THU HỒI CHI PHÍ: PHÍ NGƯỜI SỬ DỤNG
lượt xem 16
download
Người ta rất ít nghi ngờ về tính hữu dụng và đáng ao ước của các hệ thống thu phí dịch vụ công ích đô thị có cơ sở rộng đang ngày một tiến triển. Việc áp dụng các loại phí dịch vụ được thiết kế thích hợp hay, một cách tổng quát hơn, việc thu hồi chi phí dịch vụ đô thị từ những người thụ hưởng, có thể đóng góp cho việc cải thiện sự phân bổ nguồn lực bên trong nội bộ và giữa các khu vực thành thị. ...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: THU HỒI CHI PHÍ: PHÍ NGƯỜI SỬ DỤNG
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Coâng Thu hoài chi phí: Phí ngöôøi söû duïng Nieân khoùa 2005 – 2006 Baøi ñoïc THU HỒI CHI PHÍ: PHÍ NGƯỜI SỬ DỤNG Dịch từ nguyn bản Margaret Y. Myers, ed., “Cost Recovery: User Fees,” in Selected Readings in Urban Financial Resource Mobilization (Washington, D.C.: Economic Development Institute, World Bank, 9/1986), trang 1-60. TÓM TẮT Người ta rất ít nghi ngờ về tính hữu dụng và đáng ao ước của các hệ thống thu phí dịch vụ công ích đô thị có cơ sở rộng đang ngày một tiến triển. Việc áp dụng các loại phí dịch vụ được thiết kế thích hợp hay, một cách tổng quát hơn, việc thu hồi chi phí dịch vụ đô thị từ những người thụ hưởng, có thể đóng góp cho việc cải thiện sự phân bổ nguồn lực bên trong nội bộ và giữa các khu vực thành thị. Những chi phí như vậy nhằm mục đích giới hạn nhu cầu về các dịch vụ đô thị ở một mức hiệu quả và làm cho các cư dân và các công ty ở thành thị hiện tại và trong tương lai quan tâm đến chi phí mà xã hội phải gánh chịu. Hơn nữa, kinh nghiệm cho thấy, phí dịch vụ hay việc thu hồi chi phí, có thể tạo ra các khoản thu nhập đáng kể cho chính quyền các thành phố. Bởi vì các chi phí này liên quan trực tiếp với việc cung cấp và mở rộng các dịch vụ tối cần thiết, chúng là một nhân tố quan trọng trong việc đảm bảo khả năng tái tạo các chương trình đầu tư đô thị. Ngoài ra, phí dịch vụ có thể đóng góp vào sự tăng trưởng đô thị một cách bình đẳng theo nhiều cách: thứ nhất, qua việc thu hồi các chi phí của dịch vụ công ích từ người huởng lợi; công bằng theo nghĩa tính công bằng vẫn được duy trì, vì trong những trường hợp này những lợi ích “trời cho” được giảm thiểu tối đa. Trong thực tế, những lợi ích này thường được dành riêng cho những nhóm thu nhập cao hoặc dưới hình thức giá trị tài sản được tăng lên hoặc bằng cách hướng các khoản đầu tư vào những khu vực mà ở đó những nhóm có thu nhập cao hơn được hưởng lợi một cách trực tiếp nhất. Vì vậy, phí người sử dụng cũng nhằm mục đích gia tăng tính công bằng theo chiều dọc của hệ thống tài chính đô thị. Phí người sử dụng không chỉ là những công cụ nhằm đảm bảo việc sử dụng hiệu quả dịch vụ công ích; phí người sử dụng cũng có thể đóng vai trò hướng dẫn đầu tư, bởi vì khả năng sẵn sàng chi trả của người tiêu dùng đối với dịch vụ trong nhiều trường hợp là cách duy nhất để xác định lợi ích của một dịch vụ. Việc áp dụng phí dịch vụ, hay một cách tổng quát hơn, yêu cầu về việc thu hồi chi phí buộc các nhà hoạch định chính sách phải xem xét trước về khả năng và sự sẵn sàng của người thụ hưởng trong việc chi trả và thiết kế những tiêu chuẩn dịch vụ tương ứng. Trong nhiều trường hợp, việc trợ giá quá mức cho dịch vụ trong quá khứ đã góp phần vào việc áp đặt những tiêu chuẩn về dịch vụ đô thị cao đến mức phi thực tế. Qui tắc phổ biến nhất mà các nhà kinh tế đề nghị cho việc hướng dẫn các quyết định về việc định giá dịch vụ công ích là đặt giá bằng với chi phí biên tế. Việc xem xét lại khả năng áp dụng của qui tắc định giá trên chi phí biên tế đơn giản cho thấy rằng có ít nhất hai vấn đề - theo thứ tự - cần phải đề phòng: Thứ nhất, nhiều khía cạnh của dịch Margaret Y. Myers 1 Bieân dòch: Haûi Ñaêng Hieäu ñính: Phan Hieån Minh vaø Nhoùm coäng taùc
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Coâng Thu hoài chi phí: Phí ngöôøi söû duïng Baøi ñoïc vụ, bao gồm việc sử dụng, tiếp cận và định vị nên được đưa vào quá trình định giá nếu qui tắc là nhằm phục vụ mục tiêu phân bổ nguồn lực hiệu quả. Ví dụ, phí cung cấp nước có thể được cấu trúc nhằm bao gồm ba mục đích sau đây: người thụ hưởng với quyền chọn sử dụng dịch vụ cấp nước theo cách kết nối vào đường ống chính của một khu vực có thể trả tiền; (a) thuế tài sản theo khu vực cụ thể hay phí phát triển, được thiết kế nhằm thu hồi chi phí của việc xây dựng đường ống và các chi phí vốn khác thuộc hệ thống; (b) phí định kỳ hàng tháng nhằm chi trả cho chi phí kết nối - sự nối kết từ đường ống chính vào từng nhà, cũng như là việc đo lường khối lượng nước tiêu thụ và tính phí; và (c) phí sử dụng nước liên quan đến sự tiêu thụ thực tế nhằm thu hồi chi phí biên tế của việc cung cấp nước cho người sử dụng. Thứ hai, qui tắc này cần được chỉnh sửa để có thể xem xét đến các ngoại tác, sự biến dạng thị trường, hay thông tin không hoàn hảo về người tiêu dùng; các mục đích quan trọng khác, bên cạnh hiệu quả, như là khả năng tồn tại, sự công bằng và tính hợp lý; và những hạn chế về thể chế và chính trị. Ví dụ, người ta có thể đồng thời xem xét tính hợp lý và ngoại tác để đưa vào loại phí được gọi là “life-line” (“mức phí tối thiểu”), theo đó việc sử dụng một khối lượng dịch vụ nhỏ có thể chỉ trả phí thấp hơn chi phí biên tế. Vì vậy, những người tiêu dùng nhỏ có thể sử dụng dịch vụ mà không phải gánh chịu một gánh nặng tài chính quá mức. Cùng lúc đó, thu nhập cao hơn so với trợ cấp, mà ví dụ được tạo ra bằng cách áp dụng mức phí cao hơn chi phí biên tế hay phí nối kết đối với người tiêu dùng lớn hơn hay giàu có hơn, đảm bảo khả năng tồn tại về mặt tài chính của hệ thống phí. Phương pháp này đã được áp dụng thành công trong việc tài trợ cho hệ thống cung cấp nước đô thị tại một số nước châu Mỹ La-tinh. Mặc dù có những sự tiên liệu và điều chỉnh đối với việc sử dụng qui tắc định giá chi phí biên tế đơn giản cũng như những khó khăn về mặt hoạt động trong việc áp dụng qui tắc này đối với một số dịch vụ công ích, qui tắc này cung cấp cho ta điểm khởi đầu tốt trong việc phân tích hệ thống phí; những sự cải tiến sau đó có thể được áp dụng đối với từng dịch vụ khác nhau, có quan tâm đến nơi thực hiện dịch vụ. Một khi một cơ cấu định giá hữu hiệu được quyết định, ta có thể khám phá ra những ý nghĩa về tài chính và sự hợp lý của cơ cấu đó và mức độ mà cơ cấu này hoạt động ngược lại với những tiêu chuẩn thể chế đã được xác lập. Nếu những ý nghĩa này đủ tiêu cực thì những điều chỉnh đối với cơ cấu định giá, vẫn chú ý đến yêu cầu tối thiểu hóa chi phí cho những điều chỉnh như vậy xét về mặt tổn thất tính hiệu quả, là cần thiết. Thường thì những mục tiêu chính sách khác nhau có ít mâu thuẫn hơn so với ban đầu, đặc biệt là khi có thể áp dụng các mức phí nhiều phần như đã đề cập ở trên. Thông lệ phổ biến của việc bắt đầu phân tích về phí người sử dụng với sự chú ý đến các mục tiêu khác thay vì mục tiêu tính hiệu quả hầu như lúc nào cũng có nghĩa là bỏ qua những xem xét về tính hiệu quả. Kết quả là tạo ra một sự tổn thất về tính hiệu quả lớn hơn mong muốn - một kết quả mà các nước đang phát triển, với mức thu nhập thấp, khó có thể chịu đựng được. Margaret Y. Myers 2 Bieân dòch: Haûi Ñaêng Hieäu ñính: Phan Hieån Minh vaø Nhoùm coäng taùc
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Coâng Thu hoài chi phí: Phí ngöôøi söû duïng Baøi ñoïc THU HỒI CHI PHÍ Bài của David A. Grossman Nhiều loại dịch vụ mà các thành phố cung cấp, xét về bản chất, phải sẵn sàng được cung cấp cho phần đông dân chúng. Ví dụ, dịch vụ an toàn công cộng như phòng cháy hay cảnh sát rõ ràng phải được cung cấp theo yêu cầu. Tuy nhiên, các dịch vụ công ích khác, có sự tương đồng gần hơn với các hoạt động thị trường tư nhân mà ở đó người ta có thể truy ra tất cả (hay hầu hết) lợi nhuận trực tiếp đến với một cá nhân, hộ gia đình hay doanh nghiệp nào đó. Một ví dụ về loại hình dịch vụ này là dịch vụ cung cấp nước; chúng ta có thể đo lường được khối lượng nước cung cấp cho bất cứ hộ gia đình nào, hoặc qua đồng hồ nước, hay đại khái hơn, qua bản chất mà dịch vụ này được cung cấp (ví dụ như là kích cỡ đường ống). Thường thì hai loại khác nhau của dịch vụ công ích này được xem như “hàng hóa công cộng” và “hàng hóa cá nhân”. Người ta thường chấp nhận rằng phần đông dân chúng nên trả cho việc sử dụng hàng hóa công cộng thông qua hệ thống thuế nói chung. Ngược lại, dường như cách thích hợp hơn đối với dịch vụ của loại hàng hóa cá nhân là người thụ hưởng dịch vụ phải trả tiền cho dịch vụ đó. Trong thực tế, dĩ nhiên đôi khi rất khó rút ra sự phân biệt rõ ràng, đặc biệt là khi một hàng hóa cá nhân thiết yếu