NHÂN HỌC VĂN HÓA<br />
<br />
THIẾT CHẾ XÃ HỘI CỔ TRUYỀN CỦA NGƯỜI MÔNG<br />
Ở CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC VỚI VẤNĐỀ<br />
XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CƠ SỞ<br />
BÙI THANH THỦY<br />
<br />
Tóm tắt<br />
Với người Mông, các thiết chế gia đình, dòng họ, làng bản đóng vai trò rất quan trọng trong đời<br />
sống kinh tế, xã hội, văn hóa. Vì vậy, muốn tạo dựng được đời sống văn hóa cơ sở ở vùng đồng bào<br />
Mông sinh sống, chính quyền địa phương cần nghiên cứu, phát huy những yếu tố tích cực trong cơ chế<br />
vận hành của các thiết chế xã hội truyền thống; đồng thời hạn chế những yếu tố lạc hậu, không phù<br />
hợp. Việc xác định rõ tiêu chí gia đình văn hóa, bản văn hóa dựa theo nguyên tắc trên là nhiệm vụ trọng<br />
tâm, then chốt trong quá trình thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội cho cộng<br />
đồng người Mông mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.<br />
Từ khóa: Thiết chế xã hội, người Mông, đời sống văn hóa<br />
Abstract<br />
To the Hmong people, their families and villages play a very important role in economic, social and<br />
cultural life. Therefore, in order to create the basic cultural life of the Hmong people, it is necessary to<br />
study and bring into play the positive factors in the operation mechanism of such social institutions<br />
as well as limit the backward, inappropriate factors at the same time. Well defining criteria of cultural<br />
families and cultural villages are key tasks in implementing the strategic objectives of the socioeconomic development that the Party and State have set.<br />
Keywords: social institutions, Hmong, cultural life<br />
1. Đặt vấn đề<br />
gười Mông thuộc nhóm ngôn ngữ<br />
Mông – Dao, có nguồn gốc từ<br />
phương Bắc, di chuyển vào Việt<br />
Nam cách đây khoảng hơn 300 năm. Cộng<br />
đồng tộc người này sống tập trung chủ yếu ở<br />
miền núi phía Bắc Việt Nam, nhiều nhất là các<br />
tỉnh Hà Giang, Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai, Sơn<br />
La, Yên Bái, Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang,<br />
trên những sơn nguyên có sự chia cắt bởi các<br />
khe núi, với độ cao từ 800m đến 1.700m. Để<br />
duy trì được cuộc sống lâu dài trên những<br />
vùng núi cao, người Mông đã sớm thích nghi<br />
với từng vùng sinh thái. Họ xác lập cho mình<br />
một hệ thống nông nghiệp hoàn chỉnh bao<br />
gồm: trồng trọt, chăn nuôi, khai thác nguồn<br />
lợi tự nhiên, làm nghề phụ (trồng lanh, dệt vải,<br />
<br />
N<br />
<br />
làm giấy, rèn, đúc, chạm bạc, mộc) và trao đổi<br />
hàng hóa. Để bảo vệ, duy trì sự ổn định, tồn tại<br />
của cộng đồng, họ đã xây dựng một hệ thống<br />
thiết chế xã hội riêng biệt. Đó là hệ thống thiết<br />
chế xã hội nhỏ nhưng bền vững với quan hệ<br />
gia đình, dòng họ và làng bản, thích ứng với<br />
