intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thời Kỳ Hậu Lê, nhà Mạc và Trịnh Nguyễn 1428 – 1777

Chia sẻ: Abcdef_36 Abcdef_36 | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:20

174
lượt xem
12
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nhà Hậu Lê (1428-1527) I. Chính trị - xã hội đại việt dưới đời các vua 1. Lê Thái Tổ (1385 - 1433) Lê Lợi sau khi thắng quân Minh, lên ngôi vua lấy hiệu là Lê Thái Tổ, lấy lại quốc hiệu là Đại Việt. Thời gian làm vua của ông ngắn ngủi, chỉ có sáu năm. Tuy thế, ông vẫn thực hiện được một số việc, đặt nền tảng cai trị các vua kế vị. Để tránh chiến tranh, Lê Thái Tổ sai sứ sang cầu phong nhà Minh và thuận theo yêu sách của nhà Minh là...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thời Kỳ Hậu Lê, nhà Mạc và Trịnh Nguyễn 1428 – 1777

  1. Thời Kỳ Hậu Lê, nhà Mạc và Trịnh Nguyễn 1428 – 1777 N hà H ậu L ê (1428 -1527) I. Chính tr ị - xã h ội đại việt dư ới đời các vua 1. Lê Thái T ổ (1385 - 1 433) L ê L ợi sau khi thắng quân Minh, l ên ngôi vua lấy hiệu là Lê Thái T ổ, lấy lại quốc hiệu là Đ ại Việt. T hời g ian làm vua của ông ngắn ngủi, chỉ có sáu năm. Tuy thế, ông vẫn thực hiện đ ư ợc một số việc, đặt nền tảng cai trị các vua kế vị. Đ ể tránh chiến tranh, L ê Thái T ổ sai sứ sang cầu phong nhà Minh và thu ận theo y êu sách của nhà M inh là cứ ba năm lại công hai n gư ời vàng g ọi là "Đ ại thân kim nhân" để thay thế cho Liễu Thăng và Lương Minh, đã b ị giết trong cuộc chiến vừa qua. Đ ể bộ máy nhà nư ớc thích ứng với t ình hình đ ất nư ớc trong thời kỳ xây dựng, vua L ê Thái T ổ buộc các quan lại từ tứ phẩm trở xuống đều phải t hi lại khoa Minh Kinh. Khoa thi này còn dành cho các n gư ời ẩn dật ra thi để vua chọn nhân tài. Nh ững tăng sĩ, đạo sĩ của Phật giáo và Lão giáo đ ều ohải thi lại kinh điển của tôn giáo mình, n ếu đậu mới cho tiếp tục việc tu hành, còn r ớt thì phải hoàn t ục là m ă n sinh s ống như ngư ời thư ờng. V ua cho lập tr ư ờng Quốc Tử Giám tại Kinh đô để cho con cháu các quan lại v à cả con cái thư ờng dân vào h ọc. V ua chia nư ớc ra làm 5 đạo. Mỗi đạo có quan H ành khi ển giữ sổ sách về quân và dân. Các xã hơn 1 00 ngư ời thì g ọi là đ ại xã có ba xã quan trông coi. Xã có hơn 50 ngư ời đ ư ợc gọi là trung xã, có hai xã quan. Còn tiểu x ã thì có 10 ngư ời trở l ên và chỉ có một xã quan. Q uân đ ội cũng đ ư ợc vua phi ên ch ế lại. Trong công cuộc kháng chiến chống Minh, số quân của B ình Đ ịnh Vương lên đ ến 25 vạn. Đến nay vua cho 15 vạn về lại nông thôn l àm ăn. S ố còn lại thì chia làm năm phiên, một phi ên ở lại làm lính còn b ốn phi ên kia cũng cho về làm ru ộng và cứ thế thay phi ên n hau. 2. Lê Thái Tông (1423 - 1 442) L ê Thái Tông lên n ối ngôi vua khi mới có 11 tu ổi, có quan phụ chính và là công thần L ê Sát quy ết đ ịnh hết mọi việc. Nhưng khi lớn l ên, thấy L ê Sát quá chuyên quy ền, vua L ê Thái Tông bèn gi ết đi và thân chính. V ua chỉnh đốn lại việc thi cử, định lệ là cứ 5 năm thì một lần thi hương, 6 năm một lần thi hội. Từ năm 1442 vua cho khắc t ên các ti ến sĩ vào bia đá. T ừ đấy Đại Việt có tục lệ này. G iữa năm 1442, sau chuyến đi duyệt quan ở Chí Linh v à ghé thăm Nguy ễn Trãi tại Côn S ơn, vua mất thình lình t ại hành cung ở L ệ chi vi ên (Hà Bắc), b ên cạnh Nguyễn T hị Lộ, ngư ời thiếp của N guy ễn Trãi. Tri ều đ ình đ ổ cho Nguyễn Tr ãi và Nguy ễn Thị Lộ giết vua và cho tru di tam t ộc d òng h ọ của Nguyễn Tr ãi. 3. Lê Nhân Tông (1441 - 1 459)
  2. L ê Nhân Tông lên làm vua khi mới hai tuổi n ên bà Thái H ậu làm nhi ếp chính, nhưng đ ến năm 1459 t hì vua b ị ngư ời anh là Nghi Dân gi ết đi để cư ớp ngôi. Nghi Dân ở ngôi 8 tháng lại bị triều đ ình gi ết. N gư ời con thứ t ư của vua L ê Thái Tông đư ợc tôn l ên làm vua. Đó là Lê Thánh Tông. 4. Lê Thánh Tông (1442 - 1 497) L ê Thánh Tông là một vị minh quâ n vào hàng bậc nhất của lịch sử Việt Nam. Triều đại của nh à vua đã đ ể lại dấu ấn r õ r ệt cho nền văn hóa dân tộc. Các thành t ựu có đ ư ợc dư ới triều của nhà vua không ch ỉ thể hiện ở một số lĩnh vực, mà trái lại rất toàn di ện, tổng hợp cả về chính trị, kinh tế, quân s ự lẫn văn hóa, xã h ội. V ề cấu trúc hành chính, cơ c ấu chính quyền đ ư ợc nh à vua cải tổ từ trung ư ơng xu ống đến tận xã. C ơ ch ế sáu bộ, sáu khoa (Lại, Hộ, Lễ, Binh, H ình, Công) đã đ ư ợc lập ra từ thời Nghi Dân, đ ư ợc giữ lại và đ ồng thời th êm sáu b ậc (lực tự). Các sĩ phu Nho giáo đ ư ợc tham chính rộng r ãi. H ọ đ ư ợc tuyển qua con đư ờng thi cử. Các quan lại có cuộc sống vật chất t ương đ ối bảo đảm, đ ư ợc cấp ruộng đất và tu ế bổng. Cả nư ớc đ ư ợc chia làm 12 đạo, là Thanh Hóa, Ngh ệ An, Thuận Hóa, Thi ên Trư ờng, Na m Sách, Q u ốc Oai, Bắc Giang, An Ban, H ưng Hóa, Tuyên Quang,Thái Nguyên và Lạng S ơn. V ề sau có th êm đạo Quảng Nam. Vua L ê Thánh Tông cho v ẽ bản đồ toàn qu ốc, đ ư ợc gọi là H ồng Đức bản đồ. Đây là bản đồ toàn qu ốc đầu tiên của đất nư ớc, đ ư ợc hình thành bằng cá ch tập họp tất cả bản đồ các đạo mà thành. Đ ồng thời, một bộ sách quan trọng về lịch sử của n ư ớc nhà đư ợc bi ên soạn. Đó là b ộ "Đại V i ệt sử ký toàn thư" của Ngô Sĩ Li ên. Tác phẩm này dựa tr ên cơ s ở của cuốn "Đại Việt sử ký" của L ê Văn Hưu, vi ết từ thời Hồng Bàng cho đ ến đời vua L ê Thái T ổ. Bộ sử này hi ện vẫn còn đ ư ợc bảo t ồn, chứ không thất truyền nh ư b ộ "Đại Việt sử ký" của L ê Văn Hưu. Lê Thánh Tông chăm lo đ ến n ền nông nghiệp và các công trình thủy lợi. Con đ ê lấn biển c òn dấu vết ở H à Nam Ninh là hậu thân của con đ ê đư ợc đắp dư ới đời của nhà vua, nên đư ợc gọi là Lê H ồng Đức. N ăm 1471, Lê Thánh Tông đích thân c ầm quân đi đánh Champa, lấy th êm đ ất cho đến núi Thạch Bi, đặt ra đạo Quảng Nam. Nhà vua còn sai quân đ i đánh, bu ộc Lão qua và B ồn Man phải quy phục (1479). ở b i ên gi ới phía Bắc, L ê Thánh Tông cho phòng giữ chắc chắn. N ăm 1483, nhà vua cho soạn một bộ luật mới, đó là b ộ "L ê Tri ều hình lu ật", vẫn thư ờng đ ư ợc gọi là "Lu ật Hồng Đức" bao gồm nhiều lĩnh vực về luật h ình, lu ật hôn nhân, luật hành chính, lu ật dân s ự, lu ật tố tụng... Bộ luật có mặt tiến bộ đáng chú ý là quan tâm đ ến ngư ời ngh èo, đ ối xử t ương đ ối công bằng với phụ nữ hơn so v ới thời tr ư ớc. N ăm 1494, Lê Thánh Tông lập ra hội Tao Đ àn g ồm có vua và 25 văn thần. Nhà vua xưng là Tao Đ àn Nguyên soái, cùng nhau xư ớng họa. Hội Tao Đ àn chứng tỏ sinh hoạt văn hóa thanh cao của thời ấ y. Những b ài thơ xư ớng họa giữa các tao nhân mặc khách ấy đ ư ợc tập hợp thành tập "Quyành Uy ển cửu ca", gồm 300 bài ca t ụng thi ên nhiên, cu ộc sống, con ngư ời, t ình thương. H ội T ao Đàn ngưng h oạt động vào năm 1497, lúc ngư ời Nguy ên Soái mất. Bản thân nhà vua cũng sáng tác nhiều thơ văn. Đó là có "H ồng Đức quốc âm thi tập", "Thập giới cô hồn quốc ngữ văn", viết bằng chữ Nôm, "Li ệt truyện tạp chí", "Chinh Tây kỷ hành", "Minh Lương cẩm tú", "Văn minh cổ xúy", "Xuân Vân t hi t ập"... viết bằng chữ Hán. T riều đại L ê Thánh Tông kéo dài 38 năm với hai ni ên hi ệu là Quang Thu ận (1460 - 1 496) và H ồng Đ ức (1469 -1497). Đây là giai đoạn cư ờng thịnh của nư ớc Đại Việt.
