AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 13 - 19<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
THÀNH PHẦN MIÊU TẢ CỦA DIỄN NGÔN NGƯỜI KỂ CHUYỆN<br />
TRONG MỘT SỐ TRUYỆN NGẮN HIỆN THỰC VIỆT NAM 1932 - 1945<br />
<br />
Phạm Thị Lương1<br />
1<br />
Trường Đại học Bạc Liêu<br />
<br />
Thông tin chung: ABSTRACT<br />
Ngày nhận bài: 20/08/2018<br />
Ngày nhận kết quả bình duyệt: Narrator’s discourse in Vietnamese realistic short stories 1932-1945 has<br />
09/11/2018 really shown an improvement in the linguistic characteristics. Writers have<br />
Ngày chấp nhận đăng: been endeavoring to bring to general realistic prose and realistic short<br />
08/2019 stories in particular the innovations in literary linguistics. Narrator’s<br />
Title: discourse of the short stories in this period has a diversity of descriptive<br />
The descriptive elements of elements, including natural description elements, descriptions of living<br />
narrator’s discourse in some conditions, figure and moods of the characters. These descriptive elements<br />
Vietnamese realistic short contribute to the transformation in the language of short stories by realistic<br />
stories in the 1932 to 1945<br />
writers.<br />
period<br />
Keywords: TÓM TẮT<br />
Narrator, discourse, realistic<br />
short story, structure, Diễn ngôn người kể chuyện trong truyện ngắn hiện thực Việt Nam 1932-1945<br />
narratology thực sự đã cho thấy được một bước chuyển biến rõ rệt trong đặc trưng ngôn<br />
Từ khóa: từ. Các nhà văn đã nỗ lực không ngừng để mang đến cho văn xuôi hiện thực<br />
Người kể chuyện, diễn ngôn, nói chung và truyện ngắn hiện thực nói riêng những sự sáng tạo, cách tân<br />
truyện ngắn hiện thực, cấu trong ngôn ngữ văn chương. Diễn ngôn người kể chuyện trong truyện ngắn<br />
trúc, tự sự học giai đoạn này có sự đa dạng trong các thành phần miêu tả, trong đó có thành<br />
phần miêu tả thiên nhiên, miêu tả hoàn cảnh sống, ngoại hình và tâm trạng<br />
của nhân vật. Các thành phần miêu tả này góp phần thể hiện sự chuyển dịch<br />
trong ngôn ngữ truyện ngắn của các nhà văn hiện thực.<br />
<br />
<br />
1. ĐẶT VẤN ĐỀ tính khái quát, tính trừu tượng, tính đa nghĩa của<br />
Diễn ngôn người kể chuyện là một phương diện ngôn ngữ, các nhà văn kiến tạo nên các lớp diễn<br />
không thể thiếu trong bất cứ một tác phẩm tự sự ngôn có thể tái hiện được toàn bộ thế giới đa sắc<br />
nào. Để khám phá chiều sâu vỉa tầng ý nghĩa ẩn màu cũng như toàn bộ đời sống xã hội phức tạp<br />
bên trong những câu chữ, bên trong hệ thống cấu của con người tùy vào điểm nhìn và nhận thức của<br />
trúc của mỗi tác phẩm, người đọc cần thâm nhập, mỗi nhà văn về hiện thực. Nói như G.N. Pospelov<br />
bóc tách lớp vỏ ngôn từ của mỗi tác phẩm. Diễn thì “Nhờ các từ của lời văn nghệ thuật mà các nhà<br />
ngôn tự sự là yếu tố hình thức của tác phẩm được văn tái hiện được những nét cá thể cùng các chi<br />
tạo nên bởi các yếu tố ngôn từ để phản ánh hiện tiết đời sống của các nhân vật, chính những nét và<br />
thực cuộc sống, khai thác chiều sâu nội tâm bí ẩn chi tiết ấy, nói chung đã làm nên “thế giới” cụ thể<br />
của con người. Bằng việc tận dụng các ưu thế về của tác phẩm” (G. N. Pospelov, 1985, tr.104).<br />
Như vậy, ngôn ngữ qua bàn tay sáng tạo của nhà<br />
<br />
<br />
<br />
13<br />
AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 13 - 19<br />
<br />
văn trở thành những lớp diễn ngôn mang tiếng nói điểm nhìn toàn tri thuật kể về sự kiện, bối cảnh<br />
và hơi thở cuộc sống. Thành phần miêu tả của của một nhân vật nào đó. Cũng có khi là diễn<br />
diễn ngôn người kể chuyện trong truyện ngắn hiện ngôn người kể chuyện ngôi thứ nhất mang điểm<br />
