intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thích ứng chương trình giáo dục hành vi cho cha mẹ phù hợp với ông bà: Những bằng chứng lý luận

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:15

19
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục tiêu của bài viết này nhằm điểm luận các chương trình can thiệp huấn luyện hành vi làm cha mẹ tích cực (Triple P), qua đó làm rõ về cấu trúc chương trình giáo dục, tính hiệu quả của các chương trình giáo dục cha mẹ. Mời các bạn tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thích ứng chương trình giáo dục hành vi cho cha mẹ phù hợp với ông bà: Những bằng chứng lý luận

  1. 366 THÍCH ỨNG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC HÀNH VI CHO CHA MẸ PHÙ HỢP VỚI ÔNG BÀ: NHỮNG BẰNG CHỨNG LÝ LUẬN PGS.TS.Trần Thành Nam1 ThS.Trần Thị Hải Yến2 Tóm tắt: Các chương trình giáo dục hành vi làm cha mẹ đã được chứng minh về tính hiệu quả trong việc can thiệp cho trẻ có các vấn đề hành vi. Tuy vậy tại nhiều quốc gia, người dành nhiều thời gian để tương tác với trẻ lại là ông bà chứ không phải cha mẹ. Mục tiêu của bài viết này nhằm điểm luận các chương trình can thiệp huấn luyện hành vi làm cha mẹ tích cực (Triple P), qua đó làm rõ về cấu trúc chương trình giáo dục, tính hiệu quả của các chương trình giáo dục cha mẹ, các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả của chương trình giáo dục làm cha mẹ, những điều chỉnh của chương trình để thích ứng khi tập huấn cho ông bà, hiệu quả của phiên bản thích ứng về các chương trình giáo dục hành vi cho ông bà. Kết quả điểm luận sẽ giúp khái quát và đề xuất khung chương trình giáo dục hành vi dành cho ông bà phù hợp với bối cảnh văn hoá Việt Nam và là tiền đề cho các nghiên cứu thực nghiệm tiếp theo. Từ khóa: chương trình làm cha mẹ tích cực (Triple P), chương trình giáo dục hành vi dành cho ông bà, thích ứng. 1. Đặt vấn đề Triple P là một chương trình giáo dục hành vi làm cha mẹ tích cực đã được chứng minh về tính hiệu quả trong các nền văn hoá phương Tây như tại Anh (Eboni 1 Trưởng khoa Các Khoa học Giáo dục; Trường Đại học Giáo dục – Đại học Quốc gia Hà Nội; Email: tranthanhnam@gmail.com; Điện thoại: 0912013831. 2 Học viện Quản lý Giáo dục.
  2. THÍCH ỨNG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC HÀNH VI CHO CHA MẸ PHÙ HỢP VỚI ÔNG BÀ... 367 Baugh, 2014), (Lindsay & Strand, 2013) và Phương Đông như Hồng Kông (Leung & cộng sự, 2014). Tuy nhiên, các nghiên cứu này mới chỉ ra tính hiệu quả của các chương trình, chưa làm rõ yếu tố nào ảnh hưởng đến tính hiệu quả đó. Những người phát triển chương trình làm cha mẹ tích cực đã ý thức được thời gian ông bà dành cho trẻ, vai trò của ông bà trong việc giáo dục hành vi cho trẻ nên Triple P cũng có phiên bản dành cho ông bà (Kirby & Sanders, 2012). Các tác giả này cho rằng mở rộng các chương trình nuôi dạy con cái bao gồm các thành viên gia đình, chẳng hạn như ông bà tham gia vào việc chăm sóc trẻ em có thể tăng cường các nỗ lực để ngăn ngừa và giảm thiểu các vấn đề sức khỏe tâm thần và hành vi ở trẻ em. Tuy nhiên, chưa có chương trình nào được thích ứng dành cho ông bà như những người chăm sóc chính, chưa có chương trình nào được thích ứng để hướng dẫn ông bà cách tương tác với trẻ có vấn đề hành vi. Hiệu quả lâu dài của các chương trình dành cho ông bà trước đây cũng cần được nghiên cứu thêm. Do đó, nếu tính đến sự khác nhau về văn hóa, sự khác nhau trong vai trò người giáo dục trẻ, quan tâm đến trẻ có vấn đề sức khỏe tâm thần và hành vi, từ đó định hướng các cách triển khai nội dung chương trình phù hợp hơn với người thực hiện thì hiệu quả có thể sẽ được nâng cao. Ở Việt Nam, chương trình tập huấn hành vi dành cho cha mẹ đã được nghiên cứu bởi một số tác giả như Trần Thành Nam & Bahr Weiss (2015), Nguyễn Thị Diệu Anh (2017), Bộ môn Tâm lý học ứng dụng – Trường Đại học Hoa Sen – Thành phố Hồ Chí Minh (2017). Các tác giả này đều chỉ ra rằng cha mẹ, ông bà Việt thể hiện thái độ sẵn sàng chấp nhận và tham gia