LUẬN VĂN:
Thực trạng và giải pháp nhằm thúc đẩy
hoạt động xuất khẩu nông sản tại Công ty XNK Tổng hợp I
Mở đầu
Ngày nay hoạt động xuất khẩu giữ vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động
thương mại của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Thông qua hoạt động xuất khẩu, các
quốc gia khai thác được lợi thế của mình trong phân công lao động quốc tế, tạo nguồn thu
lợi nhuận quan trọng cho đất nước, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và tạo công ăn việc làm cho
người dân.
Đối với Việt Nam, hoạt động xuất khẩu thực sự có ý nghĩa chiến lược trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế, tạo tiền đề vững chắc để thực hiện thắng lợi mục
tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu
vực và thế giới. Trong chiến lược phát triển kinh tế đến năm 2010, Đảng và Nhà nước ta
đã nêu rõ: “Chúng ta phải tiến hành xây dựng một nền kinh tế mở cửa theo hướng đẩy
mạnh xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những mặt hàng trong nước sản xuất
có hiệu quả”.
Dựa trên những điều kiện thuận lợi về đất đai, khí hậu và một nền kinh tế nông
nghiệp lâu đời với trên 70% dân số tham gia sản xuất nông nghiệp, nông sản là mặt hàng
xuất khẩu truyền thống của Việt Nam, chiếm khoảng 30% cơ cấu xuất khẩu, tạo nguồn
thu ngoại tệ đáng kể hàng năm. Hàng nông sản Việt Nam xuất khẩu không ngừng tăng
lên cả về số lượng và chất lượng dần dần biến Việt Nam thành một quốc gia xuất khẩu
nông sản lớn. Đảng và Nhà nước ta đã kịp thời đề ra những biện pháp chính sách cụ thể
nhằm khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các Công ty kinh doanh xuất khẩu nông
sản có thể nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh của mình cũng như uy tín của Việt Nam
trên thị trường nông sản thế giới.
Mặt hàng nông sản là một trong những mặt hàng được Công ty xuất nhập khẩu
Tổng hợp I chú trọng trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của mình. Trong suốt thời gian
tồn tại và phát triển, Công ty đã tìm ra cho mình một hướng đi đúng trong hoạt động xuất
khẩu nông sản đặc biệt trong tình hình kinh tế trong nước và thế giới hiện nay có nhiều
biến động lớn và Công ty đã gặt hái được những thành công nhất định. Tuy nhiên bên
cạnh những thành tựu đạt được, Công ty vẫn còn không ít khó khăn cần phải khắc phục
để đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng truyền thống, có ưu thế này của Việt Nam. Vì vậy, đề
tài “Thực trạng và giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản tại Công
ty XNK Tổng hợp I” được chọn để nghiên cứu. Đề tài khẳng định được vị trí quan trọng
của hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản đối với nền kinh tế quốc dân, phân
tích đánh giá thực trạng kinh doanh xuất khẩu nông sản của Công ty XNK Tổng hợp I.
Trên cơ sở đó kiến nghị một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản
tại Công ty.
Đề tài gồm 3 chương lớn với các nội dung sau:
Chương I: Mặt hàng nông sản và vai trò của xuất khẩu nông sản đối với nền
kinh tế Việt Nam.
Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu nông sản tại Công ty XNK Tổng
hợp I.
Chương III. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản
của Công ty.
Chương I
Mặt hàng nông sản và vai trò của xuất khẩu nông sản đối với nền kinh tế Việt Nam
I. Vai trò của xuất khẩu nông sản đối với nền kinh tế quốc dân.
1. Khái niệm hoạt động xuất khẩu và vai trò của nó đối với nền kinh tế quốc dân.
1.1. Khái niệm hoạt động xuất khẩu:
Xuất khẩu là việc bán hàng hoá và dịch vụ vượt qua biên giới quốc gia trên cơ sở
dùng tiền tệ làm đơn vị thanh toán. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia
hoặc đối với cả hai quốc gia. Xuất khẩu là hoạt động rất cơ bản của kinh tế đối ngoại, đã
xuất hiện từ rất lâu và ngày càng phát triển.
Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế của các quốc gia trong
phân công lao động quốc tế, tạo nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Hoạt động xuất khẩu
diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện với nhiều loại hàng hoá khác nhau. Phạm
vi hoạt động xuất khẩu rất rộng cả về không gian và thời gian.
1.2. Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân.
Xuất khẩu hàng hoá nằm trong khâu phân phối và lưu thông hàng hoá trong quá
trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết giữa sản xuất và tiêu dùng giữa nước
này với nước khác. Vai trò của xuất khẩu được thể hiện qua các điểm sau:
1.2.1. Xuất khẩu là phương tiện chính tạo nguồn vốn cho nhập khẩu phụcvụ CNH
- HĐH đất nước.
Nhiệm vụ trọng tâm cơ bản của Việt Nam trong chiến lược phát triển kinh tế xã
hội 10 năm 2001 - 2002 là: phát triển kinh tế và đẩy mạnh công nghiệp hoá đất nước.
Để tiến hành CNH - HĐH thì cần phải có đủ 4 nhân tố ngân lực, tài nguyên, nguồn
vốn và kỹ thuật. Nhưng hiện nay, không phải bất cứ quốc gia nào cũng có đủ các yếu tố
đó đặc biệt là các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Để CNH - HĐH trong một thời gian ngắn, đòi hỏi phải có số vốn lớn để nhập khẩu
máy móc, thiết bị, kỹ thuật,công nghệ tiến tiến.
Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như:
- Đầu tư nước ngoài.
- Vay nợ, viện trợ.
- Thu từ hoạt động du lịch, dịchvụ thu ngoại tệ.
- Xuất khẩu hàng hoá.
Các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ, viện trợ, thu từ hoạt động du lịch
và dịch vụ thu ngoại tệ… tuy quan trọng nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hay cách
khác ở thời kỳ sau. Chẳng hạn như, nguyên tắc nhận vốn từ nước ngoài là phải trả bằng
sản phẩm hoặc phải chia sẻ tài nguyên thiên nhiên cho bên kia. Đặc biệt trong thời gian
gần đây, sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Châu á, hoạt động đầu tư nước ngoài ở
Việt Nam giảm sút nhanh chóng cả về số lượng dự án và số vốn đầu tư. Nguồn vốn quan
trọng nhất để nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá đất nước chính là xuất khẩu. Xuất khẩu
quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu.
ở nước ta, thời kỳ 1986 – 1990, nguồn thu về xuất khẩu bằng 3/4 tổng nguồn thu
ngoại tệ. Và thu về xuất khẩu năm 1994 đảm bảo được 80% nhập khẩu so với 24,6 năm
1986.
1.2.2. Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất
phát triển.
Hiện nay, do thành quả của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, cơ
cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi một cách vô cùng mạnh mẽ.
Các nước phát triển ngày càng tập trung vào sản xuất những mặt hàng có hàm lượng kỹ
thuật cao và ít ô nhiễm môi trường. Các nước công nghiệp mới (NICs) đang phấn đấu
đuổi kịp các nước phát triển và đã có nhiều ngành vượt. Các nước Đông Nam á (trong đó
có Việt Nam ) có cơ cấu kinh tế ngày càng thay đổi một cách mạnh mẽ theo chiều hướng
gắn nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới, đẩy mạnh xuất khẩu, thu hút vốn và
công nghệ từ nước ngoài.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu
hướng phát triển của kinh tế thế giới là tất yếu đối với Việt Nam.
Có hai cách nhìn nhận về tác động của xuất khẩu đối với sản xuất và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế.
Một là: xuất khẩu chỉ là tiêu thụ những sản phẩm thừa do sản xuất vượt quá nhu
cầu nội địa. Trong trường hợp nền kinh tế còn lạc hậu và chậm phát triển như nước ta,
sản xuất về cơ bản chưa đủ tiêu dùng và nếu chỉ thụ động chờ sự thừa ra của sản xuất thì
xuất khẩu vẫn cứ nhỏ bé.
Hai là: trên cơ sở lợi thế so sánh của đất nước mình, coi thị trường và đặc biệt thị
trường thế giới là hướng quan trọng để tổ chức sản xuất. Quan điểm này xuất phát từ nhu
cầu thị trường thế giới kết hợp với tiềm năng, thực lực của đất nước để tổ chức sản xuất,
hình thành các ngành kinh tế hướng về xuất khẩu. Những ngành kinh tế đó phải có kỹ
thuật và công nghệ tiên tiến để hàng hoá khi tham gia thị trường thế giới có đủ sức cạnh
tranh và mạng lại lợi ích cho quốc gia. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ
cấu kinh tế và thúc đẩy sản xuất phát triển. Đó là:
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi.
- Xuất khẩu tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần thúc đẩy sản xuất
phát triển.
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng
cao năng lực sản xuất trong nước.
- Thông qua xuất khẩu, hàng hoá của ta sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị
trường thế giới. Các cuộc cạnh tranh này đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại sản xuất, hình
thành cơ cấu sản xuất thích nghi được với thị trường .
Như vậy, theo cách hiểu này, xuất khẩu được coi là giải pháp làm chuyển dịch cơ
cấu kinh tế một cách mạnh mẽ theo chiều hướng có lợi hơn, hiệu quả kinh tế cao hơn.
1.2.3. Xuất khẩu tác động tích cực dến giải quyết công ăn việc làm và cải thiện
đời sống nhân dân.
Tác động của xuất khẩu đến đời sống của người dân bao gồm rất nhiều mặt. Trước
hết sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc với thu nhập
khá. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ
đời sống và đáp ứng ngày càng phong phú thêm nhu cầu người dân.
1.2.4. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các hoạt động kinh tế đối ngoại
của nước ta.
Quan hệ kinh tế đối ngoại là tổng thể các mối quan hệ về thương mại, kinh tế và
khoa học kỹ thuật giữa một quốc gia này với một quốc gia khác. Các hình thức của quan
hệ kinh tế quốc tế là xuất nhập khẩu hàng hoá hữu hình, đầu tư quốc tế, du lịch dịch vụ,
xuất khẩu sức lao động, hợp tác khoa học kỹ thuật, hợp tác sản xuất, hợp tác tài chính.
Xuất khẩu là một hoạt động rất cơ bản của kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc
đẩy nền kinh tế phát triển. Đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược
để thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Hiện nay Nhà nước đã và đang thực
hiện các biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế hướng về xuất khẩu (tất nhiên không coi
nhẹ sản xuất trong nước và thị trường trong nước), khuyến khích tư nhân mở rộng xuất
khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ cho đất nước.
1.3. Vai trò của xuất khẩu đối với Công ty XNK Tổng hợp I.
ở tầm Công ty nói chung, hoạt động xuất khẩu có ý nghĩa rất quan trọng. Thực
chất nó là hoạt động bán hàng của các Công ty xuất nhập khẩu và lợi nhuận từ hoạt động
này góp phần quyết định sự tồn tại và phát triển của Công ty. Lợi nhuận là nguồn bổ sung
vào nguồn vốn kinh doanh, các quỹ của Công ty, lợi nhuận cao cho phép Công ty đẩy
mạnh tái đầu tư vào tài sản cố định, tăng nguồn vốn lưu động để thực hiện hoạt động xuất
nhập khẩu, giúp Công ty ngày càng mở rộng và phát triển.
Xuất khẩu hàng hoá còn có vai trò nâng cao uy tín của Công ty trên trường quốc
tế. Nó cho phép Công ty thiết lập được các mối quan hệ với nhiều bạn hàng ở các nước
khác nhau và sẽ rất có lợi cho Công ty nếu duy trì tốt mối quan hệ này. Để có được điều
này Công ty, ngược lại phải đáp ứng tốt các yêu cầu của khách hàng về giá cả, chất lượng
hàng hoá, phương thức giao dịch, thanh toán,...
Xuất khẩu ngày nay luôn gắn liền với cạnh tranh do vậy đòi hỏi các Công ty phải
luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh... sao cho phù hợp với
tình hình thực tế để hoạt động đạt hiệu quả cao. Kết quả của hoạt động xuất khẩu sẽ cho
phép Công ty tự đánh giá được về đường lối chính sách, cách thức thực hiện của mình để
có những điều chỉnh phù hợp giúp Công ty phát triển đi lên.
Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I cũng không đi ngược lại quy luật chung này.
Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh chính của Công ty, tạo nên doanh thu và lợi nhuận
hàng năm. Trong đó, đặc biệt phải kể đến hàng nông sản là một trong những nhóm mặt
hàng xuất khẩu quan trọng, đóng góp trên 30% vào tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm
của Công ty. Kết quả xuất khẩu nông sản còn có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả hoạt động
xuất khẩu nói chung.
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu nông sản đối với nền kinh tế quốc dân.
Việt Nam là nước có truyền thống lâu đời về sản xuất nông nghiệp. Kinh nghiệm
trồng lúa nước và các công nông sản được truyền từ lớp người này sang lớp người khác,
từ thế hệ này sang thế hệ khác. Và đây được coi là một lợi thế lớn mà không phải bất cứ
nước nào cũng có được ngay cả một số nước sản xuất nông nghiệp trong khu vực như
Thái Lan, ấn Độ, Myanma,. Hơn thế nữa lực lượng lao động tham gia vào lĩnh vực này
chiếm tỷ lệ cao nhất (>70% dân số). Với cơ cấu dân số trẻ, đặc điểm nổi bật của lao động
Việt Nam là cần cù, chịu khó, thông minh, sáng tạo và tiếp thu khoa học kỹ thuật công
nghệ nhanh mà giá nhân công lại thuộc loại rẻ trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, sản
xuất và xuất khẩu nông sản có ý nghĩa hết sức quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, có
thể nói là quan trọng hơn hết bởi vì:
- Trong điều kiện nền kinh tế sản xuất nhỏ, công nghệ lạc hậu như Việt Nam thì
xuất khẩu chủ yếu dựa vào các sản phẩm có sẵn trong nước (chủ yếu do lao động thủ
công tạo ra) và những sản phẩm thô chưa qua chế biến hoặc chỉ qua sơ chế, đó là các mặt
hàng nông sản.
- Xuất khẩu hàng nông sản đã phần nào đáp ứng được mục tiêu phát huy lợi thế so
sánh của nông nghiệp nước ta trên trường quốc tế. Xuất khẩu nông sản chẳng những góp
phần đáng kể vào tích luỹ vốn cho công nghiệp hoá mà còn có ý nghĩa quan trọng trong
việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá cho nông dân, tăng thu nhập cho bà con, từ đó tăng sức
mua của dân cư trong thị trường nông thôn rộng lớn với hơn 80% dân số, góp phần duy
trì tốc độ tăng trưởng công nghiệp ở mức 2 con số, giảm bớt nhập siêu, giảm bớt căng
thẳng trong cán cân thanh toán cũng như nhu cầu ngoại tệ…
- Xuất khẩu nông sản sẽ khai thác được tối đa lợi thế của Việt Nam về điều kiện
khí hậu, tài nguyên đất, nước; nguồn nhân lực…
Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa do ảnh hưởng sâu sắc của vùng cận xích
đạo. Do vị trí địa lý trải dài từ Bắc vào Nam nên khí hậu Việt Nam có tính đa dạng, phân
biệt rõ ràng giữa các vùng, với mùa động lạnh ở Miền Bắc, khí hậu kiểu Nam á ở Tây
nguyên, Đông Nam Bộ ở đồng bằng sông Cửu Long. Đây chính là điều kiện thuận lợi để
Việt Nam đa dạng hoá các loại cây nông sản. Thêm vào đó tiềm năng nhiệt, ẩm và gió
khá dồi dào và phân bố tương đối đồng đều trong cả nước.Với số giờ nắng cao, cường độ
bức xạ lớn, tài nguyên nhiệt phong phú. Độ ẩm tương đối trong năm hơn 80%, lượng
mưa lớn trung bình là 2000 mm - 2500 mm/năm. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc sinh
trưởng và phát triển của nhiều loại cây trồng là đối với lúa nước, cao su, càphê. ..
