intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thành phần miêu tả của diễn ngôn người kể chuyện trong một số truyện ngắn hiện thực Việt Nam 1932-1945

Chia sẻ: ViTunis2711 ViTunis2711 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

48
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Diễn ngôn người kể chuyện trong truyện ngắn giai đoạn này có sự đa dạng trong các thành phần miêu tả, trong đó có thành phần miêu tả thiên nhiên, miêu tả hoàn cảnh sống, ngoại hình và tâm trạng của nhân vật. Các thành phần miêu tả này góp phần thể hiện sự chuyển dịch trong ngôn ngữ truyện ngắn của các nhà văn hiện thực.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thành phần miêu tả của diễn ngôn người kể chuyện trong một số truyện ngắn hiện thực Việt Nam 1932-1945

AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 13 - 19<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> THÀNH PHẦN MIÊU TẢ CỦA DIỄN NGÔN NGƯỜI KỂ CHUYỆN<br /> TRONG MỘT SỐ TRUYỆN NGẮN HIỆN THỰC VIỆT NAM 1932 - 1945<br /> <br /> Phạm Thị Lương1<br /> 1<br /> Trường Đại học Bạc Liêu<br /> <br /> Thông tin chung: ABSTRACT<br /> Ngày nhận bài: 20/08/2018<br /> Ngày nhận kết quả bình duyệt: Narrator’s discourse in Vietnamese realistic short stories 1932-1945 has<br /> 09/11/2018 really shown an improvement in the linguistic characteristics. Writers have<br /> Ngày chấp nhận đăng: been endeavoring to bring to general realistic prose and realistic short<br /> 08/2019 stories in particular the innovations in literary linguistics. Narrator’s<br /> Title: discourse of the short stories in this period has a diversity of descriptive<br /> The descriptive elements of elements, including natural description elements, descriptions of living<br /> narrator’s discourse in some conditions, figure and moods of the characters. These descriptive elements<br /> Vietnamese realistic short contribute to the transformation in the language of short stories by realistic<br /> stories in the 1932 to 1945<br /> writers.<br /> period<br /> Keywords: TÓM TẮT<br /> Narrator, discourse, realistic<br /> short story, structure, Diễn ngôn người kể chuyện trong truyện ngắn hiện thực Việt Nam 1932-1945<br /> narratology thực sự đã cho thấy được một bước chuyển biến rõ rệt trong đặc trưng ngôn<br /> Từ khóa: từ. Các nhà văn đã nỗ lực không ngừng để mang đến cho văn xuôi hiện thực<br /> Người kể chuyện, diễn ngôn, nói chung và truyện ngắn hiện thực nói riêng những sự sáng tạo, cách tân<br /> truyện ngắn hiện thực, cấu trong ngôn ngữ văn chương. Diễn ngôn người kể chuyện trong truyện ngắn<br /> trúc, tự sự học giai đoạn này có sự đa dạng trong các thành phần miêu tả, trong đó có thành<br /> phần miêu tả thiên nhiên, miêu tả hoàn cảnh sống, ngoại hình và tâm trạng<br /> của nhân vật. Các thành phần miêu tả này góp phần thể hiện sự chuyển dịch<br /> trong ngôn ngữ truyện ngắn của các nhà văn hiện thực.<br /> <br /> <br /> 1. ĐẶT VẤN ĐỀ tính khái quát, tính trừu tượng, tính đa nghĩa của<br /> Diễn ngôn người kể chuyện là một phương diện ngôn ngữ, các nhà văn kiến tạo nên các lớp diễn<br /> không thể thiếu trong bất cứ một tác phẩm tự sự ngôn có thể tái hiện được toàn bộ thế giới đa sắc<br /> nào. Để khám phá chiều sâu vỉa tầng ý nghĩa ẩn màu cũng như toàn bộ đời sống xã hội phức tạp<br /> bên trong những câu chữ, bên trong hệ thống cấu của con người tùy vào điểm nhìn và nhận thức của<br /> trúc của mỗi tác phẩm, người đọc cần thâm nhập, mỗi nhà văn về hiện thực. Nói như G.N. Pospelov<br /> bóc tách lớp vỏ ngôn từ của mỗi tác phẩm. Diễn thì “Nhờ các từ của lời văn nghệ thuật mà các nhà<br /> ngôn tự sự là yếu tố hình thức của tác phẩm được văn tái hiện được những nét cá thể cùng các chi<br /> tạo nên bởi các yếu tố ngôn từ để phản ánh hiện tiết đời sống của các nhân vật, chính những nét và<br /> thực cuộc sống, khai thác chiều sâu nội tâm bí ẩn chi tiết ấy, nói chung đã làm nên “thế giới” cụ thể<br /> của con người. Bằng việc tận dụng các ưu thế về của tác phẩm” (G. N. Pospelov, 1985, tr.104).