thực Việt Nam 1932-1945 là một thành phần thể nhìn đơn tuyến, điểm nhìn đa tuyến hoặc là điểm<br />
hiện rõ sự chuyển dịch trong ngôn ngữ so với văn nhìn phức hợp kể về câu chuyện của chính mình<br />
xuôi ở giai đoạn trước. hoặc của một người nào đó mà “tôi” chứng kiến.<br />
2. VAI TRÒ CHI PHỐI CỦA DIỄN NGÔN Trong khi thuật kể, người kể chuyện cũng xen vào<br />
NGƯỜI KỂ CHUYỆN ĐẾN TOÀN BỘ “mạng mạch” (chữ dùng của Diệp Quang Ban)<br />
CẤU TRÚC TÁC PHẨM những tiết đoạn miêu tả hoặc những tiết đoạn bình<br />
luận, đánh giá. Vì thế, diễn ngôn người kể chuyện<br />
Trong tác phẩm tự sự, diễn ngôn thể hiện rất rõ<br />
trở nên hết sức sinh động, góp phần quan trọng<br />
vai trò và tầm quan trọng của nó trong kiến tạo tác<br />
kiến tạo nên chỉnh thể nghệ thuật ngôn từ.<br />
phẩm. Chính vì thế, các nhà văn không ngừng nỗ<br />
Diễn ngôn người kể chuyện là một thành phần<br />
lực sáng tạo để các thành phần diễn ngôn luôn<br />
quan trọng góp phần xây dựng nên câu chuyện<br />
phát huy được thế mạnh của mình trong việc góp<br />
trong mỗi tác phẩm tự sự. Đây là lớp diễn ngôn<br />
phần làm nổi bật chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.<br />
thể hiện rõ nét chiều sâu cảm thức của người kể<br />
Các tác phẩm tự sự đã có sự linh hoạt, đa dạng<br />
chuyện về hiện thực cuộc sống, về “tổng hòa các<br />
trong các thành phần diễn ngôn tự sự đem lại hiệu<br />
mối quan hệ xã hội” của nhân vật. Hiện thực xã<br />
quả thẩm mỹ tích cực cho tác phẩm. Các nhà lý<br />
hội Việt Nam giai đoạn này khi đi vào tác phẩm<br />
luận văn học đã chỉ ra những dạng thức phổ biến<br />
đã được khúc xạ qua lăng kính nhận thức chủ<br />
của diễn ngôn tự sự căn cứ vào cấu trúc trong các<br />
quan của người nghệ sĩ. Bằng tài năng, tâm huyết,<br />
tác phẩm văn học như: Diễn ngôn người kể<br />
vốn sống, vốn hiểu biết sâu sắc về hiện thực cuộc<br />
chuyện và diễn ngôn của nhân vật, hay diễn ngôn<br />
sống, họ phần lớn nhận thức được bản chất của<br />
liên tục, diễn ngôn gián đoạn. Mỗi một dạng thức<br />
hiện thực, nhận thức được qui luật vận động xã<br />
diễn ngôn đều có những chức năng riêng. Diễn<br />
hội của nó và phản ánh hiện thực thông qua các<br />
ngôn người kể chuyện có hai chức năng chính là<br />
hình tượng nhân vật.<br />
“tái hiện và phân tích, lí giải thế giới khách quan<br />
Lớp diễn ngôn người kể chuyện đã góp phần thể<br />
vật chất, sự việc, con người, cảnh vật,… lí giải lời<br />
hiện sinh động hiện thực ở nhiều chiều kích khác<br />
nói, ý thức người khác” (Phương Lựu, 1997,<br />
nhau. Bằng lớp diễn ngôn này, các nhà văn đã dẫn<br />
tr.335).<br />
dắt người đọc khám phá những mâu thuẫn, những<br />
Diễn ngôn người kể chuyện là thành phần diễn<br />
va chạm, những bức tranh nhiều mảng màu hiện<br />
ngôn chủ đạo được xem là lời dẫn truyện của<br />
thực nhức nhối trong xã hội lúc bấy giờ. Tuy các<br />
người kể chuyện, giới thiệu tỉ mỉ về bối cảnh, sự<br />
nhà văn thường không trực tiếp bày tỏ sự nhận<br />
kiện, nhân vật. Thành phần diễn ngôn này bao giờ<br />
cảm của mình trước hiện thực, cũng như hạn chế<br />
cũng chiếm tỉ lệ lớn hơn diễn ngôn của nhân vật<br />
tối đa sự có mặt của mình ở trong tác phẩm,<br />
nhằm kiến tạo chỉnh thể nghệ thuật toàn vẹn. Việc<br />
nhưng thông qua lớp diễn ngôn trần thuật, miêu<br />
kể lại câu chuyện với những lời miêu tả, bình<br />
tả, bình luận, đánh giá của người kể chuyện,<br />
luận, đánh giá tạo thành lớp diễn ngôn người kể<br />
người đọc ít nhiều thấy được quan điểm, sự lý giải<br />
chuyện. Như đã biết, người kể chuyện giữ vai trò<br />
hiện thực của mỗi nhà văn. Đồng thời, diễn ngôn<br />
chi phối đến các yếu tố khác của cấu trúc tự sự<br />
người kể chuyện cũng giữ một vai trò đặc biệt để<br />
