intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thiên trường vãn vọng, một tuyệt tác của Trần Nhân Tông

Chia sẻ: Khanh Long | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:5

89
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Chương trình Ngữ văn cấp Trung học cơ sở đã đưa vào thêm một số tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, trong đó có bài Thiên Trường vãn vọng của Trần Nhân Tông. Nhằm giúp các bạn nắm bắt được nội dung của tác phẩm, mời các bạn cùng tham khảo tài liệu "Thiên trường vãn vọng, một tuyệt tác của Trần Nhân Tông". Hy vọng đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho các bạn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thiên trường vãn vọng, một tuyệt tác của Trần Nhân Tông

  1. "Thiên trường vãn vọng", một tuyệt tác của Trần Nhân Tông                                                                               GS. Nguyễn Khắc Phi                                                                             Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội             Chương trình Ngữ  văn cấp Trung học cơ sở (THCS) đã đưa vào thêm một số  tác  phẩm văn học trung đại Việt Nam, trong đó có bài Thiên Trường vãn vọng của Trần Nhân  Tông. Có lẽ người làm chương trình đã cân nhắc nhiều khi phải chọn một trong ba tác   phẩm: Xuân hiểu, Hạnh Thiên Trường hành cung và Thiên trường vãn vọng. Hạnh Thiên   Trường hành cunglà một tuyệt tác song hơi khó đối với học sinh THCS. Xuân hiểu thật  trong sáng, dễ hiểu, song lại không thể hiện được nhiều phương diện tư tưởng và tình  cảm của tác giả như Thiên Trường vãn vọng. Người viết phần này ở Sách giáo khoa đã chọn bản dịch của Ngô Tất Tố: Trước xóm sau thôn tựa bóng lồng, Bóng chiều man mác có dường không. Mục đồng sáo vẳng trâu về hết, Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng(1). Bản dịch khá hay, tuy  nhiên, khi có điều kiện, nên cân nhắc so sánh thêm với bản dịch  của Trần Lê Văn, ít nhất cũng nên cho học sinh đọc thêm bản dịch này: Thôn trước thôn sau nhạt khói lồng, Bóng chiều nửa có nửa hư không. Đi trong tiếng sáo trâu về hết, Cò trắng song song liệng xuống đồng(2). Xin ghi phiên âm nguyên văn bài thơ để tiện so sánh hai bản dịch và làm cơ sở cho việc   phân tích: Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên, Bán vô bán hữu tịch dương biên. Mục đồng địch lí quy ngưu tận, Bạch lộ song song phi hạ điền. Bản dịch của Trần Lê Văn không lưu giữ được bóng dáng những chú mục đồng như  bản dịch của Ngô Tất Tố dẫu vẫn có thể cho thấy gián tiếp qua hình ảnh “Đi trong tiếng sáo  trâu về hết”. Tuy nhiên, nhìn chung, có lẽ bản dịch của Trần Lê Văn sát và hay hơn. Một trong những yếu tố tạo nên nhịp điệu êm ái, hài hòa ở thơ của Trần Nhân Tông là   việc sử dụng khá nhiều điệp ngữ, nhiều lúc còn kết hợp điệp ngữ và tiểu đối. Chẳng hạn, ở  bài Hạnh Thiên Trường hành cung, bài thơ chỉ có 56 chữ, tác giả đã điệp đến 12 chữ: thanh,   u, châu, bách, thiên, vô, sự, hữu, thu, dĩ, du, niên. Cả 8 câu đều dùng tiểu đối toàn bộ hoặc bộ  phận, trong 8 câu đã có đến 4 câu ngắt nhịp theo mô hình 3/4, khác với lối ngắt nhịp thông  