<br /> Như vậy, ngôn ngữ qua bàn tay sáng tạo của nhà<br /> <br /> <br /> <br /> 13<br /> AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 13 - 19<br /> <br /> văn trở thành những lớp diễn ngôn mang tiếng nói điểm nhìn toàn tri thuật kể về sự kiện, bối cảnh<br /> và hơi thở cuộc sống. Thành phần miêu tả của của một nhân vật nào đó. Cũng có khi là diễn<br /> diễn ngôn người kể chuyện trong truyện ngắn hiện ngôn người kể chuyện ngôi thứ nhất mang điểm<br /> thực Việt Nam 1932-1945 là một thành phần thể nhìn đơn tuyến, điểm nhìn đa tuyến hoặc là điểm<br /> hiện rõ sự chuyển dịch trong ngôn ngữ so với văn nhìn phức hợp kể về câu chuyện của chính mình<br /> xuôi ở giai đoạn trước. hoặc của một người nào đó mà “tôi” chứng kiến.<br /> 2. VAI TRÒ CHI PHỐI CỦA DIỄN NGÔN Trong khi thuật kể, người kể chuyện cũng xen vào<br /> NGƯỜI KỂ CHUYỆN ĐẾN TOÀN BỘ “mạng mạch” (chữ dùng của Diệp Quang Ban)<br /> CẤU TRÚC TÁC PHẨM những tiết đoạn miêu tả hoặc những tiết đoạn bình<br /> luận, đánh giá. Vì thế, diễn ngôn người kể chuyện<br /> Trong tác phẩm tự sự, diễn ngôn thể hiện rất rõ<br /> trở nên hết sức sinh động, góp phần quan trọng<br /> vai trò và tầm quan trọng của nó trong kiến tạo tác<br /> kiến tạo nên chỉnh thể nghệ thuật ngôn từ.<br /> phẩm. Chính vì thế, các nhà văn không ngừng nỗ<br /> Diễn ngôn người kể chuyện là một thành phần<br /> lực sáng tạo để các thành phần diễn ngôn luôn<br /> quan trọng góp phần xây dựng nên câu chuyện<br /> phát huy được thế mạnh của mình trong việc góp<br /> trong mỗi tác phẩm tự sự. Đây là lớp diễn ngôn<br /> phần làm nổi bật chủ đề, tư tưởng của tác phẩm.<br /> thể hiện rõ nét chiều sâu cảm thức của người kể<br /> Các tác phẩm tự sự đã có sự linh hoạt, đa dạng<br /> chuyện về hiện thực cuộc sống, về “tổng hòa các<br /> trong các thành phần diễn ngôn tự sự đem lại hiệu<br /> mối quan hệ xã hội” của nhân vật. Hiện thực xã<br /> quả thẩm mỹ tích cực cho tác phẩm. Các nhà lý<br /> hội Việt Nam giai đoạn này khi đi vào tác phẩm<br /> luận văn học đã chỉ ra những dạng thức phổ biến<br /> đã được khúc xạ qua lăng kính nhận thức chủ<br /> của diễn ngôn tự sự căn cứ vào cấu trúc trong các<br /> quan của người nghệ sĩ. Bằng tài năng, tâm huyết,<br /> tác phẩm văn học như: Diễn ngôn người kể<br /> vốn sống, vốn hiểu biết sâu sắc về hiện thực cuộc<br /> chuyện và diễn ngôn của nhân vật, hay diễn ngôn<br /> sống, họ phần lớn nhận thức được bản chất của<br /> liên tục, diễn ngôn gián đoạn. Mỗi một dạng thức<br /> hiện thực, nhận thức được qui luật vận động xã<br /> diễn ngôn đều có những chức năng riêng. Diễn<br /> hội của nó và phản ánh hiện thực thông qua các<br /> ngôn người kể chuyện có hai chức năng chính là<br /> hình tượng nhân vật.<br /> “tái hiện và phân tích, lí giải thế giới khách quan<br /> Lớp diễn ngôn người kể chuyện đã góp phần thể<br /> vật chất, sự việc, con người, cảnh vật,… lí giải lời<br /> hiện sinh động hiện thực ở nhiều chiều kích khác<br /> nói, ý thức người khác” (Phương Lựu, 1997,<br /> nhau. Bằng lớp diễn ngôn này, các nhà văn đã dẫn<br /> tr.335).<br /> dắt người đọc khám phá những mâu thuẫn, những<br /> Diễn ngôn người kể chuyện là thành phần diễn<br /> va chạm, những bức tranh nhiều mảng màu hiện<br /> ngôn chủ đạo được xem là lời dẫn truyện của<br /> thực nhức nhối trong xã hội lúc bấy giờ. Tuy các<br /> người kể chuyện, giới thiệu tỉ mỉ về bối cảnh, sự<br /> nhà văn thường không trực tiếp bày tỏ sự nhận<br /> kiện, nhân vật. Thành phần diễn ngôn này bao giờ<br /> cảm của mình trước hiện thực, cũng như hạn chế<br /> cũng chiếm tỉ lệ lớn hơn diễn ngôn của nhân vật<br /> tối đa sự có mặt của mình ở trong tác