như kết cấu, cốt truyện, tình huống. Cho nên,<br />
tạo lập câu chuyện và liên kết sự vận động của<br />
người kể chuyện có thể trần thuật sự kiện theo trật<br />
nhân vật ở trong tác phẩm.<br />
tự tuyến tính, có thể kể đảo trình tự thời gian kể<br />
hoặc gián cách thời gian trần thuật. Diễn ngôn 3. CÁC THÀNH PHẦN MIÊU TẢ CỦA<br />
thuật kể của người kể chuyện thông thường là DIỄN NGÔN NGƯỜI KỂ CHUYỆN<br />
diễn ngôn của người kể chuyện ngôi thứ ba mang TRONG TRUYỆN NGẮN HIỆN THỰC<br />
điểm nhìn bên ngoài, điểm nhìn bên trong, hoặc là VIỆT NAM 1932-1945<br />
<br />
14<br />
AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 13 - 19<br />
<br />
Ở truyện ngắn hiện thực Việt Nam1932-1945, lớp miêu tả thiên nhiên không nhằm mục đích miêu tả<br />
diễn ngôn miêu tả chiếm tỉ lệ lớn nhất trong các thiên nhiên thuần túy có tính chất lãng mạn mà<br />
lớp diễn ngôn của người kể chuyện. Diễn ngôn thiên nhiên như một chất xúc tác để nhân vật nhận<br />
miêu tả xuất hiện rất thường xuyên và được đan thức rõ hơn về hiện thực. Thiên nhiên trong<br />
lồng, xen kẽ trong các lớp diễn ngôn khác nhằm truyện ngắn hiện thực đôi khi đối lập với hiện<br />
hỗ trợ cho việc tạo ra thế giới hình tượng, tạo ra thực cuộc sống của nhân vật, đôi khi lại tô đậm<br />
những bức tranh thiên nhiên, bức tranh đời sống tình cảnh bi đát của nhân vật. Dù là theo hướng<br />
xã hội trở nên chân thực, sinh động. Mọi hành nào, thì việc miêu tả thiên nhiên của các nhà văn<br />
động, sự kiện, ngoại hình, tính cách, nội tâm của hiện thực cũng không hề là việc ngẫu nhiên mà<br />
nhân vật đều trở nên sinh động nhờ lớp diễn ngôn đều là vì một dụng ý nghệ thuật nào đó.<br />
miêu tả. Nhà văn tái hiện lại cuộc sống và con Một số truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan có<br />
người dựa trên những góc nhìn để miêu tả và kiến xuất hiện hình ảnh thiên nhiên như: Báo hiếu: trả<br />
tạo một hiện thực thứ hai ở trong tác phẩm. Diễn nghĩa cha, Đàn bà là giống yếu, Kiếp tài tình,<br />
ngôn miêu tả thường có sự đan xen với diễn ngôn Anh xẩm. Các tiết đoạn miêu tả thiên nhiên trong<br />
thuật kể để bổ sung, hỗ trợ cho nhau làm nổi bật các truyện ngắn trên đôi khi được lặp lại trong tác<br />
nên hiện thực đời sống, tinh thần của nhân vật phẩm nhằm nhấn mạnh hoàn cảnh của nhân vật.<br />
bằng những ngôn từ miêu tả tạo ấn tượng thẩm Chẳng hạn, trong truyện Anh xẩm, hình ảnh thiên<br />
mĩ. Trong giai đoạn 1932-1945, các tác giả nhiên được miêu tả như một điệp khúc thê lương:<br />
Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Tô Hoài, “Mưa như rây bột, như chăng lưới”; “Gió giật<br />
Nam Cao được xem là những tác giả tiêu biểu cho từng hồi. Lá vàng trút xuống mặt đường lăn theo<br />
thể loại truyện ngắn mang đậm tính chất hiện nhau rào rào. Hơi lạnh thấm buốt đến tận xương.<br />
thực. Nguyễn Công Hoan có số lượng truyện ngắn Cây và cột đèn rú lên” (Anh xẩm). Hai tiết đoạn<br />
lớn nhất trong số các nhà văn hiện thực, là người miêu tả thiên nhiên trên được lặp lại tới 4 lần<br />
để lại dấu ấn mạnh mẽ trong việc lựa chọn các trong truyện, làm gia tăng hoàn cảnh bi đát, đáng<br />
phương thức phản ánh hiện thực. Truyện ngắn của thương của nhân vật anh xẩm. Hình ảnh thiên<br />
Nguyên Hồng và Tô Hoài lại thể hiện một cách nhiên xuất hiện trong truyện của Nguyễn Công<br />
nhận cảm và phản ánh hiện thực riêng không lẫn Hoan dường như chỉ là gió, rét, mưa, bão. Trong<br />
với các nhà văn khác. Họ có sự sáng tạo trong Báo hiếu: trả nghĩa cha, có hai tiết đoạn miêu tả<br />
nghệ thuật ngôn từ, trong cách xây dựng tình thiên nhiên cũng khắc nghiệt như chính hoàn cảnh<br />
huống, kết cấu, cốt truyện. Nam Cao lại được xem của nhân vật: “Mưa phùn. Gió bấc. Rét buốt thấu<br />