cũng là một nhu cầu cơ bản. Đây thậm chí cũng là trường hợp của dịch vụ cung cấp nước, khi mà việc tiếp cận một lượng cung cấp tối thiểu phải được đảm bảo cho tất cả mọi người dân, thậm chí ngay cả khi dân chúng quá nghèo đến nỗi không có tiền trả cho toàn bộ chi phí của việc sử dụng nước này. Khái niệm thu hồi chi phí áp dụng với những dịch vụ công ích của một bản chất “hàng hóa cá nhân” mà qua đó phí có thể được áp dụng nhằm thu hồi tối thiểu một phần quan trọng chi phí của dịch vụ. Có thể có luận cứ tích cực ủng hộ cho việc thu hồi chi phí: - Thu hồi chi phí có thể làm tăng tính công bằng bằng cách giúp cho việc khẳng định rằng người tiêu dùng một dịch vụ là người trả tiền cho dịch vụ đó, tối thiểu là ở một mức độ mà người tiêu dùng có khả năng thực hiện điều này. - Việc thu hồi chi phí có thể làm tăng tính hiệu quả bởi vì nếu biết rằng phải trả cho một hàng hóa công cộng khan hiếm, người tiêu dùng thường sẽ cẩn trọng hơn trong việc sử dụng dịch vụ đó. Khi người ta chỉ có thể sản xuất những lượng hàng hóa hay dịch vụ vừa đủ để đáp ứng nhu cầu của một phần dân chúng, thì việc đánh thuế lên việc sử dụng hàng hóa hay dịch vụ đó là một phương thức thực tế cho việc hạn chế sử dụng. - Ở mức độ mà việc thu hồi toàn bộ chi phí, bao gồm cả chi phí vốn có thể đạt được, một thành phố sẽ có thể hoàn trả lại bất cứ khoản nợ nào mà thành phố này có thể phải gánh chịu cho việc xây dựng dịch vụ, do dó nó sẽ có vị thế tốt để có thể vay mượn lại cho việc mở rộng hệ thống dịch vụ trong tương lai. Theo cách này, thu hồi chi phí làm cho việc mở rộng dịch vụ công ích - lẽ ra đã nằm ngoài khả năng tài chính của một thành phố - có thể thực hiện được. Dịch vụ phải chịu thu hồi chi phí Margaret Y. Myers 3 Bieân dòch: Haûi Ñaêng Hieäu ñính: Phan Hieån Minh vaø Nhoùm coäng taùc
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Coâng Thu hoài chi phí: Phí ngöôøi söû duïng Baøi ñoïc Nhiều dịch vụ đô thị phải chịu thu hồi chi phí ít ra là về mặt lý thuyết. Trong thực tế, mức độ mà nguyên tắc này được áp dụng thay đổi đáng kể. Các dịch vụ và hoạt động công ích phổ biến nhất trên giác độ thu hồi chi phí toàn bộ hay một phần bao gồm: - Cung cấp và thoát nước (xử lý nước thải). - Nhà ở công cộng. - Các doanh nghiệp công ích (ví dụ như lò mổ, lò thiêu…) Ngoài ra, có nhiều dịch vụ mà việc thu hồi một phần chi phí được cho là khả thi và thích hợp đối với một số thành phố. Những dịch vụ này gồm có: - Giáo dục (kể cả cấp trung học cơ sở và cấp cao hơn). - Dịch vụ y tế. - Đường xá và hệ thống chiếu sáng đường xá. - Thu gom và xử lý chất thải rắn. Một cách khác đối với việc cung cấp công cộng và thu hồi chi phí theo nhiều loại hình dịch vụ đề cập ở trên là trực tiếp cung cấp các dịch vụ đó thông qua thị trường tư nhân. Chọn lựa này được thảo luận trong phần sau của mô-đun này dưới tiêu đề “tư nhân hóa”. Thu hồi chi phí có thể chiếm một phần quan trọng trong thu ngân sách địa phương, như trong bảng 1. Trong khi tỷ lệ thu ngân sách địa phương được tài trợ thông qua thu hồi chi phí (hay phí người sử dụng) là khá thấp ở hầu hết các thành phố, thì tỷ lệ này lên đến 35 đến 50% tổng thu ngân sách của các thành phố Ấn Độ như Ahmedabad hay Bombay. Đạt được việc thu hồi chi phí Một khi một thành phố đã quyết định rằng một dịch vụ công ích cụ thể phải chịu thu hồi chi phí, thì các bước tiếp theo là quyết định mức thu hồi chi phí nhắm đến, ai là người phải chi trả thanh toán chi phí và cách thức mà hệ thống chi trả vận hành. Dưới đây là những lựa chọn. Mức thu hồi chi phí được nhắm đến có ba dạng chính: thu hồi toàn bộ, thu hồi ít hơn hay cao hơn mức thu hồi toàn bộ. Với những tình huống khác nhau thì bất cứ một trong ba hình thức vừa kể đều có thể thích hợp. Thu hồi chi phí toàn bộ tự bản thân nó có thể được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, với những biến dạng chính là: loại chi phí vốn cũng như là chi phí hoạt động và duy trì nào phải chịu thu phí; tất cả chi phí quản lý và chi phí hành chánh sẽ được thu phí hay không, bao gồm cả chi phí của đội ngũ nhân viên thành phố đã hưởng lương từ trung ương; và phí sẽ được thu xét theo chi phí trung bình, hay chi phí biên tế hoặc chi phí phục vụ một nơi cụ thể. Margaret Y. Myers 4 Bieân dòch: Haûi Ñaêng Hieäu ñính: Phan Hieån Minh vaø Nhoùm coäng taùc
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Coâng Thu hoài chi phí: Phí ngöôøi söû duïng Baøi ñoïc Bảng 1 - Tỷ lệ phần trăm đóng góp của phí người sử dụng đối với việc tài trợ cho chi tiêu của chính quyền địa phương tại một số thành phố Phần trăm chi tiêu công địa phương được tài trợ bởi phí người sử dụng Thành phố (quốc gia) Năm Phrăng-xít-tao (Bốt-xơ-wa-na) 1972 56,1 Lu-xa-ka (Zăm-bi-a) 1972 36,9 Kit-uy (Zăm-bi-a) 1975 53,1 A-mê-đa-bát (Ấn Độ) 1970-71 41,8 Bom-bay(Ấn Độ) 1970-71 38,7 Ma-đrát(Ấn Độ) 1975-76 3,7 Gia-các-ta (In-đô-nê-xi-a) 1972-73 15,2 Ka-ra-chi (Pa-ki-xơ-tan) 1974-75 2,2 Xơ-un (Hàn Quốc) 1971 36,3 Ma-ni-la (Phi-líp-pin) 1970 10,0 La-Pa (Bô-li-vi-a) 1975 3,6 Ri-ô đờ Gia-nây-rô (Bra-xin) 1967 7,2 Bô-gô-ta (Cô-lôm-bi-a) 1972 48,5 Ca-li (Cô-lôm-bi-a) 1974 57,5 Các-tê-ga-ma (Cô-lôm-bi-a) 1972 42,3 King-xơ-tơn (Gia-mai-ca) 1971-72 2,7 Thành phố Mê-hi-cô (Mê-hi-cô) 1968 5,2 Va-len-xi-a (Vê-nê-zu-ê-la) 1968 13,4 Tuy-ni-dơ (Tuy-ni-di) 1972 7,1 Bình quân (không có trọng số) 19,3 Trung vị 7,2 Nguồn: Bahl và Lim (sắp xuất bản), được trích dẫn trong Linn, 1983. - Đầu tư vốn chiếm một phần quan trọng trong chi phí của nhiều dịch vụ công ích. Đây đặc biệt là trường hợp của dịch vụ cấp thoát nước. Nếu một thành phố quyết định đưa chi phí vốn vào cơ cấu chi phí của nó, trong số các chọn lựa khả dĩ có thể thực hiện là rằng chi phí vốn có nên được đưa vào theo cơ sở hiện tại hay quá khứ (bởi vì sự thay thế tương lai đối với những cơ cấu lỗi thời hầu như luôn luôn có phí tổn nhiều hơn đáng kể so với chi phí trong quá khứ của chúng). Các quyết định khác cần được thực hiện có liên quan đến chi phí vốn là lãi suất nào được sử dụng đối với những cơ cấu tài trợ nợ và rằng có nên đưa vào chi phí khấu hao cũng như là phí trả lãi nợ vay vay hay không. Tùy thuộc vào việc thực hiện chọn lựa nào mà mức phí có thể thay đổi rất lớn. - Chi phí hành chánh và chi phí phụ thường không quan trọng như chi phí vốn. Tuy nhiên, trong một số trường hợp chúng cũng rất quan trọng. Ví dụ, những quyết định về việc nên phục hồi bao nhiêu cơ sở hạ tầng hỗ trợ có liên quan đến việc phát triển xây dựng nhà ở công cộng có thể có tác động đáng kể đến mức phí áp dụng cho các cư dân. - Từ quan điểm của nhà kinh tế, phí dịch vụ nên được tính toán ở mức biên tế hơn là mức trung bình nhằm xét đến sự kiện là việc mở rộng trong tương lai của hệ thống dịch vụ sẽ phải được chi trả theo chi phí biên tế áp dụng tại thời điểm mở rộng. Margaret Y. Myers 5 Bieân dòch: Haûi Ñaêng Hieäu ñính: Phan Hieån Minh vaø Nhoùm coäng taùc
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Coâng Thu hoài chi phí: Phí ngöôøi söû duïng Baøi ñoïc - Một lựa chọn khác cần thực hiện là việc những người thụ hưởng mà việc phục vụ họ đặc biệt tốn kém (ví dụ như một vài nhà trên đỉnh một ngọn đồi) có nên được yêu cầu phải trả lại chi phí phát sinh thêm cho việc phục vụ họ hay không hay điều này nên được áp dụng rộng khắp cho mọi người tiêu dùng. Các thành phố có thể quyết định việc thu hồi chi phí thấp hơn chi phí toàn bộ bởi vì người ta tin rằng một bộ phận nào đó của mọi hệ thống thuế là hàng hóa công cộng. Ví dụ, những lợi ích y tế cộng đồng nói chung tạo ra từ việc cung cấp nước máy có tác động đến toàn bộ cộng đồng. Ngược lại, một số dịch vụ phải chịu mức phí cao hơn việc thu hồi chi phí toàn bộ. Một ví dụ là một bãi đậu xe công cộng tại một khu vực đông đúc giữa trung tâm thành phố. Một nơi như vậy có thể tạo ra lợi nhuận mà có thể giúp thành phố chi trả cho việc sửa chữa các con đường trong thành phố. Việc bán các khoảng đất dư thừa trong một thành phố là một trường hợp khác mà ở đó việc thu hồi lớn hơn chi phí toàn bộ có thể là một mục tiêu có giá trị. Vấn đề nhiều người nghèo đang sống tại các thành phố các nước đang phát triển đã làm dấy lên một cách trực tiếp nhất vấn đề người nào phải trả phí đối với dịch vụ “hàng hóa cá nhân”. Những dịch vụ như là cung cấp nước, điện và vận tải công cộng có tầm quan trọng lớn đối với những cư dân nghèo thành thị nhưng họ thường không có khả năng chi trả cho toàn bộ chi phí của dịch vụ. Có ít nhất hai cách có thể xác định vấn đề này, và hai cách này có thể được sử dụng riêng lẻ hay kết hợp. - Đảm bảo việc cung cấp một lượng cơ bản dịch vụ với chi phí tối thiểu có thể