điều kiện phải cư trú phân tán, không còn lãnh<br />
thổ tộc người.<br />
Cho đến nay, thiết chế xã hội đó vẫn là một<br />
sự kết nối, ràng buộc chặt chẽ, điều hành cuộc<br />
sống của cộng đồng người Mông và là một<br />
trong những vấn đề cần được xem xét nghiên<br />
cứu nghiêm túc để vận dụng trong việc thực<br />
hiện các chính sách dân tộc, phát triển kinh tế<br />
- xã hội, xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, đảm<br />
bảo hoàn thành các mục tiêu đặt ra.<br />
<br />
VĂN HÓA<br />
NGHIÊN CỨU<br />
<br />
Số 19 - Tháng 3 - 2017<br />
<br />
5<br />
<br />
NHÂN HỌC VĂN HÓA<br />
<br />
2. Đặc điểm thiết chế xã hội cổ truyền của<br />
người Mông<br />
Trong xã hội các dân tộc nói chung và người<br />
Mông nói riêng, gia đình, dòng họ, bản làng là<br />
những cơ sở quan trọng hàng đầu của sự phát<br />
triển tộc người.<br />
Gia đình là tế bào của xã hội, đối với các dân<br />
tộc, nó còn mang tính truyền thống đậm nét. Nó<br />
đã và đang thực hiện nhiều chức năng quan<br />
trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống, có tác<br />
động đến sự phát triển và ý thức tộc người. Tuy<br />
nhiên, cơ cấu gia đình ở các tộc người có những<br />
nét khác nhau. Điều này phụ thuộc vào trình độ<br />
phát triển kinh tế - xã hội, các quan hệ xã hội và<br />
đặc điểm cư trú của từng tộc người, từng vùng.<br />
Gia đình người Mông là loại gia đình phụ<br />
hệ lớn (gia đình không phân chia, gia đình mở<br />
rộng) mà thành phần của nó gồm vài thế hệ<br />
với vài cặp vợ chồng và con cái cùng chung<br />
sống dưới một mái nhà, có kinh tế chung (làm<br />
chung, ăn chung, chi tiêu chung).<br />
Đặc điểm tiêu biểu của gia đình người<br />
Mông là tính chất phụ quyền thể hiện khá rõ<br />
trong đời sống hằng ngày. Cho đến nay,<br />
phong tục tập quán của họ vẫn thể hiện rõ tư<br />
tưởng trọng nam khinh nữ. Tư tưởng này thể<br />
hiện đậm nét qua các nguyên tắc ứng xử, sơ đồ<br />
mặt bằng sinh hoạt trong gia đình…và được<br />
lưu lại qua hệ thống tục ngữ:<br />
“Con gái chỉ giúp nhà một thời<br />
Con trai mới giúp nhà cả đời”<br />
Hay“Đẻ congáinhư gáonướcđổ đi rồi không<br />
lấy lại được” (1).<br />
Tuy nhiên, sự hòa thuận trong gia đình vẫn<br />
được đề cao: vợ chồng ít chửi mắng nhau, bố<br />
mẹ ít đánh con cái, ông bà được tôn trọng, sinh<br />
hoạt gia đình có nề nếp, kỷ cương.<br />
Một đặc điểm nữa trong gia đình của người<br />
Mông là rất đông con. Quy mô trung bình của<br />
mỗi gia đình từ 8 đến 10 người. Hiện tượng một<br />
cặp vợ chồng người Mông khoảng 30 - 35 tuổi<br />
đã có 6 hay 7 con là chuyện bình thường. Đáng<br />
chú ý là tuổi kết hôn quá sớm, thông thường là<br />
13, 14 tuổi. Người vợ thường nhiều hơn chồng<br />
5 đến 6 tuổi. Có tới gần 70% phụ nữ Mông kết<br />
hôn khi chưa đến tuổi trưởng thành.<br />
<br />
Cái lý“cha mẹ lấy vợ cho con trai, con trai phải có<br />
nghĩa vụ giết trâu làm ma cho cha mẹ” vẫn ngự<br />