phẩm,<br /> nhằm kiến tạo chỉnh thể nghệ thuật toàn vẹn. Việc<br /> nhưng thông qua lớp diễn ngôn trần thuật, miêu<br /> kể lại câu chuyện với những lời miêu tả, bình<br /> tả, bình luận, đánh giá của người kể chuyện,<br /> luận, đánh giá tạo thành lớp diễn ngôn người kể<br /> người đọc ít nhiều thấy được quan điểm, sự lý giải<br /> chuyện. Như đã biết, người kể chuyện giữ vai trò<br /> hiện thực của mỗi nhà văn. Đồng thời, diễn ngôn<br /> chi phối đến các yếu tố khác của cấu trúc tự sự<br /> người kể chuyện cũng giữ một vai trò đặc biệt để<br /> như kết cấu, cốt truyện, tình huống. Cho nên,<br /> tạo lập câu chuyện và liên kết sự vận động của<br /> người kể chuyện có thể trần thuật sự kiện theo trật<br /> nhân vật ở trong tác phẩm.<br /> tự tuyến tính, có thể kể đảo trình tự thời gian kể<br /> hoặc gián cách thời gian trần thuật. Diễn ngôn 3. CÁC THÀNH PHẦN MIÊU TẢ CỦA<br /> thuật kể của người kể chuyện thông thường là DIỄN NGÔN NGƯỜI KỂ CHUYỆN<br /> diễn ngôn của người kể chuyện ngôi thứ ba mang TRONG TRUYỆN NGẮN HIỆN THỰC<br /> điểm nhìn bên ngoài, điểm nhìn bên trong, hoặc là VIỆT NAM 1932-1945<br /> <br /> 14<br /> AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 13 - 19<br /> <br /> Ở truyện ngắn hiện thực Việt Nam1932-1945, lớp miêu tả thiên nhiên không nhằm mục đích miêu tả<br /> diễn ngôn miêu tả chiếm tỉ lệ lớn nhất trong các thiên nhiên thuần túy có tính chất lãng mạn mà<br /> lớp diễn ngôn của người kể chuyện. Diễn ngôn thiên nhiên như một chất xúc tác để nhân vật nhận<br /> miêu tả xuất hiện rất thường xuyên và được đan thức rõ hơn về hiện thực. Thiên nhiên trong<br /> lồng, xen kẽ trong các lớp diễn ngôn khác nhằm truyện ngắn hiện thực đôi khi đối lập với hiện<br /> hỗ trợ cho việc tạo ra thế giới hình tượng, tạo ra thực cuộc sống của nhân vật, đôi khi lại tô đậm<br /> những bức tranh thiên nhiên, bức tranh đời sống tình cảnh bi đát của nhân vật. Dù là theo hướng<br /> xã hội trở nên chân thực, sinh động. Mọi hành nào, thì việc miêu tả thiên nhiên của các nhà văn<br /> động, sự kiện, ngoại hình, tính cách, nội tâm của hiện thực cũng không hề là việc ngẫu nhiên mà<br /> nhân vật đều trở nên sinh động nhờ lớp diễn ngôn đều là vì một dụng ý nghệ thuật nào đó.<br /> miêu tả. Nhà văn tái hiện lại cuộc sống và con Một số truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan có<br /> người dựa trên những góc nhìn để miêu tả và kiến xuất hiện hình ảnh thiên nhiên như: Báo hiếu: trả<br /> tạo một hiện thực thứ hai ở trong tác phẩm. Diễn nghĩa cha, Đàn bà là giống yếu, Kiếp tài tình,<br /> ngôn miêu tả thường có sự đan xen với diễn ngôn Anh xẩm. Các tiết đoạn miêu tả thiên nhiên trong<br /> thuật kể để bổ sung, hỗ trợ cho nhau làm nổi bật các truyện ngắn trên đôi khi được lặp lại trong tác<br /> nên hiện thực đời sống, tinh thần của nhân vật phẩm nhằm nhấn mạnh hoàn cảnh của nhân vật.<br /> bằng những ngôn từ miêu tả tạo ấn tượng thẩm Chẳng hạn, trong truyện Anh xẩm, hình ảnh thiên<br /> mĩ. Trong giai đoạn 1932-1945, các tác giả nhiên được miêu tả như một điệp khúc thê lương:<br /> Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Tô Hoài, “Mưa như rây bột, như chăng lưới”; “Gió giật<br /> Nam Cao được xem là những tác giả tiêu biểu cho từng hồi. Lá vàng trút xuống mặt đường lăn theo<br /> thể loại truyện ngắn mang đậm tính chất hiện nhau rào rào. Hơi lạnh thấm buốt đến tận xương.