đáp ứng các nhu cầu cơ bản của người nghèo với chi phí thấp nhất. Ví dụ, trong hệ thống cung cấp nước, dịch vụ ống nước đứng có thể được cung cấp thay vì là nước máy vào được dẫn trực tiếp vào từng nhà dân. Nhìn chung, việc thu phí đối với dịch vụ ống đứng là không khả thi; vì thế, chi phí này sẽ do thành phố (thông qua nguồn thu ngân sách chung) hay những người tiêu dùng khác gánh chịu. - Chi phí dịch vụ cho người tiêu dùng nghèo khó có thể được bù đắp thông qua việc “trợ giá chéo”. Theo phương thức này, những người sử dụng giàu có hơn phải chịu mức phí cao hơn chi phí toàn bộ nhằm làm cho việc thu phí ít hơn đối với người nghèo trở thành khả thi. Trợ giá chéo đã được sử dụng thành công đối với hệ thống cung cấp nước, các công trường xây dựng và dự án dịch vụ và các dịch vụ công ích khác có nhắm đến việc thu hồi chi phí. Hoạt động của một hệ thống thu hồi chi phí có liên quan đến các quyết định hành chính cũng như đến cơ chế tính và thu phí sẽ được sử dụng. Hai ý kiến chính mà đã được áp dụng là tính phí trực tiếp người tiêu dùng và một phương thức ít trực tiếp hơn liên quan đến tính phụ phí đối với thuế tài sản. Hệ thống thu phí trực tiếp đòi hỏi việc giải chuyển các quyết định ở mức thu hồi chi phí và trợ giá chéo thành một loại phí hướng đến cá nhân người tiêu dùng. Việc thiết lập hệ thống thu phí có thể là một nhiệm vụ hành chánh phức tạp, đặc biệt là trong trường hợp một hệ thống cung cấp nước công cộng mà phải đo lường khối lượng dịch vụ tiêu dùng (hoặc thông qua đồng hồ nước hay các tính toán dựa trên kích cỡ dịch vụ). Hệ thống thu phí mà có thể thuyết phục người tiêu dùng chi trả một cách hiệu quả cũng quan trọng nhưng việc thực hiện được quả không dễ dàng chút nào. Khả năng chấm dứt dịch vụ cũng ảnh hưởng đến khả năng thu phí, mà thường cao trong trường hợp cung cấp điện nhưng không dễ dàng như vậy đối với việc cung cấp nước. Một số Margaret Y. Myers 6 Bieân dòch: Haûi Ñaêng Hieäu ñính: Phan Hieån Minh vaø Nhoùm coäng taùc
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Coâng Thu hoài chi phí: Phí ngöôøi söû duïng Baøi ñoïc hình thức dịch vụ sẵn sàng hơn cho việc phí. Ví dụ, lệ phí xe buýt, phí đậu xe, và lệ phí môn bài có thể được thu trước như là một điều kiện đảm bảo của dịch vụ. Một cách khác mà trong một số tình huống dễ dàng hơn cho người quản lý là thu phí đối với những dịch vụ như là cung cấp điện, khí đốt, nước, thoát nước thông qua một mức phụ phí đối với thuế tài sản. Giả định về cơ sở của những loại phí như vậy là rằng việc định giá tài sản phản ảnh thu nhập thương mại hay của hộ gia đình. Thu nhập, đến lượt mình, sau đó được đảm bảo nhằm phản ảnh mức tiêu dùng dịch vụ khả dĩ. Dĩ nhiên, để cho công bằng thì không có phụ phí nào đánh vào vùng lân cận mà dịch vụ không được cung cấp; điều này sẽ làm phức tạp thêm cho quá trình thu phí. Việc phụ thuộc vào phương pháp phụ phí đơn giản hóa một số khía cạnh của hệ thống thu hồi chi phí, nhưng điều này không giúp giải quyết các khía cạnh khác. Một mặt, nó có khuynh hướng chấp nhận gánh nặng mà bất cứ thiếu sót nào mà hệ thống thuế tài sản chứa đựng ví dụ như là những tài sản không nằm trong danh sách, các tài sản được định giá một cách không công bằng, việc một số chủ sở hữu tài sản không chi trả thuế …Mặt khác, các loại phí có liên quan đến tài sản có thể trở nên bị hạn chế bởi cùng một vấn đề giống như thuế tài sản, đặc biệt là các ảnh hưởng bóp méo của luật kiểm soát tiền thuê. Ở mặt tích cực, ở mức độ mà ảnh hưởng của thuế tài sản địa phương là mang tính lũy tiến trong tác động của nó đến người trả thuế, các hệ thống thu hồi chi phí có liên quan đến thuế tài sản có thể hưởng lợi từ ảnh hưởng này. Các vấn đề đối với việc thu hồi chi phí Thu hồi chi phí là hợp lý toàn về nguyên tắc và, trong nhiều biến dạng khác của nó, đã chứng tỏ cũng hợp lý không kém trong thực tiễn. Các thành phố trong nhiều nước đang phát triển, hay các tổ chức doanh nghiệp công ích riêng biệt mà cung cấp các dịch vụ như cung cấp điện, nước có thể tạo ra những nguồn thu đáng kể qua việc sử dụng phí thu hồi chi phí. Mặc dù có một thực tiễn nói chung là tích cực, thách thức trong việc cải thiện và mở rộng các phương pháp thu hồi chi phí vẫn rất lớn. Một số các vấn đề chính yếu cản trở quá trình tiến bộ này là: - Việc duy trì mức phí. Ngay cả khi các mức phí xấp xỉ với thu hồi chi phí toàn bộ đã được thiết lập lúc bắt đầu thì trong nhiều trường hợp rất khó điều chỉnh các mức phí này nhằm đưa vào nhân tố lạm phát và các nhân tố làm gia tăng chi phí khác. Khi các mức phí thấp được thiết lập ban đầu nhằm tránh các vấn đề chính trị, việc nâng các mức phí này lên sau này thường cực kỳ khó khăn. Hơn nữa, các phí liên quan đến thuế tài sàn thường phải chịu cùng những vấn đề mà đã gây phiền toái cho hệ thống thuế địa phương, bao gồm cả những vấn đề do ảnh hưởng của việc kiểm soát tiền thuê. - Những phức tạp về mặt hành chánh. Liên quan đến hệ thống cung cấp nước (mục tiêu thu hồi chi phí chủ yếu ở nhiều thành phố), đôi khi việc đo lường mức độ dịch vụ một cách chính xác là khó khăn do những vấn đề như là đồng hồ nước không hoạt động, ăn cắp dịch vụ hay hệ thống lưu trữ yếu kém. Người ta khó có thể thiết lập cả hai thông lệ tính phí và thu phí một cách hiệu quả. Hơn nữa, những khó khăn chính trị nghiêm trọng thường cản trở việc ngưng cung cấp dịch vụ cho những người không trả tiền. - Sự phản đối chính trị. Mặc dù có những luận cứ của các nhà kinh tế về tính hợp lý của việc thu hồi chi phí dịch vụ từ những người hưởng thụ, áp lực cộng Margaret Y. Myers 7 Bieân dòch: Haûi Ñaêng Hieäu ñính: Phan Hieån Minh vaø Nhoùm coäng taùc
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Coâng Thu hoài chi phí: Phí ngöôøi söû duïng Baøi ñoïc đồng nhằm duy trì các dịch vụ công ích “miễn phí” vẫn luôn dai dẳng. Nỗi bật trong số những người luận cứ cho trường hợp này thường là những cư dân có mức thu nhập trung bình và cao, những người có khuynh hướng là người hưởng thụ những khối lượng dịch vụ hạn chế mà các thành phố ở các nước đang phát triển cung cấp. Nhưng bởi vì ảnh hưởng mà họ có thể gây áp lực, những luận cứ của họ - về cơ bản tạo ra một trường hợp trợ giá cho người giàu được ngụy trang – có ảnh hưởng mạnh tại một số thành phố. Margaret Y. Myers 8 Bieân dòch: Haûi Ñaêng Hieäu ñính: Phan Hieån Minh vaø Nhoùm coäng taùc
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Coâng Thu hoài chi phí: Phí ngöôøi söû duïng Baøi ñoïc CHƯƠNG HAI TÀI TRỢ CHO SỰ TĂNG TRƯỞNG NGÀNH, CÁC MỤC TIÊU TÀI CHÍNH/PHÍ THÍCH HỢP ĐỐI VỚI DỊCH VỤ CẤP THOÁT NƯỚC Giới thiệu 2.01. Việc cung ứng đầy đủ lượng nước an toàn và các cơ sở thích hợp cho việc xử lý chất thải của con người hiện chỉ sẵn có cho ít hơn 50% dân số thành thị và ít hơn 20% dân số nông thôn tại các nước đang phát triển, theo những ước lượng tính toán cho báo cáo năm 1980 của Ngân hàng Thế giới có tựa đề “Cung cấp nước và xử lý chất thải”. Số lượng người có khả năng tiếp cận được hệ thống cung cấp nước công cộng đã gia tăng từ những năm 1970 ở mức độ cao hơn một chút so với tốc độ tăng dân số nói chung, nhưng nhiều hệ thống hiện hữu trong cùng thời điểm đã xuống cấp nhanh chóng về chất lượng và độ an toàn của nguồn cung cấp. Những sự thiếu hụt về cung cấp nước và xử lý chất thải là những nhân tố chính, đôi khi góp phần vào và đôi lúc đóng vai trò quan trọng trong tỷ lệ tử vong và tỷ lệ mắc bệnh cao tại các nước đang phát triển. Vì lý do đó, tác động bất lợi lên năng suất và tiềm năng phát triển con người là rất đáng kể. 2.02. Ngoài nhu cầu ăn, uống, giặt giũ của con người thì nước sạch cũng là một yếu tố đầu vào chính yếu trong các hoạt động sản xuất và thương mại, mà thường chiếm 10-40% lượng nước tiêu thụ tại các khu vực đô thị của các nước đang phát triển. Việc quản lý chất thải công nghiệp là một khía cạnh quan trọng khác. 2.03. Khả năng tiếp cận dịch vụ cấp thoát nước nên sẵn có cho toàn bộ dân số của một thành phố/trị trấn hay một khu vực nông thôn cả về nền tảng công bằng xã hội lẫn những hệ quả sức khỏe có thể có. Tác động tiêu cực về sức khỏe đối với cộng đồng khi việc thu hồi thích hợp không hiện hữu có cả ý nghĩa về kinh tế lẫn xã hội. Vì vậy, có một yêu cầu cung cấp một dịch vụ cơ bản cho toàn bộ dân số, với sự nhận thức đúng đắn về các mức dịch vụ khác nhau mà những nhóm người sử dụng khác nhau đòi hỏi. Những cản ngại phổ biến 2.04. Sự khan hiếm các nguồn lực tài chính đã là một nhân tố cản ngại chính yếu trong khả năng của các đơn vị cấp thoát nước trong việc cung cấp các dịch vụ và cơ sở thích hợp nhằm đáp ứng việc tiếp cận được cải thiện, sự tăng trưởng nhu cầu và các mức dịch vụ cao hơn. Cũng có những cản ngại khác: các thể chế không hiệu quả, sự thiếu vắng đội ngũ nhân viên được đào tạo tương xứng và việc sử dụng công nghệ không thích hợp. Sự yếu kém trong sức mạnh thể chế thường được gắn liền một cách chặt chẽ với sự kém hiệu quả về tài chính và hoạt động của các đơn vị cung cấp dịch vụ và chính sách thu hồi chi phí không thích hợp. 2.05. Hai cách tiếp cận chính sẵn có tại các nước đang phát triển trong việc cải thiện tình hình này là: cách thứ nhất chủ yếu tập trung vào việc cung cấp các quỹ của chính phủ nhằm cải tiến và mở rộng dịch vụ, cách kia tạo ra nỗ lực củng cố hiệu quả tài chính của các công ty cung cấp dịch vụ cấp thoát nước thông qua việc áp dụng chính sách thu hồi chi phí/phí và chính sách tài chính thích hợp và tối thiểu hóa các quỹ mà chính phủ cung cấp. Các cách tiếp cận khác được thảo luận dưới đây. Margaret Y. Myers 9 Bieân dòch: Haûi Ñaêng Hieäu ñính: Phan Hieån Minh vaø Nhoùm coäng taùc
