiện nay, có ba quan điểm khác nhau về khái niệm này:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Tài phán hành chính theo nghĩa hiện
đại được hiểu là quyền phán xét, xử lý của cơ quan hành chính đối với các
tranh chấp cũng như các vi phạm trong quản lý nhà nước”[16, tr.101].
- Quan điểm thứ hai cho rằng tài phán hành chính là: “Xét xử các khiếu
kiện hành chính của dân đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính và
hoạt động tư vấn”[17, tr.101].
- Quan điểm thứ ba cho rằng tài phán hành chính là:
+ Hoạt động xem xét và giải quyết các khiếu nại hành chính của các
CQNN có thẩm quyền;
+ Hoạt động xét xử các tranh chấp hành chính do TAND thực hiện;
+ Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính của các cơ quan, cán bộ có
thẩm quyền. [55, tr.104].
Nhìn chung, hầu hết các công trình nghiên cứu trên các sách báo pháp lý
nước ta đều nghiên cứu tài phán hành chính với nội dung là hoạt động giải quyết
các tranh chấp hành chính phát sinh giữa nhà nước (mà đại diện là các cơ quan,
nhân viên nhà nước) và các tổ chức, cá nhân trong xã hội chỉ do các Tòa án
thực hiện theo trình tự tố tụng được pháp luật quy định [56, tr.104].
“Tư pháp hành chính” là thuật ngữ dùng để chỉ hoạt động xét xử các
tranh chấp hành chính bởi hệ thống Toà án hành chính.
Theo cách phân tích ngữ nghĩa thì tư pháp hành chính được hình thành
từ hai khái niệm "tư pháp" và "hành chính".
Nói đến tư pháp hành chính là nói đến lĩnh vực xét xử các tranh chấp
giữa các CQNN với cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quan hệ pháp luật hành
chính, được thực hiện bởi Toà án theo thủ tục tư pháp [54, tr.104].
13
Tóm lại, các khái niệm tài phán hành chính, tư pháp hành chính xét ở
một góc độ nào đó đều được hiểu là hoạt động giải quyết các tranh chấp hành
chính giữa công dân với CQNN được thực hiện bởi Toà án theo thủ tục tư pháp
nhất định. Trong quá trình nghiên cứu, tôi đề cập tới hai khái niệm này nhằm
qua đó làm rõ hơn khái niệm giải quyết vụ án hành chính đã nêu trên.
Giải quyết vụ án hành chính có đặc điểm cơ bản sau:
Một là, giải quyết vụ án hành chính là giải quyết một loại tranh chấp đặc
biệt trong đó một bên là CQNN, chủ yếu là cơ quan hành chính nhà nước, người
có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước (bên bị kiện) và một bên là
cá nhân, cơ quan, tổ chức (bên khởi kiện), trong đó, người khởi kiện yếu thế
hơn so với người bị kiện, vì người bị kiện là người có thẩm quyền ra các quyết
định hành chính hoặc thực hiện các hành vi hành chính. Còn người khởi kiện
là người phục tùng, chấp hành quyết định hành chính hoặc chịu ảnh hưởng bởi
các hành vi hành chính. Chính vì đặc điểm này nên các tranh chấp khác (dân
sự, kinh tế, lao động, hôn nhân, gia đình) được điều chỉnh trong một văn bản
pháp luật là Bộ luật TTDS còn các tranh chấp về hành chính được điều chỉnh
riêng trong một văn bản pháp luật là Luật TTHC.
Hai là, hoạt động giải quyết các vụ án hành chính được tiến hành theo
Luật TTHC tại cơ quan xét xử, tức tại Tòa án có thẩm quyền. Đây là đặc điểm
rất quan trọng để phân biệt với việc giải quyết các khiếu nại hành chính. Giải
quyết vụ án hành chính và giải quyết khiếu nại hành chính đều có chung mục
đích là giải quyết các tranh chấp hành chính và đối tượng chủ yếu là các quyết
định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước. Điểm
khác nhau cơ bản giữa hai hoạt động này là: Nếu khiếu nại và giải quyết khiếu
nại hành chính được tiến hành tại các cơ quan hành chính nhà nước và theo các
thủ tục được quy định tại Luật khiếu nại và các văn bản pháp luật có liên quan,
14
thì việc giải quyết các vụ án hành chính được tiến hành tại Tòa án theo các thủ
tục tố tụng được quy định tại Luật TTHC.
1.2. Thẩm quyền Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trong giải quyết
vụ án hành chính.
1.2.1. Khái niệm thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
trong giải quyết vụ án hành chính
Hiện nay, trong các sách báo về khoa học pháp lý có nhiều khái niệm khác
nhau về thẩm quyền như: “Thẩm quyền là quyền xem xét để kết luận và định
đoạt một vấn đề theo pháp luật” - từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học xuất
bản năm 2003, hay trong từ điển Tiếng Việt của Trung tâm từ điển học xuất bản
năm 1998 thì “Thẩm quyền là tổng thể những quyền, nghĩa vụ mang tính quyền
lực – pháp lý do pháp luật quy định”. Nhìn chung thì các khái niệm trên đều
thống nhất cho rằng thẩm quyền được hiểu là tổng hợp các quyền của các cơ
quan, cá nhân, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy nhà nước do pháp luật quy định
Từ các khái niệm như trên, theo tôi thẩm quyền của một cơ quan bao
gồm yếu tố quyền và yếu tố nghĩa vụ. Trong thẩm quyền thì yếu tố quyền quyết
định tính chất quyền lực của cơ quan đó, nghĩa là khi thực hiện các quyền, cơ
quan này nhân danh nhà nước, đại diện cho quyền lực nhà nước. Cơ quan đó
có quyền, đồng thời có nghĩa vụ phải xem xét, giải quyết vụ việc nhất định hoặc
một vấn đề nào đó. Vậy, có thể hiểu thẩm quyền là tổng thể những quyền, nghĩa
vụ mang tính quyền lực pháp lý do pháp luật quy định.
Trong khi thực hiện thẩm quyền thì quyền phán quyết bằng việc ra các
quyết định pháp luật là yếu tố quan trọng nhất. Trên cơ sở quy định của pháp
luật, các cơ quan có thẩm quyền ra những quyết định pháp luật buộc đối tượng
phải tuân thủ. Ngoài ra, mỗi cơ quan có hình thức, phương pháp hoạt động
riêng theo quy định của pháp luật, vì thế hình thức và phương pháp hoạt động
15
của cơ quan có thẩm quyền cũng là những yếu tố quan trọng đối với thẩm quyền
của cơ quan đó.
Yếu tố nghĩa vụ trong thẩm quyền được hiểu như là trách nhiệm, bổn
phận của CQNN trong việc thực hiện quyền hạn của mình và không được vượt
qua khuôn khổ quyền hạn do pháp luật quy định. Yếu tố nghĩa vụ trong thẩm
quyền là một phương tiện để thực hiện yếu tố quyền tốt hơn, tránh hiện tượng
lạm dụng quyền lực, hiện tượng không sử dụng hết quyền của mình gây khó
khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ, hoặc không hoàn thành nhiệm vụ chức
năng của CQNN.
Như vậy, có thể thấy rằng yếu tố quyền và nghĩa vụ trong thẩm quyền có
mối quan hệ khăng khít và bổ sung cho nhau, tạo thành một tổng thể thống nhất
trong cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước của các CQNN. Các CQNN chỉ
hành động trong khuôn khổ thẩm quyền của mình.
Khái niệm “thẩm quyền trong giải quyết vụ án hành chính” là khái niệm
được dùng để chỉ thẩm quyền của các chủ thể tiến hành tố tụng khi tham gia
giải quyết vụ án hành chính. Thẩm quyền của các chủ thể này có giới hạn về
không gian, về thời gian đối với đối tượng nhất định. Giới hạn về không gian
là xem xét thẩm quyền theo khía cạnh quyền lực nhà nước trao cho cơ quan,
người có thẩm quyền được áp dụng trên lãnh thổ nhất định theo địa giới hành
chính. Giới hạn về thời gian của thẩm quyền được xác định bởi thời điểm bắt
đầu và kết thúc việc giải quyết vụ án hành chính. Thẩm quyền về thời gian hay
không gian đều luôn được xác định cụ thể. Hiến pháp và các văn bản luật về tổ
chức các CQNN hầu như không sử dụng thuật ngữ thẩm quyền, mà phổ biến là
thuật ngữ nhiệm vụ và quyền hạn. Thuật ngữ thẩm quyền thường được sử dụng
trong các văn bản có tính chất chuyên ngành, ví dụ: trong Luật TTHC năm 2015
tại Chương 2 quy định về thẩm quyền của Tòa án… Thông thường thuật ngữ
16
thẩm quyền được sử dụng khi cần để xác định những vấn đề, vụ việc thuộc
quyền quyết định, giải quyết của một chủ thể nhất định.
Tóm lại, từ các khái niệm về “thẩm quyền” và “thẩm quyền trong giải
quyết vụ án hành chính” như đã phân tích ở trên thì khái niệm “thẩm quyền của
Viện KSND cấp huyện trong giải quyết vụ án hành chính” là nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm của Viện KSND cấp huyện nhân danh nhà nước thực hiện trong
việc giải quyết vụ án hành chính nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích công
cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; bảo đảm bản án, quyết
định của Tòa án khi giải quyết vụ án hành chính có căn cứ và đúng pháp luật.
1.2.2. Nội dung thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện
trong giải quyết vụ án hành chính
1.2.2.1. Phạm vi thực hiện thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp
huyện trong giải quyết vụ án hành chính
Trước hết khi phân tích về phạm vi thực hiện thẩm quyền của Viện KSND
cấp huyện trong giải quyết vụ án hành chính thì cần phải làm rõ vai trò cũng như
nhiệm vụ của Viện KSND cấp huyện trong việc giải quyết vụ án hành chính.
Cụ thể, để giải quyết vụ án hành chính, pháp luật quy định thẩm quyền
cho một số cơ quan hay cá nhân có quyền tiến hành những hoạt động mang tính
quyền lực nhà nước nhằm thẩm tra, xem xét và giải quyết khách quan, đúng pháp
luật vụ án hành chính. Những hoạt động này được tiến hành bởi những chủ thể
nhất định, đó là những cơ quan, cũng như những cá nhân người tiến hành tố tụng
được xác định là những chủ thể độc lập trong quan hệ TTHC.
Trong hoạt động, các chủ thể được nhân danh Nhà nước thực hiện quyền
và nghĩa vụ tố tụng để giải quyết vụ án hành chính cụ thể theo đúng quy định
của pháp luật tố tụng. Các chủ thể được áp dụng các biện pháp cần thiết theo
quy định của pháp luật để giải quyết các vụ án hành chính. Các chủ thể này bao
gồm cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.
17
Khoản 1 Điều 36 Luật TTHC năm 2015 quy định Viện KSND là cơ quan
tiến hành TTHC cùng với TAND. Như vậy, Luật TTHC năm 2015 vẫn tiếp tục
kế thừa quy định trước đây của Luật TTHC năm 2010. Việc giữ nguyên quy
định này là hợp lý bởi lẽ trong TTHC, Viện KSND nhân danh quyền lực Nhà
nước thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, cụ thể là kiểm sát tính
hợp pháp về các quyết định và hành vi của người tiến hành tố tụng và hành vi
của người tham gia tố tụng, bảo đảm mọi vi phạm pháp luật trong TTHC phải
được phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh giúp cho việc giải quyết vụ án
hành chính được đúng đắn và khách quan.
Như vậy, với vai trò là cơ quan tố tụng trong việc giải quyết vụ án hành
chính, Viện KSND cấp huyện có nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật
nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hành chính kịp thời, đúng pháp luật.
Đây là vai trò được xác định từ đầu khi ngành kiểm sát mới được thành lập, cụ
thể đã từng được xác định trong Tờ trình Quốc hội về Luật tổ chức Viện KSND
năm 1960: “…phải tổ chức ra Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát việc tuân
theo pháp luật nhằm giữ vững pháp chế Xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho pháp
luật được thi hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.
Theo đó, với vai trò và nhiệm vụ như trên thì phạm vi thực hiện thẩm
quyền Viện KSND cấp huyện trong việc giải quyết các vụ án hành chính bắt
đầu ngay từ khi thụ lý đến khi kết thúc việc giải quyết vụ án; tham gia phiên
tòa, phiên họp của Tòa án, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong công tác thi
hành án, quyết định của Tòa án: Thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng
nghị theo quy định của pháp luật.
Viện KSND cấp huyện thực hiện thẩm quyền kiểm sát vụ án hành chính
bằng quyền kháng nghị các bản án, quyết định của Tòa án khi giải quyết vụ án
hành chính mà chưa có hiệu lực pháp luật theo thủ tục phúc thẩm.
18
Khi thực hiện thẩm quyền của mình, Viện KSND cấp huyện có quyền ra
quyết định, kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu và chịu trách nhiệm trước pháp luật
về các văn bản đó. Các văn bản trên có hiệu lực bắt buộc đối với các cơ quan,
tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan.
Theo quy định của Luật TTHC năm 2015, Viện KSND cấp huyện có
thẩm quyền sau:
- Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện. Luật TTHC năm 2015 đã sửa đổi,
bổ sung quy định tại các Điều 109 và 110 Luật TTHC năm 2010 nhằm bảo đảm
để Viện KSND cấp huyện thực hiện tốt quyền này như: Đơn khởi kiện và tài
liệu, chứng cứ mà Thẩm phán trả lại cho người khởi kiện phải được sao lại và
lưu tại Tòa án để làm cơ sở giải quyết khiếu nại, kiến nghị khi có yêu cầu (Điều
123 Luật TTHC năm 2015); phiên họp xem xét giải quyết khiếu nại, kiến nghị
có sự tham gia của đại diện Viện KSND cùng cấp và đương sự có khiếu nại.
Trường hợp người khởi kiện, KSV vắng mặt thì Thẩm phán vẫn tiến hành phiên
họp (Điều 124 Luật TTHC năm 2015).
- Kiểm sát việc thụ lý, giải quyết vụ án hành chính của Tòa án cùng cấp
(Điều 43 Luật TTHC năm 2015, Điều 27 Luật tổ chức Viện KSND năm 2014)
- Nghiên cứu hồ sơ vụ án; yêu cầu Tòa án cùng cấp xác minh, thu thập tài
liệu, chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án hoặc có thể xác minh, thu thập tài
liệu, chứng cứ để bảo đảm cho việc kháng nghị (Điều 84 Luật TTHC năm 2015).
- Tham gia phiên tòa, phiên họp, phát biểu ý kiến của Viện KSND về việc
tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án hành chính ở các thủ tục sơ thẩm
theo quy định của Luật TTHC (Điều 25, 156, 190, 200 Luật TTHC năm 2015).
- Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cùng cấp; kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm các bản án, quyết định giải quyết vụ án hành chính của
Tòa án theo quy định của Luật TTHC (Điều 43, 211 Luật TTHC năm 2015).
19
- Yêu cầu, kiến nghị Tòa án thực hiện hoạt động tố tụng theo quy định
của Luật TTHC; kiến nghị với Tòa án khắc phục những vi phạm pháp luật trong
việc giải quyết vụ án hành chính; kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có nghĩa
vụ thi hành án hành chính và cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp của cơ quan,
tổ chức phải chấp hành bản án, quyết định của Tòa án; kiến nghị với Tòa án về
việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời; kiến nghị với Tòa
án về quyết định đưa vụ án ra giải quyết theo thủ tục rút gọn (Điều 27 Luật tổ
chức Viện KSND năm 2014; Điều 42, 43, 76, 248, 315 Luật TTHC năm 2015).
- Kiểm sát hoạt động tố tụng của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến
nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng
vi phạm pháp luật (Điều 43 Luật TTHC năm 2015).
Như vậy, trong phạm vi thẩm quyền của mình, Viện KSND cấp huyện
với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện quyền kiểm sát các hoạt động
tư pháp nhằm bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo tính trong sạch của
hoạt động quản lý hành chính, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
khỏi bị xâm hại bởi các quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính trái
pháp luật từ phía chính quyền.
1.2.2.2. Các khiếu kiện thuộc thẩm quyền kiểm sát của Viện kiểm sát
nhân dân cấp huyện trong giải quyết vụ án hành chính
Viện KSND với vai trò kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải
quyết vụ án hành chính, có thẩm quyền kiểm sát các vụ án hành chính từ khi
thụ lý đến khi kết thúc việc giải quyết vụ án. Vì vậy, các khiếu kiện hành chính
thuộc thẩm quyền kiểm sát của Viện KSND cấp huyện sẽ luôn gắn chặt với
thẩm quyền của TAND cùng cấp. Cụ thể Điều 31 Luật TTHC 2015 quy định
Thẩm quyền của Tòa án cấp huyện như sau:
“Tòa án cấp huyện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện sau:
20
1. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan
hành chính nhà nước từ cấp huyện trở xuống trên cùng phạm vi địa giới hành
chính với Tòa án hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà
nước đó, trừ quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyện,
Chủ tịch UBND cấp huyện.
2. Khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc của người đứng đầu cơ
quan, tổ chức từ cấp huyện trở xuống trên cùng phạm vi địa giới hành chính với
Tòa án đối với công chức thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức đó.
3. Khiếu kiện danh sách cử tri của cơ quan lập danh sách cử tri trên
cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa án.”
Như vậy, theo quy định trên thì cơ sở xác định các khiếu kiện thẩm quyền
kiểm sát của Viện KSND cấp huyện trong việc giải quyết vụ án hành chính
luôn gắn với thẩm quyền của Tòa án cùng cấp và các quyết định, hành vi hành
chính của chính quyền cùng cấp. Bao gồm:
Thứ nhất: Quyết định hành chính, là văn bản do cơ quan hành chính nhà
nước, cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước ban
hành hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành quyết định
về vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối
với một hoặc một số đối tượng cụ thể (Khoản 1 Điều 3 Luật TTHC năm 2015).
Theo quy định của pháp luật, chủ thể ban hành quyết định hành chính rất
rộng, không chỉ bao gồm các cơ quan hành chính nhà nước, mà còn các cơ
quan, cá nhân khác như TAND, Viện KSND, Kiểm toán Nhà nước, Văn phòng
Quốc Hội, Văn phòng Chủ tịch nước; những người có chức vụ trong tổ chức
chính trị - xã hội, đơn vị sự nghiệp công lập... Tuy nhiên, đối với các quyết định
hành chính, hành vi hành chính mang tính chất nội bộ của từng cơ quan, tổ chức
để quản lý, điều hành chỉ đạo hoạt động của các cơ quan, tổ chức này thì không
phải là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.
21
Như vậy, thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong việc tham gia
giải quyết các vụ án hành chính, các khiếu kiện liên quan đến quyết định hành
chính là những quyết định hành chính từ cấp huyện trở xuống trên cùng phạm
vi địa giới hành chính với Tòa án hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan
hành chính nhà nước đó, trừ quyết định hành chính, hành vi hành chính của
UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện.
Thứ hai: Hành vi hành chính, là hành vi của cơ quan hành chính nhà
nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc
cơ quan, tổ chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước thực hiện
hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật (Khoản 3
Điều 3 Luật TTHC năm 2015).
Theo khái niệm này, thì có hai yếu tố cấu thành nên khái niệm hành vi
hành chính, bao gồm:
Một là, chủ thể thực hiện hành vi:có thể là cơ quan hành chính nhà nước,
hoặc có thể là người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước.
Hai là, hình thức biểu hiện hành vi: hành vi hành chính được biểu hiện
trong quá trình thực hiện công vụ, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật, có thể
dưới dạng hành động hoặc không hành động.
Ví dụ: Một người giao nhiệm vụ thi hành quyết định hành chính của
người có thẩm quyền về việc cắm mốc một lô đất để làm sổ cho người dân.
Nhưng khi thực hiện nhiệm vụ, người này cắm sai vị trí, ảnh hưởng đến người
dân thì lúc này hành vi hành chính sai trái đó là hành vi hành động.
Ví dụ: Hành vi hành chính là việc không thực hiện công vụ theo quy định
của pháp luật như: Một cơ quan hoặc một người theo quy định của pháp luật
sau khi nhận đủ hồ sơ về việc xin cấp các loại giấy tờ nhưng nại nhiều lý do để
từ chối dẫn đến bị khởi kiện thì đó là kiện hành vi hành chính không hành động.
22
So với các quy định của Luật TTHC năm 2010, Điều 31 và Điều 32 Luật
TTHC năm 2015 có những sửa đổi, bổ sung cơ bản để phân định rõ thẩm quyền
giải quyết các vụ án hành chính giữa cấp huyện với cấp tỉnh. Đó là, đối với
quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyện, Chủ tịch
UBND cấp huyện thì thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm thuộc về Tòa
án cấp tỉnh chứ không còn thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện như quy
định của Luật TTHC năm 2010. Quy định này có ý nghĩa trong việc thúc đẩy
dân chủ, công khai, minh bạch nền hành chính; tạo điều kiện để Thẩm phán
thực hiện tốt nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Việc thay đổi về
thẩm quyền giải quyết này xuất phát từ những lý do sau:
- Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định tăng thẩm quyền xét xử của cấp
huyện, nhưng cần phải có lộ trình thực hiện và phải bảo đảm hiệu quả, chất
lượng giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp huyện nhằm bảo
vệ tốt nhất quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp năm 2013.
- Thực tiễn xét xử các vụ án hành chính cho thấy, đa số các khiếu kiện
đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyện, Chủ
tịch UBND cấp huyện liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai, có
tính chất phức tạp và việc giải quyết có liên quan đến người bị kiện là người có
chức vụ, quyền hạn, nên cần Thẩm phán có kiến thức chuyên sâu, có kinh
nghiệm và bản lĩnh thì việc giải quyết vụ án mới đạt hiệu quả cao. Việc giải
quyết các khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính ở cấp huyện
hiện nay chưa bảo đảm chất lượng; tỷ lệ án bị hủy, sửa cao.
- Việc giao cho Tòa án cấp tỉnh giải quyết khiếu kiện quyết định hành
chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện sẽ
khắc phục tình trạng e ngại, nể nang của Thẩm phán trong việc xét xử; nếu có
kháng cáo, kháng nghị thì sẽ do TAND cấp cao giải quyết theo thủ tục phúc thẩm,
23
giám đốc thẩm, nên tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong xét xử của các
Thẩm phán sẽ cao hơn, bảo đảm việc giải quyết khách quan, hiệu quả hơn.
Thứ ba: Quyết định kỷ luật buộc thôi việc, là quyết định bằng văn bản
của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng hình thức kỷ luật buộc thôi
việc đối với công chức thuộc quyền quản lý của mình.
Theo khái niệm này, thì quyết định kỷ luật buộc thôi việc có các đặc
điểm là văn bản thể hiện dưới dạng hình thức là quyết định, do người đứng đầu
cơ quan, tổ chức quản lý ban hành.
Trong các hình thức kỷ luật thì chỉ có hình thức kỷ luật buộc thôi việc
được quyền khởi kiện vụ án hành chính là vì:
- Mức độ nghiêm trọng của vụ việc.
- Các hình thức khác như khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương...là các
hình thức mang tính chất nội bộ.
- Do phương thức quản lý hành chính là quyền uy - phục tùng.
Ngoài ra, chỉ khiếu kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức là vì
cán bộ được bầu không có hình thức kỷ luật buộc thôi việc, viên chức do làm việc
theo hình thức hợp đồng nên được quyền khởi kiện nhưng kiện theo TTDS.
Thứ tư: Khiếu kiện danh sách cử tri, đối với loại khiếu kiện này người
khởi kiện chỉ được quyền khiếu kiện khi không có tên hoặc ghi tên sai chứ
không được khởi kiện về quy trình bầu cử và tư cách ứng cử viên. Do mức độ
quan trọng của danh sách cử tri nên đối với loại khiếu kiện này cần phải giải
quyết nhanh chóng để đảm bảo tính chính xác khi bầu cử, Luật TTHC năm
2015 đã quy định riêng một chương để điều chỉnh loại khiếu kiện này.
1.3. Các yếu tố tác động đến thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân
cấp huyện trong giải quyết vụ án hành chính.
1.3.1. Đường lối, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng, vai trò lãnh đạo của
Ðảng Cộng sản Việt Nam là một tất yếu của lịch sử, là nhân tố quyết định, bảo
24
đảm cho sự phát triển của sự nghiệp cách mạng nước ta. Bảo đảm sự lãnh đạo
của Ðảng là vấn đề có tính nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
Nhà nước ta nói chung và Viện KSND cấp huyện nói riêng.