<br /> thực. Nguyễn Công Hoan có số lượng truyện ngắn Cây và cột đèn rú lên” (Anh xẩm). Hai tiết đoạn<br /> lớn nhất trong số các nhà văn hiện thực, là người miêu tả thiên nhiên trên được lặp lại tới 4 lần<br /> để lại dấu ấn mạnh mẽ trong việc lựa chọn các trong truyện, làm gia tăng hoàn cảnh bi đát, đáng<br /> phương thức phản ánh hiện thực. Truyện ngắn của thương của nhân vật anh xẩm. Hình ảnh thiên<br /> Nguyên Hồng và Tô Hoài lại thể hiện một cách nhiên xuất hiện trong truyện của Nguyễn Công<br /> nhận cảm và phản ánh hiện thực riêng không lẫn Hoan dường như chỉ là gió, rét, mưa, bão. Trong<br /> với các nhà văn khác. Họ có sự sáng tạo trong Báo hiếu: trả nghĩa cha, có hai tiết đoạn miêu tả<br /> nghệ thuật ngôn từ, trong cách xây dựng tình thiên nhiên cũng khắc nghiệt như chính hoàn cảnh<br /> huống, kết cấu, cốt truyện. Nam Cao lại được xem của nhân vật: “Mưa phùn. Gió bấc. Rét buốt thấu<br /> là “Người kết thúc vẻ vang cho trào lưu văn học tận xương”. Thái độ khách quan của người kể<br /> hiện thực” (Phong Lê). Bút pháp miêu tả, phản chuyện cũng được thể hiện ngay ở trong hình thức<br /> ánh hiện thực trong truyện ngắn của ông cũng tạo cấu trúc diễn ngôn miêu tả. Mỗi một câu miêu tả<br /> ra sự cuốn hút mạnh mẽ đối với người đọc. Ở mỗi đều hạn chế số âm tiết đến mức tối đa.<br /> nhà văn này, họ lại có những đặc điểm về ngôn Lớp diễn ngôn miêu tả thiên nhiên đã xuất hiện<br /> ngữ miêu tả độc đáo riêng. nhiều hơn trong truyện ngắn của Tô Hoài, Bùi<br /> 3.1 Thành phần miêu tả thiên nhiên Hiển, Nam Cao. Các câu miêu tả thiên nhiên cũng<br /> dài hơn, cấu trúc nhiều thành phần hơn, đa dạng<br /> Dụng ý miêu tả thiên nhiên của các nhà văn hiện<br /> hơn. Các trường đoạn miêu tả thiên nhiên cũng<br /> thực thường khác với dụng ý miêu tả thiên nhiên<br /> tập trung hơn và nhất là các nhà văn đã chú ý sử<br /> của các nhà văn lãng mạn. Đối với các nhà văn<br /> dụng đa dạng các biện pháp nghệ thuật trong lớp<br /> lãng mạn, thiên nhiên được miêu tả như là nơi trú<br /> diễn ngôn miêu tả thiên nhiên. Thiên nhiên hiện<br /> ngụ của tâm hồn nhân vật, cũng như là nơi nhân<br /> lên trong lời miêu tả ở truyện ngắn của Tô Hoài<br /> vật hướng đến để thoát li thực tế, trốn vào mộng<br /> rất sống động và có hồn, dù là miêu tả cảnh mưa<br /> ảo. Còn thiên nhiên trong văn xuôi hiện thực nói<br /> bão, lũ lụt hay là miêu tả cảnh mùa xuân ấm áp thì<br /> chung được miêu tả để hướng nhân vật nhận ra<br /> hiện thực, chấp nhận và cải tạo hiện thực. Việc<br /> <br /> 15<br /> AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 13 - 19<br /> <br /> thiên nhiên ấy cũng hiện lên đầy sức sống, âm trăng trở nên lung linh trong trí tưởng của nhân<br /> thanh và sắc màu. vật Điền. Sự mơ mộng trước thiên nhiên này đã<br /> Ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên trong truyện ngắn khiến Điền tạm thời thoát ly thực tế và anh say<br /> của Tô Hoài rất sáng, tinh tế. Dù là nói về cảnh sưa đắm chìm trong bao nhiêu là mơ tưởng, là<br /> mưa gió, nhưng ngôn ngữ sử dụng trong diễn hoài bão. Thiên nhiên huyền ảo này cũng đối lập<br /> ngôn miêu tả ở Tô Hoài vẫn có gam màu tươi với bóng tối nơi trần gian cũng như cuộc sống lầm<br /> sáng đầy hy vọng. Thiên nhiên như là cái nền để than, tù túng đang vây riết cuộc sống của Điền. Sự<br /> gợi dậy trong lòng nhân vật niềm lạc quan và tin đối lập này tác động đến tâm trạng và nhận thức<br /> tưởng vào cuộc sống, dù cuộc sống ấy có nghèo của Điền. Cuối cùng thì Điền cũng nhận ra ý<br /> túng hay cơ cực. Đây là một tiết đoạn miêu tả nghĩa đích thực của nghệ thuật và anh sẵn sàng<br /> thiên nhiên với dụng ý nghệ thuật như thế: “Trận sống trong lao khổ, mở lòng ra đón lấy những<br /> mưa đó thực to. Nước xối xuống rào rào, trắng vang động của đời.<br /> xóa. Ở những vườn chuối, nước dội lùng bùng Có thể thấy, trong truyện ngắn hiện thực thời kỳ<br /> như trống đánh. Từng cơn gió chạy dài, rít lên, này các tác giả cũng đã dành cho thiên nhiên một<br /> đập đùng đùng. Trên những mảnh sân thấp nước vị trí quan trọng. Cảnh sắc thiên nhiên đã gợi lên<br /> ngập lưng thềm. Được độ một lúc lâu, mưa dần trong lòng nhân vật những suy tư, trăn trở, những<br /> dần ngớt. Những đám mây nước tan mỏng bay kí ức. Đồng thời miêu tả nhiên nhiên như là thủ<br /> nhanh như biến. Mặt trời lại ló ra. Trời đất sáng pháp khắc họa tính cách và tâm trạng con người.