là “Người kết thúc vẻ vang cho trào lưu văn học tận xương”. Thái độ khách quan của người kể<br />
hiện thực” (Phong Lê). Bút pháp miêu tả, phản chuyện cũng được thể hiện ngay ở trong hình thức<br />
ánh hiện thực trong truyện ngắn của ông cũng tạo cấu trúc diễn ngôn miêu tả. Mỗi một câu miêu tả<br />
ra sự cuốn hút mạnh mẽ đối với người đọc. Ở mỗi đều hạn chế số âm tiết đến mức tối đa.<br />
nhà văn này, họ lại có những đặc điểm về ngôn Lớp diễn ngôn miêu tả thiên nhiên đã xuất hiện<br />
ngữ miêu tả độc đáo riêng. nhiều hơn trong truyện ngắn của Tô Hoài, Bùi<br />
3.1 Thành phần miêu tả thiên nhiên Hiển, Nam Cao. Các câu miêu tả thiên nhiên cũng<br />
dài hơn, cấu trúc nhiều thành phần hơn, đa dạng<br />
Dụng ý miêu tả thiên nhiên của các nhà văn hiện<br />
hơn. Các trường đoạn miêu tả thiên nhiên cũng<br />
thực thường khác với dụng ý miêu tả thiên nhiên<br />
tập trung hơn và nhất là các nhà văn đã chú ý sử<br />
của các nhà văn lãng mạn. Đối với các nhà văn<br />
dụng đa dạng các biện pháp nghệ thuật trong lớp<br />
lãng mạn, thiên nhiên được miêu tả như là nơi trú<br />
diễn ngôn miêu tả thiên nhiên. Thiên nhiên hiện<br />
ngụ của tâm hồn nhân vật, cũng như là nơi nhân<br />
lên trong lời miêu tả ở truyện ngắn của Tô Hoài<br />
vật hướng đến để thoát li thực tế, trốn vào mộng<br />
rất sống động và có hồn, dù là miêu tả cảnh mưa<br />
ảo. Còn thiên nhiên trong văn xuôi hiện thực nói<br />
bão, lũ lụt hay là miêu tả cảnh mùa xuân ấm áp thì<br />
chung được miêu tả để hướng nhân vật nhận ra<br />
hiện thực, chấp nhận và cải tạo hiện thực. Việc<br />
<br />
15<br />
AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 13 - 19<br />
<br />
thiên nhiên ấy cũng hiện lên đầy sức sống, âm trăng trở nên lung linh trong trí tưởng của nhân<br />
thanh và sắc màu. vật Điền. Sự mơ mộng trước thiên nhiên này đã<br />
Ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên trong truyện ngắn khiến Điền tạm thời thoát ly thực tế và anh say<br />
của Tô Hoài rất sáng, tinh tế. Dù là nói về cảnh sưa đắm chìm trong bao nhiêu là mơ tưởng, là<br />
mưa gió, nhưng ngôn ngữ sử dụng trong diễn hoài bão. Thiên nhiên huyền ảo này cũng đối lập<br />
ngôn miêu tả ở Tô Hoài vẫn có gam màu tươi với bóng tối nơi trần gian cũng như cuộc sống lầm<br />
sáng đầy hy vọng. Thiên nhiên như là cái nền để than, tù túng đang vây riết cuộc sống của Điền. Sự<br />
gợi dậy trong lòng nhân vật niềm lạc quan và tin đối lập này tác động đến tâm trạng và nhận thức<br />
tưởng vào cuộc sống, dù cuộc sống ấy có nghèo của Điền. Cuối cùng thì Điền cũng nhận ra ý<br />
túng hay cơ cực. Đây là một tiết đoạn miêu tả nghĩa đích thực của nghệ thuật và anh sẵn sàng<br />
thiên nhiên với dụng ý nghệ thuật như thế: “Trận sống trong lao khổ, mở lòng ra đón lấy những<br />
mưa đó thực to. Nước xối xuống rào rào, trắng vang động của đời.<br />
xóa. Ở những vườn chuối, nước dội lùng bùng Có thể thấy, trong truyện ngắn hiện thực thời kỳ<br />
như trống đánh. Từng cơn gió chạy dài, rít lên, này các tác giả cũng đã dành cho thiên nhiên một<br />
đập đùng đùng. Trên những mảnh sân thấp nước vị trí quan trọng. Cảnh sắc thiên nhiên đã gợi lên<br />
ngập lưng thềm. Được độ một lúc lâu, mưa dần trong lòng nhân vật những suy tư, trăn trở, những<br />
dần ngớt. Những đám mây nước tan mỏng bay kí ức. Đồng thời miêu tả nhiên nhiên như là thủ<br />
nhanh như biến. Mặt trời lại ló ra. Trời đất sáng pháp khắc họa tính cách và tâm trạng con người.<br />
ngời. Màu lá cây xanh mướt. Những con chim sáo Thiên nhiên cũng tạo dựng không gian cho nhân<br />
sậu nhanh nhẩu linh tinh bay hót từng hồi véo vật chiêm nghiệm và nhân vật bộc lộ nội tâm.<br />
von. Mưa tạnh” (Nhà nghèo). Trong diễn ngôn 3.2 Thành phần miêu tả hoàn cảnh sống của<br />