Dưới sự lãnh đạo của Ðảng, hơn 50 năm qua, Viện KSND cấp huyện cùng
các cơ quan tư pháp đã không ngừng phấn đấu, trưởng thành, vượt qua nhiều
khó khăn, thử thách để hoàn thành nhiệm vụ của mình, góp phần không nhỏ vào
thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cũng như của sự
nghiệp đổi mới toàn diện đất nước. Trong từng thời kỳ, Ðảng đã đề ra các nhiệm
vụ chính trị cho ngành kiểm sát nhân dân, được thể hiện trong Nghị quyết các kỳ
Ðại hội Ðảng, Nghị quyết các Hội nghị Trung ương Ðảng; các chỉ thị, nghị quyết
của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác lãnh đạo nói chung của Ðảng.
Trong những năm đầu thành lập ngành, Ðảng ta còn ban hành những
nghị quyết chuyên sâu về công tác của các cơ quan tư pháp nói chung và Viện
KSND cấp huyện nói riêng, cụ thể như: Thông tri số 13-TT/TW ngày
12/12/1960 của Ban Chấp hành Trung ương về tăng cường lãnh đạo công tác
kiểm sát; Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 01/12/1963 của Bộ Chính trị về công
tác kiểm sát. Hằng năm, định kỳ hoặc bất thường, Ðảng đoàn Viện KSND tối
cao đều có báo cáo công tác với Ban Bí thư và xin chỉ đạo về đường lối công
tác. Thông qua các hình thức trên, Ðảng đã lãnh đạo toàn diện và sâu sát các
mặt công tác của ngành kiểm sát; qua đó, bảo đảm hoạt động của ngành kiểm
sát trong các thời kỳ luôn quán triệt đầy đủ, đúng đắn đường lối của Ðảng, phục
vụ tốt các nhiệm vụ chính trị.
Trong giai đoạn cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn cấp bách. Nhiều chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách tư pháp được
thể chế trong Hiến pháp, pháp luật và được triển khai đạt kết quả. Tổ chức bộ
25
máy TAND, Viện KSND, cơ quan bổ trợ tư pháp tiếp tục được kiện toàn; chất
lượng hoạt động của các cơ quan này có thay đổi theo chiều hướng tốt hơn.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa mà nội dung cốt lõi chính là sự quản lý nhà nước và xã
hội bằng pháp luật, từ đó đòi hỏi sự tuân theo pháp luật triệt để của các CQNN,
các tổ chức và công dân. Nhà nước ban hành pháp luật, tổ chức, quản lý xã hội
bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, tăng
cường các cơ chế giám sát: “Viện KSND có chức năng thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp như hiện nay...” [9, tr.100].
Nhìn lại quá trình phát triển của công tác kiểm sát cho thấy đã có sự
chuyển biến quan trọng trong việc nhận thức lại về chức năng của Viện KSND
nói chung và Viện KSND cấp huyện nói riêng. Điều này thể hiện rõ nét từ chủ
trương, đường lối của Đảng cụ thể là, Hội nghị Trung ương 8 khoá VII với yêu
cầu đặt ra là Viện KSND cần làm tốt 3 chức năng: Kiểm sát chung, thực hành
quyền công tố và kiểm sát tư pháp; Hội nghị Trung ương 3 khoá VIII yêu cầu
nâng cao chất lượng hoạt động của Viện kiểm sát theo cả 3 chức năng quy định
trong Hiến pháp, nhưng tập trung làm tốt chức năng thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tư pháp. Sau đó, tại Đại hội Đảng lần IX, Nghị quyết số
08 của Bộ Chính trị khẳng định Viện KSND chỉ thực hiện tốt hai chức năng:
Thực hành quyền công tố và kiểm sát tư pháp. Báo cáo chính trị của Ban chấp
hành Trung ương Đảng Khóa X trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI yêu
cầu cần phải “bảo đảm tốt hơn các điều kiện để Viện KSND thực hiện hiệu quả
chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”. Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tiếp tục xác
định: Viện KSND là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp.
26
Kế thừa quan điểm của các kỳ Đại hội trước, Đại hội XII đã nhấn mạnh
tầm quan trọng của Chiến lược cải cách tư pháp và đề ra những biện pháp mạnh
mẽ nhằm bảo đảm về cơ sở chính trị cho hoạt động cải cách tư pháp cụ thể:
Đối với Viện KSND, khẳng định vị trí pháp lý của Viện KSND trong bộ
máy nhà nước với vai trò kép: Vừa là cơ quan thực hành quyền công tố vừa là
cơ quan giữ quyền kiểm sát hoạt động tư pháp. “Viện KSND thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.”[15, tr.101]. Do đó, ảnh hưởng không
ít đến tổ chức Viện KSND cấp huyện, cần tiếp tục kiện toàn nhằm phù hợp với
hệ thống tổ chức của Toà án cùng cấp để thực hiện tốt hơn chức năng công tố
và kiểm sát tư pháp đã được Hiến pháp ghi nhận. Bên cạnh đó, đòi hỏi các cán
bộ, công chức, KSV, kiểm tra viên phải tích cực, chủ động phát huy đầy đủ vai
trò, trách nhiệm khi tham gia vào hoạt động kiểm sát. Kéo theo đó là tăng quyền
và trách nhiệm cho KSV để họ chủ động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính
độc lập và chịu trách nhiệm về các hành vi và quyết định tố tụng của mình.
Còn về thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện thì ngày 02/6/2005, Bộ
Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020, trong đó một trong các nhiệm vụ được xác định đó là: “...mở
rộng thẩm quyền xét xử của Toà án đối với các khiếu kiện hành chính; đổi mới
mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại Toà án; tạo điều kiện
thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân
và cơ quan công quyền trước Toà án...”. Đặc biệt, quá trình xây dựng, hoàn
thiện Luật TTHC luôn bám sát các chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng
về cải cách tư pháp. Theo những quan điểm chỉ đạo này thì hoạt động kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong TTHC vẫn được xác định là một nguyên tắc trong
TTHC. Viện KSND cấp huyện kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm đảm bảo
việc giải quyết vụ án hành chính kịp thời, đúng pháp luật. Theo đó, Viện KSND
cấp huyện là cơ quan tiến hành tố tụng có nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát giải
27
quyết vụ án hành chính từ khi Tòa án cùng cấp nhận đơn khởi kiện tới khi kết
thúc việc giải quyết vụ án. Để hoàn thiện, nâng cao thẩm quyền của Viện KSND
cấp huyện thì rất cần sự lãnh đạo của Đảng. Khi Đảng lãnh đạo có chủ trương,
nghị quyết cụ thể nhằm hoàn thiện, nâng cao thẩm quyền của Viện KSND cấp
huyện trong tố tụng nói chung, TTHC nói riêng thì đó là tiền đề cơ sở để thẩm
quyền của Viện KSND cấp huyện được xác lập theo quy định của pháp luật.
Trong hệ thống cơ quan kiểm sát thì Viện KSND cấp huyện là cơ quan
đóng vai trò quan trọng, phần lớn các hoạt động TTHC của Toà án cần phải
kiểm sát là hoạt động tố tụng do Toà án thực hiện. Nếu thực hiện tốt được khâu
kiểm sát TTHC tại cấp cơ sở này thì sẽ hạn chế được khối lượng công việc phát
sinh ở Viện KSND cấp trên. Vì vậy, đường lối cải cách tư pháp hành chính với
định hướng nâng cao hiệu quả kiểm sát hoạt động tư pháp hành chính là yếu tố
tạo thêm sức mạnh, động lực và quyết tâm của ngành trong việc tăng cường
công tác kiểm sát án hành chính của Viện KSND.
Sự lãnh đạo của Đảng đã tạo ra sự chuyển biến thật sự về chất trong tổ
chức và hoạt động của Viện KSND, nâng cao vị trí, vai trò của Viện KSND cấp
huyện trong hệ thống chính trị để xứng đáng là một trong các "cơ quan trọng
yếu của chính quyền" có vai trò "thực hiện chế độ pháp trị, giữ vững và bảo vệ
quyền lợi của nhân dân, bảo vệ chế độ dân chủ", như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
từng nói.
1.3.2. Trình độ, năng lực của đội ngũ kiểm sát viên
Trong mọi lĩnh vực, công tác cán bộ luôn giữ vai trò then chốt, là yếu tố
có ý nghĩa quyết định đến mức độ hoàn thành chất lượng, hiệu quả công việc.
Công tác kiểm sát nói chung và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc
giải quyết vụ án hành chính nói riêng cũng không nằm ngoài quy luật đó. Nhìn
chung, trong những năm qua, công tác cán bộ của ngành kiểm sát đã có nhiều
28
chuyển biến tích cực, làm thay đổi đáng kể đến chất lượng, hiệu quả công tác
cũng như vị thế của ngành trong khối các cơ quan tư pháp.
Việc nghiên cứu cho thấy kiểm sát án hành chính là một lĩnh vực khá phức
tạp và nhạy cảm, liên quan trực tiếp đến quyền lợi của dân. Vì vậy, trình độ, năng
lực của KSV là hết sức quan trọng, bởi vì KSV được Viện trưởng Viện kiểm sát
cùng cấp phân công có nhiệm vụ tham gia phiên tòa, sau khi những người tham
gia tố tụng tranh luận và đối đáp xong, KSV phát biểu ý kiến về việc tuân theo
pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa và của
người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến
trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết
vụ án. Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, KSV phải gửi văn bản phát biểu ý kiến
cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án. Do vậy, trình độ, năng lực của KSV là yếu
tố có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng kiểm sát án hành chính. Mặt khác,
nếu các Viện KSND cấp huyện không coi trọng nhiệm vụ công tác kiểm sát hành
chính, không có sự đầu tư cán bộ bảo đảm năng lực và phẩm chất để thực hiện
nhiệm vụ công tác này, bố trí cán bộ mới vào ngành, ít kinh nghiệm hoặc bố trí
cán bộ năng lực hạn chế để làm công tác kiểm sát hành chính thì chất lượng công
tác kiểm sát không thể đạt yêu cầu.
Tuy nhiên, trên thực tế đội ngũ KSV đang từng bước đáp ứng nhu cầu về
số lượng, đạt chuẩn về bằng cấp, văn bằng, chứng chỉ. Đa số cán bộ, KSV không
ngừng nỗ lực học hỏi, rèn luyện, phấn đấu, vươn lên trong công tác, hoàn thành
xuất sắc nhiệm vụ, đáp ứng yêu của ngành cũng như yêu cầu cải cách tư pháp
mà Đảng, Nhà nước đề ra. Mặc dù vậy, xét một cách toàn diện, đội ngũ cán bộ,
KSV ngành kiểm sát nhất là cấp huyện vẫn còn những hạn chế nhất định, đặc
biệt là trong hoạt động kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính ở cấp huyện.
29
1.3.3. Ý thức pháp luật và việc chấp hành pháp luật của những người
tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
Trong hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp thì hoạt động tư pháp là
một trong những hoạt động đòi hỏi ý thức pháp luật cao của người thực thi quyền
lực cũng như của đối tượng bị áp dụng. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, không
phải tất cả các cơ quan, cá nhân hay người dân đều có được sự hiểu biết đầy đủ
về các quy định của pháp luật cũng như có thái độ thượng tôn pháp luật đối với
các quy định của nhà nước, nên trong quá trình thực hiện pháp luật còn có những
hạn chế khiến cho hiệu quả giải quyết vụ án hành chính đạt được là không cao.
Thực tế cho thấy, một trong những nguyên nhân dẫn đến hành vi vi phạm
pháp luật là trình độ hiểu biết pháp luật, ý thức pháp luật, sự tôn trọng pháp luật
của một bộ phận nhân dân. Bên cạnh đó, thời bao cấp với tư duy nhà nước lo cho
tất cả đã không tạo ra lối nghĩ về việc dân có thể kiện lại chính quyền, người dân
vẫn còn tâm lý xa lạ với việc “dân kiện quan”. Những thói quen, nếp nghĩ đó của
công dân và cơ quan công quyền đã hạn chế số lượng người dân yêu cầu tòa
hành chính bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Hai là, một số cán bộ, công chức kể cả cán bộ trong ngành tư pháp còn có
những nể nang trong quá trình thụ lý, xử lý vụ hành chính, ý thức tuân thủ pháp
luật chưa cao, thậm chí chưa thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật dẫn
đến quá trình thụ lý, giải quyết các vụ án hành chính chưa đúng với quy định
pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khởi kiện.
30
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Trong Chương 1, Luận văn đã tập trung phân tích, luận giải một số vấn
đề lý luận về thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong việc giải quyết vụ
án hành chính như khái niệm, các yếu tố ảnh hưởng đến thẩm quyền tham gia
giải quyết vụ án hành chính của Viện KSND cấp huyện. Trong Chương này,
Luận văn đã phân tích làm quá trình hình thành và phát triển các quy định của
pháp luật Việt Nam về việc thực hiện thẩm quyền của Viện KSND trong giải
quyết vụ án hành chính. Từ đó có thể thấy rằng, mặc dù ở các giai đoạn khác
nhau, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước có
nhiều chuyển biến, kéo theo quy định trách nhiệm, quyền hạn của Viện KSND
cấp huyện trong việc giải quyết vụ án hành chính có nhiều thay đổi, song việc
bảo đảm thực hiện thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính của Viện KSND
cấp huyện là yêu cầu khách quan, gắn liền với chức năng và quá trình hình
thành và phát triển của Viện KSND. Kết quả nghiên cứu này sẽ giúp cho ta có
một cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn khi nghiên cứu pháp luật hiện hành về
thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong việc giải quyết vụ án hành chính.
Với những nội dung được trình bày trong Chương 1 sẽ là cơ sở, tiền đề
cho việc phân tích, đánh giá pháp luật hiện hành từ thực tiễn áp dụng pháp luật
về việc thực hiện thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong giải quyết vụ
án hành chính trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
31
Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN THẨM QUYỀN CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRONG GIẢI QUYẾT VỤ ÁN HÀNH
CHÍNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NGÃI
2.1. Phân tích thực trạng thực hiện thẩm quyền của Viện kiểm sát
nhân dân cấp huyện trong giải quyết vụ án hành chính trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi
2.1.1. Khái quát về Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi
Tỉnh Quảng Ngãi là một tỉnh ven biển miền Trung, nằm trong vùng kinh
tế trọng điểm miền Nam Trung bộ. Tỉnh Quảng Ngãi có quá trình hình thành
và phát triển tương đối biến động, từ năm 1976 đến năm 1989 tỉnh Quảng Ngãi
và tỉnh Bình Định được sáp nhập với nhau hình thành tỉnh Nghĩa Bình [6,
tr.100]. Lúc này, cơ cấu tổ chức bộ máy Viện KSND cấp huyện, thị trên địa
bàn tỉnh Nghĩa Bình là 08 đơn vị. Đến ngày 01/7/1989, tỉnh Quảng Ngãi được
tái lập trên cơ sở tách tỉnh Nghĩa Bình thành hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định
như cũ [7, tr.100]. Cùng lúc đó, ngày 04/7/1989 Viện KSND tối cao có quyết
định số 83/QĐ thành lập Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi. Lúc này, đội ngũ cán
bộ kiểm sát có khoảng hơn 100 người với trình độ cao đẳng và đại học, số lượng
cán bộ được đào tạo chuyên môn từ các trường Cao đẳng kiểm sát và Đại học
luật chiếm 16,8%. Số lượng Viện KSND cấp huyện có 11 đơn vị gồm: Thị xã
Quảng Ngãi và 10 huyện: Ba Tơ, Bình Sơn, Đức Phổ, Minh Long, Mộ Đức,
Nghĩa Hành, Sơn Hà, Sơn Tịnh, Trà Bồng, Tư Nghĩa.
Với chức năng, nhiệm vụ của Viện KSND cấp huyện là thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong phạm vi địa phương mình nên số
lượng Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi thay đổi tùy thuộc
32
vào sự tăng giảm số lượng các huyện trên địa bàn. Cụ thể ngày 01/01/1993,
huyện đảo Lý Sơn được thành lập. Năm 1994, tiếp tục thành lập huyện Sơn Tây
trên cơ sở tách ra từ huyện Sơn Hà [10, tr.101]. Ngày 01/12/2003, thành lập
huyện Tây Trà trên cơ sở tách ra từ huyện Trà Bồng [11, tr.101]. Ngày
26/8/2005, thị xã Quảng Ngãi được nâng lên thành phố Quảng Ngãi [12, tr.101].
Như vậy, sau quá trình hình thành và phát triển, tính đến nay toàn tỉnh Quảng
Ngãi có 14 Viện KSND cấp huyện tương ứng với hệ thống chính quyền địa
phương cấp huyện trong tỉnh. Được sự quan tâm của các cấp các ngành, của
Viện KSND tối cao, sự đồng tình ủng hộ của nhân dân và cố gắng nỗ lực của
toàn ngành, qua gần 30 năm xây dựng, đội ngũ công chức của ngành kiểm sát
đã phát triển cả về chất và lượng, hệ thống tổ chức Viện KSND cấp huyện ngày
càng được kiện toàn và củng cố. Cơ cấu tổ chức của các Viện KSND cấp huyện
được thực hiện theo quy định tại Điều 48 Luật tổ chức Viện KSND năm 2014,
mỗi Viện KSND cấp huyện gồm có 03 bộ phận công tác: Bộ phận thực hành
quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử và kiểm sát việc tạm giữ, tạm
giam; bộ phận kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình,
hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật,
kiểm sát thi hành án và bộ phận Văn phòng tổng hợp, thống kê và khiếu tố.
Do là một tỉnh đang trong giai đoạn phát triển nên nhìn chung đời sống
người dân còn nhiều khó khăn, sự hiểu biết về pháp luật còn hạn chế, ý thức chấp
hành pháp luật của người dân chưa cao. Từ đó dẫn đến việc xảy ra các tranh
chấp, khiếu kiện một phần là do người dân thiếu hiểu biết pháp luật. Mặt khác,
do ảnh hưởng bởi mặt trái của cơ chế thị trường, vấn đề đô thị hóa, cơ sở hạ tầng
phát triển mạnh kéo theo giá cả đất đai biến động, nhu cầu người dân trong việc
làm ăn buôn bán ngày một tăng, dẫn đến các tranh chấp phát sinh ngày càng
nhiều. Ngoài ra, còn nhiều nguyên nhân khác dẫn tới tình trạng số lượng các vụ
việc khiếu kiện, tranh chấp về hành chính ngày một tăng.
33
Các tranh chấp khiếu kiện nổi lên trong những năm gần đây đa phần về
lĩnh vực đất đai. Trong đó, tập trung chủ yếu tranh chấp về quyền sử dụng đất,
các khiếu kiện về quyết định hành chính, hành vi hành chính của UBND. Có
nhiều nguyên nhân làm nảy sinh tranh chấp về đất đai đó là do kinh tế phát
triển, nhu cầu về nhà ở, đất ở ngày càng tăng lên, trong khi đó đất ngày càng có
giá trị hơn. Bên cạnh đó, do nhận thức pháp luật của người dân còn nhiều hạn
chế, dẫn đến việc giao kết các hợp đồng liên quan đến đất đai chưa đúng với
với các quy định của pháp luật. Mặt khác, do CQNN có thẩm quyền khi thực
hiện các thủ tục liên quan quyền sử dụng đất chưa thực hiện tốt các quy định
dẫn đến sai sót trong việc xác định diện tích cũng như nguồn gốc đất nên dẫn
đến tranh chấp là điều khó tránh khỏi, cùng với đó là việc giải quyết của chính
quyền địa phương về quyền sử dụng đất đối với một số các trường hợp còn
chưa thấu đáo, chưa khách quan nên đã có những tác động và làm gia tăng việc
tranh chấp quyền sử dụng đất và khiếu kiện về vấn đề này.
Việc giải quyết các tranh chấp của Toà án gặp nhiều khó khăn, bởi nhận
thức pháp luật của các bên đương sự khi tham gia tố tụng giải quyết vụ kiện
còn nhiều hạn chế làm cho công tác triệu tập, xác minh, thu thập chứng cứ, hoà
giải, đối thoại, xét xử để giải quyết dứt điểm vụ án mất nhiều thời gian, dẫn đến
một số vụ án còn kéo dài. Do vậy, khối lượng công việc mà các Viện KSND
cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi phải thực hiện việc kiểm sát là rất lớn
và cũng có những khó khăn bất cập.
Trung bình hàng năm Viện KSND cấp huyện phải giải quyết khoảng 17-
25 vụ án hành chính nhưng không phải tất cả các vụ án đều mới mà vẫn còn tồn
đọng hàng năm 1-2 vụ án, cụ thể được thể hiện qua bảng thống kê sau:
34
Bảng 2.1: Thống kê số vụ án hành chính ở cấp huyện từ năm 2015 -2017
STT Năm Tổng Số cũ Số mới Số giải Còn lại
số chuyển thụ lý quyết
sang
2015 25 10 15 24 01 1
2016 21 01 20 20 01 2
2017 17 01 16 15 01 3
Nguồn: [24, 25, 26, tr.102]
Nhìn vào bảng thống kê trên chúng ta thấy số vụ án hành chính ở cấp
huyện đã giải quyết có sự giảm dần theo các năm vì lý do theo quy định của pháp
luật thì từ ngày 01/7/2016 các quyết định hành chính, hành vi hành chính của
UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp huyện sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án cấp tỉnh, đây là một điểm mới và khắc phục được vướng mắc mà
Luật TTHC năm 2010 đã gặp. Bởi việc Tòa án cấp huyện xét xử các quyết định
hành chính, hành vi hành chính của UBND cấp huyện trong lĩnh vực quản lý
Nhà nước về đất đai là khó khả thi trên thực tế, vì vụ án sẽ do một Thẩm phán
cụ thể thụ lý, xét xử, nếu tuyên hủy quyết định hành chính của Chủ tịch UBND
cấp là cả một vấn đề rất khó khăn, do bị tác động vào quan hệ địa phương và
việc thi hành án cũng rất khó và người dân cũng nghi ngờ vào các phán quyết
của Tòa án. Vì vậy, việc chuyển cho Tòa án cấp tỉnh thụ lý, giải quyết những
quyết định hành chính do UBND cấp huyện ban hành và Tòa án cấp huyện chỉ
nên thụ lý, giải quyết những quyết định hành chính, hành vi hành chính do các
phòng, ban của của cơ quan hành chính cấp huyện là phù hợp.
2.1.2. Thực trạng thực hiện thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân
cấp huyện trong giải quyết vụ án hành chính trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
2.1.2.1. Về kiểm sát việc thụ lý và trả lại đơn khởi kiện vụ án hành chính
Giải quyết vụ án hành chính là quá trình tiến hành tố tụng của cơ quan
tiến hành tố tụng. Thụ lý vụ án hành chính là một trong các bước của quá trình
35
tiến hành tố tụng, được xác định bằng hành vi ghi vào sổ thụ lý vụ án và thông
báo bằng văn bản cho đương sự biết Tòa án đã thụ lý vụ án.
Nếu như khởi kiện là quyền của cá nhân, cơ quan, tổ chức khi thấy quyền,
lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm thì thụ lý vụ án thể hiện là quyền và
nghĩa vụ của Tòa án. Việc khởi kiện vụ án hành chính của các chủ thể được pháp
luật ghi nhận và bảo vệ bằng việc Tòa án thụ lý vụ án hành chính để giải quyết
sau khi xem các điều kiện thụ lý vụ án hành chính. Thụ lý vụ án hành chính là
hoạt động đầu tiên của Tòa án trong quá trình tố tụng, làm phát sinh các hoạt
động TTHC tiếp theo. Việc thụ lý vụ án hành chính có ý nghĩa rất quan trọng,
thể hiện ở chỗ: Thời điểm thụ lý vụ án hành chính là thời điểm tính các thời hạn
tố tụng; bảo đảm việc bảo vệ kịp thời các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ
thể. Trong giai đoạn này Viện KSND thực hiện thẩm quyền của mình nhằm bảo
đảm việc thụ lý được thực hiện đúng theo các quy định của pháp luật.
Trước đây, số lượng thụ lý vụ án hành chính của Tòa án phản ánh ở Sổ
thụ lý vì vậy hoạt động kiểm sát việc thụ lý ít được chú ý. Kể từ khi Luật TTHC
năm 2015 có hiệu lực thi hành thì quy định trách nhiệm của Tòa án phải gửi
thông báo thụ lý cho Viện KSND trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ thụ lý
vụ án (Khoản 1 Điều 126 Luật TTHC năm 2015). Ngoài ra, nếu vụ án hành
chính đã được thụ lý và thông báo cho Viện KSND nhưng sau đó lại được
chuyển cho Tòa án khác có thẩm quyền giải quyết, thì Tòa án đã thụ lý phải gửi
ngay quyết định chuyển hồ sơ vụ án hành chính cho Viện KSND cùng cấp
(khoản 1 Điều 114 , khoản 1 Điều 34 Luật TTHC năm 2015).
