
Thầy Ơi ! Con Xin Lỗi !

Những cơn mưa đầu đông đến vội vàng, bầu trời xám ngắt, từng áng mây đen kịt
cắt hình trên nền trời. Mưa. Mưa rả rích, liên miên. Trời cứ hửng nắng lên chút xíu
rồi lại mưa. Ông Trời kéo nắng về chốn nào để lại đây một cái buồn ảm đạm, xám
bầu trời và xám cả lòng người. Qua lần cửa kính cả phố phường hiện ra mờ mờ
trong làn nước mưa giăng giăng trắng xoá. Từng hạt nước mưa lấm tấm đọng trên
lớp kính dày, rồi kết thành từng dòng một chảy xuống như nước mắt. Nó nhìn xa
xăm về phía chân trời xa tít. Hình như có cơn mưa nào đấy đang giăng trong lòng
nó. Nó khóc. Cảm giác hối hận, có lỗi gặm nhấm nó. Rồi bao kí ức ùa về trong trí
nhớ. Nó nhớ… nhớ bóng cao cao, gầy gò, già nua trong tấm áo len mỏng, nhớ
gương mặt đã hằn những vết nhăn, nhớ cả mái đầu muối tiêu của tuổi già và bụi
phấn. Nó nhớ thầy… Từng dòng kí ức cứ chảy trôi trong lòng nó, tất cả hiện về
như một thước phim quay chậm.
Năm lớp ba, trường tiểu học của nó đã cho học sinh tiếp cận với môn Tiếng Anh.
Nó vốn không phải là đứa nổi trội trong lớp. Nó trầm lặng và ít nói. Nó viết chữ
không đẹp, nói đúng hơn là xấu nhất lớp và hay bị cô giáo khẽ tay trong giờ tập
viết. Nó học tệ Toán, đến cả lời giải cũng chả biết ghi thế nào. Bạn bè trêu nó. Nó
đem nguyên cục tự ái to đùng về nhà và tự nhủ phải hạ quyết tâm học tốt. Mọi
chuyện vẫn thế, cho đến hôm thầy bước vào lớp. Nó ngạc nhiên. Vì thầy là người

nó đã biết trước. Thầy là thầy của mẹ nó, của dì nó, và của anh họ nó nữa. Trước
đây thầy dạy cấp ba, rồi nghỉ hưu, thầy xin vào trường tiểu học dạy hợp đồng cho
các lớp ba, bốn, năm.
Buổi học đầu tiên, vì thầy đã biết tên nó nên hay gọi nó phát biểu. Nó thấy vui vui
-một niềm vui nho nhỏ. Ngay từ lúc thầy ghi những từ vựng đầu tiên trên bảng, nó
đã thấy thích cái ngôn ngữ thứ hai này. Cảm giác thật thú vị.
… Lớp học thêm Anh hôm nay đông, nhỉ. Trong căn nhà nhỏ xíu tường đã tróc
sơn, mười mấy đứa lớp ba ê a đọc theo từng từ vựng sau tiếng gõ nhịp đều đều của
cây thước gỗ lên mặt bảng. Nó cũng đang cắm cúi ghi bài, say sưa nghe giảng. Đó
là buổi học thêm đầu tiên ở nhà thầy. Nó nhớ mãi cuộc trò chuyện ngắn ngắn thế
này:
-Mẹ em khoẻ không? Vẫn bán quán hở em?
-Dạ.
-Em phải cố học sau ni nuôi mẹ. Mẹ em khổ nhiều rồi. Em phải cố lên nghe. Em
đừng có sợ, phải dạn dĩ lên thì mới học tốt được. Có gì không hiểu em cứ hỏi thầy,
đừng ngại.
-Dạ. Em cảm ơn thầy.
… Cuộc trò chuyện ngắn ấy đã làm nó thay đổi. Nó lột xác khỏi vẻ nhút nhát và
thôi không còn run sợ khi đứng lên phát biểu nữa. Nó cố học thật nhiều thay vì
chơi bán hàng cùng mấy nhóc trong xóm. Bạn bè ngạc nhiên vì sự tiến bộ của nó.