miêu tả, Tô Hoài thường xuyên sử dụng những nhân vật<br />
hình ảnh ấn tượng và vận dụng từ láy rất độc đáo.<br />
Lớp diễn ngôn miêu tả hoàn cảnh sống của nhân<br />
Bên cạnh đó, các thủ pháp nghệ thuật như so<br />
vật cho người đọc nhận thức được những vấn đề<br />
sánh, nhân hóa cũng được ông vận dụng khá<br />
nhức nhối của hoàn cảnh, đời sống, số phận của<br />
thường xuyêntrong diễn ngôn miêu tả của người<br />
nhân vật. Đây là thành phần diễn ngôn không thể<br />
kể chuyện.<br />
thiếu để làm nổi bật bức tranh hiện thực.<br />
Thiên nhiên trong truyện ngắn của Nam Cao đôi<br />
Ở truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, đôi khi<br />
khi được miêu tả để làm nổi bật sự đối lập giữa<br />
ông miêu tả hai hoàn cảnh sống đối lập (giữa<br />
cảnh lãng mạn và hiện thực cuộc sống. Nhưng<br />
người nghèo, kẻ giàu) để làm nổi bật sự bất công<br />
điều cốt yếu cuối cùng là để hướng nhân vật về<br />
trong xã hội, chẳng hạn trong truyện Hai cái<br />
thực tại, nhận thức hiện thực và cải tạo thực tại<br />
bụng, sự đối lập trong hoàn cảnh sống được hiện<br />
chứ không phải là một sự thoát li đến mộng ảo để<br />
lên qua diễn ngôn miêu tả của người kể chuyện:<br />
quên đi thực tại. Trong truyện ngắn Nam Cao,<br />
Đây là diễn ngôn miêu tả về đứa trẻ ăn xin tội<br />
ngoại cảnh có một sự tác động nhất định đến tâm<br />
nghiệp: “Hôm nay, thì nó lả đi rồi. Tai nó ù. Mắt<br />
trạng và ý thức của nhân vật.<br />
nó lóa. Nó nằm vật ở lề đường. Miệng nó há hốc<br />
Trong Giăng sáng, thiên nhiên được miêu tả với<br />
ra mà thở. Bởi vì cũng như hôm qua, và cũng như<br />
một giọng “nhại” lãng mạn dưới cái nhìn của<br />
hôm kia, hôm kìa, nó đã đi lang thang hết chỗ này<br />
Điền: “Có đọc văn thơ, mới biết giăng là một cái<br />
đến chỗ nọ, mà chẳng kiếm được tí cháo, lưng hồ”<br />
gì đẹp và quí lắm. Giăng là cái liềm vàng giữa<br />
(Hai cái bụng). Còn đây là diễn ngôn miêu tả<br />
đống sao. Giăng là cái đĩa bạc trên tấm thảm<br />
hoàn cảnh sống đầy đủ thừa mứa vật chất của cải<br />
nhung da trời. Giăng tỏa mộng xuống trần gian.<br />
của một bà lớn: “Nhà bà ấy có hàng dãy ở khắp<br />
Giăng tuôn suối mát để những hồn khát khao<br />
các phố. Ruộng, bà ấy có hàng trăm mẫu ở nhà<br />
ngụp lặn. Trăng! ơi trăng! Cái vú mộng tròn đầy<br />
quê. Tiền, cạnh tường buồng ngủ, cái két khổng<br />
mà thi sĩ của muôn đời mơn man!”. Bằng biện<br />
lồ, lúc nào cũng chứa hàng tập giấy trăm lớn. Bà<br />
pháp nghệ thuật so sánh, diễn ngôn miêu tả về<br />
<br />
<br />
16<br />
AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 13 - 19<br />
<br />
ấy có đủ điều kiện để sung sướng” (Hai cái tăng sắc thái biểu hiện. Ông cũng sử dụng nhiều<br />
bụng). từ láy gợi hình ảnh kết hợp với biện pháp tu từ so<br />
Trong truyện của Nguyễn Công Hoan, đôi khi sánh tạo ấn tượng rõ nét về hoàn cảnh tăm tối, ảm<br />
người đọc bắt gặp hoàn cảnh đáng thương của đạm buồn của nhân vật. Chẳng hạn, cũng trong<br />
một người nông dân gặp nạn, miêu tả hoàn cảnh truyện Một đám cưới, ông miêu tả: “Cả bọn đi lủi<br />
khốn khổ, bi đát của những người ăn xin, những thủi trong sương lạnh và bóng tối như một gia<br />
người vì đói quá mà ăn cắp một củ khoai, tấm đình xẩm lẳng lặng dắt díu nhau đi tìm chỗ ngủ”.<br />
bánh, hoàn cảnh đáng thương khốn khổ, nghèo Theo cấu trúc câu so sánh thông thường bao gồm:<br />
túng của những người làm nghề kép hát cũng Đối tượng được so sánh + Từ so sánh + Sự<br />
được thể hiện bằng những lời miêu tả rất chân vật làm chuẩn để so sánh<br />
thực,… Mỗi hoàn cảnh được miêu tả bằng diễn Trong diễn ngôn miêu tả ở truyện của Nam Cao,<br />
ngôn mang giọng điệu khách quan, lạnh lùng. ông đã sử dụng biện pháp so sánh ở cấp độ cao<br />
