intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thực trạng năng lực dạy học của giáo viên lịch sử ở trung học cơ sở hiện nay trước yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông

Chia sẻ: ViSatori ViSatori | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:11

68
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết tập trung phân tích và đánh giá thực trạng năng lực dạy học của GV bộ môn Lịch sử ở trường THCS hiện nay, từ đó chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến sự hạn chế về năng lực DH của GV.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thực trạng năng lực dạy học của giáo viên lịch sử ở trung học cơ sở hiện nay trước yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE<br /> Educational Sci., 2017, Vol. 62, No. 1A, pp. 134-144<br /> This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn<br /> <br /> DOI: 10.18173/2354-1075.2017-0039<br /> <br /> THỰC TRẠNG NĂNG LỰC DẠY HỌC CỦA GIÁO VIÊN LỊCH SỬ Ở TRUNG<br /> HỌC CƠ SỞ HIỆN NAY TRƯỚC YÊU CẦU ĐỔI MỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG<br /> Phạm Thị Kim Anh<br /> Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội<br /> Tóm tắt. Đổi mới giáo dục phổ thông đang đặt ra những yêu cầu mới về năng lực dạy học<br /> (DH) của người giáo viên (GV) Lịch sử. Muốn tiến hành đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ GV<br /> có đủ năng lực dạy học đáp ứng với chương trình – sách giáo khoa (SGK) mới thì trước<br /> hết cần phải đánh giá được thực trạng năng lực dạy học của đội ngũ GV lịch sử hiện nay ở<br /> trường trung học cơ sở (THCS) như thế nào. Xuất phát từ yêu cầu đó, nội dung của bài báo<br /> này tập trung phân tích và đánh giá thực trạng năng lực dạy học của GV bộ môn Lịch sử<br /> ở trường THCS hiện nay, từ đó chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến sự hạn chế về năng lực<br /> DH của GV.<br /> Từ khóa: Năng lực dạy học, giáo viên lịch sử, đổi mới giáo dục phổ thông.<br /> <br /> 1.<br /> <br /> Mở đầu<br /> <br /> Những năm gần đây, các nghiên cứu về năng lực dạy học của người giáo viên (GV) nói<br /> chung, GV bộ môn lịch sử nói riêng được quan tâm nghiên cứu. Trong các công trình nghiên cứu<br /> của tác giả Phạm Hồng Quang [13], Nguyễn Thế Bình [3], Nguyễn Thị Huyền và Nguyễn Thị<br /> Mẫn [7], Vũ Xuân Hùng [8], Đặng Tự Ân [1]. . . đã nêu và phân tích rõ những yêu cầu về năng lực<br /> DH của người GV để đáp ứng với sự thay đổi của chương trình giáo dục mới. Một số bài viết đi<br /> sâu bàn về biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ GV lịch sử, như: “Suy nghĩ về đào tạo GV Lịch<br /> sử thời kì toàn cầu hóa giáo dục-đào tạo” của Nghiêm Đình Vỳ [15]; “Cần một đội ngũ GV dạy<br /> Sử ở trường phổ thông vừa yêu nghề vừa được đào tạo bài bản” của Trần Đức Minh [10]; “Nâng<br /> cao chất lượng giáo dục lịch sử ở trường phổ thông từ việc đổi mới CT-SGK” của Đỗ Hồng Thái<br /> [14]; “Góp phần giải quyết những bức xúc và yếu kém trong dạy học lịch sử hiện nay” của Phạm<br /> Văn Hà [5]. Các nghiên cứu này hầu như chưa đi sâu vào đánh giá thực trạng năng lực DH của đội<br /> ngũ GV lịch sử.