  3. Các vua sau Lê Thánh Tông, tr ừ L ê Hi ển Tông là ngư ời hiền lành, biết lo cho dân, c òn lại th ì s ống xa x ỉ, bạo ng ư ợc và lơi lỏng việc triều đ ình. Vì th ế họ Mạc mới nổi l ên đư ợc. II. Kinh t ế Vào bu ổi đầu của triều đại m ình, nhà Lê đ ã khôi phục đ ư ợc nền kinh tế và cải thiện đ ư ợc đời sống n hân dân. V ua Lê Thái T ổ định ra phép "quân điền" vào năm 1429. Chính sách này v ề sau đ ư ợc vua L ê Thánh T ông hoàn chỉnh vào năm 1477. Theo chính sách này, công đi ền công thổ đ ư ợc đem chia cho mọi n gư ời, từ quan lại thần cho đến ngư ời già y ếu cô quả đều có p hần ruộng làm cho khoảng cách giữa n gư ời giàu và nghèo không chênh l ệch lắm. Phép quân điền này duy trì và phát tri ển vào các đ ời sau. N hững ruộng bỏ hoang đ ư ợc nhập vào ru ộng công làng xã đ ể chia cho nông dân. Về sau, việc chia ru ộng đ ư ợc thực hiện sáu năm một lần. Các cơ quan phụ trách các vấn đề li ên quan đ ến nông nghiệp đ ư ợc đặt ra: * K huy ến nông: C ơ quan này chiêu t ập các nông dân xi êu tán tha phương c ầu thực, đ ưa h ọ trở về quê quán làm ăn. * Đ ồn điền: Đ ưa nông dân đ ến đất mới ở khai hoang * H à đê: Săn sóc h ệ thống đ ê đi ều. S inh hoạt thương mại sầm uất. Thăng Long với 36 phố phư ờng đ ư ợc hình thành. Nhi ều làng thủ công chuyên nghi ệp xuất hiện như g ốm Bát Tr àng, đúc đ ồng Đại Bái. Các chợ đ ư ợc nhà nư ớc k huy ến khích thành lập, hễ chỗ nào có dân là có ch ợ. Vi ệc buôn bán với nư ớc ngoài tại Vân Đồn tuy có hạn chế nhưng vẫn phát triển. Các mỏ đồng, vàng bắt đầu đ ư ợc khai thác. III. Phát tri ển văn hóa 1. Tư tư ởng N hà Lê lấy thuyết Nho giáo của Chu Tử làm mẫu mực cho cách cai trị của triều đại. Nho giáo trở t hàn h h ệ t ư tư ởng chính thống của thời đại. Có thể nói rằng Nho giáo đ ã tr ở thành qu ốc giáo độc tôn trong tri ều đ ình cũng như trong dân gian. Nho giáo b ắt mọi ngư ời phải tuyệt đối phục t ùng quy ền hành t ối thư ợng của nhà vua, thần thánh hóa nhà vua và phân bi ệt r ạch r òi ranh gi ới giữa vua, quan, dân. Các nho s ĩ đ ư ợc đào tạo bởi học thuyết Khổng Mạnh tăng l ên gấp bội và thay th ế hoàn toàn các tăng s ĩ trong cuộc sống chính trị, kinh tế văn hóa. Công việc giáo dục Nho học trở th ành quy củ. Nhà nư ớc khuyến khích học đ ể làm quan, giúp vua tr ị nư ớc. Nhà Lê tôn vinh vi ệc học bằng các cuộc lễ x ương danh (l ễ đọc t ên ngư ời thi đậu), lễ vinh quy (lễ đón r ư ớc ngư ời thi đậu về làng) và nhất là l ệ k hắc t ên và lý lịch tiến sĩ vào bia đá Văn Mi ếu (bắt đầu từ 1422). Vì th ế ai nấy đ ua nhau h ọc hành đ ể t ôn tu ổi đ ư ợc ghi vào b ảng vàng, đ ể gia môn đ ư ợc mở mặt và đ ể làng quê đư ợc vinh hiển. N hư th ế công việc giáo dục Nho học đ ã tr ở thành quy củ. Ngoài trư ờng Quốc Tử Giám ra c òn có các trư ờng học ở các đạo, phủ với rất đông học tr ò. Các k ỳ thi đ ư ợc các sĩ tử khắp n ơi hư ởng ứng. Ví dụ n hư k ỳ thi hội năm 1475 có êến 3.000 thí sinh Nho Giáo đã áp đ ảo tuyệt đối Phật giáo lẫn Đạo giáo.
  4. 2. Văn h ọc Văn h ọc thời L ê có n ội dung y êu nư ớc, tiêu bi ểu là các tác phẩm của Nguyễn Tr ãi như "Quân trung từ mệnh tập", "B ình Ngô đại cáo". Nhóm Tao Đ àn tư ợng tr ưng cho n ền văn học cung đ ình, ca ng ợi p hong cảnh và cũng lồng vào đ ấy lòng yêu nư ớc, y êu thiên nhiên. Có nh ững tác phẩm khoa học quan tr ọng như "Toán pháp đại thành" của L ương Th ế Vinh, "Đại Việt sử ký t oàn thư" của Ngô Sĩ Li ên, "Dư đ ịa chí" của Nguyễn Tr ãi, "Bản thảo thực vật toát yếu" của Phan Phu Ti ên. Văn h ọc chữ Nôm tiếp tục phát triển. L ê Thánh Tông sáng tác thơ văn Nôm và khuy ến khích triều t hần sáng tác theo. Điển hình là "H ồng Đức quốc âm thi t ập" do nhiều tác giả viết chứng tỏ đ ã có một phong trào trư ớc tác bằng th ơ chữ Nôm vào thời ấy. B ên cạnh "Hồng Đức quốc âm thi tập" c òn có "Thập giới cô hồn quốc ngữ văn" (M ư ời điều răn cô hồn viết bằng ngôn ngữ n ư ớc ta). Tác phẩm này có n ội dung răn mư ời giới trong x ã h ội thời ấy. Đó là thi ền tăng, đạo sĩ, quan lại, nho sĩ, thi ên văn đ ịa lý, thầy thuốc, t ư ớng v õ, hoa nương, buôn bán và đãng t ử. Qua mư ời điều răn này, tác phẩm p hản ảnh đ ư ợc hoạt động của từng hạng ngư ời trong khung cảnh x ã h ội thời ấy. I V. N hân vật ti êu bi ểu T riều đại nhà Lê ghi vào s ử sách những nhân vật anh hùng, l ỗi lạc độc đáo như Lê L ợi, lãnh t ụ cuộc k h ởi nghĩa Lam S ơn; Lê Lai (? -1419) li ều mình cứu chúa; Nguyễn Chích (1382 -1448), danh tư ớng đã đ ưa ra chi ến lư ợc lấy Nghệ An làm hậu ph ư ơng lớn cho cuộc khởi nghĩa Lam S ơn; Nguy ễn Xí (1398 - 1 465), vị t ư ớng trẻ đã b ắt sống đ ư ợc hai t ư ớng Minh là Hoàng Phúc và Thôi T ụ; Trần N guyên Hãn (?-1428), ngư ời chiến thắng trận X ương Giang; Lê Thánh Tông, b ậc minh quân của lịch sử Việt Nam; nhà toán h ọc Trạng nguy ên Lương Th ế Vinh (1441 -?); s ử gia Ngô Sĩ Li ên, tác giả cu ốn Đại Việt sử ký toàn thư; T ổ nghề in, nhà văn Thám hoa Lương Nhữ Học... và đặc biệt là N guy ễn Trãi, một con ngư ời toàn tài, đã đ ư ợc UNESCO phong làm danh nhân văn hóa th ế giới. N guy ễn T rãi không những giỏi th ơ phú, văn chương mà c òn là một nhà chính tr ị uy ên bác đ ồng thời lại tinh thông luật pháp, địa lý, lịch sử... Th êm vào đó, ông đ ã cống hiến hết m ình cho s ự nghiệp giải p hóng dân t ộc, cho công cuộc xây dựng đất nư ớc và đào tạo các t h ế hệ tiếp nối. Cuộc đời của con n gư ời sống vì lý t ư ởng ích quốc lợi dân ấy, éo le thay, lại gặp phải thảm cảnh "tru di tam tộc". N guy ễn Trãi v ốn là dòng dõi Trần Quang Khải về phía mẹ, là cháu ngoại của Trần Nguy ên Đán, Tư đ ồ dư ới thời Trần Nghệ Tông. Phía n ội của Nguyễn Tr ãi lại là nhà khoa bảng. Cha là Nguy ễn Phi K hanh, đ ổ Bảng nhãn vào năm 1374. T rong cu ộc kháng chiến chống Minh, Nguyễn Tr ãi đ em h ết tài năng, s ức lực ph ò tr ợ cho L ê L ợi. N hững chiến thuật chiến lư ợc của ông đã đ ư ợc L ê L ợi sử dụng thành công trong công cu ộc đánh đ u ổi quân Minh. T ư tư ởng lớn của ông "lấy đại nghĩa để thắng hung t àn, đem chí nhân đ ể thay cư ờng bạo" là đư ờng lối của cuộc kháng chiến. áng văn bất hủ "B ình Ngô đ ại cáo" là bản tuy ên ngôn v ề sự độc lập, tự c ư ờng của dân tộc. C u ộc k háng chi ến thành công, là ngư ời có công lớn, Nguyễn Tr ãi đ ư ợc vua L ê Thái T ổ phong t ư ớc hầu và ban cho qu ốc tính. Ông đứng đầu hàng ngũ quan văn, nhận trọng trách soạn thảo các chiếu, ch ỉ của vua. Về sau, ông phụ trách các kỳ thi tiến sĩ. Vụ án Lệ chi vi ên x ảy ra, ông bị giết oan. Hai mươi hai năm sau, năm 1464, dư ới triều bậc minh quân L ê Thánh Tông, ông m ới đ ư ợc minh oan. N guy ễn Trãi đ ể lại cho hậu thế nhiều tác phẩm bất hủ. Ngo ài "Bình ngô đ ại cáo", ông là tác giả của công trình Lam S ơn thực lục, viết v ề lịch sử cuộc khởi nghĩa Lam S ơn; Luật thư, n ền tảng cho pháp
  5. ch ế thời L ê; Dư đ ịa chí, ghi chép về địa lý Đại Việt; Băng Hồ di sự lục, viết về Trần Nguy ên Đán, úc T rai thi t ập... N ăm 1980, ghi nhận về giá trị của cuộc đời và s ự nghiệp của Nguyễn Tr ãi, t ổ chức UNESCO công n hận Nguyễn Tr ãi là danh nhân văn hóa th ế giới. V. Di sản văn hóa ti êu bi ểu T riều L ê là tri ều phong kiến đầu ti ên trong lịch sử Việt Nam đ ã áp dụng chặt chẽ học thuyết Nho giáo vào vi ệc trị nư ớc. ảnh hư ởng Nho giáo bao tr ùm lên mọi hành vi, hành đ ộng của con ngư ời. G i ới nho sĩ xuất hiện và đóng một vai tr ò quy ết định trong x ã h ội. Sự kiện thoát khỏi ảnh hư ởng của P hật giáo cũng đặt dấu ấn lên ki ến trúc của nhà Lê. Không như những triều đại tr ư ớc, những công trình quan tr ọng của thời này kh ông phải là chùa chi ến nữa mà là cung đ ình, lăng tẩm, nơi tư ợng trưng cho quy ền uy thi ên s ử. Thành Thăng Long (tên gọi chính thức của thời này là Đông Kinh), đ ư ợc xây th êm hai vòng thành phía trong là Hoàng Thành và Cung thành. Bên c ạnh các kiến trúc cung đ ình, còn có một kiến trúc t ư ợng tr ương cho tư tư ởng Nho giáo, cho tâm hồn, tâm huyết của kẻ s ĩ thời ấy là Văn Mi ếu. Văn mi ếu - qu ốc tử giám Văn mi ếu tại H à N ội, nơi tư ợng tr ưng cho Nho h ọc Việt Nam, đ ư ợc xây dựng dư ời đời vua Lý T hánh Tông vào mùa thu, tháng tám, năm Canh Tu ất (1070). Đồng thời t ư ợng của Khổng Tử và 72 đ ồ đệ cũng đ ư ợc tạc và thờ tại đây. Sáu năm sau (1076), vua Lý Nhân Tông lại lập th êm Qu ốc Tử G iám đ ể làm nơi dạy học. Thoạt đầu đấy chỉ là nơi h ọc tập của các hoàng t ử, dần dần về sau mở r ộng ra đ ến con quan và con dân. Sang đ ời nhà Trần, vào năm 1234, Văn Mi ếu và Qu ốc Tử Giám đ ư ợc sửa sang lại. Đến đời nhà Lê, là một nhà nư ớc trọng Nho, xem Nho giáo như là qu ốc giáo, thì Văn Mi ếu và Qu ốc Tử Giám lại c àng đư ợc chú trọng hơn nữa. Kiến trúc nà y đư ợc tr ùng tu cả thảy 4 lần vào các năm 1511, 1567, 1762 và 1785, nhi ều công tr ình mới đ ư ợc thực hiện như bia đá đ ề t ên t iến sĩ. Qua đến đời