Thành-cát-tư Hãn và đế quốc Mông Cổ
- Phần 1
Thành Cát Hãn một nhà chinh phục đại, đế quốc Mông Cổ do ông
con cháu gây dng nên kéo i tThái Bình Dương đến tận Hắc Hải, là
một trong những đế quốc hùng mnh nhất trong lịch sử nhân loại.
1. Lược sử xứ Mạc Bắc
Những cổ tcủa Trung Hoa ít khi nhắc đến địa danh Mạc Bắc. Xứ Mạc
Bắc là min đất nằm ở phía bắc sa mạc. Sa mạc nói đến ở đây là sa mạc Qua
Bích (Gobi), theo nghĩa Mông Cổ i trống rỗng”. Bởi vậy, định được
địa giới của xứ sở bát ngát này kng phải là dễ. Đại khái thì xMạc Bắc
phía đông sát tới biển Thái Bình bao la, phía y ti ng Ob hoặc ng
Irtych, phía bắc tiếp giáp với miền ng giá quanh m tuyết phủ, mênh
mông vô tn và vô chủ, ngày nay gọi là y Lợi Á hoặc Xi Bia (Sibérie),
phía nam sa mạc Qua Bích khô cằn, nóng lạnh thất thường, vi khoảng
chênh lệch nhiệt độ giữa ban ngày và ban đêm rất cao.
Xnày nhiều thảo nguyên kế tiếp nhau, rất thuận lợi cho việc di chuyển
trên lưng ngựa, vì vy, người n xứ này, nam cũng như nữ, cưỡi ngựa giỏi
vào bậc nhất nhân loại. Hlà dân du mục, nay đây mai đó, sinh sống bằng
nghcn nuôi gia súc như bò, cừu, lạc đà, nga, nơi nào ccho gia súc
ăn thì htới, nơi nào hết cthì hbỏ đi. Thời xưa, họ nuôi rất nhiu ngựa,
bán cho người u được nhiều tiền. Họ quen uống sữa tươi và máu tươi gia
súc, ăn thịt, rất ít ăn tinh bột và rau quả.
dân xứ Mạc Bắc thể tạm chia làm ba tộc: tộc Mãn Châu (race
toungouse, mandchoue) miền đông, tộc Mông Cổ (race mongole) miền
trung tộc Đột Quyết còn gọi là Th(race turque) miền y. Một thi sĩ
Việt Nam nổi tiếng thời tin chiến là Xuân Diệu đã ca ngi thân mình óng
của con i Mạc Bắc bằng u thơ Ta u Ly hình nhịp nhàng”. Xưa
kia, hchưa quốc gia. Họ tổ chức thành những blạc mà nhng ông tù
trưởng rất nhiều quyền, kể cả quyền sinh sát. Họ giành giật nhau những
cánh đồng cỏ, cho nên chiến tranh xảy ra liên miên trên xsnày. Hsống
xen k nhau, gần như lẫn lộn với nhau, nhất là người Mông Cổ người Đột
Quyết, cho nên cũng rất kphân biệt. Ngôn ngữ của người Mông Cổ và
ngôn ng của người Đột Quyết lại cũng rất gần nhau nên càng k phân
biệt. Người Mông Ckhông có chữ viết, phải mượn chữ viết của người Duy
Ngô Nhĩ (Uyghur), một bộ lạc tộc Đột Quyết, để ghi chép sch. Bởi vậy,
nhiu người đã ghép hai tộc Thổ và ng Clàm một và gọi là tộc Thổ-
Mông (race turco-mongole).
Ngay tthời cổ đại, người Tàu đã có ti cao ngo, tự cho mình văn minh
nhất, là cái rn trụ, là trung m (Trung), đẹp nhất (Hoa), và coi
những dtộc chung quanh đều là r(TDi: Bắc Địch, Nam Man, Đông Di,
Tây Nhung). H gọi chung những ngoại tộc phương bắc này nhng rợ
Bắc Địch, sau gọi chung Hung Nô, Thát Đát, người châu Âu phiên
âm Huns, là Tartares. Hcũng còn dùng danh triêng “Hồ” để gi những
tộc người này. Danh triêng ấy được người Tàu dùng ngay tthời cổ đại
trong một chủ trương hết sức hiểm độc: Di diệt Di, dĩ Di diệt Hồ” (Lấy
người Di diệt ngưi Di, lấy người Di diệt người Hồ).