Tiềm năng đất nông nghiệp của cả nước là 10 – 11,157 triệu ha. Hiện nay Việt
Nam mới chỉ sử dụng hết 65% quỹ đất nông nghiệp trong đó đất trồng cây là 5,6 triệu ha,
gần 8 triệu ha cây trồng (riêng trồng lúa chiếm khoảng 5,4 triệu ha và 2,3 triệu cây trồng
lâu năm) ngoài ra là 33 vạn ha đồng cỏ tự nhiên và 17 triệu ha mặt nước. Số đất có thể
mở rộng thêm phần lớn là đất dốc dễ bị xói mòn, thoái hoá, diện tích đất này ở vùng miền
núi Bắc Bộ chiếm khoảng 45% tổng diện tích, ở vùng khu 4 cũ khoảng 35% tổng diện
tích, vùng núi khu 5 khoảng 45%, vùng tây nguyên khoảng 76% và vùng đồng bằng Nam
Bộ khoảng 34%.
II. Thị trường nông sản thế giới và đặc điểm mặt hàng nông sản xuất khẩu.
1. Thị trường nông sản thế giới.
Mặt hàng nông sản đã, đang và sẽ là những mặt hàng có nhu cầu lớn trên thị
trường thế giới do tính chất đặc sản của nó. Chỉ có những nước có khí hậu nhiệt đới như
Việt Nam và một số nước khác ở Châu á, Châu Phi và Châu Mỹ La Tinh mới có điều
kiện sản xuất tốt.
Thị trường tiêu thụ các mặt hàng nông sản chủ yếu là thị trường các nước phát
triển vào bậc cao trên thế giới như Anh, Mỹ, Pháp, Đức, ý, Nhật Bản… và đây là những
quốc gia có khả năng thanh toán cao. Hiện nay, các quốc gia này có sự thay đổi trong cơ
cấu tiêu dùng hàng nông sản: đó là việc chuyển sang dùng sản phẩm nông sản hữu cơ
(các sản phẩm được sản xuất từ thiên nhiên, không sử dụng thuốc trừ sâu, phân bón) bởi
đây cũng là những nước thực sự quan tâm đến sức khoẻ người dân. Những nước xuất
khẩu nông sản lớn trên thế giới (Thái Lan, Trung Quốc, Mỹ, Pháp) đang hết sức quan tâm
đến vấn đề này.
Thị trường xuất khẩu nông sản hiện nay của Việt Nam có nhiều thay đổi. Trước
đây thị trường chủ ỷếu của ta là các nước thuộc Liên Xô cũ và Đông Âu nhưng gần đây
thị trường này ngày càng bị thu hẹp. Năm 1990, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang
khu vực này chiếm tới 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước nhưng đến năm 1995,
con số này chỉ còn là 18%. Nguyên nhân chính là sự sụp đổ của hệ thống các nước xã hội
chủ nghĩa thuộc Đông Âu đã kéo theo hàng loạt các vấn đề như khủng hoảng kinh tế,
chính trị, thất nghiệp, sự xuống giá của đồng Rúp… Vấn đề đặt ra là cần phải khôi phục
và mở rộng thị trường này. Bởi theo phân tích cơ cấu hàng nhập khẩu của các nước này
thì đây là thị trường có nhu cầu lớn và hàng Việt Nam có khả năng thâm nhập vào thị
trường này với mức độ cao. Điều đáng mừng là thị trường các nước TBCN ngày càng
được mở rộng, đặc biệt là sau khi Mỹ bỏ cấm vận đối với Việt Nam, Việt Nam trở thành
thành viên chính thức của ASEAN... thì giao lưu hàng hoá giữa nước ta và các nước tư
bản chủ nghĩa ngày càng phong phú và với quy mô lớn hơn. Thị trường xuất khẩu nông
sản chính của ta vẫn là các nước trong khu vực Châu á (Iran, Irắc, Malaixia, Indonesia,
Philippine…), Tây Âu và Mỹ.
Một số thị trường xuất khẩu các mặt hàng nông sản của Việt Nam là:
- Thị trường xuất khẩu gạo: Malaixia, Iran, Irắc, Indonesia, Mỹ.
- Thị trường xuất khẩu cà phê: Đông Âu, Nga, Thuỵ Sĩ, Pháp, Anh, Hàlan, Đức,
Mỹ.
- Thị trường xuất khẩu hạt điều: Trung Quốc, Singapore, ấn Độ, Indonesia, úc,
Canada, Hồng Kông.
- Thị trường xuất khẩu chè: Nga, Anh, Đài Loan, Trung Quốc, Irắc, Singapore.
- Thị trường xuất khẩu rau quả: EU, Nga, Mỹ, Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc,
Nhật Bản.
2. Đặc điểm của mặt hàng nông sản xuất khẩu.
Nói chung, các mặt hàng nông sản thường là những hàng hoá thiết yếu đối với đời
sống của mỗi quốc gia (gạo, lạc, rau quả…).
Mặt khác, nông sản là mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của các quốc gia chậm và đang
phát triển. Nó là một trong những mặt hàng có tính chiến lược bởi vì đại bộ phận việc
mua bán hàng nông sản quốc tế được thực hiện thông qua hiệp định giữa các chính phủ,
mang tính dài hạn.
Mặt khác, tình hình buôn bán và sản xuất hàng nông sản phụ thuộc chủ yếu vào
tính thời vụ, mùa màng thu hoạch, nhu cầu và điều kiện thanh toán của từng quốc gia.
Trên thế giới không chỉ có Việt Nam là nước xuất khẩu nông sản mà còn có nhiều
quốc gia khác tham gia. Ví dụ: Về gạo có Thái Lan, Mỹ… Việt Nam đứng thứ hai sau
Thái Lan về xuất khẩu gạo; Về lạc có ấn Độ, Trung Quốc, Mỹ; Về cà phê thì Việt Nam
chỉ mới tham gia vào thị trường thế giới, nguồn cung cấp chính cà phê cho thị trường thế
giới vẫn là Braxin, Colombia, Indonesia.
* Đặc điểm của mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam:
- Mặt hàng nông sản luôn là sản phẩm xuất khẩu chính của Việt Nam. Mặt hàng
này số lượng xuất khẩu tuy nhiều nhưng chất lượng còn thấp nên giá trị thu về không
cao.
+ Về mặt hàng gạo, đối với loại có phẩm cấp thấp, gạo Việt Nam có thể cạnh tranh
tốt với các nước ấn độ, Trungquốc, Pakistan để xuất sang các nước có thu nhập thấp hoặc
nhận viện trợ. Nhưng đối với loại có phẩm cấp cao, Việt Nam chưa thể cạnh tranh nổi với
Mỹ, Thái Lan do khâu bảo quản, phơi sấy, thiết bị đánh bóng còn yếu.
+ Về mặt hàng cà phê, vấn đề đáng bàn cãi nhất vẫn là chất lượng cà phê Việt
Nam không đồng đều do khâu phơi sấy, phân loại không đảm bảo. Do đó, hiện nay, Việt
Nam mới chỉ có các hợp đồng giao ngay, chưa có các hợp đồng dài hạn.
+ Về mặt hàng chè, mấy năm qua, ngành chè đã cải tiến quy trình công nghệ, hiện
đại hoá các Nhà máy chế biến, mở rộng liên doanh để có nhiều sản phẩm phù hợp với
yêu cầu của khách hàng, đã tạo dựng được một số thị trường ổn định. Nhưng chè Việt
Nam vẫn chưa tạo dựng được uy tín thực sự trên thị trường quốc tế do chè xuất khẩu
không đảm bảo được chất lượng đồng đều vì nguồn hàng cung cấp từ nhiều thành phần
kinh tế.
- Giá hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam thường thấp hơn so với các sản phẩm
cùng loại của các nước khác.
+ Về mặt hàng cao su: Việt Nam đã có nhiều ưu tiên trong phát triển ngành cao su
như tăng diện tích đất trồng, đưa công nghệ tiên tiến vào khai thác mủ và chế biến, nhưng
giá cao su thiên nhiên Việt Nam lại thấp hơn 7% so với giá cao su cùng loại của Thái
Lan, Indonesia, Malaixia. So với nước xuất khẩu gạo, giá gạo Việt Nam tương đối thấp:
thấp hơn Thái Lan 15 - 20 USD/tấn, ấn Độ 10 - 12 USD/tấn, Pakistan 12 - 15 USD/tấn.
Nguyên nhân dẫn tới điều đó chính là chất lượng hàng xuất khẩu của ta còn thấp
và phần nữa là do chúng ta chưa tạo được uy tín, chưa tạo được “thế” của mình trên
trường quốc tế.
II. Nội dung của hoạt động xuất khẩu nông sản tại Công ty Xnk tổng hợp I.
1. Nghiên cứu thị trường, xác định mặt hàng xuất khẩu
1.1. Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới
Như chúng ta đã biết thị trường là nơi gặp gỡ của cung và cầu. Mọi hoạt động của
nó đều diễn ra theo đúng quy luật như quy luật cung, cầu, giá cả, giá trị...
Thật vậy thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền với sản xuất và lưu
thông, ở đâu có sản xuất thì ở đó có thị trường.
Để nắm rõ các yếu tố của thị trường, hiểu biết các quy luật vận động của thị
trường nhằm mục đích thích ứng kịp thời và làm chủ nó thì phải nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới có ý nghĩa quan trọng sống còn trong việc phát
triển và nâng cao hiệu quả kinh tế, đặc biệt là công tác xuất, nhập khẩu của mỗi quốc gia
nói chung và Công ty nói riêng. Nghiên cứu và nắm vững đặc điểm biến động của thị
trường và giá cả hàng hoá thế giới là nền móng vững chắc đảm bảo cho các tổ chức kinh
doanh xuất khẩu hoạt động trên thị trường thế giới có hiệu qủa nhất.
Để công tác nghiên cứu thị trường có hiệu quả chúng ta cần phải xem xét toàn bộ
quá trình tái sản xuất của một ngành sản xuất hàng hoá, tức là việc nghiên cứu không chỉ
trong lĩnh vực lưu thông mà còn ở lĩnh vực phân phối, tiêu dùng.
Các Công ty khi nghiên cứu thị trường cần phải nắm vững được thị trường và
khách hàng để trả lời tốt các câu hỏi của hai vấn đề là thị trường và khách hàng Công ty
cần phải nắm bắt được các vấn đề sau:
Thị trường đang cần mặt hàng gì?
Theo như quan điểm của Marketing đương thời thì các nhà kinh doanh phải “bán
cái mà thị trường cần chứ không phải cái mình có”. Vì vậy cần phải nghiên cứu về
khách hàng trên thị trường thế giới, nhận biết mặt hàng kinh doanh của Công ty. Trước
tiên phải dựa vào nhu cầu tiêu dùng của khách hàng như quy cách, chủng loại, kích cỡ,
giá cả, thời vụ và thị hiếu cũng như tập quán của người tiêu dùng từng địa phương, từng
lĩnh vực sản xuất. Từ đó xem xét các khía cạnh của hàng hoá trên thị trường thể giới. Về
mặt thương phẩm phải hiểu rõ giá trị hàng hoá, công dụng, các đặc tính lý hoá, quy cách
phẩm chất, mẫu mã bao gói. Để hiểu rõ vấn đề này yêu cầu các nhà kinh doanh phải nhạy
bén, có kiến thức chuyên sâu và kinh nghiệm để dự đoán các xu hướng biến động trong
nhu cầu của khách hàng.
Trong xu thế hiện nay, đòi hỏi việc nghiên cứu phải nắm bắt rõ mặt hàng mình lựa
chọn, kinh doanh đang ở trong thời kỳ nào của chu kỳ sống của sản phẩm trên thị trường,
Bởi vì chu kỳ sống của sản phẩm gắn liền với việc tiêu thụ hàng hoá đó trên thị trường,
thông thường việc sản xuất gắn liền với việc xuất khẩu những mặt hàng đang ở giai đoạn
thâm nhập, phát triển là có nhiều thuận lợi tốt nhất. Tuy nhiên đối với những sản phẩm
đang ở giai đoạn bão hoà hoặc suy thoái mà Công ty có những biện pháp xúc tiến có hiệu
quả thì vẫn có thể tiến hành kinh doanh xuất khẩu và thu được lợi nhuận.
Tóm lại việc nghiên cứu mặt hàng thị trường đang cần là một trong những yếu tố
tiên phong cho hoạt động thành công của Công ty.
Nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên một phạm vi thị
trường nhất định trong thời gian nhất định (thường là một năm). Việc nghiên cứu dung
lượng thị trường cần nắm vững khối lượng nhu cầu của khách hàng và lượng dự trữ, xu
hướng biến động của nhu cầu trong từng thời điểm…..Cùng với việc nắm vững nhu cầu
của khách hàng là phải nắm vững khả năng cung cấp của các đối thủ cạnh tranh và các
mặt hàng thay thế, khả năng lựa chọn mua bán.
Như chúng ta đã biết dung lượng thị trường không phải là cố định, nó thường
xuyên biến động theo thời gian, không gian dưới sự tác động của nhiều yếu tố. Đối với
mặt hàng mang tính thời vụ như hàng nông sản thì điều này lại càng đúng. Công ty cần
dự báo được các nhân tố làm thay đổi dung lượng thị trường, như:
+ Các nhân tố có ảnh hưởng tới dung lượng thị trường có tính chất chu kỳ như tình
hình kinh tế, thời vụ...
+ Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến sự biến động của thị trường như phát minh,
sáng chế khoa học , chính sách của nhà nước ...
+ Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời với dung lượng thị trường như đầu cơ tích trữ,
hạn hán, thiên tai, đình công..
Khi nghiên cứu sự ảnh hưởng của các nhân tố phải thấy được nhóm các nhân tố
tác động chủ yếu trong từng thời kỳ và xu thế của thời kỳ tiếp theo để Công ty có biện
pháp thích ứng cho phù hợp . Kể cả kế hoạch đị tắt đón đầu.
* Nghiên cứu giá cả các loại hàng hoá và các nhân tố ảnh hưởng.
Trong thương mại giá cả hàng hoá được coi là tổng hợp đó được bao gồm giá vốn
của hàng hoá, bao bì, chi phí vận chuyển, chi phí bảo hiểm và các chi phí khác tuỳ theo
các bước thực hiện và theo sự thoả thuận giữa các bên tham gia.
Để có thể dự đoán một cách tương đối chính xác về giá cả của hàng hoá trên thị
trường thế giới. Trước hết phải đánh giá một cách chính xác các nhân tố ảnh hưởng đến
giá cả và xu hướng vận động của giá cả hàng hoá đó.
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới giá cả của hàng hoá trên thị trường quốc tế.
Người ta có thể phân loại các nhân tố ảnh hưởng tới giá cả theo nhiều phương diện khác
nhau tuỳ thuộc vào mục đích nhu cầu. Thông thường những nhà hoạt động chiến lược
thường phân chia thành nhóm các nhân tố sau:
+ Nhân tố chu kỳ: là sự vận động có tính quy luật của nền kinh tế, đặc biệt là sự
biến động thăng trầm của nền kinh tế các nước.
+ Nhân tố lũng đoạn của các Công ty xuyên quốc gia (MNC). Đây là một trong
những nhân tố quan trọng có ảnh hưởng rất lớn tới sự hình thành của giá cả của các loại
hàng hoá trên thị trường quốc tế. Lũng đoạn làm xuất hiện nhiều mức giá khác nhau trên
thị trường cho một loại hàng hoá. Lũng đoạn cạnh tranh: cạnh tranh bao gồm cạnh tranh
giữa người bán với nhau, ngời mua với người mua. Trong thực tế cạnh tranh làm cho giá
rẻ đi và chất lượng nâng cao.
+ Nhân tố cung cầu: là nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến lượng cung cấp
hay lượng tiêu thụ của hàng hoá trên thị trường, do vậy có ảnh hưởng rất lớn đến sự biến
động của giá cả hàng hoá.