Truyện ngắn của Nguyên Hồng thường tập trung hơn. Đối tượng được so sánh không phải là sự vật<br />
vào nêu bật số phận cuộc đời nhân vật nhiều hơn hoặc phương diện thông thường và vế được so<br />
là sự kiện nên trong truyện của ông người đọc sánh cũng không phải là sự vật làm chuẩn để so<br />
thường bắt gặp nhiều tiết đoạn miêu tả hoàn cảnh sánh thông thường mà đó là một câu miêu tả trọn<br />
sống của nhân vật trong diễn ngôn của người kể vẹn về nghĩa đem so sánh với một câu miêu tả<br />
chuyện. Chẳng hạn trong các truyện: Trong cảnh trọn vẹn. Cấp độ so sánh ở đây là cấp độ ngang<br />
khốn cùng, Đây bóng tối, Hàng cơm đêm, Nhà bằng. Điểm đặc biệt nữa trong diễn ngôn này<br />
bố Nấu, Mợ Du, Người mẹ không con, Lúc Nam Cao đã sử dụng những từ láy để làm tăng<br />
chiều xuống, Hai dòng sữa, Buổi chiều xám. thêm mức độ sắc thái biểu hiện cho lời văn, đồng<br />
Gần như trong truyện nào người đọc cũng bắt gặp thời nó cũng thể hiện sắc thái bình luận, đánh giá<br />
những tiết đoạn miêu tả hoàn cảnh sống của nhân của người kể chuyện.<br />
vật. Phần lớn Nguyên Hồng quan tâm đến những<br />
3.3 Thành phần miêu tả ngoại hình nhân vật<br />
cảnh sống đói khổ của phu mỏ, thợ thuyền, của<br />
những người nông dân, những người mưu sinh Các tác giả truyện ngắn hiện thực đã có nhiều thể<br />
bằng nghề buôn thúng bán bưng. Lớp diễn ngôn nghiệm trong việc xây dựng nhân vật, trong đó có<br />
miêu tả này trong truyện ngắn của Nguyên Hồng lớp diễn ngôn miêu tả ngoại hình của nhân vật.<br />
cũng xuất hiện rất nhiều từ láy, góp phần nhấn Tuy nhiên, ở mỗi nhà văn, lớp diễn ngôn này xuất<br />
mạnh những cảnh sống qua đó nêu bật những hiện ở nhiều mức độ khác nhau.<br />
phận người đau khổ, bạc bẽo trong xã hội. Thông thường, trong truyện ngắn của Nguyễn<br />
Hoàn cảnh được miêu tả trong thế giới nghệ thuật Công Hoan, diễn ngôn miêu tả ngoại hình nhân<br />
của Nam Cao cũng ảm đạm và bi đát không kém. vật luôn ẩn trong đó giọng điệu hài hước, mỉa mai<br />
Nam Cao hướng nhiều vào việc miêu tả nhiều hoặc là chế giễu, chẳng hạn: “Quan ông lại có cái<br />
cảnh ngộ, hoàn cảnh khác nhau. Hoàn cảnh của hình thể khác hẳn. Vì ở người ngài cái gì cũng<br />
người nông dân, người trí thức đều được Nam cong, từ cái sống mũi đến cái lương tâm, từ cái<br />
Cao quan tâm khai thác sâu sắc. Trong Từ ngày lưng đến cái xử kiện” (Đàn bà là giống yếu).<br />
mẹ chết, đó là cảnh nghèo xơ xác của gia đình bé Trong lời miêu tả trên, Nguyễn Công Hoan đã sử<br />
Ninh được người kể chuyện miêu tả qua chi tiết dụng biện pháp nghệ thuật ẩn dụ để mỉa mai, chế<br />
những chiếc quần áo cũ kỹ, rách nát: “cái thì mốc giễu bản chất, tính cách xấu xa của tên quan. Ông<br />
xanh, cái thì mốc vàng, cái thì lấm tấm hoa bèo, miêu tả ngoại hình nhưng là để nói đến con người<br />
cái thì trạt những nhựa chuối, những tương, của y. Ởnhiều phân đoạn miêu tả trong các truyện<br />
những mắm, mũi dãi cùng đất cát, vò đến sái tay khác Nguyễn Công Hoan cũng dùng giọng điệu<br />
cũng không còn sạch được” (Từ ngày mẹ chết). mỉa mai chế giễu khi viết về ngoại hình nhân vật.<br />
Trong diễn ngôn miêu tả về hoàn cảnh, Nam Cao Nguyễn Công Hoan miêu tả ngoại hình nhân vật<br />
cũng sử dụng những lớp từ miêu tả tập trung làm<br />
<br />
<br />
17<br />
AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 13 - 19<br />
<br />
nhưng chủ yếu để nói về tính cách, bản chất của Lớp diễn ngôn miêu tả tâm trạng nhân vật cũng<br />
nhân vật. được các nhà văn hiện thực đi sâu thể hiện. Tuy<br />
Nam Cao đặc biệt chú ý đến việc xây dựng lớp nhiên, tùy thuộc vào cách lựa chọn ngôi kể, điểm<br />
diễn ngôn miêu tả ngoại hình của nhân vật và nhìn của người kể chuyện mà lớp diễn ngôn này<br />
