TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 10 (35) - Thaùng 12/2015<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Một số đặc điểm nhận biết dòng họ của người Tày ở<br />
Huyện Bạch Thông – Tỉnh Bắc Kạn<br />
<br />
Identifying the Tay clan through typical characters in<br />
Bach Thong district – Bac Kan province<br />
<br />
ThS. Triệu Quỳnh Châu<br />
Trường Đại học Khoa học – Đại học Thái Nguyên<br />
<br />
M.A. Trieu Quynh Chau<br />
Thai Nguyen University of Sciences<br />
<br />
<br />
<br />
Tóm tắt<br />
Người Tày có số dân đông nhất trong các dân tộc thiểu số ở nước ta, cư trú rải rác trên tất cả 63 tỉnh,<br />
thành phố nhưng tập trung tại một số tỉnh miền núi phía Bắc như Cao Bằng (207.805 người, chiếm 41%<br />
dân số toàn tỉnh), Bắc Kạn tính đến cuối năm 2014 (312.727 người, chiếm 56.35% dân số toàn tỉnh)...<br />
Với địa bàn cư trú đa dạng, người Tày đã tạo nên những sắc thái văn hoá địa phương phong phú.Trong<br />
quan niệm của người Tày, dòng họ người có vị trí đặc biệt quan trọng, là một trong những thành tố cốt<br />
lõi tạo nên xã hội, là nền tảng cho sự tồn tại của thiết chế xã hội truyền thống, giữ vai trò quan trọng chi<br />
phối đến các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, trong sự phát triển chung của quốc gia. Với vai trò to lớn<br />
như vậy, dòng họ người Tày có những đặc điểm để nhận biết lẫn nhau. Trong phạm vi bài viết này,<br />
chúng tôi chỉ đề cập tới một số đặc điểm nhận biết dòng họ của người Tày ở huyện Bạch Thông tỉnh<br />
Bắc Kạn.<br />
Từ khóa: người Tày, tổ tiên, dòng họ, chi họ họ hàng, tín ngưỡng, kiêng kị...<br />
Abstract<br />
The Tay has the largest population of ethnic minorities in our country, residents scattered across all 63<br />
provinces but concentrate in some northern mountainous provincés such as: Cao Bang (207.805 people,<br />
41% of the provincial population), Bac Kan at the end of 2014 (312.727 people, 56.35% of the<br />
provincial population)... Withdiverseresidential locality, the Tay made shades ofrichlocal culture. In the<br />
conception of the Tay, clanman is particularly important. As one of the core elements that makes up<br />
society, and as the foundation for the existence of traditional social institutions, plays an important role<br />
todominate to the fields:economy, culture, society, in the overall development of the country. With such<br />
an enormous role, the Tay clan has the characteristics to recognize each other. Within the scope of this<br />
article, we only mention somerecognizablecharacteristicsofthe Tayclan in Bach Thong district, Bac Kan<br />
province.<br />
Keywords: the Tay, ancestor, clan, triberelative, beliefs, taboos…<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
80<br />
1. Quan niệm về dòng họ của người Tày người có cùng ma. Chính vì vậy nên việc<br />
Người Tày ở Bắc Kạn nói chung hiện thờ cúng của những người trong họ là<br />
nay gồm 3 bộ phận hợp thành đó là bộ những người có cùng cách thờ cúng khi<br />
phận bản địa từ thời nguyên thủy, bộ phận tiến hành các nghi lễ liên quan đến tang<br />
người Tày gốc Kinh ở miền xuôi lên, bộ ma, cúng ma khi ốm đau bệnh tật và thờ<br />