<br /> Năm 2013, theo yêu cầu của Cục Nhà giáo và Cán bộ quản quản lí cơ sở giáo dục (Bộ<br /> GD&ĐT), để đánh giá chất lượng GV, cuộc thi kiểm tra chất lượng GV được diễn ra ở nhiều địa<br /> phương trong cả nước. Kết quả của nó khiến nhiều người sững sờ “Nhiều giáo viên bị muối mặt<br /> sau cuộc kiểm tra chất lượng vì bị điểm dưới trung bình” [6]. Đây mới chỉ là kết quả đánh giá về<br /> năng lực chuyên môn, còn năng lực dạy học của GV thì chưa có cuộc khảo sát lớn. Mới đây, Tài<br /> liệu tập huấn cán bộ, giảng viên các cơ sở đào tạo GV phổ thông về phát triển chương trình đào<br /> Ngày nhận bài: 15/12/2016. Ngày nhận đăng: 20/2/2017.<br /> Liên hệ: Phạm Thị Kim Anh, e-mail: phamkimanh279@yahoo.com.vn<br /> <br /> 134<br /> <br /> Thực trạng năng lực dạy học của giáo viên Lịch sử ở Trung học cơ sở hiện nay...<br /> <br /> tạo của Bộ GD&ĐT (2015) đã đưa ra số liệu đánh giá tổng quát năng lực DH của gần 200 GV phổ<br /> thông ở 12 bộ môn (không dựa vào bằng cấp): «Đạt yêu cầu: 75,3%; Chưa đạt yêu cầu: 16,6% và<br /> khó đánh gía được là 8,0%» [4]. Như vậy còn khoảng 25% số GV chưa đạt yêu cầu về năng lực<br /> DH theo chương trình hiện hành. Nếu Chương trình giáo dục phổ thông mới được triển khai trong<br /> thời gian tới với định hướng và yêu cầu chuyển từ trang bị nội dung kiến thức sang phát triển phẩm<br /> chất và năng lực người học bằng việc dạy học tích hợp và lồng ghép, dạy học phân hóa, trải nghiệm<br /> sáng tạo. . . thì năng lực của đội ngũ GV phổ thông đang đứng trước những thách thức mới. Vậy<br /> làm thế nào để phát triển và nâng cao năng lực DH cho GV phổ thông nói chung, GV dạy bộ môn<br /> Lịch sử nói riêng đáp ứng với chương trình giáo dục phổ thông mới đang là bài toán đặt ra cho các<br /> nhà quản lí, trong đó có vai trò của các trường sư phạm.<br /> Để trả lời cho các câu hỏi này, trước hết phải đánh giá cho được thực trạng năng lực DH của<br /> đội ngũ GV lịch sử hiện nay ở trường THCS như thế nào để từ đó tiến hành đào tạo và bồi dưỡng<br /> GV nhằm trang bị cho họ có đủ năng lực đáp ứng với yêu cầu dạy học mới.<br /> Xuất phát từ yêu cầu đó, trong bài báo này chúng tôi tập trung vào 2 nội dung chính: (1)<br /> Phân tích, đánh giá thực trạng năng lực DH của GV bộ môn Lịch sử ở trường THCS hiện nay, (2)<br /> Chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến năng lực DH của GV còn hạn chế.<br /> <br /> 2.<br /> 2.1.<br /> <br /> Nội dung nghiên cứu<br /> Thực trạng năng lực dạy học của GV bộ môn lịch sử ở THCS qua kết quả<br /> khảo sát<br /> <br /> Để đánh giá được thực trạng về năng lực DH của GV bộ môn Lịch sử ở THCS, chúng tôi đã<br /> tiến hành khảo sát 75 GV THCS được chọn ngẫu nhiên và đang trực tiếp dạy bộ môn Lịch sử trên<br /> địa bàn một số tỉnh: Hải Dương, Ninh Bình, Thái Bình, Lai Châu, Sơn La, Lào Cai với tổng số 38<br /> trường. Nội dung khảo sát tập trung vào 3 vấn đề cơ bản sau: (1) Mức độ đạt được về các năng lực<br /> dạy học của GV; (2) Mức độ đạt được về một số năng lực DH theo yêu cầu đổi mới giáo dục; (3)<br /> Mức độ thành thạo về các kĩ năng DH. Sau khi xử lí số liệu, chúng tôi thu được kết quả như sau:<br /> a) Mức độ đạt được về các năng lực DH của GV.