+ Nhân tố lạm phát: giá cả hàng hoá không những phụ thuộc vào giá trị của nó mà
còn phụ thuộc vào giá trị của tiền tệ. Vậy cùng với các nhân tố khác sự xuất hiện của lạm
phát làm cho đồng tiềm mất giá do vậy ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá của một quốc gia
trong trao đổi thương mại quốc tế.
+ Nhân tố thời vụ: là nhân tố tác động đến giá cả theo tính chất thời vụ của sản
xuất và lưu thông.
Ngoài ra các chính sách của Chính phủ, tình hình an ninh, chính trị của các quốc
gia… cũng tác động đến giá cả. Do vậy việc nghiên cứu và tính toán một cách chính xác
giá cả của hợp đồng kinh doanh xuất khẩu là một công việc khó khăn đòi hỏi phải được
xem xét trên nhiều khía cạnh, bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến lượng tiêu thụ và lợi nhuận
của Công ty. Nắm vững giá cả hàng hoá sẽ cho phép Công ty có khả năng đưa ra những
chính sách giá cả hợp lý, giành được thắng lợi trong xuất khẩu.
* Lựa chọn đối tượng giao dịch.
Căn cứ vào các kết quả của việc nghiên cứu dung lượng của thị trường, giá cả
Công ty sẽ tiến hành lựa chọn gia giao phương thức giao dịch và thương nhân để tiến
hành giao dịch. Khi tiến hành giao dịch cần phải căn cứ vào lượng hàng nước đó cần
nhập, chất lượng hàng nhập, chính sách và tập quán thương mại của nước đó. Ngoài ra
điều kiện về địa lý cũng là vấn đề cần quan tâm.
Việc lựa chọn đối tượng để giao dịch cần phải dựa theo một số chỉ tiêu như sau:
+ Tình hình sản xuất kinh doanh của hãng, lĩnh vực và phạm vi kinh doanh khả
năng cung cấp hàng hoá thường xuyên của hãng.
+ Khả năng cung cấp hàng hoá thường xuyên của hãng.
+ Khả năng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật.
+ Thái độ và quan điểm kinh doanh là chiếm lĩnh thị trường hay cố gắng dành lấy
độc quyền về hàng hoá.
+ Uy tín của bạn hàng.
Trong việc lựa chọn thương nhân giao dịch tốt nhất nên gặp trực tiếp tránh những
đối tác trung gian, trừ trường hợp Công ty muốn thâm nhập vào thị trường mới chưa có
kinh nghiệm. Việc lựa chọn các đối tác phù hợp là một trong những điều kiện cần để thực
hiện thắng lợi các hợp đồng thương mại quốc tế. Song nó phụ thuộc rất nhiều vào năng
lực của người làm công tác đàm phán, giao dịch.
2. Xây dựng chiến lược và kế hoạch xuất khẩu.
2.1. Chiến lược xuất khẩu.
Chiến lược xuất khẩu là việc Công ty xác định hệ thống các mục tiêu xuất khẩu
trong một giai đoạn nhất định và xây dựng các giải pháp để thực hiện các mục tiêu đã đề
ra. Chiến lược xuất khẩu có thể là: chiến lược chuyên môn hoá hay đa dạng hoá mặt hàng
xuất khẩu, chiến lược về doanh thu, về kim ngạch hay tối đa hoá lợi nhuận từ hoạt động
xuất khẩu.
Công tác xây dựng chiến lược có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự thành bại
của hoạt động kinh doanh. Khi hoạch định chiến lược cần phải nhìn xa trông rộng, nắm
bắt được những xu thế biến động của thị trường, của triển vọng trong tương lai.
2.2. Kế hoạch xuất khẩu.
Công ty cần phải đặt ra những mục tiêu kế hoạch trong từng thời kỳ nhất định
(thời kỳ ngắn so với mục tiêu chiến lược) và thống nhất với mục tiêu chiến lược. Mục
tiêu cần phải rõ ràng, cụ thể đối với toàn Công ty và đối với từng bộ phận. Chẳng hạn khi
mục tiêu chiến lược của Công ty trong giai đoạn này là lợi nhuận, thì mục tiêu kế hoạch
chung của Công ty là phải đạt được bao nhiêu lợi nhuận trong năm, trong đó chi nhánh 1
và chi nhánh 2 sẽ phải đạt được lợi nhuận là bao nhiêu…
Có thể vạch ra các mục tiêu định tính hay định lượng. Các mục tiêu định lượng
được gọi là các chỉ tiêu kế hoạch xuất khẩu, bao gồm: chỉ tiêu doanh số, chỉ tiêu chi phí,
chỉ tiêu lợi nhuận, dự trữ… Công ty cần xây dựng kế hoạch các công việc cụ thể cần làm
để hoàn thành các chỉ tiêu này.
Đối với mặt hàng nông sản, do tính chất thời vụ và những biến động thất thường
về sản lượng, việc xây dựng chiến lược xuất khẩu và các kế hoạch để thực hiện chiến
lược xuất khẩu là công việc rất cần thiết. Nó giúp Công ty nắm bắt được những cơ hội và
giảm thiểu những rủi ro. Chẳng hạn như đối với mặt hàng cà phê, sản lượng cà phê biến
đổi rất thất thường trên thị trường quốc tế. Việc dự báo chính xác nhu càu thị trường từ
đó xây dựng lên kế hoạch thu mua, dự trữ... sẽ đảm bảo xuất khẩu thắng lợi.
3. Lựa chọn hình thức xuất khẩu nông sản.
ở Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I có các hình thức xuất khẩu nông sản chủ yếu.
- Xuất khẩu trực tiếp: là hình thức xuất khẩu diễn ra trực tiếp giữa người mua và
người bán về mọi quan hệ. Hàng hoá, giá cả và điều kiện giao dịch... Những nội dung này
được thảo luận một cách tự nguyện, không có sự ràng buộc với lần giao dịch trước, việc
mua không gắn liền với việc bán.
- Xuất khẩu qua trung gian: theo hình thức này mọi việc kiến lập giữa người xuất
và người nhập phải qua một người thứ ba. Người thứ ba này thường là các đại lý và môi
giới. Hình thức xuất khẩu gián tiếp này cản trở Công ty nắm bắt được những tthông tin
phản hồi từ người mua hàng.
- Buôn bán đối lưu: là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ
với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, giá trị trao đổi là tương đương. Trong
hình thức này các bên luôn quan tâm đến sự cân bằng về trao đổi hàng hoá: về giá trị,
chất lượng cũng như điều kiện giao dịch.
- Xuất khẩu uỷ thác: là việc Công ty đứng ra đảm nhận các công việc giao dịch,
đàm phán, ký kết hợp đồng xuất khẩu thay cho bên uỷ thác. trong hình thức xuất khẩu uỷ
thác, Công ty là người đóng vai trò trung gian giữa những đơn vị có nhu cầu xuất khẩu
nông sản ở trong nước và bạn hàng nước ngoài.
- Xuất khẩu theo nghị định thư: là hình thức xuất khẩu hàng hoá đã được ký kết
theo nghị định thư giữa hai chính phủ (thường là để trả nợ). Xuất khẩu theo nghị định thư
có ưu điểm như: khả năng thanh toán chắc chắn (do Nhà nước trả cho đơn vị xuất khẩu),
giá cả hàng hoá tương đối cao, việc thu mua, chế biến được ưu tiên... Công ty xuất nhập
khẩu tổng hợp I tiến hành xuất khẩu nông sản theo nghị định thư khá thường xuyên, chủ
yếu là với mục đích trả nợ một số nước như Nga, Angiêri...
Những hình thức xuất khẩu nông sản trình bày ở trên đều có những ưu nhược điểm
nhất định, Công ty sẽ cân nhắc lựa chọn hình thức xuất khẩu trong điều kiện cụ thể sau
khi đã phân tích hiệu quả một cách chính xác.
4. Các hoạt động marketing trong xuất khẩu nông sản.
Công ty vận dụng chiến thuật marketing mix 4P (Product, Place, Price,
Promotion). để tạo dựng uy tín cho sản phẩm của mình, Công ty rất chú trọng đến phân
loại sản phẩm theo chất lượng, thiết kế bao bì, nhãn mác, catologue phù hợp với từng
chủng loại, đảm bảo tính hấp dẫn, độ tin cậy. Công ty cũng thường xuyên tham gia các
hội chợ triển lãm quốc tế để giới thiệu hàng nông sản của mình với khách hàng nước
ngoài. Các chào hàng, báo giá luôn sẵn sàng để phục vụ khách hàng quan tâm tạo một
hình ảnh tốt về tác phong kinh doanh của Công ty. Ngoài ra Công ty còn lưu ý đến việc
đưa ra chính sách định giá đúng đắn cho từng thời kỳ, vừa đảm bảo được khả năng cạnh
tranh của hàng hoá, vừa thực hiện được mục tiêu đã đề ra. Tuỳ từng thời kỳ mà định giá
có thể nhằm một trong những mục tiêu sau:
+ Định giá nhằm đảm bảo mức thu nhập định trước.
+ Định giá nhằm mục tiêu doanh số xuất khẩu.
+ Định giá nhằm mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận xuất khẩu.
+ Định giá nhằm mục tiêu phát triển các phân đoạn thị trường.
+ Định giá nhằm mục tiêu cạnh tranh đối đầu.
+ Định giá nhằm mục tiêu không mang tính giá cả.
5. Tổ chức thực hiện kế hoạch xuất khẩu nông sản.
5.1. Tạo nguồn hàng xuất khẩu.
Nguồn hàng xuất khẩu là toàn bộ hàng hoá và dịch vụ của một Công ty, của một
địa phương hoặc của toàn bộ đất nước có khả năng xuất khẩu được. Tạo nguồn hàng xuất
khẩu bao gồm mọi hoạt động từ đầu tư sản xuất trực tiếp đến các nghiệp vụ thu mua, ký
kết các hợp đồng vận chuyển, bảo quản, sơ chế, phân loại nhằm tạo ra hàng nông sản có
đủ tiêu chuẩn xuất khẩu.
a. Nghiên cứu nguồn hàng nông sản xuất khẩu.
Nghiên cứu nguồn hàng nông sản xuất khẩu là nghiên cứu khả năng cung cấp
nguồn hàng được xác định bởi nguồn hàng thực tế và nguồn hàng tiềm năng. Nguồn
hàng thực tế là nguồn hàng đã có và sẵn sàng đưa vào lưu thông, nguồn hàng này chỉ cần
thu mua, phân loại, đóng gói là có thể xuất khẩu. Còn nguồn hàng tiềm năng là nguồn
hàng chưa xuất hiện, nó có thể có hoặc không có trên thị trường. Để khai thác nguồn
hàng tiềm năng đòi hỏi Công ty cần có sự đầu tư, có đơn đặt hàng, có hợp đồng cam kết
cho việc thu mua… thì người cung cấp mới tiến hành sản xuất. Trong công tác xuất khẩu
thì khai thác nguồn hàng tiềm năng là rất quan trọng vì nó đáp ứng được yêu câù về số
lượng, chất lượng củangười xuất khẩu.
b. Tổ chức hệ thống thu mua hàng cho xuất khẩu.
Hệ thống thu mua hàng bao gồm các đại lý, hệ thống kho hàng ở các địa phương,
các khu vực có mặt hàng nông sản cần thu mua. Chi phí thu mua thường khá lớn đòi hỏi
Công ty luôn phải cân nhắc khi xây dựng và lựa chọn đại lý. Mạng lưới thu mua cần phải
gắn liền với điều kiện cơ sở hạ tầng giao thông của cácđịa phương. Sự phối hợp nhịp
nhàng giữa thu mua và vận chuyển là cơ sở dể đảm bảo tiến độ thu mua và chất lượng
hàng hoá , tuỳ theo đặc điểm của hàng hoá mà có phương án vận chuyển hợp lý.
Mạng lưới thu hàng nông sản của Công ty hiện nay phát triển tương đối rộng. Gạo
thường được mua ở các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long như Kiên Giang, Cần Thơ,Long
An…; cao su, cà phê, tiêu ở Lâm Đồng, Tây Ninh…; lạc nhân chủ yếu ở Nghệ An; hoa
hồi, quế ở Bắc Ninh, lạng Sơn…Tại mỗi địa phương này đều có các đơn vị chân hàng lâu
năm, tin cậy của Công ty.
c. Ký kết hợp đồng thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu.
Phần lớn khối lượng hàng hoá được mua bán giữa Công ty hiện nay và nơi cung
cấp đều thông qua các hợp đồng thu mua, đổi hàng, gia công... dựa trên những thoả thuận
và tự nguyện của các bên ký kết.
d. Xúc tiến nguồn hàng.
Sau khi ký kết hợp đồng thu mua, Công ty lập kế hoạch thu mua, tiến hành sắp
xếp các phần việc phải làm và chỉ đạo các bộ phận thực hiện kế hoạch. Cụ thể là:
- Đưa hệ thống kênh thu mua đã được thiết lập đi vào hoạt động. Có thể tổ chức bộ
máy chỉ đạo thu mua theo từng mặt hàng hoặc từng nhóm hàng.
- Chuẩnbị đầy dủ các thủ tục giáy tờ, chứng từ, hoá đơn, bộ phận giám định chất
lượng hàng hoá và các thủ tục khác để giao nhận hàng hoá theo hợp đồng đã ký.
- Tổ chức hệ thống kho hàng tại các điểm đã quy định, làm các thủ tục cần thiết để
huy động hệ thống phương tiện sẵn có hoặc thuê phương tiện vận tải bên ngoài.
- Đưa các cơ sở sản xuất, gia công chế biến hàng nông sản vào hoạt động theo
phương án kinh doanh đã định.
- Chuẩnbị tiền để thanh toán theo đúng hợp đồng đối với các nhà sản xuất, các chủ
hàng, các đại lý, các trung gian.
e. Tiếp nhận, bảo quản và xuất kho hàng xuất khẩu.
Các loại hàng nông sản trước khi xuất khẩu đều trải qua một hoặc một số kho để
bảo quản, phân loại đóng gói hoặc chờ làm thủ tục xuất khẩu. Công ty cần chuẩn bị tốt
các kho để tiếp nhận hàng hoá.
Bảo quản hàng nông sản cũng là vấn đề hết sức khó khăn. Công ty cần phải luôn
luôn nâng cao, trang bị các phương tiện kỹ thuật dể kho có đủ khả năng bảo quản hàng
trong mọi điều kiện thời tiết. Thông thường, Công ty cử cán bộ tới kho của các đơn vị
chân hàng kiểm hàng và nhồi container để tận dụng hệ thống kho chuyên dụng của các
đơn vị này.
5.2. Đàm phán ký kết hợp đồng.
Đàm phán làviệc trao đổi với nhau các điều kiện mua bán giữa các nhà kinh doanh
xuất nhập khẩu để đi đến thống nhất ký kết hợp đồng. Để có một cuộc đàm phán có hiệu
quả người đàm phán phải kết hợp giữa sự nhạy bén và kiến thức kinh nghiệm của mình.
Đàm phán trong kinh doanh xuất nhập khẩu có nhiều hình thức khác nhau (qua
thư tín, qua điện toại, gặp gỡ trực tiếp) tuỷ từng trường hợp cụ thể mà Công ty quyết định
lựa chọn hình thức nào hay kết hợp các hình thức đó.
5.3. Ký kết hợp đồng xuất khẩu
Việc giao dịch đàm phán nếu có kết quả sẽ dẫn tới việc ký kết hợp đồng xuất
khẩu. Hợp đồng xuất khẩu thường được thành lập dưới hình thức văn bản. ở nước ta,
hình thức văn bản của hợp đồng là bắt buộc đối với các đơn vị xuất khẩu. Đây là hình
thức tốt nhất để bảo vệ quyền lợi của cả hai bên. Ngoài ra nó còn tạo thuận lợi cho thống
kê, theo dõi, kiểm tra việc ký kết và thực hiện hợp đồng.