phận Tày – Nùng từ Quảng Tây (Trung cúng tổ tiên. Cùng tên họ là điều dễ nhận<br />
Quốc) đến Bắc Kạn lập nghiệp. Mặc dù ra, còn cách thờ cúng ma và tổ tiên thì chỉ<br />
vậy họ đã sớm hòa hợp, cố kết lại với nhau những thành viên trong dòng họ mới nhận<br />
thành một khối thống nhất vì sứ mệnh và biết được. Những người cùng họ không<br />
lợi ích chung. Chính vì được hợp thành từ nhất thiết chỉ là những người thân thuộc có<br />
3 bộ phận khác nhau nên người Tày ở Bắc quan hệ họ hàng mà có thể ở những nơi rất<br />
Kạn có rất nhiều họ như họ Hoàng, Nông, xa, thậm chí chưa hề quen biết nhau nhưng<br />
Ma, Đinh, Hà, Đồng, Nguyễn… khi tìm hiểu có cùng những nghi lễ cúng,<br />
Quan niệm về dòng họ được hiểu là cùng ông tổ thì họ có thể nhận là họ hàng<br />
toàn thể những người cùng huyết thống. của nhau. Và khi đã được coi là anh em<br />
Tính huyết thống có thể được tính theo bên cùng dòng họ, mọi người sẽ thật sự cởi<br />
bố (chế độ phụ hệ), hoặc bên mẹ (chế độ mở và gắn bó chặt chẽ và thân thiết với<br />
mẫu hệ). Theo đó, khi nói tới cấu trúc, tổ nhau. Nơi thờ cúng dòng họ của người Tày<br />
chức dòng họ là đề cập tới cấu trúc, tổ chức rất đa dạng, tuy nhiên đối với các họ có<br />
của những người cùng huyết thống. Đối người làm quan hoặc trí thức thì thường có<br />
với trường hợp người Tày, được chọn làm mộ tổ, nhà thờ tổ để thờ cúng. Hàng năm<br />
đối tượng nghiên cứu của luận án này, vào lễ thanh minh (3-3 âm lịch) con cháu<br />
dòng họ là toàn thể những người được tính trong dòng họ tập trung về tảo mộ, lần lượt<br />
theo huyết thống bên bố. các chi trong họ thay nhau đứng ra lo đồ<br />
Về địa bàn cư trú, trước đây, mỗi họ cúng lễ và con cháu trong họ ăn uống ngay<br />
thường tập trungsống trong một bản. Dần tại mộ. Họ quan niệm con người sống sao<br />
dần do yêu cầu phát triển kinh tế văn hóa thì khi chết cũng như vậy nên việc con<br />
hoặc hôn nhân mà có thêm nhiều họ khác cháu trong họ ăn uống ngay tại mộ tổ là để<br />
đến cư trú và cùng sinh sống thuận hòa. cụ tổ chứng cho tấm lòng, phù hộ, tạo phúc<br />
Trong mỗi dòng họ có chi trưởng, chi và giải trừ hoạn nạn cho con cháu. Việc thờ<br />
thứ từ đó hình thành thứ bậc như một quy cúng tổ tiên trong các gia đình của các<br />
định về quan hệ với nhau trong dòng họ. dòng họ cũng có sự khác nhau. Có dòng họ<br />
Nếu như người Nùng, Dao, Sán Chay trong trong bàn thờ tổ tiên có ba, năm hoặc bảy<br />
họ cứ ai nhiều tuổi hơn là anh, là chị thì bát hương. Gia đình nào có ba bát hương là<br />
với người Tày chi trưởng dù ít tuổi hơn vẫn có ba chén thờ thần thánh, gia tiên và bà cô<br />
là anh, là chị. Người con trai trưởng của ông mãnh; gia đình có năm bát hương là<br />
chi trưởng có vai trò quan trọng trong đời mời đến năm đời; gia đình có bảy bát<br />
sống dòng họ. Đó là người tham gia và chủ hương là mời đến bảy đời tổ tiên về ngự.<br />
trì các đám cưới, đám ma, chia gia tài, hòa Nói chung việc thờ cúng cho thấy người<br />
giải mâu thuẫn trong dòng họ và giữa dòng Tày luôn có ý thức về cội nguồn, dòng họ.<br />
họ này với dòng họ khác. Trong hôn nhân, người Tày không kết<br />