Trong giai đoạn thụ lý vụ án, khi tiến hành xem xét việc khởi kiện, nếu
Tòa án nhận thấy đơn khởi kiện không đáp ứng đủ các điều kiện để thụ lý vụ
án thì sẽ tiến hành trả lại đơn khởi kiện. Vì vậy, để kiểm sát chặt chẽ việc trả
lại đơn khởi kiện của Tòa án thì tại khoản 5 Điều 43 Luật TTHC năm 2015 và
tại Khoản 1 Điều 27 Luật tổ chức Viện KSND năm 2014 thì Viện KSND được
36
giao nhiệm vụ kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án trong đó có việc thụ lý
và trả lại đơn khởi kiện của Tòa án. Và Điều 124 của Luật TTHC năm 2015
quy định rõ: “Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được văn bản trả lại
đơn khởi kiện, người khởi kiện có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến
nghị với Tòa án đã trả lại đơn khởi kiện”.
Việc thụ lý hay trả lại đơn kiện trong công tác giải quyết vụ án rất quan
trọng. Do vậy, Viện kiểm sát ngay từ đầu phải xem xét tính hợp pháp trong việc
thụ lý, trả lại đơn khởi kiện của Toà án cả về các điều kiện để thụ lý giải quyết,
căn cứ trả lại đơn khởi kiện, thời hạn và nội dung thông báo làm cơ sở cho việc
kiểm sát vụ án sau này.
Thực hiện các quy định trên, các Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi đã phân công KSV theo dõi, kiểm sát ngay từ đầu việc thụ lý hoặc
trả lại đơn khởi kiện của Tòa án; áp dụng phương pháp “lập phiếu kiểm sát”
thông báo thụ lý của Tòa án. Qua kiểm sát việc thụ lý, trả lại đơn khởi kiện đã
phát hiện được nhiều vi phạm về nội dung và về thủ tục tố tụng trong quá trình
thụ lý vụ án của Tòa án. Hoạt động kiểm sát việc thụ lý của Viện KSND cấp
huyện trên địa tỉnh Quảng Ngãi được thể hiện thông qua kết quả số liệu sau:
37
35
30
25
Tổng số thông báo
20
Vi phạm về thời hạn gửi
Vi phạm khác
15
10
5
0
Năm 2015
Năm 2016
Năm 2017
Hình 2.1: Số lượng thông báo Viện KSND cấp huyện kiểm sát
[Nguồn 24, 25, 26. Tr.102]
4
3.5
Tổng số thông báo vi phạm
3
Số thông báo vi phạm thời hạn gửi
2.5
2
Số kiến nghị vi phạm thời hạn gửi thông báo
1.5
1
0.5
0
Năm 2015
Năm 2016
Năm 2017
[Nguồn 24, 25, 26. Tr.102]
Hình 2.2: Số vi phạm của Tòa án trong việc gửi thông báo
Từ số liệu nêu trên cho thấy 3 năm gần đây 2015 – 2017 số vụ việc để
xảy ra vi phạm trong việc thụ lý vụ án của Tòa án chiếm tỷ lệ thấp, khoảng
38
7.3% trên tổng số vụ việc, các vi phạm về nội dung vẫn còn xảy ra và đã được
Tòa án khắc phục, tuy nhiên vi phạm thời gian gửi thông báo vẫn tái diễn chưa
được Tòa án khắc phục, chiếm tỷ lệ lớn trong số các vi phạm của Tòa án -
chiếm 75% tổng số vi phạm. Viện KSND cấp huyện đã chú trọng việc thực
hiện kiến nghị đối với vi phạm này, số kiến nghị Viện KSND ban hành chiếm
66,67% số vi phạm phát hiện được. Tuy nhiên, vấn đề này cũng mới chỉ dừng
ở mức độ kiến nghị mà chưa có giải pháp hữu hiệu để Tòa án khắc phục triệt
để tình trạng này. Điều đó có ảnh hưởng đến việc phát hiện vi phạm và khắc
phục vi phạm trong công tác thụ lý và trả lại đơn khởi kiện của Tòa án.
Qua thực tiễn thực hiện hoạt động kiểm sát việc thụ lý của Viện KSND
cho thấy Viện KSND cấp huyện đã làm tốt công tác kiểm sát việc thụ lý vụ án
nên đã góp phần đảm bảo cho quá trình thụ lý giải quyết hầu hết các vụ án của
Tòa án được chính xác ngay từ đầu; tạo sự chủ động và là tiền đề cho KSV
nhanh chóng nắm bắt nội dung, vấn đề cơ bản của vụ án; đồng thời chủ động
phòng ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất các sai sót xảy ra ngay từ thời điểm bắt
đầu các hoạt động TTHC, tránh được tình trạng các thủ tục tố tụng kéo dài,
không cần thiết.
Ngoài những ưu điểm đã mang lại, thực tiễn thực hiện công tác này còn
có một số khó khăn, bất cập giữa pháp luật và thực tiễn đó là Luật TTHC quy
định KSV có nhiệm vụ kiểm sát việc thụ lý và trả lại đơn khởi kiện nhưng không
quy định khi Tòa án thụ lý hoặc trả lại đơn phải sao gửi cho Viện kiểm sát đơn
khởi kiện và tài liệu kèm theo, vì vậy hoạt động kiểm sát còn mang tính hình
thức, chất lượng và hiệu quả chưa cao. Thông tư liên tịch số 03/2016/TTLT-
VKSNDTC-TANDTC có quy định Tòa án phải gửi hồ sơ khi có yêu cầu của
Viện kiểm sát nên Viện kiểm sát có quyền rút hồ sơ, tài liệu để kiểm sát. Tuy
nhiên, thời hạn để kiến nghị của Viện kiểm sát chỉ có 07 ngày kể từ ngày nhận
được thông báo trả lại đơn khởi kiện nên rất khó khăn, bởi vì trên thực tế không
39
phải Viện kiểm sát có yêu cầu là có thể rút được hồ sơ ngay, việc tra tìm nghiên
cứu áp dụng pháp luật điều chỉnh tranh chấp trong lĩnh vực hành chính rất rộng
nên thời gian (07 ngày) là trở ngại trong việc thực hiện nhiệm vụ này.
2.1.2.2. Việc tham gia phiên tòa giải quyết vụ án hành chính
Trong TTHC, sự có mặt của những người tiến hành tố tụng nói chung và
của KSV nói riêng tại các phiên tòa có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình giải
quyết vụ án hành chính. Thứ nhất, sự có mặt của KSV tại các phiên tòa đảm
bảo đúng thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật TTHC tránh vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng dẫn đến trường hợp bản án bị hủy để xét xử lại.
Thứ hai, sự có mặt của KSV giúp cho Viện KSND thực hiện chức năng kiểm
sát việc tuân thủ theo pháp luật trong hoạt động TTHC tại các phiên tòa, qua
đó phát hiện ra các sai sót trong hoạt động tố tụng, kịp thời đưa ra các quyết
định kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, thủ tục đặc biệt giúp việc giải quyết
vụ án được đúng đắn và khách quan, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
các đương sự trong vụ án. Thứ ba, với sự có mặt của KSV góp phần nâng cao
tinh thần, trách nhiệm của Hội đồng xét xử trong hoạt động xét xử, là một trong
những cơ sở giải quyết vụ án được đúng đắn và triệt để tranh chấp giữa các bên
đương sự trong vụ án.
Viện KSND tham gia tố tụng với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong quá trình giải quyết vụ án hành chính và được quy định tại Điều 25
Luật TTHC năm 2015. Đây được xem là một trong những nguyên tắc cơ bản
của hoạt động TTHC. Như vậy, qua quy định trên thì tại các phiên tòa xét xử
sơ thẩm về việc giải quyết các vụ án hành chính phải có sự tham gia của KSV.
Nội dung cơ bản của nguyên tắc này đã được Luật TTHC quy định chi tiết tại
các chương liên quan. Về sự có mặt của KSV tại phiên tòa cấp sơ thẩm được
quy định tại Điều 156 Luật TTHC năm 2015.
40
Việc thông báo KSV tham gia phiên toà, phiên họp được thực hiện như
sau: Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản thông báo
của Tòa án cấp sơ thẩm về việc thụ lý vụ án, Viện trưởng Viện KSND phân công
KSV tham gia phiên toà (Khoản 4 Điều 128 Luật TTHC năm 2015). Trường hợp
vụ án phức tạp, phiên toà có thể phải kéo dài nhiều ngày và xét thấy cần thiết thì
Viện trưởng Viện KSND có thể phân công KSV dự khuyết.
Việc cụ thể hóa hoạt động tham gia phiên tòa đã được Viện KSND tỉnh
hướng dẫn cụ thể bằng những nội dung chi tiết như: Thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của KSV trước và tại phiên tòa sơ thẩm [27, tr.102].
- Để chuẩn bị tham gia phiên tòa, trong giai đoạn này KSV đã đảm bảo
thực hiện các công việc như:
+ Chủ động yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu
tham gia phiên tòa sơ thẩm là quy định bắt buộc của pháp luật hiện hành (khoản
2 Điều 146 và Điều 147 Luật TTHC năm 2015). Theo luật quy định thì việc
chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát là nghĩa vụ của Tòa án, tuy nhiên thực tiễn tại
các Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi thì việc KSV đã chủ
động yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ theo quy định và bước đầu đã đem lại nhiều
hiệu quả như: Tránh tình trạng Tòa án chuyển hồ sơ sang chậm, đảm bảo việc
nắm nội dung vụ án, kịp thời tiếp cận trực tiếp đối với các tài liệu chứng cứ có
trong vụ án, KSV đã kịp thời nghiên cứu để chuẩn bị tham gia phiên tòa. Thực
hiện nội dung này trên thực tế đòi hỏi phải có sự phối hợp trong công tác giữa
Viện kiểm sát và Tòa án nhưng trong một số trường hợp việc yêu cầu chuyển hồ
sơ của Viện kiểm sát đã không được Tòa án đáp ứng vẫn còn.
+ Xây dựng báo cáo hồ sơ kiểm sát bao gồm: Tóm tắt lời khai, trình bày
của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người tham gia
tố tụng khác (nếu có) về nội dung quan hệ pháp luật tranh chấp. Xem xét quá
trình tố tụng giải quyết vụ án hành chính từ khi thụ lý vụ án đến khi có quyết
41
định đưa vụ án ra xét xử (việc chấp hành pháp luật về trình tự, thủ tục tố tụng);
nắm vững nội dung, các tình tiết, và chứng cứ của vụ án, điều khoản của Luật
TTHC và các văn bản pháp luật khác được dự kiến áp dụng để giải quyết vụ án;
đề xuất quan điểm giải quyết vụ án. Báo cáo hồ sơ kiểm sát giải quyết vụ án hành
chính ở các Viện KSND cấp huyện sẽ được toàn thể công chức của Viện KSND
thông qua bằng hình thức họp báo cáo án, hình thức này đã đem lại nhiều kết quả
tích cực như: Thông qua số đông sẽ dễ dàng phát hiện những thiếu sót mà KSV
được phân công chưa phát hiện được, làm rõ những điểm KSV còn phân vân,
đưa ra hướng giải quyết vụ án có tính chính xác cao hơn… Tuy nhiên, có một số
vụ án có tình tiết đơn giản nhưng vẫn phải tổ chức họp báo cáo án nên gây lãng
phí thời gian và không thiết thực.
+ Dự kiến tình huống và kiểm sát giải quyết tình huống tại phiên tòa sơ
thẩm; xây dựng kế hoạch tham gia hỏi, KSV đã nắm chắc quy định về nguyên
tắc hỏi tại phiên tòa, được hỏi cả về tố tụng và nội dung và cuối cùng là chuẩn
bị nội dung phát biểu của KSV tại phiên tòa; dự kiến bài phát biểu tại phiên tòa.
Qua thực tiễn tiến hành các bước trên thì nhận thấy các tình huống bất ngờ tại
phiên tòa khó xảy ra hơn, KSV xử lý tình huống nhanh nhạy hơn, chất lượng
câu hỏi của KSV được nâng cao… Bên cạnh đó, một thực tế cho thấy khi Luật
TTHC năm 2015 có hiệu lực, nhận thức tại phiên tòa sơ thẩm KSV chỉ phát
biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng tại phiên tòa, không quan tâm đến việc chấp hành pháp luật tố
tụng của Thẩm phán kể từ khi thụ lý, dẫn đến tình trạng không nghiên cứu sâu
nội dung vụ án, nên dự thảo bài phát biểu không đề cập được toàn bộ nội dung
vụ án, căn cứ pháp luật liên quan để giải quyết vụ án. Đây cũng là một bất cấp
hiện nay cần phải khắc phục.
- Tại phiên tòa, KSV đã cơ bản thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ quyền hạn
theo quy định của pháp luật hiện hành như:
42
+ KSV đã kiểm sát việc chấp hành thủ tục tố tụng của Hội đồng xét xử,
của Thư ký Tòa án và những người tham gia tố tụng từ khi bắt đầu cho đến khi
kết thúc phiên tòa. Thậm chí có lúc, có khi tại phiên tòa, khi phát hiện vi phạm,
sai sót thì KSV xin phép Hội đồng xét xử yêu cầu Hội đồng xét xử khắc phục
kịp thời vi phạm, thiếu sót. Điển hình như tại Viện KSND huyện Đức Phổ [23,
tr.102], Chủ tọa phiên tòa trong khi điều khiển phiên toà đã có sự nhầm lẫn
trong việc điều khiển thứ tự trình bày của đương sự, KSV đã có ý kiến và Chủ
tọa phiên tòa đã khắc phục. Một điểm hạn chế còn tồn tại ở các Viện KSND
cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi là KSV chỉ mới chú trọng phát biểu ý
kiến về kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tiến hành tố tụng và
hầu như bỏ qua việc chấp hành pháp luật tố tụng của những người tham gia tố
tụng, điển hình nhiều phiên tòa các đương sự làm mất trật tự, không tuân theo
sự điều khiển của Chủ tọa hoặc thậm chí gây rối nhưng KSV không yêu cầu
Chủ tọa nhắc nhở khắc phục dẫn đến phiên tòa không đảm bảo sự tôn nghiêm.
+ Tham gia hỏi tại phiên tòa để góp phần làm sáng tỏ sự thật của vụ án.
Để tránh tình trạng đặt câu hỏi không trọng tâm, các KSV cấp huyện đã xác
định trường hợp cần thiết phải hỏi là khi phát hiện những tình tiết, nội dung
liên quan đến việc giải quyết vụ án nhưng người tham gia tố tụng trình bày, trả
lời chưa rõ. Tại phiên tòa, người tham gia tố tụng nêu ra tình tiết, chứng cứ mới
hoặc lời khai tại phiên tòa mâu thuẫn hoặc phủ nhận lời khai trong hồ sơ nhưng
Hội đồng xét xử không yêu cầu giải thích lý do thì KSV phải hỏi để làm rõ.
Mặt khác, qua việc hỏi nếu thấy chứng cứ, tình tiết mới được làm rõ tại phiên
tòa dẫn tới việc làm thay đổi quan điểm đã dự kiến thì KSV đã bổ sung, điều
chỉnh nội dung phát biểu quan điểm giải quyết vụ án. Bên cạnh những điểm
tích cực, vẫn còn một số ít KSV cấp huyện cứng nhắc trong kiểm sát xét xử,
phụ thuộc vào đề cương chuẩn bị trước phiên tòa, tham gia hỏi quá nhiều hoặc
quá ít, đặt câu hỏi trùng lắp với nội dung, tình tiết của vụ án mà Hội đồng xét
43
xử đã hỏi dẫn đến diễn biến phiên tòa có nhiều tình tiết dư thừa gây kéo dài
thời gian xét xử.
+ Phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, đây được xem là giai
đoạn quan trọng nhất trong toàn bộ hoạt động tham gia giải quyết vụ án hành
chính, bài phát biểu của KSV dựa trên cơ sở phân tích, đánh giá, nhận định về
các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ; diễn biến phiên tòa; pháp luật áp dụng để
giải quyết vụ án. Thực tiễn các Viện KSND cấp huyện trong giai đoạn Luật
TTHC năm 2015 vừa mới có hiệu lực, một số bài phát biểu của KSV cấp huyện
còn đơn giản khi nhận định việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán,
Hội đồng xét xử và người tham gia tố tụng; đề nghị đường lối giải quyết vụ án
còn chung chung, chưa rõ ràng thậm chí không sát với nội dung vụ kiện, bài
phát biểu chưa được chỉnh sửa cho phù hợp với diễn biến tại phiên tòa từ đó
dẫn đến bài phát biểu chưa được đảm bảo theo quy định của pháp luật (Điều
190 Luật TTHC năm 2015 và Điều 27 Thông tư liên tịch số 03/2016/TTLT
ngày 31/8/2016 của Viện KSND tối cao và TAND tối cao).
- Theo quy định sau khi kết thúc phiên tòa, KSV tiến hành kiểm tra biên
bản phiên toà, yêu cầu bổ sung, sửa đổi những vấn đề sai sót so với sự việc đã
thực hiện công khai tại phiên toà sơ thẩm (khoản 4 Điều 166 Luật TTHC năm
2015). Tuy nhiên quá trình thực hiện nhiệm vụ này có nhiều bất cập xảy ra như:
Biên bản phiên tòa đa phần được thư ký phiên hoàn thành xong khá lâu sau khi
phiên tòa kết thúc (thông thường là một buổi) nên việc KSV kiểm tra biên bản
phiên tòa rất khó khăn và một phần là do KSV cấp huyện chưa thật sự đánh giá
đúng mức độ quan trọng của biên bản phiên tòa, nên hầu hết các phiên tòa sau
khi kết thúc KSV không yêu cầu xem biên bản phiên tòa theo quy định.
Theo báo cáo tổng kết công tác trong 03 năm liên tiếp (từ năm 2015 đến
năm 2017) của Phòng 10 - Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi, thì số phiên tòa xét
xử vụ án hành chính Viện KSND cấp huyện là 29 phiên tòa và toàn bộ các
44
phiên tòa đều có sự tham gia của KSV. Các vụ án đều không kéo dài và quá
phức tạp nên chỉ có một KSV tham gia từ đầu đến khi kết thúc.
Quy định pháp luật về thời gian KSV nghiên cứu hồ sơ vụ án hành chính
là 15 ngày (Điều 147 Luật TTHC năm 2015). Thực tế cho thấy, quy định về
khoảng thời gian như thế không đủ để KSV nghiên cứu và phân tích các tài
liệu, chứng cứ có trong vụ án dẫn đến bỏ sót các tình tiết . Vì vậy để khắc phục
hạn chế trong việc giải quyết các vụ án hành chính giữa Viện KSND và Tòa án
trên địa bàn đã có sự phối hợp cho phép KSV thâm nhập hồ sơ ngay từ đầu
(tiếp cận chứng cứ từ ban đầu) để từ đó tại phiên tòa, khi KSV phát biểu ý kiến
về việc giải quyết vụ án cũng như việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá
trình giải quyết vụ án sẽ đưa ra những ý kiến sâu sát, đi vào trọng tâm của vụ
án góp phần giúp cho Hội đồng xét xử đưa ra những phán xét đúng đắn hơn.
Điều này thể hiện qua 03 năm gần đây việc tham gia TTHC của các Viện KSND
cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi bước đầu đã mang lại hiệu quả tích
cực; tỷ lệ bị cấp phúc thẩm hủy, sửa có chiều hướng giảm cụ thể.
12
10
8
6
Tổng số bản án Số Bản án bị sửa Số bản án bị hủy
4
2
0
Năm 2015
Năm 2016
Năm 2017
Hình 2.3: Thống kê số lượng bản án hành chính cấp huyện bị hủy, sửa
[Nguồn 24, 25, 26. Tr.102]
45
Nhìn vào bảng thống kê trên ta thấy, số Bản án hủy, sửa có chiều hướng
giảm dần qua các năm. Ngoài nguyên nhân xuất phát từ việc số Bản án Tòa án
cấp huyện ban hành giảm dần mà một phần còn do việc thực hiện tốt thẩm
quyền của Viện KSND trong kiểm sát giải quyết vụ án hành chính của Tòa.
Việc giải quyết án của Tòa án tiến hành nhanh chóng hơn, hạn chế được tình
trạng để án quá hạn luật định, giảm thiểu sai sót trong quá trình giải quyết án,
hạn chế được đơn khiếu nại của đương sự.
Từ nghiên cứu các vụ án hủy, sửa cho thấy mặc dù việc hủy, sửa án hành
chính sơ thẩm ở cấp phúc thẩm có thể do phát sinh tình tiết mới hoặc do chuyển
biến của tình hình nhưng một phần vẫn do sai sót trong việc đánh giá chứng cứ,
việc áp dụng pháp luật của cấp sơ thẩm. Số lượng kháng nghị phúc thẩm ban
hành còn ít không phải hoàn toàn do chất lượng án sơ thẩm đã nâng lên, mà có
phần do vi phạm của án sơ thẩm chưa được Viện KSND cấp huyện phát hiện.
Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót có nhiều nhưng tập trung ở những
nguyên nhân cơ bản như trình độ, năng lực và trách nhiệm của một số cán bộ
và KSV còn hạn chế; công tác tổ chức cán bộ, phân công phân nhiệm chưa tốt,
chưa hợp lý; điều kiện, phương tiện làm việc và chế độ, chính sách đối với cán
bộ, KSV chưa bảo đảm.
2.1.2.3. Về kiểm sát bản án, quyết định về hành chính của Tòa án
Để đảm bảo bản án, quyết định của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ
án hành chính có căn cứ và đúng pháp luật, Luật TTHC quy định các bản án,
quyết định của Tòa án phải được gửi kịp thời cho Viện KSND để thực hiện
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
Xác định tầm quan trọng của công tác kiểm sát bản án, quyết định, các
Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đã tăng cường hoạt động
kiểm sát trong công tác này để phát hiện kiến nghị và kháng nghị đối vi phạm,
hạn chế thấp nhất các sai sót, vi phạm trong việc ban hành bản án, quyết định
46
của Tòa án. Cụ thể, hoạt động kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án được thể
hiện qua số liệu sau đây:
- Về kiểm sát bản án, quyết định vụ án hành chính của Toà án:
+ Năm 2015, các Viện KSND cấp huyện đã kiểm sát 24 Bản án và Quyết
định, trong đó có 12 Bản án và 12 Quyết định đình chỉ.
Số bản án, quyết định Tòa án gửi cho Viện KSND đúng hạn 21; quá hạn
03. Số bản án, quyết định Viện KSND phát hiện có vi phạm 04 vụ; Viện KSND
cấp huyện đã ban hành 02 kiến nghị; số bản án, quyết định Viện KSND kháng
nghị 01 bản án.
Cụ thể các vi phạm là: 03 Quyết định của Tòa án Thành phố Quảng Ngãi,
huyện Đức Phổ gửi trễ; có 01 trường hợp bản án của Tòa án huyện Bình Sơn
không xác định đầy đủ người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia vụ án
[24, tr. 102].
+ Năm 2016, các Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
đã kiểm sát 20 Bản án và Quyết định; trong đó, tạm đình chỉ 03 vụ, đình chỉ 06
vụ, xét xử 10 vụ, chuyển nơi khác 01 vụ.
Số bản án, quyết định Tòa án gửi cho Viện KSND đúng hạn 18; quá hạn
02. Số bản án, quyết định Viện KSND phát hiện có vi phạm 03 vụ; Viện KSND
cấp huyện đã ban hành 02 kiến nghị; số bản án, quyết định Viện KSND kháng
nghị 01 Quyết định.
Cụ thể các vi phạm là: 01 Quyết định của Tòa án Thành phố Quảng Ngãi
đình chỉ nhưng ghi sai căn cứ đình chỉ; 02 Bản án của Tòa án huyện Tư Nghĩa,
Bình Sơn gửi trễ hạn [25, tr. 102].
+ Năm 2017, các Viện KSND cấp huyện đã kiểm sát 15 Bản án và Quyết
định; trong đó, 08 Quyết định đình chỉ, xét xử 07 vụ.
Số bản án, quyết định Tòa án gửi cho Viện KSND đúng hạn 12; quá hạn
03. Số bản án, quyết định Viện KSND phát hiện có vi phạm 08 vụ; Viện KSND
47
cấp huyện đã ban hành 04 kiến nghị; số bản án, quyết định Viện KSND kháng
nghị 01 Quyết định.
Cụ thể các vi phạm là: 01 bản án, 02 Quyết định của Tòa án TP Quảng
Ngãi, Bình Sơn, Ba Tơ không gửi đúng thời hạn; 02 Quyết định của Tòa án huyện
Tư Nghĩa, Mộ Đức đình chỉ do người khởi kiện rút đơn khởi kiện không ghi
quyền khởi kiện lại của đương sự và không đúng mẫu theo Nghị quyết 01/2017;
không ghi đầy đủ ý kiến của Viện KSND trong 03 bản án [26, tr. 102].