Vào thi cổ đại, địa bàn của người Mông Cổ, nm quãng giữa xứ Mạc
Bắc, rộng lớn hơn bây giờ, còn bao gm cvùng trung lưu sông Hắc Long
(Amour) phía đông, vùng núi A Nhĩ Thái (Altai) phía tây, toàn bsa
mạc Qua Bích pa nam, còn phía bc thì tiếp giáp vi miền ng tuyết
hoang vu, h Bối Gia N (Baikal) nằm quãng giữa xứ. Vào m 209
trước Công Nguyên, xMông Cổ có tên Khunnu, dưới quyền cai trị của
Modun Shanyu (vua Modun), địch thủ hùng cường nhất của người Tàu.
Những nước của người Tàu mạn ấy sợ người Hồ” đánh phá, phải xây
thành cao để ngăn chặn. (Về sau, khi thống nhất được nước Trung Hoa m
221 trước ng Nguyên, Tn Thuỷ Hoàng cho nối những quãng thành cao
ấy với nhau để thành ra Vn Trường Thành. Ri sau nữa, khoảng tthế
kthứ XIV đến thế kỷ thứ XVII, nhà Minh tu bthêm). Tthế kỷ thứ II
trước ng Nguyên đến thế kthứ I trước ng Nguyên, người Đột Quyết
nổi trội hơn cxứ Mạc Bắc. Cũng khoảng thời gian này, vua n Vũ Đế
(140-86), một chuyên viên đi thu gom đất đai, chiếm min đất nằm phía
nam sa mạc Qua Bích của người Khun mà lập ra quận Sóc Phương.
Tthế kthứ I sau ng Nguyên đến thế kỷ thứ IV, người Mãn Châu Tiên
Ty (Sien Pi) kiểm soát miền đông xứ Mạc Bắc. Miền tây là đất của A Đề Lai
(Attalia). Ông chúa Hung Nô này, có llà người Đột Quyết, mang quân sang
tận Đông Âu, chiếm đóng đồng bằng Pannonie, nay gọi là Hung Gia Li
(Hongrie). m 441, A Đ Lai m lăng đế quốc Đông La Mã (empire
byzantin), n p n đảo Ba Nhĩ n (péninsule des Balkans), năm 451
vượt ng Rhin đánh vào Pháp nhưng bthua liên qn La Mã, Burgondes,
Francs, Visigoths trên nhng nh đồng Catalauniques (ở miền Champagne
bây giờ). m sau, ông định đánh thành La (Rome), nhưng đã bgiáo
hoàng Leon le Grand thuyết phục bằng việc nộp cống phẩm. Ông chúa Hung
bằng lòng nhận cống phẩm và rút quân, quay vPannonie m 453
chết thình lình.
Vào hai thế kthứ V và th VI, người Mông CJouan Jouan làm chxứ
Mạc Bắc. Từ năm 552 đến năm 920, người Đột Quyết Yết (Tsie) chiếm ưu
thế ở miền tây. Vào hai thế kỷ thứ VII và thứ VIII, đất Mông Clà thuộc địa
của nhà Đường nước Tàu. Tthế kthứ X đến thế kthứ XII, người Mãn
Châu Khiết Đan (Khitan) lãnh đạo, lập ra nước Liêu, kế tới là người Mãn
Châu Nữ Cn (Jurchen) đứng đầu, lập ra nước Kim.
m 1206, Thiết Mộc Chân (Temujin) thống nhất được các bộ lạc Mông
Cổ, rồi gần hết các bộ lạc Mạc Bắc. Ông, rồi các con, các cháu mang qn
đi đánh pĐông-Bắc-Á, Trung-Á, y-Nam-Á, Đông-Âu, ri chiếm toàn
bnước Trung Hoa, dựng nên một đế quốc rộng lớn ttrước ca tng có.
Đế quốc đó được chia làm bn nước: một hãn quốc (nước nhỏ) Trung Á,
một hãn quốc Tây-Nam-Á, một hãn quốc Đông-Âu một đại hãn quốc
(nước lớn) Đông-Bắc-Á. Người Mông Cthống trkhông đông, bị loãng
trong những đám n bn xứ btrị. Ri khi những n btrị giành được độc
lập thì người ng Cổ bị tan biến dễ ng vào đám người bản địa, đến nay
hầu như không còn để li vết tích nào đáng kể. Ngày nay, chchính nước
Mông Cổ, nghĩa là xứ Ngoại Mông, người ta mới có thgặp những người
Mông Cthuần chủng.