Chương VI<br />
LÝ LUẬN CỦA TÌNH CẢM VÀ THỊ<br />
DỤC<br />
<br />
Như ta đã thấy trước đây, đời sống tình cảm có trước đời sống lý<br />
trí. Người ta chịu ảnh hưởng tình cảm trước hết. Ngày nào mình sống<br />
dưới quyền của Lý Trí… đó là ngày mà mình tiến lên khỏi cái mực của<br />
đời sống theo thiên tính của loài vật.<br />
<br />
Những kẻ còn sống dưới quyền của thị dục… nếu họ sớm dùng<br />
đến lý luận… thường là để thỏa mãn thị dục của họ hơn là để tìm<br />
chân lý.<br />
<br />
Sống theo thị dục đành là một việc mà bất kỳ là ai cũng đều bị ảnh<br />
hưởng ít nhiều… nhưng nếu chỉ biết sống theo thị dục mà thôi, thì<br />
người ta ắt không bao giờ thấy khổ.<br />
<br />
Khái niệm “khổ” là do sự tranh chấp giữa Tình và Lý nơi lòng ta<br />
mà thôi. Con thú chỉ biết sống thỏa mãn thị dục nó, rồi thôi. Con<br />
người trái lại, còn có Lương Tâm biết phân biệt phải quấy… nó giày<br />
vò, xéo xắt không để cho ta yên mà an hưởng cái thú vui của xác thịt.<br />
Thế là con người phải tìm ngay một phương thế để gạt gẫm lương<br />
tâm mình. Họ đem Lý Luận để phụng sự cho Thị Dục, hay nói theo<br />
nhà luân lý học, học “hợp lý hóa tình dục”.<br />
<br />
<br />
Cái lối luận của Lý Trí và cái lối luận của Thị Dục khác nhau rất<br />
xa. Ta cần phải biết phân biệt cho thật rõ ràng chỗ dị đồng của nó mới<br />
mong nhận được trong khi ta suy nghĩ… lúc nào là lúc ta suy nghĩ<br />
theo Lý và lúc nào là lúc ta suy nghĩ theo Tình. Tuy cái lối luận theo<br />
thị dục là lối luận đầu tiên của loài người, người ta chỉ nghiên cứu và<br />
bàn bạc đến nó mới trong vòng mấy mươi năm gần đây thôi.<br />
<br />
<br />
A. Chỗ phân biệt giữa hai lối luận<br />
<br />
Lý và Tình:<br />
<br />
W. James trong quyển “La Volonté de Croine” chỉ cái lối luận của<br />
người tín ngưỡng[32] như vầy:<br />
<br />
“Việc phải xảy ra như thế này mới được. Tôi muốn cho nó phải<br />
xảy ra như vậy. Thế thì nó phải như vầy… như vy…”<br />
<br />
Ta hãy thử lấy một ví dụ:<br />
<br />
Như thời quân Đồng Minh và quân Trục đang đánh với nhau.<br />
Những kẻ không vì quyền lợi, cũng không vì cảm tình muốn phe nào<br />
thắng hay phe nào bại, sẽ dùng lý luận như thế này: Có nhiều tin tức<br />
các nơi đưa đến, nói rằng Đồng Minh thắng, họ bèn nhân đó mà kết<br />
luận Đồng Minh sẽ thắng được. Đó là họ dùng phép qui nạp của khoa<br />
<br />
học để lý luận. Lối luận này là lối luận của Lý Trí: Kết luận đi theo sau<br />
những tài liệu lượm lặt đó đây. Trái lại, những kẻ vì quyền lợi hoặc vì<br />
thiện cảm với Đồng Minh, muốn cho phe Đồng Minh thắng sẽ luận<br />
cách khác: Trong mớ tin tức, họ tìm cái nào hạp với lòng ao ước của<br />
họ thì họ tin liền, không cần đòi hỏi bằng cứ gì cả. Trái lại, những tin<br />
tức nào không hạp với ý nguyện của họ là họ gác qua một bên, hoặc<br />
không để ý đến, hoặc tìm đủ lý để ngờ vực nó. Chọn lựa xong rồi, họ<br />
giữ lại toàn những tin nào có thể kết luận rằng Đồng Minh thắng mà<br />
thôi. Đó là lối luận của Tình Cảm: Kết luận đã đặt sẵn, trước khi đi<br />
săn tìm bằng cứ.<br />
<br />
Hai lối luận trên đây cách luận đều giống nhau: Cả hai đều vịn<br />
theo những bằng cớ là tin tức các nơi đưa đến để qui nạp sự thắng<br />
trận của Đồng Minh. Nhưng sở dĩ nó không giống nhau là vì lối luận<br />
của Lý Trí thì vô tư: Người luận không có sẵn trước cái lòng ao ước<br />
cho bên nào thắng bên nào bại cả. Họ chỉ bình tâm quan sát và kiếm<br />
tài liệu, để tìm một kết luận đúng đắn công bình. Cho nên trong khi<br />