nhà Nguy ễn, Văn Miếu - Q u ốc Tử Giám cũng đ ư ợc tr ùng tu và b ổ sung th êm K huê Văn Các, đi ện Khải Thánh. H i ện trạng k hu di tích ngày nay đ ã qua nhi ều lần tr ùng tu nhưng vẫn giữ đ ư ợc vẻ cổ kính, thâm n ghiêm v ới diện tích là 24.000m2. Tư ờng bao quanh Văn Miếu cũng nh ư các b ức t ư ờng ngăn chia từng khu b ên trong đ ều đ ư ợc xây bằng gạch Bát Tr àng. M ọi kiến trúc ở đây đều đ ư ợc x ếp đặt cân x ứng theo trục Bắc Nam. Nếu không tính phần Tiền án, th ì có tất cả năm khu. P hần Tiền án là t ừ Tứ trụ cho đến t ư ờng ngoài bao quanh các ki ến trúc b ên trong. Thật ra, tr ư ớc đây, T ứ trụ đ ư ợc nối liền về phía tr ư ớc với một bối cảnh thi ên nhiên là T hái h ồ và gò Kim Châu ở giữa. N hưng v ề sau, vì nhu cầu giao thông, ngư ời ta không để ý đến việc duy tr ì di tích văn hóa, đã phóng một con đ ư ờng, tách Thái hồ với toàn cục của Văn Miếu - Q u ốc Tử Giám. Sau T ứ trụ là đ ến cổng Tam quan với chữ "Văn Miếu Môn" . C ổng Tam quan có một cấu trúc bề thế, g ồm hai tầng, cửa cuốn tr òn cùng cửa thông gió hình ch ữ thọ, kết hợp với lan can và các hoa văn tạo n ên một giá trị nghệ thuật cao. C ổng "Đại Trung môn" bắt đầu khu thứ hai. Đỉnh mái đ ư ợc trang trí bằng điển tích cá vư ợt vũ môn. H ai bên Đ ại Trung môn có hai cổng nhỏ đề chữ "Th ành Đ ức" và "Đ ạt T ài". Theo c ổng Đại Trung môn đi thẳng vào là "Khuê Văn Các" (Gác đ ẹp của Sao Khu ê, tư ợng tr ưng cho văn h ọc). Hai b ên K huê Văn Các c ũng có hai cổng nhỏ có t ên là "Súc văn" (văn c hung hàm súc) và "B ỉ văn" (văn chương sáng đ ẹp). Khu ê Văn Các đư ợc xây dựng vào thời nhà Nguy ễn năm 1805. Khu ê Văn Các
  6. bằng gỗ, nhẹ nhàng t ựa tr ên b ốn cột gạch lớn, có tám mái cong, 4 mặt có bốn cửa sổ h ình tròn, dáng dấp rất thanh thoát. T iếp đến là "Thiên Quang T ỉnh" (Giếng trời trong sáng). Thi ên Quang T ỉnh là một chiếc hồ hình vuông, mỗi cạnh 28m. Hồ lộng bóng Khu ê Văn Các với các cửa sổ tr òn, nói lên quan ni ệm trời tr òn, đất vuông, âm dương h òa h ợp của ngư ời x ưa. Hai bên h ồ là khu vư ờn bia đá tiến sĩ. N hững bia này đ ư ợc dựng dư ới thời nhà Lê, đ ể biểu dương những ngư ời thi đậu. Tất cả bia đều dựng tr ên lưng rùa, tư ợng tr ưng cho s ự vĩnh cửu. Hiện nay c òn 82 bia ghi tên các tiến sĩ thời L ê t ừ năm 1442 đến 1779 (v ề sau, nhà Nguy ễn cho xây Văn Miếu tại Huế, nằm gần chùa Thiên M ụ). 82 tấm bia ghi t ên 1305 n hân vật, trong đó có 17 trạng nguy ên, 19 b ảng nhãn, 47 thám hoa, 284 hoàng giáp và 938 ti ến sĩ. Các t ấm bia, đ ư ợc khắc lần lư ợt theo năm tháng suốt từ đầu đời L ê (1428 - 1 458), qua đ ời Mạc (1528 - 1 529), đ ến t hời Trịnh Nguyễn (1600 - 1 771) là một chứng liệu quý báu của lịch sử. Các bia của thế kỷ 15 có những nét chạm khắc đ ơn sơ v ới những hoa văn viền bia là những chuỗi hình cong, t hấp thoáng một số nét của hoa, lá. Các bia của thế kỷ 17 lại đ ư ợc trang trí th êm các mô típ mới như h oa sen, hoa phù dung, là, phư ợng, khỉ. Các tấm bia của thế kỷ 18 th ì càng phong phú h ơn, có mây h óa r ồng, cá hóa rồng, lư ỡng long chầu nguyệt... K hu ti ếp nối là nhà bái đư ờng cùng hữu vu và tả vu. Nhà bái đư ờng là nơi thờ Khổng Tử, hai dãy n hà tả vu hữu vu ở hai b ên dùng làm nơi th ờ 72 vị tiền hiền. Các bậc danh nho Việt Nam nh ư N guy ễn Trãi, Tr ương Hán Siêu... cũng đ ư ợc thờ ở đấy. Ngoài ra, ở b ên trái, còn có chi ếc chuông lớn t ên là "Bích Ung đại chung" (chuông lớn của nhà Giám). Chuô ng này do Xuân Qu ận công Nguyễn N ghi ễm (Thân phụ của thi hào Nguy ễn Du) đứng rạ điều hành đúc vào năm 1768. Bên phải là một tấm khánh bằng đá hai mặt đều khắc chữ. Một mặt có hai chữ Thọ X ương, mặt kia là một bài minh. Sau cùng là Qu ốc Tử Giám. Quốc Tử Giá m đư ợc đổi thành đ ền Khải Thánh dư ới triều Nguyễn vì vào thời này Qu ốc Tử Giám đ ư ợc dời vào hu ế. Khu này đ ã b ị tàn phá t ừ thời chiến tranh, không c òn lưu lại gì. Văn Mi ếu - Q u ốc Tử Giám hiện nay đang đ ư ợc tôn tạo lại. Các bia tiến sĩ vốn tr ư ớc đây đ ư ợc để n goài tr ời, đ ã đ ư ợc làm nhà che đ ể chống lại sự t àn phá của thời gian. Các nhà che bia đ ã đ ư ợc k hánh thành vào ngày 28.10.1994. Giữa các khu nhà che bia có nhà đ ình bia, bên trong dựng hai tấm b ia cổ nhất của năm 1442 và 1448. D o yêu cầu hài hòa v ới cảnh quan cổ kính của khu v ư ờn bia, nhà che bia đư ợc tạo dựng với dáng vẻ ki ến trúc đời L ê, đ ồng thời lại thi ên v ề thời Nguyễn để phối h òa với Khu ê Văn Các và Thiên Quang T ỉnh. Văn mi ếu - Q u ốc Tử Giám là trư ờng Đại học đầu tiên của Việt Nam, tại đây, hàng ngũ tr í thức, "rư ờng cột" của đất nư ớc đ ư ợc đ ào tạo từ thế kỷ này sang th ế kỷ khác, những nhân t ài đã xu ất thân từ đấy. Những nhân vật ấy đã c ống hiến cho Tổ quốc như các nhà s ử học Ngô Sĩ Li ên, Phan Huy ích, n hà bác h ọc L ê Quý Đ ôn, Phùng Khắc Khoan, nhà chính tr ị Ngô Thì Nhậm, Phạm Công Trứ... Văn M i ếu - Q u ốc Tử Giám thật là một biểu t ư ợng sâu sắc cho tinh hoa của lịch sử v à văn hóa Vi ệt Nam. M ột di tích khác, cũng không kém phần quan trọng về mặt lịch sử văn hóa của triều L ê là Lam Kinh, kinh đô thứ hai của tri ều L ê và đ ồng thời là nơi an nghỉ thân xác của các vị vua L ê. L am Kinh nằm b ên cạnh sông Chu, ở x ã Xuân Lam, huy ện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa, cách trung tâm thành ph ố 50 km về phía Tây. Đây là đất khởi nghĩa Lam S ơn xưa. D òng Ng ọc Kh ê (tên g ọi của s ông Chu ở đ oạn chảy qua Lam Kinh) uống cong d ư ới chân núi Mục S ơn, một ngọn núi đá vôi, vốn là ti ền đồn x ưa của nghĩa quân Lam S ơn.
  7. L am Kinh đư ợc xây dựng sau khi L ê L ợi mất. Theo di chúc của ngư ời anh hùng Lam Sơn mu ốn đ ư ợc an táng tại qu ê hương, vua Lê Thái Tông đ ưa ngư ời về chôn cất tại đây (1433) và cho xây dựng n hi ều cung điện để có chỗ nghỉ ng ơi và thi ết triều mỗi khi về thăm mộ và làm l ễ. Các vua sau tiếp tục xây cất th êm lầu đ ài, thành quách, lăng m ộ. 13 đời vua và hoàng hậu triều L ê đ ều đ ư ợc an táng tại đâ y tạo n ên một quần thể kiến trúc có quy mô lớn.Theo dấu tích c òn sót lại, thì Lam Kinh g ồm hai phần chính, khu cung điện ở phía trong t ư ờng thành và khu lăng mộ nằm ngoài tư ờng thành. Khu cung đi ện x ưa có nghi môn, h ồ bán nguyệt, bạch kiều, chính điện h ình c hữ công, tả vu, hữu vu, sân chầu, nhà hậu tẩm, v òng t ư ờng bao quanh bằng đá chu vi 940m, cao 2,5m. Tất cả lầu đ ài, cung đi ện đ ều đ ã b ị sụp đổ hoang t àn ch ỉ còn lại những bậc thềm bằng đá chạm trổ mây, rồng c ùng hơn 50 viên đá tảng, đ ư ờng kính chừng 80cm, nằm rải rác tr ên m ột mặt bằng rộng lớn, giúp ta hình dung đ ư ợc p hần nào hình ả nh của một cung điện xa x ưa. K hu bia mộ nằm ngoài vòng t ư ờng thành thì lại đ ư ợc bảo quản gần như nguyên v ẹn. Đó là bia mộ V ĩnh Lăng (L ê Thái T ổ), xây vào năm 1433; bia Chiêu Lăn g (Lê Thánh Tông - 1 498); bia Du Lăng (Lê Hi ển Tông - 1 505); bia Hoàng hậu Ngô Thị Ngọc Dao... Các mộ đều có t ư ờng gạch hình vuông bao quanh, mỗi cạnh 4,33m, phía tr ên mộ là đất phủ cỏ đ ơn giản. Hai b ên mộ có t ư ợng quan hầu, s ư tử, t ê giác... M ỗi mộ đều có b ia ghi công tích, đ ặt cách xa mộ khoảng 100m. Trong các bia, bia Vĩnh L ăng là to và b ề thế nhất. Bia bằng đá, cao 2,97m, rộng 2,4m, d ày 0,27m. Bia đư ợc đặt tr ên một con rùa b ằng đá nguy ên kh ối, dài 3m. Đ ỉnh bia tạc theo h ình vòng cung 120o. Ba c ặp rồng đ ối xứng n hau vòng theo đ ỉnh bia. Hai b ên thành bia cũng tạc rồng ẩn mây. Đế bia là những họa tiết hình sóng nư ớc. Bia gồm 300 chữ, do Nguyễn Tr ãi soạn, ghi lại thân thế và s ự nghiệp của vua L ê Thái T ổ. Nét chữ khắc sắc sảo chứng tỏ tr ình đ ộ tinh vi của ngh ệ nhân. Một ngôi nhà che bia đư ợc xây dựng cách đây hơn 30 năm đ ể bảo vệ tác phẩm đi êu khắc độc đáo này. V ì giá tr ị lịch sử văn hóa của Lam Kinh, chính phủ đ ã phê chu ẩn dự án phục hưng, trùng tu, tôn t ạo k hu di tích này t ừ năm 1995 đến năm 2005. Riêng năm 1 995, đã có trùng tu m ột số di tích quan tr ọng như bia V ĩnh Lăng, mộ vua L ê Thái T ổ, nhà bia và mộ vua L ê Thánh Tông, mộ của Hoàng hậu N gô Th ị Ngọc Dao... H àng năm, vào ngày 22 tháng 8 âm lịch, dân chúng tụ tập về Lam Kinh để t ư ởng nhớ đến vua L ê T hái T ổ cùng các minh quân c ủa triều L ê. M ột lễ hội tưng b ừng đ ư ợc tổ chức vào dịp này, thư ờng đ ư ợc gọi là H ội đền vua L ê. Bu ổi lễ, thực ra, đã đ ư ợc cử hành vào ngày 21 vì tr ư ớc khi mất, L ê Thái T ổ có dặn d ò con cháu phải làm gi ỗ cho L ê Lai, ngư ời đã hy sinh thân m ình đ ể cứu L ê L ợi trong lần b ị vây khổn tr ên núi Chí Linh vào năm 1419. Con cháu và đ ời sau thực hiện lời nói ấy, n ên trong dân gian có câu: "Hai m ốt L ê Lai, hăm hai Lê L ợi". P hụ họa cho buổi tế lễ là các đi ệu hát, múa hu ê tình, đặc biệt có lệ đánh trống đ ồng. Trống đ ư ợc đặt ú p trên mi ệng một hố nhỏ, tiếng trống đánh ra, v ì th ế, trở n ên âm vang và dũng mãnh. N hân d ịp này, dân chúng mi ền núi đem các sản vật địa phương đ ến, tạo thành ra một phi ên ch ợ độc đáo, có đ ủ các loại quý hiếm như mật ong rừng, trầm, qu ế, nhung hưu, nai, là những thứ mà dân mi ền xuôi ít có dịp đ ư ợc mua tận gốc. V ì th ế, ngày h ội đ ã lôi cu ốn đông đảo ngư ời dự lãm, cả miền x uôi lẫn miền ngư ợc. N hà M ạc - N am Bắc Triều (1527 - 1 592) 1. Nhà M ạc đ ư ợc thành lập
