intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thảo luận nhóm: Cáo tật thị chúng

Chia sẻ: Lê Thị Ngọc Trân | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:11

106
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Thảo luận nhóm "Cáo tật thị chúng" (Mãn Giác Thiền Sư) được thực hiện với các nội dung: Tác giả, tác phẩm, chú thích từ, minh giải văn bản, so sánh bản dịch thơ của Ngô Tất Tố với nguyên tác. Để nắm vững nội dung kiến thức bài thơ mời các bạn cùng tham khảo tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thảo luận nhóm: Cáo tật thị chúng

  1. NHÓM 1:  1.  Đồng Thị Huyền Trân 2. Lê Thị Ngọc Trân 3. Trương Mỷ Huyền 4. Thái Kim Ngân 5. Dương Ngọc Đại CÁO TẬT THỊ CHÚNG (Mãn Giác Thiền Sư) 1.  Tác giả:  ­ Mãn Giác thiền sư  tên thật là Lí Trường, sinh năm 1052, mất năm  1096. ­ Nổi tiếng học rộng biết nhiều, tinh thông Nho, Phật đạo. ­ Nhà sư  vừa hâm mộ  Phật giáo, nổi tiếng về  Thiền học, có xu hướng   xuất thế, lại vừa tích cực nhập thế, giúp nhà vua trong việc triều chính.   Rất được triều đình của vua Lí Nhân Tông coi trọng. ­ Sự nghiệp: nhà sư để lại bài thơ Cáo tật thị chúng rất nổi tiếng. Sách Thiền uyển tập anh còn ghi lại về  cuộc đời của Mãn Giác thiền sư  cùng với tài năng, đức độ của ông như sau:        “Sư  có tiếng là người học rộng nhớ  nhiều, thông cả  Nho học và Phật   học, được tiếng tuyển vào cung. Mỗi khi làm việc công xong về nhà, sư  chỉ   nghĩ đến học phép thiền định. (...) Sau khi đã được tâm  ấn của thiền sư   Quảng Trí, sư bèn đeo bầu chống gậy đi vân du mọi nơi để tìm bạn đạo. Sư   đến đâu cũng có rất nhiều người theo học. Sư  nghiên cứu kinh Tam tạng   được cái trí tuệ  vô thượng và trở  nên một vị  lãnh tụ  của pháp môn đời bấy   giờ. Khi  ấy vua và Cảm Linh Nhân hoàng hậu đang lưu tâm về  thiền học,   bèn sai làm một ngôi chùa  ở bên cạnh cung Cảnh Hưng mời sư đến để  tiện   hỏi han về đạo.” 2.  Tác phẩm:  1
  2. Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ  được sáng tác vào cuối 1096 khi thiền sư lâm   bệnh, trăng trối với đệ  tử  bằng bài kệ  này. Bài kệ  là chiêm nghiệm sâu sắc  của Mãn Giác thiền sư, được ông ngộ ra vào những giây phút cuối cùng của   cuộc đời nên vô cùng thấm thía, có sức lay động. Xuất xứ:  từ  sách Thiền uyển tập anh  (Chọn lọc những bậc anh tú trong   vườn thiền) có vị trí rất quan trọng. Một trong số không nhiều những di sản   của văn học nước ta thời kì đầu còn lưu giữ  lại được. Sách bao gồm nhiều  tiểu truyện về các thiền sư khác nhau.  