họ tìm tài liệu tin tức, họ chưa biết kết luận sẽ như thế nào. Tùy theo<br />
tin tức, nếu đòn cân thắng lợi ngả về bên nào, thì họ sẽ kết luận cho<br />
bên đó sẽ thắng.<br />
<br />
Trái lại, lối kết luận của Tình Cảm thì hữu ý thiên vị: Người luận<br />
trước khi đi tìm tài liệu tin tức, trước cái lòng ao ước cho bên phe<br />
mình thắng. Bởi vậy họ không đủ can đảm nhìn nhận những tin tức<br />
nào có thể làm hại cái lòng ao ước ấy của họ. Tuy cũng đi tìm tài liệu,<br />
nhưng họ chỉ đi tìm những tài liệu nào có thể chứng minh cái lòng ao<br />
ước của họ kia là đúng với sự thật mà thôi.<br />
<br />
Hay nói một cách khác: “Luận theo Lý Trí là luận để tìm sự thật;<br />
còn luận theo Tình Cảm là luận để chứng minh cái điều mình ao ước<br />
hay tín ngưỡng, không đếm xỉa gì đến sự thật nữa cả.”<br />
<br />
<br />
Ông thầy thuốc khi xem bệnh dùng lối luận của Lý Trí để tìm<br />
nguyên nhân của chứng bệnh. Nhân những chứng hiện ra, ông tìm coi<br />
bệnh ấy có thể sắp vào loại nào và chiếu theo nguyên lý ấy, ông tìm<br />
những kết quả của nó sẽ phải đến đây, một cách thản nhiên vô tư.<br />
Trái lại, bà mẹ bên giường bệnh của đứa con yêu quý, thuần dùng lối<br />
luận của Tình Cảm. Bà tưởng tượng con bà mạnh hay không thể<br />
mạnh được, mà không cần nghĩ gì đến thực sự cả. Mỗi một cái chứng<br />
gì hiện ra là một triệu chứng bệnh tử hay bệnh nguy… Ai nói con bà sẽ<br />
mạnh, bà mừng rỡ và cám ơn; ai bảo con bà sắp nguy, bà buồn bã và<br />
oán ghét. Những y sĩ có danh cứu người rất tài, đến khi chữa bệnh<br />
cho người thân thì lại lúng túng vụng về, cũng vì lẽ ấy: Bệnh tình cảm<br />
làm mờ óc phán đoán.<br />
<br />
Felicien Chayllaye đại khái bảo: “Người đang bị Dục Vọng chi<br />
phối tâm hồn, không bao giờ chịu lý luận gì cả. Nếu họ lý luận là để<br />
tìm một kết luận thỏa ý vừa lòng họ thôi; kết luận ấy họ đã có sẵn<br />
trước khi họ lý luận”[33]. Nếu họ nhận thấy cái luận của họ không<br />
vững vàng, họ bèn đổi cách luận đi, chớ không chịu đổi ý định, ví như<br />
người luận là anh thích rượu. Anh sẽ luận:<br />
<br />
Ở đời, phải mạnh mẽ, (đại tiền đề).<br />
Mà rượu, làm cho ta mạnh (tiểu tiền đề).<br />
Vậy, ta phải uống rượu. (kết luận)<br />
<br />
Có kẻ cắt nghĩa sự lầm lạc của câu tiểu tiền đề, thì anh lại bèn đổi<br />
nó đi, và luận lại cách khác:<br />
<br />
Ở đời, cốt yếu là phải vui vẻ;<br />
Vậy, ta phải uống rượu. (kết luận)<br />
<br />
<br />
Ở đây, kết luận vẫn không thay đổi, vì đó là chỗ ao ước ưa thích<br />
của anh. Anh đổi nguyên tắc, nhưng kết luận ấy, anh cố giữ không cho<br />
thay đổi.<br />
<br />
Tôi còn nhớ một thi sĩ kia, muốn biện hộ cho sự thích rượu của<br />
mình, làm bài thơ say, vô đầu có câu:<br />
<br />
Nhãn khám nhơn tận túy<br />
Hà nhẫn độc vi tính<br />
(nghĩa là: Mắt thấy thiên hạ đều say cả. Một mình ta nỡ nào lại<br />
tỉnh).<br />
<br />
<br />
Cái kết luận tiên thiên này, có khi không phải là một dục vọng, mà<br />
là một thành kiến.<br />
<br />
Liệt Tử có bài ngụ ngôn: “Có người kia làm mất cái búa, nghi cho<br />
đứa con người bên xóm lấy. Bấy giờ anh trông dáng điệu đứa nhỏ<br />
rõ ràng là đứa ăn trộm búa, nhìn từ vẻ mặt, từ hành động mỗi mỗi<br />
cũng rõ là đứa ăn trộm búa. Được vài hôm, người ấy tìm thấy cái<br />
búa bỏ lộn trong khạp cây… Bấy giờ anh ta trông đứa bé từ vẻ mặt,<br />
dáng điệu, cử chỉ không còn thấy một tí nào là giống đứa ăn trộm<br />
búa nữa”.<br />
<br />
<br />