chương trình làm cha mẹ tích cực. Mặt khác, ông bà có vai trò vô cùng lớn đối với việc chăm sóc và nuôi dạy trẻ trong các gia đình ở Việt Nam. Văn hóa gia đình đa thế hệ, ông bà sống chung cùng con cháu tạo điều kiện cho ông bà dành nhiều thời gian cho cháu hơn cha mẹ. Tại một số gia đình, cha mẹ trẻ đi làm xa, để con cho ông bà nuôi là một hiện tượng phổ biến. Trong tình huống ấy, ông bà có vai trò là người chăm sóc chính với trẻ. Việc xây dựng và thực hiện một chương trình giáo dục hành vi được hiệu chỉnh để phù hợp với đối tượng ông bà là cần thiết. Với các lý do trên, tôi quyết định lựa chọn Triple P làm cơ sở thích ứng chương trình tập huấn hành vi dành cho ông bà ở Việt Nam. 2. Nội dung nghiên cứu Để thực hiện nghiên cứu điểm luận này, chúng tôi đã sử dụng cơ sở dữ liệu và công cụ tìm kiếm của PsycINFO, PsyARTICLES, đề tìm các nghiên cứu có liên quan bằng thuật ngữ “Triple P” hoặc “Positive Parenting Program”. Các kết quả thu được sẽ được phân loại và điểm luận theo các nhóm vấn đề (i) bằng chứng về
  3. KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI 368 PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL tính hiệu quả của chương trình Triple P trên đối tượng cha mẹ; (ii) bằng chứng về tính hiệu quả của chương trình Triple P trên đối tượng ông bà; (iii) các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả chương trình. Cụ thể như sau: 2.1. Hiệu quả của chương trình làm cha mẹ tích cực Triple P Triple P là chương trình nuôi dạy con tích cực, được xây dựng bởi Sanders và cộng sự tại Đại học Queensland ở Australia. Chương trình giới thiệu các kỹ thuật quản lý trẻ em tích cực, phi bạo lực, nhằm mục đích thúc đẩy năng lực của cha mẹ trong việc tương tác với con. Triple P đã được sử dụng, thích nghi trong một số quốc gia và đã được chứng minh là một chương trình có hiệu quả nhất trong việc can thiệp trẻ có các vấn đề hành vi không thích nghi (Lindsay & Strand, 2013). Hiệu quả của chương trình được thể hiện ở các khía cạnh sau: Cải thiện các vấn đề sức khỏe tâm thần ở trẻ: Tỷ lệ trẻ em được cha mẹ đánh giá là khó khăn về mặt lâm sàng giảm một phần ba sau khi cha mẹ thực hành kết hợp các chương trình làm cha mẹ tích cực. Sự giảm đáng kể các khó khăn của trẻ sau khóa học được duy trì sau một năm, không có sự khác biệt đáng kể giữa điểm sau khóa học và sau một năm (Lindsay & Strand, 2013). Điều này cho thấy cần theo dõi thêm hiệu quả lâu dài của các chương trình giáo dục hành vi cho cha mẹ, ông bà đối với việc cải thiện các vấn đề sức khỏe tâm thần của trẻ. Giảm vấn đề hành vi của trẻ: Những cải thiện trong hành vi của trẻ trước và sau khóa học cho Triple P tốt hơn đáng kể so với ba chương làm cha mẹ tích cực khác (Lindsay & Strand, 2013). Trong đó, các vấn đề hành vi ở trẻ gái giảm đáng kể hơn các vấn đề hành vi ở trẻ trai (Leung & cộng sự, 2004), (Thomas & cộng sự, 2007). Cải thiện kỹ năng tương tác với con của cha mẹ: Sau khi tham gia chương trình làm cha mẹ tích cực, cha mẹ ít khi đưa con mình vào phản ứng thái quá khi con họ thể hiện những khó khăn về hành vi (Lindsay & Strand, 2013). Kết quả đó là do cha mẹ đã hạn chế được các hành vi tiêu cực tại thời điểm sau khóa học. Điểm số tăng nhẹ trong một năm theo dõi, nhưng vẫn thấp hơn đáng kể so với các mức trước khóa học (Leung & cộng sự, 2004). Thomas & cộng sự (2007) còn chỉ ra rằng chương trình hiệu quả trên người mẹ rõ ràng hơn người cha. Giảm các triệu chứng căng thẳng của cha mẹ trong quá trình nuôi dạy con: Sức khỏe tâm thần của cha mẹ ở sau khóa học cao hơn đáng kể so với trước khóa học. Điểm trung bình trong một năm theo dõi đã giảm trở lại so với điểm số sau khóa học nhưng vẫn cao hơn đáng kể so với trước khóa học. Kết quả này ở chương trình Triple P cao hơn các chương trình được so sánh khác (Lindsay & Strand, 2013). Nhóm tác giả Leung & cộng sự, 2004; Bodenmanna & cộng sự (2008) cũng cho rằng chương trình có hiệu quả trên phụ nữ hơn đàn ông, người mẹ nhận được nhiều tác động tích cực hơn người cha.