Nhìn chung nội dung hợp đồng xuất khẩu nông sản của Công ty cũng bao gồm các
điều khoản như cáchợp đồng xuất khẩu thông thường khác. Tuy nhiên do đặc thù của
hàng nông sản, hợp đồng thường đặc biệt nhấn mạnh điều khoản chất lượng
(Specification) với các yếu tố độ ẩm (Moisture), tạp chất (Admixture)... và điều khoản
kiểm hàng (Inspection). 100% hàng nông sản xuất khẩu của Công ty đều được tổ chức
giám định hàng hoá SGS (Societe Generalede Surveyllance) hoặc Vinacontrol kiểm tra
và chứng nhận về số lượng, phẩm chất tại cảngđi. Chứng nhận của SGS và Vinacontrol
được khách hàng nước ngoài chấp nhận là có hiệu lực pháp lý cuối cùng. Giấy chứng
nhận vệ sinh (Phytosanitary) và chứng nhận hàng đã qua hun trùng kiểm dịch
(Fumigation).
5.4. Tổ chức thực hiện hợp đồng.
Sau khi hợp đỗngxuất nhập khẩu được ký kết, cttiến hành sắp xếp các công việc
phải làm và tổ chức thực hiện hợp đồng một cách quy củ, hợp lý.
Chương II
Thực trạng hoạt động xuất khẩu nông sản tại Công ty Xuất Nhập Khẩu Tổng hợp I
I. Khái quát chung về Công ty XNK Tổng hợp I.
1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Công ty.
Đầu những năm 80, Nhà nước ban hành những chủ trương chính sách nhằm đẩy
mạnh công tác xuất nhập khẩu, trong đó có việc mở rộng quyền xuất nhập khẩu cho các
ngành, các địa phương được sử dụng ngoại tệ do xuất khẩu vượt chỉ tiêu hoặc ngoài chỉ
tiêu phải nộp, công tác xuất nhập khẩu phát triển mạnh mẽ.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để vừa khuyến khích xuất nhập khẩu ở địa phương
vừa chấn chỉnh, từng bước lặp lại kỷ cương hoạt động này. Muốn như vậy thì phải một
lúc tôn trọng các quy luật kinh tế, vừa phải giữ đúng đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội
của Đảng và vừa phải mang lại hiệu quả cho nền kinh tế quốc dân.
Công ty XNK Tổng hợp I ra đời trong hoàn cảnh đó, nhận nhiệm vụ góp phần đưa
công tác xuất nhập khẩu đi đúng hướng, thu hút các đầu mối nhỏ về một mối.
Công ty được thành lập từ 15/12/1981 theo quyết định 1356/TCCB của Bộ Ngoại
Thương (nay là Bộ Thương mại) nhưng thực tế phải đến 3/1982 mới đi vào hoạt động.
Công ty XNK Tổng hợp I là một tổ chức kinh doanh XNK trực thuộc Bộ Thương
mại, hoạt động theo chế độ hạch toán, có tư cách pháp nhân, có vốn và tài sản riêng tại
Ngân hàng.
Tên giao dịch đối ngoại của Công ty: The Vietnam National General Export –
Import Corporation, viết tắt: GENERALEXIM.
Trụ sở: 46 Ngô Quyền, Hà Nội.
Địa chỉ thư tín: GENERALEXIM - HANOI.
Điện thoại giao dịch: (84 - 4) 8264009.
Fax: 84-4 8259894.
Tháng 7/1983, theo quyết định số 858/TCCB của Bộ trưởng Bộ thương mại, Công
ty phát triển và nhập khẩu (PROMEXIM) hợp nhất vào Công ty XNK Tổng hợp I.
Công ty XNK Tổng hợp I có các chức năng nhiệm vụ sau:
- Nhiệm vụ chủ yếu: Trực tiếp xuất khẩu hoặc nhập khẩu các mặt hàng ngoài chỉ
tiêu giao nộp của các địa phương, các ngành, các xí nghiệp chủ yếu từ Bình Trị Thiên trở
ra.
- Ngoài ra, Công ty còn được Bộ giao thêm một số nhiệm vụ khác theo từng giai
đoạn như:
+ Thực hiện xuất khẩu hoặc nhập khẩu một số mặt hàng được giao theo chỉ tiêu
pháp lệnh.
+ Tiếp nhận và phân phối hàng viện trợ của CHDC Đức thông qua hiệp định chính
phủ.
+ Kinh doanh và cung ứng hàng xuất khẩu tại chỗ cho các cơ sở có chức năng bán
lẻ thu ngoại tệ mạnh.
+ Trao đổi hàng hoá ngoài Nghị định thư với các nước thuộc khu vực I.
Mục đích hoạt động kinh doanh của Công ty là thông qua hoạt động kinh doanh
nhằm đẩy mạnh hàng xuất khẩu, làm tốt công tác nhập khẩu phục vụ nhu cầu sản xuất
trong nước, góp phần nâng cao chất lượng hàng hoá, tăng thu ngoại tệ và phát triển kinh
tế đất nước.
Phạm vi hoạt động kinh doanh của Công ty:
- Được xuất khẩu các mặt hàng nông sản, hải sản, lâm sản, khoáng sản, hàng thủ
công mỹ nghệ, hàng tạp phẩm, hàng công nghiệp, hoá chất và hàng tiêu dùng.
- Được sản xuất gia công chế biến hàng hoá xuất khẩu và hàng hoá tiêu dùng trong
nước, hàng may mặc, đồ chơi điện tử, điện lạnh,dược liệu, nông lâm sản chế biến.
- Được làm dịch vụ thương mại: nhập khẩu tái xuất, chuyển khẩu quá cảnh và môi
giới thương mại.
- Được vận tải hàng hoá phục vụ việc kinh doanh nhập khẩu.
- Được cho thuê văn phòng kinh doanh, khách sạn,kho hàng, nhà xưởng, phương
tiện nâng xếp dỡ.
- Được làm đại lý và mở cửa hàng bán buôn, bán lẻ hàng xuất nhập khẩu và hàng
sản xuất trong nước theo quy định hiện hành của Nhà nước.
- Được liên doanh liên kết giữa các tổ chức trong nước và ngoài nước ở các lĩnh
vực sản xuất kinh doanh.
2. Cơ cấu tổ chức:
Công ty XNK Tổng hợp I tổ chức cơ cấu hoạt động của mình theo mô hình trực
tuyến thành những phòng ban với những chức năng chuyên ngành riêng biệt dưới sự chỉ
đạo của Ban giám đốc.
Sơ đồ: Cơ cấu tổ chức của Công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I.
(Sơ đồ trang bên)
Mỗi một chi nhánh có một giám đốc điều hành và một phó giám đốc giúp việc.
Mỗi phòng có một trưởng phòng điều hành cùng một phó phòng giúp việc. Quyền hạn và
nhiệm vụ, lề lối làm việc và mối quan hệ công tác của các chi nhánh và các phòng ban
đều do các Giám đốc chi nhánh và các trưởng phòng dự thảo trình Giám đốc.
Tất cả các phòng ban và các chi nhánh kinh doanh đều thuộc quyền quản lý của
Giám đốc và Giám đốc cũng là người chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động
của Công ty.
Ba phó giám đốc có nhiệm vụ tham mưu cho giám đốc hoặc được Giám đốc uỷ
quyền để quản lý một lĩnh vực kinh doanh nào đó nhưng Giám đốc vẫn là người chịu
trách nhiệm hoàn toàn về mọi hoạt động của Công ty.
Khối các phòng ban nghiệp vụ có nhiệm vụ tham mưu cho giám đốc:
- Phòng tổng hợp: xây dựng kế hoạch kinh doanh hàng năm và chiến lược kinh
doanh dài hạn, lập báo cáo từng tháng, quý, năm trình giám đốc. Tổ chức công tác nghiên
cứu thị trường, giao dịch, đàm phán lựa chọn khách hàng.
- Phòng hành chính quản trị: phục vụ nhu cầu về văn phòng phẩm, tiếp khách và
quản lý toàn bộ tài sản của Công ty.
- Phòng kế toán tài vụ: có nhiệm vụ đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh của
công ty, kiểm tra giám sát phương án kinh doanh, giúp Giám đốc đề ra các biện pháp
quản lý vốn, sử dụng vốn có hiệu quả. Ghi chép, trao đổi, giám sát sự luân chuyển của
vốn, điều hoà vốn nội bộ Công ty, quan hệ với các bộ phận sản xuất.
- Phòng nghiệp vụ 1: Xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ.
- Phòng nghiệp vụ 2: Xuất nhập khẩu tổng hợp. .
- Phòng nghiệp vụ 3: Gia công hàng may xuất khẩu.
- Phòng nghiệp vụ 4: Lắp ráp xe máy.
- Phòng nghiệp vụ 5: Xuất khẩu các mặt hàng nông sản.
- Phòng nghiệp vụ 6: Xuất nhập khẩu tổng hợp.
- Phòng nghiệp vụ 7: Xuất khẩu quế.
- Phòng nghiệp vụ 8: Phòng giao nhận, kho vận, đầu tư và dịch vụ thương mại.
- Các cửa hàng: hai cửa hàng tại 46 Ngô Quyền và 28 Trần Hưng Đạo, chuyên
giới thiệu sản phẩm, có bán lẻ các loại sản phẩm như may mặc, đồ điện tử, xe máy...
- Liên doanh 53 Quang Trung- Trung tâm giao dịch kinh doanh.
- Số 7 Triệu Việt Vương kinh doanh khách sạn.
- Các chi nhánh: có nhiệm vụ chung là nghiên cứu tìm nguồn hàng và bán hàng uỷ
thác của Công ty.
+ Chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh.
+ Chi nhánh Đà Nẵng.
+ Chi nhánh Hải Phòng.
- Bộ phận sản xuất:
+ Xí nghiệp may Đoan Xá Hải Phòng.
+ Xưởng lắp ráp xe máy tại Tương Mai.
+ Xưởng sản xuất và chế biến gỗ thuộc phòng 6 tại Cầu Diễn Hà Nội.
+ Xí nghiệp quế, chế biến quế tại Hà Nội.
+ Xí nghiệp chế biến hạt điều.
3. Tình hình cán bộ công nhân viên của Công ty.
Số cán bộ công nhân viên ban đầu của Công ty chỉ gồm 50 người đa số là các cán
bộ từ các Công ty XNK bị giải thể chuyển sang. Số cán bộ có trình độ nghiệp vụ rất ít và
chủ yếu mới chỉ làm công tác nhập hàng phục vụ cho xuất khẩu tại chỗ. Có thể nói, đội
ngũ cán bộ này còn yếu kém, chưa có kinh nghiệm và còn bỡ ngỡ trong lĩnh vực uỷ thác.
Hơn nữa, họlàm việc thiếu năng động, còn mang tư tưởng chờ đợi các văn bản chỉ thị,
chờ giao việc, chờ các cơ sở tự tìm đến với mình. Chính vì vậy mà trong giai đoạn đầu
Công ty gặp rất nhiều khó khăn.
Hiện nay, Công ty đang dần dần kiện toàn bộ máy lao động cho phù hợp với tình
hình mới. Công ty luôn luôn quan tâm đến việc bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ và ngoại
ngữ cho toàn cán bộ, công nhân viên đồng thời giữ vững và ổn định cơ bản bộ máy tổ
chức và nhân sự của từng đơn vị. Trong tổng số cán bộ thì khoảng 80% trình độ đại học.
Số cán bộ công nhân viên của Công ty trong những năm gần đây có tăng nhưng với mức
độ thấp, đó là sự quán triệt tinh thần gọn nhẹ và hiệu quả trong cơ cấu quản lý, tiết kiệm
chi phí lấy hiệu quả kinh tế làm chỉ tiêu số một.
Bảng số 1: Số lượng cán bộ công nhân viên toàn Công ty những
năm 1991-2001.
Chỉ tiêu phân bổ lao động Số lượng Tỷ lệ (%)
1.Tổng số lao động 616 100
2. Phân theo cơ cấu
- Tổng điều hành 04 0.79
- Chuyên viên quản trị 200 32.33
- Chuyên viên tác nghiệp 412 66.88
3. Phân theo trình độ đại học
- Đại học trên đại học 554 90
- Trung cấp và cao đẳng 62 10
- Phổ thông trung học 0 0
(Nguồn: Phòng hành chính tổng hợp)
4. Tình hình tài chính của Công ty.
Ngày thành lập, vốn ban đầuđược giao chỉ là 139.000 đồng. Nhà nước không cấp
vốn vì theo quan niệm ấu trĩ trước đây, kinh doanh uỷ thác thì không cần đến vốn do đã
có vốn hàng hoá của người uỷ thác. Đến nay Công ty đã có một số vốn rất lớn duy trì và
phát huy tốt khả năng sản xuất kinh doanh, hoàn thành các chỉ tiêu được giao. Đồng thời
thực hiện tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước, góp phần nâng cao đời sống công nhân viên
trong toàn Công ty.
Bảng số 2: Một số chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính của Công ty XNK Tổng hợp I.
Vốn cố Vốn lưu Vốn đầu tư Nộp ngân Lợi nhuận TNBQ/người Năm định động XD cơ bản sách để lại /năm
1991 5.437 8.213 1.567 6.852 1.549 0,54
1992 7.823 10.124 1.976 6.526 2.357 0,59
1993 10.646 13.600 2.204 7.785 3.530 0,61
1994 11.463 16.778 1.636 41.897 4.800 0,61
1995 13.129 22.866 2.109 40.645 4.918 0,76
1996 14.210 24.125 1.542 39.829 6.000 0,88
1997 14.692 30.623 1.786 42.970 7.258 0,93
1998 14.902 36.526 1.807 49.240 8.100 0,97
1999 15.000 46.731 1.840 53.819 8.200 0,95
2000 15.028 48.026 1.856 54.146 8.096 0.96
2001 15.104 48.241 1.848 54.427 8.120 0.98
(Nguồn: Phòng kế toán tài vụ)
Theo bảng số liệu trên ta thấy số vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản phân bổ đồng
đều qua các năm và Công ty tiến hành đầu tư tuỳ theo tình hình từng thời kỳ.
Tốc độ tăng của vốn cố định ngày càng tăng chậm so với vốn lưu động chứng tỏ
Công ty đang hết sức tranh thủ đồng vốn hiện có để tập trung nâng cao hiệu quả quay
vòng vốn. Tuy nhiên không phải Công ty không chú ý đến những yếu tố dài hạn. Công ty
cũng chú trọng tăng thêm vốn cố định trong từng năm để mở rộng sản xuất. Chính vì vậy
Công ty ngày càng làm ăn phát đạt, thể hiện qua nguồn nộp ngân sách tăng thêm theo
từng năm. Tuy vậy Công ty vẫn chú trọng tăng cường phần lợi nhuận để lại để phát triển
sản xuất và trích sang các quỹ. Khoản lợi nhuận hàng năm được phân bổ hợp lý dành
45% nộp ngân sách nhà nước, còn lại 55% phân bổ cho ba quỹ trích sang quỹ phát triển
sản xuất tối thiểu phải là 35% và còn lại là quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi. Thu nhập
hàng tháng của mỗi cán bộ trong Công ty qua các năm đạt mức cao so với các cơ quan
cùng ngành, đảm bảo đời sống ngày càng được cải thiện.
5. Sự vận hành và phát triển của Công ty.
Căn cứ vào những biến động của môi trường kinh doanh bên ngoài và của Công ty
có thể tạm chia thành ba giai đoạn:
5.1. Giai đoạn I: (Từ tháng 12/1981 đến cuối năm 1984).
Bảng số 3: Kim ngạch XNK của Công ty XNK Tổng hợp I giai đoạn 1982 -
1984 .
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu (nghìn USD) Năm Hoàn thành kế hoạch (%) Thực hiện
1982 11.800.000 100
1983 12.674.000 103
1984 19.163.000 108
(Nguồn: Phòng hành chính tổng hợp).
Trong những năm này, Công ty luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch. Từ đó có thể
thấy được sự cố gắng vượt bậc của Công ty trong giai đoạn đầu mới thành lập với những
khó khăn của nền kinh tế.