trị ở người Mông. Điều này gây ra những hủ tục,<br />
tập quán nặng nề, tốn kém mà người dân phải<br />
gánh chịu.<br />
Sở dĩ gia đình người Mông đông con và có<br />
tình trạng kết hôn sớm vì cho đến nay gia đình<br />
vẫn là đơn vị kinh tế cơ bản. Mọi hoạt động sản<br />
xuất của gia đình hầu như vẫn dựa chủ yếu vào<br />
sức lao động và sự cần cù của con người. Chính<br />
nhu cầu muốn có nhiều nhân lực tham gia lao<br />
động sản xuất đã góp phần hạ thấp tuổi kết<br />
hôn và tăng tỷ lệ sinh đẻ trong các gia đình<br />
người Mông. Hơn nữa, với phương thức sản<br />
xuất nương rẫy, đi rừng và cư trú ở vùng khí<br />
hậu, môi trường khắc nghiệt, tình trạng “hữu<br />
sinh vô dưỡng” thường xuyên xảy ra, nên việc<br />
đẻ nhiều cũng là một vấn đề tất yếu để đảm<br />
bảo duy trì nòi giống.<br />
Mặt khác, truyền thống văn hóa của người<br />
Mông cũng có những tác động nhất định, chi<br />
phối quan niệm về số con trong gia đình. Cộng<br />
đồng người Mông lưu truyền quan niệm: Hạnh<br />
phúc của người phụ nữ được thể hiện qua khả<br />
năng sinh nở; điều bất hạnh đối với các cặp vợ<br />
chồng là không có con. Thêm vào đó, vì theo<br />
chế độ phụ hệ, ngoài mong muốn đông con<br />
nhiều cháu, họ nhất thiết phải có con trai.<br />
Người Mông quan niệm con trai là trụ cột của<br />
gia đình, vì vậy, khi sinh con trai, nhau thai sẽ<br />
được chôn dưới cột chính của ngôi nhà.<br />
Ngoài việc tái sản xuất dân số, duy trì nòi<br />
giống và có nhân lực làm việc, gia đình người<br />
Mông còn có chức năng tái sản xuất/trao truyền<br />
văn hóa tộc người. Gia đình duy trì và truyền<br />
dạy các truyền thống văn hóa tộc người thông<br />
qua quá trình xã hội hóa cá nhân, hình thành<br />
nhân cách các thành viên trẻ từ nhiều bình diện.<br />
Các thiếu nữ, chàng trai người Mông, khi bước<br />
vào tuổi trưởng thành, thường được những<br />
người phụ nữ, đàn ông đi trước dạy học hát dân<br />
ca, đánh trống, thổi khèn, thêu thùa, may vá…<br />
Ông bà bảo ban các cháu, bố mẹ bảo ban con<br />
cái về kiến thức văn hóa, cách thức thờ cúng tổ<br />
tiên, tiến hành các nghi lễ tôn giáo liên quan đến<br />
đời sống, ứng xử trong giao tiếp và vốn văn<br />
nghệ truyền thống. Vậy nên, chính gia đình đã<br />
đặt nền tảng văn hóa cho các thế hệ người<br />
Mông để họ trở thành những người<br />
<br />
VĂN HÓA<br />
NGHIÊN CỨU<br />
<br />
Số 19 - Tháng 3 - 2017<br />
<br />
6<br />
<br />
NHÂN HỌC VĂN HÓA<br />
<br />
có tri thức, kinh nghiệm sống, kỹ năng nghề<br />
nghiệp và biết cách giữ gìn, phát triển những<br />
yếu tố đó. Thực tế cho thấy cách dựng nhà, dệt<br />
vải, nấu nướng, thêu thùa, những nghề thủ<br />
công truyền thống nổi tiếng như nghề rèn,<br />
chạm bạc, dệt thổ cẩm, đan lát… tồn tại ở các<br />
làng bản, trước hết từ trong các gia đình.<br />
Thiết chế dòng họ ở người Mông tồn tại khá<br />