Hình thức thể  loại: CTTC là bài thơ  dưới hình thức kệ. (Lưu ý: kệ  không  phải một thể loại văn học, không phải là thơ.) Kệ là thể văn Phật giáo, dùng  để truyền bá giáo lý Phật pháp, được viết bằng văn vần. Nhiều bài kệ có giá   trị văn chương như các bài thơ. Kệ tóm tắt giáo lí đạo Phật hoặc truyền đạt  những thể nghiệm tâm đắc của các nhà sư. Chỉ những bài kệ dùng hình ảnh   sinh động, giàu ý nghĩa, có phẩm chất văn học mới gọi là thơ kệ. (Thể văn Phật giáo gồm 2 thể loại con: Kệ (17 trang) và Thiền sư Việt Nam  (4 trang – sư đệ vấn đáp)). 2.1. Nguyên tác:  ????  ?????, ?????? ?????, ?????? ???????, ???????? (1096) 2.2. Phiên âm Hán ­ Việt:   Cáo tật thị chúng Xuân khứ bách hoa lạc, Xuân đáo bách hoa khai. Sự trục nhãn tiền quá, Lão tòng đầu thượng lai. 2
  3. Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, Đình tiền tạc dạ nhất chi mai. 2.3. Dịch nghĩa: Cáo bệnh bảo mọi người Xuân đi qua, trăm hoa rụng, Xuân đến, trăm hoa nở. Chuyện đời xô đuổi nhau ruổi qua trước mắt, Tuổi già đến (với con người) từ (mái tóc bạc) trên  đầu. Chớ nên nói rằng xuân tàn thì hoa rụng hết, Đêm hôm qua, trước sân có một nhành mai (nở hoa). 2.4. Dịch thơ của Ngô Tất Tố: Xuân ruổi trăm hoa rụng, Xuân tới, trăm hoa cười. Trước mắt việc đi mãi, Trên đầu già đến rồi. Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết, Đêm qua, sân trước một nhành mai. 3.  Chú thích từ:  ? cáo (bộ khẩu): bảo, nói cho biết. ? tật (bộ nạch hay tật): bệnh, ốm. ? thị (bộ thị hay kỳ): bảo cho biết. ? chúng (bộ mục): mọi người. ? ?  thị chúng:  trình bày những ý nghĩ, suy nghĩ của mình cho mọi người  được biết.  Cáo bệnh bảo mọi người. ? xuân (bộ nhật): mùa xuân. ? khứ (bộ tư hay khư): đi. ? bách (bộ bạch): trăm. ? hoa (bộ thảo): hoa. 3
  4. ? lạc (bộ thảo): rụng, rơi xuống.  Xuân đi qua, trăm hoa rụng. ? đáo (bộ đao): đến. ? khai (bộ môn): nở ra, mở ra.  Xuân đến, trăm hoa nở. ? sự (bộ quyết): thế sự, việc đời, công việc. ?  trục (bộ xước): đuổi theo, nối tiếp nhau trôi qua rất nhanh như đuổi theo  nhau. ? nhãn (bộ mục): mắt. ? tiền (bộ đao): trước. ? quá (bộ xước): qua, quá. ? ? ? nhãn tiền quá: vượt qua, trôi qua, ruổi qua trước mắt.  Chuyện đời xô đuổi nhau ruổi qua trước mắt. ? lão (bộ lão): người già, tuổi già. ? tòng (bộ xích): đi theo, nghe theo. ? đầu (bộ hiệt): đầu, tóc. ? thượng (bộ nhất): trên. ? lai (bộ nhân): đến.  Tuổi già đến (với con người) từ (mái tóc bạc) trên đầu. ? mạc (bộ thảo): chớ, đừng (phó từ). ? vị (bộ ngôn): nói, bảo cho biết. ? tàn (bộ đãi): tàn. ? tận (bộ mãnh): hết, không còn gì nữa.  Chớ nên nói rằng xuân tàn thì hoa rụng hết. ? đình (bộ nghiễm): sân. ? ? đình tiền: trước sân. 4