5.2. Giai đoạn II (1985-1989)
Đây là giai đoạn mà hoạt động tài chính, ngân hàng phát triển chậm hơn, kinh
doanh mang đặc tính quản lý bao cấp hơn là phục vụ. Tiền tệ biến động phức tạp do việc
đổi tiền năm 1985, lạm phát liên tục tăng cao, chính sách thuế cũng đầy biến động, phát
sinh nhiều sắc thuế mới như thuế xuất nhập khẩu, thuế vốn, thuế lợi tức (nay là thuế thu
nhập doanh nghiệp), thuế doanh thu. Tỷ suất thuế đã cao lại càng hay điều chỉnh không
phù hợp với chu kỳ hàng hoá.
Vượt qua khó khăn thử thách này, sau những năm mày mò và sơ bộ khẳng định
được một số yếu tố cần phải tập trung xây dựng, kết hợp với những kinh nghiệm thực tế,
Công ty đã tập trung sức lực của mình để phát triển.
Qua việc chấn chỉnh và nâng cao nhận thức, Công ty đã thu được những tiến bộ
đáng kể bất chấp sự thay đổi theo hướng bất lợi của thời cuộc. Sau đây là chỉ tiêu về kim
ngạch xuất nhập khẩu của Công ty.
Bảng 4: Kim ngạch xuất nhập khẩu của Công ty giai đoạn 1985 -1989.
Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu (nghìn USD) Năm Thực hiện (USD) Hoàn thành kế hoạch(%)
1985 35.560 114
1986 46.813 116
1987 51.349 118
1988 49.257 115
1989 44.418 109
(Nguồn : Phòng hành chính tổng hợp).
5.3. Giai đoạn III (1990 -2001)
Trong giai đoạn này, nền kinh tế đất nước thực sự bước sang một trang mới. Có
nhiều thay đổi trong việc quản lý vĩ mô nhà nước đối với lĩnh vực xuất nhập khẩu như: số
lượng Công ty xuất nhập khẩu tăng lên nhiều, nhiều đơn vị chuyên doanh đã chuyển sang
kinh doanh tổng hợp. Bên cạnh đó việc thu hẹp thị trường do khủng hoảng ở các nước xã
hội chủ nghĩa, tính cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt. Tuy nhiên Công ty đã xác định
được đúng hướng trong sản xuất kinh doanh, biết vận dụng linh hoạt phương thức kinh
doanh. Nhạy bén trong tìm hiểu thị trường, tìm ra những mặt hàng mà thị trường đang có
nhu cầu và phù hợp với khả năng kinh doanh của Công ty.
Bảng số 5: Kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty năm 1990 - 2001.
Năm Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu (nghìn USD)
Thực hiện So với kế hoạch (%)
1990 40.655 102
1991 37.000 100
1992 41.000 106
1993 47.177 114
1994 49.222 103
1995 56.611 113
1996 63.560 115
1997 78.432 135
1998 64.448,642 102,29
1999 70.420 104
2000 71.648 102,6
2001 77.810 101,5
(Nguồn: Báo cáo tổng hợp Công ty XNK Tổng hợp I)
Tóm lại trong giai đoạn này tuy có nhiều biến động, nhiều khó khăn song Công ty
đã bám sát thực tế thị trường, mạnh dạn tìm phương thức làm ăn mới. Biến từ nhận thức
tới hành động cho nên tới nay Công ty không những trụ vững mà còn đang phát triển
mạnh mẽ, giữ vững được uy tín với khách hàng và cơ quan cấp trên.
6. Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty trong những năm gần đây.
* Kết quả hoạt động kinh doanh.
Bảng 6: Cơ cấu xuất nhập khẩu của Công ty
Đơn vị: 1000 USD, %
Kim ngạch Kim ngạch xuất Năm Tỷ lệ XK/NK Kim ngạch XNK
nhập khẩu khẩu
1997 42/58 45.845 32.587 78.432
1998 36/64 41.365 23.083 64.448
-9,7 -29,17 -17,83
1999 31/54 43.260 24.700 67.960
+4,58 +7,0 +5,45
2000 31/51 46.020 28.500 74.520
+6,38 +15,38 +9,65
2001 29/48 48.130 29.680 77.810
+4,58 +4,14 +4,42
(Nguồn: Báo cáo tổng hợp Công ty XNK Tổng hợp I)
Năm 1997 hàng nhập khẩu bị Nhà nước hạn chế, hàng xuất khẩu bị giảm giá mạnh
do khủng hoảng khu vực, nhưng do Công ty đã sớm nhận ra được khó khăn trước mắt
nên từ cuối năm 1996 đã lên phương án chủ động xử lý tình hình, nhờ thế kết quả kinh
doanh năm 1997 đạt hiệu quả khả quan. Năm 1998, mặc dù tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu của Công ty vẫn hoàn thành mức kế hoạch mà Bộ đã đề ra nhưng kim ngạch xuất
khẩu lại không đạt kế hoạch mà chỉ thực hiện được 74,46%. Sự giảm sút này chủ yếu do
nguyên nhân khách quan, do Công ty nằm trong guồng máy chung của nền kinh tế xã hội
cả nước bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á, cụ thể là:
- Thị trường tiêu thụ hàng xuất khẩu của Việt Nam bị thu hẹp, tạm thời dừng mua
bán với một số thị trường như Philippine, Indonesia… Giá cả hàng hoá bị cạnh tranh gay
gắt, đồng tiền Việt Nam tăng giá so với các đồng tiền khác (do Việt Nam ít chịu ảnh
hưởng của khủng hoảng) dẫn đến giá hàng xuất khẩu của Việt Nam đắt hơn các nước
khác.
- Thị trường trong nước sức mua bị giảm sút do khả năng thanh toán hạn hẹp do
vậy nhiều mặt hàng tồn đọng lớn, tiêu thụ chậm ảnh hưởng kinh doanh hàng xuất khẩu.
Bước sang năm 1999, nền kinh tế nước ta thoát dần khỏi cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ khu vực nên nó cũng có tác động tích cực đối với sự phát triển của Công ty.
II. Thực trạng hoạt động xuất khẩu nông sản của Công ty.
1. Đặc điểm các mặt hàng nông sản của Công ty.
Các mặt hàng nông sản xuất khẩu của Công ty rất đa dạng và phong phú. Lạc, quế,
cà phê, gạo, cao su, hạt tiêu là những mặt hàng mà Công ty thường xuyên kinh doanh với
khối lượng lớn, đều đặn qua các năm. Ngoài ra Công ty cũng kinh doanh những mặt hàng
nông sản khác như chè, ngô, mây, cói, hạt điều… Tuy nhiên những mặt hàng này có kim
ngạch nhỏ, không ổn định. Bản báo cáo này chủ yếu đề cập đến những mặt hàng có kim
ngạch xuất khẩu lớn như đã nêu ở trên.
Giá cả các mặt hàng nông sản chịu ảnh hưởng bởi điều kiện khí hậu, thời tiết, nhu
cầu trên thế giới và đặc biệt chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi chất lượng chế biến. Sản phẩm
nông sản của Công ty chủ yếu là sản phẩm thô hoặc mới chỉ qua sơ chế, chính vì vậy mà
giá cả hàng của Công ty thường thấp hơn giá các sản phẩm cùng loại của các nước trên
thế giới được chế biến tốt hơn.
Việc chế biến, bảo quản nông sản gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp; một mặt yêu
cầu có kỹ thuật chuyên ngành, có hiểu biết về tính chất lý hoá của sản phẩm; mặt khác
đòi hỏi chi phí khá cao. Hơn nữa, công nghệ chế biến hàng nông sản ở Việt Nam còn
nhiều hạn chế. Đó chính là những nguyên nhân dẫn đến chất lượng hàng nông sản của
Công ty vẫn còn thấp.
2. Kim ngạch và cơ cấu.
Bảng 7: Kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu nông sản của Công ty trong 5 năm vừa qua.
Năm Kim ngạch xuất khẩu (USD)
1997 1998 1999 2000 2001
Mặt hàng
Lạc nhân 2.350.000 2.130.000 2.180.000 2.173.000 2.265.000
Hạt tiêu 1.230.000 1.430.000 1.470.000 1.461.000 1.481.000
Cao su 986.200 1.215.600 1.305.000 1.283.700 1.312.000
Cà phê 520.000 876.500 900.400 702.200 682.000
Quế 500.000 500.000 501.000 1.156.500 1.162.000
(Nguồn: Báo cáo tổng hợp của Công ty XNK Tổng hợp I)
Qua bảng số liệu ta thấy lạc nhân vẫn luôn là mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao
nhất so với các mặt hàng nông sản khác nhưng lại giảm dần qua các năm: năm 1997 đạt
2.350.000 USD, năm 2001 đạt 2.265.000 giảm 85 USD (hay 3,6%). Các mặt hàng hạt
tiêu, cao su đều tăng trong năm 2001 so với năm 2000 là 1,3% và 2,2%. Mức tăng còn
chậm nhưng cũng tiêu biểu cho hai mặt hàng này trong thời gian gần đây. Điều này phản
ánh một thực tế là tuy Công ty vẫn giữ được sự ổn định nhóm những mặt hàng nông sản
chủ lực nhưng thị trường của nhóm mặt hàng này trong những năm gần đây vẫn chưa
được mở rộng.
Mặt hàng quế cũng tăng trong những năm vừa qua. Năm 2001 kim ngạch xuất
khẩu mặt hàng quế có bước nhảy vọt tăng 232,4% so với năm 1997 tức là từ 500.000
USD đến 1162.000 USD. Đây có thể coi là một sự nỗ lực rất thành công trong việc tìm
kiếm thị trường xuất khẩu cho mặt hàng này.
Cà phê là một trong những mặt hàng nông sản có kim ngạch giảmt mạnh trong
mấy năm vừa qua. Năm 2000, giá trị cà phê xuất khẩu chỉ đạt 77,9% so với năm 1999.
Năm 2001 giá trị xuất khẩu của mặt hàng này tiếp tục giảm chỉ đạt 682.000 USD so với
702.200 USD năm 2000. Đây là xu hướng chung của mọi doanh nghiệp xuất khẩu cà phê
Việt Nam do cung mặt hàng này trong những năm gần đây tăng nhanh trong khi cầu lại
giảm.
Có thể nhận định chung về tình hình xuất khẩu nông sản của Công ty trong những
năm gần đây là tốt. Điều này thể hiện bằng lượng tăng đều đặn của tổng kim ngạch các
mặt hàng. Năm 1999, 2000 kim ngạch xuất khẩu nói chung của Công ty giảm đi thì mặt
hàng nông sản là một trong những số ít mặt hàng giữ được kim ngạch xuất khẩu và phát
triển tốt.
Biểu 1: Tình hình xuất khẩu nông sản qua các năm 1999, 2000, 2001
§ ¬n vÞ USD
2500000
2000000
1500000
1000000
1999 2000 2001
500000
0
L¹ c nh©n H¹ t tiªu Cao su Cµ phª
QuÕ
Tuy vậy, năm 2002 Công ty sẽ có nhiều mục tiêu hơn để phấn đấu đối với mặt
hàng nông sản. Trong khi thị trường khu vực đã phát triển trở lại, Công ty cần phải cố
gắng trong việc tiếp cận các thị trường mới, khách hàng mới.
3. Thị trường xuất khẩu nông sản của Công ty.
Hàng nông sản của Công ty đã có mặt ở rất nhiều nước trên thế giới, tuy vậy các
thị trường chính của Công ty gồm: Singapore, EU, Đài loan, ASEAN, Trung Quốc và
Mỹ.
Thị trường Singapore thực chất là thị trường trung chuyển. Trong những năm vừa
qua, hàng nông sản của Công ty được xuất sang Singapore với số lượng khá lớn bao gồm
các mặt hàng chính là lạc nhân, cà phê, cao su, hạt điều. Trong năm 2000, 2001 vừa qua
tỷ lệ thị phần đối với thị trường Singapore giảm xuống, do Công ty chủ động giảm xuất
những mặt hàng sơ chế qua thị trường này. Năm 1999, Công ty đã thành lập thêm một cơ
sở chế biến hạt điều nhằm tăng chất lượng hàng nông sản chế biến.
Thị trường EU của Công ty trong những năm gần đây cũng phát triển mạnh. Các
mặt hàng xuất khẩu chủ yếu sang thị trường này trong những năm gần đây là: Cà phê
gạo, hạt điều, hạt tiêu và cao su. Những bạn hàng lớn của Công ty hiện nay là Anh, Đức,
Pháp cho thấy sản phẩm của Công ty ngày càng được chấp nhận rộng rãi.
Thị trường ASEAN là thị trường rất quan trọng của Công ty. Đây là nơi tiêu thụ
hầu hết các mặt hàng xuất khẩu của Công ty. Tuy vậy qua 3 năm 1999, 2000, 2001 giá trị
các mặt hàng nông sản xuất sang khu vực này tăng chậm, tỷ lệ trong tổng giá trị xuất
khẩu nông sản hầu như không thay đổi, chiếm khoảng 22% giá trị xuất khẩu nông sản.
Các thị trường khác: Trong khi giá trị xuất khẩu sang thị trường đài Loan giảm từ
621.152 USD năm 2000 xuống còn 509.510 USD thì ngược lại thị trường Trung Quốc lại
có dấu hiệu khả quan. Trong 3 năm trở lại đây,thị trường này phát triển không ngừng.
Năm 2001 giá trị xuất khẩu nông sản sang thị trường Trung Quốc tăng lên 405.629 USD
so với 393.722 USD năm 2000 tức là tăng 3,02%. Cùngvới thị trường EU, thị trường
Trung Quốc được xem là rất giàu tiềm năng. Trái lại thị trường Mỹ tỏ ra là thị trường
không ổn định giá trị xuất khẩu biến động còn thất thườngqua 3 năm 1999, 2000, 2001.
Bảng 8: Thị trường xuất khẩu nông sản của Công ty xuất nhập khẩu Tổng
hợp I
Năm 1999 2000 2001
Thị trường Tỷ lệ Tỷ lệ Tỷ lệ Giá trị Giá trị Giá trị
(USD) (USD) (USD) (%) (%) (%)
Singapore 2.480.000 40,75 2.500.000 36,78 2.530.000 36,39
EU 1.520.000 25,00 1.520.000 22,37 1.636.400 23,54
Đài Loan 500.000 8,00 651.152 9,58 509.510 7,33
ASEAN 1.100.000 18,00 1.420.000 20,89 1.530.000 22,00
Trung Quốc 300.000 5,00 393.722 5,79 405.629 5,85
Mỹ 186.200 3,25 32.000 4,59 340.000 4,89
Tổng cộng 6.086.200 100% 6.796.874 100 6.951.529 100
(Nguồn: Báo cáo tổng hợp của Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I)
III. Đánh giá chung về hoạt động xuất khẩu nông sản của Công ty xuất nhập khẩu
tổng hợp I.
1. Những kết quả đạt được.
Trong những năm qua, Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I đã có nhiều cố gắng
trong lĩnh vực xuất khẩu hàng nông sản và đạt được những thành tích đáng mừng.
- Kim ngạch xuất khẩu nông sản luôn tăng qua từng năm. Tổng kim ngạch xuất
khẩu nông sản năm 2000 tăng 106,5% so với năm 1999, năm 2001 tăng 101,14% so với
năm 2000 cho thấy sự nỗ lực về thị trường, nguồn hàng đã có kết quả, mặt khác, cũng do
Công ty biết tranh thủ mọi nguồn lực trong và ngoài nước, các tổ chức có liên quan.
- Công tác nghiên cứu thị trường: đã được chú trọng nhiều hơn so với trước đây.
Thị trường truyền thống ASEAN tiếp tục được củng cố và phát triển, chiếm tỷ trọng xuất
khẩu khá ổn định vào khoảng 22% so với tổng giá trị xuất khẩu nông sản. Thị trường
Trung quốc được phát hiện là rất giàu tiềm năng. Bên cạnh đó, Công ty cũng đã bước đầu
mạnh dạn thâm nhập vào thị trường Mỹ. Ngoài ra, Công ty ngày càng bám sát hơn nhu
cầu của thị trường. Từ nắm vững được nhu cầu của khách hàng Công ty đã chủ động hơn
trong việc khai thác, tìm kiếm nguồn hàng đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao về chất
lượng các mặt hàng nông sản.