đậm nét. Người Mông gọi dòng họ là Xênh, đó<br />
là anh em cùng tổ tiên, cùng huyết thống (tính<br />
theo hệ cha) và quan trọng hơn là phải cùng<br />
phong tục tập quán, đặc biệt có các nghi lễ thờ<br />
cúng gia đình giống nhau. Theo thống kê, hiện<br />
người Mông có khoảng 18 họ. Mỗi họ có tên gọi<br />
riêng, liên quan đến các con vật, cây, đồ vật hay<br />
màu sắc. Người Mông có những dấu hiệu riêng<br />
để nhận họ: Các thành viên trong dòng họ vì<br />
một lý do nào đó phải chia tay nhau, người ta<br />
thường trao cho nhau những vật làm tin như cái<br />
trống, thanh kiếm, mảnh đá… để sau này nhận<br />
lại họ của mình.<br />
Đặc trưng cơ bản của dòng họ người Mông<br />
là tập đoàn ngoại hôn. Người trong họ lấy nhau<br />
bị coi là vi phạm phong tục/tập quán pháp.<br />
Trước đây mỗi dòng họ thường cư trú trong<br />
một phạm vi đất đai nhất định do trưởng họ và<br />
chủ các gia đình trong họ khai phá, sau này có<br />
thêm nhiều dòng họ cư trú, nhưng mỗi họ vẫn<br />
ở thành cụm gần nhau.<br />
Như vậy, đặc điểm cư trú của người Mông là<br />
gia đình cư trú theo cùng dòng họ, không cư trú<br />
đan xen với người khác tộc. Chính vì thế, các<br />
thành viên của dòng họ mang tính cố kết sâu sắc<br />
(yêu thương, đùm bọc, quan tâm, giúp đỡ nhau<br />
trong đời sống hằng ngày). Người Mông thường<br />
nói “Sống là người của dòng họ, chết là ma của<br />
dòng họ. Sống phải bảo vệ nhau, chết phải chôn<br />
cất cho nhau”. Đặc biệt, mối quan hệ này đã<br />
được nêu lên thành luật tục/quy ước. “Ý thức<br />
dòng họ, cộng đồng còn biểu hiện khá sâu sắc ở<br />
việc bảo vệ tính mạng cho nhau, bảo vệ sự sinh<br />
tồn và phát triển của dòng họ. Mối quan hệ, tính<br />
cố kết trong dòng họ của người Mông không<br />
phụ thuộc vào ranh giới hành chính quốc gia và<br />
ở mức độ nào đó, còn độc lập với hệ thống tổ<br />
chức, chính quyền cấp cơ sở hiện nay” (2).<br />
Mỗi dòng họ của người Mông thường có<br />
người đứng đầu gọi là hố pẩu (cái gốc) hay chủ<br />
súng (chủ họ). Trưởng họ phải là người có đạo<br />
<br />
đức, am hiểu các tục lệ, các bài cúng của dòng<br />
họ mình, rộng hơn là hiểu biết phong tục tập<br />
quán của tộc người Mông, có tài ứng xử, lý lẽ<br />
giỏi, thuyết phục được mọi người nghe theo.<br />
Ngoài ra, họ là người biết tổ chức và có khả<br />
năng lao động, có phẩm chất trung thực, biết<br />
quan tâm, chăm sóc người cùng họ và được<br />
các thành viên họ mạc tin cậy, tiếng nói của<br />
trưởng họ đóng vai trò quyết định đối với<br />
nhiều việc trong họ. Khi nào trưởng họ chết thì<br />
người đạt các tiêu chuẩn trên sẽ được suy tôn<br />
làm kế nhiệm, không theo kiểu cha truyền con<br />
nối. Trưởng họ có thể bị thay thế nếu không<br />
hoàn thành nhiệm vụ được giao.<br />
Những đặc điểm mang tính riêng biệt của<br />
thiết chế dòng họ người Mông rất cần được<br />
xem xét, vận dụng trong quá trình biên soạn<br />