  8. M ạc Đăng Dung: 1527 - 1 529  M ạc Đ ăng Doanh: 1529 - 1 539  M ạc Phúc Hải: 1539 - 1 547  M ạc Phúc Nguy ên: 1547 - 1 562  M ạc Mậu Hợp: 1562 - 1 592  Vào đ ầu thế kỷ 16, nhà Lê suy y ếu dần. D ư ới triều vua L ê Tương D ực (1510 - 1 516) vi ệc triều chính h ết sức rối ren. Vua ham ch ơi b ời bỏ b ê vi ệc nư ớc, bên ngoài giặc giã n ổi lên khắp n ơi. Trong đám giặc ấy có Trần Cao là mạnh nhất. Trần Cao tụ tập đ ư ợc nhiều ngư ời, lập thành quân đ ội, có khi đến đánh tận sông Nhị H à, suýt chi ếm thành Thăng Long. T ình hình căng thẳng đến thế mà Lê Tương D ực không màng đ ể ý đến. Một thuộc t ư ớng là Tr ịnh D uy Sản bất mãn, đang đêm đen quân vào gi ết L ê Tương D ực đi để lập vua khác (1516). Sau đó, cả triều đ ình lẫn Trịnh Duy Sản đ ưa lên r ồi giết đi mấy lần vua. Kinh đô rối loạn, có khi không biết ai l à vua nữa. C u ối cùng, Lê C hiêu Tông đư ợc đ ưa lên ngôi, nhưng vì n ội loạn phải vào trú ở T ây Kinh (1516). Q ua năm 1519, đ ại thần Mạc Đăng Dung r ư ớc đ ư ợc vua về lại Kinh thành r ồi tóm thâu mọi quyền hành và loại trừ dần dần các đại thần có thế lực khác. M ạc Đăng Dung (1483 - 1 541) v ốn ngư ời Cổ Trai, huyện Nghi D ương (H ải Ph òng), là cháu b ảy đời của Mạc Đỉnh Chi. Lúc c òn nh ỏ, gia đ ình rất ngh èo, làm ngh ề đánh cá. Sau này nhờ sức mạnh h ơn n gư ời, thi đỗ Đô lực sĩ, làm đ ến chức Đô chỉ huy sứ dư ới triều L ê Uy M ục. Sau khi giúp vua Lê Chiêu Tông tr ở về lại đ ư ợc Kinh thành thì uy quy ền của Mạc Đăng Dung rất lớn, lấn át cả vua, hống hách ra vào cung cấm, các quan có ai can gián thì sai ngư ời giết đi. V ua Lê Chiêu Tông thấy thế lo sợ, t ìm cách gi ết Mạc Đăng Dung, nhưng âm mưu không thành, vua p hải bỏ chạy trốn l ên Sơn Tây (1522). T ại đây L ê Chiêu Tông lại bị một thuộc t ư ớng buộc phải về T hanh Hóa. ở K inh thành, M ạc Đăng Dung lập hoàng đ ệ Xuân lên ngôi, đó là Lê Cung Hoàng. ổ n đ ịnh xong việc ở Kinh thành, vào năm 1524 M ạc Đăng Dung đem quân vào đánh Thanh Hóa, bắt đ ư ợc vua Chi êu Tông và gi ết đi. Ba năm sau (1527), M ạc Đăng Dung ép triều thần thảo b ài chi ếu truyền ngôi cho nhà M ạc rồi l ên làm vua, lập triều đại mới, đặt ni ên hi ệu là Minh Đ ức. Đ ể trừ hậu loạn, Mạc Đăng Dung cho giết vua L ê và bà Thái hậu đi. Các quan trong triều, các bậc k hoa giáp t ự tử để giữ chữ trung của Nho giáo rất nhiều. Đ ể vổ y ên lòng ng ư ời, Mạc Đăng Dung giữ lại hầu hết luật lệ của nh à Lê. Công vi ệc g ì cũng theo lệ trư ớc mà giải quyết. M ạc Đăng Dung c òn truy tặng cho những n gư ời tuẫn tiết vì nhà Lê, đ ồng thời t ìm con cháu c ủa các quan đại thần cũ mời ra phong quan t ư ớc, mong họ về giúp m ình. L àm vua đư ợc ít lâu, đến năm 1529 Mạc Đăng Dung truyền ngôi cho con l à M ạc Đăng Doanh c òn mình thì t ự x ưng là Thái Thư ợng Hoàng.
  9. N hà Min h nhân dịp Đại Việt gặp nội loạn, đem quân đến đóng gần cửa Nam Quan, truyền hịch hứa s ẽ thư ởng quan t ư ớc và hai vạn bạc cho ai bắt đ ư ợc cha con Mạc Đăng Dung đồng thời sai ng ư ời sang b ảo Mạc Đăng Dung vội vàng sai s ứ sang hàng. N ăm 1540, quân Minh ti ến đến ả i Nam Quan, Mạc Đăng Dung sợ hãi, bèn cùng các quan lại cả thảy hơn 40 ngư ời tự trói mình đ ến ải Nam Quang lạy phục xuống đất, nộp đổ điền thổ v à s ổ dân đinh, rồi lại xin dăng đất năm động để sáp nhập vào đất Khâm Châu của Trung Quốc. Ngoài ra, h ọ Mạc còn đ em vàng b ạc tặng ri êng cho quan nhà Minh nữa. Nhờ thế, nhà Minh phong cho M ạc Đăng Dung chức Đô thống sứ, hàm quan nhị phẩm nhà Minh. 2. Cu ộc nổi dậy của nhóm Phù Lê T rong su ốt thời kỳ trị vì, nhà M ạc phải đối phó vất vả chống các nhóm ph ù Lê. Tri ều thần nhà Lê, p hần tự tử theo vua, phần về mai danh ẩn tích. Phần c òn lại tích cực chi êu tập ngư ời đứng l ên phù L ê. Cu ộc ph ù Lê lúc đ ầu gặp nhiều thất bại, nhiều tôn thất nh à Lê b ị giết chết. Cuối c ùng phong trào p hù Lê dư ới sự lãnh đạo của Nguyễn Kim, đóng đ ư ợc căn cứ tại Sầm Châu (L ào) và phát tri ển lực lư ợng N guy ễn Kim là ngư ời làng Gia Miêu, phủ H à Trung, trấn Thanh Hóa. Ông là con trai của Nguyễn H oằng Dụ, đại t ư ớng của nhà Lê, đã có công b ảo vệ thành Thăng Long khi loạn Trần Cao nổi lên. N guy ễn Kim đ ư ợc vua Lào cho nương náu ở Sầm Châu. Ông chi êu mộ hào ki ệt rồi cho ngư ời t ìm ra con út của vua L ê Chiêu Tông và tôn lên làm vua. Đó là Lê Trang Tông (1533). H ọ ở chiến khu Sầm C hâu tám năm trư ờng, đến năm 1540 mới đủ thực lực và th ời cơ đ ể trở về, tiến đánh lấy đ ư ợc Nghệ a n r ồi thâu phục đ ư ợc Tây Đô (Thanh Hóa - 1 543). N hóm phù Lê làm chủ đ ư ợc phía Nam, đ ư ợc sách sử gọi là Nam tri ều (từ Thanh Hóa trở vào). Trong k hi ấ y nhà M ạc vẫn cầm quyền ở Thăng Long, và đư ợc gọi là Bắc Triều. Các hào ki ệt kéo về Nam hư ởng ứ ng rất đông như Phùng Khắc Khoan, L ương H ữu Khánh, Trịnh K i ểm... thanh thế của Nam triều ngày càng lớn, chỉ chờ cơ h ội là tràn ra đánh B ắc triều. 3. Th ế cuộc Nam Bắc triều T rong khi lực lư ợng của Nam triều đang phát triển th ì Nguy ễn Kim bị một hàng tư ớng n hà M ạc là D ương Chấp Nhất đánh thuôc độc chết trong một cuộc h ành quân ti ến đánh Bắc triều. Tất cả binh quy ền lọt vào tay ngư ời con rể lạ Trịnh Kiểm. T r ịnh Kiểm liền tổ chức hậu cứ vững mạnh, lập h ành đi ện tại đồn Vạn Lại (Thanh Hóa) để cho vua L ê ở r ồi lo chấn chỉnh lực lư ợng, giữ thế thủ ở Thanh Hóa. Trong nội bộ Nam triều có nhiều thay đ ổi. Vua L ê Trang Tông mất vào năm 1548, Thái t ử Duy Huy ên đư ợc Trịnh Kiểm lập lên làm vua ch ỉ 8 tháng, th ì cũng mất. Trịnh Kiểm kiếm một ng ư ời cháu họ xa của L ê Thái T ổ lập l ên làm vua. N gư ời này ở n gôi đ ư ợc 16 năm thì b ị Trịnh T ùng gi ết (Trịnh Kiểm đ ã mất vào năm 1570). M ột n gư ời khác trong họ L ê đư ợc họ Trịnh đ ưa lên, đó là Lê Th ế Tông. T rong khi ấ y, về phía nhà M ạc th ì cũng trải qua mấy lần đổi ngôi. Đến đời Mạc Phúc N guyên, lực lư ợng của phe này đã t ương đ ối ổn định lại th êm có M ạc Kính Điển, chú của Mạc Phúc Nguy ên là một vị t ư ớng thao lư ợc. V ì th ế nhà M ạc toan tính việc đánh Nam triều, đồng thời Nam triều cũng chu ẩn bị tấn công ra Bắc. Phía Bắc triều đánh v ào Thanh H óa 10 lần. Phía Nam triều tiến ra Bắc đánh cả thảy sáu lần, nhưng hai bên bất phân thắng bại.
  10. Cán cân lực lư ợng hai b ên thay đ ổi từ sau khi Mạc Kính Điển chết (1580). Quân Nam triều lại c àng n gày càng mạnh dư ới sự lãnh đạo của Trịnh T ùng. Trịnh T ùng nhi ều lần đem quân ra đánh Bắc triều và đ ến năm 1592 th ì bắt đ ư ợc vua Mạc là M ạc Mởu Hợp, đem giết đi rồi r ư ớc vua L ê Th ế Tông về T hăng Long. T àn quân nhà M ạc chạy l ên mạn Bắc và đư ợc sự ủng hộ của nhà Minh nên tập hợp đ ư ợc lực lư ợng và hùng cứ ở đất Cao Bằng. T ừ đấy, tuy phía họ Trịnh đã làm chủ Thăng Long nhưng không th ể nào ki ểm soát đ ư ợc vùng Cao Bằng. T hời kỳ phân liệt - T r ịnh - N guy ễn (1600 - 1 777) H ọ Trịnh: T r ịnh T ùng : 1570 - 1 623  T r ịnh Tráng: 1623 - 1 657  T r ịnh Tạc: 1657 - 1 682  T r ịnh Căn: 1682 - 1 70 9  T r ịnh C ương: 1709 - 1 729  T r ịnh Giang: 1729 - 1 740  T r ịnh Doanh: 1740 - 1 767  T r ịnh Sâm: 1767 - 1 782  T r ịnh Cán: 1782 - 1 783  T r ịnh Khải: 1783 -1786  H ọ Nguyễn: N guy ễn Hoàng: 1600 - 1 613  N guy ễn Phúc Nguy ên: 1613 - 1 635  N guy ễn Phúc Lan: 1635 -1648  N guy ễn Phúc Tần: 1648 -1687  N guy ễn Phúc Trăn: 1687 -1691  N guy ễn Phúc Chu: 1691 -1725  N guy ễn Phúc Trú: 1725 -1738  N guy ễn Phúc Khoát: 1738 -1765  N guy ễn Phúc Thuần: 1765 -1777.  I. Quá trình phân ly hai đàng T rong lúc h ọ Trịnh loay hoay tập trung sức lực h òng tiêu d i ệt họ Mạc th ì một thế lực khác nổi lên và lần lần tách ly khỏi quỹ đạo của họ Trịnh. Đó l à h ọ Nguyễn, mà kh ởi đầu là Nguy ễn Hoàng, con của N guy ễn Kim. Sau khi Nguy ễn Kim bị hại chết, quyền hành đ ều ở trong tay của Trịnh Kiểm, Trịnh Kiểm nắm hết quy ền lã nh đ ạo nhưng vẫn lo sợ các con của Nguyễn Kim tranh gi ành nên đ ã gi ết ngư ời con lớn của N guy ễn Hoàng là Nguy ễn Uông, Ngư ời con khác của Nguyễn Kim là Nguy ễn Hoàng giả bị bệnh tâm thần để trán h nguy hi ểm và cho ngư ời đến hỏi kế Trạng Tr ình Nguy ễn Bỉnh Khi êm. Trạnh Tr ình trả lời: "Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân" (một dãy Hoành S ơn kia có th ể y ên thân đư ợc muôn đ ời). Nguyễn Hoàng bèn nh ờ chị là Ng ọc Bảo xin cùng Tr ịnh Kiểm cho ông vào trấn đất Thuận Hóa.