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Coâng Thu hoài chi phí: Phí ngöôøi söû duïng Baøi ñoïc Dịch vụ có nên miễn phí? 2.06. Một câu hỏi có thể được đưa ra là liệu việc cung cấp dịch vụ cấp thoát nước không nên là “những dịch vụ xã hội miễn phí” hay nên, những nhu cầu về các quỹ vừa nhắc đến ở trên được chính phú đáp ứng hoàn toàn (thuật ngữ chính phủ bao gồm cả các cơ quan địa phương ví dụ như các doanh nghiệp của thành phố). Đôi khi người ta nhắc lại một truyền thống là nước được xem như một hàng hóa “công cộng”. Tuy nhiên, người ta càng ngày càng nhận ra rằng việc cung cấp “dịch vụ” cấp thoát nước là một vấn đề rất khác với việc đơn thuần nhìn nhận sự tồn tại của một “nguồn” nước cho việc sử dụng. Những chi phí quan trọng có liên quan đến việc phát triển nguồn, xử lý và phân phối nước, và việc cung cấp các cơ sở xử lý nước thải. Những đòi hỏi “chất lượng”, mà rất quan trọng, làm gia tăng những chi phí này hơn nữa. Câu hỏi là bằng cách nào mà những chi phí này được phân phối tốt nhất, bao nhiêu chi phí có thể thu hồi được thông qua phí người sử dụng và bao nhiêu chi phí mà chính phủ hay xã hội nói chung có thể đáp ứng được và trong những điều kiện nào. 2.07. Thật hợp lý và công bằng khi mong đợi người sử dụng dịch vụ phả trả tiền cho việc sử dụng chúng. Việc cung cấp nước miễn phí trong thực tế sẽ tạo ra dịch vụ tốt cho những người may mắn và chẳng có gì cả cho số còn lại. Hơn nữa, nếu dịch vụ là miễn phí, nhu cầu không bị cản trở bởi phí người sử dụng hợp lý và điều này có khuynh hướng dẫn đến việc sử dụng lãng phí và làm gia tăng chi phí đi kèm với các nguồn nước ở xa và/hoặc chi phí xử lý. Gánh nặng đối với ngân nguồn thu ngân sách chung vì vậy sẽ trở nên ngày càng lớn và gia tăng theo thời gian. Ngân sách chính phủ, đặc biệt là tại các nước đang phát triển là rất hạn chế và phải đối mặt với sự cạnh tranh của nhiều nhu cầu khác. Do đó, việc gia tăng phân bổ ngân sách cho dịch vụ cấp thoát nước sẽ tạo ra những gánh nặng đối với chính phủ, mà thường rất khó chịu đựng. Trong những thời điểm áp lực tài chính, thật dễ dàng về mặt chính trị cho các chính phủ trong việc cắt hay làm chậm lại sự tăng trưởng của các quỹ hỗ trợ công ích, bởi vì tác động toàn bộ của những sự cắt giảm như thế thường không rơi vào một vài năm hay một vài tháng. Công ty chịu trách nhiệm cung cấp dịch vụ sẽ thấy rằng bản thân mình phải phụ thuộc vào những thay đổi thất thường của tình hình ngân sách chính phủ nói chung mà hoàn toàn ngoài tầm kiểm soát của họ. Việc phân bổ nguồn lực thường sẽ bị tác động mạnh bởi các nhân tố có động cơ chính trị mà không mang lại hiệu quả kinh tế dài hạn. Điều này có một tác động tiêu cực đến sự tự quản trong hoạt động và tính hiệu quả của đơn vị cung ứng trong việc cung cấp mức dịch vụ tin cậy và nhất quán. 2.08. Mặt khác, một đơn vị có thể thu phí cho dịch vụ của mình và có những mục tiêu tài chính thích hợp ắt phải có sự độc lập về tài chính thích hợp; kỷ luật tài chính cần thiết cho việc đáp ứng những mục tiêu của mình sẽ đóng góp cho hiệu quả hoạt động của đơn vị. Một đơn vị như vậy ắt có những nguồn ngân quỹ đáng tin cậy và có thể dự đoán được. Nhu cầu dịch vụ sẽ bị ảnh hưởng và quyết định bởi giá cả hay phí mà người sử dụng phải trả. Những người sử dụng phải trả các mức phí ngày càng tăng khi chi phí tăng lên có khuynh hướng đòi hỏi trách nhiệm đối với chi phí tốt hơn từ phía công ty cung cấp dịch vụ và vì vậy, khuyến khích tính hiệu quả. Gánh nặng đối với nguồn thu ngân sách chính phủ sẽ được giảm đi và khả năng tái tạo và mở rộng của dịch vụ sẽ được khuyến khích. Vì vậy khi xem xét các nhân tố này, việc các công ty cung cấp dịch vụ cấp thoát nước tạo được nguồn thu thông qua mức phí thích hợp và là những thể chế có thể đứng vững với quyền tự quản và năng lực quản lý và kỹ thuật thích hợp là một chính sách tốt. Margaret Y. Myers 10 Bieân dòch: Haûi Ñaêng Hieäu ñính: Phan Hieån Minh vaø Nhoùm coäng taùc
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Coâng Thu hoài chi phí: Phí ngöôøi söû duïng Baøi ñoïc Các nhân tố chính trong việc phát triển các mức thuế 2.09. Bốn sự xem xét có liên quan đến việc quyết định mức phí đối với dịch vụ cấp thoát nước: (a) Các khía cạnh tài chính – nhu cầu, mục tiêu, vv. (b) Các khía cạnh kinh tế của tính hiệu quả trong sản xuất/phân phối và sử dụng, các nguyên tắc thu hồi chi phí; (c) Khả năng đáp ứng - đặc biệt là đối với người sử dụng có thu nhập thấp; (d) Tính đơn giản; sự dễ dàng về mặt hành chính; tính công bằng. Những khía cạnh này mà đôi khi đặc trưng cho những mục tiêu mâu thuẩn nhau cần phải được hài hòa và được thảo luận sâu hơn trong chương này. Các mục tiêu tài chính - Những nhu cầu 2.10. Một nhân tố quan trọng hàng đầu trong việc thiết lập mức phí là khía cạnh tài chính. Điều này liên quan đến việc xem xét điều mà sẽ là những mục tiêu tạo ra doanh thu thích hợp của đơn vị và đáp ứng chúng bằng cách nào? Hai khía cạnh có liên quan đến mục tiêu này: khả năng tạo doanh thu của đơn vị và những nhu cầu về ngân quỹ hay dòng tiền. 2.11. Sự an toàn về tài chính của các đơn vị thường được đo bằng “tỷ suất lợi nhuận” tài chính nhằm xem xét liệu có một mối quan hệ hài lòng giữa tiền lãi/thu nhập ròng và tài sản được sử dụng/vốn được đầu tư vào đơn vị. Định nghĩa về vốn đầu tư có thể thay đổi, nhưng khi tổng vốn đầu tư được sử dụng, thu nhập trước khi trả lãi nợ vay vay được áp dụng để tính toán tiền lãi. Trong trường hợp các công ty cấp thoát nước, nơi mà vốn lưu động tương đối ít quan trọng hơn, tỷ suất lợi nhuận thường được đo lường bằng cách gắn liền thu nhập trước lãi suất với tài sản cố định ròng, mà không có khác biệt đáng kể với tổng vốn đầu tư. Một mức khấu hao thích hợp cho phép nên được thực hiện trước khi đi đến một mức thu nhập như vậy. Những điều chỉnh cũng cần phải được thực hiện trong giá trị của tài sản và khấu hao khi có những thay đổi quan trọng trong mức giá cả nói chung. Những sự tái định giá tài sản như vậy nhằm phản ảnh tác động của lạm phát sẽ cần thiết trong việc liên kết thu nhập ở mức giá hiện hành với giá trị của tài sản được biểu hiện ở mức giá hiện tại. 2.12. Khái niệm tỷ suất lợi nhuận tạo ra sự nhận biết thích hợp đối với yêu cầu mức phí phải bao gồm một mức phí thích hợp cho chi phí vốn đầu tư vào đơn vị. Ở các nước phát triển, các đơn vị thường vay mượn từ thị trường vốn. Nhằm thu hút các quỹ đầu tư và duy trì sự tin tưởng/ủng hộ của nhà đầu tư, các đơn vị nên có một tỷ suất lợi nhuận hợp lý đối với vốn đầu tư. Tại nhiều quốc gia đang phát triển, thị trường vốn chưa hình thành hay kém phát triển. Vì vậy, một mức giá ngầm nên được áp dụng cho những ngân quỹ khan hiếm của chính phủ mà các đơn vị ở các nước này sử dụng. Do đó, việc các công ty ở những nước này theo đuổi các chính sách phí mà cho phép họ kiếm được một tỷ suất lợi nhuận hợp lý và giảm thiểu áp lực lên các quỹ của chính phủ là điều cần thiết và đáng mong muốn. Tỷ suất lợi nhuận nào? 2.13. Lợi nhuận của vốn đầu tư sẽ thấp nếu như đã có sự đầu tư sai lầm về nguồn lực trong quá khứ, hay nếu hiệu quả hoạt động thấp hoặc chính sách phí không khôn ngoan. Việc điều chỉnh vốn một cách thích hợp nhằm hiệu chỉnh những khoản đầu tư Margaret Y. Myers 11 Bieân dòch: Haûi Ñaêng Hieäu ñính: Phan Hieån Minh vaø Nhoùm coäng taùc