Người Tày quan niệm người cùng họ là hôn với người trong họ. Tuy nhiên, trong<br />
<br />
<br />
81<br />
một họ lại có nhiều chi, nhiều nhánh, nhiều nghĩa mới quý tựa ngàn vàng).<br />
đời nên cũng có trường hợp người cùng họ 2. Lịch sử dòng họ (nguồn gốc)<br />
trên bốn đời lấy nhau nhưng đó là trường Huyện Bạch Thông có 7 dân tộc anh<br />
hợp hãn hữu, gượng ép, không được đồng em cùng chung sống: Tày, Nùng, Kinh,<br />
tình ủng hộ. Họ quan niệm: Tổng sliểu lăng Hoa, Mông, Dao... thuộc các nhóm ngữ hệ<br />
va/ Nà sliểu lăng bjoóc/ Mà chòn choọc khác nhau như: Tày - Thái, Mông - Dao,<br />
thuôn rà. (đồng thiếu gì hương, ruộng Việt - Mường, Hán… Người Tày, Nùng<br />
thiếu gì hoa, mà phải về hái hoa vườn vốn thuộc nhóm Âu - Việt trong khối<br />
nhà). Cưới xin như vậy vừa mất họ hàng, Bách Việt có địa bàn cư trú là miền Bắc<br />
vừa thể hiện sự kém cỏi, đần độn nên mới Việt Nam và miền Hoa Nam Trung Quốc -<br />
phải để dòng họ cưu mang. Liên minh bộ lạc Âu Việt (Tày - Nùng) đã<br />
Người Tày sống theo chế độ phụ cùng với liên minh bộ lạc Việt (Việt -<br />
quyền nên con lấy họ bố. Trong trường hợp Mường) thành lập nên vương quốc Âu -<br />
không có con trai thì họ phải lấy con hoặc Lạc (thế kỷ III trước công nguyên) với thủ<br />
cháu của anh em trong họ làm con nuôi để lĩnh An Dương Vương Thục Phán.<br />
sau này thờ tự, giữ họ nhà và hưởng gia tài. Thời Lý Trần, nhất là thời Lê sơ, nhà<br />
Bất đắc dĩ mới lấy rể đời bởi con rể ở nước phong kiến Việt Nam đặt chế độ<br />
trường hợp này mặc dù được coi như con “Thế tập, phiên thần”, tức chế độ thổ ty,<br />
đẻ, được thừa kế tài sản nhà vợ nhưng đến phái một số công thần hay con cháu của<br />
đời con phải mang họ mẹ, họ của bố chỉ họ chọn trong những phần tử trung kiên<br />
được làm tên đệm. Người đời cho rằng chỉ nhất đem theo gia đình, tộc thuộc lên<br />
con nhà nghèo mới đi làm rể đời để làm chiêu dân lập ấp ở miền biên ải. Sau mỗi<br />
thừa tự. Ngày nay quan niệm trọng nam trận chiến thắng, quét sạch quân xâm lược<br />
khinh nữ đó đã dần tiến bộ và không còn ra khỏi bờ cõi, các vị lưu quan này đời đời<br />
nặng nề như trước. kế tục cai trị địa phương, rất mực trung<br />
Trong mối quan hệ với các thành viên thành với chính quyền trung ương làm<br />
trong họ, khi có công việc lớn liên quan nhiệm vụ bảo vệ biên thùy. Người Tày ở<br />
đến bất kỳ thành viên nào thì mọi người Bạch Thông nói chung phần lớn là cư dân<br />
trong họ đều cùng nhau bàn bạc hoặc tới có nguồn gốc bản địa, bộ phận còn lại là<br />
dự để chứng kiến. Mọi người cùng quan người Kinh bị Tày hóa.<br />
tâm tới nhau từ việc làm nhà, ma chay, Dân tộc Tày ở Bạch Thông, xét về<br />
cưới xin, giúp đỡ nhau làm ăn, động viên diễn biến tộc người chủ yếu thuộc các<br />
bảo ban nhau học tập, lao động và sống có nhóm: Tày Thổ trước, Tày Thổ ty, Tày<br />
đạo lý, tự hào về dòng họ của mình và tôn Phụ đạo và Người biến Thổ.<br />
trọng dòng họ khác. Đối với dòng họ khác, Tày thổ trước: là người Tày ở địa<br />
người Tày có tục đáng trân trọng đó là phương đã sinh sống từ lâu đời.<br />
nhận anh em nếu như dân tộc khác có họ Tày thổ ty: là chủ sở hữu đất đai, rừng<br />
trùng với họ của mình. núi, sông nước,muôn thú… có nhiều uy<br />
