THÔNG TIN EBOOK<br />
Tên sách: THẦN - NGƯỜI VÀ ĐẤT VIỆT<br />
Tác giả: Tạ Chí Đại Trường<br />
Thể loại: History<br />
Năm xuất bản: 2007<br />
Tạo và hiệu chỉnh ebook: Hoàng Nghĩa Hạnh<br />
Diễn đàn Tinh Tế<br />
Dự án ebook định dạng epub chuẩn cho mọi thiết bị di động<br />
http://dl.dropbox.com/u/46534480/library/_catalog/index.html<br />
OPDS catalog:<br />
http://dl.dropbox.com/u/46534480/library/_catalog/index.xml<br />
<br />
THẦN - NGƯỜI VÀ ĐẤT VIỆT<br />
<br />
Giới thiệu<br />
Con khỉ Tôn Hành Giả xuất thân từ đá nứt, vướng víu cái kim cô, một lần trả lời Tam<br />
Tạng, thầy mình, đang dùng dằng trên đường thỉnh kinh<br />
Tôi đi về phí trước<br />
Vị đấu chiến thắng Phật đó là của “ truyện Tàu“ truyền kì nhưng lại nói như một người<br />
dân Chàm bình thường<br />
Đi về phía trước không nhìn lại sau<br />
thì anh sẽ được giàu sang<br />
Chính cái chất người trong lốt khỉ, trong hào quang của bậc thần linh khiến nhân vật<br />
này vẫn được hiện diện giữa trần thế, nơi cửa miệng của những người kể chuyện thỉnh<br />
kinh qua một bản văn quốc ngữ đọc dưới ánh đèn điện, trong buổi lễ tống ôn miền quê<br />
Nam bộ và thấp thoáng trên những trang sách Ramayana hay trong buổi diễn Rim-kê, bên<br />
cạnh Hanuman còn lại dáng hình của bà con xưa cũ. Chính một vòng thác sinh văn hóa<br />
như thế, có vinh quang riêng của nó bởi vì nó cứ đi về phía trước mà ta có thể mượn làm<br />
hình tượng cho lí trí dõi theo tìm dạng thần hồn người trên đất Việt<br />
Tác giả: Tạ Chí Đại Trường, người Bình Định, sinh ở Nha Trang, tên được đặt theo hai<br />
địa danh ở tỉnh Khánh Hòa, nơi có Nha Trang là tỉnh lị. Học ở Bình Định, Nha Trang, Sài<br />
Gòn. Cử nhân văn khoa Đại học Văn khoa Sài Gòn 1962, Cao học sử 1964, năm thứ nhất<br />
Tiển sĩ chuyên môn Sử học 1974 cũng của Đại học này. Giải thưởng Văn chương toàn<br />
quốc (1970)- Bộ môn Sử<br />
Qua Mỹ năm 1994 ở Oklakoma City, hiện sinh sống ở Westminster California<br />
<br />
Chương 1: KHÍA CẠNH ĐỜI SỐNG TINH THẦN<br />
VIỆT VÀ CÁC TÀI LIỆU<br />
I. THẦN LINH VIỆT TRONG SÁCH VỞ VÀ ARCHÉOCULTURE<br />
Như nhiều người đã biết, tài liệu cổ về tập đoàn dân tộc sinh sống trên đồng bằng song<br />
Hồng, sông Mã, sông Cả ngày nay là của người Trung Quốc để lại. Nhưng vì tình trạng<br />
Việt cổ là một thuộc địa của Thiên Triều, nên sử kí phần rất lớn chỉ ghi chuyện chinh phạt,<br />
chiếm đóng, tổ chức cai trị địa phương cùng các hành động quấy đảo tranh giành quyền<br />
lực hoặc hành động bộc phát bên trong, hoặc do tác động của những khuynh đảo từ chính<br />
quốc ảnh hưởng đến. Qua những tài liệu như thế, thật khó tìm xem dân bản xứ nghĩ gì,<br />
ứng xử như thế nào trong cuộc sống tâm linh tuy rằng với đà mở rộng kiến thức ngày nay,<br />
người nghiên cứu cũng hé mở chút ít bằng những suy luận gián tiếp qua phương cách đối<br />
chiếu<br />
Một tầng cấp hệ thống xã hội Hùng/Lạc của ngời Việt cổ được ghi lại ít ra là đến 5 thế<br />
kỷ sau khi bị chiếm đóng, cô đọng vài dòng trong vấn đề thể chế chính trị, khai thác đất<br />
đai đã gây là nhiều tranh luận về việc giải thích chúng chưa kể những cái đuôi chắp nối về<br />