  4. THÍCH ỨNG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC HÀNH VI CHO CHA MẸ PHÙ HỢP VỚI ÔNG BÀ... 369 Gia tăng ý thức về năng lực của cha mẹ trong việc tương tác với con (Leung & cộng sự, 2004). Những cải thiện về hành vi của trẻ hay của chính cha mẹ, sự cải thiện mối quan hệ cha mẹ - con cái, cũng như cải thiện chất lượng cuộc sống sẽ củng cố nhận thức tích cực cho cha mẹ, giúp họ duy trì niềm tin rằng mình có năng lực tương tác với con, giúp con có những hành vi tích cực hơn. Nâng cao chất lượng hôn nhân. Trong khi các chương trình phòng chống nạn hôn nhân không chỉ ra những ảnh hưởng tích cực đến chất lượng hôn nhân thì việc cải thiện kỹ năng làm cha mẹ có thể giúp cải thiện chất lượng hôn nhân trong các gia đình (Markman, 2003; Shadish & Baldwin, 2003). 2.2. Hiệu quả của các chương trình tập huấn hành vi dành cho cha mẹ được hiệu chỉnh áp dụng trên ông bà Trên cơ sở chương trình làm cha mẹ tích cực Triple P, Sander và cộng sự tiếp tục nghiên cứu và chỉ ra rằng các hiệu quả trên của Triple P sẽ được nâng cao hơn nếu hệ thống tương tác gia đình cũng nhận được sự tác động giống như cha mẹ. Chương trình Grand Triple P được ra đời, hướng đến khách thể là ông bà với vai trò là người đồng chăm sóc trẻ trong các gia đình. Gand Triple P được James N. Kirby nghiên cứu lần đầu tiên (2014). Đến nay, chương trình dành cho ông bà cũng chứng minh được các hiệu quả thể hiện trên các khía cạnh sau: Giảm đáng kể các vấn đề hành vi của trẻ em, ngăn chặn thành công nguy cơ phát triển các rối loạn rối tâm thần của trẻ (Kirby & Sanders, 2014), (Leung & cộng sự, 2014). Các khách thể chia sẻ “(Trong quá khứ), khi đứa cháu cãi tôi, (tôi) căng thẳng. Bây giờ (tôi) học được kế hoạch phớt lờ. Nó thực sự hiệu quả”. Hay “Cháu bây giờ cư xử tốt hơn nhiều. Tính khí (của cháu) đã được cải thiện. (Tôi có) liên lạc nhiều hơn với đứa cháu. Cháu (đã thay đổi), ... từ những người không đồng thuận trước đây, ... đến giờ, chúng tôi cùng vui vẻ với nhau. Đó là, (cháu) nói ‹yêu bà rất nhiều› nhiều hơn nữa”. Giảm mức độ trầm cảm và lo âu ở ông bà sau khi được can thiệp (Kirby & Sanders, 2014). Cảm giác hoàn thành nhiệm vụ với tư cách là cha mẹ, giúp ông bà chữa lành nỗi đau từ những vấn đề gia đình trong quá khứ. Tăng nhận thức của ông bà về việc nuôi dưỡng, chăm sóc cháu. Một ông/ bà chia sẻ: “Nếu bạn muốn thay đổi hành vi của đứa cháu, bạn phải thay đổi chính mình trong việc chăm sóc đứa cháu. Đây là khám phá lớn nhất”. Cụ thể ông bà đã thay đổi bản thân sau chương trình để biết cách đối phó với các hành vi tiêu cực của cháu (Leung, 2014). Ông/bà khác cho rằng: “Họ (cha mẹ) có cách nuôi con cái của họ, điều này có thể không phù hợp với thế hệ của tôi. Vì vậy, tôi thay đổi và đi cùng với con đường của họ, và bất cứ điều gì xảy ra trong tương lai, nó là của họ.
  5. KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI 370 PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL Tôi có ý tưởng này. Tôi chỉ là một trợ lý. Tôi giúp bởi vì họ phải làm việc. Tôi giúp họ chăm sóc (cháu). Vì vậy, tôi hạnh phúc hơn”. Ông bà cũng nhận thức rằng việc nuôi nấng cháu là cơ hội để trở thành cha mẹ một lần nữa: “Mặc dù con cái của tôi không trở thành như tôi muốn, nhưng tôi có cơ hội thứ hai để làm điều đó với những đứa cháu của mình, trở thành một người mẹ một lần nữa, một bà ngoại và một người bạn” (Lee & cộng sự, 2014). Giảm căng thẳng trong mối quan hệ giữa cha mẹ và ông bà, nhưng không đáng kể: Ông bà thành công trong việc giao tiếp với cha mẹ về các chủ đề chăm sóc trẻ. Những điều này cho thấy Grand Triple P đã giúp cải thiện nhóm đồng nuôi dưỡng giữa ông bà và cha mẹ, do đó cung cấp một môi trường ổn định và bình tĩnh hơn cho các cháu phát triển (Leung & cộng sự, 2014). Nhận thức của ông bà về hành vi của cháu họ đã chứng minh những thay đổi tích cực sau can thiệp, vì họ đã học cách buông xả và thoải mái hơn. Mặt khác, bà có thể chia sẻ với các ông bà khác trong nhóm can thiệp. Sự duy trì thực hiện sau sáu tháng giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng không có khác biệt, chứng tỏ không tìm thấy sự hấp dẫn hơn từ chương trình Triple P đối với ông bà nếu không có sự tác động, giám sát hàng ngày, điều đó cho thấy rằng ông bà cần thêm thời gian để củng cố chiến lược nuôi dạy con cái mới được hình thành (Kirby & Sanders, 2012). Kết thúc chương trình tập huấn, ông bà bày tỏ hài lòng với chương trình (Kirby & Sanders, 2012). 2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chương trình tập huấn hành vi cho cha mẹ và chương trình tập huấn hành vi cho ông bà Bên cạnh hiệu quả đã được chứng minh ở trên, các nghiên cứu về chương trình tập huấn hành vi cho cha mẹ và ông bà cũng chỉ ra những tồn tại cần cải thiện, những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chương trình, cũng như mong muốn của chính những người tham gia về chương trình. Việc tổng quan các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện Triple P trên ông bà sẽ giúp chúng tôi thích nghi chương trình vào Việt Nam hiệu quả hơn. 2.3.1. Khó khăn của ông bà khi nuôi dạy cháu Ông bà không biết làm gì với các hành vi có vấn đề của cháu, không biết các chiến lược kỷ luật phù hợp cho các hành vi không phù hợp. Lý do là vì đã quá lâu họ chưa chăm sóc trẻ, cùng với trí nhớ bị giảm sút do tuổi tác, họ nhận thức rằng việc thực hành nuôi dạy con cái đã thay đổi và họ không biết các chiến lược sẵn có của các bậc cha mẹ để có cách ứng xử hiệu quả ngay khi trẻ có hành vi chưa phù hợp (Kirby & Sanders, 2012).