- Quá trình tổ chức thực hiện hợp đồng: được Công ty thực hiện với tiến độ nhanh
chóng, đảm bảo những điều kiện đã giao kết trong hợp đồng, góp phần củng cố uy tín của
Công ty.
- Trong quá trình xuất khẩu hàng nông sản, Công ty luôn tuân thủ những quy định
của nhà nước, chấp hành nghiêm chỉnh các thủ tục xuất nhập khẩu và luôn hoàn thành
các nghĩa vụ về thuế đối với Nhà nước.
- Việc tăng khối lượng và giá trị xuất khẩu nông sản đã đónggóp đáng kể vào kim
ngạch xuất khẩu của Công ty trong những năm qua. Trong năm 2001, giá trị xuất khẩu
hàng nông sản đạt 8.244.500 chiếm trên 1/3 tổng kim ngạch xuất khẩu của Công ty. Mặt
khác việc tăng kim ngạch xuất khẩu nông sản cũng đóng góp chung vào việc thúc đẩy sản
xuất, tiêu thụ và xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam nói chung.
2. Những mặt còn tồn tại và nguyên nhân.
Bên cạnh những thành tích đã đạt được kể trên, Công ty hiện nay vẫn đang phải
đối mặt với những thách thức không dễ vượt qua.
- Về công tác nghiên cứu thị trường: trong những năm gần đây Công ty đã chú
trọng nhiều hơn đến vấn đề nghiên cứu thị trường. Nhưng hiện nay Công ty vẫn chưa có
phòng Marketing chuyên trách và đề xuất các phương án Marketing; mỗi phòng nghiệp
vụ phải tự nghiên cứu tìm kiếm thị trường cho mình nên hiệu quả chưa cao.
- Về cơ cấu tổ chức cán bộ: các phòng nghiệp vụ chưa có sự phân công chuyên
môn hoá sâu sắc. Phòng nghiệp vụ 1,5 và 7 đều kinh doanh xuất nhập khẩu tổng hợp dẫn
đến việc cùng một mặt hàng, cùng một thị trường mà các phòng đều tham gia thực hiện,
không có sự chỉ đạo thống nhấ, gây cạnh tranh trong nội bộ do đó hiệu quả kinh doanh
chưa cao.
- Về vấn đề nhân lực: Tuy Công ty có thế mạnh về truyền thống và kinh nghiệm
nhưng trước những yêu cầu mới còn bất cập về ngoại ngữ, tin học. Việc cập nhập thông
tin, dữ liệu do vậy còn chưa được tối ưu.
- Trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản, Công ty cũng đang phải đối mặt với vấn đề
cạnh tranh ngày càng gay gắt. Nghị định 57/CP đã mở rộng tối đa quyền trực tiếp xuất
khẩu cho mọi doang nghiệp làm cho số lượng hàng hoá uỷ thác xuất khẩu qua Công ty
giảm nhiều trong ba năm 1999, 2000, 2001 vừa qua. Bên cạnh đó ngày càng có nhiều
doanh nghiệp xuất khẩu nông sản với quy mô nhỏ, cơ cấu tổ chức linh hoạt ứng biến
nhanh nhạy với các biến động của thị trường, trở thành mối đe doạ đối với hoạt động
kinh doanh của Công ty. Việc tranh mua, tranh bán, làm giá hàng xuất khẩu trong nước
giảm trong khi đòi hỏi về chất lượng lại ngày một cao. Giá một số mặt hàng nông sản
xuất khẩu của Công ty như cà phê lạc nhân giảm đi rõ rệt: năm 2000, giá cà phê xuất
khẩu của Công ty giảm xuống còn 490 USD/tấn so với năm 1999 là 520 USD/tấn.
Chương III
Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản tại Công ty xuất
nhập khẩu tổng hợp I
I. Phương hướng xuất khẩu nông sản của Công ty trong những năm tiếp theo.
1. Định hướng xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong thời gian tới.
Với tiềm năng to lớn về đất đai, khí hậu thuận lợi, nguồn nhân lực dồi dào, triển
vọng sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam trong những năm tới rất sáng sủa.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để khai thác tiềm năng đó một cách tốt nhất để vừa giải
quyết nhu cầu lương thực trong nước vừa tăng khối lượng kim ngạch xuất khẩu nông sản
tạo thêm tích luỹ cho nền kinh tế quốc dân. Đảng và nhà nước ta coi nông nghiệp là mặt
trận hàng đầu, dành ưu đãi đầu tư trong và ngoài nước cho lĩnh vực sản xuất nông sản,
nhất là nông sản xuất khẩu. Tại đại hội đảng toàn quốc khoá IX, một lần nữa Đảng ta lại
nhấn mạnh tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu nông sản:
- Nhà nước có chủ trương khuyến khích xuất khẩu hàng nông sản có hàm lượng
tinh lớn hay nói cách khác chuyển hàng hoá dạng nguyên liệu thô sang hàng hoá có chế
biến với hàm lượng lao động kỹ thuật cao, có giá trị lớn, đạt tiêu chuẩn quốc tế.
- Đối với thị trường xuất khẩu hàng nông sản, chủ trương lấy thị trường EU,
ASEAN, Trung quốc, ấn Độ, Mỹ, Braxin, Mêhicô,Nhật Bản, Singapore làm thị trường
xuất khẩu chính. Tiến hành hợp tác liên doanh với các Công ty nước ngoài cùng sản xuất,
chế biến hàng nông sản để hànghoá có chất lượng cao, mẫu mã phong phú. Từ đó các
Công ty học hỏi thêm được kinh nghiệm kinh doanh, tiếp thu được công nghệ tiến tiến.
- Nhà nước phối hợp với các doanh nghiệp tham gia vào việc tìm kiếm thị trường
nhằm nâng cao kim ngạch xuất khẩu, đồng thời Nhà nước cũng khuyến khích các tổ
chức, cá nhân tham gia vào sản xuất chế biến nông sản. Các doanh nghiệp này phát triển
sẽ thu hút được nhiều lao động, góp phần cùng Nhà nước giải quyết nạn thất nghiệp.
Từ những định hướng trên, mục tiêu của Nhà nước đặt ra là: tăng kim ngạch xuất
khẩu nông sản lên 4,7 tỷ USD vào năm 2002 và phấn đấu đạt 8,5 tỷ USD vào năm 2010.
Bình quân kim ngạch xuất khẩu nông sản cho một nhân khẩu nông nghiệp tăng lên từ 41
USD (1996) lên 62 USD vào năm 2000 và 101 USD vào năm 2010.
2. Phương hướng xuất khẩu nông sản của Công ty trong những năm tiếp theo.
- Tiếp tục đầu tư sức lực và chi phí hợp lý để củng cố và mở rộng thị trường. đặc
biệt quan tâm hơn nữa đến thị trường EU, Mỹ và Trung Quốc. Tranh thủ các chính sách
hỗ trợ của Nhà nước, Bộ thương mại để tìm kiếm thị trường và bạn hàng. Tăng cường
bám thị trường nội địa, phát huy thế mạnh về vốn, kinh nghiệm để duy trì nguồn hàng cũ,
tạo lập nguồn hàng mới.
- Tiếp tục áp dụng các phương thức kinh doanh linh hoạt trong xuất khẩu nông sản
để có thêm hợp đồng xuất khẩu. Chú trọng hình thức tự doanh nhằm nâng cao hơn nữa
tính chủ động của Công ty.
- Duy trì sự phát triển ổn định của nhóm hàng, mặt hàng xuất khẩu truyền thống
như lạc, hạt tiêu, cà phê… đẩy mạnh những mặt hàng có tỷ suất lợi nhuận khá như cói,
mây, tre đan…
- Chú trọng hơn nữa khâu chế biến hàng nông sản. Tiếp tục củng cố bộ máy tổ
chức và cán bộ cho Xí nghiệp quế,xí nghiệp chế biến hạt điều để các cơ sở này hoạt động
vào nề nếp, tăng hiệu quả. Tìm đối tác hợp tác sản xuất, trợ giúp về kỹ thuật công nghệ
để nâng cao công suất hoạt động của các xí nghiệp này.
II. Các giải pháp cụ thể nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản của Công ty.
1. Phát triển và mở rộng thị trường.
1.1. Nghiên cứu lựa chọn thị trường.
Việc xuất khẩu nông sản của Công ty sang các thị trường nước ngoài còn tràn lan,
thụ động thiếu kiểm soát. Trong thời gian tới Công ty cần đầu tư hơn nữa vào nghiên cứu
để lựa chọn ra thị trường mục tiêu. Từ đó có chiến lược xuất khẩu phù hợp, đem lại hiệu
quả cao.
Mặc dù Singapore chỉ là thị trường trung chuyển nhưng trong những năm trước,
kim ngạch xuất khẩu nông sản sang thị trường này vẫn tăng đều. Thị trường tiêu thụ cuối
cùng thực sự chính là EU và Mỹ. Vậy nên, Công ty cần mạnh dạn nghiên cứu để tiếp cận
trực tiếp các thị trường này. Công ty có thể thu thập thông tin về thị trường thông qua các
cơ quan xúc tiến thương mại của Việt Nam tại nước sở tại hoặc tham gia hội chợ triển
lãm để có điều kiện tiếp xúc với các thương nhân nước ngoài, tìm kiếm bạn hàng, đối tác
làm ăn. Đặc biệt, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ vừa được thông qua ngày 4/10/2001 là
một cơ hội rất lớn để Công ty thâm nhập vào thị trường Mỹ.
Cho đến 3 tháng đầu năm 2002, kim ngạch xuất khẩu lạc nhân của Công ty luôn
tăng mạnh và chiếm một tỷ trọng khá cố định (khoảng 30%) trong tổng kim ngạch xuất
khẩu nông sản. Do vậy có thể coi đây là mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Công
ty. Thị trường của mặt hàng này tập trung phần lớn ở các nước Đông Nam á, đặc biệt là
các nước hồi giáo vốn có nhu cầu lạc rất lớn. Từ nhận định này, Công ty cần tập trung
nguồn lực để duy trì, củng cố các thị trường như Jakarta, Malina, Portkelang của
Indonesia, Malaysia và Philippine. Ngoài ra, Công ty nên có kế hoạch nghiên cứu, tìm
hiểu thêm thị trường các nước hồi giáo khác như ấn Độ, các nước Trung Đông.
1.2. Sử dụng các chính sách Marketing thích hợp.
Sau khi lựa chọn được các thị trường trọng điểm, Công ty cần phải chú ý đến các
hoạt động marketing để lôi kéo khách hàng từ thị trường đó. Việc sử dụng các công cụ
marketing (giá cả, sản phẩm, phân phối, xúc tiến) phải thích hợp với đặc điểm của mỗi
thị trường để đạt hiệu quả cao nếu không sẽ là hoạt động “ném tiền qua cửa sổ”.
Trong xuất khẩu nông sản nhân tố chất lượng phải được đặt lên hàng đầu. Để có
chất lượng sản phẩm cao đáp ứng nhu cầu xuất khẩu, Công ty không chỉ cần nâng cao
hiệu quả của công tác giám định chất lượng hàng hoá mà cần phải trực tiếp đầu tư vào
một số lĩnhvực chế biến hàng nông sản. Mặt khác về vấn đề thực dụng trong marketing,
chất lượng hàng hoá sẽ phụ thuộc vào yêu cầu chất lượng của thị trường đó. Sự đòi hỏi về
chất lượng hàng hoá ở mỗi thị trường là khác nhau. Chẳng hạn đối với thị trường EU,
Nhật Bản, Mỹ thì yêu cầu về chất lượng hàng hoá là rất cao. Ngược lại, đối với các thị
trường Châu Phi thì yếu tố đáng quan tâm hơn cả là giá cả.
Giá cũng là một nhân tố rất quan trọng trong marketing xuất khẩu. Giá là một
công cụ để Công ty thực hiện lợi nhuận nhưng cũng là công cụ để lôi kéo khách hàng.
Mức giá hợp lý là mức giá thu hút được nhiều khách hàng trong khi vẫn đảm bảo lợi
nhuận dự kiến. Trong khi đặt giá, Công ty cần phải tính đến sự phù hợp giữa giá cả và
chất lượng, vừa hấp dẫn, vừa tạo được niềm tin từ phía khách hàng. Công ty nên áp dụng
chính sách giá mềm dẻo, linh hoạt để thu hút được nhiều đối tượng khách hàng khác
nhau, ưu đãi về giá cho những đối tượng khách hàng mua với khối lượng lớn và những
khách hàng truyền thống.
Các biện pháp xúc tiến và khuyếch trương cũng rất quan trọng để bán được hàng
xuất khẩu. Công ty nên áp dụng các biện pháp: quảng cáo trên mạng internet, tham gia
hội chợ hàng tiêu dùng quốc tế, gửi các đơn chào hàng đến các nhà nhập khẩu nước
ngoài… tạo mọi cơ hội để giới thiệu, khuyếch trương uy tín sản phẩm của mình.
1.3. Các thị trường mà Công ty cần tập trung trong những năm tới.
Mặc dù hiện nay, Công ty đã có quan hệ với các bạn hàng ở hầu hết các khu vực
trên thế giới. Tuy nhiên để có một hướng xuất khẩu nông sản vững chắc Công ty cần tập
trung một số thị trường sau:
- Thị trường ASEAN: Là thị trường rất quan trọng đối với các doanh nghiệp xuất
khẩu nói chung và xuất khẩu nông sản của Công ty nói riêng. Khi thâm nhập vào thị
trường này ta sẽ khai thác được ưu thế về giá nhân công, vị trí địa lý, kể cả việc gần trung
tâm chu chuyển hàng hoá lơn nhất thế giới Singapore và đặc biệt được hưởng những ưu
đãi thuế quan trong thời gian tới. Tuy vậy, để tham gia vào thị trường này Công ty phải
chấp nhận cạnh tranh tăng lên trong thời gian tới vì có rất nhiều nước Châu á cũng tham
gia xuất khẩu hàng nông sản và thậm chí có một số nước như Thái Lan,Trung Quốc có
công nghệ chế biến nông sản tiên tiến hơn chúng ta rất nhiều.
- Thị trường Trung Quốc: Với tiềm năng kinh tế lớn, GDP của Trung Quốc hiện
đứng hàng thứ 6 trên thế giới và lại là thị trường rộng lớn trên 1 tỷ dân. Trong hai năm
qua, kim ngạch buôn bán nông sản của Công ty với Trung Quốc không ngừng tăng lên
cho thấy đây là thị trường có nhiều triển vọng... Tuy vậy, việc buôn bán với Trung Quốc
cũng gặp rất nhiều khó khăn mà Công ty phải chấp nhận như: giá cả thị trường biến động
thất thường, phương thức giao dịch và thực hiện hợp đồng rất đa dạng, uy tín của bạn
hàng chưa được đảm bảo…
- Thị trường EU: đặc điểm của thị trường này là yêu cầu về chất lượng rất cao
nhưng giá bán hàng nông sản cũng cao hơn so với các thị trường khác. Để xuất khẩu
hàng nông sản sang thị trường này, Công ty cần phẩi đầu tư hơn nữa vào khâu chế biến
và khai thác nguồn hàng nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm.
2. Hoàn thiện công tác tạo nguồn hàng xuất khẩu.
Công tác tạo nguồn có vai trò rất quan trọng trong hoạt động xuất khẩu. Nguồn
hàng tốt đáp ứng kịp thời và chính xác nhu cầu thị trường, giúp thực hiện đúng thời hạn
hợp đồng với chất lượng cao sẽ là nhân tố quyết định đem lại thành công trong thương vụ
và nâng cao uy tín của Công ty. Để có nguồn hàng tốt, Công ty cần phải thực hiện tốt các
nhiệm vụ: mở rộng các hình thức tạo nguồn, nâng cao chất lượng sản phẩm và thực hiện
tốt khâu bảo quản dự trữ.