  5. ? tạc (bộ nhật): hôm qua. ? dạ (bộ tịch): đêm, ban đêm. ? ? tạc dạ: đêm qua. ? nhất (bộ nhất): một. ? chi (bộ mộc): cành, nhánh cây. ? mai (bộ mộc): cây mai. ? ? ? nhất chi mai: một nhành mai.  Đêm hôm qua, trước sân có một nhành mai (nở hoa). 4.  Minh giải văn bản: Tựa đề: bài thơ  vốn không có tựa đề, bốn chữ  “Cáo tật thị  chúng” là do  Lê Quý Đôn đặt cho bài thơ. Tựa đề “Cáo tật thị chúng” là trình bày những  suy nghĩ, tâm tư của thiền sư khi ông đang bệnh nặng cho mọi người biết.   Đó là những suy nghĩ, trải nghiệm về cuộc đời và tinh thần lạc quan trong   cuộc sống, cùng triết lý Phật giáo sâu sắc mà ông muốn gửi gấm đến mọi   người. 4.1. Nội dung: Bài thơ  “Cáo tật thị  chúng” đã nói lên quy luật của sự  sống thiên nhiên,  biểu lộ tâm sự  của nhà sư  trước quy luật sinh tử  ở cõi nhân gian, cái tịch  diệt và cái vĩnh hằng trong vũ trụ. “Cáo tật thị  chúng” chắc chắn không  chỉ nằm ở nội dung truyền giảng giáo lí đạo Phật mà còn là những tầng ý  nghĩa triết lý sâu sắc về  cuộc đời mà thiền sư  muốn gửi gấm. Bài thơ  được chia thành  hai phần:  bốn câu đầu  là  cảm nhận về  những hiện   tượng, quy luật diễn ra trong tự  nhiên và xã hội, của tạo vật và của   kiếp người mà tác giả đã quan sát và trải nghiệm ; hai câu cuối là triết   lí Phật pháp cùng quan niệm nhân sinh qua hình  ảnh  ẩn dụ, có tính   chất khuyên răn. Bốn câu thơ đầu man mác một nỗi bâng khuâng. Nỗi bâng khuâng ấy xuất   phát từ  những chiêm nghiệm của thiền sư  về  nhân thế.  Bốn câu thơ  được triển khai thành hai vế có quan hệ so sánh, so sánh thiên nhiên  tạo vật và cuộc đời con người. Thiền sư đã cảm nhận về thiên nhiên: ?????, ?????? (Xuân đi qua, trăm hoa rụng, 5
  6. Xuân đến, trăm hoa nở.) Xuân đến, trăm hoa nở tạo nên cảnh sắc rực rỡ, huy hoàng của năm mới. Rồi  mùa xuân qua đi, những cánh hoa lại rụng, để  lại trong lòng người bao nỗi  tiếc nuối. Hai câu thơ  mang màu sắc triết lí khái quát quy luật tồn tại của   thiên và sự  vận động của thời gian mùa xuân cũng như  sự  sống của thiên   nhiên chuyển biến bất tận: “xuân qua” rồi “xuân tới”, “hoa nở” rồi “ hoa   tàn”... Mùa xuân là vĩnh hằng. Cỏ  cây trăm hoa cũng như  là vạn vật, con  người đều chịu sự  chi phối theo quy luật khắc nghiệt của tự nhiên. Tác giả  miêu tả  theo trình tự  đảo ngược: Xuân qua ­ xuân tới nhằm nhấn mạnh sự  tuần hoàn, chu kì lặp lại của tự nhiên. Tạo vật đổi thay, vận động theo chu   kì lặp lại, không bao giờ ngừng nghỉ. Như vậy, hai câu thơ đầu nói lên vòng  tuần hoàn của tự nhiên, vạn vật theo một quy luật đã định sẵn và không thể  thay đổi. Cấu trúc đối xứng, nhịp thơ  2/3 đều đặn diễn tả  chính xác vòng   quay của tự nhiên. Thiền sư tiếp tục chiêm nghiệm về cuộc đời, thế sự: ?????, ?????? (Chuyện đời xô đuổi nhau ruổi qua trước mắt, Tuổi già đến (với con người) từ (mái tóc bạc) trên đầu.) Những công việc bộn bề nối tiếp làm cho con người quên đi rằng thời gian   đang chảy trôi rất nhanh. Dòng chảy  ấy có lẽ  sẽ  không bao giờ  ngừng lại  nếu như không có một tín hiệu bất ngờ đến: màu tóc bạc. Tóc bạc báo hiệu   tuổi già. Đến