thường tập trung xây dựng nhiều câu văn miêu tả xuất hiện không đồng đều ở truyện của mỗi nhà<br />
trong một phân đoạn diễn ngôn người kể chuyện. văn, mỗi giai đoạn.<br />
Người đọc bắt gặp những phân đoạn miêu tả chân Lớp diễn ngôn miêu tả tâm trạng trong truyện<br />
dung, khắc họa ngoại hình, tính cách nhân vật hết ngắn của Nguyên Hồng có cấu tạo tương đối<br />
sức độc đáo. Có những nhân vật Nam Cao miêu tả nhiều thành phần. Có những phân đoạn chủ yếu là<br />
bằng một bút pháp tả chân sắc nét. Tuy nhiên, câu ghép, hoặc câu đơn mở rộng thành phần. Ông<br />
nhiều người cho rằng khi miêu tả diện mạo nhân cũng thường sử dụng rất nhiều từ láy để gia tăng<br />
vật Nam Cao đã bị cuốn theo chủ nghĩa tự nhiên nhấn mạnh cảm xúc, tâm trạng của nhân vật,<br />
nên thế giới nhân vật của ông hiện lên ngồn ngộn chẳng hạn: “Lúc này, Quyến chán nản hết sức.<br />
những nét quái dị, xấu xí, thô mộc. Những nhân Cõi lòng nàng giống hệt chiếc đò cũ kỹ chỉ va<br />
vật như Lang Rận; mụ Lợi, Thị Nở, Nhi, Trương mạnh vào mỏm đá là tan tành, Quyến uể oải đưa<br />
Rự; Chí Phèo… dưới ngòi bút Nam Cao đã trở hai tay khoanh sau gáy, nhìn thẳng lên mui thì…<br />
nên những nhân vật hết sức xấu xí, kém cỏi về Quyến cũng thấy náo nức, rạo rực một cách khác<br />
nhan sắc. Trong khi miêu tả chân dung các nhân thường. Nàng hình như khó thở, các thớ thịt bứt<br />
vật xấu xí, Nam Cao đã thường xuyên sử dụng rứt buồn buồn. Đã thế, tiếng rên rỉ của chồng<br />
biện pháp nghệ thuật phóng đại, cường điệu và so nàng cứ rõ rệt rót vào tai nàng với tiếng ngáy dồn<br />
sánh để làm nổi bật sinh động chân dung nhân vật. dập của những khách đi đò” (Trong cảnh khốn<br />
Rõ ràng việc xây dựng lớp diễn ngôn miêu tả cùng).<br />
ngoại hình nhân vật trong truyện ngắn của Nam Có những phân đoạn miêu tả tâm trạng, hình thức<br />
Cao có một vị trí rất quan trọng trong việc nêu bật lời văn tăng dần thành phần cấu tạo như thể hiện<br />
tư tưởng về hiện thực của nhà văn chứ không chỉ cảm xúc bất chợt vỡ òa của nhân vật, rồi miên<br />
là việc thể hiện chân dung nhân vật thông thường. man trong dòng suy nghĩ. Khi miêu tả tâm trạng<br />
Dưới sự trần thuật của người kể chuyện ngôi thứ nhân vật, Nguyên Hồng thường chú ý miêu tả<br />
ba theo điểm nhìn của Từ, bức chân dung của Hộ từng chi tiết cung bậc cảm xúc, mổ xẻ tất cả<br />
hiện lên trong lúc đọc sách là bức chân dung của những vỉa tầng cảm xúc để tạo nên những phân<br />
một người trí thức đầy khắc khổ và suy tư: “Hắn đoạn diễn ngôn miêu tả chân thực và đầy xúc<br />
đang đọc sách chăm chú quá. Đôi lông mày rậm động.<br />
của hắn châu đầu lại với nhau và hơi xếch lên Trong truyện ngắn của Nam Cao, người đọc bắt<br />
một chút. Đôi mắt sáng quắc có vẻ lồi ra. Cái trán gặp rất nhiều những phân đoạn diễn ngôn miêu tả<br />
rộng hơi nhăn. Đôi lưỡng quyền đứng sừng sững tâm trạng nhân vật. Tâm trạng chua xót của Điền<br />
trên bờ hai cái hố sâu của má thì bóng nhẫy. Cả là do hoàn cảnh cơm áo gạo tiền, do cuộc sống<br />
cái mũi cao và thẳng tắp cũng bóng lên như vậy. bức bối, ngột ngạt tác động vào: “Đứa con không<br />
Cái mặt hốc hác ấy, nghiêng nghiêng bên trên dám khóc to. Nó chỉ oằn oại và rít nho nhỏ trong<br />
quyển sách, trông khắc khổ đến thành dữ tợn” cổ họng. Thỉnh thoảng nó không còn sức nén,<br />
(Đời thừa). Trong phân đoạn miêu tả trên, Nam tiếng khóc bật ra. Điền nghe một vài tiếng nức nở<br />
Cao cũng sử dụng từ láy với mật độ dày đặc. Mỗi như tiếng người nôn ọe. Điền vẫn ngồi cúi mặt.<br />
câu đều là những lời miêu tả rất chi tiết. Việc Một nỗi chua xót gần như là thuộc về thể chất, ứ<br />
miêu tả như vậy bên cạnh làm hiện lên bức chân lên trong lòng Điền. Nó dâng lên đến cổ, xông lên<br />
dung nhân vật, còn góp phần bộc lộ một nét tâm óc. Nước mắt Điền ứa ra” (Giăng sáng). Trong<br />
