VIỆN NGHIÊN CỨU QUẢN LÝ KINH TẾ TW<br />
Trung tâm Thông tin- Tư liệu<br />
____________________<br />
<br />
THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI<br />
VÀO NÔNG NGHIỆP - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP<br />
Đẩy nhanh công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nhằm tạo<br />
ra động lực mới để đưa kinh tế nông thôn phát triển lên một giai đoạn cao<br />
hơn và hướng tới một nền nông nghiệp bền vững là một chủ trương lớn của<br />
Đảng và Nhà nước trong thời kỳ hiện nay. Để đạt mục tiêu này, đòi hỏi một<br />
lượng vốn đầu tư lớn vào lĩnh vực nông nghiệp. Trong bối cảnh huy động<br />
nguồn vốn từ ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, nguồn vốn ODA có xu<br />
hướng giảm sút trong những năm gần đây thì vốn đầu tư trực tiếp nước<br />
ngoài (FDI) được xác định là một trong những nguồn vốn quan trọng góp<br />
phần hiện thực hoá chủ trương này. Tuy trong giai đoạn hội nhập, nguồn vốn<br />
FDI đổ vào Việt Nam ngày càng tăng, song cho đến nay, vốn FDI vào nông<br />
nghiệp vẫn “chưa tương xứng với tiềm năng”. Do vậy, tìm hiểu nguyên nhân<br />
của thực trạng thu hút FDI trong lĩnh vực nông nghiệp để từ đó có những<br />
giải pháp cho ngành này nhằm tăng cường thu hút FDI là một yêu cầu cấp<br />
bách hiện nay. Lời giải cho bài toán thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng<br />
FDI vào nông nghiệp sẽ có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực này,<br />
qua đó cải thiện mạnh mẽ mức sống của người nông dân - lực lượng chiếm<br />
tới hơn 70% dân số nước ta.<br />
I- Thực trạng thu hút FDI vào nông nghiệp<br />
Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp là nhiều rủi ro, lãi suất thấp, thu hồi vốn<br />
chậm cho nên các doanh nghiệp nước ngoài, các công ty tư nhân ít quan tâm<br />
đầu tư cho nông nghiệp. Hiện nay, nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh<br />
vực nông nghiệp, lâm nghiệp chủ yếu được thực hiện dưới hai hình thức là<br />
doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100 % vốn nước ngoài. Trong đó,<br />
hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm tới 77,4%, liên doanh chiếm 22,1%<br />
và hợp đồng hợp tác kinh doanh chỉ chiếm 0,5% tổng vốn đầu tư. Mặc dù,<br />
_____________________<br />
Trung tâm TT-TL, CIEM<br />
<br />
quá trình thu hút và sử dụng FDI đã đạt được những thành tựu nhất định: đã<br />
bổ sung vốn cho nguồn thu ngân sách nhà nước, góp phần chuyển dịch cơ<br />
cấu kinh tế ngành, thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng nông sản, góp phần cải<br />
thiện công nghệ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tạo việc làm cho<br />
ngành. Tuy nhiên, thu hút và sử dụng vốn FDI trong nông nghiệp trong thời<br />
gian qua vẫn còn quá thấp so với nhu cầu và tiềm năng của ngành.<br />
Trước hết, tỷ trọng vốn FDI trong nông nghiệp là rất thấp trong cơ cấu<br />
ngành kinh tế và ngày càng có xu hướng giảm.<br />
Năm 2000, Việt Nam có khoảng 340 dự án FDI với tổng vốn trên 2,27 tỷ<br />