  11. N ăm 1558 Nguy ễn Hoàng đư ợc phép vào Nam, bèn đem theo h ọ hàng của mình cùng nhi ều quân sĩ, n hân tài g ốc Thanh Nghệ. Ông đóng tại xã ái T ử, huyện Vủ X ương, thành lập bộ máy hành chính trên vùng đất mới và tập trung vào vi ệc khai phá đất đai. C ông vi ệc của ông đạt đ ư ợc nhiều kết quả. N ăm 1569, ông đư ợc vua L ê cho trấn nhậm luôn cả đất Quảng Nam. Sau khi Tr ịnh T ùng đu ổi đ ư ợc họ Mạc l ên M ạn Bắc và đưa vua Lê v ề thành Thăng Long vào năm 1 592, Nguy ễn Hoàng ra chầu vua và ở lại đấy trong tám năm để g iúp Tr ịnh T ùng đánh h ọ Mạc. Ông đã đ ánh thắng nhiều trận to ở S ơn Nam, H ải D ương, V õ Nhai... hai lần hộ giá vua L ê đ ến Nam Quan h ội kiến cùng s ứ nhà Minh. Vào năm 1600, bi ết Trịnh T ùng không tin tư ởng mình, nhân cớ đi dẹp loạn, Nguyễn Hoàng đem b inh tư ớn g thẳng về Nam và ở lại đấy luôn. Nguyễn Hoàng vẫn giữ h òa khí v ới Trịnh T ùng, đem con gái là Ng ọc Tú gả cho Trịnh Tráng, con của Trịnh T ùng. Đ ồng thời, Nguyễn Hoàng ra s ức xây dựng cơ đ ồ, chú trọng đặc biệt đến việc phát triển nông nghiệp v à tr ọng dụng nhân tài. Theo sách s ử cũ thì ông là ngư ời khoan h òa và công b ằng, đ ư ợc dân hai trấn Thuận Hóa và Qu ảng Nam y êu mến. C u ộc sống của dân chúng ở đấy t ương đ ối sung túc v à bình yên, chợ không hai giá, nhiều năm đ ư ợc mùa. N guy ễn Hoàng là ngư ời mộ đạo Phật. Ông c ho xây d ựng nhiều chùa, trong đó có chùa Thiên M ụ xây cất vào năm 1601. N ăm 1613, Nguy ễn Hoàng mất, ngư ời con thứ sáu là Nguy ễn phúc Nguy ên lên n ối nghiệp, đ ư ợc gọi là chúa Sãi. C húa Sãi có nhi ều nhân t ài giúp s ức như Nguy ễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến, Đ ào D uy T ừ. Đ ào D uy T ừ lập đồn Tr ư ờng Dục ở huyện Phong Lộc (Quảng B ình) và xây một cái lũy dài ở cửa Nhật Lệ (Đ ồng Hới). Lũy này vẫn thư ờng đ ư ợc gọi là lũy Thầy. Sau khi có đ ư ợc đồn lũy che chở, chúa S ãi ra mặt không phục t ùng h ọ Trịnh nữa và cho tư ớng ra lấn đ ất cho đến phía Nam sông Gianh. T ừ đó hai b ên đánh nhau. Đ ại Việt bị chia làm hai, phía Bắc từ sông Gianh trở ra thuộc về chúa T r ịnh, đ ư ợc gọi là Đàng Ngoài. Phía Nam t ừ sông Gianh trở vào thu ộc quyền họ Nguyễn. Tr ên danh n gh ĩa, cả hai họ Trịnh Nguyễn vẫn t ôn xưng vua Lê, nhưng ở Đ àng Ngoài, quy ền hành nằm trong tay chúa Tr ịnh, còn ở Đ àng Trong, sau nhi ều lần muốn thụ phong An Nam quốc vương không thành t hì đ ến năm 1744 Nguyễn Phúc Khoát tự x ưng vương. H ai Nhà Tr ịnh Nguyễn đánh nhau bảy lần từ 1627 đến 167 2 bất phân thắng bại. Thấy không thể áp đảo đ ư ợc nhau, cuối c ùng cả hai lấy sông Gianh làm gi ới hạn. Từ đấy dân chúng không thể vư ợt qua s ông Gianh đ ể buôn bán với nhau nữa. II. Các vấn đề chính trị - kinh t ế 1. Đàng Ngoài a. Vấn đề nhà M ạc C húa Tr ịnh ở Đ à ng Ngoài dù đã đ ành đu ổi đ ư ợc họ Mạc ra khỏi Thăng Long nhưng không tiêu di ệt đ ư ợc lực lư ợng này mà cu ối cùng phải chấp nhận cho họ Mạc hùng cứ ở đất Cao Bằng. Họ Mạc t hỉnh thoảng lại đem quân quấy nhiễu làm cho quân Tr ịnh phải vất vả đi đánh dẹp.
  12. Bấy giờ ở T rung Hoa, nhà Thanh đu ổi đ ư ợc nhà Minh đ ể chiếm ngôi Hoàng Đ ế (1644). Họ Mạc lại cũng nhận đ ư ợc sự ủng hộ của triều đ ình này. Nh ờ thế kể từ khi Mạc Mởu Hợp bị Trịnh T ùng bắt gi ết đi, họ Mạc truyền đến đ ư ợc ba đời nữa là M ạc Kính Cung, Mạc Kính Khoan và M ạc Kính Vũ. V ề sau, họ Mạc theo Ngô Tam Quế, một phản thần của nh à Thanh cai tr ị Vân Nam và Qu ảng Tây. Sau khi Ngô Tam Qu ế chết, họ Trịnh liền cho quân tấn công Cao Bằng (1667), Mạc Kính Vũ c ùng tùy tùng chạy sang đất Trung Hoa, nhưng b ị nhà Thanh b ắt và đ em trao cho h ọ Trịnh. Từ đó mới dứt hẳn nhà M ạc. b. T ổ chức cai trị đ àng Ngoài V ua Lê đư ợc tôn x ưng nhưng thực chất chỉ làm vì mà thôi. Bao nhiêu quy ền hành đ ều ở trong tay chúa Tr ịnh cả. Phía vua L ê vẫn đ ư ợc gọi là Tri ều đ ình còn phủ chúa Trịnh thì g ọi là Phủ Li êu. M ọi quy ết định đều từ Phủ Li êu mà ra, thậm chí bổng lộc và vi ệc thế tập của vua cũng do Phủ Li êu quy ết đ ịnh. Chúa Trịnh lại hay lập các vua trẻ con, phần lớn đ ư ợc nuôi dư ỡng trong phủ chúa cho dễ điều k hi ển. Chúa Trịnh c òn t ự quyền phế lập các vua nữa. Vua nào ch ống đối sự chuy ên quy ền của họ T r ịnh đều bị giết hại như Lê Anh Tông (1573), Lê Kính Tông (1619), Lê Duy Phương (1732) T rong b ộ máy quan chức của họ Trịnh, ngoài quan văn và quan v õ, còn có thêm quan giám. Quan giám đư ợc chúa Trịnh tin dùng và cho tham dự vào vi ệc chính trị. Đó là đi ểm khác biệt của đời chúa T r ịnh so với các triều tr ư ớc. Việc này đư ợc duy tr ì cho đ ến đời Trịnh Doanh th ì b ỏ (1740). Q uan lại đ ư ợc tuyển lựa qua các kỳ thi văn, v õ, hoặc đ ư ợc tiến cử. Cứ vài năm, Phủ Li êu lại t ổ chức một lần khảo hạch khả năng của các quan. Ai không đạt th ì b ị truất chức. Để tránh việc ức hiếp, t ham nhũng của quan lại, chúa Trịnh cấm các quan không đ ư ợc lập trang trại tại địa phương cai tr ị của mình. Tuy th ế, về sau luật lệ của chúa không c òn nghiêm minh nữa. Tệ nạn mua quan bán t ư ớc bắt đầu từ thời Trịnh Giang và cứ b ành trư ớng l ên mãi. T ừ đó, hễ có tiền là có th ể làm quan, không cần thông qua học vấn. c. V ề kinh tế N ông nghi ệp: D ư ới thời này, ru ộng đất công ngày càng b ị thu hẹp, còn ru ộng đất t ư ngày càng phát triển. Chiến tranh, nạn c ư ờng hào làm cho nông dân xiêu tán, đ ể đất lại cho cư ờng hào chi ếm đoạt. Các trang trại do các nhà quy ền thế mua rẻ lại của nông dân đ ư ợc thành lập và lấn chiếm đất công. V ì ru ộng đất công không c òn nhi ều n ên phép l ộc điền cũng không thực hiện đ ư ợc. Nhà nư ớc chỉ ban rất ít đất cho một số quan lại hạn chế. Các quan tại chức đ ư ợc ấp tiền gạo thu của dân chứ không có lộc điền. Sản xuất nông nghiệp có phát triển vào đ ầu thế kỷ 17. Có câu ca dao nói l ên vi ệc ấy: "ời vua V ĩnh T ộ (1619 -1628) lên ngôi. Cơm th ổi đầy nồi, trẻ chẳng th èm ăn". Nhưng v ề sau, nông nghiệp c àng n gưng tr ệ, đ ê điều không đ ư ợc tu bổ. Đ ê vỡ, hạn hán thư ờng xảy ra làm cho n ền sản xuất nông n ghi ệp suy sụp. T hủ công nghiệp: Trong khi nông nghiệp không có n hững b ư ớc thuận lợi thì thủ công nghiệp lại phát triển đều đặn. Nhiều làng thủ công nổi tiếng xuất hiện như làng g ốm Bát Tràng (Hà N ội), Thổ H à (Bắc Ninh), H ương Canh, Đ ình Trung (Vĩnh Y ên) làng tơ Thanh Oai, làng sa lĩnh La Cả, La Kh ê (Hà Đông) làng nhu ộ m Huê C ầu, các làng d ệt vải ở Hải D ương... nh ờ sự phát triển mạnh của thủ công nghi ệp mà Đàng Ngoài đ ã một thời phồn thịnh trong việc buôn bán với n ư ớc ngoài.