<br /> ngời. Màu lá cây xanh mướt. Những con chim sáo Thiên nhiên cũng tạo dựng không gian cho nhân<br /> sậu nhanh nhẩu linh tinh bay hót từng hồi véo vật chiêm nghiệm và nhân vật bộc lộ nội tâm.<br /> von. Mưa tạnh” (Nhà nghèo). Trong diễn ngôn 3.2 Thành phần miêu tả hoàn cảnh sống của<br /> miêu tả, Tô Hoài thường xuyên sử dụng những nhân vật<br /> hình ảnh ấn tượng và vận dụng từ láy rất độc đáo.<br /> Lớp diễn ngôn miêu tả hoàn cảnh sống của nhân<br /> Bên cạnh đó, các thủ pháp nghệ thuật như so<br /> vật cho người đọc nhận thức được những vấn đề<br /> sánh, nhân hóa cũng được ông vận dụng khá<br /> nhức nhối của hoàn cảnh, đời sống, số phận của<br /> thường xuyêntrong diễn ngôn miêu tả của người<br /> nhân vật. Đây là thành phần diễn ngôn không thể<br /> kể chuyện.<br /> thiếu để làm nổi bật bức tranh hiện thực.<br /> Thiên nhiên trong truyện ngắn của Nam Cao đôi<br /> Ở truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan, đôi khi<br /> khi được miêu tả để làm nổi bật sự đối lập giữa<br /> ông miêu tả hai hoàn cảnh sống đối lập (giữa<br /> cảnh lãng mạn và hiện thực cuộc sống. Nhưng<br /> người nghèo, kẻ giàu) để làm nổi bật sự bất công<br /> điều cốt yếu cuối cùng là để hướng nhân vật về<br /> trong xã hội, chẳng hạn trong truyện Hai cái<br /> thực tại, nhận thức hiện thực và cải tạo thực tại<br /> bụng, sự đối lập trong hoàn cảnh sống được hiện<br /> chứ không phải là một sự thoát li đến mộng ảo để<br /> lên qua diễn ngôn miêu tả của người kể chuyện:<br /> quên đi thực tại. Trong truyện ngắn Nam Cao,<br /> Đây là diễn ngôn miêu tả về đứa trẻ ăn xin tội<br /> ngoại cảnh có một sự tác động nhất định đến tâm<br /> nghiệp: “Hôm nay, thì nó lả đi rồi. Tai nó ù. Mắt<br /> trạng và ý thức của nhân vật.<br /> nó lóa. Nó nằm vật ở lề đường. Miệng nó há hốc<br /> Trong Giăng sáng, thiên nhiên được miêu tả với<br /> ra mà thở. Bởi vì cũng như hôm qua, và cũng như<br /> một giọng “nhại” lãng mạn dưới cái nhìn của<br /> hôm kia, hôm kìa, nó đã đi lang thang hết chỗ này<br /> Điền: “Có đọc văn thơ, mới biết giăng là một cái<br /> đến chỗ nọ, mà chẳng kiếm được tí cháo, lưng hồ”<br /> gì đẹp và quí lắm. Giăng là cái liềm vàng giữa<br /> (Hai cái bụng). Còn đây là diễn ngôn miêu tả<br /> đống sao. Giăng là cái đĩa bạc trên tấm thảm<br /> hoàn cảnh sống đầy đủ thừa mứa vật chất của cải<br /> nhung da trời. Giăng tỏa mộng xuống trần gian.<br /> của một bà lớn: “Nhà bà ấy có hàng dãy ở khắp<br /> Giăng tuôn suối mát để những hồn khát khao<br /> các phố. Ruộng, bà ấy có hàng trăm mẫu ở nhà<br /> ngụp lặn. Trăng! ơi trăng! Cái vú mộng tròn đầy<br /> quê. Tiền, cạnh tường buồng ngủ, cái két khổng<br /> mà thi sĩ của muôn đời mơn man!”. Bằng biện<br /> lồ, lúc nào cũng chứa hàng tập giấy trăm lớn. Bà<br /> pháp nghệ thuật so sánh, diễn ngôn miêu tả về<br /> <br /> <br /> 16<br /> AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 13 - 19<br /> <br /> ấy có đủ điều kiện để sung sướng” (Hai cái tăng sắc thái biểu hiện. Ông cũng sử dụng nhiều<br /> bụng). từ láy gợi hình ảnh kết hợp với biện pháp tu từ so<br /> Trong truyện của Nguyễn Công Hoan, đôi khi sánh tạo ấn tượng rõ nét về hoàn cảnh tăm tối, ảm<br /> người đọc bắt gặp hoàn cảnh đáng thương của đạm buồn của nhân vật. Chẳng hạn, cũng trong<br /> một người nông dân gặp nạn, miêu tả hoàn cảnh truyện Một đám cưới, ông miêu tả: “Cả bọn đi lủi<br /> khốn khổ, bi đát của những người ăn xin, những thủi trong sương lạnh và bóng tối như một gia<br /> người vì đói quá mà ăn cắp một củ khoai, tấm đình xẩm lẳng lặng dắt díu nhau đi tìm chỗ ngủ”.