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Coâng Thu hoài chi phí: Phí ngöôøi söû duïng Baøi ñoïc sai lầm trong quá khứ, thay vì phải hứng chịu một tình huống không rõ ràng là thích hợp hơn. Việc hoạch định đầu tư và hiệu quả hoạt động thích hợp có vai trò quan trọng trong việc làm cho một tỷ suất lợi nhuận thích hợp có thể đạt được trở thành hiện thực; các chính sách phí cũng có tầm quan trọng không kém. 2.14. Một nhân tố có liên quan đến tỷ suất lợi nhuận là sự biến thiên của các khoản đầu tư vào việc cấp thoát nước (so sánh với việc mở rộng hệ thống ổn định hơn trong lĩnh vực Năng lượng và Viễn thông). Các dự án riêng lẻ nhằm cung cấp các dịch vụ cấp thoát nước có khả năng đáp ứng nhu cầu dự đoán trước trong một cộng đồng trong mười năm hay xa hơn nữa là có tính kinh tế cao. Tuy nhiên, ảnh hưởng tương đối của nhân tố này phụ thuộc vào việc công ty đó có phạm vi hoạt động là một thành phố cụ thể hoặc một khu vực rộng lớn hay toàn bộ một nước. Trong trường hợp sau cùng, các khoản đầu tư nhiều khả năng trải rộng một cách đồng đều hơn bởi vì mức dịch vụ tại các nước đang phát triển hiện khá thấp và cần sự mở rộng đáng kể. 2.15. Có những nhân tố khác nên được xem xét trong qúa trình thẩm định tỷ suất lợi nhuận mong muốn, nghĩa là nhu cầu về một lượng nước tối thiểu nhằm duy trì sự sống và sức khoẻ bất luận mức thu nhập là bao nhiêu, những lợi ích ngoại tại của một sức khỏe tốt hơn đối với nền kinh tế, và các mục tiêu phân phối thu nhập, vv.. Tuy nhiên, lợi nhuận cũng nên hướng vào việc tạo tiền nội bộ đủ cho các mục đích và yêu cầu cụ thể của công ty, nghĩa là, khía cạnh dòng tiền cần được quan tâm một cách tương xứng. Khía cạnh dòng tiền 2.16. Để một công ty có thể đứng vững về mặt tài chính, cần phải đáp ứng được tất cả những nghĩa vụ tài chính của nó – các chi tiêu cho việc hoạt động và duy trì tại các mức thích hợp, trả lãi nợ vay vay (lãi và nợ gốc) và các phí tài chính khác bao gồm các loại thuế nếu có. Thêm nữa, công ty cần phải ở một vị thế có thể huy động các nguồn lực cần thiết cho việc tái tạo và mở rộng với tỷ lệ thích hợp từ tiền lãi, các khoản vay mượn và những đóng góp từ vốn cổ phần. Tại các nước phát triển, các công ty cấp thoát nước tài trợ cho chi tiêu vốn của mình từ việc kết hợp vay mượn từ thị trường và một số quỹ nội bộ. Việc tài trợ bằng nợ dài hạn thường đòi hỏi sự gắn kết với các khế ước trái phiếu mà trong đó người vay mượn hứa duy trì một mức thu nhập đủ để phần còn lại, sau khi trừ đi chi phí hoạt động và các loại thuế, sẽ lớn hơn một tỷ lệ phần trăm được xác định trước so với khoản trả lãi nợ vay vay hàng năm tối đa cho cả khoản nợ hiện hành lẫn số nợ lường trước. Do đó, lượng tiền vượt quá số tiền trả nợ sẽ sẵn dùng cho chi tiêu vốn. Với những cản ngại về nguồn lực tại các nước đang phát triển và sự phát triển chưa tương xứng của thị trường vốn, những công ty này nên có một mức lãi thích hợp nhằm làm cho lượng tiền nội bộ tạo ra (thường được định nghĩa là doanh thu trừ chi phí hoạt động và duy trì, trả lãi nợ vay vay và các phí tài chính khác) có thể đáp ứng được một phần hợp lý nhu cầu đầu tư - đủ quan trọng để duy trì các khoản đầu tư ở các mức thích hợp. 2.17. Chính quyền các nước đang phát triển thường có xu hướng cung cấp các quỹ đầu tư quan trọng cho các công ty cấp thoát nước (mà hầu hết thuộc sở hữu nhà nước) hoặc vốn góp hay những khoản vay mượn với lãi suất thấp với niềm tin rằng cách giải quyết đó minh chứng cho những dịch vụ công ích xã hội này. Đôi khi lãi suất thực là âm, nghĩa là đã tính đến yếu tố lạm phát. Trong khi điều này có thể giúp giảm bớt gánh nặng trả lãi nợ vay của công ty cung cấp những dịch vụ này, chính sách này cần có sự xem xét cẩn trọng. Lãi suất phải được xem xét trong một khung chính sách kinh Margaret Y. Myers 12 Bieân dòch: Haûi Ñaêng Hieäu ñính: Phan Hieån Minh vaø Nhoùm coäng taùc
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Coâng Thu hoài chi phí: Phí ngöôøi söû duïng Baøi ñoïc tế vĩ mô rộng hơn. Việc cung cấp ngân quỹ một cách công bằng từ chính phủ cũng nên được thẩm định một cách kỹ lưỡng, đặc biệt liên quan đến nhu cầu và khả năng sinh lợi của nó nhằm đảm bảo rằng lợi ích của việc này được dồn về cho các bên mong muốn. Đối với việc mở rộng đáng kể những dịch vụ mà các nước đang phát triển cần, tốt hơn nên có những tổ chức có khả năng đứng vững về tài chính mà có thể thực hiện được các chương trình đầu tư cần thiết với sự trợ giúp tối thiểu hay tốt hơn là rất ít từ các quỹ chính phủ. Cách giải quyết như vậy sẽ cho phép các quỹ chính phủ khan hiếm tập trung sâu hơn vào việc cải thiện dịch vụ so với điều khả dĩ lẽ ra đã có theo cách khác. Các công ty cấp thoát nước sau đó sẽ đáp ứng nhu cầu của mình từ các nguồn khác, chủ yếu là từ lượng tiền nội bộ tạo ra và các khoản vay mượn. 2.18. Mức độ mà những đóng góp của các khoản đầu tư cần thiết và/hoặc sẵn có từ lượng tiền nội bộ tạo ra (nghĩa là, mức độ tự tài trợ) là một hàm số của tình hình nợ/vốn tự có phổ biến, điều khoản nợ, độ lớn và cấu trúc đầu tư (nghĩa là, cơ sở tài sản phải được mở rộng với tốc độ nhanh như thế nào), sự sẵn có của các quỹ vốn khác bao gồm những đóng góp từ vốn cổ phần (nếu có) và việc vay mượn và các điều khoản của điều này. Việc xem xét mức độ tự tài trợ như vậy theo một cơ sở nhiều năm là rất hữu ích và thuận tiện. Thường thì các kế hoạch đầu tư kéo dài trong một thời kỳ ba hay năm năm cần phải được công ty chuẩn bị và những kế hoạch này được cập nhật hàng năm trên cơ sở xem xét thực tiễn xảy ra. Những kế hoạch như vậy thường được các kế hoạch tài trợ bao gồm cả phần tự tài trợ ủng hộ. Mức độ tự tài trợ mà có thể đạt được (hoặc hướng đến) phụ thuộc vào tình huống của mỗi trường hợp (vì các nhân tố đề cập trên đây thay đổi). Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy rằng trong trường hợp các công ty cấp thoát nước, một kế hoạch tài trợ đáng hài lòng mà có thể được duy trì trong dài hạn và cho phép một tỷ suất lợi nhuận hợp lý (thường trong khoảng 4-6-8% xét theo tỷ suất thực) có liên quan đến tỷ lệ tự tài trợ nếu tỷ lệ này nằm trong khoảng 20-40%. Biên độ rộng này chỉ là một hướng dẫn chung và cần được áp dụng một cách linh hoạt tùy vào tình huống cụ thể. Một chương trình máy tính sẵn có cho phép khảo sát các chọn lựa sẵn có theo những kịch bản khác nhau với các nhập lượng đối với các biến số được đề cập và biên độ mà các biến số này sẽ thay đổi được cho trước. 2.19. Do đó, một công ty cung cấp dịch vụ cấp thoát nước nên thiết lập mức phí sao cho công ty tạo ra được một tỷ suất lợi nhuận hợp lý đối với tài sản cố định ròng hay vốn đầu tư của mình; doanh thu cũng phải tương xứng để đáp ứng được các nghĩa vụ tài chính và cho phép việc tự tài trợ các khoản đầu tư thích hợp với các tình huống của công ty. Những xem xét về mặt kinh tế 2.20. Một xem xét quan trọng thứ ha đối với việc thiết lập mức phí là các khía cạnh kinh tế. Những khía cạnh này bao gồm các câu hỏi về chi phí và lợi ích kinh tế, ai phải gánh chịu các chi phí liên quan, chính sách thu hồi chi phí/định giá nào tạo hiệu quả trong việc sử dụng nguồn lực và đạt được lợi ích kinh tế ròng tối ưu cho nền kinh tế. Mục tiêu sẽ là tạo ra những thay đổi mong muốn thông qua việc định giá. 2.21. Nói rộng ra, giá hiệu quả của một sản phẩm nên bằng với chi phí kinh tế hiện hành của việc sản xuất đơn vị sản phẩm cuối cùng được bán ra cộng với bất kỳ phần lãi gộp nào mà có thể cần thiết cho cân bằng thị trường. Nếu một người sử dụng sẵn sàng trả một giá bằng với chi phí biên tế có liên quan, thì ta có thể suy ra rằng giá trị Margaret Y. Myers 13 Bieân dòch: Haûi Ñaêng Hieäu ñính: Phan Hieån Minh vaø Nhoùm coäng taùc