Kết quả trên thể hiện sự giảm dần về số lượng vụ án của Tòa án đã giải
quyết. Tuy nhiên, sau khi Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 10/CT-VKSTC ngày 06/4/2016 của Viện trưởng
Viện KSND tối cao về tăng cường công tác kiểm sát phát hiện kịp thời những vi
phạm, thiếu sót trong quá trình giải quyết án của tòa án để kiến nghị, kháng nghị
thì tỷ lệ bản án, quyết định bị Viện KSND phát hiện những vi phạm và kiến nghị,
kháng nghị qua mỗi năm có chiều hướng tăng dần, góp phần làm cho chất lượng
bản án, quyết định của Tòa án ngày một cải thiện, bảo đảm sự chính xác, có căn
cứ, đúng pháp luật của bản án, quyết định, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của
công dân, tổ chức, góp phần bảo đảm pháp luật thực hiện thống nhất.
Mặt khác, cũng có một số trường hợp trong quá trình kiểm sát giải quyết
vụ án hành chính, KSV được phân công nhiệm vụ khi phát hiện vi phạm của
Tòa án với tinh thần trách nhiệm chưa cao nên không kịp thời báo cáo Lãnh
đạo Viện KSND ban hành kiến nghị hoặc kháng nghị đối với bản án, quyết định
của Tòa án có vi phạm. Điều này cũng làm ảnh hưởng đến hiệu quả công tác
kiểm sát hiện nay.
2.1.2.4. Về việc thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị trong
giải quyết vụ án hành chính
Quyền yêu cầu, kháng nghị, kiến nghị của Viện KSND trong công tác
kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính được quy định chung tại Khoản
48
2 Điều 25 Luật TTHC năm 2015 là“Viện kiểm sát nhân dân có quyền yêu cầu
theo quy định của pháp luật trong quá trình kiểm sát giải quyết vụ án hành
chính từ khi thụ lý đến khi kết thúc việc giải quyết vụ án. Tham gia các phiên
tòa, phiên họp của Tòa án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong công tác thi
hành bản án, quyết định của Tòa án; thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị,
kháng nghị theo quy định của pháp luật”.
Trên thực tế, nhận thức được tầm quan trọng của các quyền yêu cầu, kháng
nghị, kiến nghị, Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi đã chủ động tổ chức các hội nghị
triển khai, quán triệt đầy đủ và kịp thời nội dung của Luật TTHC tới toàn thể
Lãnh đạo, KSV, Kiểm tra viên, Chuyên viên trực tiếp làm công tác kiểm sát trong
lĩnh vực giải quyết vụ án hành chính với nhiều phương thức đa dạng như: Phổ
biến, quán triệt, tuyên truyền tại các hội nghị trực tiếp, trực tuyến, hội thảo, hội
nghị tập huấn, tuyên truyền.... Trong đó, đặc biệt chú trọng quán triệt về thực
hiện các quy định mới của luật về quyền yêu cầu, kháng nghị, kiến nghị của Viện
KSND trong TTHC để Lãnh đạo, KSV, Kiểm tra viên, Chuyên viên nhận thức
đầy đủ về các quyền năng pháp lý liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của Viện
kiểm sát, xác định quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị của Viện KSND trong
TTHC là ba quyền năng pháp lý cơ bản của Viện KSND khi thực hiện chức năng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải quyết các vụ án hành chính, qua đó
xác định thực hiện tốt các quyền yêu cầu, kháng nghị, kiến nghị của Viện kiểm
sát là biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả công tác kiểm sát
việc giải quyết các vụ án hành chính của Tòa án.
- Năm 2015, tổng số yêu cầu Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi đã ban hành là 11 yêu cầu. Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền
đã thực hiện 10 yêu cầu của Viện kiểm sát, đạt 91%; trong đó:
+ Về yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ: 8 yêu cầu.
49
+Về các yêu cầu khác: 01 yêu cầu Tòa án sửa đổi, bổ sung biên bản phiên
tòa; 01 yêu cầu Tòa án công bố tài liệu (ngay tại phiên tòa), 01 yêu cầu đương
sự cung cấp tài liệu chứng cứ nhưng không thực hiện được.
+ Tổng số kháng nghị Viện KSND cấp huyện đã ban hành là 02 kháng
nghị đối với Tòa án cùng cấp: 02 kháng nghị được Tòa án chấp nhận.
+ Tổng số Kiến nghị Viện KSND cấp huyện đã ban hành là 05 kiến nghị
đối với Tòa án cùng cấp và được chấp nhận [24, tr. 102].
- Năm 2016, tổng số yêu cầu Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi đã ban hành là 05 yêu cầu. Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền
đã thực hiện 05 yêu cầu của Viện kiểm sát, đạt 100%. Trong đó:
+ Về yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ: 03 yêu cầu
+ Về các yêu cầu khác: 02 yêu cầu thu thập chứng cứ.
+ Tổng số kháng nghị Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi đã ban hành là 01 kháng nghị đối với Tòa án cùng cấp và được chấp nhận.
+ Tổng số Kiến nghị Viện KSND cấp huyện đã ban hành là 04 kiến nghị
đối với Tòa án cùng cấp và được chấp nhận [25, tr.102].
- Năm 2017, tổng số yêu cầu Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi đã ban hành là 17 yêu cầu. Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền
đã thực hiện 16 yêu cầu của Viện kiểm sát, đạt 94%. Trong đó:
+ Về yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ: 08 yêu cầu
+ Về các yêu cầu khác: 05 yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ
vụ án; 02 yêu cầu Tòa án xác định lại tư cách tham gia tố tụng; 01 yêu cầu Tòa
án sửa đổi, bổ sung biên bản phiên tòa; 01 yêu cầu Tòa án cho sao chụp hồ sơ
trong trường hợp trả lại đơn khởi kiện.
+ Tổng số kháng nghị Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi đã ban hành là 02 kháng nghị đối với Tòa án cùng cấp và được chấp nhận.
50
+ Tổng số Kiến nghị Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
đã ban hành là 06 kiến nghị đối với Tòa án cùng cấp và được chấp nhận 05 kiến
nghị, 01 kiến nghị Tòa án không trả lời chấp nhận hay không [26, tr.102].
Từ số liệu trên cho thấy việc thực hiện đầy đủ có trách nhiệm các quyền
yêu cầu, kháng nghị, kiến nghị của các Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi trong việc giải quyết vụ án hành chính đã giúp cho việc giải quyết
vụ án hành chính trên địa bàn tỉnh được đảm bảo thực hiện chính xác, khách
quan đồng thời nâng cao trách nhiệm của KSV trong thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn theo luật định.
Các Viện KSND cấp huyện trên địa bàn đã chú trọng và xác định thực
hiện tốt quyền yêu cầu, kháng nghị, kiến nghị là thực hiện tốt chức năng của
Viện kiểm sát được pháp luật quy định, từng bước nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác kiểm sát, góp phần nâng cao vị trí, vai trò của Viện KSND cấp
huyện nói riêng và ngành kiểm sát nói chung.
Để nâng cao chất lượng công tác, các Viện KSND cấp huyện đã xác định
đây là nhiệm vụ đồng thời cũng là chỉ tiêu thi đua, căn cứ đánh giá trách nhiệm,
trình độ, năng lực của KSV hàng năm. Do đó, trong những năm gần đây đã
nâng cao chất lượng công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính theo quy
định của pháp luật, ban hành được nhiều kháng nghị, kiến nghị với Toà án và
được chấp nhận với tỷ lệ năm sau cao hơn năm trước.
Ngoài ra, 100% các Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
đã tăng cường tính chủ động trong việc phối hợp công tác với Tòa án và các cơ
quan có liên quan bằng các biện pháp xây dựng quy chế liên ngành, họp giao
ban. Qua các hội nghị giao ban trực tuyến tuần, tháng, 06 tháng, năm hai cấp
kiểm sát vào sáng thứ hai hằng tuần tại 15 điểm cầu, Lãnh đạo Viện KSND tỉnh
đã kịp thời chỉ đạo, nhắc nhở công việc, xử lý những ý kiến phát sinh, rà soát
51
lại những việc đã chỉ đạo, giúp cho hoạt động kiểm sát được thuận lợi và đạt
kết quả cao, nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan tố tụng.
Tuy đã đạt được một số kết quả nhất định nhưng việc thực hiện quyền
yêu cầu, kháng nghị, kiến nghị còn hạn chế, số lượng ban hành yêu cầu, kiến
nghị, kháng nghị chưa nhiều trong quá trình thực hiện công tác kiểm sát. Bên
cạnh những lý do như công tác giải quyết các vụ án hành chính đã dần dần đi
vào nề nếp nhưng một phần cũng do công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, đánh
giá, rút kinh nghiệm về việc thực hiện quyền yêu cầu có lúc, có nơi, có việc
chưa được kịp thời, sát sao, quyết liệt. Lực lượng KSV, Kiểm tra viên, Chuyên
viên còn thiếu; KSV ở một số đơn vị nghiên cứu số lượng hồ sơ, tham gia phiên
tòa bình quân trong tháng bị quá tải (như Thành phố Quảng Ngãi số lượng án
hành chính, dân sự, kinh doanh thương mại, lao động cần giải quyết trung bình
trong 03 năm là 861 vụ); số KSV, Kiểm tra viên, Chuyên viên ở các Viện
KSND cấp huyện được phân công chuyên khâu này còn phải kiêm nhiệm nhiều
công việc khác nên chưa thực hiện tốt quyền yêu cầu, kháng nghị, kiến nghị.
Ngoài ra việc thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị còn hạn
chế, chưa đồng đều số lượng ban hành yêu cầu, kháng nghị, kiến nghị chưa
nhiều trong quá trình thực hiện công tác kiểm sát (tập trung ở một số nơi như
TP Quảng Ngãi, Bình Sơn, Đức Phổ). Điển hình như năm 2015, số lượng ban
hành yêu cầu, kháng nghị, kiến nghị trong quá trình thực hiện công tác kiểm
sát giải quyết vụ án hành chính được thống kê như sau:
52
Bảng 2.2:Thống kê số lượng Yêu cầu, Kiến nghị, kháng nghị trong giải quyết vụ án hành chính ở các Viện KDND cấp huyện năm 2015
Năm 2015
Đơn vị Viện
Yêu cầu
Kiến nghị
Kháng nghị
ST
KSND cấp
T
Thực
Không
Chấp
Không
Chấp
Không
huyện
hiện
thực hiện
nhận
chấp nhận
nhận
chấp nhận
TP Quảng Ngãi
0
0
0
1
6
1
1
Tư Nghĩa
0
0
0
0
2
1
1
Mộ Đức
0
0
0
0
0
0
3
Đức Phổ
0
0
0
4
2
1
1
Ba Tơ
0
0
0
0
0
0
5
Minh Long
0
0
0
0
0
0
6
Sơn Hà
0
0
0
0
0
0
7
Sơn Tây
0
0
0
0
0
0
8
Sơn Tịnh
0
0
0
0
0
0
9
Bình Sơn
0
0
0
0
10
2
1
Tây Trà
0
0
0
0
0
0
11
Trà Bồng
0
0
0
0
0
0
12
Lý Sơn
0
0
0
0
0
0
13
Nghĩa Hành
0
0
0
0
0
14
1
[Nguồn 24, 25, 26. Tr.102]
Qua kết quả thống kê trên nhận thấy, có sự không đồng đều và mất cân
bằng trong việc ban hành các yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị ở các Viện KSND
cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Điều này xuất phát từ nguyên nhân là
lượng án hành chính thụ lý các địa phương không đồng đều, tập trung ở các nơi
như: Thành phố Quảng Ngãi, Bình Sơn, Đức Phổ, dẫn đến các cán bộ KSV ở
những nơi ít có án hành chính như Minh Long, Sơn Tây, Tây Trà...không chú
trọng đến việc bồi dưỡng kiến thức chuyên môn về án hành chính, kinh nghiệm
giải quyết vụ án hành chính dường như không có từ đó việc thực hiện các quyền
yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị không được bảo đảm thực hiện tốt nhất.
53
Bên cạnh đó, một bộ phận KSV chưa phát huy hết tinh thần trách nhiệm,
chưa vận dụng triệt để các quyền năng pháp lý được pháp luật quy định trong
quá trình kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính còn nể nang, ngại va chạm
với Thẩm phán nên không ra văn bản yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị. Một số
Viện kiểm sát địa phương khi thực hiện kiểm sát còn thiếu chủ động, sáng tạo,
chưa tích cực thực hiện quyền yêu cầu nhằm phát hiện vi phạm để kiến nghị,
kháng nghị. Ngoài ra, việc cập nhật các văn bản pháp luật cũng như các tài liệu
để áp dụng vào công tác chuyên môn của một số KSV đôi lúc chưa kịp thời để
áp dụng trong thực tiễn công tác. Các hạn chế này đã ảnh hưởng rất lớn đến công
tác kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính của Viện KSND, làm cho việc giải
quyết một số vụ án khó tránh khỏi việc thiếu chính xác, chưa khách quan.
2.2. Phân tích thực trạng các yếu tố tác động đến việc thực hiện thẩm
quyền của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trong giải quyết vụ án hành
chính trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
2.2.1. Đường lối, chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp
Hiện nay, theo tinh thần Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của
Bộ Chính trị về chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 đã định hướng cho
việc đổi mới tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát như sau: “Trước mắt, Viện
kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức phù
hợp với hệ thống tổ chức của Toà án”.
Quán triệt những nội dung trên, các Viện KSND cấp huyện trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi khi thực hiện thẩm quyền của mình trong việc giải quyết các
vụ án hành chính đã chủ động bố trí lực lượng cán bộ, tập trung kiểm sát chặt
chẽ việc giải quyết các vụ án, vụ việc, trong đó chú trọng kiểm sát các bản án,
quyết định của tòa án; tích cực, chủ động tham gia các phiên tòa, phiên họp giải
quyết vụ án hành chính, ở giai đoạn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Qua
54
công tác kiểm sát giải quyết các vụ án các Viện KSND cấp huyện kháng nghị,
kiến nghị, yêu cầu khắc phục nhiều vi phạm pháp luật, đồng thời tổng hợp tình
hình và kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền có biện pháp giải quyết các “điểm
nóng”, khiếu kiện bức xúc, kéo dài; giúp cho các CQNN thực hiện tốt hơn công
tác quản lý nhà nước của mình.
Điều trước tiên là sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của KSV, lãnh
đạo các đơn vị, cụ thể là các Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
đã đánh giá đúng vai trò và tầm quan trọng của hoạt động kiểm sát việc giải quyết
vụ án hành chính.Từ sau khi có Nghị quyết số 08/NQ-TW và 49/NQ-TW của
Bộ chính trị thì vấn đề kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính đã tác động rất
lớn đến nhận thức của Lãnh đạo và KSV toàn ngành kiểm sát. Quán triệt chỉ thị
số 01/2007/CT- VKSTC ngày 18/1/2007 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, ngay từ năm đầu năm 2007 lãnh đạo Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi
đã quyết định giao cho Phòng 10 phụ trách chuyên đề “Công tác kiểm sát xét xử
tại phiên toà hành chính theo tinh thần cải cách tư pháp” mà chúng ta vẫn quen
gọi là Chuyên đề về “Phiên toà mẫu”. Đến năm 2011 thì tên gọi Chuyên đề đã
được thay đổi thành “Tổ chức các phiên toà rút kinh nghiệm để nâng cao chất
lượng hoạt động kiểm sát xét xử của KSV”.
Bên cạnh Chuyên đề này lãnh đạo Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi còn chỉ
đạo xây dựng nhiều chuyên đề khác phục vụ công tác kiểm sát việc giải quyết
vụ án hành chính như Chuyên đề: “Nâng cao kỹ năng xét hỏi của Kiểm sát viên
tại phiên toà hành chính”, tổ chức nhiều lớp tập huấn về các kỹ năng hoạt động
trước phiên tòa, tại phiên tòa quán triệt tới lãnh đạo, KSV của các Viện KSND
cấp huyện do vậy đã đảm bảo chất lượng việc thực hiện thẩm quyền của Viện
KSND cấp huyện trong giải quyết vụ án hành chính. Đặc biệt là chuẩn bị các
dự kiến phát sinh tại phiên tòa từ phần thủ tục đến suốt quá trình xét xử; đề
cương xét hỏi. Các KSV cấp huyện đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng ở giai đoạn
55
trước khi xét xử như nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, chuẩn bị đề cương xét hỏi, dự
thảo bài phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án. Các bài phát biểu ngày
một chi tiết, cẩn thận hơn để có thể chủ động trong các tình huống phát sinh tại
phiên tòa. Do có sự chuẩn bị tốt các nội dung nên tại phiên tòa KSV đã chủ
động tham gia xét hỏi, KSV ngày càng thể hiện tính dân chủ, đúng luật, hợp
tình, hợp lý nhiều phiên toà đã đạt được đúng những yêu cầu về cải cách tư
pháp, được dư luận quần chúng nhân dân, cấp uỷ địa phương đánh giá cao. So
với thời điểm trước khi có Nghị quyết 08/NQ-TW và Nghị quyết 49/NQ-TW
của Bộ chính trị tình trạng KSV không tham gia xét hỏi, không theo dõi ghi
chép diến biến phiên tòa thì đến nay tình trạng này đã được khắc phục. Nhiều
vụ án phức tạp, các Viện KSND cấp huyện đã phối hợp với Tòa án xét xử đạt
chất lượng tốt, đã khẳng định vai trò của KSV đó là sự thể hiện được bản lĩnh
vững vàng, bám sát các quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích của
người tham gia tố tụng.
Thái độ khi tham gia phiên tòa của KSV thể hiện khiêm tốn, khách quan,
bình đẳng và tôn trọng ý kiến của những người tham gia tố tụng. Quá trình xét
hỏi không lan man dài dòng mà luôn đi vào trọng tâm, ngắn gọn, dễ hiểu. Kết
quả của việc làm này không chỉ tranh thủ được sự đồng tình của dư luận mà
còn tranh thủ được sự ủng hộ đồng tình của Hội đồng xét xử đối với Viện kiểm
sát trong việc giải quyết vụ án.
Nhiều bài phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án và xét hỏi KSV
đã dựa vào chứng cứ của vụ án gắn với tình hình thực tế của địa phương để
tuyên truyền giáo dục pháp luật và chủ trương chính sách pháp của Đảng và
Nhà nước. Qua đó nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân, góp phần phòng
ngừa vi phạm pháp luật ở địa phương.
Việc bảo đảm thực hiện thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong
giải quyết vụ án hành chính trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi theo tinh thần của
56
Nghị quyết 08/NQ-TW và 49/NQ-TW thực sự đã tác động rất lớn đến nhận
thức của KSV. Song khi nói đến sự nỗ lực cố gắng của KSV tại phiên tòa thì
chúng ta cũng cần phải nói đến sự ảnh hưởng của Nghị quyết đối với những
người bào chữa, họ đầu tư tốt hơn trong quá trình nghiên cứu hồ sơ để chuẩn
bị cho việc tranh tụng, nội dung bài bào chữa sắc sảo hơn, quan tâm đến sự
thiếu sót của tố tụng hơn. Nhiều Luật sư có kỹ năng bào chữa rất tốt, linh hoạt
biết khai thác và vận dụng triệt để, để tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Đối
với Thẩm phán chủ tọa cũng đã nhận thức rõ hơn vai trò và trách nhiệm của
mình trong hoạt động điều hành phiên tòa, đảm bảo tốt hơn các quyền và nghĩa
vụ của Luật sư, đương sự...đồng thời tạo điều kiện cho các bên được tranh tụng
và đối đáp, đảm bảo sự dân chủ, bình đẳng trong tranh tụng. Nội dung các bản
án gần đây đã có sự thay đổi căn bản so với trước đây. Nhiều bản án đã giành
một phần nội dung đáng kể để đưa ra hững nhận định đánh giá về những quan
điểm của KSV và của Luật sư, người tham gia tố tụng.
Ngoài ra từ khi có Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 thì sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng địa phương
đối với các Viện kiểm sát nhân dân huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi trong
thời gian qua là rất sâu sát. Cấp uỷ Đảng ở địa phương thường xuyên quan tâm
chỉ đạo các cơ quan tư pháp quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc, đồng
thời báo cáo kết quả thực hiện về các trọng tâm công tác tư pháp về việc thực
hiện nhiệm vụ chính trị được giao; về củng cố kiện toàn tổ chức bộ máy, đào
tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ năng lực cho đội ngũ cán bộ, KSV. Hàng năm,
Cấp uỷ đều có báo cáo kết quả công tác cải cách tư pháp và đề ra nhiệm vụ
trọng tâm của năm tới. Sự lãnh đạo của Cấp uỷ hiện nay đối với các Viện KSND
cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi là ổn định.
2.2.2. Trình độ, năng lực của đội ngũ kiểm sát viên
Bên cạnh việc hình thành tổ chức kiểm sát cấp huyện, nhà nước ta cũng
đã quan tâm đảm bảo nguồn nhân lực để có thể đảm nhiệm tốt công tác kiểm
57
sát, một trong số đó là nguồn nhân lực KSV. Pháp luật hiện hành quy định
“Kiểm sát viên là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để thực
hiện chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp” (Điều 74
Luật tổ chức Viện KSND năm 2014) và tiêu chuẩn chung của KSV như sau:
“Là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết, trung thực,
bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa; Có trình độ cử nhân luật trở lên; Đã được đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát;
Có thời gian làm công tác thực tiễn theo quy định của Luật này; Có sức khỏe
bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao” (Điều 75 Luật tổ chức Viện KSND
năm 2014). Đây là những tiêu chuẩn về đạo đức, đạo đức chính trị, về chuyên
môn nghiệp vụ, thời gian công tác và sức khỏe đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ.
Trước đây, yêu cầu về bằng cấp đối với người được tuyển chọn bổ nhiệm
KSV chỉ dừng lại ở trình độ cao đẳng, mà cụ thể là tốt nghiệp Cao đẳng kiểm
sát [58, tr.105], điều này chưa đảm bảo được trình độ chuyên môn và kiến thức
pháp luật cần thiết. Để khắc phục tình trạng trên, pháp luật hiện hành quy định
một trong những tiêu chuẩn của KSV là phải có trình độ cử nhân luật. Thực tế
tại các Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cho thấy quy định
về trình độ cử nhân luật đối với người được bổ nhiệm làm KSV đã góp phần
thống nhất mặt bằng trình độ của KSV, khắc phục được tình trạng bổ sung công
chức làm nghiệp vụ không theo quy định, ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng kiểm
sát trong một thời gian tương đối dài. Điều này bảo đảm cho các KSV có kiến
thức pháp lý sâu rộng, được đào tạo bài bản, giúp KSV có sự nhìn nhận, đánh
giá vấn đề khách quan, chính xác, đầy đủ hơn. Ngoài ra, quy định về thời gian
công tác thực tiễn đối với KSV là vấn đề hết sức quan trọng. Trình độ chuyên
môn nghiệp vụ sẽ được thực tiễn kiểm nghiệm và có thêm những kinh nghiệm,
58
trau dồi thêm kiến thức, hoàn thiện khả năng của bản thân, đáp ứng tốt nhất yêu
cầu của thực tế đặt ra.
Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, thực hiện nghiêm chỉnh quy
định của pháp luật về tiêu chuẩn KSV, công tác cán bộ của ngành kiểm sát đã
được chú trọng về cả chất và lượng. Trong những năm qua, nhất là những năm
gần đây Ban cán sự Đảng, lãnh đạo Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi luôn quan
tâm đến công tác tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng công chức nhằm xây dựng đội
ngũ công chức, KSV ngày càng “Vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh
thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm”. Hàng
năm, Viện KSND tỉnh luôn bám sát kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng của Viện
KSND tối cao để xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với tình hình
thực tế của đơn vị. Từ năm 2015 đến năm 2017, Viện kiểm sát tỉnh đã cử gần
100 lượt công chức đi đào tạo các lớp: Đào tạo nghiệp vụ kiểm sát, cao học
luật, cao cấp lý luận chính trị, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát, bồi dưỡng chuyên
sâu về nghiệp vụ…
Hiện nay, cơ cấu tổ chức bộ máy Viện KSND cấp huyện gồm 01 Viện
KSND thành phố trực thuộc tỉnh và 13 Viện KSND huyện với tổng số 132 biên
chế chính thức, cụ thể có 14 Viện trưởng là KSV trung cấp, 01 Phó viện trưởng
là KSV trung cấp, 15 Phó viện trưởng là KSV sơ cấp, 41 KSV sơ cấp, 28 Kiểm
tra viên, 18 Chuyên viên và 15 cán sự văn thư, kế toán [67, tr.105]. Trong đó
số lượng phụ trách công tác giải quyết vụ án hành chính là 21 KSV cùng với
12 Kiểm tra viên, chuyên viên giúp việc [28, tr.102] chiếm 32% số lượng công
chức giải quyết án. Qua kết quả nghiên cứu cho thấy trình độ KSV của các Viện
KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi tương đối đồng đều, tất cả đều
được đào tạo qua các lớp đào tạo nghiệp vụ kiểm sát, ngoài ra đa phần KSV
đều tham các hội nghị tập huấn chuyên sâu về công tác giải quyết vụ án hành
chính thông qua các hội nghị mà Viện KSND tối cao và tỉnh tổ chức. So với
59
mức trung bình của các tỉnh, thành trong cả nước có thể nhận thấy số lượng
công chức làm công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính của các Viện
KSND cấp huyện là ở mức trên trung bình, cụ thể thì tổng số KSV cấp huyện
phụ trách công tác giải quyết vụ án hành chính trong toàn nước là 1073 KSV
[68, tr.105], trung bình mỗi tỉnh thành là 17 KSV. Như vậy có thể nhận thấy
các Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đã chủ động trong
việc quản lý và sử dụng công chức đảm bảo hoàn thành tốt chức năng, nhiệm
vụ được giao, tạo sự hài hòa giữa quản lý biên chế công chức với tuyển dụng,
sử dụng công chức.