USD được cấp phép hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Nếu so với năm<br />
1989 (5 dự án với tổng vốn 2,8 triệu USD), thì cho thấy ngành nông nghiệp<br />
và nông thôn đã có những bước tiến dài trong thu hút và thực hiện nguồn<br />
vốn đầu tư. Thực tế cho thấy trong thời gian qua, một số lĩnh vực có vốn đầu<br />
tư nước ngoài hoạt động khá hiệu quả, cùng với thành phần kinh tế khác tạo<br />
ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, giải quyết số lượng lao<br />
động nhàn rỗi lớn ở nông thôn, và lực lượng lao động Việt Nam có điều kiện<br />
tiếp cận kinh nghiệm quản lý, kỹ thuật hiện đại, từng bước làm chủ trong sản<br />
xuất khi tham gia hội nhập với kinh tế thế giới. Tuy nhiên, theo đánh giá số<br />
vốn FDI đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp còn quá thấp, quy mô nhỏ, trung<br />
bình khoảng 6,7 triệu USD/1 dự án (trong khi đó bình quân chung là 17,5<br />
triệu USD/1 dự án).<br />
Số vốn<br />
Tỷ lệ vốn<br />
FDI đăng<br />
FDI đăng<br />
ký mới<br />
ký trong<br />
trong nông<br />
nông - lâm<br />
- lâm<br />
nghiệp<br />
nghiệp<br />
20,6<br />
0,82%<br />
<br />
Năm<br />
<br />
Tổng số<br />
dự án FDI<br />
đăng ký<br />
mới<br />
<br />
2001<br />
<br />
502<br />
<br />
Số dự án<br />
FDI đăng<br />
ký mới<br />
trong nông<br />
– lâm<br />
nghiệp<br />
15<br />
<br />
2002<br />
<br />
754<br />
<br />
18<br />
<br />
1557,7<br />
<br />
32,8<br />
<br />
2,11%<br />
<br />
2003<br />
<br />
748<br />
<br />
15<br />
<br />
1899,6<br />
<br />
22,2<br />
<br />
1,17%<br />
<br />
2004<br />
<br />
723<br />
<br />
7<br />
<br />
4222,2<br />
<br />
99,8<br />
<br />
2,36%<br />
<br />
Tổng số<br />
vốn FDI<br />
đăng ký<br />
mới<br />
2503,0<br />
<br />
Nguồn: Niên giám thống kê 2001, 2002, 2003, 2004<br />
_____________________<br />
Trung tâm TT-TL, CIEM<br />
<br />
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2005, trong khi tỷ trọng đầu<br />
tư của vốn FDI cho khu vực công nghiệp là 34%, dịch vụ 59% thì khu vực<br />
nông nghiệp-nông thôn chỉ chiếm 7%. Trong giai đoạn tới (2006-2010) nhìn<br />
vào danh mục 94 dự án trọng điểm quốc gia mà bộ này mời gọi vốn FDI gần<br />
26 tỷ USD càng thấy rõ sự mất cân đối trong đầu tư giữa khu vực công<br />
nghiệp - xây dựng với nông nghiệp-nông thôn. Trong danh mục, ngành nông<br />
nghiệp, lâm nghiệp và chăn nuôi chỉ có 1 dự án; ngành thuỷ sản có khá hơn,<br />
với 4 dự án mời gọi đầu tư.<br />
Tính đến hết năm 2006, tỷ trọng đầu tư FDI trong nông -lâm -ngư nghiệp chỉ<br />
chiếm 6,65% trong số những dự án còn hiệu lực. Cơ cấu phân theo ngành là<br />
trồng trọt 8,2%; chế biến nông sản thực phẩm 49,2%, chăn nuôi và chế biến<br />
thức ăn gia súc 11,6%; trồng rừng và chế biến lâm sản 22,6%; nuôi trồng và<br />
chế biến thuỷ sản 8,4%. Đáng buồn hơn là những chỉ số về FDI trong lĩnh<br />
vực này đang có xu hướng giảm.<br />
Thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho thấy 6<br />
tháng đầu năm 2007, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào lĩnh vực<br />