Có thể thấy quan niệm về dòng họ của quyền về kinh tế, chính trị, xã hội.<br />
người Tày luôn lấy chữ tình làm trọng: Tày Phụ đạo: Đó là những người Tày<br />
Ngần chèn tang tôm nhả/ Tha nả tảy xiên bản địa theo vua Lê mở nước có công dẫn<br />
kim (Tiền bạc rẻ rúng như đất cỏ/ Tình đường, được phong làm phụ đạo ở bản địa,<br />
<br />
<br />
82<br />
hưởng chế độ miễn phu lính. sát sinh, không bước quan các cành cây<br />
Người Biến Thổ: là những người có xanh, thừng trâu, chạc ngựa vì sợ kéo dài<br />
nguồn gốc từ miền xuôi lên vì việc vua tháng đẻ. Ngoài ra người chồng cũng phải<br />
hoặc đi dạy học, hoặc tìm đất sinh nhai kiêng đi khiêng quan tài vì sợ con sinh ra<br />
sau ở lại địa phương là măn với người sẽ mềm yếu. Nếu trong trường hợp bất đắc<br />
Tày. Cũng có người từ Trung Quốc lưu dĩ phải khiêng thì sẽ cài một chiếc đũa cả<br />
tán sang, qua nhiều năm sinh sống tại địa sau gáy. Trong sinh hoạt hàng ngày không<br />
phương trải mấy đời đều gọi là Người được thay đổi giường ngủ, buồng nằm,<br />
Biến Thổ. không tự tiện hái chanh vì sợ chanh sẽ rụng<br />
Theo số liệu của cuộc tổng điều tra lá và quả, không tự tiện hái rau thơm vì<br />
dân số và nhà ở tính đến hết 2014 số hộ như vậy rau sẽ tàn lụi… Khi nhà có người<br />
toàn tỉnh là 76.046, 312.727 nhân khẩu, ở cữ sẽ cắm cành cây xanh ở cầu thang<br />
người Tày 176.230 chiếm 56,35%. Huyện hoặc cửa ra vào có ý báo cho khách không<br />
Bạch Thông có 8.299 hộ, 33.216 nhân được tự ý vào nhà vì sợ vía của khách sẽ<br />
khẩu, người Tày chiếm đến 63% dân số làm ảnh hưởng tới sức khỏe của em bé.<br />
của huyện. Không được mang vật lạ vào buồng sợ bé<br />
3. Nhận biết dòng họ bị vía hay sài đẹn…<br />
Nhận biết dòng họ của người Tày ở Trong tang ma, thời gian chưa nhập<br />
Bạch Thông được thể hiện qua các phong quan, gia chủ phải canh hoặc nhốt mèo vào<br />
tục tập quán, các nghi lễ vòng đời nhưng lồng tránh để chúng nhảy lung tung gần<br />
đặc biệt nhất là qua các điều kiêng kị trong người chết và chạy qua người chết, đề<br />
đời sống hàng ngày. phòng hiện tượng quỷ nhập tràng, tức là<br />
Có rất nhiều điều kiêng kị của người người chết bật dậy. Con cháu không được<br />
Tày được thể hiện qua những sinh hoạt khóc to vì nếu khóc to sẽ làm cho vía sợ,<br />
hàng ngày trong vòng đời của mỗi con vong linh người chết khó siêu thoát. Hơn<br />
người như tục cưới hỏi, ma chay, sinh nữa có quan niệm cho rằng nếu khóc trước<br />
nở… Sở dĩ người dân tin vào sự kiêng kị là khi phát tang, linh hồn người chết sẽ không<br />
do quan niệm “có thờ có thiêng, có kiêng siêu thoát về thế giới bên kia, thậm chí<br />
có lành”, tránh tối đa những điều không nước mắt của con cháu có thể làm cho thi<br />
may, không tốt đến với mình. thể chảy nước thối, khiến cho việc làm ăn<br />
Trước tiên, đó là kiêng kị trong tục lệ của con cháu gặp nhiều khó khăn. Thậm<br />
cưới hỏi. Như đã trình bày ở trên, người chí có người còn cho rằng nếu con cháu<br />
Tày kiêng lấy nhau trong cùng họ. Người khóc trước khi làm lễ nhập quan, thì cuộc<br />
trong dòng họ cùng thờ tổ tiên không được sống của con cháu sau này sẽ chỉ sống<br />