Một khía cạnh khác, việc nghiên cứu so sánh tỷ lệ về số lượng các vụ án
hành chính mà Tòa án thụ lý giải quyết hàng năm trên địa bàn với số KSV hiện
có của các Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, có thể thấy số
lượng công việc mà KSV phải gánh vác là vừa phải, cụ thể trung bình 03 năm
số lượng vụ án hành chính mà Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi cần phải giải quyết là 21 vụ án, như vậy trung bình 01 KSV sẽ kiểm sát
giải quyết 01 vụ án hành chính. Tuy nhiên, ngoài công tác kiểm sát giải quyết
các vụ án hành chính thì các KSV ở cấp huyện còn phải kiêm nhiệm nhiều khâu
công tác do sự phân công của Viện trưởng. Đơn cử tại Viện KSND huyện Tư
Nghĩa, là một huyện thuộc nhóm III, có lượng án trung bình trên 250 đến dưới
350 vụ/năm, tổng lượng án Dân sự – Hành chính – Kinh doanh thương mại –
Lao động phải giải quyết năm 2015 là 211 vụ, năm 2016 là 257 vụ, năm 2017
là 302 vụ, trung bình 03 năm là 257 vụ [28, tr. 102], căn cứ vào Quyết định phân
công công tác của Viện trưởng Viện KSND huyện Tư Nghĩa số 33/QĐ-VKS
(ngày 23/11/2015) và 42/QĐ-VKS (ngày 28/11/2016) thì số lượng KSV phụ
trách bộ phận dân sự hành chính là 02 KSV (trong đó có 01 Phó viện trưởng là
lãnh đạo bộ phận). Như vậy, trung bình 01 KSV sẽ kiểm sát 128 vụ án. Từ thực
tiễn như trên đòi hỏi KSV cấp huyện không chỉ hiểu sâu về án hành chính mà
60
còn phải hiểu và cập nhật kiến thức pháp luật về các án khác để đáp ứng được
nhu cầu xử lý công việc được giao rất lớn.
Để nâng cao năng suất lao động, chất lượng hiệu quả công việc, nhằm
khắc phục tình trạng thiếu hụt nhân lực, Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi cũng như
Viện KSND cấp huyện đã tổ chức các cuộc thi, các lớp tập huấn nhằm nâng cao
trình độ, năng lực, kỹ năng của đội ngũ công chức làm công tác kiểm sát đối với
tất cả các loại án như hành chính, dân sự, kinh doanh thương mại… Theo báo
cáo tổng kết năm của Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi, trong năm 2015, toàn tỉnh
đã cử 18 công chức tham dự các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ do ngành
và các cơ quan liên quan tổ chức, 02 đồng chí tham dự lớp Trung cấp chính trị,
Viện KSND tỉnh tổ chức 01 cuộc tập huấn kỹ năng kiểm sát tại phiên tòa Dân
sự – Hành chính – Kinh doanh thuơng mại – Lao động cho toàn bộ công chức
đang công tác trong bộ phận này [65, tr.105]. Hay trong năm 2017, Viện KSND
tỉnh Quảng Ngãi đã cử 09 công chức tham gia các lớp bồi dưỡng kỹ năng về
nghiệp vụ, đào tạo nghiệp vụ Kiểm sát cho 11 người, đào tạo trung cấp chính trị
cho 04 người, đào tạo thạc sỹ Luật cho 02 người; Viện KSND tối cao tổ chức
04 hội nghị về hướng dẫn nghiệp vụ; Viện KSND tỉnh tổ chức 01 hội thảo trao
đổi kinh nghiệm trong công tác kiểm sát giải quyết án dân sự, hôn nhân gia đình,
hành chính, kinh doanh, thương mại và lao động, 01 hội nghị tập huấn giải quyết
án hành chính, kinh doanh, thương mại [66, tr.105]. Điều này đã giúp cho đội
ngũ công chức kiểm sát kịp thời cập nhật kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ
chuyên sâu về án hành chính và các chuyên ngành khác ngoài án hành chính để
đáp ứng cho yêu cầu công việc.
Việc đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho công chức làm công tác giải quyết
vụ án hành chính đã cải thiện đáng kể trình độ chuyên môn nghiệp vụ của KSV
góp phần đạt được những thành công nhất định như: Kết quả đánh giá, phân loại
công chức năm 2016 và 2017 trong toàn ngành không có trường hợp nào công
61
chức làm công tác giải quyết vụ án hành chính bị xếp vào nhóm không hoàn
thành nhiệm vụ; tỷ lệ giải quyết vụ án hành chính trong các năm đều ở mức rất
cao (trên 88%); không để xảy ra tình trạng án quá hạn… Bên cạnh những kết
quả đạt được, việc đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ còn có một số hạn chế như: Các
hội nghị tập huấn của Viện KSND tối cao đa phần bằng hình thức trực tuyến
toàn quốc. Điều này dẫn đến một số nội dung tập huấn của hội nghị chưa đi sâu
sát vào giải quyết các vấn đề thực tế ở từng địa phương đang đòi hỏi; các hội
nghị tập huấn mà Viện KSND tối cao cũng như Viện KSND tỉnh tổ chức thường
thời gian tập huấn rất ngắn, khoảng một đến hai ngày dẫn đến tình trạng không
thể truyền đạt hết những nội dung. Đối với các lớp tập huấn tập trung, số lượng
được cử đi rất ít vì kinh phí mà địa phương chi ra lớn. Mặt khác, các lớp tập huấn
tập trung này thường tổ chức ở ngoài tỉnh, việc quản lý sỉ số chưa nghiêm, cộng
thêm ý thức tham gia học tập, học hỏi của một số học viên còn hạn chế nên chất
lượng lớp học mang lại không cao. Bên cạnh đó, số lượng KSV trung cấp trên
địa bàn toàn tỉnh đang trong tình trạng thiếu hụt do chủ trương tinh giảm biên
chế. Số lượng KSV trung cấp đa phần được điều động về tỉnh dẫn đến số lượng
KSV làm công tác giải quyết vụ án hành chính ở các Viện KSND cấp huyện đa
phần đều là trình độ sơ cấp nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng giải
quyết vụ án hành chính ở cấp huyện trong giai đoạn hiện nay.
2.2.3. Ý thức pháp luật và việc chấp hành pháp luật của những người
tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
Trong những năm gần đây, ý thức pháp luật và việc chấp hành pháp luật
của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong quá trình giải
quyết vụ án hành chính ở cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đang ngày
càng được chú trọng và quan tâm hơn. Cụ thể, trong những năm gần đây, hoạt
động chấp hành pháp luật trong trong giải quyết các vụ án hành chính ở cấp
huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi bước đầu đã đạt những chuyển biến tích cực.
62
Đội ngũ cán bộ, công chức người tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hành
chính đều là những người có khả năng nhận thức, trình độ hiểu biết và thái độ
thượng tôn pháp luật. Từ sự hiểu biết pháp luật một cách rõ ràng như thế những
người tiến hành tố tụng đã nắm bắt được những nội dung của pháp luật và thực
hiện pháp luật một cách chính xác, nhanh chóng, thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền
hạn của mình trong việc giải quyết vụ án hành chính tránh được các trường hợp
vi phạm pháp luật trong khi thực hiện thẩm quyền của mình. Ngoài ra, thái độ
của họ đối với pháp luật cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc thực
hiện pháp luật trong giải quyết vụ án hành chính, với thái độ thượng tôn pháp
luật, những người tiến hành tố tụng đã thể hiện sự khách quan, công bằng trong
việc giải quyết vụ án hành chính, phục vụ tận tụy hết mình với công việc, đặt lợi
ích bản thân dưới lợi ích của xã hội từ đó làm giảm tình trạng tham nhũng, quan
liêu và cụ thể nhất là việc giải quyết các vụ án hành chính ở cấp huyện trên địa
bàn tỉnh Quảng Ngãi ngày càng được tốt hơn.
Thời gian gần đây, chính quyền địa phương cấp huyện, các cấp Ủy trên
địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi, TAND tỉnh Quảng
Ngãi đã luôn quan tâm, tích cực tuyên truyền, giáo dục và bồi dưỡng pháp luật
cho đội ngũ người tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hành chính nhằm
nâng cao trình độ pháp luật cho họ; tăng cường giám sát, kiểm tra hoạt động
của các cán bộ, công chức như Mặt trận Tổ quốc và các thành viên hằng năm
đều thực hiệnchức năng giám sát kết quả công tác của các Viện KSND, TAND
huyện, thành phố thông qua tham gia các Đoàn kiểm tra của Ban pháp chế thuộc
Hội đồng nhân dân, phối hợp với các Viện KSND cấp huyện huyện trong việc
tuyên truyền giáo dục pháp luật ở địa phương, qua việc cử KSV làm thành viên
Ban tư vấn pháp luật…. Từ đó đã đạt được một số kết quả tích cực như chất
lượng các vụ án hành chính ngày càng được bảo đảm, các vụ án đều được giải
quyết nhanh chóng đúng thời hạn luật đinh.
63
Bên cạnh đó ý thức pháp luật và việc chấp hành pháp luật của những
người tham gia tố tụng cũng có những ảnh hưởng tích cực rõ rệt trong việc giải
quyết vụ án hành chính. Các địa phương đã thực hiện tốt công tác phổ biến giáo
dục pháp luật đã khiến cho ý thức pháp luật của những người tham gia tố tụng
mà cụ thể là sự hiểu biết, thái độ tôn trọng và niềm tin với pháp luật được nâng
lên một cách rõ rệt, điều này thể hiện qua việc số lượng khiếu kiện hành chính
không đúng thẩm quyền giảm rõ rệt; các cơ quan, tố chức, cá nhân khởi kiện
biết thu thập, cung cấp chứng cứ theo yêu cầu thụ lý của Tòa án; số lượng vụ
án được giải quyết mà không bị kháng cáo phúc thẩm tăng cao... cụ thể được
thể hiện trong bảng thống kê sau:
Bảng 2.3: Thống kê số lượng thụ lý và giải quyết đơn khởi kiện vụ án hành chính tại các TAND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi
Số không thụ lý STT Năm Tổng Số Số số đơn Do không Do không cung Lý thụ giải khởi đúng thẩm cấp tài liệu, chứng do lý quyết kiện quyền cứ khởi kiện khác
23 04 01 02 15 14 1 2015
32 07 02 03 20 20 2 2016
18 01 0 01 16 15 3 2017
Nguồn: [24, 25, 26, tr.102]
Nhìn vào bảng thống kê trên ta thấy số vụ việc mà Tòa án cấp huyện
không thụ lý do không đúng thẩm quyền ở năm 2015 từ năm 2017 có sự thay
đổi liên tục. Cụ thể, năm 2016 do Luật TTHC năm 2015 chính thức có hiệu lực
nên người khởi kiện chưa năm bắt được hết các quy định về thẩm quyền giải
quyết vụ án dẫn đến số tỷ lệ vụ việc Tòa án không thụ lý do không đúng thẩm
quyền tăng cao từ 17,5 % (năm 2015) lên 21,8%, đến năm 2017 qua công tác
phổ biến giáo dục pháp luật đã khiến cho người khởi kiện có hiểu biết cơ bản
64
về Luật TTHC năm 2015 từ đó tỷ lệ vụ việc Tòa án không thụ lý do không đúng
thẩm quyền giảm mạnh, chỉ còn 5,5%. Bên cạnh đó do ý thức pháp luật và việc
chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng được nâng cao nên việc giải
quyết các vụ án được tiến hành nhanh chóng thể hiện qua tỷ lệ giải quyết các
vụ án thụ lý mới trong năm luôn đạt từ 93% trở lên.
Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực thì ý thức pháp luật và việc chấp hành
pháp luật trong giải quyết vụ án hành chính còn có những ảnh hưởng tiêu cực
đến quá trình thực hiện thẩm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung
và Viện KSND cấp huyện nói riêng. Như một bộ phận cán bộ, công chức thiếu
ý thức và tính kỷ luật: đi muộn, về sớm, lợi dụng giờ làm việc để giải quyết việc
riêng, cùng với đó là tư tưởng cá nhân của nhiều cán bộ, công chức là người có
thẩm quyền tự coi mình là người có quyền hách dịch với người khởi kiện...dẫn
đến làm giảm chất lượng xét xử, gây tốn kém về mặt vật chất và tạo nên tâm lý
ngại ngùng của một bộ phận người dân khi khởi kiện vụ án hành chính.
Không chỉ đối với đội ngũ cán bộ, công chức người tiến hành tố tụng mà
ý thức pháp luật và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng trên địa
bàn tỉnh Quảng Ngãi vẫn còn nhiều yếu kém. Nhiều người chưa nhận thức đúng,
đầy đủ về pháp luật nên không tôn trọng, thực hiện pháp luật một cách nghiêm
chỉnh, dẫn đến một số phiên hòa giải, công khai chứng cứ thậm chí là tại phiên
tòa diễn ra tình trạng ồn ào, mất trật tự, không tuân theo sự điều khiển của Chủ
tọa phiên tòa... Phổ biến hơn là việc giải quyết vụ án, việc tranh tụng gần như
không diễn ra vì đặc thù các vụ án hành chính thường chỉ có một bên (người khởi
kiện) tham gia – có mặt tại tòa, còn bên người bị kiện thì thường vắng mặt (có
đơn xin vắng mặt hợp lệ), việc đối thoại trực tiếp giữa hai bên cũng không thực
hiện được vì lý do này. Việc xác minh thu thập tài liệu chứng cứ cũng rất khó
khăn, vì tài liệu xác minh lại là tài liệu do chính bên người bị kiện đưa ra. Tại
phiên tòa, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ đọc được ý kiến của bên bị kiện và
bên khởi kiện có phản hồi lại chứ không có kết quả tranh tụng và không thực
65
hiện được trình tự hỏi đáp. Tất cả những điều này đều dẫn đến không đảm bảo
nguyên tắc tranh tụng cũng như không thực hiện được việc tranh tụng.
2.3. Đánh giá việc thực hiện thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân
cấp huyện trong giải quyết vụ án hành chính
2.3.1. Kết quả đạt được và nguyên nhân
2.3.1.1. Kết quả đạt được
Xác định công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính là khâu công
tác hết sức phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực, ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền và lợi ích của đương sự, hàng năm Viện KSND tối cao có văn bản hướng
dẫn công tác đưa ra các chỉ tiêu cụ thể. Từ đó Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi ban
hành chương trình công tác, hướng dẫn thực hiện chương trình cho các Viện
KSND cấp huyện để thuận lợi cho quá trình triển khai công tác và quản lý, chỉ
đạo. Bên cạnh đó còn Thông báo rút kinh nghiệm các vụ án hành chính bị cấp
trên hủy; Tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công
tác kiểm sát giải quyết các án hành chính nhằm tạo điều kiện nâng cao kiến
thức, chuyên môn và trách nhiệm của người cán bộ Kiểm sát.
Về phía các cơ quan có liên quan như: UBND, các phòng, ban luôn có
sự hỗ trợ và phối hợp chặt chẽ với Viện KSND cấp huyện và Tòa án cùng cấp,
đặc biệt là sự phối hợp công tác giữa Tòa án với Viện KSND trong công tác
giải quyết án hành chính, góp phần rất lớn trong việc giải quyết các vụ án hành
chính đúng quy định pháp luật, đảm bảo tính nghiêm minh và hiệu quả.
Các quy định của Luật TTHC năm 2015 và các văn bản pháp luật có liên
quan đã quy định tương đối đầy đủ và chi tiết về chức năng, nhiệm vụ cũng như
thẩm quyền của Viện KSND, thể hiện sự tiến bộ trong quá trình lập pháp. Đặc
biệt, hằng năm Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi đều xây dựng và ban hành được
văn bản Hướng dẫn Công tác kiểm sát giải quyết các vụ án Hành chính theo
quy định pháp luật để cụ thể các điều khoản của luật. KSV cấp huyện làm công
66
tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính đã nắm được chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn được pháp luật quy định để chủ động thực hiện chức trách nhiệm
vụ được giao. KSV đã sử dụng các biện pháp nghiệp vụ ngay từ giai đoạn đầu
của quá trình TTHC (kiểm sát việc thụ lý vụ án, kiểm sát việc trả lại đơn khởi
kiện), trong suốt quá trình giải quyết vụ án cho tới kiểm sát bản án, quyết định
của Tòa án theo quy định pháp luật hiện hành.
KSV cấp huyện đã chuẩn bị và tham gia đầy đủ các phiên tòa theo quy
định của Luật TTHC năm 2015. Tại phiên tòa sơ thẩm, KSV đã căn cứ vào các
quy định của Luật TTHC năm 2015 và các pháp luật có liên quan, căn cứ vào
thực tế việc giải quyết vụ án hành chính để phát biểu ý kiến đánh giá toàn diện,
có căn cứ về quan điểm giải quyết vụ án cũng như việc tuân theo pháp luật về
tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người
tham gia TTHC.
KSV đã kịp thời phát hiện những vi phạm pháp luật của các chủ thể trong
quá trình tham gia, giải quyết vụ án hành chính, trong bản án, quyết định của
Tòa án, báo cáo Viện trưởng Viện KSND thực hiện các quyền yêu cầu, kiến
nghị, kháng nghị để khắc phục vi phạm pháp luật, góp phần bảo đảm cho việc
giải quyết vụ án hành chính nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật. Điều đó
khẳng định vai trò của Viện KSND, của KSV trong TTHC là thực sự cần thiết,
từng bước đáp ứng yêu cầu của thực tiễn hiện nay khi mà ngày càng có nhiều
cá nhân, tổ chức lựa chọn khởi kiện vụ án hành chính để Tòa án giải quyết.
2.3.1.2. Nguyên nhân
Luật TTHC năm 2015 đã quy định tương đối đầy đủ và xác định rõ ràng
hơn thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong giải quyết vụ án hành chính
so với các quy định trước đây. Trình tự, thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
đã được quy định chặt chẽ, đầy đủ hơn và đã được quy chuẩn, thống nhất thực
hiện theo quy định của Luật TTHC năm 2015. Bên cạnh đó, các quy định về
67
pháp luật nội dung cũng được sửa đổi hoặc ban hành mới như Bộ luật dân sự,
Luật đất đai…theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn.
Chị thị số 04 của Viện trưởng Viện KSND tối cao được ban hành trong
giai đoạn chức năng, nhiệm vụ của ngành có thay đổi theo quy định mới của
Luật TTHC đã có tác động tích cực trong nhận thức cũng như hành động Viện
KSND cấp huyện. Chị thị 04 tạo ra sự thống nhất trong hành động, là cơ sở để
Lãnh đạo Viện KSND cấp huyện tăng cường chỉ đạo, lãnh đạo trong việc thực
hiện thẩm quyền của mình; đồng thời nâng cao tinh thần trách nhiệm của KSV.
Chị thị số 04 đã có tác động tích cực trong việc nâng cao vị thế của Viện KSND
và nâng cao uy tín của ngành cũng như giữ vững và tăng cường niềm tin của
nhân dân đối với ngành Kiểm sát nhân dân.
Công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính của toàn tỉnh luôn được
Viện trưởng Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi đặc biệt quan tâm, trực tiếp lãnh đạo,
chỉ đạo sâu sát. Bên cạnh đó, tại Viện kiểm sát cấp tỉnh công tác này luôn có sự
thống nhất, thông suốt từ cấp trên xuống cấp dưới; bảo đảm luôn bám sát đường
lối, chủ trương của Đảng, phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị địa phương.
Viện KSND tỉnh đã làm tốt công tác tổng kết thực tiễn để thông báo rút
kinh nghiệm, hướng dẫn nghiệp vụ cho Viện KSND cấp huyện. KSV, cán bộ
đã tích cực học tập, không ngừng trau dồi, tích lũy kinh nghiệm cũng như kỹ
năng để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ qua từng vụ việc.
Về cơ cấu tổ chức, biên chế cán bộ đã được tăng cường cho công tác giải
quyết vụ án hành chính. 100% KSV, cán bộ làm công tác kiểm sát giải quyết án
hành chính đã được tập huấn về nghiệp vụ và nhiều đồng chí được cử đi đào tạo
về kỹ năng, kiến thức pháp luật do Viện KSND tối cao tổ chức hàng năm.
Công tác phối hợp giữa các Viện KSND cấp huyện với Tòa án và các cơ
quan liên quan trong các hoạt động TTHC cũng được các đơn vị làm tốt. Hàng
năm, thông qua Hội nghị tổng kết hoặc các Hội nghị liên ngành, Viện kiểm sát
và Tòa án cả hai cấp đều thống nhất với nhau về nhận thức áp dụng pháp luật,
68
hỗ trợ, tạo điều kiện cho mỗi bên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, để bảo đảm
việc ra bản án của Tòa án khách quan, chính xác, đúng pháp luật.
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1. Hạn chế
Trong quá trình thực hiện thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong
việc giải quyết vụ án hành chính thấy Luật TTHC năm 2015 đã quy định tương
đối đầy đủ thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện nói chung cũng như nhiệm
vụ, quyền hạn của KSV trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính
nói riêng, tạo cơ sở pháp lý cho Viện KSND cấp huyện thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình.
Tuy nhiên, qua thực tiễn vẫn còn những tồn tại, bất cập gây khó khăn,
vướng mắc trong việc thực hiện thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong
việc giải quyết vụ án hành chính. Đó là:
- Về tổ chức bộ máy và cán bộ:
+ Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án hành chính có phạm vi rất
rộng, đòi hỏi phải tìm hiểu chuyên sâu văn bản pháp luật trên nhiều lĩnh vực,
hệ thống văn bản quy phạm pháp luật áp dụng rộng lớn, chính vì vậy nhiều đơn
vị ở cấp huyện còn thiếu cán bộ có năng lực chuyên sâu, có kinh nghiệm trong
lĩnh vực này.
+ Số lượng công chức như KSV, Kiểm tra viên, Chuyên viên ở các đơn
vị Viện KSND cấp huyện, chưa tương ứng với số lượng vụ án mà đơn vị thụ lý
kiểm sát. Việc bố trí sắp xếp KSV, Kiểm tra viên, Chuyên viên phải kiêm nhiệm
công việc khác, chưa có tính ổn định, tính chuyên sâu để thực hiện tốt thẩm
quyền của Viện kiểm sát.
+ Công tác quản lý, chỉ đạo điều hành của Viện KSND các cấp đối với án
hành chính tuy được quan tâm nhưng chưa đúng mức, chưa thường xuyên. Việc
phối hợp giữa cấp trên, cấp dưới và việc kiểm tra nghiệp vụ tuy đã thực hiện
69
nhưng chưa kịp thời, thường xuyên (2 năm 1 lần) dẫn đến kết quả thực hiện chức
năng kiểm sát đối với lĩnh vực án hành chính hiệu quả đạt được chưa cao.
+ Việc chủ động cập nhật các văn bản pháp luật cũng như các tài liệu để
áp dụng vào công tác chuyên môn của một số KSV, Kiểm tra viên, Chuyên
viên chưa kịp thời nên khi áp dụng trong thực tiễn công tác gặp nhiều khó khăn,
vướng mắc, chất lượng hiệu quả công việc không cao.
- Cơ sở vật chất, điều kiện làm việc: Cơ sở vật chất, điều kiện làm việc
chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra ở một số đơn vị Viện KSND cấp huyện nên
ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng công tác. Các điều kiện vật chất như kinh
phí và phương tiện phục vụ công tác, lưu trữ tài liệu, vận chuyển hồ sơ, thiết bị
và bảo mật thông tin chưa đáp ứng đủ yêu cầu của công tác.
- Việc phối hợp giữa Viện kiểm sát với Tòa án và các cơ quan hữu quan:
Quan hệ công tác giữa Viện kiểm sát với Toà án chưa dựa trên cơ sở chức năng,
nhiệm vụ của từng ngành, còn nể nang, khi phát hiện vi phạm nhưng không tiến
hành kiến nghị hoặc kháng nghị mà mới dừng ở việc trao đổi.