<br /> bánh, hoàn cảnh đáng thương khốn khổ, nghèo Theo cấu trúc câu so sánh thông thường bao gồm:<br /> túng của những người làm nghề kép hát cũng Đối tượng được so sánh + Từ so sánh + Sự<br /> được thể hiện bằng những lời miêu tả rất chân vật làm chuẩn để so sánh<br /> thực,… Mỗi hoàn cảnh được miêu tả bằng diễn Trong diễn ngôn miêu tả ở truyện của Nam Cao,<br /> ngôn mang giọng điệu khách quan, lạnh lùng. ông đã sử dụng biện pháp so sánh ở cấp độ cao<br /> Truyện ngắn của Nguyên Hồng thường tập trung hơn. Đối tượng được so sánh không phải là sự vật<br /> vào nêu bật số phận cuộc đời nhân vật nhiều hơn hoặc phương diện thông thường và vế được so<br /> là sự kiện nên trong truyện của ông người đọc sánh cũng không phải là sự vật làm chuẩn để so<br /> thường bắt gặp nhiều tiết đoạn miêu tả hoàn cảnh sánh thông thường mà đó là một câu miêu tả trọn<br /> sống của nhân vật trong diễn ngôn của người kể vẹn về nghĩa đem so sánh với một câu miêu tả<br /> chuyện. Chẳng hạn trong các truyện: Trong cảnh trọn vẹn. Cấp độ so sánh ở đây là cấp độ ngang<br /> khốn cùng, Đây bóng tối, Hàng cơm đêm, Nhà bằng. Điểm đặc biệt nữa trong diễn ngôn này<br /> bố Nấu, Mợ Du, Người mẹ không con, Lúc Nam Cao đã sử dụng những từ láy để làm tăng<br /> chiều xuống, Hai dòng sữa, Buổi chiều xám. thêm mức độ sắc thái biểu hiện cho lời văn, đồng<br /> Gần như trong truyện nào người đọc cũng bắt gặp thời nó cũng thể hiện sắc thái bình luận, đánh giá<br /> những tiết đoạn miêu tả hoàn cảnh sống của nhân của người kể chuyện.<br /> vật. Phần lớn Nguyên Hồng quan tâm đến những<br /> 3.3 Thành phần miêu tả ngoại hình nhân vật<br /> cảnh sống đói khổ của phu mỏ, thợ thuyền, của<br /> những người nông dân, những người mưu sinh Các tác giả truyện ngắn hiện thực đã có nhiều thể<br /> bằng nghề buôn thúng bán bưng. Lớp diễn ngôn nghiệm trong việc xây dựng nhân vật, trong đó có<br /> miêu tả này trong truyện ngắn của Nguyên Hồng lớp diễn ngôn miêu tả ngoại hình của nhân vật.<br /> cũng xuất hiện rất nhiều từ láy, góp phần nhấn Tuy nhiên, ở mỗi nhà văn, lớp diễn ngôn này xuất<br /> mạnh những cảnh sống qua đó nêu bật những hiện ở nhiều mức độ khác nhau.<br /> phận người đau khổ, bạc bẽo trong xã hội. Thông thường, trong truyện ngắn của Nguyễn<br /> Hoàn cảnh được miêu tả trong thế giới nghệ thuật Công Hoan, diễn ngôn miêu tả ngoại hình nhân<br /> của Nam Cao cũng ảm đạm và bi đát không kém. vật luôn ẩn trong đó giọng điệu hài hước, mỉa mai<br /> Nam Cao hướng nhiều vào việc miêu tả nhiều hoặc là chế giễu, chẳng hạn: “Quan ông lại có cái<br /> cảnh ngộ, hoàn cảnh khác nhau. Hoàn cảnh của hình thể khác hẳn. Vì ở người ngài cái gì cũng<br /> người nông dân, người trí thức đều được Nam cong, từ cái sống mũi đến cái lương tâm, từ cái<br /> Cao quan tâm khai thác sâu sắc. Trong Từ ngày lưng đến cái xử kiện” (Đàn bà là giống yếu).<br /> mẹ chết, đó là cảnh nghèo xơ xác của gia đình bé Trong lời miêu tả trên, Nguyễn Công Hoan đã sử<br /> Ninh được người kể chuyện miêu tả qua chi tiết dụng biện pháp nghệ thuật ẩn dụ để mỉa mai, chế<br /> những chiếc quần áo cũ kỹ, rách nát: “cái thì mốc giễu bản chất, tính cách xấu xa của tên quan. Ông<br /> xanh, cái thì mốc vàng, cái thì lấm tấm hoa bèo, miêu tả ngoại hình nhưng là để nói đến con người<br /> cái thì trạt những nhựa chuối, những tương, của y. Ởnhiều phân đoạn miêu tả trong các truyện<br /> những mắm, mũi dãi cùng đất cát, vò đến sái tay khác Nguyễn Công Hoan cũng dùng giọng điệu<br /> cũng không còn sạch được” (Từ ngày mẹ chết). mỉa mai chế giễu khi viết về ngoại hình nhân vật.<br /> Trong diễn ngôn miêu tả về hoàn cảnh, Nam Cao Nguyễn Công Hoan miêu tả ngoại hình nhân vật<br /> cũng sử dụng những lớp từ miêu tả tập trung làm<br /> <br /> <br /> 17<br /> AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 13 - 19<br /> <br /> nhưng chủ yếu để nói về tính cách, bản chất của Lớp diễn ngôn miêu tả tâm trạng nhân vật cũng<br /> nhân vật. được các nhà văn hiện thực đi sâu thể hiện. Tuy<br /> Nam Cao đặc biệt chú ý đến việc xây dựng lớp nhiên, tùy thuộc vào cách lựa chọn ngôi kể, điểm<br /> diễn ngôn miêu tả ngoại hình của nhân vật và nhìn của người kể chuyện mà lớp diễn ngôn này<br /> thường tập trung xây dựng nhiều câu văn miêu tả xuất hiện không đồng đều ở truyện của mỗi nhà<br /> trong một phân đoạn diễn ngôn người kể chuyện. văn, mỗi giai đoạn.