lúc này, con người mới thảng thốt nhận ra thanh xuân không   còn, đời người đã trôi đi quá nửa. Ta thấy thiên nhiên và kiếp người đều   chảy trôi theo quy luật từ  nảy sinh đến tàn lụi. Nhờ  phép đảo ngược  ở  hai  câu đầu mà ta có thể  nhận thấy đời người không chắc đã luân hồi như  tự  nhiên, vạn vật. Vòng quay thiên nhiên còn trở lại theo chu kì của nó, còn đời   người dường như chỉ có chiều lụi tàn, phôi pha. Sau cái già kia sẽ là cái chết.  Mà mấy ai nhìn thấy được, phía sau cái chết có hiện hữu kiếp sống mới hay  không. Tác giả thể hiện sự bâng khuâng và có chút xót xa. Bài kệ được khép lại với hai câu tuyệt cú xưa nay được truyền tụng như một  vần thơ đẹp trong bài cổ thi. Đó là triết lí Phật pháp cùng quan niệm nhân   sinh: ???????, ???????? (Chớ nên nói rằng xuân tàn thì hoa rụng hết, Đêm hôm qua, trước sân có một nhành mai (nở hoa).) Nhành mai tượng trưng cho vẻ đẹp tinh khiết, thanh cao lộng lẫy của thiên  nhiên và con người. Thiền sư  dùng hình  ảnh nhành mai để  thể  hiện triết lý  6
  7. Phật giáo. Đó là hình  ảnh của bản thể trường tồn, bất biến. Phật giáo quan  niệm người tu thành chính quả  chân thân sẽ  bất biến, trường tồn, trở  nên  vĩnh hằng. Cuộc đời có sinh, trưởng, lão, bệnh, tử  nhưng nhà tu hành chân  chính có thể đắc đạo vượt qua khỏi quy luật sinh tử đó như cành mai nở buổi  xuân tàn. Ông muốn thể hiện một triết lí nhân sinh: niềm lạc quan vào sự hồi  sinh tươi trẻ của cuộc đời, niềm tin trong trẻo về sự sống cùng sự  cứng cỏi  của con người trong thử  thách. Với ông thì thiên nhiên hữu sắc hữu hương,   tràn đầy sức sống tươi mát trẻ trung, cuộc sống không ngừng vươn lên mạnh  mẽ theo dòng chảy của thời gian. Bài kệ “Cáo tật thị chúng” thể hiện một cốt cách, một quan niệm sống   đẹp, những trải nghiệm của vị thiền sư đức trọng tài cao về cuộc đời, về thế  sự cùng triết lý nhân sinh cao đẹp và tư tưởng Phật giáo hòa quyện với chất  thơ giàu cảm xúc. 4.2. Nghệ thuật: Xuân  khứ  bách  hoa  lạc,    B      T       T      B     T Xuân  đáo  bách  hoa  khai.    B      T       T      B      B Sự     trục   nhãn  tiền  quá,  T        T       T      B      T Lão   tòng  đầu thượng lai.   T       B      B      T       B Mạc    vị    xuân   tàn   hoa   lạc  tận,   T       T       B      B      B      T     T Đình  tiền   tạc     dạ    nhất  chi  mai.    B       B      T      T       T     B    B Bài kệ được viết theo thể thơ cổ phong (ngũ ngôn cổ thi). Luật trắc “khứ”, vần bằng. Vần: Gieo vần bằng: “khai”. Gieo vần “ai” (khai – lai – mai) => vần cách. Niêm:  7