  2. thường ở thơ Đường luật: Cảnh thanh u / vật diệc thanh u, Nguyệt vô sự / chiếu nhân vô sự. Thủy hữu thu / hàm thiên hữu thu, Kim niên du / thắng tích niên du. Trong Thiên Trường vãn vọng, ở 2 câu đầu, tác giả đã điệp 2 chữ thôn và bán, đồng  thời kết hợp với tiểu đối bộ phận ( thôn hậu / thôn tiền: bán vô/ bán hữu). Bản dịch của  Trần Lê Văn đã giữ được gần như trọn vẹn những biện pháp tu từ ấy mặc dù “thôn trước  thôn sau” là chưa sát ý với “thôn hậu thôn tiền” (sau thôn, trước thôn). Ở câu thứ nhất, Trần   Lê Văn giữ được nghĩa chữ “đạm” (nhạt), Ngô Tất Tố giữ được nghĩa chữ “tự” (tựa) nhưng  cả hai đều phải thêm chữ “lồng” làm cho hình ảnh của cả câu ít nhiều đã khác so với nguyên   bản. Chữ yên trong thơ cổ rất khó dịch. Yên có nghĩa là khói song cũng chỉ tất cả những gì  mù mịt trong không trung giống như khói, bởi vậy, dịch là “mờ tựa khói” như GS. Lê Trí  Viễn có lẽ sát và ổn hơn(3). Phải chăng nên chỉnh câu thơ dịch của Trần Lê Văn bằng cụm từ  này, thành Thôn trước thôn sau mờ tựa khói? Trong thơ Đường luật, câu đầu có thể gieo vần  hoặc không. Có như vậy thì sự xuất hiện của cụm từ “bán vô bán hữu” ở câu tiếp theo mới   được tự nhiên, hợp lôgic. Ở câu thứ hai, Ngô Tất Tố đã thêm chữ “man mác”.  Man mác có  thể dùng để tả cảnh song cảnh ấy thường nhuốm một nỗi buồn lâng lâng, lan tỏa, đặt ở đây   e không phù hợp với tâm cảnh tác giả và cũng không ăn khớp với hình ảnh được miêu tả ở  hai câu sau. Ở câu thứ ba, đi trong tiếng sáo rõ ràng là sát nghĩa, nên thơ hơn là sáo vẳng. Ở  câu cuối,song song hay từng đôi đều ổn, tuy sắc thái biểu cảm và tác dụng gợi cảm cũng có   khác nhau chút ít. Cuối cùng là việc dịch tên đề thơ, một vấn đề thường không đơn giản. Ít   nhất   đã   có   ba   cách   dịch   khác   nhau.   Bản   ở Hợp   tuyển:   Ngắm   cảnh   chiều   ở   Thiên   Trường (Sđd, tr.96), bản ở SGK Ngữ văn 7: Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra,  bản ở Đến với thơ hay: Từ cung Thiên Trường ngắm cảnh đồng quê buổi chiều . Điểm nhìn  ở cách dịch thứ nhất không rõ; đối tượng nhìn ở cách dịch thứ hai thiếu xác định, ở cách dịch   thứ ba lại quá cụ thể! Đưa ra vài nhận xét trên đây, chúng tôi chỉ muốn bày tỏ một ước vọng: làm sao có được   bản dịch hay nhất của các tác phẩm ưu tú viết bằng chữ Hán của tiền nhân để con em chúng   ta có thể tiếp thu được đầy đủ tinh hoa của truyền thống văn hóa dân tộc? GS. Lê Trí Viễn cho rằng, ở bài Thiên Trường vãn vọng, “nhà thơ là thiền sư, con mắt  thế  tục nhưng tâm thiền”. Tuy nhiên, với đối tượng là học sinh phổ thông, giáo sư  chủ  trương: “Tạm gác phía thiền cảm. Hãy dừng ở thế tục, ở cảm quan hiện thực”. SGK Ngữ văn 7 về cơ bản cũng chủ trương như vậy. Bài thơ tả một cảnh thôn quê đơn sơ, đạm bạc như muôn vàn cảnh thôn quê lúc chiều  xuống song lại có sức chứa đựng lớn lao kỳ vĩ và có ý nghĩa hiện thực sâu rộng. Để làm rõ điều đó, GS. Lê Trí Viễn đã gắn việc phân tích mọi từ ngữ, chi tiết, hình ảnh   của bài thơ với hoàn cảnh sáng tác ­ “sau chiến thắng quân Nguyên Mông lần thứ hai, lần  thứ ba và sau một thời gian khôi phục lại cuộc sống yên lành cho đất nước” ­ và với “tầm  