kết hôn với nhau. Họ quan niệm cưới như trong nước mắt, vất vả khổ cực mà vẫn<br />
vậy sẽ mất họ hàng, thể hiện sự kém cỏi túng thiếu. Khi đã làm lễ phát tang, con<br />
phải để gia tộc cưu mang chứ không đề cập gái, cháu gái của người quá cố không được<br />
tới yếu tố di truyền có hại nếu kết hôn cận chải tóc, soi gương, trang điểm, phải dùng<br />
huyết thống. vải trắng giống như khăn tang để buộc tóc.<br />
Sau khi kết hôn, người vợ mang thai Trong những ngày tang lễ, con cháu phải<br />
tránh những việc nặng nhọc, không đến các ăn chay, không ăn thịt, chỉ ăn rau xanh,<br />
đám ma, nơi chết chóc đau thương, không đậu, lạc, vừng, chấm muối. Khi ăn cơm,<br />
<br />
<br />
83<br />
con cháu phải bốc thức ăn đựng trong thóc giống, không vào vườn hái hoa quả,<br />
máng vàu hay mẹt lót lá chuối chứ không không vào những nơi thờ cúng long trọng,<br />
được ăn bằng đũa, canh đựng trong ống không làm chàm dệt vải... Bởi quan niệm<br />
vàu chứ không được đựng bằng bát đĩa như cho rằng đám ma là nghi lễ buồn và hơi<br />
ngày thường. Đó là cách bày tỏ lòng hiếu lạnh của người chết dễ làm cho thóc giống<br />
thảo với cha (mẹ). Kiêng kỵ này xuất phát hỏng, hoa quả thối rụng, nước chàm biến<br />
từ quan niệm cho rằng: cha mẹ đã phải tần màu. Khi gieo mạ, xuống thóc giống, trồng<br />
tảo, khổ cực nuôi con, do đó, khi cha (mẹ) ngô phải tránh ngày mất của cha (mẹ), vì<br />
chết, con cái phải chịu khổ sở và làm cho đó là ngày xấu đối với gia đình nên hạt<br />
mình thật xấu xí để cha (mẹ) ra đi được an mầm cũng sẽ phát triển không tốt.<br />
ủi vì sự tiếc thương của con cháu. Mọi nghi Trong xã hội hiện nay có sự giao lưu<br />
lễ trong đám ma đều do thầy Tào điều văn hóa giữa dân tộc Tày và các dân tộc<br />
hành. Thầy Tào sẽ quyết định ngày đưa ma khác một cách thường xuyên thì những<br />
ngay (tiền tang hậu tế) hay đưa ma sau. điều kiêng kị không còn quá cứng nhắc,<br />
Ngày đưa phải kiêng ngày trùng tang, mùa khắt khe mà linh hoạt tùy theo điều kiện và<br />
xuân kiêng ngày thìn, mùa hạ kiêng ngày hoàn cảnh.<br />
mùi, mùa thu ngày tuất, mùa đông ngày Ngoài những tục lệ kiêng khem, những<br />
sửu. Ngoài ra khi đưa tang còn kiêng ngày người Tày trong cùng một dòng họ còn<br />
tuyệt họ như: các họ Hoàng, Hà, Ma, Bế nhận ra nhau qua tên họ, tên đệm. Ví dụ,<br />
kiêng ngày dần, họ Cao kiêng ngày thân. với dòng họ Hoàng của người Tày thì<br />
Trong thời gian đang chịu tang, các con không phải tất cả những người cùng họ<br />
cháu không được tham gia những hoạt Hoàng đều là họ hàng với nhau. Dòng họ<br />
động sinh hoạt văn nghệ ở cộng đồng, một phần được đánh dấu bằng tên đệm.<br />
không được đánh trống, đánh chiêng, vợ Cùng họ Hoàng lại có dòng họ Hoàng Văn<br />
chồng không được ngủ chung khi chưa và Hoàng Khải. Hai dòng họ này chỉ khác<br />
được 40 ngày, không được đội khăn tang đi nhau tên đệm nhưng lại thuộc hai dòng họ<br />
đám cưới, không được dựng vợ gả chồng, khác nhau, không có cùng huyết thống với<br />
làm nhà mới. Nếu chưa qua lễ 100 ngày, nhau. Về vấn đề nhận diện theo tên đệm<br />
con cháu không được đi ngủ qua đêm ở với người Tày không theo hệ thống tên<br />
nhà người khác. Người ta quan niệm vợ đệm trong dòng họ của người Nùng. Ngoài<br />