- Khó khăn, vướng mắc khi áp dụng Luật TTHC năm 2015
+ Về điều kiện thực hiện quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật: Khoản
2 Điều 25 Luật TTHC năm 2015 quy định: Viện KSND kiểm sát vụ án hành
chính từ khi thụ lý đến khi kết thúc việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên, Điều 147
Luật TTHC năm 2015 lại quy định: Viện KSND được nghiên cứu hồ sơ vụ án
từ khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử nên việc thực hiện thẩm quyền
của Viện KSND bị hạn chế.
+ Về kiểm sát việc thụ lý và trả lại đơn khởi kiện: Theo quy định tại Điều
126 Luật TTHC năm 2015, khi Tòa án thụ lý vụ án thì phải thông báo cho Viện
kiểm sát về việc thụ lý vụ án và Điều 123 Luật TTHC năm 2015 thì khi trả lại
đơn khởi kiện, Tòa án phải có văn bản ghi rõ lý do trả lại đơn khởi kiện và văn
bản trả lại đơn khởi kiện được gửi ngay cho Viện kiểm sát. Tuy nhiên, quy định
70
như trên thì Viện kiểm sát không kiểm sát được căn cứ của việc trả lại đơn khởi
kiện cũng như thụ lý. Tòa án chỉ ra thông báo trả lại đơn hoặc thụ lý nhưng lại
không có kèm theo đơn khởi kiện hoặc tài liệu liên quan để Viện kiểm sát xem
xét việc trả lại đơn, thụ lý có đúng theo quy định của pháp luật hay không.
+ Tương tự như trên, về kiểm sát quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ: Kiểm
sát quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án hành chính (Điều 145
Luật TTHC năm 2015) quy định trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày ra quyết
định, Tòa án phải gửi quyết định cho Viện kiểm sát cùng cấp. Tuy nhiên luật
không quy định khi Tòa án ra quyết định thì chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát
nghiên cứu. Vì vậy, rất khó khăn cho KSV kiểm sát việc Tòa án ra quyết định
có đảm bảo tính căn cứ và đúng pháp luật không.
+ Về việc phân công KSV tham gia phiên họp: Theo quy định tại Điều
124 Luật TTHC năm 2015, trong trường hợp người khởi kiện có khiếu nại về
việc trả lại đơn khởi kiện của Tòa án thì Tòa án phải mở phiên họp xem xét,
giải quyết khiếu nại và phiên họp có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát.
Tuy nhiên, Luật không quy định việc Tòa án khi nhận được khiếu nại về việc
trả lại đơn khởi kiện của người khởi kiện phải thông báo cho Viện kiểm sát nên
việc phân công KSV tham gia phiên họp gặp khó khăn.
+ Về thời hạn nghiên cứu hồ sơ: Luật TTHC năm 2015 và Thông tư liên
tịch số 03/2016 không quy định cụ thể về thời điểm, thời hạn Viện kiểm sát
được nhận tài liệu, hồ sơ ban đầu cũng như việc sao chụp các tài liệu để nghiên
cứu bên cạnh đó thời hạn Viện kiểm sát nghiên cứu hồ sơ trong vòng 15 ngày
là quá ngắn (Điều 231 Luật TTHC), bởi vì vụ án hành chính rất phức tạp liên
quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau nên cần nhiều thời gian để xem xét, nghiên
cứu làm ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện việc kiểm sát của Viện kiểm sát.
+ Về việc yêu cầu thu thập tài liệu, chứng cứ: Theo quy định tại khoản
6 Điều 84 Luật TTHC năm 2015 quy định Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Tòa
71
án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án. Tuy
nhiên, vấn đề đặt ra là sau khi nhận được văn bản yêu cầu của Viện kiểm sát,
nếu Tòa án cho rằng không cần thiết phải xác minh, thu thập thêm chứng cứ thì
Thẩm phán chỉ cần thông báo cho Viện kiểm sát về việc không thực hiện theo
yêu cầu của Viện kiểm sát. Như vậy, không phải trường hợp nào Viện kiểm sát
có yêu cầu thu thập, xác minh chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án thì Tòa
án bắt buộc phải thực hiện. Đây là một trong những vướng mắc khi Viện kiểm
sát thực hiện quyền yêu cầu của mình đối với Tòa án trong hoạt động TTHC.
+ Về quyền xác minh, thu thập chứng cứ: Luật TTHC chỉ quy định Viện
kiểm sát có quyền xác minh thu thập chứng cứ để thực hiện việc kháng nghị
theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, Viện kiểm sát không có quyền
xác minh thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn sơ
thẩm. Đây là khó khăn và bất cập đang cản trở đối với KSV cần sửa đổi cho
phù hợp với thực tế.
+ Sự có mặt của KSV: Khoản 2 Điều 25 Luật TTHC năm 2015 quy định:
Viện KSND kiểm sát từ khi thụ lý đến khi kết thúc việc giải quyết vụ án; tham
gia các phiên tòa, phiên họp của Tòa án. Tuy nhiên, tại Khoản 1 Điều 156 Luật
TTHC năm 2015 quy định về việc có mặt của KSV: KSV được Viện trưởng
Viện kiểm sát phân công có trách nhiệm tham gia phiên tòa, nếu vắng mặt thì
Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử. Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 162
Luật TTHC, thì các trường hợp luật quy định hoãn phiên tòa không có trường
hợp vắng mặt của KSV. Các quy định như trên rất bất cập, KSV sẽ không kiểm
sát được diễn biến tại phiên tòa để có quan điểm chính xác về tố tụng cũng như
nội dung vụ án. Trên thực tế, do khối lượng công việc tại địa phương nhiều nên
trong một số trường hợp một KSV có 02 hoặc nhiều vụ án cùng lên lịch xét xử
cùng một thời điểm hoặc cũng có trường hợp do tham gia xét xử vụ án khác
còn kéo dài thời gian nghị án.
72
+ Về thời hạn chuẩn bị xét xử: Khoản 1, 2 Điều 130 của Luật TTHC năm
2015 quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử: 04 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án đối
với trường hợp quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 116 của luật này; 02 tháng
kể từ ngày thụ lý vụ án đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều
116 của luật này. Như vậy, Khoản 1, 2 Điều 130 Luật TTHC năm 2015 chỉ quy
định thời hạn chuẩn bị xét xử đối với các trường hợp quy định tại điểm a, b
Khoản 2 Điều 116; còn các trường hợp quy định tại điểm a, b Khoản 3 Điều
116 lại không có quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử. Khi thụ lý giải quyết
đối với các trường hợp này có Tòa án áp dụng thời hạn chuẩn bị xét xử là 02
tháng, có nơi áp dụng 04 tháng dẫn đến việc kiểm sát tuân theo pháp luật của
Thẩm phán về thời hạn chuẩn bị xét xử còn gặp khó khăn.
+ Khoản 1 Điều 175 Luật TTHC năm 2015 quy định: “Tranh tụng tại
phiên tòa bao gồm việc trình bày chứng cứ, hỏi, đối đáp, trả lời và phát biểu
quan điểm lập luận, đánh giá chứng cứ, tình tiết vụ án, quan hệ pháp luật tranh
chấp và pháp luật áp dụng để giải quyết yêu cầu của đương sự trong vụ án”.
Trên thực tế giải quyết vụ án, việc tranh tụng gần như không diễn ra vì đặc thù
các vụ án hành chính thường chỉ có một bên (người khởi kiện) tham gia – có mặt
tại tòa, còn bên người bị kiện thì thường vắng mặt (có đơn xin vắng mặt hợp lệ),
việc đối thoại trực tiếp giữa hai bên cũng không thực hiện được vì lý do này.
Việc xác minh thu thập tài liệu chứng cứ cũng rất khó khăn, vì tài liệu xác minh
lại là tài liệu do chính bên người bị kiện đưa ra. Tại phiên tòa, Thẩm phán chủ
tọa phiên tòa chỉ đọc được ý kiến của bên bị kiện và bên khởi kiện có phản hồi
lại chứ không có kết quả tranh tụng và không thực hiện được trình tự hỏi đáp.
Tất cả những điều này đều dẫn đến không đảm bảo nguyên tắc tranh tụng cũng
như không thực hiện được việc tranh tụng.
+ Về việc gửi bản phát biểu của KSV: Điều 190 Luật TTHC năm 2015
quy định: “Ngay sau khi kết thúc phiên tòa, KSV phải gửi văn bản phát biểu ý
73
kiến cho Tòa án để lưu vào hồ sơ vụ án” là không phù hợp bởi vì bài phát biểu
của KSV không những căn cứ vào hồ sơ vụ án mà còn căn cứ nội dung xét hỏi,
kết quả tranh luận, các tài liệu, chứng cứ phát sinh tại phiên tòa từ đó KSV mới
có thể xây dựng bài phát biểu đầy đủ và đưa ra được quan điểm giải quyết vụ
án được chính xác nhất nên ngay sau khi kết thúc phiên tòa KSV không thể gửi
ngay bài phát biểu được.
+ Về thẩm quyền ban hành kháng nghị: Khoản 2 Điều 42 Luật TTHC
quy định khi Viện trưởng vắng mặt, một Phó Viện trưởng được Viện trưởng ủy
nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng trừ quyết định kháng
nghị quy định tại điểm d khoản 1 Điều này. Tuy nhiên, Điều 2 Thông tư liên
tịch số 03/2016/TTLT-VKSTC-TANDTC ngày 31/8/2016 của Viện KSND tối
cao và TAND tối cao thì quy định Phó Viện trưởng được quyền ký quyết định
kháng nghị. Như vậy hai quy định trên mâu thẫn với nhau.
+ Về việc đảm bảo thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị: Luật
TTHC năm 2015 đã quy định nhiệm vụ, quyền hạn của KSV tuy có rõ ràng, cụ
thể hơn nhưng không quy định các biện pháp bảo đảm cho KSV thực hiện
quyền của mình như chưa có hướng dẫn cụ thể việc thực hiện yêu cầu của Viện
kiểm sát, thời hạn thực hiện yêu cầu của Viện kiểm sát là bao lâu, nếu Tòa án,
cơ quan tổ chức không thực hiện những nội dung mà Viện kiểm sát đã yêu cầu,
kháng nghị, kiến nghị thì biện pháp tác động của Viện kiểm sát cụ thể như thế
nào, và sẽ có chế tài ra sao.
2.3.3.2. Nguyên nhân
Việc còn tồn tại những sai sót như trên trong quá trình kiểm sát việc giải
quyết các vụ án hành chính của Viện KSND do những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, nhóm nguyên nhân do quy định của pháp luật
- Cơ sở pháp lý trong quá trình thực hiện công tác kiểm sát giải quyết
các vụ án hành chính còn có chồng chéo, mâu thuẫn và bất cập, vướng mắc;
74
chưa quy định đầy đủ, rõ ràng trách nhiệm của cá nhân, tổ chức có liên quan;
Một số quy định hiện nay không còn phù hợp với sự chuyển biến của nền kinh
tế, xã hội hiện tại, chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn nên một số trường hợp
phát sinh, vẫn chưa có quy định cụ thể để xem xét điều chỉnh.
- Các khiếu kiện hành chính hiện nay chủ yếu liên quan đến lĩnh vực
quản lý đất đai như việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi, hỗ
trợ tái định cư... Đây là lĩnh vực mà pháp luật điều chỉnh, chế độ chính sách có
liên quan luôn thay đổi, liên quan đến quyền và nghĩa vụ của đương sự trong
một thời gian dài. Vì vậy, khó khăn trong công tác kiểm sát giải quyết nếu cán
bộ thụ lý vụ án không kịp thời cập nhật đầy đủ các quy định pháp luật về lĩnh
vực này nằm ở nhiều văn bản pháp luật.
- Các vụ án hành chính đều là những vụ án phức tạp, có phạm vi rất rộng
để giải quyết chính xác phải nghiên cứu toàn diện các văn bản pháp luật trên
nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong lĩnh vực đất đai, xây dựng,... vốn là những văn
bản pháp luật còn nhiều bất cập, chồng chéo, chưa có hướng dẫn cụ thể khiến
công tác thực thi và áp dụng pháp luật chưa thống nhất.
- Luật TTHC năm 2015 còn có một số nội dung quy định chưa phù hợp
với thực tiễn, thậm chí có điều luật chưa rõ ràng, dẫn đến việc thực hiện có
những vướng mắc trong quá trình kiểm sát án hành chính.
Thứ hai, nhóm nguyên nhân xuất phát từ các cơ quan liên quan
- Quan hệ phối hợp với Tòa án trong công tác có lúc có việc còn chưa
được thực hiện tốt do còn tư tưởng nể nang, khi phát hiện vi phạm không kịp
thời thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định mà mới chỉ
dừng lại ở việc trao đổi, góp ý và cho khắc phục.
- Ý thức tuân thủ pháp luật của các cán bộ, công chức trong các cơ quan
hành chính Nhà nước chưa cao, dẫn đến tình trạng xâm phạm đến quyền lợi
của công dân nên việc khiếu kiện hành chính ngày càng nhiều và phức tạp, kéo
75
dài. Bên cạnh đó, các cơ quan hành chính nhà nước thường lợi dụng các mối
quan hệ, tác động đến việc giải quyết vụ án hành chính của Tòa án làm ảnh
hưởng đến việc thực thi pháp luật không nghiêm.
Thứ ba, nhóm nguyên nhân xuất phát từ nội bộ Viện KSND cấp huyện
- Tinh thần, trách nhiệm của KSV, Kiểm tra viên, Chuyên viên trong
thực hiện công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính ở các Viện KSND
cấp huyện có lúc, có nơi chưa thể hiện hết trách nhiệm, thiếu kinh nghiệm, một
số cán bộ chưa cập nhật đầy đủ các quy định pháp luật liên quan đến vụ án cần
giải quyết dẫn đến việc kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính đạt hiệu quả
chưa cao.
- Sự thay đổi nhận thức về chức năng nhiệm vụ của ngành trong thời gian
dài đã khiến cho các cán bộ, KSV chưa xác định đầy đủ vị trí và tầm quan trọng
của công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính.
- Các vụ án hành chính liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng
năng lực, kỹ năng nghề nghiệp của KSV còn hạn chế, chưa cập nhật kịp thời
các văn bản pháp luật có liên quan; một số KSV chưa nhận thức và thực hiện
đúng và đầy đủ quyền và trách nhiệm của mình.
- Một số đơn vị có án hành chính không nhiều nên các KSV lơ là, không
chịu khó học tập, nghiên cứu văn bản trong lĩnh vực giải quyết án hành chính,
dẫn đến khi phải giải quyết vụ án hành chính thì lúng túng, vướng mắc, thiếu
tự tin dẫn đến chất lượng công tác kiểm sát giải quyết án chưa tốt.
- Tại Viện KSND huyện, KSV phải kiêm nhiệm nhiều khâu công tác, cụ
thể phải giải quyết các vụ án trong nhiều lĩnh vực khác nhau như hình sự, dân
sự, hôn nhân gia đình, hành chính, kinh doanh thương mại, lao động....và tham
gia kiểm sát các hoạt động tư pháp như: Thi hành án hình sự, thi hành án dân
sự, khiếu tố, tin báo tố giác tội phạm... Do đó, tính chuyên sâu về mặt nghiệp
vụ đối với lĩnh vực án hành chính còn hạn chế.
76
Thứ tư, nhóm nguyên nhân do hoạt động chỉ đạo, điều hành
- Một số cán bộ lãnh đạo ở một vài Viện KSND cấp huyện còn thiếu
quan tâm, chỉ đạo, đôn đốc công việc đối với hoạt động của cán bộ thuộc đơn
vị mình quản lý, chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của công tác kiểm sát việc
giải quyết các vụ án hành chính. Lãnh đạo một số Viện KSND cấp huyện chưa
thực sự quan tâm, đầu tư cho công tác này, chưa bố trí đủ KSV, hoặc bố trí
KSV chưa có kinh nghiệm, năng lực để làm công tác kiểm sát giải quyết các
vụ án hành chính.
- Công tác quản lý, chỉ đạo điều hành của lãnh đạo Viện KSND cấp tỉnh
có lúc còn chưa sâu sát, chưa thường xuyên. Công tác đào tạo và bồi dưỡng có
chuyển biến tích cực nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhiều so với yêu cầu ngày
càng cao của công cuộc cải cách tư pháp. Công tác hướng dẫn nghiệp vụ của
Viện KSND cấp tỉnh một số nội dung chưa kịp thời, chưa thường xuyên, chưa
bám sát yêu cầu thực tiễn cấp thiết ở cơ sở.
77
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Xuất phát từ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật nói chung và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết vụ án hành chính nói
riêng, Luật TTHC đã quy định thẩm quyền giải quyết vụ án của Viện KSND
cấp huyện nhằm làm cho tất cả các hoạt động của TAND, người tiến hành tố
tụng và những người tham gia tố tụng trong việc giải quyết vụ án hành chính ở
cấp huyện luôn có sự kiểm sát của Viện KSND để đảm bảo cho việc giải quyết
nghiêm chỉnh và thống nhất.
Trong Chương này, Luận văn đã tập trung làm rõ thực tiễn áp dụng pháp
luật trong việc thực hiện thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính của Viện
KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Cụ thể Luận văn đã phân tích
làm rõ những ưu điểm, hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện
thẩm quyền kiểm sát thụ lý vụ án hành chính, kiểm sát việc ra bản án, quyết
định tố tụng, tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ án hành chính, thực
hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị đối với Toà án.
Dựa trên những hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện thẩm
quyền giải quyết vụ án hành chính qua thực tiễn của công tác tại địa phương
Luận văn sẽ đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật. Vấn đề này sẽ được triển khai nghiên cứu cụ thể tại Chương 3 của
bản Luận văn.
78
Chương 3
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TRONG GIẢI
QUYẾT VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
3.1. Các giải pháp chung
3.1.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
Hiện nay Đảng và Nhà nước ta đang thực hiện cải cách hành chính, tư
pháp, trong khi đó công tác giải quyết án hành chính liên quan đến các CQNN
ban hành các quyết định hành chính và thực hiện các hành vi hành chính là người
có chức vụ quyền hạn trong hệ thống chính trị. Vì vậy, cần phải tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của ngành KSND, thường xuyên và toàn
diện để công tác kiểm sát giải quyết án hành chính đạt hiệu quả.
Trên cơ sở quán triệt các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội về công tác tư
pháp và cải cách tư pháp, Ban cán sự Đảng ở các cấp cần tiếp tục kịp thời xây
dựng và ban hành các Nghị quyết, Chỉ thị về lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực
hiện các nhiệm vụ trọng tâm trong công tác kiểm sát giải quyết các vụ án hành
chính, chú trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao bản lĩnh chính
trị, phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm cho cán bộ, KSV. Tăng cường công
tác thanh tra, kiểm tra nghiệp vụ tập trung vào việc khắc phục những hạn chế,
thiếu sót vẫn còn tồn tại, tránh để tình trạng vụ án bị kéo dài, gây bức xúc và
đơn thư khiếu nại vượt cấp.
3.1.2. Nhóm giải pháp về thực hiện và hoàn thiện pháp luật
- Về thực hiện pháp luật
Để khắc phục những hạn chế, tồn tại nêu trên, nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả của công tác kiểm sát của Viện KSND cấp huyện trong việc giải quyết
vụ án hành chính, trước hết mỗi cá nhân cán bộ ngành kiểm sát và các Viện KSND
79
cấp huyện cần thực hiện nghiêm túc các quy định của Luật tổ chức Viện KSND
năm 2014, Luật TTHC năm 2015 và các văn bản pháp luật có liên quan, bảo đảm
thực hiện đúng, đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của Viện KSND cấp huyện.
- Về hoàn thiện pháp luật
+ Về điều kiện thực hiện quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật:
Cần bổ sung quy định Viện KSND có quyền kiểm tra, sao chép tài liệu
có trong hồ sơ vụ án từ khi thụ lý đến khi kết thúc việc giải quyết vụ án. Như
vậy sẽ đảm bảo chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHC của
Viện KSND theo quy định tại Khoản 2 Điều 25 Luật TTHC năm 2015.
+ Về kiểm sát việc thụ lý và trả lại đơn khởi kiện, kiểm sát quyết định
tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án
Cần bổ sung quy định khi Tòa án ban hành các thông báo thụ lý vụ án,
văn bản trả lại đơn khởi kiện, Quyết định tạm đình chỉ và Quyết định đình chỉ
vụ án theo các Điều 123, 126, 141, 143 Luật TTHC năm 2015 thì cần phải sao
gửi các căn cứ để ban hành các thông báo, quyết định trên. Điều này sẽ tránh
được tình trạng Viện KSND chỉ kiểm sát về mặt hình thức của các thông báo,
quyết định mà sẽ kiểm sát được nội dung các thông báo, quyết định Tòa án ban
hành có đúng hay không, đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của công dân, tổ
chức khi tham gia vụ án hành chính.
+ Về sự tham gia phiên họp giải quyết khiếu nại, kiến nghị việc trả lại
đơn khởi kiện của KSV.
Cần sửa đổi Khoản 3 Điều 124 Luật TTHC năm 2015 theo hướng nếu
đương sự hoặc KSV vắng mặt tại phiên họp giải quyết khiếu nại, kiến nghị việc
trả lại đơn khởi kiện thì Thẩm phán phải ra quyết định hoãn phiên họp. Bên cạnh
đó cần có quy định khi Tòa án nhận được khiếu nại về việc trả lại đơn khởi kiện
của người khởi kiện phải thông báo ngay trong ngày cho Viện kiểm sát. Như vậy
sẽ đảm bảo sự khách quan, công bằng, đúng theo quy định của pháp luật.
80
+ Về sự tham gia phiên tòa của KSV
Cần sửa đổi Khoản 1 Điều 156, Điều 162, Điều 232 Luật TTHC năm
2015 theo hướng nếu KSV vắng mặt tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử phải ra
quyết định hoãn phiên tòa. Điều này sẽ phù hợp với các quy định của pháp luật
về chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện KSND, đảm bảo KSV thực
hiện tốt chức năng, nhiệm vụ kiểm sát hoạt động tố tụng của Thẩm phán, Hội
đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, các đương sự tham gia tố tụng.
+ Về quyền thu thập tài liệu, chứng cứ của KSV
Cần bổ sung quy định tại Khoản 6 Điều 84 Luật TTHC năm 2015 theo
hướng Viện KSND có quyền tự mình xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ khi
Tòa án không thực hiện theo yêu cầu thu thập tài liệu, chứng cứ của Viện KSND.
Bên cạnh đó bổ sung các biện pháp cụ thể để KSV thực hiện quyền thu thập, tài
liệu chứng cứ. Bổ sung quy định xử lý hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu
thập chứng cứ của Viện KSND; xử lý hành vi của cơ quan, tổ chức, cá nhân
không thi hành quyết định của Viện KSND về việc cung cấp tài liệu, chứng cứ
cho Viện KSND. KSV là người trực tiếp tiến hành tố tụng, quá trình thu thập tài
liệu, chứng cứ đóng vai trò rất quan trọng trong việc giải quyết vụ án một cách
đúng đắn, chính xác. Chính vì vậy, cần có chế tài xử lý những hành vi cản trở,
không thực hiện yêu cầu của Viện KSND trong hoạt động này.
+ Việc tham gia phiên tòa của người bị kiện
Có chế tài riêng biệt đối với người bị kiện không tham gia phiên tòa trong
các vụ án hành chính yêu cầu hủy quyết định hành chính, hành vi hành chính của
UBND, Chủ tịch UBND, các quyết định hành chính, hành vi hành chính của
CQNN bị khởi kiện. Khắc phục được hạn chế này thì nguyên tắc tranh tụng của
các đương sự mới phát huy hiệu quả trong thực tế. Cần sửa đổi, bổ sung Điều 60
Luật TTHC theo hướng bắt buộc người bị kiện là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, Uỷ
ban nhân dân phải tham gia phiên tòa và quy định biện pháp để thực hiện.
81
+ Về thời hạn chuẩn bị xét xử:
Cần sửa đổi, bổ sung quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử với những vụ
án thuộc điểm a, b Khoản 3 Điều 116 Luật TTHC năm 2015.
+ Về việc gửi bài phát biểu của KSV
Sửa đổi, bổ sung Điều 190 Luật TTHC năm 2015 về thời hạn cụ thể gửi
bài phát biểu của KSV tham gia phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm lưu trong hồ
sơ vụ án là 05 ngày làm việc kể từ khi kết thúc phiên tòa.
+ Về thẩm quyền ban hành kháng nghị:
Cần sửa đổi Điều 2 Thông tư liên tịch số 03/2016/TTLT-VKSTC-
TANDTC ngày 31/8/2016 của Viện KSND tối cao và TAND tối cao theo
hướng Phó viện trưởng không được quyền ký kháng nghị theo thủ tục phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Tòa án để phù hợp với
quy định của Luật TTHC năm 2015.