<br /> Nhìn vào số liệu Bảng 1, chúng ta thấy:<br /> - Hầu hết GV đều đã có năng lực DH bộ môn, song đạt tới mức độ vững chắc chỉ trên dưới<br /> 40%. Trong đó “Năng lực về vận dụng các phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức dạy học<br /> Lịch sử theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS, phát triển năng lực tự học<br /> và tư duy của HS” chiếm tỉ lệ vững chắc chỉ đạt 36%. Sự vững chắc về năng lực chủ yếu là số GV<br /> lớn tuổi, có năng lực chuyên môn tốt và có nhiều kinh nghiệm trong DH.<br /> - Số GV có năng lực DH, nhưng chưa vững chắc chiếm tỉ lệ trên dưới 50% (chủ yếu là ở<br /> những đối tượng GV trẻ mới vào nghề).<br /> - Có một số GV chưa có năng lực về DH, trong đó: Năng lực sử dụng ngôn ngữ trong diễn<br /> đạt, trình bày các vấn đề của Lịch sử (15%); Năng lực tổ chức và quản lí lớp học trong giờ học<br /> (13%); Năng lực vận dụng các phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức dạy học Lịch sử<br /> theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS, phát triển năng lực tự học và tư<br /> duy của HS (10%). Thực tế này chủ yếu là những GV phải dạy chéo môn, không đúng với chuyên<br /> ngành được đào tạo của mình).<br /> <br /> 135<br /> <br /> Phạm Thị Kim Anh<br /> <br /> Bảng 1. Mức độ đạt được về các năng lực DH của GV<br /> Mức độ đạt được %<br /> Các năng lực DH của giáo viên<br /> Đã<br /> Có, nhưng<br /> Chưa<br /> Khó<br /> vững<br /> chưa vững<br /> có<br /> đánh giá<br /> chắc<br /> chắc<br /> 1. Năng lực tìm hiểu đối tượng HS trong DH<br /> 41,0<br /> 57,0<br /> 2,0<br /> 2 .Năng lực thiết kế bài dạy (soạn giáo án)<br /> 42,0<br /> 54.0<br /> 4,0<br /> 3. Năng lực tổ chức DH ( trên lớp-ngoài lớp)<br /> 44,0<br /> 53.0<br /> 3,0<br /> 4. Năng lực vận dụng các phương pháp,<br /> phương tiện và hình thức tổ chức dạy học<br /> Lịch sử theo hướng phát huy tính tích cực, chủ<br /> 36,0<br /> 54,0<br /> 10,0<br /> động, sáng tạo của HS, phát triển năng lực tự<br /> học và tư duy của HS<br /> 5. Năng lực sử dụng ngôn ngữ trong diễn đạt,<br /> 39,0<br /> 46,0<br /> 15,0<br /> trình bày các vấn đề của Lịch sử<br /> 6. Năng lực tổ chức và quản lí lớp học trong<br /> 40,0<br /> 47,0<br /> 13,0<br /> giờ học<br /> 45,0<br /> 52,0<br /> 3,0<br /> 7. Năng lực đánh giá kết quả học tập của HS<br /> 8. Năng lực xây dựng, quản lí và khai thác hồ<br /> 48,0<br /> 50,0<br /> 2,0<br /> sơ dạy học.<br /> Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng năng lực DH của GV Lịch sử ở THCS [2]<br /> <br /> b) Mức độ đạt được về một số năng lực DH theo yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông<br /> Nghị quyết về đổi mới chương trình-sách giáo khoa giáo dục phổ thông (số 88/2014/QH13,<br /> ngày 28/11/2014), nhấn mạnh tới các yêu cầu: “. . . phát triển phẩm chất và năng lực học sinh; tích<br /> hợp cao ở các lớp học dưới và phân hoá dần ở các lớp học trên; thực hiện lồng ghép những nội<br /> dung liên quan với nhau