chồng ngủ chung, trai gái nô đùa hoặc chửi ra họ hàng còn nhận ra nhau qua ngày giỗ<br />
bới nhau trong thời gian có đám hoặc khi tổ. Khi con cái bắt đầu vào tuổi trưởng<br />
chưa được 40 ngày là coi thường các thầy thành cha mẹ và họ hàng phải truyền lại<br />
cúng đến làm lễ, không tôn trọng người ngày giỗ tổ cho con cháubiết. Hiện nay<br />
chết, cố tình reo rắc uế bẩn cho tổ tiên cùng vấn đề nhận biết dòng họ còn dựa theo gia<br />
các thần thánh được mời đến chứng kiến phả của dòng họ. Tuy nhiên không phải<br />
đám, do vậy sẽ làm cho tổ tiên, các thần dòng họ nào cũng có điều kiện ghi lại gia<br />
linh và người chết phật ý, sẽ gây tai họa phả hoặc có ghi thì cũng mới chỉ ở mức độ<br />
cho con cháu về sau. Sau đám ma khoảng 7 sơ lược ban đầu. Đây là một vấn đề khó<br />
ngày đến nửa tháng, con cháu của người khăn đặt ra với các nhà nghiên cứu nhân<br />
quá cố kể cả những người đến giúp đám học nói chung và tác giả nói riêng.<br />
đều phải kiêng, không được vào chỗ để Tóm lại: Người Tày ở tỉnh Bắc Kạn<br />
<br />
<br />
84<br />
mặc dù có nguồn gốc khác nhau nhưng TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
trong quá trình sinh sống cùng nhau họ đã<br />
1. Đỗ Trọng Am (2011), Văn hoá dòng họ Việt<br />
sớm hòa chung và tạo nên bản sắc văn hóa<br />
Nam, Lần thứ nhất, Nxb Văn hoá - Thông tin,<br />
đặc trưng của dân tộc mình. Hà Nội.<br />
Các dòng họ của người Tày nói chung<br />
2. Hoàng Bé, Hoàng Minh Lợi (1988), “Làng<br />
sống tương đối hòa thuận, không có sự đố bản của người Tày”, Tạp chí Dân tộc học số<br />
kỹ gay gắt giữa các dòng họ mà trái lại 4, tr.41 - 46.<br />
luôn giúp đỡ cùng nhau phát triển. Cũng 3. Đỗ Thúy Bình (1994), Hôn nhân và gia đình<br />
như quan niệm của các dân tộc khác, người các dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam, Nxb<br />
Tày quan niệm mỗi con người từ khi sinh Khoa học xã hội, Hà Nội.<br />
ra tới lúc qua đời đều bị chi phối bởi ba 4. Triệu Quỳnh Châu, Làng bản của người Tày<br />
mối quan hệ dòng họ đó là: họ bên nội, họ ở huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng - Luận<br />
bên ngoại, họ bên vợ. Cả ba mối quan hệ văn thạc sỹ 2010.<br />
họ hàng này đều có vai trò riêng, không 5. Nông Văn Cử, Vài nét về người Tày ở huyện<br />
qua coi trọng quan hệ này mà xem nhẹ Bạch Thông, Tư liệu Viện Dân tộc học.<br />
quan hệ khác. 6. Bế Văn Hậu (2011), “Tôn giáo, tín ngưỡng<br />
Những sinh hoạt tín ngưỡng, thờ cúng của người Tày, Nùng truyền thống và hiện<br />
tổ tiên và thờ cúng họ, chi họ; những quy đại”, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 11.<br />
định thống nhất về lễ nghi và quy tắc ứng 7. La Công Ý (2010), Đến với người Tày và văn<br />
xử khiến cho mối quan hệ giữa các thành hóa Tày, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.<br />
viên trong dòng họ người Tày ngày càng 8. Nguyễn Thị Yên (2009), Tín ngưỡng dân gian<br />
thắt chặt hơn. Tày, Nùng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.<br />
<br />
<br />
Ngày nhận bài: 09/10/2013 Biên tập xong: 15/12/2015 Duyệt đăng: 20/12/2015<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
85<br />