  6. THÍCH ỨNG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC HÀNH VI CHO CHA MẸ PHÙ HỢP VỚI ÔNG BÀ... 371 Nội dung quản lý hành vi khiến ông bà khó khăn nhất: quản lý giấc ngủ cho cháu, cho cháu ngủ; Huấn luyện cháu đi vệ sinh; cung cấp thức ăn cho cháu; chăm sóc nhiều hơn một đứa cháu tại một thời điểm; lo lắng cho các vấn đề của cháu; hoạt động mua sắm với cháu (Kirby & Sanders, 2012). Khó khăn trong giao tiếp với nhân viên nhà trường, tin rằng nhân viên nhà trường không hiểu tình huống của gia đình họ. Các vấn đề liên lạc với nhân viên nhà trường làm tăng cảm giác cô lập, họ không biết phải chuyển sang đâu để nhận câu trả lời cho các thắc mắc của họ. Một ông/ bà chia sẻ: “Giao tiếp rất khó khăn. Chúng tôi truyền đạt nhưng cảm thấy căng thẳng với giáo viên” (Lee & Blitzt, 2014). Ông bà cũng phải đối mặt với trách nhiệm chăm sóc cho một đứa cháu dễ bị tổn thương. Bất kể tình huống nào cha mẹ vắng mặt, trẻ em sẽ bị bế tắc, đòi hỏi nhiều nguồn lực tình cảm hơn từ ông bà. Trẻ nhỏ chưa phát triển khả năng diễn đạt cảm xúc phức tạp và chịu đựng những trải nghiệm cảm xúc đau đớn dữ dội như đau buồn. Nỗi đau này có thể dẫn đến các triệu chứng trầm cảm, khó chịu, gây hấn, các vấn đề học thuật (Webb, 1993). Đối với ông bà nuôi dưỡng trẻ có những khó khăn tâm thần, thông tin cụ thể liên quan đến những vấn đề khó khăn tâm thần của trẻ cũng có thể là vấn đề với họ. Họ không biết nhu cầu tâm lý của trẻ và cách đáp ứng phù hợp cho những nhu cầu ấy (Lahner & Jooste, 2003), (Kaminski, 2004). Ông bà cho rằng đương đầu với các cảm xúc mệt mỏi, cô lập trong quá trình nuôi cháu cũng là một thách thức. Họ cũng cho rằng có một cảm giác nghĩa vụ phải chăm sóc cháu, giống như một kỳ vọng tiềm ẩn của cha mẹ trẻ đối với họ. “Tôi cảm thấy có nghĩa vụ và đó là một trong những điều lớn nhất ngay từ đầu với con gái tôi” (Kirby & Sanders, 2012). Điều này khẳng định tầm quan trọng của việc bổ sung nội dung hướng dẫn giải tỏa cảm xúc trong chương trình giáo dục dành cho ông bà. 2.3.2. Khó khăn của cha mẹ, ông bà khi thực hiện chương trình tập huấn hành vi Nội dung khoảng lặng và phớt lờ trong chương trình nhận được ít sự tán thành của cha mẹ vì họ cho rằng các kỹ thuật này khiến trẻ ít có khả năng nhận được sự can thiệp đặc biệt từ chương trình. Tham gia chương trình có thể bị ông bà chống lại bởi vì nó có thể ám chỉ rằng họ không nuôi dạy tốt con cái đã trưởng thành của họ. Tuy nhiên, thời gian thay đổi có thể làm giảm tính phòng thủ đó của ông bà (Pinson-Millburn, 1996). Do đó, trong qua trình triển khai chương trình cần có thời gian tiếp cận, tư vấn tâm lý cho ông bà.
  7. KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI 372 PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL Ông bà gặp khó khăn trong việc quản lý mối quan hệ với cha mẹ và ghi nhớ hiệu quả chiến lược nuôi dạy con cái (Kirby & Sanders, 2012). Điều này đòi hỏi các chương trình dành cho ông bà cần phải được cải thiện về hình thức triển khai nội dung, ghi nhớ, đánh giá và tự đánh giá của ông bà. Phải giám sát các cháu thường xuyên để biết các dấu hiệu nhu cầu của chúng cũng khiến ông bà cảm thấy khó khăn (Lahner & Jooste, 2003). Ngoài ra, lý do phổ biến nhất khiến chương trình không nhận được sự tham gia của khách thể là: Việc kháng thuốc sau hướng dẫn thực hiện chương trình, tức là chương trình nhận được phản ứng gay gắt ngay khi chỉ mới thực hiện bước giới thiệu; Phụ huynh không muốn, không thực hiện cam kết hoàn thành chương trình; Hoặc phụ huynh không thực hiện đủ các nội dung, các yêu cầu của chương trình; Hoặc phụ huynh chuyển nơi ở trong quá trình thực hiện nên không theo đến cuối chương trình; Hoặc trình độ học vấn thấp, gia cảnh nghèo; Cha mẹ đơn thân; Hoặc những cản trở về mặt hành chính (Mazzucchelli & cộng sự, .2010). 