sau. Sự xuất hiện trong chính sử Trung Quốc của các “nữ tạc” Trưng, Triệu làm nổi lên<br />
trên bình diện chính trị của Đế quốc vai trò người đàn bà trong xã hội bản xứ. Một An<br />
Dương Vương ghép với nhà Triệu là nhân vật đầu tiên được phác họa có dạng hình của<br />
thời sơ sử Việt cổ. Những nhân vật ấy, ở mức độ tài liệu này chưa cho ta thấy bên trong<br />
con người họ, nhưng cũng là bằng cớ than xác đủ cho ta tin để dò hỏi tâm hồn họ. Nhưng<br />
nguồn tin lại đến rất là muộn<br />
Từ thế kỷ X, nước Việt độc lập, các triều đại cần một tập hợp dân chúng ủng hộ mình<br />
nên phải chú ý ít nhiều đến cuộc sống của họ, riêng biệt là cuộc sống tinh thần mà các nhà<br />
lãnh đạo cũng chia sẻ một phần tâm tư. Sự cảm thong này của hai lớp người ở hai đầu tầng<br />
cấp xã hội càng lúc càng phai lạt tuy không mất hẳn, dần dần chuyển qua sự tương thong<br />
thuần lý qua nghi lễ chỉ vì nhu cầu muốn xây dựng một nhà nước vững chắc đòi hỏi người<br />
cầm đầu phải mượn mô hình duy lí của Khổng Giáo. Từ khi biết có bộ (Đại) Việt sử lược<br />
(VSL) xuất hiện năm 1377(1) trước bộ Đại Việt Sử ký toàn thư (Toàn thư) lien tiếp bổ túc<br />
qua các triều đại với dạng hình hoàn chỉnh vào thế kỷ XVII(2) người ta lại có dịp so sánh<br />
để thấy sự khác biệt tâm lý ý thức của thời đại đã ảnh hưởng đến lớp người thực hiện hai<br />
bộ sử này. Riêng trong lĩnh vực ta đang bàn thì VSL đẽ chép rõ nhiều chi tiết ma thuật hơn<br />
Toàn thư, tuy sách này (phần của các tác giả thế kỷ XV) cũng không bỏ những tin tưởng<br />
thần bí xảy ra dưới tiều Trần, nối tiếp dòng tín ngưỡng của Lý, và lại còn them phần huyền<br />
thoại mới, lần này được bao bọc dưới lốt tinh thần trung quân ái quốc mở đường cho<br />
những tán tụng về sau<br />
Khi nhận ra những dòng tin tưởng bình dân của thời đại Lý, Trần vươn lên đến tầng<br />
cấp tốt đỉnh của xã hội đương thời như thế, ta không lấy làm lạ khi thấy các ông vua lưu<br />
tâm đến các thần linh được thờ phụng. trong nước và các nho sĩ thì lại thu nhặt các chuyện<br />
<br />
truyền kì để chép thành sách. Các vua cần đến một cõi thiêng liêng chưa được tập trung<br />
lắm vào tay một ông Thiên, cha của vua, nên phải cầu khấn các vị thần trong nước che chở<br />
mình chống người thù địch, chống kẻ xâm lăng. Các nho sĩ tuy có ngoi lên được một chút<br />
từ giữa triều Trần nhưng vẫn còn ở địa vị thư lại, gia thần nên trừ một vài người gượng<br />
gạo, không ai dám thẳng thắn bênh vực “chính giáo”, vả lại còn thấy mình gần gũi các tin<br />
tưởng lưu hành nên chép các truyện tích được các thời đại quan tâm, được dân chúng<br />
truyền đạt cho nhau để nhân tiện kín đáo bày tỏ quan điểm của tập đoàn mình. Việt điện u<br />
linh tập (VĐULT) và Lĩnh Nam chích quái (LNCQ)(3) thành hình trong một khung cảnh<br />
thời đại và long người như thế, cho ta những chi tiết về cuộc sống tinh thần của người dân<br />
Đại Việt lien hệ đến thần linh tới thế kỷ XV<br />
Các sách xưa của ta lưu truyền lại phần lớn không mang tính cách văn bản thời đại dứt<br />