  3. mắt và tầm nghĩ, điệu xúc động của một ông vua thi sĩ”, Trần Nhân Tông, ông vua “đã tự  thân lăn lộn trong dân, cùng nhân dân vào sinh ra tử gian khổ biết chừng nào mới đánh đuổi  được quân giặc, giành lại được cho đất nước, cho dân cảnh sống thanh bình nảy”. Do đó,  “bài thơ ngắn này không phải là một khắc mà thơ của một thời đại, rất tiêu biểu cho một  thời đại vẻ vang vào bậc nhất trong lịch sử dân tộc ta”(4). Xin tìm hiểu thêm đặc sắc nghệ thuật của bài thơ này xét từ góc độ “thế tục” và “cảm  quan hiện thực”. Bài thơ đã phác họa được một bức tranh sinh động, có phông nền, đường   nét, màu sắc, hình khối, có đôi chỗ khác với không ít những bài thơ thiền viết về thiên nhiên   thường ít màu sắc, đường nét, tuy có thể “mang một loạt hình ảnh thiên nhiên nhưng mục   đích cuối cùng của thiền gia không phải là miêu tả chính thiên nhiên đó mà là dùng thiên   nhiên như một “công cụ ngoại hóa” mang tải những tư tưởng của Thiền tông”. Nói cách   khác, “Thiên nhiên trong thơ  thiền gia mang tính chất là những biểu tượng để  thiền gia  chuyển tải các tư tưởng thiền”(5). Từ cung Thiên Trường, cặp mắt “vãn vọng” của ông vua thi sĩ đã quét từ chiều rộng   (từ xa đến gần, từ “sau thôn” đến “trước thôn”) đến chiều dài theo hướng con đường dẫn  các chú mục đồng cùng đàn trâu dần khuất vào ngõ xóm, rồi chiều cao theo hướng những  cánh cò liệng từ trên không xuống cánh đồng, nhờ đó, đã dựng lên được một không gian  nghệ thuật mang tính lập thể. Hai câu đầu của bài thơ có thể gợi liên tưởng tới bốn câu thơ trong bài Dã sắc (Sắc  đồng nội) cũng tả cảnh chiều hôm của Phạm Trọng Yêm, nhà chính trị, nhà thơ nổi tiếng  đời Tống: Phi yên diệc phi vụ Mịch mịch ánh lâu đài Bạch điểu hốt điểm phá Tàn dương hoàn chiếu khai Nghĩa là: Chẳng phải khói cũng chẳng phải sương mù Mịt mùng in bóng lên lâu đài Cánh chim trắng bỗng xé toang Mặt trời sắp lặn còn lóe chiếu Cảnh sắc bảng lảng của trời chiều lúc hoàng hôn là rất khó tả một cách chính diện và   trực tiếp; cả hai nhà thơ đều dùng thủ pháp “thực giả, hư chi; hư giả, thực chi”, tức dùng cái   hư và cái thực làm nổi bật lẫn nhau. Ở Phạm Trọng Yêm, lâu đài, cánh chim trắng, mặt trời   sắp lặn là những yếu tố “thực” làm nổi bật cái mông lung huyền ảo “chẳng phải khói cũng   chẳng phải sương mù”; ở Trần Nhân Tông cũng vậy: tác giả không tả bản thân cảnh  mặt   trời sắp lặn, xóm thôn mà là cái sau thôn vàtrước thôn, cái bên mặt trời lặn, cái nhạt tựa   khói và nửa không nửa có, tức cái thần của khung cảnh. Bởi vậy, dịch “thôn hậu, thôn tiền”  thành “thôn trước, thôn sau” là chưa lột được cái thần đó. Cảnh sắc sau thôn và trước thôn 