2.3.3. Những yêu cầu để thực hiện hiệu quả chương trình tập huấn hành vi cho ông bà Trong quá trình thực hiện chương trình, ông bà gặp một vài khó khăn và mong muốn Grand Triple P cần có một vài cải tiến để họ có thể dễ dàng tiếp nhận hơn: Ông bà gặp khó khăn với các bài tập viết, vì họ không quen với nó. Họ cũng thấy rằng cần phải nhớ những điều được dạy trong lớp là khó khăn, điều này đòi hỏi các chương trình dành cho ông bà sau này cần thay đổi việc truyền đạt nội dung từ viết sang các hình thức khác. Các nhà hỗ trợ phải sử dụng các chiến lược khác nhau để khuyến khích các thành viên trong gia đình hoàn thành các hoạt động bài tập về nhà. “Thật khó cho chúng tôi thể hiện bằng văn bản. Thật khó khi yêu cầu họ (ông/bà) làm bài tập về nhà của họ ... Khi họ quay lại và khi (tôi) hỏi họ liệu họ đã làm (bài tập về nhà của họ), không ai trong số họ đã làm”. Ông bà cũng muốn có thêm chiến lược để đối phó với những căng thẳng liên quan đến vai trò, đặc biệt là cảm xúc xung quanh sự thất vọng và cảm giác tội lỗi. Nội dung chương trình cần bao gồm một modul tập trung vào cải thiện giao tiếp ông bà - cha mẹ trong trường hợp phát sinh tình huống căng thẳng và xung đột (Kirby & Sanders, 2012). Kế thừa luận điểm này, chương trình dành cho ông bà cần quan tâm đến nội dung hướng dẫn ông bà giải tỏa cảm xúc tiêu cực trong quá trình nuôi dạy cháu. Ông bà xác định rằng họ cần thời gian nghỉ, ví dụ: Đi nghỉ hoặc có một tuần ‘tắt’ cung cấp dịch vụ chăm sóc và ‘trong’ nghỉ (ví dụ, có một giấc ngủ ngắn trong khi em bé ngồi) (Kirby & Sanders, 2012). Cần nhấn mạnh điều này trong quá trình giáo dục tâm lý cho ông bà. Bản chất của việc tham gia huấn luyện hành vi là giúp
  8. THÍCH ỨNG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC HÀNH VI CHO CHA MẸ PHÙ HỢP VỚI ÔNG BÀ... 373 ông bà có kỹ năng tương tác với cháu. Nếu làm tốt, họ sẽ có thời gian nghỉ ngơi, và họ sẽ cảm thấy thoải mái hơn. Nhu cầu cần nghỉ ngơi cũng vì thế mà giảm. Ông bà muốn biết các chiến lược nuôi dạy con cái mới, muốn có ý tưởng về những việc cần làm với các cháu, những cách tốt hơn để giao tiếp với cha mẹ cháu về các vấn đề nuôi dạy con cái, muốn liên lạc với ông bà khác, và muốn thông tin về cách xử lý thời gian chuyển đổi, ví dụ: Đưa và đón cháu ở trường. Ông bà muốn nhận được một chương trình nhóm nơi họ có thể liên lạc với ông bà khác để được hỗ trợ; Họ cũng muốn có một cuốn sách hoặc tờ thông tin (họ có thể gọi là tài nguyên hướng dẫn về chương trình); Muốn được tiếp tục hỗ trợ sau khi chương trình kết thúc hoặc thông qua việc ở lại liên hệ với ông bà khác trong nhóm hoặc thông qua các cuộc gọi điện thoại; Muốn tự mình thực hiện chương trình mà không cần bố mẹ hiện diện (Kirby & Sanders, 2012). Bên cạnh các đề xuất trực tiếp từ phía ông bà, các nghiên cứu về việc triển khai các chương trình đã tổng kết được các nội dung cần có để các chương trình được thực hiện có hiệu quả hơn. Đó là: Cung cấp các kỹ năng nuôi dạy con cái như phong cách kỷ luật, giới hạn thiết lập và hậu quả; Rèn luyện kỹ năng giao tiếp về các chủ đề như cách nói chuyện với thiếu niên hoặc giáo viên của trẻ; Các vấn đề vận động bao gồm các câu hỏi pháp lý và hiểu biết về các quyền của một người; Tư vấn về việc sử dụng ma túy và tình dục; Đau buồn và các vấn đề mất mát liên quan (Lahner & Jooste, 2003). Điều chỉnh chương trình tính đến điểm mạnh của người sử dụng thì hiệu quả sẽ tăng lên, ví dụ đơn giản hóa ngôn ngữ trong Triple P giúp đáp ứng khả năng tiếng Anh. Hoặc quan tâm đến yếu tố văn hóa trong việc thiết kế nội dung chương trình. Nếu nội dung phù hợp văn hóa cộng đồng thì hiệu quả của chương trình sẽ cao hơn (Taylor, 2012), (Durlak & DuPre, 2008), (Morawska & cộng sự,2011). Do đó, sử dụng phương pháp tiếp cận thông tin của người sử dụng để thiết kế chương trình là hiệu quả. Chương trình giáo dục cho ông bà nên bao gồm các chiến lược nhằm giúp đỡ ông bà ủng hộ cha mẹ trong vai trò nuôi nấng cháu. Do đó, chiến lược tập trung vào: Kỹ năng giao tiếp hiệu quả; Giải quyết vấn đề; Chấp nhận; Kỹ năng đối phó (Kirby & Sanders, 2012). Nội dung của chương trình giáo dục dành cho ông bà nên bao gồm ba lĩnh vực ưu tiên: Sử dụng các chiến lược làm cha mẹ tích cực; Xây dựng một nhóm làm cha mẹ tích cực với cha mẹ; Các chiến lược đối phó để quản lý những cảm xúc tiêu cực. Ngoài ra, chương trình giáo dục dành cho ông bà được phân phối trong bối cảnh nhóm, như ông bà đã báo cáo muốn hoàn thành chương trình với ông bà khác (Kirby & Sanders, 2012), (Leung & cộng sự, 2014).