  13. N gh ề khai mỏ cũng phát triển rất mạnh do nhu cầu kim loại của nh à nư ớc. Đó là các mỏ vàng, đ ồng, k ẽm, thiếc ở tại các vùng Tuyên Quang, Hưng Hóa, Thái Nguyên, Lạng S ơn. Sản lư ợng khai thác k há lớn, ví dụ như mỏ đồng Tụ Long ở Tuy ên Quang n ộp thuế vào năm 1773 đ ến một vạn cân đồng. H oạt động thương mại trong nư ớc và đ ối với n ư ớc ngoài phát tri ển đáng k ể. Các trung tâm buôn bán t hu hút khách ngoại quốc là K ẻ Chợ (Thăng Long) v à Ph ố Hiến. 2. Đàng Trong a. Khai thác đ ất phương Nam Sau khi ly khai kh ỏi Đ àng Ngoài, đ ối với chúa Nguyễn, việc mở mang lãnh th ổ trở thành một nhu cầu bức thiết h òng có đ ủ thực lực mà cân bằng hoặc áp đảo chúa Trịnh. V ì th ế các chúa Nguyễn tích cực đẩy mạnh cuộc Nam tiến. N ăm 1611, có cớ là ngư ời Chăm xâm lấn bi ên giới, Nguyễn Hoàng sai một t ư ớng t ài là Văn Phong đ em quân đi đánh lấy phần đất phía Bắc của Champa và lập ra phủ Phú Y ên. Sau đó, chúa cho chiêu tập lưu dân đ ến định cư ở đấy và khai thác đất đai. Năm 1653, nhân ngư ời Chăm hay đánh đ òi lại P hú Yên, quân chúa Nguy ễn lại tấn công xuống đến tận bờ Bắc sộng Phan Rang. Vua Chăm l à Bà T hấm phải xin hàng. Chúa Nguy ễn lấy phần đất mới chiếm lập thành dinh Thái Khang. Sau khi chấm dứt cuộc chiến với họ Trịnh (1727 - 1 772), h ọ Nguyễn tích cực đẩy việc mở rộng lãnh t hổ về phương Nam. Năm 1693, lấy cớ vua Chăm đánh phá phủ Di ên Ninh, chúa Nguy ễn Phúc Chu cử Nguyễn Cảnh đem quân đi đánh C hampa, b ắt đ ư ợc vua Chăm là Bà Tranh cùng các c ận thần trong đó có K ế Bà T ử. Vua Chăm c ùng thu ộc t ư ớng bị đ ưa v ề giam giữ ở Ngọc Trản (Thừa Thi ên). C húa Nguy ễn nhập phần đất cuối c ùng của Champa vào Đàng Trong lập n ên trấn Thuận Thành r ồi đ ưa K ế Bà T ử về đấy làm Phiên Vương, hàng năm phải nộp cống. V ùng đ ồng bằng sông Cửu Long đ ư ợc các chúa Nguyễn khuyến khích khai hoang. N ăm 1659, nhờ sự hỗ trợ của chúa Nguyễn, Battom Reachea, một ho àng thân Chân L ạp lên nắm quy ền và đ ến năm 1663 thì t ức vị, trở thành Paramaraja VIII. Vì th ế, Batom Reachea chấp nhận việc triều cống cho chúa Nguyễn, đồng thời cho phép ng ư ời Việt đ ư ợc định cư trên lãnh th ổ Chân Lạp, đ ư ợc quyền sở hữu đất đai mà h ọ đ ã khai thác cùng những quyền lợi khác giống như một công dân K hmer vậy. Bato m b ị ngư ời con rể ám sát vào năm 1672, hoàng gia Chân L ạp lâm vào hoàn cảnh cực kỳ rối ren. P hó Vương Uday Surivans (t ức là Ang Tan) cùng ngư ời cháu là Ang Non chạy sang nương nh ờ chúa N guy ễn, trong khi tại kinh đô Oudong cuộc tranh ngôi vua xảy ra quyết l i ệt giữa ngư ời con rể và các n gư ời con của Batom Reachea. Ang Non đ ư ợc chúa Nguyễn nâng đỡ, đóng quân ở Prey Nokor. N ăm 1679, một nhóm ng ư ời Trung Quốc cầm đầu là Dương Ngạn Địch và Trần Thư ợng Xuy ên k hông chịu thần phục nhà Thanh, đã b ỏ xứ, đem 50 chiếc t huy ền đến đầu chúa Nguyễn. Chúa N guy ễn thâu nhận và phong tư ớc cho họ rồi sai quân đ ưa h ọ vào đ ất Đông phố (Gia Định) và M ỹ T ho đ ể khai khẩn đất hoang, làm ăn buôn bán. H ọ lập đ ư ợc hai trung tâm buôn bán nổi tiếng là Nông N ại đại phố và M ỹ Tho đại phố. Đ ến t hập ni ên 90 tình tr ạng bất ổn của Hoàng gia Chân L ạp vẫn kéo dài. Cu ối cùng một ngư ời con của Batom Reachea l ên ngôi vua. Đó là Jayajettha III mà sách s ử Việt Nam gọi là N ặc Thu.
  14. Q uan h ệ giữa Jayajettha III c ùng chúa Nguy ễn trở n ên căng thẳng khi Jayajet tha III cho giăng xích sắt ngang sông M g. Chúa Nguy ễn hạ lệnh cho quân tiến phá xích sắt ấy đi (1689) v à nâng đ ỡ h oàng thân Ang Non, khi ấ y đang đóng tại Pey Nokor. Thoạt tiên Jaysjettha Iii nh ờ Xi êm ch ống Ang N on, nhưng sau lại phải r ư ớc Ang Non về làm P hó vương. Sau khi Ang Non ch ết (1697), ông lại gã con gái của mình cho con trai c ủa Ang Non là Ang Em (N ặc Y êm). Vào năm 1698 sai Nguy ễn Hữu Cảnh vào kinh lư ợc đất Đồng Nai, đặc nền móng hành chính của Đ àng Trong tại đây Nguyễn Hữu Cảnh thiết lập các xã, t hôn, phư ờng, ấp, định thuế, lập sổ đinh, sổ điền. Ngo ài ra ông còn lập hai xã T hanh Hà và Minh Hương đ ể quy tụ những ngư ời Hoa. Tất cả những công việc này đư ợc tiến hành n hanh chóng và hòa bình dư ới sự công nhận mặc nhi ên của Jayajettha III. Vào đ ầu thế k ỷ 18, lãnh th ổ của Đ àng Trong đư ợc mở rộng th êm nhờ việc sáp nhập của đất H à Tiên. N guyên Hà Tiên do m ột ngư ời Trung Hoa là M ạc Cửu mở mang, lập đ ư ợc 7 thôn nh ưng thư ờng bị quân Xiêm qu ấy nhiễu. Vì th ế năm 1708,Mạc Cửu đến Thuận Hóa xin quy phục. Chúa Nguy ễn Phúc C hu bèn lập Mạc Cửu làm T ổng binh H à Tiên và đ ổi đất H à Tiên thành tr ấn. N ăm 1732, N ặc Thu chính thức như ờng cho chúa Nguyễn đất Mỹ Tho và Long H ồ. N ăm 1756 vua Chân lạp lúc bấy giờ là N ặc Nguy ên như ờng tiếp hai phủ Tầm Bôn và Lôi Lạp (tức là L ong A n và Gò Công ngày nay - 1 756). M ột cuộc như ợng đất khác xảy ra vào năm 1761 sau khi chúa Nguy ễn giúp Nặc Tôn lên làm vua. Quà tạ ơ n của Nặc Tôn đối với chúa Nguyễn là đất Tầm P hong Long (Sóc Trăng, Trà Vinh). Sau đó N ặc Tôn còn tặng cho Mạc Thi ên T ứ (đ ã t hay cha cai qu ản đất H à Tiên) năm phủ khác để tạ ơn đ ã giúp mình trong khi còn bôn ba. M ạc Thi ên T ứ sáp n hập năm phù này vào đất H à Tiên. N hư th ế, trong một thế kỷ, chúa Nguyễn đ ã ti ến đến mũi Cà Mau, làm chủ đ ư ợc một vùng r ộng lớn từ sông Gianh cho đến vị nh Thái Lan. b. T ổ chức cai trị T ổ chức bộ máy cai trị của chúa Nguyễn chuyển dần theo quá tr ình phân ly của mình, t ừ bộ máy của một chính quyền địa phương dần dần trở thành b ộ máy chính quyền của một nư ớc riêng bi ệt, không n hững độc lập mà còn có phiên qu ốc nữa. T hời Nguyễn Hoàng b ộ máy cai trị vẫn là b ộ máy chính quyền địa phương do tri ều đ ình vua Lê cử vào. Nguy ễn Phúc Nguy ên lên thay cha (1613) đ ã s ửa đổi tổ chức cai trị, ông bổ nhậm lại quan lại t hay cho nh ững ngư ời đã đ ư ợc chúa Trịnh cử vào trư ớc đây. N guy ễn Phúc Nguy ên đ ổi "dinh" Thuận Hóa thành "phủ" Thuận Hóa. Đứng đầu triều thần là t ứ trụ đại thần gồm Nội tả, Ngoại tả, Nội hữu, Ngoại hữu. Các t ổ chức địa phương vẫn đ ư ợc gọi la dinh. Cho đến đời Nguyễn Phúc Khoát th ì Đ àng Trong có tất cả 12 dinh và một trấn: D inh B ố Chính (dinh Ngói) 1. D inh Qu ảng Bình (dinh Trạm) 2. D inh C ựu (dinh Cát, dinh ái Tử) 3. 4. C hính dinh (dinh Phú Xuân) D inh Lưu Đ ồn (dinh M ư ời) 5. D inh Qu ảng Nam 6. 7. D inh Phú Yên
  15. 8. D inh Bình Khang D inh Bình Thu ận 9. D inh Trấn Bi ên 1 0. D inh Phiên Tr ấn 1 1. D inh L ong H ồ 1 2. T rần H à Tiên 1 3. Đ ứng đầu các dinh là Tr ấn Thủ, Cai bạ, Ký lục. ở cấp phủ, huyện có tri phủ, tri huyện. Ngo ài ra còn có một ngạch quan riêng g ọi là Bản đ ư ờng quan, chuy ên trách vi ệc thu thuế. Q uan lại không có lương mà đư ợc cấp lộc điền và thu thu ế của dân làm ng ụ lộc. Lúc đầu quan lại đ ư ợc bổ nhiệm theo cách tiến cử nhưng v ề sau theo thi cử. Việc bổ nhiệm quan lại không tiến h ành t hư ờng xuy ên mà tùy theo nhu c ầu của bộ máy. Vào cu ối thời kỳ chúa Nguyễn, tệ nạn mua quan bán t ư ớc cũng bành trư ớng nh ư ở Đ àng Ngoài vậy. Các quan cũng đ ư ợc thăng chức nếu nộp một số tiền lớn. c. Kinh t ế T rên vùng đất mới mở, ngoài một số vùng đã đ ư ợc dân địa phương khai phá, c òn lại là đất hoang n gút ngàn. Chúa Nguy ễn tích cực khuyến khích việc đ ưa lưu dân vào khai thác các vùng đ ất mới này. Các đ ồn điền đ ư ợc thành lập làm cho s ức sản xuất tăng cao, nhất là đất Gia Định "ruộng không cần cày, phát c ỏ rồi cấy, cấy một hột thóc, gặt đ ư ợc 300 hột" (L ê Quý Đ ôn, Phủ bi ên tạp lục, bản dịch, H à N ội, 1964). H ỗ trợ cho việc khai hoang t ại Nam Bộ và t ạo thuận tiện trong việc di chuyển, buôn bán, các chúa N guy ễn đ ã cho đ ào các con kênh quan tr ọng. Năm 1705, một con k ênh đư ợc đ ào, n ối liền hai nguồn của hai con sông Vũng C ù và M ỹ Tho. Nguy ên ở hai nguồn sông này có hai đi ểm đô hội là chợ T hị Cai và chợ L ương Phú. Con kênh đào đ ã n ối đ ư ợc hai điểm ấy lại. Tuy thế, con k ênh này có giáp nư ớc (nơi gặp nhau của hai d òng thủy triều) n ên bùn cỏ hay bị tích tụ, phải đảo vét luôn. Qua đến đầu nhà Nguy ễn, k ênh đư ợc đào vét quy mô hơn và đư ợc đặt t ên là sông Bảo Định. Một con k ênh k hác đư ợc đào vào năm 1972 kéo dài sông Cát ra phía B ắc (Chợ Lớn hiện nay). K ênh có hình thẳng n ên đư ợc mang t ên là kênh Ru ột Ngựa. Tuy thế, vì đ áy kênh cạn n ên thuy ền b è chỉ đi lại đ ư ợc khi nư ớc l ên mà thôi. Đ ến đầu đời nhà N guy ễn, k ênh cũng đ ư ợc đào vét r ộng ra. D ù vi ệc đào kênh t ại N am B ộ vào