của một số lĩnh vực giáo dục, một số môn học; đổi mới phương pháp dạy<br /> học, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, bồi dưỡng phương pháp tự học, hứng thú học tập,<br /> kĩ năng hợp tác, làm việc nhóm và khả năng tư duy độc lập; đa dạng hoá hình thức tổ chức học tập,<br /> tăng cường hiệu quả sử dụng các phương tiện dạy học, đặc biệt là công nghệ thông tin và truyền<br /> thông. . . ” [11]. Để thực hiện được những yêu cầu này thì GV cần phải có những năng lực DH theo<br /> yêu cầu đổi mới.<br /> Để thăm dò và đánh giá mức độ đạt được về một số năng lực DH theo yêu cầu đổi mới,<br /> chúng tôi cũng đã tiến hành khảo sát và kết quả cho thấy như sau:<br /> Kết quả khảo sát ở Bảng 2 cho thấy: về cơ bản GV đã có những năng lực DH theo yêu cầu<br /> đổi mới. Tuy nhiên, mức độ vững chắc rất thấp và không đồng đều. Có 34% GV vững chắc về<br /> “Năng lực sử dụng công nghệ thông tin (máy tính, Internet, mạng xã hội. . . ) trong dạy học Lịch<br /> sử”; 27% GV vững chắc về “Năng lực xây dựng môi trường học tập. . . ” và có 24,3% GV vững<br /> chắc về “Năng lực dạy học theo định hướng phát triển năng lực HS”. Những năng lực khác đều đạt<br /> ở mức trên dưới 20%. Năng lực DH theo phương thức hoạt động trải nghiệm sáng tạo chỉ có 5,5%<br /> GV đạt mức vững chắc. Có lẽ do đặc thù bộ môn Lịch sử ít có điều kiện để tổ chức hoạt động này<br /> nên mức độ GV đạt mức vững chắc rất thấp.<br /> Số GV chưa vững chắc về năng lực DH theo yêu cầu đổi mới chiếm tỉ lệ khá nhiều (trong<br /> khoảng từ 40%-60%). Trong đó, “Năng lực tổ chức tự học, tự nghiên cứu cho HS” có tới 60.5%<br /> 136<br /> <br /> Thực trạng năng lực dạy học của giáo viên Lịch sử ở Trung học cơ sở hiện nay...<br /> <br /> GV chưa vững chắc. Đây chính là bằng chứng cho thấy việc dạy và học lịch sử từ xưa đến nay coi<br /> trọng về việc truyền giảng kiến thức, cung cấp và trang bị cho HS những nội dung của bài học mà<br /> chưa chú ý đến việc dạy HS cách tự học, tự nghiên cứu.<br /> Số GV chưa có một số năng lực DH theo yêu cầu đổi mới chiếm tỉ lệ không nhỏ. Có 50%<br /> GV chưa có “năng lực phát triển chương trình nhà trường, biên soạn và phát triển tài liệu giáo khoa<br /> Lịch sử”; 41,8% GV chưa có “năng lực DH theo phương thức hoạt động trải nghiệm sáng tạo”;<br /> 40,5% GV chưa có “năng lực đổi mới, sáng tạo, cải tiến PP DH” và 36,4% GV chưa có “năng lực<br /> dạy học phân hoá”. . . . Điều này là do GV chưa được đào tạo trong các trường sư phạm và chưa<br /> được bồi dưỡng, tập huấn để được tiếp cận với những cái mới.<br /> Bảng 2. Mức độ đạt được về năng lực DH theo yêu cầu đổi mới<br /> Mức độ đạt được %<br /> Các năng lực DH của giáo viên theo yêu<br /> Đã<br /> Có, nhưng<br /> Chưa<br /> Khó<br /> cầu đổi mới<br /> vững<br /> chưa vững<br /> có<br /> đánh giá<br /> chắc<br /> chắc<br /> 1. Năng lực phát triển chương trình nhà<br /> trường, biên soạn và phát triển tài liệu giáo<br /> 10.0<br /> 40.0<br /> 50,0<br /> khoa Lịch sử<br /> 2. Năng lực dạy học theo định hướng phát<br /> 24,3<br /> 47,2<br /> 28,3<br /> triển năng lực HS<br /> 3. Năng lực dạy học phân hoá.