  9. KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI 374 PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL Khách thể (ông bà) và nhà cung cấp chương trình có liên quan đến việc trao đổi ý tưởng hợp tác với sản xuất các sản phẩm, chương trình hoặc dịch vụ có ý nghĩa (Kirby & Sanders, 2012). Có thể mở rộng hình thức triển khai chương trình tại cơ quan hoặc qua điện thoại, nên cần sự linh hoạt để thích ứng phù hợp với thực tiễn tổ chức của người tham gia (Breitkreuz & cộng sự 2011; Durlak & DuPre, 2008). Ví dụ sửa đổi chương trình: Duy trì độ trung thực, nhưng cung cấp nhiều phiên hơn, thực hiện các phiên linh hoạt hơn như qua điện thoại hoặc nơi làm việc nếu cần, sửa đổi các ví dụ nuôi dạy tương tác với con cái cho phù hợp hơn với hoàn cảnh và văn hóa từng gia đình riêng lẻ, điều chỉnh kế hoạch nuôi dạy con cái từ những gì được đề xuất (Durlak & DuPre, 2008). Có sự hỗ trợ đồng đẳng giữa giám sát, người triển khai chương trình và người tham gia trong những cuộc họp thường xuyên trong quá trình người tham gia thực hiện chương trình. Dễ dàng thực hiện hơn nếu được tích hợp chương trình: Cha mẹ chỉ cần thêm vào những kỹ thuật họ đã làm trong việc tương tác với con, thay vì thay đổi các kỹ thuật đó để thực hiện chỉ triple P. 2.3.4. Những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện chương trình giáo dục hành vi cho ông bà Nhận thức và kỹ năng hiện tại của người tham gia ảnh hưởng đến hiệu quả của việc thực hiện chương trình tirple P (Durlak & DuPre, 2008). Khi gia đình sẵn sàng thay đổi sẽ thực hiện can thiệp một cách phấn khích, kết hợp với nhà can thiệp nỗ lực thì chương trình sẽ hiệu quả hơn. Người cung cấp chương trình cũng thấy cần thực hiện chương trình đó. Hai nhu cầu gặp nhau thì việc thực hiện chương trinh sẽ có hiệu quả. Nhu cầu của nhà cung cấp chứng tỏ sự tự tin của họ về chương trình (Shapiro & cộng sự, 2012; Shapiro & cộng sự, 2014; Sanders, 2005). 2.3.5. Điểm mạnh từ phía người tham gia (ông bà) trong việc thực hiện chương trình Ông bà cho rằng việc được xem con cái của họ trở thành cha mẹ và nhìn thấy cách họ đối phó với vai trò nuôi dạy con cái giống như một phần thưởng. Họ nhấn mạnh rằng họ có thể dành nhiều thời gian hơn với cháu của họ bây giờ so với khi họ đang nuôi dạy con trước đây. Do đó ông bà nhận thấy ý nghĩa của chương trình can thiệp, giúp họ thể hiện vai trò lớn hơn với cháu. Với những lý do ấy, ông bà có nhu cầu học hỏi để tương tác với cháu tốt hơn. “Ông bà muốn biết các chiến lược nuôi dạy con cái mới, muốn có ý tưởng về những việc cần làm với các cháu, những cách tốt hơn để giao tiếp với cha mẹ cháu về các vấn đề nuôi dạy con cái, muốn liên lạc với ông bà khác chăm sóc, và muốn thông tin về cách xử lý thời gian chuyển
  10. THÍCH ỨNG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC HÀNH VI CHO CHA MẸ PHÙ HỢP VỚI ÔNG BÀ... 375 đổi (ví dụ: Đưa và đón cháu ở trường)” (Kirby & Sanders, 2012). 2.4. Định hướng chương trình giáo dục hành vi dành cho ông bà ở Việt Nam Với những bằng chứng nghiên cứu đi trước, để phát triển một chương trình giáo dục hành vi cho ông bà nhằm giúp ông bà hiểu biết về đặc điểm tâm sinh lý trẻ em và vị thành niên, nhận biết nguyên nhân tại sao trẻ ứng xử sai, cải thiện mối quan hệ giữa người chăm sóc và trẻ, áp dụng kỹ năng làm cha mẹ tích cực, áp dụng các kỹ năng kỷ luật tích cực và khái quát kỹ năng quản lý hành vi trong môi trường ngoài gia đình. Với những mục tiêu trên, một chương trình giáo dục hành vi cho ông bà cần bao gồm: Phiên 1: Tư vấn giáo dục cho ông bà về sự cần thiết tham gia vào khóa tập huấn hành vi dành cho ông bà: Giới thiệu cho ông bà về nội dung chương trình; Thấu cảm với ông bà, đánh giá cao ông bà về việc hỗ trợ nuôi dạy trẻ; Chỉ ra cho ông bà thấy rằng trẻ luôn có tiềm năng, nhưng với những trẻ có vấn đề hành vi thì cần có những cách ứng xử phù hợp để phát triển tiềm năng đó, và điều này cần phải học; Giáo dục cho ông bà thấy rằng trẻ xa bố mẹ luôn có những thiếu thốn tình cảm, cần nhiều thời gian được yêu thương, quan tâm và tác động đúng cách hơn; Thống nhất với ông bà rằng họ mới chính là người sẽ giúp đỡ cháu của họ trong việc cải thiện và thay đổi hành vi, bởi họ là người dành nhiều thời gian cho cháu, ảnh hưởng đến cháu nhiều hơn những chuyên gia, chuyên gia chỉ là những người bạn giúp ông bà trong hành trình đó. Mục tiêu của phiên một là sự cam kết tham gia quá trình tập huấn của ông bà. Phiên 2: Giới thiệu cho ông bà về đặc điểm hành vi của trẻ. Chỉ ra cho ông bà thấy rằng về cơ bản hành vi của trẻ là hành vi tích cực, nhưng đôi khi trẻ có những hành vi tiêu cực. Những hành vi tiêu cực đều có lý do. Cung cấp cho ông bà kiến thức về mô hình bốn yếu tố của hành vi để giúp ông bà biết cách xác định nguyên nhân các hành vi của trẻ, từ đó tìm cách tác động phù hợp, hiệu quả. Bốn yếu tố trong mô hình đó bao gồm: Đặc điểm của trẻ, đặc điểm của người chăm sóc (ông bà/ cha mẹ), các sự kiện trong cuộc đời, hệ quả hành vi. Mục tiêu của phiên hai là giúp ông bà nhận ra những điểm tương đồng và khác biệt trong đặc điểm của trẻ với ông bà, phát hiện ra ảnh hưởng của những điểm khác biệt, thậm chí mâu thuẫn đó đến hành vi của trẻ; Giúp ông bà có cái nhìn bao quát về con đường phát triển của trẻ, và những yếu tố góp phần tác động đến cách ứng xử của trẻ trong suốt quá trình phát triển đó. Phiên 3: Hướng dẫn ông bà cách giải tỏa căng thẳng trong quá trình tương tác với cháu và trong quá trình thực hiện các kỹ thuật quản lý hành vi được học đối với trẻ, nhấn mạnh cảm giác tội lỗi và thất vọng. Nếu không có kỹ thuật thì việc tương tác với trẻ, đặc biệt là thời lượng tương tác với trẻ sẽ tăng lên trong thời gian tham