+ Về việc đảm bảo thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị:
Cần bổ sung quy định đảm bảo thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng
nghị cũng như có hướng dẫn cụ thể việc thực hiện yêu cầu của Viện kiểm sát
như thời hạn thực hiện yêu cầu của Viện kiểm sát là bao lâu, nếu Tòa án, cơ
quan tổ chức không thực hiện những nội dung mà Viện kiểm sát đã yêu cầu,
kháng nghị, kiến nghị thì biện pháp tác động của Viện kiểm sát cụ thể như thế
nào, và sẽ có chế tài ra sao.
Để thực hiện có hiệu quả giải pháp này thì Viện KSND tối cao cần tăng
cường tổ chức tập huấn nghiệp vụ, nhất là tập huấn Bộ luật TTHC năm 2015
và các thông tư liên tịch của Viện KSND tối cao - TAND tối cao hướng dẫn thi
hành luật này. Quán triệt sâu sắc chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát theo
tinh thần mới của Bộ luật TTHC. Nâng cao nhận thức đúng và đầy đủ quyền
yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị là quyền năng cơ bản và quan trọng nhất của
Viện kiểm sát trong TTHC để thường xuyên rèn luyện, tích lũy kinh nghiệm,
82
kỹ năng thực hiện quyền này, bảo đảm có chất lượng, đúng pháp luật và hiệu
quả cao. Bên cạnh đó Viện KSND tối cao cần nghiên cứu đề xuất với các
CQNN có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc phối hợp với TAND tối cao hướng
dẫn, giải đáp những khó khăn, vướng mắc nêu trên, tạo điều kiện thuận lợi để
các Viện KSND cấp dưới có nhận thức đúng đắn, đầy đủ và áp dụng thống nhất
pháp luật, bảo đảm việc giải quyết các vụ án hành chính và những việc khác
theo quy định của pháp luật có căn cứ, đúng pháp luật.
3.1.3. Nhóm giải pháp về công tác cán bộ
Thứ nhất, cần thực hiện tốt công tác tuyển dụng, quy hoạch, bổ nhiệm,
bố trí và sử dụng cán bộ, KSV.
Cần xác định rõ, cán bộ Kiểm sát là những người làm việc trong môi
trường công việc đặc thù, với áp lực công việc cũng như yêu cầu, đòi hỏi về
trách nhiệm rất cao. Chính vì vậy, trong quá trình thi, tuyển dụng cán bộ, trước
hết cần cải cách phương thức thi tuyển để có thể chọn được những cán bộ có
trình độ, hiểu biết sâu về kiến thức pháp luật và kiến thức xã hội, có khả năng
về ngoại ngữ, tin học, có phẩm chất đạo đức và bản lĩnh chính trị. Mặt khác,
phải tính tới việc cán bộ được tuyển dụng tương lai sẽ là những KSV thực hiện
việc tranh luận tại phiên tòa, vì vậy cần chú trọng đến công tác sơ tuyển, bảo
đảm không bị khiếm khuyết về hình thể, không nói lặp, nói nhịu, có khả năng
diễn thuyết, hùng biện trước đám đông. Có như vậy mới có thể thực hiện tốt
hoạt động tranh luận tại phiên tòa khi được bổ nhiệm KSV.
Công tác quy hoạch cán bộ phải được thực hiện thường xuyên, nhằm tạo
nguồn cán bộ cho việc thực hiện nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài của
ngành, đảm bảo được tính liên tục, kế thừa, khắc phục tình trạng thiếu hụt, chắp
vá trong công tác cán bộ. Muốn vậy, phải chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng
KSV trẻ, KSV chủ chốt của ngành, tạo điều kiện cho cán bộ trẻ có cơ hội, môi
trường thuận lợi để rèn luyện, thử thách, phát triển.
83
Quá trình bố trí, sử dụng cán bộ phải tính tới sự phù hợp về năng lực
chuyên môn, phẩm chất đạo đức của từng cán bộ, bảo đảm tính hợp lý, khoa
học trong việc bố trí, sử dụng cán bộ. Quá trình công tác cần phân công cán bộ
thử thách qua nhiều nhiệm vụ, nhiều khâu công tác cũng như cương vị công tác
khác nhau, tránh việc “đóng khung” cán bộ tại một khâu công tác nhất định,
vừa dễ nảy sinh tình trạng tiêu cực, vừa làm giảm ý chí phấn đấu, học hỏi, gây
nên tâm lý nhàm chán trong quá trình công tác.
Quá trình triển khai thi hành Luật Tổ chức Viện KSND năm 2014, đặc
biệt là các quy định về tuyển chọn, bổ nhiệm KSV, thực hiện tốt việc thi tuyển
KSV Viện KSND các cấp, đảm bảo sự công bằng, minh bạch trong công tác
tuyển dụng và bổ nhiệm cán bộ, bảo đảm sàng lọc được những cán bộ thực sự
có năng lực, trình độ cho công tác kiểm sát.
Thứ hai, phát động và thực hiện có hiệu quả phong trào tự học, tự nghiên
cứu, tự rèn luyện của đội ngũ KSV, đảm bảo đáp ứng yêu cầu về xây dựng đội
ngũ KSV “vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công
tâm và bản lĩnh, kỷ cương và trách nhiệm”.
Hoạt động kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính là lĩnh vực công tác
đặc thù, phải nghiên cứu rất nhiều nguồn văn bản quy phạm pháp luật khác
nhau, ngoài ra, trong từng vụ việc cụ thể còn phải nghiên cứu nhiều văn bản
quy định về chủ trương, chính sách, chế độ... do Đảng và Nhà nước ban hành,
trong khi đó hệ thống văn bản quy phạm pháp luật thường xuyên thay đổi. Vì
vậy, ngoài kiến thức cơ bản được đào tạo tại các trường đại học, tại các lớp tập
huấn, bắt buộc KSV phải luôn tự tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu nhằm cập nhật,
nắm vững hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hướng dẫn liên
quan. Mặt khác, hoạt động tranh luận tại phiên tòa là kỹ năng riêng có của từng
người, hệ thống các trường đại học hiện nay chưa thực sự quan tâm đào tạo về
kỹ năng này. Do đó, để có thể tranh luận tốt tại phiên tòa, bắt buộc KSV phải
84
tự học, tự rèn luyện về kỹ năng hùng biện, đối đáp, kỹ năng nghiên cứu hồ sơ,
tổng hợp chứng cứ để có thể vận dụng, sử dụng có hiệu quả trong quá trình
tranh luận tại phiên tòa.
Thứ ba, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, nâng cao ý thức chính
trị cho đội ngũ cán bộ, KSV.
Đội ngũ cán bộ, KSV là lực lượng nòng cốt của ngành Kiểm sát trong quá
trình cải cách tư pháp, xây dựng ngành. Cải cách bộ máy nhà nước nói chung,
cải cách tư pháp nói riêng trước hết phải bắt đầu từ vấn đề con người. V.I. Lênin
đã chỉ rõ: Cán bộ phải là người có phẩm chất cao quý, hiểu theo nghĩa là họ có
lòng trung thành với sự nghiệp và có năng lực, trách nhiệm. Như Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã từng nói: “Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó
do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như
ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Chính vì vậy, rèn luyện
phẩm chất đạo đức, lối sống là đòi hỏi có tính thường xuyên, liên tục đối với
người cán bộ kiểm sát. Thực hiện yêu cầu này, đòi hỏi người cán bộ kiểm sát
phải tự rèn luyện ý thức chính trị, phải nhận thức được tính chính trị trong công
việc của mình, phải luôn quán triệt đường lối, chính sách của Đảng vận dụng vào
công tác kiểm sát để thực hiện tốt chức năng của mình, phục vụ nhiệm vụ chính
trị trong từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng.
Bên cạnh việc rèn luyện về phẩm chất đạo đức, lối sống, cần phải tăng
cường rèn luyện ý thức chính trị cho đội ngũ cán bộ, KSV. Xuất phát từ đặc thù
công tác và nhiệm vụ chính trị của ngành cũng như yêu cầu của công cuộc đấu
tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ chế độ, đòi hỏi mỗi KSV không chỉ là
những người chuẩn mực trong đạo đức, lối sống mà phải thấm nhuần lý tưởng
cách mạng và ý thức chính trị. Muốn vậy, phải nâng cao hoạt động tuyên truyền,
giáo dục rèn luyện của các cấp ủy Đảng và lãnh đạo Viện kiểm sát các cấp
thông qua công tác Đảng và quản lý cán bộ. Việc phổ biến, tuyên truyền các
85
Nghị quyết của Đảng phải được thực hiện thường xuyên, thực chất và chú trọng
đến hiệu quả thực tiễn. Cần đổi mới cả về mặt nội dung và phương thức thực
hiện tuyên truyền. Mặt khác, cần phải đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, chỉnh đốn
Đảng, tăng cường quản lý cán bộ, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm điều
lệ Đảng, nội quy, quy chế của đơn vị, của ngành, các trường hợp có biểu hiện
suy thoái… Đó là những mầm mống tiêu cực cần phải phát hiện, ngăn ngừa
ngay từ đầu, vừa răn đe, vừa giáo dục nhằm rèn luyện phẩm chất chính trị và
phòng ngừa suy thoái đạo đức lối sống cho đội ngũ cán bộ KSV.
Để thực hiện tốt giải pháp này thì trước tiên Viện KSND tối cao cần tăng
cường bồi dưỡng, giáo dục về trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ KSV
để xây dựng hình ảnh người cán bộ kiểm sát mẫu mực, vững về chính trị, giỏi về
nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh, không bị chi phối vì
bất kì lý do gì. Tiếp tục quan tâm chỉ đạo, tăng cường năng lực tổ chức bộ máy
và cán bộ, bảo đảm tính chuyên sâu về tổ chức tương quan với ngành TAND.
Bên cạnh đó Viện KSND tối cao cần tăng cường công tác hướng dẫn
pháp luật và tổng kết rút kinh nghiệm theo hướng tổng hợp và hệ thống những
dạng vi phạm, thông báo rút kinh nghiệm đối với những sai sót trong việc giải
quyết các vụ án hành chính trên toàn quốc, để cho các Viện kiểm sát cấp dưới
nghiên cứu vận dụng trong quá trình giải quyết án. Tăng cường tổng kết thực
tiễn, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra nghiệp vụ của Viện KSND cấp dưới; ban
hành thông báo rút kinh nghiệm, xây dựng các chuyên đề, tài liệu tập huấn
nghiệp vụ sát với yêu cầu của cán bộ kiểm sát địa phương.
Ngoài ra Văn phòng Viện KSND tối cao và Vụ nghiệp vụ nghiên cứu bổ
sung hệ thống chỉ tiêu cơ bản đánh giá chất lượng công tác kiểm sát giải quyết
các vụ án hành chính theo hướng bổ sung các chỉ tiêu thể hiện kết quả thực hiện
thẩm quyền của Viện KSND (bên cạnh các chỉ tiêu về kháng nghị, kiến nghị);
đảm bảo hệ thống chỉ tiêu có thể đánh giá được các đơn vị nghiệp vụ đã thực
86
hiện tốt thẩm quyền của Viện KSND trong quá trình giải quyết vụ án hành chính,
góp tích cực vào nâng cao chất lượng giải quyết án hành chính của Tòa án.
3.1.4. Nâng cao nhận thức của những người tiến hành tố tụng, người
tham gia tố tụng.
Nhà nước ta là nhà nước pháp chế xã hội chủ nghĩa, nghĩa là tất cả các
CQNN, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, nhân viên
nhà nước và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện Hiến pháp, pháp luật
một cách nghiêm chỉnh, triệt để, chính xác. Bởi vậy, nâng cao nhận thức của
người tham gia tố tụng, người tiến hành tố tụng nói riêng, cũng như của người
dân nói chung là mục tiêu quan trọng hàng đầu trong công cuộc xây dựng nhà
nước pháp quyền.
Việc tăng cường nhận thức pháp luật của nguời tiến hành tố tụng, người
tham gia tố tụng có tầm ý nghĩa rất quan trọng trong việc thực hiện các quy
định của pháp luật. Trong TTHC, bằng việc nâng cao nhận thức của người tham
gia tố tụng về vai trò của Toà án, Viện kiểm sát, người bào chữa, KSV, các
nguyên tắc bảo đảm tranh tụng…cũng góp phần nâng cao chất lượng của hoạt
động giải quyết vụ án hành chính. Để thực hiện được điều đó thì công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên của quá trình thi hành pháp luật và có
ý nghĩa, vai trò hết sức quan trọng trong việc tăng cường pháp chế, xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân. Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa quan trọng đó Đảng và Nhà nước
ta luôn quan tâm đến công tác này. Nghị quyết số 08 của Bộ Chính trị chỉ rõ:
“Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật với nhiều hình
thức phong phú, sinh động, đặc biệt là thông qua các phiên toà xét xử lưu động
và bằng những phán quyết công minh để tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp
luật cho cán bộ và nhân dân”. Chỉ thị số 32 - CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban
Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác
87
phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ,
nhân dân đã khẳng định: “Phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của
công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ của toàn bộ hệ thống chính
trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng”.
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật phải được thực hiện có trọng
điểm và gắn chặt với nhiệm vụ chính trị, có thể tập trung tuyên truyền trên báo,
đài, trang thông tin điện tử... Để nâng cao hiệu quả của công tác này, nhân tố con
người là quan trọng nhất, bởi vậy cần thường xuyên bồi dưỡng và định hướng
nội dung giáo dục pháp luật thường xuyên cho đội ngũ làm công tác giáo dục
pháp luật. Công tác này cũng cần đổi mới, đa dạng hóa nội dung, hình thức,
phương pháp. Phổ biến giáo dục pháp luật phải thường xuyên, liên tục, có tính
kế thừa, tập trung tuyên truyền những vẫn đề mang tính cấp bách; hình thức và
biện pháp tổ chức thực hiện phải dễ hiểu, dễ tiếp cận, phù hợp với đặc điểm tình
hình từng vùng, địa bàn, đối tượng, bảo đảm hiệu quả và thiết thực.
Đối với những người tiến hành tố tụng nói riêng, cần phải xây dựng đội
ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế; có phẩm chất
đạo đức trong sáng; có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, công tâm
thực hiện nhiệm vụ, bản lĩnh và có kỷ cương, ý thức tổ chức kỷ luật.
3.1.5. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho Ngành kiểm sát
Hoạt động áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ án cụ thể là một công
việc đặc biệt, đòi hỏi những người tiến hành tố tụng phải đầu tư nhiều thời gian,
công sức vào học tập nghiên cứu pháp luật, nghiên cứu hồ sơ vụ án. Chính vì
vậy, để đảm bảo hiệu quả cho hoạt động này, việc quan tâm tăng cường cơ sở
vật chất cho ngành Kiểm sát nhân dân là một yêu cầu cấp thiết. Trong những
năm qua, mặc dù đã được Đảng, Nhà nước quan tâm đến điều kiện vật chất
công tác, sinh hoạt, nhưng đến nay cơ sở vật chất chất phục vụ cho công tác
của ngành Kiểm sát nhân dân vẫn còn hạn hẹp. Vì vậy, hoạt động kiểm sát cũng
88
bị ảnh hưởng nhất định. Mặt khác, yêu cầu chất lượng, hiệu quả công việc ngày
càng tăng cao, số vụ án thụ lý tăng lên nhanh chóng, trọng trách “người bảo vệ
pháp luật” mà nhân dân giao phó đang đè nặng lên vai mỗi cán bộ, KSV Ngành
Kiểm sát nhân dân. Để đáp ứng được những yêu cầu trên, cần thiết phải tăng
cường điều kiện cơ sở vật chất cho Ngành như: Tăng cường việc cung cấp tài
liệu, văn bản pháp luật, sách báo về khoa học pháp lý; tăng cường trang thiết
bị, máy móc phục vụ việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác kiểm sát
giải quyết án...
3.2. Các giải pháp cụ thể cho tỉnh Quảng Ngãi
3.2.1. Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng
Thời gian qua, nhờ sự chỉ đạo sâu sát và kịp thời đúng đắn của các cấp ủy
Đảng trên toàn tỉnh, nhận thức của các cấp ủy, Đảng, của mỗi đảng viên và của
mỗi tổ chức Đảng, các đoàn thể và của toàn xã hội về vị trí vai trò của công tác
tư pháp nói chung, về thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong giải quyết
vụ án hành chính nói riêng có sự thay đổi lớn và nhờ đó đã có những thay đổi
trong cách nhìn nhận đánh giá, trong chính sách đối với các cơ quan tư pháp, với
Viện KSND, tạo những điều kiện thuận lợi để Viện KSND triển khai thực hiện
có hiệu quả công tác cải cách của ngành, đạt được những kết quả thành công
bước đầu có ý nghĩa rất quan trọng. Vì vậy để nâng cao hơn nữa chất lượng thực
hiện thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong giải quyết vụ án hành chính
thì cần phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng, cụ thể:
- Các Viện KSND cấp huyện phải biết luôn gắn việc thực hiện thẩm
quyền của mình trong giải quyết vụ án hành chính không tách rời sự lãnh đạo
của Đảng, tranh thủ ý kiến chỉ đạo của các cấp ủy, Đảng mà trực tiếp là Thường
vụ huyện ủy, đảm bảo gắn việc thực hiện công tác chuyên môn với việc phục
vụ nhiệm vụ chính trị địa phương. Có như vậy các Viện KSND cấp huyện mới
89
được sự đồng tình và ủng hộ của cấp ủy, Đảng địa phương, sự tạo điều kiện của
các ngành và các cấp chính quyền, đoàn thể.
- Cần phải hoàn thiện hơn nữa các Chỉ thị, đường lối của Đảng về cải
cách tư pháp nói chung, về công tác kiểm sát nói riêng để công cuộc cải cách
tư pháp ngày một sâu rộng và hiệu quả. Trước mắt là tập trung quán triệt Nghị
quyết 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020.
- Các cấp ủy, Đảng địa phương cần quan tâm hơn nữa tới công tác tư pháp
trong đó có công tác kiểm sát, phải sâu sát và kịp thời nắm bắt, có hướng chỉ đạo
công tác kiểm sát về đường lối, quan điểm trong việc thực hiện thẩm quyền của
ngành; cần chỉ đạo các phòng ban có chức năng phối hợp tốt với Viện KSND,
tạo điều kiện về mọi mặt để giúp Viện KSND tháo gỡ và khắc phục các khó
khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ; cần sâu sát với các tổ chức cấp ủy Viện KSND
cấp huyện để nắm bắt tâm tư của quần chúng, đảng viên; quản lý, kiểm tra và
đánh giá thường xuyên, chính xác tư cách đạo đức chính trị của đảng viên, chăm
lo công tác tổ chức cán bộ, giáo dục, bồi dưỡng, chọn lọc để giới thiệu cho ngành
kiểm sát những cán bộ lãnh đạo tốt có trình độ chuyên môn vững vàng, có lập
trường kiên định, phẩm chất đạo đức tốt, "vừa hồng vừa chuyên".
3.2.2. Nâng cao trình độ năng lực của cán bộ, Kiểm sát viên
3.2.2.1. Nâng cao chất lượng hoạt động của Kiểm sát viên tại phiên tòa
Một là, khi tham gia phiên tòa, KSV cần phải chuẩn bị cho mình tác
phong đàng hoàng, trang phục gọn gàng, trang nghiêm, đúng quy định của
Ngành. Nếu KSV có sự chuẩn bị chu đáo, đầy đủ, nắm vững hồ sơ vụ án, nắm
vững các quy định pháp luật, trạng thái tinh thần, sức khỏe tốt thì tính chủ động,
linh hoạt, nhạy bén, tự tin sẽ thể hiện ra bên ngoài qua tác nghiệp tại phiên tòa.
Đặc biệt, đối với các Viện KSND như: thành phố Quảng Ngãi, Đức Phổ, Bình
Sơn, đây là những địa phương có số lượng án lớn, các vụ án phức tạp, có Luật
90
sư tham gia hay có nhiều đương sự khiếu nại, khiếu kiện kéo dài thì KSV cần
phải lưu ý có sự chuẩn bị chu đáo hơn nữa, đặt ra nhiều tình huống để ứng phó.
Hai là, thực tế cho thấy việc không lập dự thảo kế hoạch tham gia hỏi và
đặc biệt các biên bản theo dõi phiên tòa của một số KSV ở các Viện KSND cấp
huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi còn sơ sài, không thể hiện được diễn biến
phiên tòa. Vì vậy, để thực hiện tốt phần xét hỏi thì KSV cần phải lập kế hoạch
hỏi với các câu hỏi dự kiến và phải tiến hành ghi chép đầy đủ ngay từ khi bắt
đầu phiên tòa. Nếu trong phần xét hỏi và tranh luận, KSV càng ghi chép đầy
đủ, chi tiết càng tốt, bởi thực tế không có gì khẳng định được rằng chúng ra sẽ
nhớ hết tất cả các câu hỏi, câu trả lời và các ý kiến trình bày của đương sự trong
quá trình xét hỏi, tranh luận. Do đó ghi chép đầy đủ và có sự đối chiếu với danh
sách câu hỏi dự kiến sẽ giúp KSV rà soát, tìm ra những mâu thuẫn, những điểm
"chốt" cần làm sáng tỏ để kịp thời bổ sung các câu hỏi thêm cũng như loại bỏ
câu hỏi trùng lặp.
Ba là, cần nhận thức đúng rằng việc đương sự đặt câu hỏi với các đương
sự khác trong phần hỏi hoàn toàn không đồng nhất với việc đương sự trình bày
ý kiến phản bác quan điểm đối phương trong phần tranh luận. Do đó, trong tình
huống Chủ tọa phiên tòa không cho phép đương sự đặt câu hỏi, KSV cần đặt câu
hỏi đối với đương sự về việc có yêu cầu được đặt câu hỏi đối với đương sự khác
hay không? Nếu có thì đề nghị Hội đồng xét xử cho phép đương sự được thực
hiện quyền của mình theo quy định của pháp luật. Cũng theo quy định của Luật
TTHC, đương sự có quyền và nghĩa vụ tự bảo vệ mình thông qua việc thực hiện
các quyền và nghĩa vụ tố tụng tại phiên tòa. Để kiểm sát quá trình này, KSV có
thể đặt câu hỏi đối với các đương sự về việc Tòa án có đảm bảo cho đương sự
được thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình trong suốt quá trình giải
quyết vụ án hay không? Bên cạnh đó, đối với những vụ án mà đương sự có thái
độ chấp hành pháp luật không tốt, không hợp tác với Tòa án như không chấp
91
hành giấy triệu tập của Tòa án, từ chối tham gia các hoạt động tố tụng trong quá
trình giải quyết vụ án thì KSV cũng cần có câu hỏi xác định lại sự việc trước khi
phát biểu quan điểm về việc chấp hành pháp luật của đương sự.
Bốn là, về bài phát biểu của KSV tại phiên tòa. Cách thức trình bày bài
phát biểu hiện nay được xây dựng thống nhất theo mẫu do Viện KSND tối cao
ban hành, KSV cần lồng ghép việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật thì sẽ có
giá trị thuyết phục hơn. Thông qua bài phát biểu, KSV phải là người chứng
minh và phải thể hiện cho đương sự thấy được vai trò, trách nhiệm của Viện
kiểm sát thực sự là một người gác cổng tố tụng nhằm đảm bảo cho đương sự
được thực hiện đúng và đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của mình tại phiên tòa, từ
đó, nâng cao vị thế của ngành kiểm sát nhân dân.
3.2.2.2. Tăng cường công tác hướng dẫn nghiệp vụ
Với thực trạng chất lượng hoạt động kiểm sát việc giải quyết vụ án hành
chính và nhu cầu công việc hiện nay, việc nâng cao trình độ, kỹ năng cho đội
ngũ KSV ở các Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi là đòi hỏi
khách quan và cấp thiết. Để thực hiện được mục tiêu này đòi hỏi Viện KSND
tỉnh Quảng Ngãi cần tăng cường công tác hướng dẫn nghiệp vụ cho đội ngũ
KSV cấp huyện. Ngoài ra công tác ban hành các thông báo rút kinh nghiệm của
Phòng 10 – Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi cũng cần phải tăng cường chứ không
phải chỉ dừng lại ban hành vừa đủ số lượng chỉ tiêu của ngành. Điều này ngoài
việc giúp các các KSV ở các địa phương nhiều án hành chính trong việc hạn
chế sai sót mà còn giúp các KSV ở những địa phương ít án có điều kiện để tiếp
xúc với các vụ án hành chính thực tế, tránh tình trạng bỡ ngỡ khi tham gia giải
quyết loại án này. Bên cạnh đó cần tổ chức các hội nghị trực tuyến hoặc các
lớp tập trung tập huấn cho các Viện KSND cấp huyện, nội dung tập huấn tập
trung vào việc rèn luyện kỹ năng viết, trình bày bài phát biểu, nâng cao kỹ năng
phân tích, tổng hợp chứng cứ, kỹ năng nói, hùng biện, diễn đạt trước đông
người. Tài liệu tập huấn được lấy từ nguồn các vụ án có thật trong tỉnh và ngoài
92
tỉnh, bảo đảm tính thiết thực và có thể vận dụng vào thực tiễn. Trước mắt, giao
cho một phòng nghiệp vụ chủ trì tổ chức tập huấn chuyên sâu kỹ năng viết bài
phát biểu cho KSV Viện KSND cấp huyện. Sau tập huấn cần yêu cầu KSV viết
báo cáo thu hoạch bằng 01 bài phát biểu từ thực tiễn xét xử để tổng hợp, đánh
giá, rút kinh nghiệm. Việc tập huấn được duy trì hàng năm, trước khi tập huấn
phải khảo sát số liệu thực tiễn, chuẩn bị tài liệu kỹ lưỡng, công phu, bảo đảm
thực chất, hiệu quả cao.