2.1. Mở rộng hình thức tạo nguồn.
Các hình thức tạo nguồn hiện nay ở Công ty còn nhiều hạn chế. Hình thức chủ yếu
Công ty sử dụng là mua từ các đầu mối khác nhau ở các địa phương hoặc thu mua tập
trung qua các trung gian. Hình thức này có ưu điểm là nhanh gọn, không phải đầu tư
trong thời gian dài, Công ty lại có thể nhanh chóng chuyển đổi mặt hàng kinh doanh. Tuy
nhiên, nhược điểm của hình thức này là không chủ động được chất lượng, chi phí… Công
ty cần phải đa dạng hơn nữa các hình thức thu mua, cụ thể:
- Tổ chức tốt mạng lưới thu mau hàng nông sản, giảm bớt hình thức thu mua qua
trung gian vừa làm tăng giá, vừa khó kiểm soát về chất lượng.
- Tăng đầu mối thu mua ở ngay tại vùng nguyên liệu hoặc trực tiếp đặt hàng tại
các cơ sở chế biến nông sản để chủ động hơn về chất lượng, giảm chi phí, chủ động về
thời gian nhập hàng.
- Mở rộng phạm vi thu mua nguyên liệu, thiết lập thêm các đại lý thu mua ở miền
Trung và miền nam.
- Xây dựng thêm các xí nghiệp chế biến nông sản để tăng chất lượng, giảm giá
thành sản phẩm. Bên cạnh đó, Công ty cũng có thể sử dụng các hình thức liên doanh, liên
kết với cácđơn vị sản xuất và chế biến.
2.2. Đẩy mạnh chế biến, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Chất lượng sản phẩm là yếu tố cạnh tranh quan trọng trong kinh doanh xuất khẩu.
Chất lượng nông sản pơhụ thuộc rất nhiều vào khả năng chế biến hay nói đúng hơn là
công nghệ chế biến. Trong những năm trước, Công ty thường phải mua hàng nông sản
dạng nguyên liệu rồi thuê chế biến, việc này nảy sinh những vấn đề sau:
- Chất lượng hàng hoá không đều, không ổn định. Đây là điều rất dễ xảy ra khi
thuê nhiều đơn vị chế biến mà mỗi đơn vị lại có công nghệ chế biến khác nhau. Điều này
gây bất lợi, dễ làm mất uy tín của Công ty với các đối tác nước ngoài.
- Chi phí chế biến cao làm cho giá thành sản phẩm tăng lợi nhuận giảm. Mặt khác
nếu tăng giá bán sản phẩm, Công ty sẽ mất khách hàng.
Chính vì vậy, việc xây dựng thêm các cơ sở chế biến là rất cần thiết. Hiện nay
Công ty đã có một số xí nghiệp chế biến hoạt động rất hiệu quả như xí nghiệp quế, xí
nghiệp chế biến hạt điều… càng cho thấy hướng đi trên là đúng đắn.
Đồng thời với việc đẩy mạnh chế biến, công tác giám định chất lượng đối với
nguồn hàng xuất khẩu cần được thực hiện một cách nghiêm ngặt bởi đó là công việc
quyết định đến chất lượng hàng hoá.
2.3. Thực hiện tốt công tác dự trữ và bảo quản hàng hoá.
Để có hàng hoá tốt phục vụ cho xuất khẩu thì không thể không thực hiện tốt công
tác dự trữ và bảo quản hàng hoá. Sau khi đưa hàng hoá về đến kho trạm, các tổ kho phải
thực hiện tốt các công tác phân loại, bao gói, xếp hàng hoá vào kho và hàng loạt các
nghiệp vụ dự trữ và bảo quản khác để giữ gìn chất lượng, số lượng hàng hoá và luôn sẵn
sàng xuất hàng một cách nhanh chóng thuận tiện. Trong dự trữ bảo quản hàng hoá các
yêu cầu kỹ thuật của kho chứa hàng rất quan trọng, nhất là đối với hàng nông sản rất dễ
bị ẩm mốc mục…
Hiện nay ở Công ty có một số kho không đủ yêu cầu cho việc dự trữ hàng nông
sản: mái dột, nền ẩm, hệ thống thoát khí không đạt yêu cầu do đó Công ty cần có kế
hoạch nâng cấp những kho hàng này bằng cách sửa lại mái, thay đổi, lắp đặt mới hệ
thống máy điều hoà nhiệt độ, máy hút ẩm. Bên cạnh đó Bên cạnh đó, Công ty nên yêu
cầu các nhan viên của kho phải thường xuyên kiểm tra hàng hoá, kiểm tra các điều kiện
về nhiệt độ, độ ẩm phù hợp với đặc tính bảo quản của từng loại hàng hoá.
3. Các giải pháp nâng cao cạnh tranh.
Trong hoạt động xuất khẩu nông sản, vấn đề cạnh tranh là không thể tránh khỏi.
Vấn đề đặt ra hiện nay là Công ty cần sử dụng những biện pháp nào để tăng sức cạnh
tranh hàng hoá của mình và giảm rủi ro trong kinh doanh.
Như đã nóỉ trên, giá cả và chất lượng hàng hoá là công cụ chính để tăng sức cạnh
tranh của hàng hoá của Công ty. Tuy nhiên bên cạnh các nhân tố trên việc đa dạng hoá
phương thức kinh doanh cũng là biện pháp rất quan trọng khác để tăng khả năng xuất
khẩu hàng nông sản của Công ty. Đa dạng hoá hình thức kinh doanh bao gồm: đa dạng
hoá hơn nữa các hình thức xuất khẩu, đa dạng hoá các mặt hàng nông sản xuất khẩu và
đa phương hoá mối quan hệ kinh doanh. Với tình hình hiện nay Công ty nên chú trọng
vào việc đa dạng hoá các mặt hàng. Bên cạnh các mặt hàng nông sản truyền thống như
gạo lạc, cao xu, hạt tiêu… Công ty có thể xúc tiến xuất khẩu một số mặt hàng khác như
chè, ngô, vừng, mây, cói, tơ tằm… là các mặt hàng nông sản khá phổ biến và có chất
lượng tương đối cao.
4. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức.
4.1. Hạch toán nghiệp vụ riêng đối với hàng nông sản.
Đối với một doanh nghiệp lớn như Công ty XNK Tổng hợp I việc tổ chức hạch
toán độc lập các nhóm hàng có giá trị lớn là rất cần thiết. Việc hạch toán độc lập giúp cho
Công ty nắm rõ hơn tình hình kinh doanh của từng nhóm hàng và có thể đề ra các biện
pháp ứng phó với từng nhóm hàng khác nhau để tăng hiệu quả kinh doanh.
Đối với nhóm hàng nông sản xuất khẩu hiện nay, công tác nghiệp vụ xuất khẩu
được giao cho 4 phòng khác nhau đó là phòng nghiệp vụ 1,5, 6, 7. Trong đó phòng 5 và 7
là phòng nghiệp vụ tổng hợp do đó việc hạch toán nông sản sẽ chung cho một số mặt
hàng khác. Điều này sẽ gây khó khăn hơn trong việc đánh giá hiệu quả kinh doanh hàng
nông sản.
Công ty có thể kết hợp bộ phận phụ trách hoạt động xuất khẩu nông sản ở phòng 5
và 7 thành một phòng nghiệp vụ chuyên xuất khẩu nông sản như phòng 1 và phòng 6.
Công ty nên lập sổ riêng theo dõi tình hình xuất khẩu nông sản ở cácphòng nghiệp vụ và
tổng hợp lại để đánh giá tình hình xuất khẩu nông sản chính xác hơn.
4.2. Thành lập phòng Marketing.
Hiện nay mọi công tác liên quan đến thị trường của Công ty đều do các phòng
nghiệp vụ của Công ty đảm nhận. Do vậy việc nghiên cứu thị trường cũng như cách thức
tiếpcận thị trường còn nhiều hạn chế. Để có sự thống nhất hơn trong việc nghiên cứu và
đưa ra các chính sách về thị trường, Công ty cần cho ra đời một phòng marketing với
chức năng chuyên biệt.
Chức năng của phòng marketing:
+ Chỉ ra các nhu cầu và xu hướng, cách thức thoả mãn nhu cầu củathị trường.
+ Phân đoạn và lựa chọn thị trường.
+ Đề xuất các chính sách vềthị trườgn, giá cả, chất lượng sản phẩm, phân phối,…
để xâm nhập và khai thác thị trường.
+ Phối hợp với các phòng nghiệp vụ để thực hiện các hoạt động kinh doanh và
hoạt động xuất nhập khẩu.
+ Thu nhận và phân tích các thông tin phản hồi từ bạn hàng, đối tác kinh doanh.
Tổ chức phòng marketing.
Phòng marketing
Marketing xuất khẩu
Marketing nhập khẩu
Thị
Nguồn
Thị
Nhu cầu
4.3. Nâng cao trình độ chuyên môn cho CBCNV
Đây là một trong những nguồn lực cơ bản của mỗi quốc gia. Với Công ty XNK
Tổng hợp I, một trong những nhiệm vụ hàng đầu là phải xây dựng được 1 đội ngũ cán bộ
có trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm về ngoại ngữ nhất là trong điều kiện môi
trường kinh doanh quốc tế hiện nay đầy biến động, thông tin thay đổi từng giờ. Mỗi một
cán bộ kinh doanh phải năng động sáng tạo, thường xuyên được bồi dưỡng về trình độ để
có thể dự báo được những biến động thị trường, nắm bắt thông tin và kịp thời có những
cách ứng phó linh hoạt trước những biến động đó.
Các biện pháp mà Công ty có thể thực hiện được:
- Đào tạo chuyên môn cho đội ngũ cán bộ mới vào nghề, giúp họ nâng cao được
trình độ nghiệp vụ xuất khẩu.
- Thưỡng xuyên gửi cán bộ, các nhà doanh nghiệp trẻ có năng lực đi học tập
nghiên cứu ở các lớp đào tạo cán bộ kinh doanh trong và ngoài nước.
- Đào tạo đội ngũ kỹ thuật viên có đủ năng lực kiểm tra, giám định hàng hoá, đảm
bảo chất lượng theo đúng yêu cầu tiêu chuẩn quốc tế.
5. Xây dựng chiến lược thích hợp cho xuất khẩu nông sản trong thời gian tới.
Chiến lược kinh doanh xuất khẩu được hiểu như là một hệ thống các mục tiêu giải
pháp nhằm thực hiện cácmục tiêu của nhà xuất khẩu. Chiến lược được xây dựng trên cơ
sở đánh giá chính xác mối quan hệ giữa hai nhân tố doanh nghiệp và thị trường.
Về phía doanh nghiệp, người xuất khẩu sẽ phải trả lời được các câu hỏi: Chúng ta
đang ở đâu? chúng ta muốn gì? và chúng ta có thể làm gì.
Về phía thị trường, doanh nghiệp cần trả lời các câu hỏi: Đâu là thị trường hiện tại
của doanh nghiệp? Đâu sẽ là thị trường của doanh nghiệp? Các thị trường này sẽ biến đổi
như thế nào?
Như vậy một chiến lược kinh doanh phù hợp sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp nắm
bắt được những cơ hội và hạ chế tối đa những rủi ro trong kinh doanh.
5.1. Các mục tiêu của Công ty.
Việc xác định các mục tiêu của doanh nghiệp bao giờ cũng rất khó khăn bởi vì các
mục tiêu chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Chẳng hạn sự mâu thuẫn giữa mục tiêu lợi nhuận
và mục tiêu mở rộng thị trường cũng như việc đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm. Đối
với Công ty XNK Tổng hợp I cũng vậy, việc duy trì mức lợi nhuận qua các năm bị đánh
đổi bằng sự bỏ lỡ các cơ hội đầu tư vào lĩnh vực chế biến hàng nông sản hay mục tiêu thị
phần. Do vậy trong những năm tới việc thay đổi cách nhìn về mục tiêu chiến lược là rất
quan trọng đối với lãnh đạo Công ty. Trong những năm tới Công ty cần tập trung vào
những mục tiêu cốt lõi sau:
- Nâng cao thị phần của Công ty trên thị trường quốc tế.
- Nâng cao chất lượng sản phẩm nhờ tăng cường đầu tư vào lĩnh vực chế biến.
5.2. Những giải pháp chiến lược cụ thể.
Trước hết đối với việc nâng cao thị phần hàng nông sản, Công ty cần chủ động mở
rộng mối quan hệ kinh doanh. Việc nghiên cứu tìm kiếm thị trường mới cũng là một
hướng đi quan trọng. Đối với hàng nông sản, các thị trường EU, Mỹ có khả năng tiêu thụ
rất lớn, việc tăng cường chi phí cho công tác Marketing để tìm các đối tác xuất khẩu trực
tiếp trên thị trường này sẽ đem lại lợi ích lâu dài. Bên cạnh đó, Công ty cũng cần có các
biện pháp thâm nhập các thị trường khác như: mở rộng danh mục hàng xuất khẩu, đa
dạng hoá các hình thức kinh doanh, các chính sách ưu đãi về giá cả thanh toán…
Thứ hai, để đầu tư vào lĩnh vực chế biến nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm,
Công ty cần nỗ lực hơn nữa trong việc huy động vốn, phát triển các hình thức liên doanh,
liên kết với các đối tác nước ngoài, các nhà máy trong nước. Về lâu dài cạnh tranh chất
lượng sẽ là nhân tố quyết định sự thắng bại trong kinh doanh xuất khẩu. Do vậy cho dù
phải hy sinh một phần lợi nhuận để đạt được mục tiêu chất lượng cũng là điều thích đáng.
6. Nâng cao nghiệp vụ ký kết hợp đồng.
Trong hoạt động xuất khẩu nông sản, thận trọng trong việc lựa chọn đối tác để ký
kết hợp đồng là rất cần thiết. Đã có rất nhiều bài học xương máu do đánh giá không xác
đáng về đối tác dẫn đến thất bại trong đàm phán ký kết hợp đồng. Trong một số trường
hợp khác, việc ký kết những thương vụ thất thường mà đối tác chỉ mua hàng lần đầu với
giá cao sau đó lại ép giá hoặc thôi không mua nữa… sẽ làm xáo trộn kế hoạch kinh doanh
của Công ty, gây nhiều thiệt hại. Do vậy để nâng cao hiệu quả công tác ký kết và thực
hiện hợp đồng, Công ty cần phải chú ý:
- Tìm hiểu kỹ các đối tác nhập khẩu: Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của
đối tác; khả năng thanh toán ngắn hạn và dài hạn, uy tín của đối tác, điểm mạnh và điểm
yếu của họ…
- Tìm hiểu mong muốn của đối tác: ý định mua ngắn hạn hay lâu dài, khả năng lấn
lướt hay nhượng bộ của họ trong thương vụ này.
- Chuẩn bị tốt cho đàm phán ký kết và thực hiện hợp đồng. Trong đàm phán phải
lựa chọn những người có kinh nghiệm, am hiểu sâu sắc về nghiệp vụ, về tình hình thị
trường để giành kết quả đàm phán có lợi cho Công ty.
- Công ty phải thực hiện mọi nghĩa vụ hợp đồng đã ký. Việc tổ chức thực hiện tốt
hợp đồng sẽ mang lại uy tín cho Công ty, làm tiền đề cho những thương vụ sau, do vậy
cần hết sức chú trọng công tác này.
IV. Một số kiến nghị với Nhà nước.
Thực tế những năm qua cho thấy hoạt động xuất khẩu nông sản có những đóng
góp to lớn cho xuất khẩu Việt Nam nói riêng và kinh tế Việt Nam nói chung. Vì vậy việc
tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu nông sản ở Việt Nam sẽ là hướng đi đúng đắn trong những
năm tới. Để đẩy mạnh xuất khẩu nông sản thì vai trò của Nhà nước rất quan trọng. Với
mong muốn góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản ở Công ty XNK Tổng hợp
I nói riêng và Việt Nam nói chung, em xin được mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị đối
với Nhà nước.