  4. đều giống nhau, đều “nhạt tựa khói” lúc hoàng hôn, đó còn là dấu hiệu đặc trưng của cảnh  ở đồng bằng, nếu tả cảnh sau núi và trước núi thì không thể nói như thế. Như vậy là chỉ qua   2 câu thơ đầu, ta đã thấy Trần Nhân Tông có một cặp mắt quan sát rất tinh tế, vừa có một  tâm hồn thi sĩ, vừa có tài năng của một họa sĩ. Về đặc điểm nghệ thuật của 2 câu sau, xin được kết hợp nói ở phần dưới. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng sự biểu hiện thiền cảm, thiền ý, thiền tâm... ở những   bài thơ miêu tả thiên nhiên của Trần Nhân Tông không rõ ràng bằng ở những bài thơ viết về  cùng đề tài của nhiều nhà sư thời Lý­ Trần. Cần nói thêm: ngay so sánh với những bài thơ  khác miêu tả  thiên nhiên của chính Trần Nhân Tông, sự  biểu hiện thiền ý  ở  bài Thiên  Trường vãn vọng cũng kín đáo hơn, do đó, nói như Nguyễn Kim Sơn và Trần Thị Mĩ Hà,   “ngộ được thiền ý trong đó không phải là đơn giản”... Hai tác giả này đã lý giải sự bộc lộ  thiền ý ở bài thơ này một cách khá đầy đủ và thỏa đáng: “Cả bài thơ không dùng một điển   tích Phật giáo nào, cảnh vật cũng chỉ là một làng quê hết sức bình thường. Nhưng trong cái   tưởng như bình thường đó lại chứa đựng cả một quan niệm về thế giới của tác giả. Thôn  xóm như được  bao phủ bởi một lớp sương huyền  ảo, trở nên “mờ  mờ” không rõ ràng.   Cảnh vật cũng ở trạng thái không hề xác định “nửa như có” mà cũng “nửa như không” trong  ánh chiều tà của một ngày. Trên cánh đồng, trẻ mục đồng dắt trâu về trong tiếng sáo: cái có   lại chuyển dần thành cái không. Trên nền “không” của cánh đồng đó, lại xuất hiện một cái   “có”: đôi cò trắng song song đáp xuống đồng. Tất cả nằm giữa hai bờ hư thực, vừa mờ ảo   như được phủ trong khói, vừa rõ ràng đến mức trông thấy cả đôi cò đáp xuống cánh đồng  mênh  mông”(6). Chúng tôi cho rằng có thể làm rõ thêm thiền ý thiền cảnh ở tính chất  vừa động vừa   tĩnh ở hai câu sau. Quy ngưu là động,quy ngưu tận là vừa động vừa tĩnh; nếu nói xuy địch là  động, còn địch lí  ở đây là vừa động vừa tĩnh. Nhất hàng bạch lộ thướng thanh thiên  (Tuyệt   cú ­ Đỗ Phủ) là động, Bạch lộ song song phi hạ điền ở đây là vừa động vừa tĩnh. Chính  mặttĩnh này ở hai câu cuối cùng với chất tĩnh đậm đặc ở hai câu trên đã làm cho bài thơ tràn  ngập cái thường được gọi là thi tình họa ý. Cũng có thể xét từ góc độ sự biểu hiện thiền tâm  thiền cảm thường mang tính chất đối cảnh vô tâm, tâm thân lưỡng vong để cho rằng không  nên thêm ý man mác vào câu thứ hai. Không nên nghĩ rằng thiền ý bộc lộ không rõ ràng là chất thiền không sâu đậm mà thực  ra là ngược lại. Thiền tông cho rằngbình thường tâm thị đạo, pháp nhĩ tự nhiên cho nên ở  đây không có một thuật ngữ Phật giáo nào (như vẫn thường thấy trong các bài kệ và phần  lớn các bài thơ thiền khác), không có một hình ảnh thiên nhiên mang tính chất biểu tượng   thuần túy nào, đó chính là sự thể hiện trí tuệ tối cao, thiền lí sâu đậm. Vấn đề đặt ra ở đây là   vì sao sự thể hiện thiền lí sâu đậm ấy lại có thể kết hợp một cách nhuần nhuyễn với cảm  quan hiện thực như đã nói trên. Trước hết, phải tìm nguyên nhân ở ngay giáo lí của Thiền   tông, Thiền