tiêu chí đánh giá để chỉ đạo, triển khai thực<br />
hiện xây dựng đời sống văn hóa, xây dựng<br />
nông thôn mới hiện nay.<br />
Thiết chế làng/bản của người Mông có thể<br />
coi là điển hình cho cấu trúc cư trú của các tộc<br />
người vùng núi cao phía Bắc. Đặc điểm nổi bật<br />
là bản của người Mông thường độc lập, ít xen<br />
kẽ với các tộc người khác. Các ngôi nhà tập<br />
trung chủ yếu trên những vùng núi cao với<br />
những sườn dốc lớn. Bản (tiếng Mông: giào,<br />
dò) là không gian sinh tồn của một cộng đồng<br />
người mà ranh giới của nó đã được vạch định<br />
và được cộng đồng các làng/bản khác thừa<br />
nhận. Trong không gian sinh tồn đó, những<br />
ngôi nhà được xây dựng theo quy cách riêng.<br />
Bản có đất đai canh tác, gồm ruộng, rẫy, những<br />
khoảng rừng dự phòng, rừng cấm, rừng đầu<br />
nguồn (nơi con người có thể săn bắn, hái<br />
lượm, khai thác lâm thổ sản), có bãi tha ma, bãi<br />
chăn thả gia súc, sông suối để đánh bắt cá…<br />
Tất cả những cái đó thuộc quyền sở hữu của<br />
toàn dân trong bản.<br />
Số lượng cư dân trong mỗi bản của người<br />
Mông có thể lớn, nhỏ khác nhau, nhưng đều<br />
thuộc về những gia đình có mối quan hệ huyết<br />
thống hay láng giềng. Thường trong mỗi bản có<br />
từ 2 đến 3 họ; bản lớn có từ 6 đến 7 họ, trong<br />
đó đều có dòng họ lớn (họ gốc), người đứng đầu<br />
dòng họ nhiều khi cũng là trưởng bản. Họ hợp<br />
thành một cộng đồng xã hội tự quản, vận hành<br />
theo nguyên tắc luật tục/tập quán pháp, gọi là “kế<br />
Mông kế li” hay “cái lý của người Mông”,<br />
<br />
VĂN HÓA<br />
NGHIÊN CỨU<br />
<br />
Số 19 - Tháng 3 - 2017<br />
<br />
7<br />
<br />
NHÂN HỌC VĂN HÓA<br />
<br />
trong đó tính cộng đồng là nguyên tắc ứng xử<br />
và quan hệ xã hội nền tảng. Tập quán pháp này<br />
buộc mọi cư dân dù ở bất cứ bản nào hay dòng<br />
họnào cũngphảituân theo. Tậpquánphápcòn<br />
là cơ sở để các bản người Mông xây dựng quy<br />
ước nhằm giải quyết các vấn đề thiết yếu như:<br />
bảo vệ an ninh; trồng và bảo vệ rừng chung,<br />
rừng thiêng; nghĩa vụ giúp đỡ lẫn nhau… Tập<br />
quán pháp là sợi dây vô hình nhưng bền chặt<br />
cố kết các thành viên trong bản.<br />
Bản người Mông còn là một cộng đồng về<br />
văn hóa với những nghi lễ, tín ngưỡng và các<br />
sinh hoạt văn hóa chung khác như hát giao<br />
duyên, lễ cưới, lễ tang, hội gầu tào, chợ phiên…<br />
Là tổ chức xã hội tự quản, bản của người<br />
Mông có bộ máy điều hành do dân lựa chọn,<br />
đứng đầu là trưởng bản (Mã phải, Seo phải),<br />
tham gia là một số già làng và chủ (đại diện) các<br />
gia đình để giúp việc trong các lĩnh vực. Chức<br />
năng của tổ chức tự quản này là điều hành các<br />
quan hệ xã hội, giữ gìn lễ nghi, phong tục và<br />
đại diện cộng đồng quan hệ với bên ngoài.<br />
Nhìn chung, do sống ở vùng núi cao, xa<br />
nguồn nước, canh tác nương rẫy nên người<br />