trạng, tính cách hay lối sống nào đó của nhân vật. phân đoạn trên đều có sự đan xen hoặc là diễn<br />
3.4 Thành phần miêu tả tâm trạng nhân vật ngôn thuật kể, hoặc là diễn ngôn miêu tả tâm<br />
trạng của nhân vật. Diễn ngôn thuật kể hỗ trợ cho<br />
<br />
<br />
18<br />
AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 13 - 19<br />
<br />
việc thể hiện cảm xúc, tâm trạng của nhân vật. những từ ngữ gợi hình ảnh, sắc thái để gia tăng<br />
Những truyện ngắn như: Cái mặt không chơi tính chất biểu hiện cho lời văn. Cấu trúc câu trong<br />
được, Những truyện không muốn viết, Mua nhà, các lớp diễn ngôn miêu tả cũng phong phú và<br />
Điếu văn,… là những truyện như thế. Thực ra đây phức tạp.<br />
là lời trực tiếp của nhân vật xưng Tôi trong tác Với diễn ngôn miêu tả, các nhà văn hiện thực đã<br />
phẩm, nhưng tôi cũng là người kể chuyện trong thể hiện một cách đa dạng, phong phú thế giới vật<br />
tác phẩm nên diễn ngôn của nhân vật này đã trở chất, cũng như thế giới tâm trạng, cảm xúc của<br />
thành diễn ngôn người kể chuyện. Do là lời bộc con người, qua đó, cho thấy một mối liên hệ có ý<br />
bạch của chính người trong cuộc nên lời văn có nghĩa nghệ thuật giữa chúng. Với chức năng tái<br />
một sự chân thực và sức thuyết phục riêng, đồng hiện, phân tích và lý giải thế giới khách quan, thế<br />
thời mang đậm dấu ấn của người kể chuyện. Khi giới đời sống vật chất và tinh thần con người, lớp<br />
người kể chuyện với tư cách là vai hành động diễn ngôn miêu tả đã góp phần tạo nên chỉnh thể<br />
trong truyện sẽ có cơ hội giãi bày tất cả những nghệ thuật toàn vẹn và sinh động.<br />
cảm xúc, bộc lộ những tâm tư, suy nghĩ, chiêm TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
nghiệm về cuộc sống, về thế giới xung quanh. Diệp Quang Ban. (2012). Giao tiếp diễn ngôn và<br />
Mỗi dòng tâm trạng nhân vật đều được miêu tả rất cấu tạo của văn bản.Hà Nội: Nhà xuất bản<br />
gần gũi, bởi đó là tâm trạng nhân vật gắn liền với Giáo dục.<br />
đời sống gia đình, với chuyện cơm áo, gạo tiền, Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2000). Nguyên Hồng -<br />
với tình yêu, với quan hệ bạn bè. Mỗi tâm trạng, Những tác phẩm tiêu biểu trước 1945.Hà Nội:<br />
mỗi dòng suy nghĩ xuất hiện đều thể hiện sự vận Nhà xuất bản Giáo dục.<br />
động biện chứng gắn liền với hoàn cảnh của nhân Nguyễn Hòa. (2003). Phân tích diễn ngôn, một số<br />
vật. vấn đề lí luận và phương pháp. Hà Nội: Nhà<br />
4. KẾT LUẬN xuất bản: Đại học Quốc gia Hà Nội.<br />
Tô Hoài. (2011). Truyện ngắn chọn lọc.Hà Nội:<br />
Có thể nói, các nhà văn hiện thực 1932-1945 đã<br />
Nhà xuất bảnLao động.<br />
sử dụng một hình thức diễn ngôn tự sự đa dạng,<br />
Phương Lựu. (1997). Lý luận văn học.Hà Nội:Nhà<br />
đặc biệt, sự xuất hiện thường xuyên của lớp diễn<br />
xuất bản Giáo dục.<br />
ngôn miêu tả tâm trạng nhân vật trong nhiều<br />
Lê Minh (Biên soạn). (2004). Nguyễn Công Hoan<br />
truyện ngắn giai đoạn này cũng cho thấy sự nỗ lực<br />
– Truyện ngắn chọn lọc. Hà Nội: Nhà xuất bản<br />
sáng tạo của các nhà văn hiện thực. Sự xuất hiện<br />
Văn học.<br />
của lớp diễn ngôn này bị chi phối mạnh mẽ bởi<br />
Nhiều tác giả. (2002). Tuyển tập Nam Cao. Tập 1<br />
yếu tố ngôi kể, điểm nhìn, bởi hiện thực nhà văn<br />
- 2. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học.<br />
phản ánh. Để làm gia tăng sắc thái miêu tả trong<br />
G. N. Pospelov (Chủ biên). (1985). Dẫn luận<br />
diễn ngôn người kể chuyện, các nhà văn hiện thực<br />
nghiên cứu văn học. Tập 2. Hà Nội: Nhà xuất bản<br />
đã thường xuyên sử dụng những biện pháp tu từ<br />
Giáo dục.<br />
độc đáo như so sánh, ẩn dụ, sử dụng lớp từ láy,<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
19<br />