học không muốn hướng con người vào một cõi tồn tại khác sau cái chết mà là   khuyên bảo con người hãy chấp nhận hiện thực như nó đang tồn tại, vấn đề là cần thay đổi   thái độ với chính hiện thực ấy. Điều đó giải thích vì sao trong không ít bài thơ, thậm chí   trong cả một số bài kệ, của một số thiền sư ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc, vẫn thấy  bóng dáng của hiện thực ở những mức độ khác nhau. Các nhà sư theo phái Thiền tông  lạc  
  5. đạo nhưng vẫn cư trần. Nguyên nhân quan trọng khác là ở cuộc đời hết sức đặc biệt của   thiền sư ­ ông vua thi sĩ này, cuộc đời luôn gắn bó với vận mệnh của nhân dân, của dân tộc.  Tất nhiên, không phải ở bài thơ nào của Trần Nhân Tông cũng có được sự kết hợp hài hòa   như vậy (ví dụ như trong các bài Tảo mai, Mộ xuân tức sự). Trong Thiên Trường vãn vọng,  mọi vật đều ở bên ranh giới của hư­thực, có­không, động­tĩnh, đó là đặc điểm của cảnh  hoàng hôn của làng quê thanh bình, đó cũng là cảnh giới Phật. Một vấn đề khác cần đặt ra:   có nên gọi Thiên Trường vãn vọng là thơ thiền không? Theo tôi, không nên gọi tất cả các bài  thơ do thiền sư sáng tác ra là thơ thiền vì sự thể hiện thiền ý, thiền cảm... ở đó luôn có   những mức độ khác nhau. Ở Thiên Trường vãn vọng, sự thể hiện thiền ý rất sâu sắc song  theo tôi chỉ nên xem đây là một bài thơ nhuốm tư tưởng thiền mà không phải là một bài thơ   thiền vì ở đây cảm quan hiện thực cũng không kém phần sâu đậm, đặc biệt là ở câu thứ tư.   Trong thơ Đường, câu cuối bao giờ cũng để lại một dư âm vang vọng. Khó có thể nói đây là  một câu thơ mang thiền ý sâu đậm. Xin mượn lời bình câu thơ này của giáo sư Lê Trí Viễn   để bày tỏ ý kiến của mình: “Bạch lộ là cò trắng. Lúa đang lên xanh, chân ruộng xắp nước,  cò rủ nhau xuống ruộng kiếm ăn. Một nét vui đồng ruộng nhưng được nhấn mạnh, tách   riêng từng đôi. Dường như giấu trong đó một niềm vui hạnh phúc tình yêu, hoặc cao hơn,  một sự sinh sôi của sự sống. Từng đôi có trống có mái chứ không tán loạn, tan tác như thời  còn giặc. Cả một cảnh êm ả như dàn ra, bao bọc cho những lứa đôi này: cò trắng, lúa xanh,   cá tôm dưới gốc. Chuẩn bị sẵn sàng, kín đáo cho no ấm và cho hạnh phúc sinh sôi”(7). Với tất cả những điều phân tích trên, có thể khẳng định Thiên Trường vãn vọng là một  tuyệt tác, một trong những bài thơ tứ tuyệt Đường luật cô đọng nhất, một trong những bài  thơ trữ tình hay nhất của văn học trung đại Việt Nam __________________ (1) SGK Ngữ văn 7, tập Một. Nxb. Giáo dục, H, 2003, tr.75. (2) Hợp tuyển Văn học trung đại Việt Nam ­ Thế kỷ X­XIX, tập Một. Nxb. Giáo dục, H, 2004, tr.97. (3) Đến với thơ hay. Nxb. Giáo dục, H, 1997, tr.70. (4), (7) Đến với thơ hay. Sđd, tr.71­75. (5) Nguyễn Kim Sơn ­ Trần Thị Mĩ Hà : Mấy phương diện thẩm mĩ của thơ nho gia và thiền gia, trong  cuốn Văn học Việt Nam thế kỉ X­XIX. Những vấn đề lí luận và lịch sử. Trần Ngọc Vương chủ biên. Nxb. Giáo  dục, H, 2007, tr.365­366. (6) Sđd, tr.368.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2