Mông quy tụ thành các bản phân tán, quy mô<br />
tập trung dân cư không lớn như những bản<br />
của tộc người khác ở vùng thấp và thung lũng.<br />
Điều kiện này đã tạo sự liên kết không chặt<br />
chẽ của dân cư trên một địa bàn lãnh thổ, tạo<br />
nên một trong những nét đặc trưng riêng biệt<br />
của kết cấu làng bản. Thay vào đó, mối quan<br />
hệ huyết thống lại mạnh mẽ, tổ chức dòng họ<br />
chặt chẽ đã chi phối nhiều mặt của đời sống cư<br />
dân trong bản và ngoài bản. Đây là yếu tố quan<br />
trọng giúp cho việc thực hiện, triển khai các chủ<br />
trương của Đảng và chính sách của Nhà nước<br />
đến với người dân một cách hiệu quả.<br />
3. Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở các<br />
vùng người Mông sinh sống hiện nay<br />
Xã hội nông thôn của người Mông hiện<br />
nay, tuy đã có nhiều biến đổi do tác động nội<br />
tại cũng như từ bên ngoài nhưng về cơ bản<br />
vẫn còn ở tình trạng xã hội cổ truyền tiền<br />
công nghiệp. Bởi vậy, những thiết chế xã hội<br />
cổ truyền vẫn tiếp tục chi phối nhiều mặt của<br />
đời sống tộc người. Trong tình trạng như vậy,<br />
nhiều yếu tố còn phù hợp, tạo nên sự ổn định<br />
và phát triển xã hội nhưng cũng có những yếu<br />
<br />
tố, những phương diện đã trở thành lỗi thời và<br />
đang là lực cản cho sự phát triển, cho việc thực<br />
hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. Vì vậy, việc<br />
nhận biết vai trò, đặc điểm của thiết chế xã hội<br />
người Mông để từ đó chọn lọc, kế thừa và sử<br />
dụng những truyền thống tốt, phù hợp, nhằm<br />
xây dựng đời sống văn hóa sao cho sát thực,<br />
hiệu quả là một vấn đề hết sức cần thiết.<br />
Thực tế, gia đình, dòng họ, làng bản người<br />
Mông hiện nay vẫn tồn tại như một hệ thống<br />
thiết chế xã hội độc lập, thực hiện nhiều chức<br />
năng, nhất là các chức năng kinh tế, văn hóa.<br />
Tuy nhiên, không phải toàn bộ đặc trưng của<br />
gia đình truyền thống, quy ước của dòng họ,<br />
tập quán pháp đều có tác động tích cực, thúc<br />
đẩy quá trình phát triển. Tình trạng kết hôn<br />
sớm (tảo hôn), tổ chức ăn uống linh đình, địa vị<br />
thấp kém của người phụ nữ trong gia đình và<br />
ngoài xã hội, số trẻ em được đi học thấp, cách<br />
thức cư trú biệt lập... là những hiện thực cần<br />
phải được thay đổi trong đời sống hiện nay.<br />
Hình thức gia đình lớn của người Mông<br />
cũng đang dần không phù hợp với cách thức<br />
tổ chức và quản lý sản xuất hiện tại, không<br />
phát huy được thế mạnh của mỗi cá nhân.<br />
Ngày nay, kinh tế hộ nông dân, kinh tế trang<br />
trại và dịch vụ đóng vai trò cơ bản. Các mô<br />
hình kinh tế này sẽ dẫn tới sự thay đổi về quy<br />
mô, tổ chức gia đình, tác động đến quan niệm<br />
sinh đẻ cũng như các vấn đề văn hóa, giáo dục<br />
và đào tạo. Vì vậy, cần phải tính tới những biện<br />
pháp điều chỉnh văn hóa sao cho vừa phù hợp<br />