  11. KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI 376 PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL gia chương trình giáo dục sẽ có thể khiến ông bà rơi vào trạng thái căng thẳng. Mục tiêu của phiên này là giúp ông bà chuẩn bị tâm thế cho các tình huống gây căng thẳng đó và biết cách vượt qua cảm xúc tiêu cực trong hành trình hình thành hành vi tốt cho trẻ. Phiên 4,5,6,7,8: Hướng dẫn ông bà cách thiết lập mối quan hệ gần gũi, cởi mở với cháu; giúp ông bà nhận thức được vai trò của việc dành thời gian chơi cùng cháu, hướng dẫn ông bà cách chơi cùng cháu có hiệu quả; cung cấp cho ông bà các kỹ thuật để chơi và tương tác hiệu quả với cháu: đưa ra yêu cầu hiệu quả; đối xử phù hợp khi trẻ thực hiện các hành vi tốt: khen, thưởng; xử lý tình huống trẻ có các vấn đề hành vi tiêu cực như: Phớt lờ, khoảng lặng; Định hướng ông bà hình thành một số kỹ năng cần thiết cho trẻ để giúp trẻ có kỹ năng giải quyết vấn đề trong mọi tình huống xã hội. Mục tiêu của các phiên này là giúp ông bà biết chú ý đến trẻ và hành vi tích cực, chủ động phớt lờ các hành vi tiêu cực ở mức cho phép của trẻ. Phiên 9: Hướng dẫn ông bà quản lý hành vi của trẻ ngoài gia đình. Không gian ngoài gia đình bao gồm: công viên, trường học, chợ, siêu thị, chỗ đông người… Mục tiêu của phiên này là giúp ông bà duy trì được hệ thống quản lý hành vi đã áp dụng với trẻ và tạo cơ hội cho trẻ được thực hiện hành vi tích cực. Phiên 10: Cung cấp cho ông bà các kỹ năng cần thiết hình thành cho cháu, để cháu có thể tự mình sử dụng các kỹ năng đó giải quyết các tình huống độc lập, không cần sự tham gia của ông bà. Điều này phù hợp với các trẻ lớn hơn. Vì trẻ phải đối mặt với nhiều tình huống ngoài môi trường mà ông bà không kiểm soát được, nên kỹ năng là cần thiết để trẻ xử lý tình huống một cách tích cực. Đây là mục tiêu của phiên này. Phiên 11: Định hướng cho ông bà cách thức phối hợp với trường học để tăng cường hành vi tích cực của trẻ ở nhà trường. Để làm được điều này, ông bà cần biết cách tương tác, giao tiếp, trao đổi và phối hợp với thầy cô, cán bộ nhân viên trong trường học của trẻ để tạo điều kiện cho trẻ thực hiện được hành vi tích cực ở trường, đạt được hệ thống thưởng một cách liên tiếp cả ở nhà và ở trường. Mục tiêu của phiên này là giúp ông bà biết cách lôi kéo và hợp tác với giáo viên trong việc quản lý hành vi của trẻ. Để việc triển khai chương trình giáo dục hành vi cho ông bà có hiệu quả cần lưu ý một số điểm sau: Sau mỗi phiên giáo dục với các nội dung như trên, ông bà đều cần được thực hành ngay các kỹ thuật và cần được hướng dẫn để thực hành ở nhà. Việc thực hành của ông bà luôn cần được giám sát, hỗ trợ và khích lệ, động viên. Thiết kế các bài tập về nhà bằng hoạt động và thay vì viết, hướng dẫn ông bà cách theo dõi bằng kí hiệu.
  12. THÍCH ỨNG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC HÀNH VI CHO CHA MẸ PHÙ HỢP VỚI ÔNG BÀ... 377 Thiết kế cẩm nang hướng dẫn dành cho ông bà, mô hình hóa, tình huống hóa các nội dung giáo dục. Mục tiêu là mười tình huống cụ thể có thể xảy ra thường xuyên trong quá trình tương tác với cháu, trong đó gồm các tình huống tương tác trực tiếp với cháu, các tình huống tương tác với các lực lượng liên quan: thầy cô, nhóm bạn của cháu, vấn đề giới tính của cháu… Liên tục giám sát, động viên trong quá trình, và duy trì can thiệp ít nhất sáu tháng sau khi kết thúc chương trình giáo dục để đánh giá hiệu quả tức thời và lâu dài của chương trình. Phối hợp với Hội người cao tuổi, Hội phụ nữ… để cùng khích lệ ông bà, thiết lập chế tài khích lệ; thiết lập nhóm ông bà nuôi dạy cháu; triển khai chương trình trong khuôn khổ sinh hoạt Hội, mưa dầm thấm lâu … 3. Kết luận Các nghiên cứu về các chương trình giáo dục hành vi cho cha mẹ và chương trình giáo dục hành vi áp dụng cho ông bà được tổng quan trong bài viết này thêm một lần nữa khẳng định hiệu quả của việc can thiệp đến ông bà sẽ góp phần cải thiện các vấn đề về hành vi, các vấn đề sức khỏe tâm thần của trẻ, cải thiện chất lượng mối quan hệ ông bà – cháu, nâng cao chất lượng cuộc sống. Do đó, cần thiết phải thực hiện một chương trình giáo dục hành vi cho ông bà ở Việt Nam để hướng dẫn ông bà cách quản lý hành vi của cháu, giúp các cháu thực hiện các hành vi tích cực như một thói quen, đặc biệt đối với những trẻ sống xa bố mẹ, ông bà có vai trò là người chăm sóc chính. Tài liệu tham khảo Alina Morawska. Matthew Sanders & cộng sự (2011). Is the Triple P-Positive Parenting Program Acceptable to Parents from Culturally Diverse Backgrounds? doi: 10.1007/s10826-010-9436-x 1. Ballard & Taylor. Ballard, S M & Taylor A C (2012). Family life education with diverse populations. Los Angeles: SAGE. 2. Breitkreuz, R., McConnell, D., Savage, A., & Hamilton, A. (2011). Integrating triple p into existing family support services: A case study on program implementation. doi.org/10.1007/s11121-011-0233-6. 3. Cynthia Leung. Matthew R Sanders. S Shirley Leung. Rose Mak. Joseph Lau M. (2004). An Outcome Evaluation of the Implementation of the Triple P-Positive Parenting Program in Hong Kong. doi.org/10.1111/j.1545- 5300.2003.00531.x