<br /> 18,9<br /> 44,5<br /> 36,4<br /> 4. Năng lực dạy học tích hợp, lồng ghép<br /> 10<br /> 59,4<br /> 27,0<br /> 3.0<br /> 5. Năng lực DH theo phương thức hoạt động<br /> 5.5<br /> 52,7<br /> 41,8<br /> trải nghiệm sáng tạo<br /> 6. Năng lực tổ chức tự học, tự nghiên cứu cho<br /> 16,2<br /> 60,5<br /> 23,2<br /> HS<br /> 7. Năng lực sử dụng công nghệ thông tin (máy<br /> 34.0<br /> 60,0<br /> 6,0<br /> tính, internet, mạng xã hội. . . ) trong dạy học<br /> Lịch sử<br /> 8. Năng lực đổi mới, sáng tạo, cải tiến PP DH<br /> 16,2<br /> 39,1<br /> 40,5<br /> 4.0<br /> 9. Năng lực giao tiếp và kiểm soát cảm xúc<br /> 21,6<br /> 44,6<br /> 28,3<br /> 5,4<br /> trong DH<br /> 10. Năng lực thích ứng với các điều kiện DH<br /> 20,2<br /> 59,1<br /> 20,5<br /> khác nhau.<br /> 11. Năng lực xây dựng môi trường học tập (tạo<br /> 27.0<br /> 44.6<br /> 28.3<br /> dựng môi trường học tập: dân chủ, cởi mở,<br /> thân thiện, hợp tác, thuận lợi, an toàn. . . )<br /> 12. Năng lực chuyển giao kinh nghiệm DH<br /> cho đồng nghiệp, phát triển nghề của tổ bộ<br /> 17,5<br /> 51,3<br /> 31,0<br /> môn, của Trường<br /> Nguồn: Kết quả khảo sát thực trạng năng lực DH của GV Lịch sử ở THCS [2]<br /> <br /> Để có những đánh giá khách quan và chính xác, cùng với việc khảo sát qua phiếu hỏi (đánh<br /> giá bằng định lượng), chúng tôi còn tiến hành phỏng vấn trực tiếp GV, cán bộ quản lí các trường<br /> 137<br /> <br /> Phạm Thị Kim Anh<br /> <br /> học. Qua phỏng vấn, một số lãnh đạo cơ sở giáo dục đều thừa nhận: Số lượng GV đạt trình độ<br /> chuẩn đào tạo ngày càng tăng lên, nhưng năng lực dạy học, phương pháp và kĩ năng nghề nghiệp<br /> còn yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới. Do vậy, đội ngũ GV ở tất cả các bộ môn đều phải<br /> đào tạo lại về năng lực chuyên môn và NVSP mới có thể đáp ứng được yêu cầu đổi mới căn bản và<br /> toàn diện giáo dục trong thời gian tới.<br /> Thày Nguyễn Đình Thắng, hiệu trưởng Trường THPT Ba Vì (Ba Vì, Hà Nội) cho biết: “Mặc<br /> dù GV đã qua trường lớp sư phạm, nhưng năng lực để đáp ứng với nhu cầu đổi mới thì rất hạn chế,<br /> cần phải bồi dưỡng cho GV cả về định hướng, tư tưởng và những phương pháp mới để không bị<br /> “ngợp” với sự đổi mới của chương trình và nội dung.<br /> Thày Nguyễn Quốc Bình, hiệu trưởng Trường THPT Việt Đức (Hai Bà Trưng - Hà Nội)<br /> cũng thừa nhận: “Tôi cũng phải nói thật, với đội ngũ GV dạy các bộ môn nói chung, môn lịch sử<br /> nói riêng của chúng ta bây giờ có một bộ phận chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới GD. Bộ GD<br /> phải đầu tư cho đội ngũ, trước hết là đội ngũ hiện có để tiếp tục bồi dưỡng, tiếp cận dần nội dung<br /> và chương trình mới, để làm sao đáp ứng được, còn không chúng ta lại bị hụt như những lần trước...<br /> phải nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm và năng lực chuyên môn, năng lực sư phạm, kĩ năng,<br /> phương pháp giảng dạy“.