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Coâng Thu hoài chi phí: Phí ngöôøi söû duïng Baøi ñoïc của đơn vị sản phẩm biên tế ít ra là lớn bằng chi phí của phần còn lại của xã hội trong việc sản xuất ra đơn vị sản phẩm đó. 2.22. Tuy nhiên, qui tắc đơn giản này cần phải được chỉnh sửa vì có nhiều phức tạp khác nhau thường nảy sinh. Trước tiên, một chi phí đáng kể có thể liên quan đến việc đo lường và thu phí đối với dịch vụ, ví dụ như trong việc gắn đồng hồ nước để cho người tiêu dùng có cơ hội ảnh hưởng đến hóa đơn tính phí qua việc sử dụng kinh tế của chính họ. Tuy nhiên, mức độ đáng giá của việc gắn đồng hồ nước có thể đòi hỏi việc thẩm định kỹ lưỡng. Thứ hai, những ngoại tác đi kèm với dịch vụ cấp nước và, ở một mức độ lớn hơn, với dịch vụ thoát nước bởi vì những ngoại tác này có tác động về sức khỏe đến cả cộng đồng rộng lớn chứ không chỉ dơn thuần đến người tiêu dùng. Vì thế, điều này làm cho việc đặt các mức giá sao cho không làm giảm đi hay ngăn chặn lợi ích có được từ việc được thực hiện là cần thiết. Thứ ba, sự biến thiên các khoản đầu tư (tính không thể phân chia của vốn) mà thường gặp phải trong các dự án cấp thoát nước thường gây ra những khó khăn, vì một số chi phí sẽ ở mức biên tế tại một thời điểm nào đó vả không ở mức biên tế tại những thời điểm khác. (Đây là tính hiệu quả tăng theo qui mô và nhu cầu trong tương lai của một số năm trước mắt thường được tính đến). Việc định giá biên tế nghiêm ngặt trong những tình huống này có thể tạo ra những thay đổi đáng kể về giá cả theo thời gian. Điều này tác động đến kỳ vọng giá của người tiêu dùng và tác động của giá cả hiện hành đối với nhu cầu trong tương lai. Việc xem xét tính thích hợp của các tín hiệu đầu tư mà giá cả tạo ra là rất cần thiết. 2.23. Chi phí biên tế dài hạn (LRMC), bao gồm chi phí năng lực biên tế (nghĩa là chi phí năng lực có liên quan đến việc tiêu dùng tăng thêm) qua một khung thời gian dài có xu hướng không có những biến động lớn và tạo ra một đường cong chi phí bằng phẳng hơn. Việc sử dụng những chi phí biên tế như vậy (LRMC) cho việc định giá thường được ủng hộ. Điều này sẽ nhấn mạnh đến nhu cầu tạo ra các tín hiệu đầu tư cho người tiêu dùng hiện tại và tiềm năng, với chi phí là một số tổn thất khả dĩ về hiệu quả phân bố trong ngắn hạn. 2.24. Khái niệm chi phí tăng thêm trung bình (AIC), được định nghĩa là giá trị hiện tại của dòng đầu tư có chi phí thấp nhất (nghĩa là, bao gồm cả vốn tăng thêm, chi phí hoạt động và duy trì) tính theo mỗi đơn vị sản phẩm đầu ra tăng thêm theo vòng đời liên quan (cũng được chiết khấu) được quyết định bởi việc sử dụng tỷ suất chiết khấu, mà bằng với chi phí cơ hội của vốn đối với nền kinh tế quốc dân. Khái niệm này cung cấp một định nghĩa về chi phí biên mà tượng trưng cho một sự thỏa hiệp trong thực tế mà tránh được sự biến động lớn và cũng có một quan điểm dài hạn hơn về chi phí. Khái niệm này đã được sử dụng trong nhiều dự án cung cấp nước với sự hỗ trợ của ngân hàng. Phụ lục I cho ta một hướng dẫn cách tính toán AIC. 2.25. Chúng ta nên lưu ý rằng chính chi phí “kinh tế” thực sự đối với xã hội, mà phải được sử dụng trong việc ước tính các phương thức phát triển nguồn nước có chi phí thấp, vv.. và trong việc ước lượng chi phí biên. Chi phí kinh tế và chi phí tài chính thường khác nhau – chi phí kinh tế không bao gồm các loại thuế và phí, và cũng sử dụng các mức giá mờ đối với lao động và ngoại hối khi thích hợp (ví dụ, khi lao động, lẽ ra đã thất nghiệp, đang được hưởng mức lương tối thiểu; khi đồng bản tệ được duy trì ở tỷ giá hối đoái cao một cách giả tạo). 2.26. Để cho việc định giá cung cấp được các tín hiệu thích hợp đến người tiêu dùng như đã được hàm ý ở dây, việc định giá nguồn lực đòi hỏi một sự ước lượng hướng về Margaret Y. Myers 14 Bieân dòch: Haûi Ñaêng Hieäu ñính: Phan Hieån Minh vaø Nhoùm coäng taùc
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Coâng Thu hoài chi phí: Phí ngöôøi söû duïng Baøi ñoïc phía trước. Một ước lượng hướng về phía sau của những chi phí phát sinh thực tế trong quá khứ hay một phương pháp thuần túy là không đủ. Những hoạt động trong quá khứ có thể cung cấp những đầu mối hữu hiệu, nhưng chính chi phí tương lai mới là những chi phí liên quan cho việc xem xét. Trong trường hợp của nước, sự gia tăng lượng tiêu thụ thường đòi hỏi việc phát triển các nguồn nước có chi phí cao và ở xa hơn. Việc ký hợp đồng với những khách hàng quan trọng sử dụng nhiều nước (ví dụ các nhà máy đóng chai, các cơ sở sản xuất khác) trên cơ sở những chi phí phát sinh thực tế trong quá khứ sẽ không thích hợp đối với tình hình tài chính của công ty và hàm ý một sự không nhận thức được về chi phí nguồn lực thích hợp. Khả năng đáp ứng của mức phí 2.27. Khía cạnh quan trọng thứ ba của mức phí là khả năng đáp ứng, đặc biệt là đối với người sử dụng có thu nhập thấp. Có một nhu cầu căn bản của con người đối với một lượng nước tối thiểu, và dịch vụ cấp thoát nước liên quan đến những xem xét về sức khỏe. Các ngoại tác là quan trọng. Vì vậy, việc tiếp cận dịch vụ - mặc dù ở các mức khác nhau – là cần thiết. Cấu trúc phân phối thu nhập trong một xã hội cụ thể tác động đến mức phí mà qua đó mong đợi một cách hợp lý việc người sử dụng sẵn sàng chi trả. Do đó, có một yêu cầu cần phải xem xét khả năng đáp ứng. 2.28. Việc phân tích “khả năng đáp ứng”, đặc biệt là trong trường hợp các nhóm thu nhập thấp thường khó khăn. Đôi khi các cuộc điều tra về thu nhập được tiến hành. Tuy nhiên, dữ liệu đối với vấn đề thu nhập gia đình thường đáng nghi ngờ. Các mức lương tối thiểu được chính phủ qui định đôi khi được sử dụng; nhưng một lần nữa ở đây mức lương thực tế có thể khác biệt và rất khó để thẩm tra số lượng người hưởng lương trong một gia đình. Những cuộc điều tra về cơ cấu chi tiêu của người tiêu dùng hay ngân sách của hộ gia đình có lẽ nhiều khả năng sẽ giúp ích cho việc thẩm định khả năng đáp ứng; những cuộc điều tra như vậy được tiến hành định kỳ có thể cung cấp một ý tưởng tốt hơn về những thay đổi trong thu nhập theo thời gian và các nhu cầu đối với những thu nhập đó. Việc quyết định điều mà người nghèo thật sự có khả năng đáp ứng được cũng thường hết sức khó khăn. Người nghèo thường trả những mức giá cao cho lượng nước ít ỏi mà họ mua từ người bán; đôi khi họ cũng phải trả khoản phí nhiên liệu và điện năng khá cao. Những nhận thức về nhu cầu đôi khi khác biệt với nhu cầu thực sự khiến cho người ta đôi khi sẵn sàng trả những mức phí rất cao hay không sẵn lòng trả những mức phí khiêm tốn nhất. Tuy vậy, một sự thẩm định khả năng đáp ứng, đặc biệt đối với ngươi tiêu dùng có thu nhập thấp phải được thực hiện theo một trong những cơ sở đã đề cập ở trên và áp dụng mức phí tối thiểu cho việc tiêu dùng tối thiểu lường trước được cố định; nếu mức phí hàng tháng này là, ví dụ khoảng 5 đến 6% ngân sách trung bình hàng tháng của gia đình, thì việc xem xét cẩn thận hơn nữa thường rất cần thiết. Tính đơn giản/các khía cạnh hành chính của các mức phí 2.29. Khí cạnh thứ tư liên quan đến mức phí là tính đơn giản (người tiêu dùng có khả năng hiểu được việc định giá), sự dễ dàng về mặt hành chính và tính công bằng. Cường độ của việc xem xét này thay đổi một cách tự nhiên tùy theo khả năng của công ty và đặc trưng của người sử dụng. Sự hài hòa các mục tiêu 2.30. Nói chung, quy tắc kinh tế của việc thiết lập các mức giá cả bằng với chi phí biên tế cần được hài hòa với mục tiêu về khả năng đáp ứng (đặc biệt là các nhóm thu Margaret Y. Myers 15 Bieân dòch: Haûi Ñaêng Hieäu ñính: Phan Hieån Minh vaø Nhoùm coäng taùc
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Coâng Thu hoài chi phí: Phí ngöôøi söû duïng Baøi ñoïc nhập thấp hơn) và khả năng đứng vững về mặt tài chính. Điều này có nhiều khía cạnh cần được một cách cân nhắc cẩn trọng nhằm đi đến những giải pháp khả thi tùy vào tình huống cụ thể trong mỗi trường hợp. 2.31. Việc định giá chi phí kinh tế biên tế có thể không tạo ra được sự hiệu quả tài chính mong muốn. Việc thu hồi các chi phí “chìm” (nghĩa là, chi phí đã gánh chịu trong quá khứ) và việc đáp ứng các nghĩa vụ tài chính liên quan đến việc có được những tài sản và sự hoạt động và duy trì tài sản đó nhằm cung cấp dịch vụ là một sự xem xét tài chính quan trọng. Nhưng chi phí biên tế/kinh tế, có liên quan đến chi phí ước lượng trong tương lai, có thể tạo ra và cũng có thể không tạo ra hiệu quả tài chính mong muốn. Những thặng dư hay tổn thất đáng kể có thể có liên quan. Trong khi thặng dư tài chính, mức vượt quá nhu cầu tài chính, thường không gây ra vấn đề nào (ví dụ chúng có thể được sử dụng cho các chi tiêu công khác), thì tổn thất tài chính trước hết sẽ tạo ra việc cần thiết phải nghĩ ra một cách thức thu hồi những tổn thất như vậy và thứ hai, sẽ có một tác động đến tính hiệu quả trong dài hạn do sự thiếu vắng khả năng đứng vững về tài chính. Vì vậy, cần phải hài hòa các khía cạnh kinh tế và tài chính. 