với tình hình mới, vừa bảo lưu được các giá trị<br />
truyền thống.<br />
Làng bản là một thiết chế xã hội bền vững, là<br />
môi trường sinh tồn, sản xuất, sinh hoạt xã hội<br />
và văn hóa của cộng đồng người Mông. Xưa kia<br />
cũng như hiện nay, nó đóng vai trò là đơn vị xã<br />
hội cơ sở ở nông thôn. Bởi vậy, việc củng cố cơ<br />
cấu làng bản, coi đó như là tổ chức xã hội cơ sở<br />
còn phù hợp và là nhân tố ổn định trong quá<br />
trình phát triển nông thôn hiện nay là cần thiết.<br />
Làng bản chính là môi trường sáng tạo, lưu<br />
giữ, duy trì, bảo vệ các giá trị văn hóa truyền<br />
thống; đồng thời làng cũng là cơ sở cho việc<br />
chấn hưng văn hóa và xây dựng nền tảng văn<br />
hóa mới.<br />
<br />
VĂN HÓA<br />
NGHIÊN CỨU<br />
<br />
Số 19 - Tháng 3 - 2017<br />
<br />
8<br />
<br />
NHÂN HỌC VĂN HÓA<br />
<br />
Ngày nay, khi vấn đề bảo vệ rừng và môi<br />
trường sống đặt ra gay gắt thì việc sở hữu<br />
công cộng của làng bản người Mông trên<br />
phạm vi đất đai, sông suối (sau khi xóa bỏ<br />
được tập quán đốt rừng làm nương rẫy) có ý<br />
nghĩa khẳng định chủ nhân, tránh tình trạng<br />
đất vô chủ, hạn chế phá rừng, tăng cường giữ<br />
gìn và phát triển tài nguyên.<br />
Tuy nhiên, làng bản người Mông và các<br />
quan hệ làng bản vẫn bộc lộ những hạn chế<br />
trong quá trình xây dựng đời sống văn hóa cơ<br />
sở, đổi mới bộ mặt nông thôn hiện nay. Tính<br />
chất khép kín (tính biệt lập), các quan hệ ràng<br />
buộc chung còn phổ biến, tập quán pháp vẫn<br />
là cơ sở vận hành xã hội... đã và đang tạo thành<br />
lực cản cho việc hòa hợp của người Mông với<br />
các cộng đồng tộc người khác ở xung quanh.<br />
Mặt khác, tư tưởng bình quân, tâm lý cào bằng<br />
trong môi trường làng bản cũng ảnh hưởng<br />
đến việc giải phóng cá nhân, phát huy sáng<br />
tạo trong lao động sản xuất, hoạt động xã hội<br />
của mỗi thành viên trong cộng đồng. Bởi vậy<br />
phải có những biện pháp đặc biệt nhằm phát<br />
triển kinh tế, giáo dục, nâng cao trình độ nhận<br />
thức cho người dân. Việc xây dựng bản văn hóa<br />
là chìa khóa để thúc đẩy quá trình mở cửa và<br />
hòa nhập của người Mông. Các cơ quan quản<br />
lý cần xây dựng các tiêu chí, các quy định sao<br />
cho có sự kết hợp hài hòa, vừa kế thừa được<br />
những điều hay của tập quán pháp, quy ước<br />
dòng họ, vừa đảm bảo được tính nghiêm minh<br />
của pháp luật. Ví dụ, khi xây dựng các tiêu chí<br />
gia đình văn hóa, bản văn hóa, một mặt cần<br />
dựa trên đặc điểm thiết chế xã hội truyền<br />
thống của người Mông, song mặt khác, cũng<br />
cần đưa ra những tiêu chí nhằm hạn chế ở mức<br />
độ vừa phải những mặt tiêu cực của đời sống<br />
tộc người như: thực hiện định canh định cư; kế<br />
hoạch hóa gia đình (mức sinh của người Mông<br />
từ 3 đến 4 con là có thể chấp nhận được);<br />
không có hiện tượng tảo hôn; không có trẻ em<br />