<br /> PGS.TS Nguyễn Hữu Hợp - giảng viên Khoa Giáo dục Tiểu học - Trường Đại học Sư phạm<br /> Hà Nội còn tỏ ra rất đáng lo ngại trước năng lực của đội ngũ GV: “Không bao lâu nữa, giáo dục<br /> nước ta sẽ thực hiện chương trình đổi mới căn bản và toàn diện tiếp cận nền giáo dục tiên tiến thế<br /> giới với hai yếu tố nổi bật - dạy học tích hợp và phát triển năng lực học sinh. Rất nhiều GV bây<br /> giờ dạy "môn đơn" còn khó, chưa tốt thì họ sẽ dạy "môn tích hợp" như thế nào? Các chuyên gia<br /> giáo dục phải mất nhiều hội thảo cấp quốc gia mới "ra" được khái niệm "năng lực" thì GV có hiểu<br /> năng lực và phát triển được năng lực cho HS không? Liệu chúng ta có "lạc quan tếu", "đứng núi<br /> này, trông núi nọ" hay không khi cho rằng chỉ cần bồi dưỡng, tập huấn là GV "làm được tuốt"?<br /> PGS.TS Phạm Văn Lực - Trưởng khoa Sử - Địa, Trường Đại học Tây Bắc, khi phân tích<br /> thực trạng năng lực của đội ngũ GV của Tây Bắc đã thẳng thắn chỉ ra những điểm yếu của GV phổ<br /> thông như sau: “Điểm yếu nhất của GV phổ thông các tỉnh Tây Bắc là việc vận dụng các phương<br /> pháp dạy học tích cực: liên môn tích hợp tri thức, dạy học phân hóa, dạy học theo định hướng phát<br /> triển năng lực và tổ chức hoạt động giáo dục trải nghiệm sáng tạo cho HS... Theo số liệu điều tra<br /> thực tế ở một số trường phổ thông (tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông ở Tây Bắc)<br /> cho thấy: hầu hết GV Tây Bắc hiểu không đúng về dạy học theo định hướng phát triển năng lực<br /> cho học sinh là như thế nào?, cần phát triển những năng lực gì của bộ môn cho các em“ [9].<br /> Riêng đối với GV lịch sử ở Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, PGS.TS Phạm Văn Lực cho biết<br /> thêm: “Qua số liệu khảo sát điều tra cho thấy 31/31 GV lịch sử ở cả hai hệ THCS và THPT được<br /> hỏi đều nói: không tích hợp trong giảng dạy và không biết liên môn tích hợp tri thức giữa lịch sử<br /> với văn học, địa lí... Ở trung học phổ thông khi dạy: Bài 7. “Sự phát triển lịch sử và nền văn hóa<br /> đa dạng của Ấn Độ” (Sách giáo khoa lịch sử lớp 10 - chương trình chuẩn) GV lịch sử ở 4/4 trường<br /> khi dạy bài này đều nói không tích hợp bao giờ; hoặc khi dạy: Bài 11. “Tây Âu thời trung đại”<br /> (phần: Những cuộc phát kiến địa lí) – Sách giáo khoa lịch sử lớp 11 - chương trình chuẩn, GV<br /> cũng không tích hợp và không biết tích hợp kiến thức giữa lịch sử với địa lí như thế nào . Bất cập<br /> hơn nữa, trong khi HS đang chán học môn lịch sử, đòi hỏi GV phải có đầu tư nhiều hơn nữa về nội<br /> dung, đổi mới phương pháp, thay đổi cách thức dạy học để tạo sự sinh động cho bài giảng, cuốn<br /> hút các em thì lại có trên 90% GV lịch sử vùng sâu, vùng xa của Tây Bắc chưa bao giờ tổ chức cho<br /> học sinh đi tham quan thực tế các di tích lịch sử và viếng nghĩa trang liệt sĩ ở địa phương (mặc dù<br /> hoạt động này muốn thực hiện được phải có thời gian và kinh phí). Một hạn chế nữa của GV lịch<br /> sử ở Tây Bắc là không biết phát hiện vấn đề và tổ chức hoạt động giáo dục trải nghiệm sáng tạo<br /> cho HS nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra trong thực tế. Tất cả những vấn đề trên đã bộc lộ khá<br /> 138<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2