<br /> Người đọc bắt gặp những phân đoạn miêu tả chân Lớp diễn ngôn miêu tả tâm trạng trong truyện<br /> dung, khắc họa ngoại hình, tính cách nhân vật hết ngắn của Nguyên Hồng có cấu tạo tương đối<br /> sức độc đáo. Có những nhân vật Nam Cao miêu tả nhiều thành phần. Có những phân đoạn chủ yếu là<br /> bằng một bút pháp tả chân sắc nét. Tuy nhiên, câu ghép, hoặc câu đơn mở rộng thành phần. Ông<br /> nhiều người cho rằng khi miêu tả diện mạo nhân cũng thường sử dụng rất nhiều từ láy để gia tăng<br /> vật Nam Cao đã bị cuốn theo chủ nghĩa tự nhiên nhấn mạnh cảm xúc, tâm trạng của nhân vật,<br /> nên thế giới nhân vật của ông hiện lên ngồn ngộn chẳng hạn: “Lúc này, Quyến chán nản hết sức.<br /> những nét quái dị, xấu xí, thô mộc. Những nhân Cõi lòng nàng giống hệt chiếc đò cũ kỹ chỉ va<br /> vật như Lang Rận; mụ Lợi, Thị Nở, Nhi, Trương mạnh vào mỏm đá là tan tành, Quyến uể oải đưa<br /> Rự; Chí Phèo… dưới ngòi bút Nam Cao đã trở hai tay khoanh sau gáy, nhìn thẳng lên mui thì…<br /> nên những nhân vật hết sức xấu xí, kém cỏi về Quyến cũng thấy náo nức, rạo rực một cách khác<br /> nhan sắc. Trong khi miêu tả chân dung các nhân thường. Nàng hình như khó thở, các thớ thịt bứt<br /> vật xấu xí, Nam Cao đã thường xuyên sử dụng rứt buồn buồn. Đã thế, tiếng rên rỉ của chồng<br /> biện pháp nghệ thuật phóng đại, cường điệu và so nàng cứ rõ rệt rót vào tai nàng với tiếng ngáy dồn<br /> sánh để làm nổi bật sinh động chân dung nhân vật. dập của những khách đi đò” (Trong cảnh khốn<br /> Rõ ràng việc xây dựng lớp diễn ngôn miêu tả cùng).<br /> ngoại hình nhân vật trong truyện ngắn của Nam Có những phân đoạn miêu tả tâm trạng, hình thức<br /> Cao có một vị trí rất quan trọng trong việc nêu bật lời văn tăng dần thành phần cấu tạo như thể hiện<br /> tư tưởng về hiện thực của nhà văn chứ không chỉ cảm xúc bất chợt vỡ òa của nhân vật, rồi miên<br /> là việc thể hiện chân dung nhân vật thông thường. man trong dòng suy nghĩ. Khi miêu tả tâm trạng<br /> Dưới sự trần thuật của người kể chuyện ngôi thứ nhân vật, Nguyên Hồng thường chú ý miêu tả<br /> ba theo điểm nhìn của Từ, bức chân dung của Hộ từng chi tiết cung bậc cảm xúc, mổ xẻ tất cả<br /> hiện lên trong lúc đọc sách là bức chân dung của những vỉa tầng cảm xúc để tạo nên những phân<br /> một người trí thức đầy khắc khổ và suy tư: “Hắn đoạn diễn ngôn miêu tả chân thực và đầy xúc<br /> đang đọc sách chăm chú quá. Đôi lông mày rậm động.<br /> của hắn châu đầu lại với nhau và hơi xếch lên Trong truyện ngắn của Nam Cao, người đọc bắt<br /> một chút. Đôi mắt sáng quắc có vẻ lồi ra. Cái trán gặp rất nhiều những phân đoạn diễn ngôn miêu tả<br /> rộng hơi nhăn. Đôi lưỡng quyền đứng sừng sững tâm trạng nhân vật. Tâm trạng chua xót của Điền<br /> trên bờ hai cái hố sâu của má thì bóng nhẫy. Cả là do hoàn cảnh cơm áo gạo tiền, do cuộc sống<br /> cái mũi cao và thẳng tắp cũng bóng lên như vậy. bức bối, ngột ngạt tác động vào: “Đứa con không<br /> Cái mặt hốc hác ấy, nghiêng nghiêng bên trên dám khóc to. Nó chỉ oằn oại và rít nho nhỏ trong<br /> quyển sách, trông khắc khổ đến thành dữ tợn” cổ họng. Thỉnh thoảng nó không còn sức nén,<br /> (Đời thừa). Trong phân đoạn miêu tả trên, Nam tiếng khóc bật ra. Điền nghe một vài tiếng nức nở<br /> Cao cũng sử dụng từ láy với mật độ dày đặc. Mỗi như tiếng người nôn ọe. Điền vẫn ngồi cúi mặt.