th ế kỷ XVII, XVIII chưa có quy mô lớn, nhưng nó đã t ạo đ ư ợc tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ vào th ế kỷ XIX. H oạt động thủ công cũng phát triển, những l àng thủ công nổi tiếng như x ã P hú Tr ạch, huyện H ương T rà chuyên d ệt chiếu lát, xã Đ ại Phư ớc và xã Tuy L ộc (huyện Lệ Thủy) chuy ên d ệt chiếu cói. Đặc b i ệt nghề làm đư ờng rất thịnh vư ợng. Đ ư ờng đ ã t ừng là món hàng thu hút khách nư ớc ngoài và tr ở t hành phương ti ện cho các chúa Nguyễn đổi lấy vũ khí của Tây phương. Ngoài ra, còn có những n gh ề thủ công mới hình thành nh ờ vào s ự giao lưu v ới ngư ời Tây phương như ngh ề làm đ ồng hồ, n gh ề đúc đồng. Có ngư ời thợ đồng hồ nổi tiếng Nguyễn Văn Tú đ ã t ừng theo học hai năm tại H à Lan và đ ã truy ền nghề lại cho gia đ ình. Tay ngh ề của họ đã làm cho ngư ời ngoài phải thán phục. Nghề đ úc đ ồng có đ ư ợc những b ư ớc phát triển kỹ thuật Tây phương, nhất là trong lãnh vực đúc súng thần công nhờ có sự cộng tác của ngư ời thợ đúc Bồ Đ ào Nha Joao Da Cruz. H oạt động khai mỏ của Đ àng Trong không đư ợc sôi động bằng Đ àng Ngoài nhưng c ũng đem lại cho chúa Nguy ễn một nguồn lợn nhuận đáng kể. Khoáng sản đ ư ợc khai thác chủ yếu là sắt và vàng. M ỏ sắt có ở x ã Phú Bài thu ộc huyện Phú Vang, x ã Đ i ển Phúc thuộc Bố Chính. Mỏ vàng thì ở n hi ều nơi
  16. n hưng n ổi tiếng nhất là các mỏ ở Quảng Nam. Tại đây sông cũng có vàng mà núi cũng có vàng. M ột n gày r ửa đãi đất có thể t ìm đ ầy cả bong bóng trâu. V àng cũng như đư ờng đã làm cho khách buôn nư ớc ngoài đ ổ xô đến Hội An để t ìm mua. Buôn bán cũng đ ư ợc p hát triển. Những trung tâm buôn bán lớn mọc ra nh ư Nông N ại Đại Phố, hà T iên... và nhất là H ội An. Các chúa Nguy ễn không duy tr ì đ ư ợc t ình tr ạng phồn thịnh này vào cu ối thế kỷ 18. Tham nhũng, cư ờng hào đ ã là những nguy ên nhân chủ yếu đ ưa tầng lớp nông dâ n vào cu ộc khởi nghĩa Tây S ơn. 3. Vi ệc giao thiệp với các nư ớc phương Tây Cả hai chúa Trịnh và Nguy ễn đều mở cửa giao thiệp với nư ớc ngoài nhất là v ới các ngư ời ph ương T ây. Hai thành ph ố quan trọng trong việc ngoại thương thời ấy là Ph ố Hiến ở Đ àng Ngoài và H ội An ở Đ àng Trong. Các ngư ời ngoại quốc có quyền lập thương điếm tại hai thành ph ố tr ên. Các hàng hóa x uất khẩu là tơ, lụa, kỳ nam, trầm hương, tiêu, qu ế, đ ư ờng, vàng, t ổ chim yến... H àng nhập chủ yếu là vũ khí và các đ ồ thủ công tinh xảo của Tây Phươn g. Vào đ ầu thế kỷ 17, bạn hàng quan tr ọng của cả hai Đ àng là Trung Qu ốc và Nhật Bản. Cả hai Đ àng đ ều cố gắng chiếm độc quyền mối quan hệ với Nhật Bản, nh ưng ngư ời Nhật vẫn duy tr ì cu ộc trao đ ổi tam phương, cung cấp vũ khi cho chúa Trịnh lẫn chúa Nguyễn. Th ương buôn Nhật nhờ đó làm giàu nhanh chóng. Vi ệc buôn bán này kéo dài cho đ ến năm 1636 khi nhà cầm quyền Nhật Bản cấm n gư ời Nhật xuất d ương thì chấm dứt. N gư ời Tây Phương đầu ti ên đ ến lập quan hệ buôn bán với Đại Việt là ngư ời Bồ Đ ào Nha. h ọ đến H ội An vào k hoảng giữa thế kỷ 16 và thực hiện thương mại ấn - ấ n (tức là vi ệc buôn bán đ ư ợc thực hi ện trong v ùng t ừ ấn Độ đến Đông á và ngư ợc lại). Đến đầu thế kỷ 17, tức là khi chúa Nguy ễn H oàng đ ã ly khai v ới Đ àng Ngoài r ồi, công cuộc buôn bán của ng ư ời Bồ tại Hội A n rất phát đạt và gần như đ ộc quyền. Vào năm 1615 các cha c ố Thi ên Chúa giáo theo thương nhân đ ến giảng đạo tại Đ àng Trong và b ắt đầu việc phi ên ti ếng Việt ra chữ Quốc Ngữ. Vào năm 1626, ngư ời Bồ ra Đ àng N goài đặt quan hệ buôn bán và đư ợc chúa Trịnh tiếp đãi ni ềm nở. Từ đấy họ buôn bán với cả hai Đ àng, nhưng chủ yếu là v ới Đ àng Trong. N ăm 1636, ngư ời H à Lan đ ến buôn bán tại Hội An, một thời gian sau, họ cắt đứt với chúa Nguyễn mà ch ỉ buôn bán với Đ àng Ngoài, và tr ở thành đ ồng minh của chúa Trịnh trong việ c đánh phá Đàng T rong. Năm 1644, h ọ đem ba chiến thuyền định kết hợp c ùng quân Tr ịnh đánh quân Nguyễn. N guy ễn Phúc Tần, lúc ấy là Th ế tử, đã đ ánh đắm đ ư ợc chiếc thuyền chỉ huy c ùng viên thuy ền trư ởng. N gư ời Pháp đến Đại Việt vào thập kỷ 60. Đó là những thừ a sai thu ộc Hội Thừa Sai Paris. Nhưng n hững thừa sai này mang danh nghĩa của H ãng Đ ông ấ n thuộc Pháp, đến Đ àng Ngoài dư ới bộ áo t hương buôn, c òn đ ến Đ àng Trong thì phải lén lút vì bấy giờ các chúa đ ã có chủ tr ương cấm đạo. Họ t hực hiện việc truyền đạo tron g bí mật. N gư ời Anh đến Đại Việt vào năm 1762 t ại Phố Hiến. Nhưng cu ộc buôn bán của ngư ời Anh tại đây k hông lâu b ền. Thị tr ư ờng Đ àng Ngoài không đem l ại nhiều mối lợi cho thương nhân nữa. Ngư ời A nh r ời thị tr ư ờng này vào 1697. Ba năm sau ngư ời H à Lan cũng n gừng buôn bán với Đ àng Ngoài. N gư ời Bồ cũng rời bỏ Đ àng Ngoài, đ ồng thời công việc buôn bán của họ với Đ àng Trong cũng trở n ên r ời rạc.
  17. Q ua th ế kỷ 18, hoạt động ngoại thương của Đại Việt ngưng tr ệ. Chỉ còn ở Đ àng Ngoài là các thừa sai dư ới danh nghĩa thươ ng nhân, h ọ làm những công việc lặt vặt như s ửa đồng hồ, sửa các dụng cụ t hiên văn, toán h ọc. ở Đ àng Trong thì thỉnh thoảng mới có tàu buôn của Bồ Đ ào Nha đ ến. III. Các vấn đề xã h ội - văn hóa 1. Tôn giáo T iếp theo thời L ê, Nho giáo vẫn đ ư ợc chúa Trịnh và chúa Nguy ễn duy tr ì. Các k ỳ thi nho học đều đ ư ợc tổ chức ở cả hai miền. Nhưng chi ến tranh, việc thay vua đổi chúa xảy ra li ên t ục làm cho k ỷ cương Nho giáo không c òn cứng nhắc như trư ớc nữa. Một số nhà nho xem h ọ Mạc, họ Trịnh, họ N guy ễn đều là những ngư ời t heo bá đ ạo nhưng một số khác lại chấp nhận sự thay đổi chủ, khi theo M ạc, khi theo Trịnh, lúc đang ở với Trịnh lại về Nguyễn, không l ên án những lần thí vua của họ T r ịnh. Nguy ên tắc của Nho giáo không c òn đ ư ợc xem nh ư mẫu mực cho việc xử thế nữa. * P hật giáo P hật giáo dần dần h ưng thịnh trở lại. Các chúa Trịnh nâng đỡ việc phát triển của Phật giáo v à cho xây cất cùng s ửa chữa nhiều ch ùa chi ền. Cứ mỗi lần có chùa hoặc chuông đ ư ợc hoàn thành là dân chúng quanh các vùng ấ y đ ư ợc miễn thuế vì đ ã góp phần xây chùa. Chúa Tr ịnh Giang cho ngư ời sang Trung Qu ốc thỉnh Kim Cang h òa thư ợng sang giảng thiền học cho m ình và cho dân chúng. M ột số phái Thiền mới xuất hiện. Vào cu ối thế kỷ 16, phái Thiền T ào M ộng của Trung Hoa đ ư ợc truy ền vào Đàng Ngoài do nhà sư Thủy Nguyệt. Vị thiền s ư này đ ã theo h ọc với vị tổ thứ 35 của p hái Tào Đ ộng tại Trung Hoa. Khi về nư ớc, ông lập n ên phái Tào Đ ộng Việt Nam. Nhiều chùa của giáo phái này đư ợc xây lên ở T hăng Long nh ư chùa H òa Giao, Hàm Long, Tr ấn Quốc... M ột phái Thiền khác - p hái Li ên Tôn xuất hiện vào cu ối thế kỷ 17 do thiền s ư Chân Nguyên. Phái này là tái sinh c ủa phái thiền Trúc Lâm nhà Tr ần. Thiền s ư Chân Nguyên ngư ời qu ê ở H ải D ương, s inh năm 1614, xu ất gia năm 19 tuổi, tu tại núi Y ên T ử... Chân Nguy ên có một đệ tử là vương công T r ịnh Thập, và chính v ị vương công này, sau khi xu ất gia, đ ã biến nhà riêng của mình thành chùa, đ ó là chùa Liên Phái ( ở đ ư ờng Bạch Mai, H à N ội).Thiền s ư và các đ ệ tử hết mình khôi phục lại phái t hi ền Trúc Lâm Y ên T ử, đã cho khắc lại tác phẩm "Khóa H ư L ục ", "Thi ền uyển tập anh", "Tam tổ t hực lực"... của đời Trần. Các tác phẩm n ày đ ã may mắn thoát khoải việc tịch thu của nh à Minh nh ờ đ ư ợc cất giấu tại các ch ùa xa xôi h ẻo lánh. C ũng như h ọ Trịnh, họ Nguyễn nâng đỡ Phật giáo. Từ năm 1601, khi mới tách ly ra k h ỏi chính quy ền trung ư ơng ở T hăng Long, Nguyễn Hoàng đ ã cho xây ng ồi chùa Thiên M ụ danh tiếng ở Huế. N guy ễn Hoàng cho ph ổ biến nguy ên nhân vi ệc xây chùa Thiên M ụ như sau: Dân chúng gặp b ên b ờ s ông Hương một b à lão mặc áo đỏ ngồi tr ên gò đất (hiện nay là n ơi t ọa lạc của chùa). Bà nói cho dân chúng bi ết rằng sẽ có minh chủ xuất hiện để xây dựng c ơ đ ồ bền vững tại đấy. V ì th ế, để ghi nhớ đến vi ệc này, chúa cho xây chùa và đặt t ên là Thiên M ụ (ngư ời phụ nữ linh thi êng ở tr ên tr ời). Chùa này đ ư ợc tr ùng tu nhi ều lần và tr ở n ên một danh thắng của Huế. P hái thi ền Lâm Tế Việt Nam xuất hiện dư ới thời chúa Nguyễn do Tạ Nguy ên Thi ều, một thiền s ư T rung Qu ốc phải lưu vong vì bi ến cố nhà Minh b ị nh à Thanh lật đổ. Nhà sư này đ ến Quy Nh ơn vào năm 1665, tại đây, ông xây chù a và truy ền bá đạo Phật. Vào những năm 80 ông đến Huế thuyết pháp và xây ngôi chùa Qu ốc Ân. Ông đ ư ợc chúa Nguyễn sai đến Quảng Châu để thỉnh t ư ợng Phật cùng t hỉnh các thiền tăng về Đ àng Trong đ ể hành pháp (cu ối thế kỷ 17).