  8. Câu 2 và 3 niêm với nhau “đáo” ­ “trục” cùng thanh bằng. Câu 1 và 4 không niêm “khứ” (trắc) – “tòng” (bằng) khác thanh. Đối: Đối thanh: Câu 3 đối thanh với câu 4: “trục” (trắc) ><   “hoa khai” (hoa nở)  cho thấy hai ý hoàn toàn đối lập thể  hiện vòng tuần   hoàn của thời gian và thiên nhiên tạo hóa. Câu 3 và 4 được triển khai theo hướng  tương thành, ý của hai câu bổ sung  nâng đỡ  cho nhau góp phần làm nổi bất hàm ý của câu và góp phần làm rõ   thêm nghĩa của bài thơ,  công việc thế  sự  càng trôi qua thì tóc trên mái đầu   càng bạc, báo hiệu tuổi già và sự trôi chảy nhanh chóng của thời gian cùng sự  vận động không ngừng của thế sự. Câu 5 và 6 được triển khai theo hướng tương phản, ý của hai câu đối lập  nhau, góp phần làm nổi bật ý nghĩa của từng câu và của bài thơ. Ta thấy:   “hoa lạc tận” (hoa rụng hết) >
  9. Một số biện pháp nghệ thuật khác: Lập từ “xuân”, “bách”, “hoa” làm nổi bật ý mà tác giả  muốn thể  hiện  về  vòng tuần hoàn của thời gian và thiên nhiên biến đổi không ngừng  nghỉ. Dùng những từ, cụm từ đối nhau “khứ” > xót xa.                Câu 4: 3/5 chữ thanh bằng, kết thúc thanh bằng => ngậm ngùi. Sử  dụng hình  ảnh “nhất chi mai”: Đó chính là hình  ảnh của những  người tu hành đắc đạo. Đảo ngữ: nhấn mạnh sự xuất hiện, hiện diện bất  ngờ, lặng lẽ, điềm nhiên, tự  nhiên của nhành mai => Đạo Phật huyền  diệu. Không có động từ, chỉ  có cụm danh từ  “nhất chi mai” =>  sự  hiện  diện như là tất nhiên, tất yếu, như đã tự nghìn năm => sự trường tồn. Thể thơ 5 chữ đến 7 chữ: diễn tả sự thay đổi trong nhận thức, đánh dấu  điểm ngoặt trong tư  duy. Thể thơ 7 chữ đột ngột thay cho các câu thơ  5  chữ còn làm hơi thơ giãn ra, như một thoáng nhận thức bình tĩnh, một hơi   thở  nhẹ  nhõm, tràn hạnh phúc. Tác giả  vẫn duy trì sự  đều đặn của nhịp   thơ giữa câu trên và câu dưới để gợi đến tâm thế tự tại của con người. 5.  So sánh bản dịch thơ của Ngô Tất Tố với nguyên tác:  Về  hình thức:  cả  nguyên tác và bản dịch thơ  đều giống nhau về  hình  thức (số câu, số chữ). Về nội dung: Câu thứ nhất: nguyên tác là “Xuân khứ bách hoa lạc” (xuân qua, trăm hoa  rụng), bản dịch thơ dịch (Xuân ruổi trăm hoa rụng), từ “ruổi” chưa làm rõ   nghĩa, mơ hồ so với nguyên tác “khứ”. 9
  10. Câu thứ 2: nguyên tác “Xuân đáo bách hoa khai” (xuân đến, trăm hoa nở),  bản dịch thơ dịch (Xuân tới, trăm hoa cười), từ “khai” (nở, mở) được Ngô  Tất Tố dịch thành “cười”, bản dịch còn khác nghĩa so với nguyên tác. Câu thứ 3: nguyên tác “Sự trục nhãn tiền quá” (Chuyện đời xô đuổi nhau  ruổi qua trước mắt), bản dịch thơ ( Trước mắt việc đi mãi), bản dịch chưa  sát nghĩa và chưa thể hiện được sự trôi chảy, tiếp diễn, phức tạp của thế  sự trong cuộc sống như nguyên tác muốn thể hiện. Câu thứ  4: nguyên tác “Lão tòng đầu thượng lai” (Tuổi già đến (với con  người) từ  (mái tóc bạc) trên đầu), bản dịch (Trên đầu già đến rồi) bản  dịch là tương đối sát nghĩa và thể hiện được ý của nguyên