<br /> câu đều là những lời miêu tả rất chi tiết. Việc Một nỗi chua xót gần như là thuộc về thể chất, ứ<br /> miêu tả như vậy bên cạnh làm hiện lên bức chân lên trong lòng Điền. Nó dâng lên đến cổ, xông lên<br /> dung nhân vật, còn góp phần bộc lộ một nét tâm óc. Nước mắt Điền ứa ra” (Giăng sáng). Trong<br /> trạng, tính cách hay lối sống nào đó của nhân vật. phân đoạn trên đều có sự đan xen hoặc là diễn<br /> 3.4 Thành phần miêu tả tâm trạng nhân vật ngôn thuật kể, hoặc là diễn ngôn miêu tả tâm<br /> trạng của nhân vật. Diễn ngôn thuật kể hỗ trợ cho<br /> <br /> <br /> 18<br /> AGU International Journal of Sciences – 2019, Vol. 23 (2), 13 - 19<br /> <br /> việc thể hiện cảm xúc, tâm trạng của nhân vật. những từ ngữ gợi hình ảnh, sắc thái để gia tăng<br /> Những truyện ngắn như: Cái mặt không chơi tính chất biểu hiện cho lời văn. Cấu trúc câu trong<br /> được, Những truyện không muốn viết, Mua nhà, các lớp diễn ngôn miêu tả cũng phong phú và<br /> Điếu văn,… là những truyện như thế. Thực ra đây phức tạp.<br /> là lời trực tiếp của nhân vật xưng Tôi trong tác Với diễn ngôn miêu tả, các nhà văn hiện thực đã<br /> phẩm, nhưng tôi cũng là người kể chuyện trong thể hiện một cách đa dạng, phong phú thế giới vật<br /> tác phẩm nên diễn ngôn của nhân vật này đã trở chất, cũng như thế giới tâm trạng, cảm xúc của<br /> thành diễn ngôn người kể chuyện. Do là lời bộc con người, qua đó, cho thấy một mối liên hệ có ý<br /> bạch của chính người trong cuộc nên lời văn có nghĩa nghệ thuật giữa chúng. Với chức năng tái<br /> một sự chân thực và sức thuyết phục riêng, đồng hiện, phân tích và lý giải thế giới khách quan, thế<br /> thời mang đậm dấu ấn của người kể chuyện. Khi giới đời sống vật chất và tinh thần con người, lớp<br /> người kể chuyện với tư cách là vai hành động diễn ngôn miêu tả đã góp phần tạo nên chỉnh thể<br /> trong truyện sẽ có cơ hội giãi bày tất cả những nghệ thuật toàn vẹn và sinh động.<br /> cảm xúc, bộc lộ những tâm tư, suy nghĩ, chiêm TÀI LIỆU THAM KHẢO<br /> nghiệm về cuộc sống, về thế giới xung quanh. Diệp Quang Ban. (2012). Giao tiếp diễn ngôn và<br /> Mỗi dòng tâm trạng nhân vật đều được miêu tả rất cấu tạo của văn bản.Hà Nội: Nhà xuất bản<br /> gần gũi, bởi đó là tâm trạng nhân vật gắn liền với Giáo dục.<br /> đời sống gia đình, với chuyện cơm áo, gạo tiền, Bộ Giáo dục và Đào tạo. (2000). Nguyên Hồng -<br /> với tình yêu, với quan hệ bạn bè. Mỗi tâm trạng, Những tác phẩm tiêu biểu trước 1945.Hà Nội:<br /> mỗi dòng suy nghĩ xuất hiện đều thể hiện sự vận Nhà xuất bản Giáo dục.<br /> động biện chứng gắn liền với hoàn cảnh của nhân Nguyễn Hòa. (2003). Phân tích diễn ngôn, một số<br /> vật. vấn đề lí luận và phương pháp. Hà Nội: Nhà<br /> 4. KẾT LUẬN xuất bản: Đại học Quốc gia Hà Nội.<br /> Tô Hoài. (2011). Truyện ngắn chọn lọc.Hà Nội:<br /> Có thể nói, các nhà văn hiện thực 1932-1945 đã<br /> Nhà xuất bảnLao động.<br /> sử dụng một hình thức diễn ngôn tự sự đa dạng,<br /> Phương Lựu. (1997). Lý luận văn học.Hà Nội:Nhà<br /> đặc biệt, sự xuất hiện thường xuyên của lớp diễn<br /> xuất bản Giáo dục.<br /> ngôn miêu tả tâm trạng nhân vật trong nhiều<br /> Lê Minh (Biên soạn). (2004). Nguyễn Công Hoan<br /> truyện ngắn giai đoạn này cũng cho thấy sự nỗ lực<br /> – Truyện ngắn chọn lọc. Hà Nội: Nhà xuất bản<br /> sáng tạo của các nhà văn hiện thực. Sự xuất hiện<br /> Văn học.<br /> của lớp diễn ngôn này bị chi phối mạnh mẽ bởi<br /> Nhiều tác giả. (2002). Tuyển tập Nam Cao. Tập 1<br /> yếu tố ngôi kể, điểm nhìn, bởi hiện thực nhà văn<br /> - 2. Hà Nội: Nhà xuất bản Văn học.<br /> phản ánh. Để làm gia tăng sắc thái miêu tả trong<br /> G. N. Pospelov (Chủ biên). (1985). Dẫn luận<br /> diễn ngôn người kể chuyện, các nhà văn hiện thực<br /> nghiên cứu văn học. Tập 2. Hà Nội: Nhà xuất bản<br /> đã thường xuyên sử dụng những biện pháp tu từ<br /> Giáo dục.<br /> độc đáo như so sánh, ẩn dụ, sử dụng lớp từ láy,<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 19<br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0