nông nghiệp chỉ chiếm 2,46%, tức là 107 triệu USD trên tổng số 4,3 tỷ USD<br />
vốn FDI của cả nước. Như vậy, tính đến hết tháng 6/2007, có 7.490 dự án<br />
FDI còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký 67,3 tỷ USD, vốn thực hiện gần 30<br />
tỷ USD. Tuy nhiên, trong đó, các dự án thuộc lĩnh vực nông, lâm nghiệp chỉ<br />
là 758 dự án, số vốn đăng ký trong lĩnh vực này chỉ đạt 3,78 tỷ USD (tương<br />
đương 5,6%), vốn thực hiện là gần 1,9 tỷ USD (xấp xỉ 6,3%). Theo đánh giá,<br />
lĩnh vực nông nghiệp chưa thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư. Tuy khối<br />
lượng FDI tăng lên nhưng tỷ trọng dường như không đổi. Các nhà đầu tư<br />
vẫn dành sự ưu ái với các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, trong khi nông<br />
nghiệp vẫn chỉ “ngậm ngùi” sở hữu "miếng bánh" nhỏ bé. Điều này không<br />
chỉ thể hiện qua tỷ trọng FDI trong ngành nông nghiệp (chiếm 10,6% số dự<br />
án), mà còn qua cơ cấu đầu tư giữa các ngành. Theo báo cáo, ngành công<br />
nghiệp nặng hiện chiếm tới 45,5% vốn đầu tư; công nghiệp nhẹ chiếm<br />
32,7%; nông, lâm nghiệp chỉ chiếm 7,6%. Trong khi đó, các quốc gia và<br />
vùng lãnh thổ có nền nông nghiệp phát triển như Đài Loan, Nhật Bản, Hàn<br />
Quốc luôn có tỷ trọng vốn FDI trong nông nghiệp ổn định từ 13-21%. Trong<br />
_____________________<br />
Trung tâm TT-TL, CIEM<br />
<br />
tổng số 575 dự án cấp vốn mới, khu vực nông lâm chỉ khiêm tốn với 28 dự<br />
án.<br />
Đầu tư vào nông nghiệp chủ yếu cho chế biến nông sản, thực phẩm 53,7%<br />
tổng số vốn, trồng rừng và chế biến lâm sản 24,7%, chăn nuôi và chế biến<br />
thức ăn gia súc 12,7%, trồng trọt 8,9%. Tỷ trọng đầu tư cho ngành thấp và<br />
có xu hướng giảm, hiệu quả hoạt động của các dự án chưa cao, chưa phát<br />
huy đầy đủ tiềm năng của đất nước.<br />
Thứ hai, việc phân bổ FDI chưa đồng đều giữa các vùng, miền, tỉ trọng<br />
phân bố giữa các vùng miền rất “vênh” nhau. Phần lớn các dự án tập trung ở<br />
khu vực đồng bằng, các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và phía Bắc còn<br />
các tỉnh vùng sâu, vùng xa tỉ trọng rất thấp. Những vùng sẵn có tiềm năng và<br />
thế mạnh như đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ tiếp tục đứng<br />
đầu bảng về thu hút FDI. Trong khi khu vực miền núi phía Bắc và Tây<br />
Nguyên đang “khát” vốn đầu tư lại chỉ nhận được sự đầu tư nhỏ giọt. Cụ thể,<br />
số vốn thực hiện tại các tỉnh thuộc vùng Đông Nam bộ chiếm 61,6%, khu<br />
vực Đông Bắc bộ 7,1%, đồng bằng sông Hồng 5,3%, Tây Nguyên 5,6%, khu<br />
vực Tây Bắc chỉ có 0,4%.<br />
Thứ ba, lĩnh vực NN&PTNT chưa thu hút được đầu tư của các nền kinh<br />
tế lớn, thiếu tính đa dạng. Đáng chú ý, mặc dù có tới 42 quốc gia, vùng<br />
lãnh thổ tham gia đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, nhưng chủ<br />
yếu là các nhà đầu tư đến từ châu Á. Trong đó, dẫn đầu về nguồn vốn FDI<br />
thực hiện là Đài Loan (thuộc Trung Quốc) với 19%, Nhật Bản 18%, Hàn<br />
Quốc 13%, Thái Lan 12%, Pháp 12%, Xin-ga-po 8%... Chúng ta vẫn chưa<br />