tác. Câu thứ  5: nguyên tác “Mạc vị  xuân tàn hoa lạc tận” (Chớ  nên nói rằng  xuân tàn thì hoa rụng hết), bản dịch thơ  ( Đừng bảo xuân tàn hoa rụng  hết), bản dịch là tương đối sát nghĩa và thể hiện được ý của nguyên tác. Câu thứ  6:  nguyên tác “Đình tiền tạc dạ  nhất chi mai” (Đêm hôm qua,  trước sân có một nhành mai (nở  hoa)), bản dịch thơ ( Đêm qua, sân trước  một nhành mai), bản dịch thơ chưa thể hiện hết ý của nguyên tác mà tác   giả muốn nói tới và có phần chưa suông. Liên hệ ­ mở rộng: Trong thơ  ca, cảm xúc này cũng được nói tới hơn một lần: có người ví  thời gian như  bóng câu qua cửa sổ  để  rồi bỗng hẫng hụt khi tháng ngày   trôi đi quá nhanh. Nguyễn Trãi thì sáng tạo ra một hình  ảnh độc đáo để  chuyển tải cảm giác âu lo:    Tiếc xuân cầm đuốc mảng chơi đêm Những lệ xuân qua tuổi tác thêm Thời gian cứ như một nỗi ám ảnh bám riết với thi nhân. Đi xa hơn tới thời   hiện đại, ta cũng thấy xuất hiện cảm giác tương tự. Trong   Vội vàng –  Xuân Diệu: Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại. Hình  ảnh nhành mai: Người xưa xem hoa mai là biểu tượng của người  quân tử. Nguyễn Du nói “mai cốt cách” là đề cao sự sang trọng, thanh cao  của loài hoa. Những cành mai tuy khẳng khiu nhưng không dao động trước  gió, hoa mỏng manh mà sáng bừng một sắc vàng kiêu hãnh. Lại là loài hoa  nở  trước nhất các loài hoa, phải chống chọi với cái rét mùa đông để  trổ  10
  11. hoa, trở  thành sứ  giả  báo tin xuân, cho nên, hoa mai được người xưa rất   coi trọng.  So sánh hình ảnh nhành mai được các tác giả sử dụng: So sánh 1: hai câu thơ trong bài Tảo mai của nhà thơ Tề Kỉ đời Đường: “Tiền thôn thâm tuyết lí, Tạc dạ nhất chi khai”. (Thôn trước trong tuyết âm u, Đêm qua một nhành mai nở)  CTTC ko dùng cụm chủ vị để kết thúc mà dùng cụm danh từ.  So sánh 2: hai câu thơ trong bài Mai hoa của Uông Trung: “Cố viên hoa lạc tận Giang thượng nhất chi khai” (Vườn xưa hoa rụng hết Trên sông một nhành mai nở)  Giống: sự đối lập giữa “một nhành mai nở” và cảnh “hoa rụng hết”.  Khác: Tác giả Uông Trung nhấn mạnh sự khác biệt về thời tiết để  thể  hiện nỗi nhớ  quê da diết. Ông quê  ở  miền Bắc nhưng lại làm quan  ở  Giang Tô. Khi Giang Tô đã tàn xuân thì  ở  phía Bắc quê hương ông, mai  mới bắt đầu nở báo tin xuân.  Dường như ý nghĩa triết lí của CTTC cao hơn một bậc. So sánh 3: bài Thướng sơn (Lên núi) của Hồ Chủ tịch viết năm 1942: “Cử đầu hồng nhật cận,   Đối ngạn nhất chi mai”. (Ngẩng đầu mặt trời đỏ, Bên suối một nhành mai)  => Hình ảnh nhành mai được đặt trong thế đối xứng với mặt trời đỏ cao   xa, huy hoàng, ngạo nghễ => Toát lên vẻ cứng cỏi khác thường. => Khí chất người quân tử => Phù hợp với tứ thơ đăng cao. 11
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2