1. Quy hoạch các vùng sản xuất và chế biến nông sản.
Để có thể nâng cao hơn nữa chất lượng hàng nông sản,việc quy hoạch các vùng
sản xuất và chế biến nslà rất càn thiết.Quy hoạch vùng sản xuất cho phép ta có thể áp
dụng các kỹ thuậtđối với cây trồng một cách hợplý, đồng bộ. Hơn nữa, nhờ có quy
hoạch, đầu tư cơ sở hạ tầng cho các cơ sở sản xuất nông sản sẽ đạt hiệu quả cao hơn.
Cũng căn cứ vào quy hoạch, Nhà nước có thể kế hoạch hoá được các hoạt động sản xuất
và xuất khẩu nông sản.
Nhà nước cũng cần xây dựng các nhà máy chế biến ở trong hay gần vùng sản xuất
nông sản. Các nhà máy chế biến này có nhiệm vụ ký kết hựop đồng thu mua nông sản
đối với các hộ nông dân, với cam kết về số lượng, chất lượng, thời gian nhằm định
hướng cho người nông dân sản xuất.
Với việc quy hoạch vùng sản xuất, chế biến nông sản, các hoạt động sản xuất, thu
mua, vận chuyển, bảo quản chế biến... được diễn ra một cách tập trung, đồng bộ từ đó
làm giảm chi phí, giảm giá thành hàng nông sản xuất khẩu làm tăng lợi nhuận, tăng sức
cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.
2. Trợ giúp các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản.
2.1. Hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm thị trường.
Hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản ở Việt Nam đều gặp khó khăn trong
việc tìm kiếm thị trường. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là không đủ kinh phí
cho hoạt động nghiên cứu thị trường một cách thoả đáng. Hơn nữa thị trường nông sản
thế giới biến động rất thất thường và mang tính thời vụ nên đòi hỏi về thông tin thị
trường phải rất nhanh và chính xác, trong khi việc tiếp nhận các thông tin này ở các
doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn rất chậm. Do vậy, trong thời gian tới Nhà nước cũng
như các Bộ có liên quan phải đặc biệt chú ý đến công tác nghiên cứu, khảo sát thị trường
để kịp thời nắm bắt nhu cầu hàng nông sản trên thị trường thế giới, thông tin về giá cả
kịp thời cho các doanh nghiệp để tránh tình trạng bị ép giá, đồng thời tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp có cơ hội thăm dò tìm kiếm thị trường.
Phân đoạn thị trường theo khu vực cho một số đầu mối xuất khẩu nông sản lớn.
Biện pháp này tạo điều kiện chuyên sâu về thị trường cho các doanh nghiệp, đồng thời
tránh sự cạnh tranh của chính các doanh nghiệp trong nước làm thiệt hại đến lợi ích quốc
gia. Nhà nước cũng nên thành lập các trung tâm xúc tiến thương mại ở các vùng để cung
cấp các thông tin kinh tế phục vụ cho hoạt động nghiên cứu thị trường cho các Công ty.
2.2. Hỗ trợ về vốn cho các doanh nghiệp.
Tạo điều kiện về vốn cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản: Nông sản là mặt
hàng mà việc sản xuất, thu mua mang tính thời vụ đậm nét với chu kỳ sản xuất tương đối
dài, trong khi đó hoạt động sản xuất lại diễn ra suốt năm và được giá cao ở các kỳ giáp
vụ. Vì vậy đòi hỏi các doanh nghiệp phải có lượng vốn đủ lớn, đủ sức thu mua trong vụ
thu hoạch và dự trữ xuất khẩu cho cả năm.
Mặt khác, tại các Ngân hàng còn diễn ra tình trạng ứ đọng vốn nhưng các doanh
nghiệp rất khó tiếp cận được với nguồn vốn này vì khó đáp ứng được những đòi hỏi khắt
khe về tài sản thế chấp, thủ tục vay vốn… Thời gian tới Nhà nước cần phải đưa ra những
biện pháp khuyến khích ngân hàng cho các doanh nghiệp vay vốn thu mua nông sản.
Nhà nước nên bỏ qua quy định hạn chế mức tín dụng đối với ngân hàng thương mại
nhằm khuyến khích xuất khẩu. Trong trường hợp giá hàng nông sản trên thị trường thế
giới có xu hướng thấp hay giá trị thu mua nông sản trong nước tăng gây thua lỗ cho các
cơ sở chế biến kinh doanh nông sản xuất khẩu thì nhà nước nên xem xét bằng quỹ bình
ổn giá cả để giảm đi một phần lãi suất tín dụng. Về phía Ngân hàng, Nhà nước cũng cần
xem xét lại các quy định về tài sản thế chấp để nó giữ đúng vai trò là tạo điều kiện đảm
bảo an toàn cho vay chứ không phải là căn cứ giữa ngân hàng và Công ty.
3. Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý xuất nhập khẩu theo hướng đơn giản
hơn, thông thoáng hơn phù hợp với cơ chế thị trường.
Những quy định về xuất nhập khẩu và các hàng rào thương mại là một trong
những ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động xuất khẩu nông sản xuất nhập khẩu hàng
hoá dịch vụ nói chung ở nước ta hệ thống chính sách và quy định xuất khẩu phải được
đổi mới và hoàn thiện. Cụ thể là:
- Hệ thống các văn bản pháp lý, phải đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán trong việc
khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế tham gia sản xuất hàng xuất khẩu để tạo
nguồn hàng ổn định, lâu dài cho các Công ty liên doanh xuất nhập khẩu, tránh tình trạng
“trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” một mặt hàng nào đó nhưng lại không khuyến khích
sản xuất mặt hàng nào đó. Việc khuyến khích xuất khẩu trực tiếp và khuyến khích đầu tư
sản xuất hàng xuất khẩu ở nước ta hiện nay chỉ mới nhìn đến các Công ty sản xuất trực
tiếp hàng xuất khẩu và kinh doanh xuất nhập khẩu. Trong thực tế còn vô số các doanh
nghiệp vừa và nhỏ làm nhiệm vụ cung ứng nguyên vật liệu đầu vào hoặc bán thành phẩm
không được hưởng ưu đãi. Vì thế Nhà nước cần xem xét và có chính sách khuyến khích
đối với các doanh nghiệp này.
- Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu: Trên thực tế công tác quản lý xuất khẩu
của Nhà nước còn một số bất cập với diễn biến của hoạt động xuất khẩu nhiều khi còn
không ít thiếu sót và nhược điểm cần khắc phục và giải quyết. Về lâu dài các quy định về
xuất nhập khẩu hiện hành phải được bổ sung sửa đổi tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động xuất nhập khẩu phát triển.
- Thiết lập chế độ tỷ giá hối đoái thuận lợi cho người xuất khẩu: Tỷ giá hối đoái
thay đổi thì ảnh hưởng lớn tới hoạt động xuất khẩu và hoạt động nhập khẩu.
Nếu đồng nội tệ mất giá so với ngoại tệ thì hàng xuất khẩu trở nên rẻ, dễ xâm nhập
vào thị trường nước ngoài từ đó dẫn tới xuất khẩu tăng còn nhập khẩu giảm.
Ngược lại, nếu đồng nội tệ có sức cạnh tranh cao hơn so với hàng nội địa từ đó
dẫn tới nhập khẩu tăng và xuất khẩu giảm.
Do đó Nhà nước cần phải linh hoạt điều chỉnh nhằm khuyến khích xuất khẩu và
tăng nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu.
Kết luận
Việt Nam đang nỗ lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước để
bắt kịp xu thế phát triển kinh tế của toàn cầu. Góp tiếng nói quyết định là hoạt động xuất
khẩu, một nguồn cung cấp ngoại tệ chính để trang trải cho các nhu cầu nhập khẩu của
nền kinh tế, góp phần cân đối, duy trì và tái mở rộng sản xuất trong nước, tranh thủ
những tiến bộ khoa học và công nghệ thế giới, đáp ứng nhu cầu không ngừng nâng cao
trình độ phát triển kinh tế xã hội nước nhà.
Công ty XNK Tổng hợp I là một doanh nghiệp nhà nước thamgia vào lĩnh vực
xuất nhập khẩu ngay từ những ngày đầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế của nước ta. Hiện
nay, Công ty đã tạo lập được một vị trí tương đối vững vàng trên thị trường trong nước
cũng như thế giới. Đặc biệt là hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam nói chung.
Trên cơ sở định hướng của Đảng và Nhà nước, Công ty cũng coi nông sản là mặt hàng
xuất khẩu chiến lược trong những năm tới và tích cực tìm kiếm những giải pháp nhằm
đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu mặt hàng này.
Tài liệu tham khảo
1. Văn kiện đại hội đảng bộ toàn quốc lần thứ IX, chiến lược phát triển kinh tế kinh tế
Việt Nam 2001 - 2010. NXB Chính trị quốc gia (2001)
2. Bộ thương mại, cục diện kinh tế thế giới 2000 và dự báo thương mại 2001. NXB
Thông tin thương mại (2000)
3. PGS.TS Nguyễn Duy Bột, Giáo trình TMQT
NXB Thống Kê (1997)
4. PGS.TS Nguyễn Duy Bột, Giáo trình marketing TMQT. Hà Nội 1997.
5.Các báo: Hải quan, thời báo kinh tế Việt Nam, Diễn đàn doanh nghiệp.
6. Tạp chí thông tin thương mại các số từ tháng 1/2001 – 12/2001.
7. Các báo cáo tổng kết kết quả kinh doanh của Công ty XNK Tổng hợp I từ năm 1997 –
2001.
Mục lục
Trang
Mở đầu.......... ......................................................................................................... 2
Chương I: Mặt hàng nông sản và vai trò của xuất khẩu nông sản đối với nền
kinh tế Việt Nam ............................................................................. 3
I. Vai trò của xuất khẩu nông sản đối với nền kinh tế quốc dân. .......................... 4
1. Khái niệm hoạt động xuất khẩu và vai trò của nó đối với nền kinh tế quốc
dân. ........................................................................................................... 4
1.1. Khái niệm hoạt động xuất khẩu: .......................................................... 4
1.2. Vai trò của xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân. ............................. 4
1.2.1. Xuất khẩu là phương tiện chính tạo nguồn vốn cho nhập khẩu
phụcvụ CNH - HĐH đất nước. ..................................................... 4
1.2.2. Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy
sản xuất phát triển. ....................................................................... 5
1.2.3. Xuất khẩu tác động tích cực dến giải quyết công ăn việc làm và cải
thiện đời sống nhân dân................................................................ 6
1.2.4. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các hoạt động kinh tế
đối ngoại của nước ta. .................................................................. 6
1.3. Vai trò của xuất khẩu đối với Công ty XNK Tổng hợp I. ..................... 7
2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu nông sản đối với nền kinh tế quốc dân. ..... 8
II. Thị trường nông sản thế giới và đặc điểm mặt hàng nông sản xuất khẩu. ........ 9
1. Thị trường nông sản thế giới. ...................................................................... 9
2. Đặc điểm của mặt hàng nông sản xuất khẩu. ............................................. 10
II. Nội dung của hoạt động xuất khẩu nông sản tại Công ty Xnk tổng hợp I. ..... 12
1. Nghiên cứu thị trường, xác định mặt hàng xuất khẩu ................................. 12
1.1. Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới ............................................ 12
2. Xây dựng chiến lược và kế hoạch xuất khẩu. ............................................. 16
2.1. Chiến lược xuất khẩu. ........................................................................ 16
2.2. Kế hoạch xuất khẩu. .......................................................................... 16
3. Lựa chọn hình thức xuất khẩu nông sản. ................................................... 17
4. Các hoạt động marketing trong xuất khẩu nông sản. .................................. 18
5. Tổ chức thực hiện kế hoạch xuất khẩu nông sản. ....................................... 18
5.1. Tạo nguồn hàng xuất khẩu. ................................................................ 18
5.2. Đàm phán ký kết hợp đồng. ............................................................... 20
5.3. Ký kết hợp đồng xuất khẩu ................................................................ 20
5.4. Tổ chức thực hiện hợp đồng. ............................................................. 21
Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu nông sản tại Công ty Xuất Nhập
Khẩu Tổng hợp I .......................................................................... 21
I. Khái quát chung về Công ty XNK Tổng hợp I. .............................................. 22
1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Công ty. ............................ 22
2. Cơ cấu tổ chức: ......................................................................................... 24
3. Tình hình cán bộ công nhân viên của Công ty. .......................................... 27
4. Tình hình tài chính của Công ty. ............................................................... 28
5. Sự vận hành và phát triển của Công ty. ..................................................... 29
5.1. Giai đoạn I: (Từ tháng 12/1981 đến cuối năm 1984). ......................... 29
5.2. Giai đoạn II (1985-1989) ................................................................... 30
5.3. Giai đoạn III (1990 -2001) ................................................................. 30
6. Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty trong những năm gần đây. ...... 31
II. Thực trạng hoạt động xuất khẩu nông sản của Công ty. ................................ 33
1. Đặc điểm các mặt hàng nông sản của Công ty. .......................................... 33
2. Kim ngạch và cơ cấu. ................................................................................ 33
3. Thị trường xuất khẩu nông sản của Công ty. ............................................. 35
III. Đánh giá chung về hoạt động xuất khẩu nông sản của Công ty xuất nhập khẩu
tổng hợp I. ................................................................................................. 37
1. Những kết quả đạt được. ........................................................................... 37
2. Những mặt còn tồn tại và nguyên nhân. .................................................... 38
Chương III: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản tại
Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I ............................................. 39
I. Phương hướng xuất khẩu nông sản của Công ty trong những năm tiếp theo... 39
1. Định hướng xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong thời gian tới. ............ 39
2. Phương hướng xuất khẩu nông sản của Công ty trong những năm tiếp theo.
............................................................................................................... 40
II. Các giải pháp cụ thể nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản của Công
ty. .............................................................................................................. 41
1. Phát triển và mở rộng thị trường. ............................................................... 41
1.1. Nghiên cứu lựa chọn thị trường. ........................................................ 41
1.2. Sử dụng các chính sách Marketing thích hợp. .................................... 41
1.3. Các thị trường mà Công ty cần tập trung trong những năm tới. .......... 42
2. Hoàn thiện công tác tạo nguồn hàng xuất khẩu. ......................................... 43
2.1. Mở rộng hình thức tạo nguồn. ............................................................ 43
2.2. Đẩy mạnh chế biến, nâng cao chất lượng sản phẩm. .......................... 44
2.3. Thực hiện tốt công tác dự trữ và bảo quản hàng hoá. ......................... 44
3. Các giải pháp nâng cao cạnh tranh. ........................................................... 45
4. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức. ........................................................................ 45
4.1. Hạch toán nghiệp vụ riêng đối với hàng nông sản. ............................. 45
4.2. Thành lập phòng Marketing. .............................................................. 46
4.3. Nâng cao trình độ chuyên môn cho CBCNV...................................... 47
5. Xây dựng chiến lược thích hợp cho xuất khẩu nông sản trong thời gian tới.
............................................................................................................... 47
5.1. Các mục tiêu của Công ty. ................................................................. 48
5.2. Những giải pháp chiến lược cụ thể. .................................................... 48
6. Nâng cao nghiệp vụ ký kết hợp đồng......................................................... 48
IV. Một số kiến nghị với Nhà nước. .................................................................. 49
1. Quy hoạch các vùng sản xuất và chế biến nông sản. ................................. 49
2. Trợ giúp các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản. ........................................ 50
2.1. Hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm thị trường. ................... 50
2.2. Hỗ trợ về vốn cho các doanh nghiệp. ................................................. 50
3. Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý xuất nhập khẩu theo hướng đơn
giản hơn, thông thoáng hơn phù hợp với cơ chế thị trường. ..................... 51
Kết luận............. ................................................................................................... 52
Tài liệu tham khảo .............................................................................................. 53