có khả năng thu hút các nhà đầu tư tại một số nước, khu vực có tiềm năng,<br />
thế mạnh to lớn về nông nghiệp như Mỹ, Ca-na-đa, Ô-xtrây-li-a, các nước<br />
châu Âu (trừ Pháp). Điều này phần nào phản ánh cơ cấu chung về đối tác<br />
đầu tư, đồng thời cũng thể hiện khả năng vận động, xúc tiến đầu tư của Việt<br />
Nam trong lĩnh vực này còn hạn chế.<br />
Thứ tư, ngay khi dòng vốn FDI khiêm tốn ấy chảy vào địa hạt nông<br />
nghiệp - nông thôn, thì hiệu quả sử dụng cũng rất thấp. Thực tế, nhiều dự<br />
án triển khai rất chậm, thậm chí đang trong tình trạng kinh doanh thua lỗ; tỷ<br />
lệ dự án bị giải thể trước thời hạn khá cao so với các lĩnh vực đầu tư khác<br />
_____________________<br />
Trung tâm TT-TL, CIEM<br />
<br />
(khoảng hơn 30% so với mức bình quân chung là 20%). Hiệu quả đầu tư<br />
cũng chưa phát huy đầy đủ tiềm năng, thế mạnh của nước ta trong lĩnh vực<br />
này. Đơn cử trong lĩnh vực trồng trọt và chế biến nông sản, các nhà đầu tư<br />
mới chỉ tập trung khai thác tiềm năng, nguồn lực sẵn có về đất đai, lao động,<br />
thiếu những dự án tạo giống cây, giống con mới, triển khai nuôi, trồng, chế<br />
biến các loại rau, quả xuất khẩu có hàm lượng kỹ thuật cao, chất lương tốt,<br />
phù hợp với điều kiện Việt Nam. Không những thế, các dự án FDI chưa khai<br />
thác tiềm năng, lợi thế của các vùng, ngành, mà mới chỉ tập trung ở các dự<br />
án trồng rừng nguyên liệu, chế biến nông sản với hiệu quả thấp. Trong khi<br />
nông nghiệp các nước khác trong khu vực và trên thế giới đang phát triển<br />
theo hướng hiện đại hóa thì các dự án FDI vào nông nghiệp Việt Nam vẫn<br />
chưa chú trọng vào khoa học, công nghệ cao. Ngoài ra, còn khá nhiều dự án<br />
tác động nghiêm trọng đến cảnh quan, môi trường tự nhiên...<br />
II – Nguyên nhân<br />
1. Nguyên nhân khách quan<br />
Trước hết, có một thực tế được các chuyên gia kinh tế thừa nhận là lĩnh vực<br />
nông nghiệp vốn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Hoạt động này thường diễn ra ở các<br />
vùng nông thôn rộng lớn, điều kiện tự nhiên khó khăn, lệ thuộc nhiều vào<br />
thời tiết, sản phẩm mang tính mùa vụ, dễ hư hỏng, thường xuyên bị ảnh<br />
hưởng của thiên tai, dịch bệnh… Sản phẩm nông nghiệp thường có tỉ suất<br />
lợi nhuận thấp, mức thu nhập không cao. Trong điều kiện thời tiết Việt Nam<br />
luôn thay đổi thất thường, thiên tai thường xuyên xảy ra thì rủi ro do thiên<br />
nhiên mang lại trong lĩnh vực này càng cao.<br />
Thứ hai, Việt Nam hiện đang sở hữu một nền nông nghiệp nhìn chung còn<br />
là sản xuất nhỏ, manh mún, đầu tư phân tán. Những tiêu chuẩn hiện đại cần<br />
thiết cho một nền nông nghiệp hàng hoá như tuân theo các chu trình sản xuất<br />
GAP, kiểm tra chất lượng, … còn rất xa lạ với nông dân nên càng khó thu<br />
hút các dự án nước ngoài.<br />
Thứ ba, hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn nước ta hiện nay quá thiếu và<br />
yếu, nhất là khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, nên không tạo ra sức cạnh<br />
tranh và thu hút đầu tư.<br />
_____________________<br />
Trung tâm TT-TL, CIEM<br />
<br />