  18. M ột thiền s ư xu ất sắc của phái nà y là Li ễu Quán, đã có công lập nhiều chùa quan tr ọng nhu chùa T hi ền Tôn ở núi Thi ên Thai, chùa Viên Thông ở núi Ngự Bình (Hu ế). M ột trong số thiền tăng đ ư ợc Tạ Nguy ênThi ều mời về là Hòa thư ợng Thạch Li êm, t ức là Thích Đ ại Sán, tác giả của tác phẩm Hải ngoạ i k ỷ sự. Tác phẩm này là một sử liệu quý báu, không những chỉ cho ta bi ết đ ư ợc mức độ s ùng đ ạo Phật của các chúa Nguyễn mà còn th ể hiện sống động cuộc sống, tập tục của x ã h ội Đ àng Trong thời ấy. C hính Thích Đ ại Sán đã du nhập giáo phái T ào Đ ộng vào Đàng T rong, và nhu nhận chúa Nguyễn P húc Chu làm đ ệ tử thứ 29 của giáo phái này. M ặc dầu đ ư ợc khuyến khích, Phật giáo dư ới thời kỳ phân liệt này vẫn không t ìm lại đ ư ợc vẻ huy h oàng của thời Lý và Trần, thậm chí có những lúc vì nhu cầu chiến tranh, chúa Trịnh tịc h thu chuông chùa đ ể lấy đồng đúc súng và tiền. Q uang ni ệm Tam giáo đồng nguy ên phát triển. Theo quan niệm này, cả ba tôi giáo Nho, Phật, Lão đ ều có cùng một nguồn gốc độc nhất. Từ đó, t ư tư ởng này thấm sâu vào dân chúng đ ể biến thành một dạng tôn giáo hỗn hợp, vay mư ợn từ mỗi tôn giáo một số lễ nghi để thờ cúng. * T hiên chúa giáo M ột tôn giáo mới xuất hiện tại Việt Nam v ào thời ấy là Thiên Chúa giáo. Trư ớc thời kỳ này đã có một số giáo sĩ Đại Việt truyền giáo, nhưng những hoạt động của họ không để lại dấu t ích gì quan tr ọng. Công cuộc truyền giáo thật sự trở n ên có h ệ thống chỉ từ năm 1615. Năm ấy, một số giáo sĩ t hu ộc d òng Tên đ ến Đ àng Trong xin giảng đạo và đư ợc chúa Nguyễn cho phép c ư ngụ tại Hội An. M ư ời năm sau, thấy công cuộc truyền giáp gặp đ ư ợc thuậ n lợi ở Đ àng Trong, các giáo s ĩ d òng Tên đ ến Đ àng Ngoài (1626) và c ũng đ ư ợc tiếp đón niềm nở. Trong số này có Alexandre de Rhodes. T uy th ế, việc hành đạo của tôn giáo mới này đi trái lại với một số phong tục cổ truyền chẳng hạn nh ư k hông chấp nhận việc thờ cúng T ổ ti ên, quan ni ệm tôn quân và các đ ạo lý của Nho giáo, vốn đã ă n sâu trong xã h ội Đại Việt. Sự quy tụ các giáo dân v à s ự phục t ùng truy ệt đối của họ vào những ng ư ời n goại quốc làm cho cả hai họ Trịnh Nguyễn lo sợ. V ì th ế hai nhà chúa đ ã hạn chế việc truy ền đạo và dần dần đi đến việc cấm đạo. A lexandre de Rhodes b ị trục xuất vào năm 1630. Vào năm 1643, Tr ịnh Tráng ra lệnh cấm đạo. Năm 1 663, Tr ịnh Tạc ban bố những điều giáo hóa phong tục cho to àn dân, trong đó có nhắc đến việc cấm "tà đ ạo". Năm 1696, T r ịnh Căn lại nhắc đến lệnh cấm đạo mà ông g ọi là đ ạo Hoa Lang. ở Đ àng Trong, chúa Nguy ễn cũng cấm đạo. Chúa Nguyễn có vài lần trục xuất các nhà truy ền giáo, n hưng không đ ến nỗi khắc khe vì chính các chúa đ ã dùng các nhà truy ền giáo làm thầy thuốc riêng, h oặc làm nhà thiên văn, nhà toán h ọc cho mình. Do đ ó, vi ệc cấm đạo tại Đ àng Trong không quá n ghiên khắc như Đàng Ngoài. D ù gặp phải nhiều khó khăn trong việc truyền đại, các giáo sĩ vẫn ki ên trì hoạt động và lần hồi đạo T hiên chúa tr ở thành một trong những t ôn giáo quan tr ọng của Việt Nam. 2. Văn h ọc
  19. Vào thời này dù có nhi ều cảnh chiến tranh, nh ưng n ền văn học vẫn phát triển. Các tác phẩm đ ư ợc vi ết bằng chữ Hán lẫn chữ Nôm. Đặc biệt chữ Nôm không những nhiều về số l ư ợng mà còn phong p hú v ề nội dung và hình thức. Một số thi x ã đ ư ợc hình thành như thi xã Bạch Vân với Nguyễn Bỉnh K hiêm ở H ải D ương vào cu ối thế kỷ 16, Chi êu Anh Các với Mạc Thi ên T ứ ở H à Tiên vào th ế kỷ 17. T hời này có một khuynh hư ớng văn học rất tích cực là vi ệc s ưu tầm và chép lại hoặc bằng chữ N ôm h oặc bằng chữ Hán các chuyện truyền khẩu trong dân gian, nhờ thế một số truyện dân gian đ ư ợc chép vào thời ấy còn truy ền đến ngày nay như truy ện "Thạch Sanh", "Truyền kỳ mạn lục", "Truyền k ỳ tân phả"... Văn h ọc chữ Hán rất phong phú với các tác phẩm Bạ ch Vân am tập của Nguyễn Bỉnh Khi êm, Phùng công thi tập, Mai lĩnh sứ hoa thi tập của Phùng Khắc Khoan, Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, C hinh Ph ụ ngâm của Đặng Trần Côn, Ngọ Phongvăn tập của Ngô Th ì S ĩ, Công dư ti ệp ký của Vũ P hương Đ ề, Tục Truyền kỳ của Đ oàn Thị Điểm, Ho àng Lê nhất thống chí của Ngô Gia văn phái, D ao đ ình s ứ tập của Hồ Dĩ Đống, Thư ợng kinh ký sự của L ê H ữu Trác, H à Tiên thập vịnh của Mạc T hiên T ứ và nhất là tác phẩm quan trọng của L ê Quý Đ ôn như Phủ bi ên t ạp lục, Vân Đ ài Loại ngử, K i ến văn t i ểu lục... Các tác phẩm bằng chữ Nôm cũng không kém phần phong phú, đặc biệt l à đ ã xuất hiện những truy ện dài chữ Nôm. Có thể kể một số tác phẩm bằng chữ Nôm thời ấy nh ư Ng ọa Long cương của Đ ào Duy T ừ, Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm, Cung oán ngậm khúc của Nguyễn Gia Thiều, C ung oán thi của Nguyễn Hữu Chính, Hoa ti ên truy ện của Nguyễn Huy Tự... Ngoài ra còn có nhi ều tác phẩm khuyến danh bằng chữ Nôm rất có giá trị nh ư Trê cóc, Trinh thử, Thạch Sanh, Phạm Tử N g ọc Hoa, Phạm Công Cúc hoa, Tống Trân Cúc Hoa , Quan Ânm th ị kính, Phan Trần, Nhị Độ mai, Bạch Vi ên Tôn Các... Các ca dao t ục ngữ, bài vè, chuy ện khôi hài, châm bi ếm chiếmmột số lư ợng quan trọng trong kho tàng văn h ọc dân gian. Các vua quan, thầy tu không chân chính, thầy bói... đều là những đối t ư ợng đ ể châm biếm đả kích... như trong các truy ện Trạng Quỳnh, Trạng Lợn... M ột số sách sử quan trọng đ ư ợc ra đời. Năm 1663, Trịnh Tạc cho viết tiếp cuốn "Đại Việt sử ký" của L ê Văn Hưu và Lê Qu ý Đôn t ừ 1533 đến 1662. Sau đó Trịnh Căn lại cho soạn tiếp cho đến 1 675. B ộ s ử tục biên này đư ợc khắc in vào năm Chính H òa th ứ 18 (1697). Đến đời Trịnh Sâm, cuốn sử n ày lại đ ư ợc tiếp tục từ 1676 cho đến 1775. Ngo ài ra còn có m ột số sách sử như Hoàng Lê ng ọc phổ, Trịnh gia th ế phả dùng đ ể đốn chiếu các ni ên đ ại, Đại Việt T hông s ử của L ê Quý Đ ôn, Đ ại Việt lịch triều đăng khoa lục của Nguyễn Hoàn, Vi ệt sử bị lãm của Nguyễn Nghiễm, Việt sử ti êu án của Ngô Thì S ĩ... Đặc biệt cuốn Thi ên Nam ngữ lục là quy ển sử đầu ti ên vi ết bằng thơ Nôm g ồm h ơn 8.000 câu lục bát đ ư ợc sáng tác dư ới đời Trịnh Căn. M ột sự kiện đáng chú ý dư ới thời này là s ự ra đời của chữ Quốc ngữ. Chữ Quốc ngữ ra đời cho một s ố giáo sĩ đạo Thi ên Chúa mu ốn cho việc truyền giáo đạt đ ư ợc kết quả, đ ã phiên ti ếng Việt bằng mẫu tự Latin quen thuộc của họ. Công phi ên chữ qu ốc ngữ này là của nhiều giáo sĩ, trong đó đáng kể là Alexandre de Rhodes đã hoàn thành b ộ tự điển "Việt - B ồ - L a" vào năm 1651. 3. Ngh ệ thuật C ũng như văn h ọc, nghệ thuật thời này phát tri ển mạnh mẽ dù b ối cảnh chiến tranh luôn luôn sẵn sàng phá hoại n hững tác phẩm t ài hoa.
  20. N gh ệ thuật đúc đồng tiến tới việc đúc những tác phẩm có kích th ư ớc to lớn. T ư ợng Trấn V õ b ằng đ ồng đen đ ư ợc chúa Trịnh cho đúc vào năm 1692 cao đ ến 3,28m, nặng gần 4 tấn. ở Đ àng Trong chúa Nguy ễn cũng cho đúc nhiều vạc đồng lớn, tron g s ố vạc đồng này có chi ếc nặng đến 1.588kg, đ ư ờng kính 2,2m, cao 1,48. Tr ên vạc có nhiều hình chạm nổi hoa lá đ ư ờng nét tinh vi phóng khoáng. N gh ệ thuật chạm khắc rất đi êu luy ện với các đề tài mang đậm tính dân gian như các cảnh sinh hoạt hàng ngày, chèo t huy ền, hái hoa, gánh con, bổ củi, làm xi ếc... (ở đ ình Tây Đ ằng, H à N ội). Đến giữa t h ế kỷ 18, cùng với việc xây dựng chùa chi ến, nghề chạm khắc c àng phát tri ển và càng đ ạt đến đỉnh cao của nghệ thuật. Chạm khắc đá cũng công phu, tinh xảo nh ư ở c hùa Ninh Phư ớc, bia Lam S ơn, b ia Nam Giáo. ở lăng của Nguyễn Điền (Bắc Ninh) xây năm 1769 th ì nh ững đ ư ờng nét trang trí lại mang tính chất kỹ hà h ọc, những đ ư ờng cong tr ư ớc đây đ ư ợc thay thế bằng những đ ư ờng thẳng. Các chữ, các cảnh đều đ ư ợc đóng khuông trong những ô vuông cân đ ối. N gh ệ thuật kiến trúc và điêu khắc đ ã có những công tr ình mang tính sáng t ạo độc đáo. Vào những năm Chính H òa (1680 - 1 705) chùa Hương Tích đư ợc xây dựng. Nhờ vào s ự hài hòa giữa kiến trúc và phong cảnh thi ên nhiên mà chùa Hương Tích đư ợc mệnh danh là "Nam Thiên đ ệ nhất động" (đ ộng đẹp nhất trời Nam). Một số chùa khác đư ợc xây dựng với qui mô lớn có giá trị về nghệ thuật ki ến trúc như chùa Bút Tháp (xây năm 1646) chùa Keo (th ế kỷ 16), chùa Tây Phương...
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2