khoát, nhưng do các nghiên cứu ngày nay, về đại thể, người ta có thể phân biệt được các<br />
phần căn bản của VĐULT là vào năm 1329 và của LNCQ là vào cuối thế kỷ XIV. VĐULT<br />
là sách viết về tập họp thần linh được chính quyền công nhận, do đó ta thấy có sự đồng<br />
long chấp thuận phụng thờ các thần linh ấy giữa chính quyền và địa phương có thần, mà<br />
phần chính quyền là đem lại tính cách định hình chính thức cho nội dung thần linh của dân<br />
chúng cung cấp. LNCQ vì là truyện dân gian nên chỉ cần có các dấu vết niên đại đủ làm<br />
khung truyện, còn nội dung thì dàn trải ra trong sự phô diễn phần ý thức xã hội đến lúc<br />
định hình trong chính sách, trên một địa vực còn mơ hồ là của nhà Triệu, của bộ Giao Chỉ,<br />
nhưng thực ra là của Đại Việt Lí, Trần thôi. Vì sách có khuynh hướng thu hẹp trong vùng<br />
đất độc lập nên từ vị trí đó sẽ ảnh hưởng đến người đọc tiếp nối tác động vào việc sang tạo<br />
những thần linh mới<br />
Rõ rang ngay từ thời xuất hiện, các tập sách đã thấm một dạng văn hóa mới trên lớp sự<br />
kiện cũ để ta bắt gặp được những biến đổi trong cách nhìn về cõi thiêng qua thòi gian, và<br />
do đó những người - thần trong chuyện của thần linh sống, dàn trải trong một thế giới phi<br />
hiện thực, phi lịch sử lại trở nên có sử tính đáng lưu ý. Cho nên trong cùng tột ẩn kín của<br />
sự kiện được phô diễn qua những từ ngữ văn hoa, mang những biến dạng văn hóa, ta thấy<br />
ra một thời đại thật sâu vào trong quá khứ. Giá như sử dụng một máy quang tuyến thời<br />
gian để soi sự kiện, ta sẽ chỉ thấy lờ mờ dáng người anh hung cứu quốc, dáng một bầy tôi<br />
trung tín, một ông vua uy vũ…mà nổi bật lên lại là một thần đá, một thần sông biển…<br />
Những “lớp đất” văn hóa trong các sách vở này, thay vì gặp rời rạc ở các công trình của<br />
những người thuộc các thời đại khác nhau- (Và điều này lại thuộc mô hình nghiên cứu<br />
khác)-lại tập trung vào trong một quyển sách, cho thấy những tầng lớp thời gian cụ thể<br />
Các tác giả về sau ghi chép dồi dào hơn- nhất là từ thế kỷ XVIII- cũng cho ta thoáng<br />
thấy những tầng lớp văn hóa trong chính ý thức của tác giả biểu lộ, trong các chuyện kể<br />
ghi chép được, nhất là ở bộ phận địa chí, nơi tụ hội dấu vết tập thể nhiều nhất. Đồ sộ hơn<br />
hết là bộ Đại Nam nhất thống chí (ĐNNTC) thành hình vào cuối thế kỷ thứ XIX, đầu thế<br />
kỷ XX trong khi người Pháp đã có mặt trên đất nước này, nhưng những người biên tập vẫn<br />
còn ở trong truyền thống cũ và cách bố trí xây dựng tác phẩm vẫn theo mô hình cũ. Đất<br />
nước không còn hẹp như thế kỷ thứ X, nhưng dân tộc không còn đứng chân trên trên vùng<br />
đất Nam-Bắc trải dài đến “…mũi Cà Mau”. Truyện tích càng nhiều, người người phức tạp<br />
nhưng hệ thống văn hóa cũ vẫn tìm cách thích ứng được theo những biến động nội chuyển<br />
của đất nước, trong dó có sự gặp gỡ lại-một thứ trở về nguồn- với những dạng hình đồng<br />
điệu ở các khu vực chính trị phía Nam. Cho nên qua những nghiên cứu của trường phái<br />
Phương Tây- của người Pháp – với những tài liệu thu thập dồi dào, quan sát tỉ mỉ, đối<br />
<br />