thất học; không có hiện tượng mê tín dị đoan,<br />
tổ chức cưới xin, ma chay tốn kém; không có tệ<br />
nạn hút thuốc phiện.<br />
Việc biên soạn, điều chỉnh các tiêu chí gia<br />
đình văn hóa, bản văn hóa, ngoài đội ngũ am<br />
hiểu luật pháp, am tường về phong tục tập<br />
quán, cần huy động sự hỗ trợ của các đoàn<br />
thể quần chúng, những người có uy tín trong<br />
<br />
bản, trong dòng họ. Người dân phải được thảo<br />
luận, đưa ý kiến nói “không” hay “đồng ý” với<br />
các tiêu chí, quy ước để họ có ý thức thực hiện,<br />
thấy được lợi ích đối với cá nhân, gia đình và<br />
cộng đồng.<br />
Đặc biệt, các cán bộ lãnh đạo địa phương<br />
cần phối hợp với cộng đồng, các đoàn thể,<br />
người quản lý bản, dòng họ để điều chỉnh tập<br />
quán pháp thành quy ước làng văn hóa. Có<br />
chỉnh sửa, tập quán pháp mới phù hợp với thời<br />
đại mới, không lệch hoặc không đối kháng với<br />
luật pháp chung. Do trình độ dân trí thấp, hầu<br />
hết đồng bào người Mông vẫn chưa xây dựng<br />
được lối sống theo pháp luật. Họ không coi<br />
trọng pháp luật mà chỉ coi trọng tập quán<br />
pháp cùng các quy ước do bản/dòng họ xây<br />
dựng. Vì vậy, việc điều chỉnh tập quán pháp sẽ<br />
tạo hiệu quả cao cho quá trình thực thi các quy<br />
định, chính sách và pháp luật của Nhà nước.<br />
Tuy nhiên, để thực hiện được những điều<br />
nêu trên, cần phải làm từng bước và trước hết<br />
là làm tốt công tác tuyên truyền, vận động. Vai<br />
trò của các trưởng bản, già làng, trưởng họ, thầy<br />
cúng... cần được hết sức coi trọng vì tiếng nói<br />
của họ tác động rất mạnh đến người dân. Bởi<br />
vậy, cần tạo nên sự hài hòa giữa các thiết chế xã<br />
hội truyền thống với các tổ chức chính quyền,<br />
đoàn thể, lấy cách thức quản lý dòng họ, làng<br />
bản làm nòng cốt để dễ dàng tập hợp và vận<br />
động quần chúng, triển khai các hoạt động<br />
chung, giải quyết các mâu thuẫn, tạo mối quan<br />
hệ xã hội ổn định. Phương thức tuyên truyền tốt<br />
nhất là tuyên truyền trực tiếp, thông qua chính<br />
các trưởng bản, già làng, trưởng họ; thông qua<br />
các thanh, thiếu niên người Mông được đi học<br />
ở trình độ phổ thông trung học. Các đối tượng<br />
này cần biết trước và hiểu rõ mục đích, nội<br />
dung, ý nghĩa các chương trình xây dựng đời<br />
sống văn hóa.<br />
Một ưu điểm của thiết chế xã hội truyền<br />
thống là ý thức cộng đồng bản, dòng họ ở người<br />
Mông vẫn tồn tại đậm nét, tạo điều kiện cho văn<br />
hóa dân gian được bảo tồn và phát triển. Người<br />
Mông rất thích hát dân ca, múa khèn, thổi kèn<br />
lá… Tham gia các hoạt động này, họ thấy được<br />
sự bình đẳng, thấy được sức mạnh cộng đồng,<br />
hơn nữa, lại được trực tiếp thể hiện bản thân<br />
mình… Vì vậy, văn hóa dân gian nhận được sự<br />
hưởng ứng của đồng<br />
<br />
VĂN HÓA<br />
NGHIÊN CỨU<br />
<br />
Số 19 - Tháng 3 - 2017<br />
<br />
9<br />
<br />