Bài kiểm tra đầu tiên môn Anh của nó là con mười đỏ chót, con điểm cao nhất lớp
lần đầu nó nhận được. Bạn bè xì xầm, cho rằng thầy bênh nó, rằng nó biết đề
trước… Nó không nói gì, và mặc kệ những lời nói ấy.
Những bài kiểm tra sau nó đều được mười điểm, và khả năng Tiếng Anh đã khá
lên rõ rệt nên bạn bè thôi không xì xầm về nó nữa. Nó cũng cởi mở hơn với bạn bè.
Thầy luôn động viên nó bằng những lời sâu lắng nhất. Thầy cho nó mượn sách để
làm bài tập, tận tình giảng cho nó những cấu trúc ngữ pháp khó. Có một câu nói
của thầy làm nó nhớ mãi: "Các em đừng quan niệm sai lệch về môn Tiếng Anh. Nó
không khó như mọi người vẫn nghĩ. Sẽ rất dễ dàng nếu các em học nó bằng trái
tim.”
Những buổi học vẫn tiếp tục như thế trong căn nhà nhỏ cũ kĩ. Căn nhà ấy, ngày hè
thường vương vài ba sợi nắng trên mái ngói vỡ lung linh xuống dãy bàn học; ngày
đông là những giọt nước mưa gõ lộp độp trên mái tôn, rơi rơi trên mấy cái thau
hứng nước. Thầy vẫn dạy chúng nó những kiến thức ấy với một cách dạy khác
biệt. Thầy không dạy những từ vựng trong sách giáo khoa vì nghĩ chúng nó có thể
tự học được từ sách vở. Những kiến thức thầy dạy là những gì căn bản và cần thiết
cho chúng nó, những điểm ngữ pháp nền tảng, những từ vựng gần gũi trong cuộc
sống thường nhật. Thầy luôn tỉ mỉ kiểm tra từ mới tất cả các học sinh đầu mỗi buổi
học thêm và cho bài tập sau mỗi giờ học rồi cho điểm từng đứa một.
Những ngày rét căm căm, thầy ho sù sụ, giọng khàn khàn, trông thầy gầy gò trong

làn áo len mỏng. Nó thấy thương thầy lắm! Rồi có lúc thầy bị đau chân, đôi chân
thầy sưng tấy, đỏ ửng làm thầy đi lại rất khó khăn. Thầy vẫn đến lớp bằng lòng
nhiệt huyết và chân thành của một người thầy. Thầy vẫn đứng trên bục giảng đem
đến cho chúng nó, gieo mầm cho chúng nó về một thứ ngôn ngữ khác tiếng mẹ đẻ.
Nó nhớ cả đôi mắt trìu mến thầy dành cho nó. Và cả những khi thầy rầy la nó, đôi
mắt ấy bỗng trở nên nghiêm nghị. Ấy là những lúc nó lười học. Những từ vựng dài
ngoằn khó thuộc, những cấu trúc ngữ pháp phức tạp, những dạng bài tập khó
nhằn… tất cả làm nó lắm lúc thấy chán nản, và nó bỏ bê. Thầy luôn dõi theo nó và
khuyên nó những lời chân thành, rầy la nó… tất cả làm nó biết rằng nó phải cố
gắng hơn. Thầy biết nó thiếu thồn tình thương của một người ba và luôn an ủi nó, y
như thầy là người ba của nó vậy.
Nó đã học thầy bốn năm rưỡi. Lên cấp hai, dù không học thầy ở trên lớp nhưng nó
vẫn đều đặn đến lớp học thêm. Rồi những căn bệnh tuổi già làm thầy già nhanh
chóng, những cơn ho xuất hiện thường xuyên hơn, giọng thầy khàn và không còn
to như trước nữa. Nhưng thầy cũng trở nên khó chịu hơn, cũng vì tuổi già (vì thầy
đã ngoài sáu mươi). Thầy hay rầy chúng nó nhiều hơn. Và rồi lớp học cũng thưa
thớt dần học sinh. Bạn bè nó tìm đến những thầy cô khác để học vì nghĩ thầy già,
dạy không tốt như trước. Rồi lớp học chỉ còn có vỏn vẹn ba đứa. Lớp học thêm ấy
không còn đông đúc và rộn những tràng cuời đùa nữa. Nó thấy buồn man mác. Và
rồi nó cũng bỏ học thêm thầy mà không một câu.