2.32. Nếu một hệ thống cấp thoát nước đang cải thiện mức cung cấp dịch vụ và đang mở rộng, chi phí biên tế dài hạn nhiều khả năng sẽ gia tăng do phải sử dụng các nguồn nước xa xôi hơn và/hay khó khăn hơn. Điều này có xu hướng làm cho việc đạt được khả năng đứng vững về tài chính là khả thi. Tuy nhiên, đối với một công ty cung cấp dịch vụ, tình hình tài chính chung còn phụ thuộc vào khu vực và hệ thống dịch vụ mà công ty cung ứng và đặc trưng của các hệ thống bên trong công ty đó. 2.33. Các giải pháp khác nhau cho vấn đề bất đồng khả dĩ trong các ảnh hưởng tài chính của việc định giá biên tế và những nhu cầu về khả năng đứng vững về tài chính đã được đề xuất. Những giải pháp này thường là những biến dạng của một cơ chế chung, giải pháp đơn giản nhất trong số đó là một mức phí gồm hai phần trong đó người tiêu dùng nước sẽ trả một mức phí theo khối lượng nước tiêu thụ dựa trên chi phí biên cộng với một khoản thanh toán trọn gói một lần bao gồm các chi phí chìm phi biên tế và các chi phí có liên quan đến người sử dụng. Tuy nhiên, trong trường hợp này, độ lớn của khoản thanh toán một lần trọn gói có thể cao và ngăn cản việc kết nối vào hệ thống của những khách hàng tiềm năng. Một giải pháp khác có thể được nghiên cứu là xem xét độ co giãn của nhu cầu (mà dường như không lớn như người ta vẫn thường nghĩ) và tính mức phí đối với một số người tiêu dùng cao hơn chi phí biên tế một chút nhưng nằm trong mức tối đa mà một người tiêu dùng sẵn sàng chi trả. Tuy nhiên, cách định giá khác biệt này cần phải được thực hiện một cách cẩn thận. 2.34. Vấn đề khả năng đáp ứng đối với nhóm ngươi tiêu dùng có thu nhập thấp hơn (và các ngoại tác đi kèm) thường được quan tâm bằng cách áp dụng một mức phí “tối thiểu” thấp hơn đối với lượng tiêu thụ tối thiểu lường trước. Thông thường, việc thiết kế mức tiêu thụ này theo cách mà nó sẽ bao gồm các nhu cầu cơ bản, ngoại trừ những nhu cầu của các hộ gia đình lớn là rất cần thiết. Nhiều nước đã áp dụng mức 10 m3 nước như là mức tiêu thụ tối thiểu cho một gia đình có từ 6-8 thành viên. Nói chung, tại những khu vực thành thị, những người tiêu dùng lượng nước khá nhỏ này chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng tiêu thụ, mặc dù họ có thể chiếm một tỷ lệ cao hơn nhiều xét về số lượng kết nối dịch vụ. Ví dụ ở Manila, Phi-líp-pin, nhóm hộ gia đình tiêu dùng ít nhất chiếm 25% tổng số kết nối nhưng chỉ chiếm 6% tổng tiêu thụ. Ở Tuy-ni-di, nhóm ít nhất tiêu thụ 20 m3 hay ít hơn tính theo mỗi quí chỉ chiếm 5% tổng Margaret Y. Myers 16 Bieân dòch: Haûi Ñaêng Hieäu ñính: Phan Hieån Minh vaø Nhoùm coäng taùc
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Coâng Thu hoài chi phí: Phí ngöôøi söû duïng Baøi ñoïc luợng nước tiêu dùng nhưng chiếm đến 37% tổng kết nối. Trong những tình huống như vậy, ảnh hưởng của các mức phí tối thiểu đối với tình hình tài chính chung là hạn chế và khả năng đứng vững của công ty có thể được duy trì. Có trường hợp cho việc trợ giá không? 2.35. Tuy nhiên, tình huống này ở nhiều khu vực nông thôn (và đôi khi là vùng bán thành thị) thường khác với tình huống ở thành thị. Khoảng thu nhập hộ gia đình nhỏ, ít có những khách hàng thương mại và công nghiệp và ít có sự sẵn sàng chi trả cho dịch vụ tốt hơn bởi vì việc đánh giá không thích đáng về ích lợi của nguồn nước sạch dư thừa hay việc xử lý chất thải. (Điều này thậm chí có thể dẫn đến việc tiếp tục thực hiện kế sách này đến mức các nguồn truyền thống hay thông lệ không mong muốn). Việc này gây ra những khó khăn trong việc phát triển các hệ thống tự hỗ trợ về mặt tài chính được dựa trên mức phí có thể đáp ứng được mà người sử dụng sẵn sàng chi trả. 2.36. Sau khi xem xét các tình huống ở trên và một số tình hống tại những khu vực thành thị nhất định mà có tỷ lệ đáng kể người sử dụng có thu nhập thấp, có một gợi ý rằng ở các nước đang phát triển có một trường hợp cho việc trợ giá - với mức phí thiết lập dưới mức chi phí toàn bộ. Những lợi ích của ngoại tác được nhấn mạnh ủng hộ cho điều này. 2.37. Khi xem xét những luận cứ về trợ giá này trên cơ sở phân phối thu nhập và ngoại tác, cần phải lưu ý đến các khía cạnh khác. Thứ nhất, có những khó khăn trong việc tiếp cận một cách hiệu quả nhóm mục tiêu và đảm bảo rằng chính họ là người hưởng dịch vụ, sự trợ giá và những lợi ích. Một phần rộng hơn thay vì là chỉ nhóm mục tiêu trong thực tế sẽ có liên quan và điều này có xu hướng làm cho việc trợ giá trở nên tốn kém. Ví dụ, nếu việc cung cấp dịch vụ không lan rộng một cách rất nhanh chóng trong những người nghèo, thì khả năng xảy ra là những chủ đất sẽ nắm giữ lợi ích của sự trợ giá bởi vì tiền thuê thu được từ tài sản với khả năng tiếp cận tốt đến dịch vụ sẽ tăng lên. Thứ hai, các cách thay thế khác có thể có hiệu quả bằng thậm chí cao hơn trong việc đạt được mục tiêu mà việc trợ giá định hướng đến. Vì thế, việc một sự giảm giá đối với dịch vụ có tác dụng khuyến khích nhiều hơn đối với việc tiêu dùng và cải thiện thích hợp so với việc chi tiêu một khoản tương tự cho những nỗ lực giáo dục vệ sinh và sức khỏe là đáng nghi ngờ. Thứ ba, trong một tình huống mà ở đó có một nhu cầu mạnh mẽ cho việc khuyến khích việc sử dụng các công nghệ thích hợp có chi phí thấp hơn nhằm mở rộng việc thu hồi một cách nhanh chóng, trợ giá có thể đóng vai trò làm thiên lệch chọn lựa về công nghệ sang các giải pháp đắt tiền hơn. Thứ tư và nghiêm trọng nhất, khía cạnh “quản lý” của hiệu quả hoạt động của công ty có thể bị ảnh hưởng tiêu cực bởi việc phụ thuộc vào việc trợ giá của chính phủ mà có xu hướng gia tăng theo thời gian. Điều gì nên làm? 2.38. Trong những tình huống như vậy khi mà khả năng đáp ứng, đặc biệt là đối với các nhóm thu nhập thấp có liên quan, trở thành một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng đứng vững về tài chính, mức độ dịch vụ và qui mô dự án nên được điều chỉnh (bao gồm chọn lựa công nghệ) nhằm tối thiểu hóa chi phí ở mức hợp lý. Đặc biệt là trong những khu vực thành thị, tính khả thi của một sự pha trộn các khu vực tốt hơn có thu nhập cao hơn mà ở đó sự sẵn sàng hay khả năng chi trả là cao hơn với các khu vực có thu nhập thấp hơn có thể được điều tra nghiên cứu để đạt được doanh thu cao hơn. Việc tránh được cả những khu vực được trợ giá hưởng lợi hơn và làm cho sự Margaret Y. Myers 17 Bieân dòch: Haûi Ñaêng Hieäu ñính: Phan Hieån Minh vaø Nhoùm coäng taùc
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Coâng Thu hoài chi phí: Phí ngöôøi söû duïng Baøi ñoïc tiến triển ổn định, với những dịch vụ ít tốn kém hơn, ở những khu vực nghèo là điều quan trọng. 2.39. Nếu mặc dù đã có sự điều chỉnh mức dịch vụ và tối thiểu hóa chi phí, tình huống ở đây là rằng những mức phí trực thu là không thích hợp trong việc tạo ra nguồn thu mong muốn, những phí gián thu mà có thể thu được từ người hưởng lợi nên được xem xét trước tiên. Ví dụ, những đóng góp của người sử dụng hay phí kết nối ở một số trường hợp, thuế đánh vào tài sản được cải thiện. Nếu những biện pháp này được thực hiện thì việc những dịch vụ đô thị được cung cấp mà không cần nhờ đến sự trợ giá của chính phủ nói chung là điều có thể thực hiện được. Việc qui hoạch đầu tư cẩn thận, ở những giai đoạn thích hợp, mức phí lũy tiến và sự chú ý tương xứng đến hiệu quả hoạt động và mức dịch vụ sẽ cung cấp những nhân tố chính yếu của một chương trình mở rộng dịch vụ như thế. Nếu người ta thấy rằng tất cả biện pháp này là thích hợp, có lẽ cần đến một sự ủng hộ nào đó từ chính phủ dưới hình thức trợ giá hay vốn góp hoặc các khoản vay với lãi suất thấp, nghĩa là một hình thức nào đó của trợ cấp vốn, 2.40. Việc chính phủ cung cấp sự trợ cấp vốn đáng kể (và đôi khi chịu trách nhiệm đối với những việc tu sửa thiết yếu) vì vậy mà có thể trở nên cần thiết cho những khu vực nông thôn. Khi mà việc cung cấp nước giếng đơn giản được sắp đặt thì chi phí hoạt động và duy trì có thể được thu hồi nhờ vào các tổ chức địa phương (nghĩa là các hợp tác xã). Khi mà cơ quan thẩm quyền về nước của một khu vực cũng có trách nhiệm đối với một số khu vực nông thôn thì một sự trợ giá chéo nào đó từ phía các khu vực thành thị cũng là một giải pháp khả dĩ. Bởi vì các công nghệ thích hợp nhất đối với việc thoát nước ở các khu vực nông thôn phụ thuộc vào việc xử lý nước thải tại chỗ, những dịch vụ này có khả năng thuộc sở hữu tư nhân. Nhằm khuyến khích việc xây dựng những dịch vụ này, việc không chỉ đề nghị một sự trợ giá cho những công trình cơ bản có liên quan mà còn biến một việc xây dựng như thế thành điều kiện tiền đề cho việc cung cấp những dịch vụ có giá cả cao hơn như là việc cung cấp nước được cải thiện có thể là điều cần thiết. 2.41. Khi sự hỗ trợ tài chính của chính phủ dưới hình thức trợ giá trở nên cần thiết, ví dụ như dịch vụ cấp thoát nước ở nông thôn hay việc cung cấp dịch vụ cho người nghèo, hoặc khi việc hỗ trợ hoạt động là cần thiết như là một biện pháp “chuyển tiếp”, thì sự ủng hộ này nên được dành ngân sách cụ thể và được thể hiện riêng biệt nhằm làm cho những ý nghĩa tài chính có thể được nhận biết một cách rõ ràng. Điều này sẽ giúp cho việc tìm kiếm những giải pháp làm giảm bớt hay loại trừ những sự trợ giá như vậy, mà thông thường có xu hướng gia tăng theo những tỷ lệ không quản lý được. Hơn nữa, việc cung cấp ngân quỹ thực tế nên nhanh chóng và đều đặn để cho công ty cung cấp dịch vụ có thể hoạt động mà không phải chịu sự gián đoạn trong công việc của mình. Việc xem xét bản chất và mức hỗ trợ tài chính như vậy ở những khoảng thời gian qui định nhằm đảm bảo rằng thật sự có thể minh chứng được bất cứ hoạt động nào tiếp tục nhận được sự hỗ trợ tài chính từ phía chính phủ. Việc gắn liền những trợ cấp của chính phủ với một số tiêu chuẩn hoạt động để cho công ty có thể theo dõi cũng là một ý tưởng hay. Khi mà công ty cấp thoát nước không phải là một tổ chức quốc gia mà là một tổ chức của địa phương, thành phố hay khu vực, thì nguồn cung cấp ngân quỹ cho việc trợ cấp là cơ quan chức trách của chính quyền địa phương tương ứng có liên quan là điều mong muốn vì điều này sẽ giúp thúc đẩy sự chủ động và duy trì sự quan tâm của địa phương. Margaret Y. Myers 18 Bieân dòch: Haûi Ñaêng Hieäu ñính: Phan Hieån Minh vaø Nhoùm coäng taùc