3.2.2.3. Nâng cao nhận thức của cán bộ, Kiểm sát viên
Năm 2018, các Viện KSND cấp huyện đã xác định việc nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính là “Nhiệm vụ trọng
tâm”. Điều này khẳng định về mặt nhận thức, đã có bước đổi mới then chốt và
quan trọng. Cụ thể các Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi đã
thống nhất xác định công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính là “công tác
đột phá”. Bởi công tác kiểm sát giải quyết vụ án hành chính là một bộ phận quan
trọng của chức năng Kiểm sát hoạt động tư pháp và là công việc rất khó khăn,
phức tạp. Do vậy, để bảo đảm thực hiện tốt công tác này, cần có sự đánh giá, nhìn
nhận, quan tâm đúng mức và sự chỉ đạo sát sao của Lãnh đạo Viện kiểm sát các
cấp, nhất là các đồng chí Lãnh đạo Viện kiểm sát cấp huyện. Cụ thể:
- Mỗi đơn vị cần xây dựng Kế hoạch riêng để thực hiện công tác đột phá;
trong đó xác định rõ mục đích, yêu cầu, trách nhiệm; phân công nhiệm vụ và
đề ra giải pháp cụ thể; thời gian, tiến độ thực hiện và cơ chế kiểm tra, giám sát,
đôn đốc việc thực hiện.
- Từng cán bộ, KSV cần tiếp tục quán triệt, nhận thức đúng và đầy đủ về
thẩm quyền của Viện KSND theo quy định mới của Luật TTHC năm 2015 để
nâng cao trách nhiệm trong thực thi công vụ, nhiệm vụ.
3.2.3. Đổi mới công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật
Trong nhiều năm gần đây, Viện KSND hai cấp trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi luôn chú trọng và đẩy mạnh việc thông tin, tuyên truyền. Hoạt động này đã
93
lan tỏa đến mọi tầng lớp nhân dân hiểu được trách nhiệm của cơ quan tố tụng
trong việc tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân; giúp
người dân nâng cao nhận thức về pháp luật, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng
và nền Pháp chế Xã hội chủ nghĩa. Đồng thời đây cũng là giải pháp góp phần
quan trọng nâng cao vị thế của Viện KSND trước Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
Do vậy, để phát huy tốt thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong giải quyết
án hành chính, Viện KSND hai cấp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cần tiếp tục phát
huy sức mạnh của “Kênh thông tin, tuyên truyền”, với tần suất nhiều hơn, sâu sắc
hơn về nội dung, về vai trò của người KSV Viện KSND trong việc đồng hành
cùng với người dân “Bảo vệ pháp luật”, “công bằng, lẽ phải”. Khi người dân biết
được, hiểu được và nhận thức được vị trí, vai trò của Viện kiểm sát là “Cơ quan
Bảo vệ pháp luật”, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân và được sử
ủng hộ, tin cậy của nhân dân, cũng như của toàn xã hội sẽ góp phần rất lớn cho
việc thực hiện có hiệu quả thẩm quyền của Viện KSND cấp huyện trong giải
quyết vụ án hành chính cũng như thực hiện tốt chức năng kiểm sát hoạt động tư
pháp mà Đảng và Nhà nước đã giao phó.
3.2.4. Nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo điều hành
công tác kiểm sát giải quyết án hành chính
Lãnh đạo Viện KSND hai cấp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cần tiếp tục
quán triệt và nhận thức sâu sắc về chủ trương, chiến lược cải cách tư pháp của
Đảng, quan tâm nâng cao chất lượng công tác kiểm sát giải quyết án hành chính.
Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành toàn bộ hoạt động, thao tác
nghiệp vụ của KSV trong việc áp dụng pháp luật đúng quy định, đúng quy chế
nghiệp vụ của Ngành. Người lãnh đạo phải sâu sát, linh hoạt trong quá trình
điều hành, thường xuyên nắm bắt được khối lượng công việc, mức độ phức tạp
của công việc, yêu cầu của công việc phải thực hiện trong từng thời gian cụ thể
để đôn đốc cán bộ, công chức trong đơn vị thực hiện. Để làm tốt công việc này
94
người lãnh đạo phải nắm được năng lực, khả năng, thế mạnh, sở trường cũng
như những hạn chế, nhược điểm của từng KSV để có thể phân công trong những
vụ án cụ thể nhằm phát huy tốt nhất sở trường của họ trong quá trình giải quyết
án. Chủ động trong công tác kiểm tra nhằm phát hiện những thiếu sót, tồn tại
của đơn vị, của KSV. Trên cơ sở đó định hướng, thống nhất biện pháp khắc
phục. Thực hiện nghiêm túc công tác báo cáo, trả lời thỉnh thị, kịp thời ban
hành những văn bản thông báo rút kinh nghiệm trong toàn ngành.
Lãnh đạo Viện KSND cấp huyện phải biết gắn chặt vai trò của mình là
lãnh đạo song cũng đồng thời là người quản lý. Bên cạnh đó lãnh đạo Viện
KSND cấp huyện phải trau dồi đạo đức cách mạng, nắm vững các chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Thường xuyên học
tập, cập nhật những kiến thức mới, những vấn đề về lý luận, thực tiễn mới được
bổ sung nhằm nâng cao kiến thức tổng hợp, phục vụ cho hoạt động lãnh đạo,
quản lý của người Viện trưởng đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai
đoạn hiện nay. Trước yêu cầu mới của xã hội học tập, người lãnh đạo không
chỉ hô hào mọi người học tập thường xuyên mà phải là tấm gương cho cán bộ
đơn vị về việc học tập.
Cuối cùng Lãnh đạo Viện KSND cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng
Ngãi phải tuân thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên, đồng thời cũng phải biết
tranh thủ sự ủng hộ của cấp ủy, chính quyền địa phương; tranh thủ sự giúp đỡ về
nghiệp vụ của các phòng nghiệp vụ chuyên môn. Xây dựng và duy trì tốt mối
quan hệ phối hợp công tác với các cơ quan hữu quan, đặc biệt là với các cơ quan
trong khối nội chính. Xây dựng kế hoạch tự đào tạo, đào tạo tại chỗ để nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ, KSV của đơn vị. Làm tốt công tác quy hoạch để kịp
thời bổ sung nguồn cán bộ lãnh đạo quản lý cho đơn vị mình và cho ngành.
3.2.5. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
việc giải quyết án hành chính
95
Để ngày càng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giải quyết án hành
chính, các Viện KSND trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cần tiếp tục duy trì và tăng
cường sự phối hợp giữa Viện KSND các cấp, trao đổi kinh nghiệm với các đơn
vị làm tốt, có nhiều sáng kiến, kinh nghiệm hoặc cách làm đạt chất lượng cao
trong công tác kiểm sát giải quyết án hành chính.
Hằng năm, Viện KSND hai cấp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi phải phối
hợp với Tòa án xây dựng kế hoạch xét xử các phiên tòa rút kinh nghiệm, để rút
kinh nghiệm về nghiệp vụ nhằm nâng cao chất lượng tham gia phiên tòa, kiểm
sát hoạt động xét xử của KSV trong việc giải quyết vụ án hành chính.
Các Viện KSND và Tòa án cấp huyện trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi theo
định kỳ công tác hoặc đột xuất nên tổ chức họp liên ngành để cùng bàn bạc, tháo
gỡ những khó khăn vướng mắc trong quá trình giải quyết án hành chính để tiến
đến hoàn thiện Quy chế phối hợp trong công tác giải quyết án hành chính, nhằm
tăng cường, nâng cao trách nhiệm, hiệu quả trong công tác giữa các bên.
Tăng cường sự phối hợp liên ngành giữa Tòa án và Viện kiểm sát về việc
khi Tòa án chuyển thông báo thụ lý, thông báo trả lại đơn khởi kiện cho Viện
kiểm sát thì Tòa án gửi kèm theo đơn khởi kiện và các tài liệu liên quan làm
căn cứ trả lại đơn cho Viện kiểm sát.
Viện KSND hai cấp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cần sớm cụ thể hóa nội
dung “Tăng cường quan hệ phối hợp với Tòa án cùng cấp xây dựng, sửa đổi, bổ
sung Quy chế phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân phù
hợp với quy định mới của pháp luật và chức năng, nhiệm vụ của mỗi ngành, bảo
đảm để Kiểm sát viên, Kiểm tra viên thực hiện tốt nhiệm vụ” mà Viện KSND tối
cao đã chỉ đạo theo Chỉ thị số 04 ngày 22/3/2018 của Viện KSND tối cao.
Hiện nay các Quy chế phối hợp giữa Viện KSND và TAND cấp huyện
trong việc giải quyết các vụ án hành chính trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi chưa
phù hợp với thực tế, các quy chế phối ở cấp huyện có nơi chỉ kế thừa từ quy
chế phối hợp ở cấp tỉnh mà không có sự cải biên phù hợp với tình hình từng địa
96
phương. Cá biệt có địa phương chưa ký kết quy chế phối hợp trong việc giải
quyết các vụ án hành chính theo Luật TTHC năm 2015 như: Tây Trà, Minh
Long, Sơn Tây. Vì vậy, đề nghị các Viện KSND và TAND cấp huyện cần chủ
động phối hợp sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành Quy chế phối hợp giữa Viện
KSND và TAND cấp huyện để phù hợp với quy định mới của pháp luật và chức
năng, nhiệm vụ của mỗi ngành, bảo đảm để cán bộ, KSV thực hiện tốt tốt hơn
nhiệm vụ và khắc phục những bất cập như đã nêu trên khi xem xét xử lý các án
hành chính trong thời gian qua.
Tăng cường sự giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp đối với công tác
giải quyết án hành chính; thường xuyên theo dõi, giám sát chặt chẽ việc thực
hiện chức năng của các Viện KSND cấp huyện, đặc biệt là chức năng kiểm sát
các hoạt động tư pháp trong TTHC. Chỉ đạo các ngành chức năng có liên quan
phối hợp trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ giúp cho quá trình thụ lý, giải
quyết vụ án hành chính của Tòa án được kịp thời, chính xác.
Thường trực cấp ủy Đảng ở địa phương cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo
các cơ quan, tổ chức, đoàn thể trong hệ thống chính trị ở cấp mình nêu cao tinh
thần trách nhiệm trong việc thực hiện công vụ, nhiệm vụ, phối hợp chặt chẽ,
đồng bộ với các cơ quan tiến hành tố tụng, tạo điều kiện cung cấp chứng cứ, tài
liệu liên quan để giải quyết vụ án nhưng không can thiệp, tác động vào việc
giải quyết vụ án hành chính để góp phần giải quyết những khó khăn, vướng
mắc, đặc biệt là đối với những trường hợp mà đương sự cố tình chống đối, ngăn
cản, không hợp tác với Tòa án và các cơ quan liên quan khi thực hiện công tác
đo đạc, định giá… làm cho vụ án kéo dài không được giải quyết dứt điểm, gây
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của các đương sự và ảnh hưởng đến chất lượng
việc giải quyết vụ án.
Khắc phục tâm lý thụ động, e ngại, né tránh, sợ bị ảnh hưởng bởi cơ chế
giám sát, quản lý hành chính của chính quyền địa phương, đề cao tính độc lập
của KSV trong việc kiểm sát giải quyết án hành chính.
97
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Chương 3 của Luận văn đã đưa ra các giải pháp chung và các giải pháp
cụ thể cho tỉnh Quảng Ngãi nhằm bảo đảm việc thực hiện thẩm quyền của Viện
KSND cấp huyện trong giải quyết vụ án hành chính đạt được hiệu quả cao nhất.
Ngoài ra, các giải pháp này còn góp phần giúp TAND cấp huyện có thể giải
quyết và xét xử đạt chất lượng tốt, là cơ sở để Tòa án ra bản án, quyết định
chính xác, khách quan; góp phần hạn chế kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm
hoặc đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; giải quyết dứt
điểm tranh chấp giữa người dân với các CQNN; ổn định trật tự xã hội. Qua đó,
quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức được bảo vệ kịp
thời, ý thức pháp luật của người dân được nâng cao, pháp chế xã hội chủ nghĩa
được bảo đảm, tăng cường pháp chế và bảo vệ tốt hơn lợi ích của Nhà nước,
của tập thể, các quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức.
98
KẾT LUẬN CHUNG
Trong những năm qua, với chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp
của mình, Viện KSND với vị trí, vai trò là một cơ quan tiến hành tố tụng và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ án hành chính đã
bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, góp phần
bảo vệ Nhà nước, chế độ và quyền dân chủ của công dân, đóng góp to lớn đối
với sự nghiệp cách mạng, xây dựng đất nước của Đảng và nhân dân ta. Tuy
nhiên trong quá trình thực hiện thẩm quyền của mình, các Viện KSND cấp
huyện còn tồn tại, thiếu sót cả về nhận thức lẫn về nghiệp vụ chuyên môn.
Luận văn đã phân tích, luận giải một số vấn đề lý luận và thực tiễn về việc
tham gia giải quyết vụ án hành chính của Viện KSND cấp huyện. Thông qua
việc phân tích pháp luật hiện hành và tình hình áp dụng pháp luật trên thực tế
của địa phương, Luận văn đã làm rõ những nội dung cơ bản về việc tham gia giải
quyết vụ án hành chính của Viện KSND cấp huyện, các quy định về kiểm sát thụ
lý vụ án hành chính; kiểm sát việc ra bản án, quyết định tố tụng; tham gia phiên
tòa giải quyết vụ án hành chính, kiểm sát thông qua việc thực hiện quyền yêu
cầu, kiến nghị, kháng nghị đồng thời chỉ ra một số bất cập, hạn chế của pháp luật
TTHC gây khó khăn đối với việc thực hiện thẩm quyền giải quyết vụ án hành
chính của Viện KSND để tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
Trên cơ sở mục tiêu phát triển của đất nước, công cuộc cải cách tư pháp
đã đặt ra những yêu cầu ngày càng cao cho ngành Kiểm sát, dựa theo một số
phân tích, kết quả nghiên cứu của luận văn, học viên đã đề xuất một số giải
pháp nhằm hoàn thiện về thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính của Viện
KSND cấp huyện, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay, nâng cao vai trò
của ngành Kiểm sát để góp phần cùng ngành Toà án ban hành các bản án, quyết
định đúng pháp luật. Để đạt được điều đó đòi hỏi công tác kiểm sát giải quyết
các vụ án hành chính của Viện KSND cần cố gắng nhiều hơn nữa, phát huy
những kết quả đạt được, khắc phục những thiếu sót, tồn tại góp phần hoàn thành
nhiệm vụ chung của ngành Kiểm sát./.
99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban bí thư (2003), số: 32 - CT/TW Chỉ thị về tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân, Hà Nội.
2. Ban Chấp hành Trung ương (1960), số 13-TT/TW Thông tri về việc tăng
cường lãnh đạo công tác kiểm sát, Hà Nội.
3. Ban Chấp hành Trung ương (2005), số: 49-NQ/TW Nghị quyết của Bộ
Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
4. Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1995), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8
Ban chấp hành trung ương khóa VII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách
một buớc nền hành chính, Hà Nội.
5. Bộ Chính trị (1963), số: 68-NQ/TW ngày 01/12/1963 Nghị quyết của Bộ
chính trị về công tác kiểm sát, Hà Nội.
6. Bộ chính trị (1975), Nghị quyết số 245/NQ-TW Nghị quyết về việc bãi bỏ
cấp khu, hợp nhất các tỉnh, Hà Nôị.
7. Bộ chính trị (1989), Quyết định số 83-QĐ/TW Quyết định về việc chia
tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định, Hà Nội. kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa VIII
ra nghị quyết chia tỉnh Nghĩa Bình để tái lập tỉnh Bình Định và tỉnh
Quảng Ngãi, Hà Nội.
8. Bộ Chính trị (2002), số 08 – NQ/TW Nghị quyết về “một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”. Hà Nội.
9. Bộ Chính trị (2010), Kết luận số 79-KL/TW Về Đề án đổi mới tổ chức và
hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra theo Nghị quyết
49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020, Hà Nội.
100
10. Chính phủ (1994), Nghị định 83-CP Nghị định về việc chia huyện Sơn Hà
thành huyện Sơn Tây và huyện Sơn Hà thuộc tỉnh Quảng Ngãi, Hà Nội.
11. Chính phủ (2003), Nghị định 145/2003/NĐ-CP Nghị định về việc thành
lập huyện Tây Trà; mở rộng thị trấn, thành lập xã và đổi tên xã thuộc
các huyện Bình Sơn, Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, Hà Nội.
12. Chính phủ (2005), Nghị định 112/2005/NĐ-CP Nghị định về việc thành
lập Thành phố Quảng ngãi thuộc tỉnh Quảng Ngãi, Hà Nội.
13. Chủ tịch nước (1945), số: 41 Sắc lệnh của Chủ tịch nước sô 41 ngày
03/10/1945, Hà Nội.
14. Chủ tịch nước (1957), số 004/SLT Sắc luật số 004/SLT ngày 20/7/1957
về bầu cử Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp, Hà Nội.
15. Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
16. Bùi Xuân Đức (1995), “Phân định tài phán hành chính và tư pháp hành
chính”, Nhà nước và pháp luật, số 3, tr. 3.
17. Nguyễn Duy Gia (1995), Thiết lập tài phán hành chính ở nước ta, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
18. Trần Thị Thu Hà (2015), Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong
TTHC – Qua thực tiễn thành phố Hải Phòng, Luận văn Thạc sỹ luật học,
Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, Hải Phòng.
19. Lê Văn Hảo (2017), “Những lưu ý khi kiểm sát xét xử sơ thẩm vụ án
hành chính”, Tạp chí kiểm sát, số 13/2017.
20. Trần Thị Hiền (2015), Luật TTHC 2010 và thực tiễn giải quyết các vụ
án hành chính, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường, Trường đại học
Luật Hà Nội, Hà Nội.
21. Hội đồng Nhà nước (1989), số: không số Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án dân sự, Hà Nôị.
101
22. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2016), số: 02/2016/NQ-
HĐTP Nghị quyết hướng dẫn thi hành một số quy định của Nghị quyết
số 103/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành Bộ
luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 104/2015/QH13 của Quốc hội về
việc thi hành Luật tố tụng hành chính, Hà Nội.
23. Phiên tòa rút kinh nghiệm ngày 21/02/2017 của TAND huyện Đức Phổ.
24. Phòng 10 – Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi (2015), Báo cáo số 2054/BC-
VKS-P10 Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 2015 của Phòng 10 –
Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Ngãi.
25. Phòng 10 – Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi (2016), Báo cáo số 2195/BC-
VKS-P10 Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 2016 của Phòng 10 –
Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Ngãi.
26. Phòng 10 – Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi (2017), Báo cáo số 2434/BC-
VKS-P10 Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 2017 của Phòng 10 –
Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Ngãi.
27. Phòng 10 – Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi (2017), Hướng dẫn số
432/HD-VKS-P10 Hướng dẫn Công tác kiểm sát giải quyết các vụ án
Hành chính theo quy định pháp luật năm 2017, Quảng Ngãi.
28. Phòng 10 – Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi (2018), Báo cáo số 223/BC-
VKS-P10 Báo cáo số lượng biên chế kiểm sát giải quyết vụ án hành chính
của Phòng 10 – Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Ngãi.
29. Quốc hội (1946), Hiến pháp nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa, Hà
Nội.
30. Quốc hội (1959), Hiến pháp nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa, Hà
Nội.
31. Quốc hội (1960), số: Không số Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.
102
32. Quốc hội (1960), số: Không số Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà
Nội.
33. Quốc hội (1980), Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam năm 1980, Hà Nội.
34. Quốc hội (1981), số: Không số Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.
35. Quốc hội (1981), số: Không số Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà
Nội.
36. Quốc hội (1992), Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam năm 1992, Hà Nội.
37. Quốc hội (1992), số: Không số Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.
38. Quốc hội (1992), số: Không số Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Hà
Nội.
39. Quốc hội (1995), số: 43-L/CTN Luật số 43-L/CTN ngày 28/10/1995 sửa
đổi bổ sung một số điều của Luật tổ chức Tòa án nhân dân.
40. Quốc hội (2001), Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam năm 1992, Hà Nội.
41. Quốc hội (2002), số: 33/2002/QH10 Luật của Quốc hội Tổ chức Tòa án
nhân dân, Hà Nội.
42. Quốc hội (2002), số: 34/2002/QH10 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân, Hà Nội.
43. Quốc hội (2003), số 19/2003/QH11 Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.
44. Quốc hội (2010), số 64/2010/QH12 Luật tố tụng hành chính, Hà Nội.
45. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam, Hà Nội.
46. Quốc hội (2014), số: 62/2014/QH13 Tổ chức Tòa án nhân dân, Hà Nội.
47. Quốc hội (2014), số: 63/2014/QH13 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân, Hà Nội.
103
48. Quốc hội (2015), Luật số 101/2015/QH13 Bộ luật tố tụng hình sự, Hà
Nội.
49. Quốc hội (2015), Luật số 92/2015/QH13 Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội.
50. Quốc hội (2015), Luật số 93/2015/QH13 Luật tố tụng hành chính, Hà
Nội.
51. Quốc hội (2015), Số: 104/2015/QH13 Nghị quyết về việc thi hành Luật
tố tụng hành chính, Hà Nội.
52. Lê Việt Sơn (2016), “Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong TTHC
theo luật TTHC năm 2015”, Tạp chí kiểm sát, số 05/2016.
53. Lê Phương Thanh (2015), Địa vị pháp lý của Kiểm sát viên trong TTHC
ở nước ta hiện nay, Luận văn Thạc sỹ luật học, Học viện khoa học xã
hội, Hà Nội.
54. Vũ Thư (2003), “Sự hình thành và phát triển của tư pháp hành chính ở
nước ta”, Nghiên cứu lập pháp, số 8, tr. 23.
55. Trường Đại học Luật Hà Nội (2000), Giáo trình lý luận về nhà nước và
pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
56. Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật TTHC Việt Nam,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
57. Đào Trí Úc (2002), Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam
hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
58. Ủy ban thường vụ Quốc hội (1993), Pháp lệnh về Kiểm sát viên Viện
kiểm sát nhân dân, ban hành ngày 12/5/1993.
59. Ủy ban thường vụ Quốc hội (1996), số: không số Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính, Hà Nội.
60. Ủy ban thường vụ Quốc hội (1998), số 10/1998/PL-UBTVQH10 Pháp
lệnh sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ
án hành chính, Hà Nội.
104
61. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2006), số 29/2006/PL-UBTVQH11 Pháp
lệnh sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ
án hành chính, Hà Nội.
62. Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao (2016), số:
03/2016/TTLT-VKSTC-TANDTC Thông tư liên tịch quy định việc phối
hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân trong việc thi hành
một số quy định của Luật tố tụng hành chính, Hà Nội.
63. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2016), số: 10/CT-VKSTC Chỉ thị về
tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các
vụ việc dân sự, vụ án hành chính, Hà Nội.
64. Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2018), số: 04/CT-VKS Chỉ thị về tăng
cường các biện pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát
việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động và những việc khác theo quy định của
pháp luật, Hà Nội.
65. Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi (2015), Báo cáo số 2212/BC-VKS Báo cáo
tổng kết công tác kiểm sát năm 2015 của Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi,
Quảng Ngãi.
66. Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi (2017), Báo cáo số 40/BC-VKS Báo cáo
tổng kết công tác kiểm sát năm 2017 của Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi,
Quảng Ngãi.
67. Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi (2017), Phụ lục báo cáo số lượng án và dự
kiến biên chế các đơn vị trực thuộc ban hành kèm theo Đề án kiện toàn tổ
chức bộ máy Viện KSND tỉnh Quảng Ngãi 2018-2021, Quảng Ngãi.
68. Vụ 10 – Viện KSND Tối cao (2018), Phụ lục III ban hành kèm theo Dự
thảo báo cáo sơ kết 06 tháng đầu năm 2018 về việc thực hiện quy định
pháp luật
105