  13. KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI 378 PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL 4. Cynthia Leung. Matthew Sanders. Barbara Fung & James Kirby (2014). The effectiveness of the Grandparent Triple P program with Hong Kong Chinese families: A randomized controlled trial. doi.org/10.1080/13229400.2014.11082000 5. Durlak J & DuPre J (2008). Implementation matters: A review of the research on the influence of implementation on program outcomes and the factors affecting implementation. doi.org/10.1007/s10464-008-9165-0 6. Eboni Baugh (2014). Evaluation Of The Implementation Of The Triple P Positive ParentingProgram In Pitt County. http://hdl.handle.net/10342/4681 7. Geoff Lindsay and Steve Strand (2013). Evaluation of the national roll-out of parenting programmes across England: the parenting early intervention programme (PEIP). doi.org/10.1186/1471-2458-13-972 8. Guy Bodenmanna. Annette Cinaa. Thomas Ledermanna. Mathew R Sanders (2008). The efficacy of the Triple P-Positive Parenting Program in improving parenting and child behavior: A comparison with two other treatment conditions. doi.org/10.1016/j.brat.2008.01.001 9. James N Kirby. Matthew R Sanders (2014). A randomized controlled trial evalueating a parenting programe designed specifically for grandparents. doi. org/10.1016/j.brat.2013.11.002 10. James N Kirby. Matthew R Sanders (2012). Using Consumer Input to Tailor Evidence-Based Parenting Interventions to the Needs of Grandparents. doi. org/10.1007/s10826-011-9514-8 11. Kaminski P L & Hayslip B (2004). Parenting attitudes of custodial grandparents. Paper presented at the annual convention of the American Psychological Association, Honolulu, HI. 13. Mazzucchelli T G & Sanders M R (2010). Facilitating practitioner flexibility within an empirically supported intervention: Lessons from a system of parenting support. doi.org/10.1111/j.1468-2850.2010.01215.x 12. Nguyễn Thị Diệu Anh (2017). Nghiên cứu tổng quan về chương trình Kỹ năng làm cha mẹ. Kỷ yếu hội thảo khoa học Tâm lý học và sự phát triển bền vững con người trong thời kỳ cách mạng công nghệ 4.0. tr 391-402. 14. Pinson-Millburn M. Fabian E. Schlossberg N & Pyle M (1996). Grandparents raising grandchildren. doi.org/10.1002/j.1556-6676.1996.tb02291.x 15. Rae Thomas. Melanie J. Zimmer-Gembeck (2007). Behavioral Outcomes of Parent-Child Interaction Therapy and Triple P—Positive Parenting Program: A Review and Meta-Analysis. doi.org/10.1007/s10802-007-9104-9
  14. THÍCH ỨNG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC HÀNH VI CHO CHA MẸ PHÙ HỢP VỚI ÔNG BÀ... 379 16. Sanders M & Turner K (2005). Reflections on the challenges of effective dissemination of behavioral family intervention: Our experience with the Triple P–Positive Parenting Program. doi.org/10.1111/j.1475-3588.2005.00367.x 17. Shapiro, C., Prinz, R., & Sanders, M (2012). Facilitators and barriers to implementation of an evidence based parenting intervention to prevent child maltreatment: The triple-p positive parenting program. doi. org/10.1177/1077559511424774 18. Tran Thanh Nam. Bahr Weiss (2014). Vietnamese Parents’ Attitudes Towards Western-based Behavioral Parent Training. http://repository.vnu.edu.vn/ ViewOnline?bitstid=2058&type=1 19. Wohl E Lahner J & Jooste J (2003). Group processes among grandparents raising grandchildren. In B. Hayslip & J. Patrick (Eds). Working with custodial grandparents. New York: Springer. 20. Youjung Lee. Lisa V Blitzt (2014). We’re GRAND: a qualitative design and development pilot project addressing the needs and strengths of grandparents raising grandchildren. doi.org/10.1111/cfs.12153
  15. 380 ADAPTIVE BEHAVIORAL TRAINING PROGRAM FOR PARENTS APPLIED FOR GANDPARENTS: RESEARCH EVIDENCES Tran Thanh Nam, Assoc.Prof.PhD1 MA. Tran Thi Hai Yen2 Abstract: Parenting training behaviour programs have proven to be effective in intervention for children with behavioral problems. However, in many countries, people who spend a lot of time interacting with children’re grandparents rather than parents. The purpose of this article is to discuss interventions for parenting positive program (Triple P) that clarify the structure of the training program, the effectiveness of parent training programs, factors influencing the effectiveness of parenting training programs, adjustments to accommodate grandparent training, effectiveness of adaptive behavioral training programs for grandparents. The results will help to outline and propose framework for behavioral training for grandparents that’s relevant to the Vietnamese cultural context and prerequisite for further empirical research. Keywords: Positive Positive parenting programs, Triple P, behavioral training programs for grandparents, Adaptive. 1 University of Education – Vietnam National University, Hanoi; Email: namtran@vnu.edu.vn; Tel: 0912013831. 2 National Academy of Education Manafement.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2