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Coâng Thu hoài chi phí: Phí ngöôøi söû duïng Baøi ñoïc CHƯƠNG BA HỆ THỐNG TÍNH PHÍ TRONG THỰC TẾ: CẤU TRÚC PHÍ 3.01. Nguồn thu tạo ra từ mức phí hay các phí người sử dụng khác chiếm một phần quan trọng trong doanh thu của công ty cung cấp dịch vụ cấp thoát nước; các nguồn khác như lãi suất, việc bán các tài sản cũ, vv.. tương đối nhỏ và chỉ là hoạt động phụ cho với hoạt động chính. Đoạn dưới đây trình bày những hệ thống tính phí phổ biến, mà có thể được chia thành bốn nhóm lớn. 3.02. Nhóm đầu tiên là sự đóng góp của người sử dụng nói chung vào khoản đầu tư khi thực hiện việc đầu tư. Điều này thường được thực hiện ở những khu vực nông thôn mà ở đó người sử dụng đóng góp (bằng tiền mặt hay hiện vật) khi hệ thống nước đang được lắp đặt. Đây là một thực tế tại các khu vực thành thị. Ví dụ, ở Nam Tư cũ, các “cộng đồng quyền lợi” được hình thành nhằm xây dựng và khai thác hệ thống nước phục vụ cho các cộng đồng/nhóm khu vực cụ thể. Thông thường trong việc hỗ trợ cho những dự áp cung cấp nước như vậy, có một “sự đóng góp” được thu từ các tổ chức, cộng đồng người lao động khác nhau, vv.. Điều này thường dưới hình thức một tỷ lệ phần trăm nào dó của tiền lương, mà được quyết định phải trả trong một khoảng thời gian được xác định cụ thể so với thời gian xây dựng. (Đôi khi sự đóng góp này được tăng lên nếu chi phí vượt quá dự toán ban đầu). Cơ chế này, ngoài việc giúp tài trợ dự án còn khuyến khích sự tham gia thích đáng của địa phương/người sử dụng vào dự án. 3.03. Nhóm phí thứ hai là phí hay lệ phí kết nối đối với kết nối mới (để phân biệt với phí tái kết nối dược áp dụng khi một kết nối bị cắt/tạm ngưng vì bất cứ lý do nào). Thường đây là khoản phí trả một lần nhưng đôi khi cũng được thu định kỳ. Hai hình thức phí/lệ phí kết nối có thể đề cập đến. Một trong số này nhằm thu hồi chi phí đầu tư liên quan đến một số hệ thống phụ, ví dụ như hệ thống phân phối, từ những ngươi sử dụng cụ thể. Ví dụ, ở Tuy-ni-di thì SONEDE (Công ty Cấp nước) căn cứ vào tính chất tài sản để thu từ những khách hàng mới một khoản đóng góp cho chi phí vốn của hệ thống phân phối. Ở Bô-gô-ta, Cô-lôm-bi-a trước khi công ty cấp thoát nước (EAAB) lắp đặt hệ thống ở các khu vực mới, cư dân phải đóng góp 30% chi phí của hệ thống và sau đó sẽ chi trả tiếp 70% chi phí còn lại trong một khoảng thời gian 10 năm. Khi một công ty phát triển bất động sản lắp đặt hệ thống, chi phí được thu hồi trong giá bán của những lô nhà và hệ thống được tặng cho công ty cấp thoát nước. Tại nhiều địa điểm xây dựng và dự án dịch vụ được sự hỗ trợ của Ngân hàng, chi phí đầu tư cho việc mở rộng hệ thống phân phối (thỉnh thoảng còn được gọi là chi phí tại chổ) được thu hồi thống qua phí lắp đặt. Ở Mỹ, khi những phát triển bất động sản mới được đem đến hệ thống; tiền vay mượn từ thị trường trái phiếu, các quỹ đầu tư cần thiết và những nhóm người sử dụng cụ thể được kết nối vào hệ thống có trách nhiệm thanh toán lãi nợ vay vay có liên quan. Loại phí kết nối thứ hai nhằm mục đích thu hồi chi phí cung cấp sự tiếp cận đến hệ thống từ tài sản của người sử dụng (hệ thống ống nước nội bộ của tài sản của người sử dụng không bao gồm trong đây). Phí này thường được quyết định căn cứ vào kích cỡ kết nối, loại người sử dụng (số lượng vòi nước) hay giá trị tài sản. Phí/lệ phí kết nối của cả hai loại trên có thể cao và đặc biệt không khuyến khích những người sử dụng có thu nhập thấp kết nối vào hệ thống. Trong những trường hợp như vậy, việc cung cấp các dịch vụ tài trợ (hay tín dụng), ví dụ như các khoản cho vay kết nối vào nhà được trả trong một khoảng thời gian hợp lý là có Margaret Y. Myers 19 Bieân dòch: Haûi Ñaêng Hieäu ñính: Phan Hieån Minh vaø Nhoùm coäng taùc
- Chöông trình Giaûng daïy Kinh teá Fulbright Taøi chính Coâng Thu hoài chi phí: Phí ngöôøi söû duïng Baøi ñoïc lợi. Sự hỗ trợ nhu vậy đã được sử dụng rộng rãi trong các dự án có sự hỗ trợ của ngân hàng ở Ma-rốc và việc này đã đẩy mạnh tỷ lệ kết nối một cách đáng kể. Đôi khi, đặc biệt có liên quan đến việc bãi bỏ những kết nối trái phép, công ty cung cấp sự kết nối bằng chi phí của mình và sau đó thu hồi chi phí đó bằng các phí định kỳ. Ở Xê-nê-gan và Tô-gô, một lượng kết nối 15 m3 được cung cấp “miễn phí” và chi phí cho việc này được thu hồi qua phí. Ở Bờ Biển Ngà, một phí kết nối được áp dụng căn cứ trên kích cỡ kết nối, chu trình này được sử dụng cho việc tài trợ chéo chương trình kết nối 15 m3. 3.04. Nhóm phí thứ ba là các khoản thanh toán định kỳ cho việc tiêu thụ nước và dịch vụ thoát nước được cung cấp. Việc thu phí riêng lẻ đối với dịch vụ cấp nước và thoát nước là thuận lợi hơn bởi vì kết nối hệ thống cống thoát nước có thể ít hơn so với kết nối hệ thống cấp nước. Nhóm phí này thường có các dạng sau: a. Một mức phí đồng nhất cho mỗi kết nối; b. Phí căn cứ vào luợng nước thể tích được đo lường. Điều này có thể thay đổi tùy theo loại hay các mức (block) tiêu thụ. Về hệ thống thoát nước, thường phí nước cống/nước thải được thu như một tỷ lệ phần trăm thêm vào phí “nước”. Hệ thống này, ngoài sự đơn giản, còn nhận ra được sự phụ thuộc lẫn nhau giữa nước và nước cống/nước thải. Trong trường hợp nước thải công nghiệp, phí được căn cứ vào cả chất lượng lẫn khối lượng nước thải (chất lượng nước thải liên quan đến các tiêu chuẩn qui định), do chi phí xử lý chất thải chịu ảnh hưởng của chất luợng chất thải. c. Phí liên quan đến luợng nước không đo lường được. Thường thì phí nước thay đổi tùy theo kích thước ống nước, số lượng vòi nước hay khu vực dân cư. Phí nước thải trong những trường hợp như vậy cũng có thể là một tỷ lệ phần trăm được qui định của phí nước. Ở một số quốc gia, cả hai loại phí nước và nước thải đều là tỷ lệ được qui định của thuế tài sản đánh vào tài sản được kết nối. 3.05. Nhóm thứ của hệ thống phí là phí môn bài cho việc khai thác nước của tư nhân. Ở một số nước, những khách hàng lớn như là các ngành công nghiệp được phép phát triển nguồn nước riêng của mình từ các giếng tư nhân và không sử dụng dịch vụ công ích (ví dụ, tại bang Gu-ja-rat ở Ấn Độ, các ngành công nghiệp tại các thành phố Na- di-ad và A-nand thỏa mãn nhu cầu nước của mình theo cách này). Việc khai thác liên tục nguồn nước mặt theo cách này có thể dẫn đến tình huống trong đó những người sử dụng khác có thể bị buộc phải tìm kiếm nguồn nước xa xôi và tốn kém hơn. Khi ta quan tâm đến sự quản lý thích hợp đối với nguồn nước nói chung và sự giám sát ảnh hưởng của việc khai thác nước của tư nhân, việc Chính phủ qui định và cấp phép khai thác nước cho tư nhân ngày càng trở nên cần thiết. Pê-ru gần đây đã ban hành và thực thi luật qui định việc khai thác nước của tư nhân tại thành phố Li-ma. Bờ Biển Ngà, Tô-gô và Xê-nê-gan cũng qui định phí môn bài. Thậm chí việc thu phí theo lượng nước khai thác cũng trở nên cần thiết. Vấn đề này cần phải được xem xét trong mối tương quan đến tác động nói chung, sự phát triển thay thế và các chi phí khác. 3.06. Ngoài phí đã được đề cập trên đây, tại một số quốc gia ví dụ như Bờ Biển Ngà, Tuy-ni-di, Chi Lê, Cô-lôm-bi-a, một loại thuế được đánh bổ sung vào hoá đơn nước và/hoặc nước thải. Loại thuế này nhằm mục đích tạo quỹ cho chính phủ đầu tư vảo lĩnh vực này. Phí đánh vào người thụ hưởng - Thuế Margaret Y. Myers 20 Bieân dòch: Haûi Ñaêng Hieäu ñính: Phan Hieån Minh vaø Nhoùm coäng taùc
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Chương 5. KẾ TOÁN CÁC NGUỒN KINH PHÍ
38 p | 1581 | 492
-
KẾ TOÁN TÀI SẢN CỐ ĐỊNH THUÊ TÀI CHÍNH
10 p | 380 | 82
-
Quản trị nguồn nhân lực - Lương cơ bản
31 p | 183 | 54
-
Năm sai lầm các nhà đầu tư BĐS nên tránh
7 p | 96 | 9
-
Chi phí sử dụng vốn và các nguyên tắc ước lượng
6 p | 65 | 4
-
Giáo trình Kế toán hành chính sự nghiệp (Tập 2): Phần 2
106 p | 4 | 3
-
Bùng phát bẫy vay tiền ngân hàng qua mạng
3 p | 7 | 2
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn