Thực trạng nội dung giáo dục STEAM trong chương trình đào tạo cử nhân giáo dục mầm non
lượt xem 3
download
Bài viết này đề cập đến thực trạng nhu cầu của các trường mầm non về nguồn nhân lực giáo viên tổ chức được hoạt động giáo dục STEAM, đồng thời khảo sát nội dung giáo dục STEAM cho trẻ mầm non trong chương trình đào tạo cử nhân các trường Cao đẳng, Đại học.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Thực trạng nội dung giáo dục STEAM trong chương trình đào tạo cử nhân giáo dục mầm non
- HNUE JOURNAL OF SCIENCE Educational Sciences, 2021, Volume 66, Issue 4C, pp. 138-147 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn THỰC TRẠNG NỘI DUNG GIÁO DỤC STEAM TRONG CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO CỬ NHÂN GIÁO DỤC MẦM NON Hoàng Thu Huyền và Đặng Út Phượng Khoa Sư phạm, Trường Đại học Thủ đô Hà Nội Tóm tắt. Giáo dục STEAM đang là xu hướng giáo dục toàn cầu trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Hiện nay, nhu cầu nguồn nhân lực giáo viên mầm non có thể tổ chức được các hoạt động giáo dục STEAM cho trẻ ngày càng cao. Một số nghiên cứu về giáo dục STEAM trong bậc học mầm non đã đề cập đến vai trò của giáo dục STEAM đối với trẻ; đặc trưng về giáo dục STEAM ở bậc học mầm non; nhận thức về giáo dục STEAM của giáo viên mầm non, nhưng nghiên cứu về giáo dục STEAM cho trẻ mầm non trong chương trình đào tạo cử nhân còn ít. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến thực trạng nhu cầu của các trường mầm non về nguồn nhân lực giáo viên tổ chức được hoạt động giáo dục STEAM, đồng thời khảo sát nội dung giáo dục STEAM cho trẻ mầm non trong chương trình đào tạo cử nhân các trường Cao đẳng, Đại học. Từ đó, chúng tôi đề xuất bổ sung nội dung giáo dục STEAM cho trẻ mầm non vào trong chương trình đào tạo cử nhân chuyên ngành Giáo dục mầm non theo hướng tiếp cận năng lực người học. Từ khóa: Giáo dục STEAM, giáo dục STEAM cho trẻ mầm non, chương trình đào tạo cử nhân GDMN. 1. Mở đầu Giáo dục STEAM, có nhiều định nghĩa, quan điểm khác nhau: Theo Georgette Yakman, 2008, giáo dục STEAM được coi là một mô hình giáo dục đang phát triển về cách các môn học truyền thống khoa học, công nghệ, kĩ thuật, nghệ thuật và toán học được hợp lại để tạo thành một chương trình giáo dục tích hợp. Việc kết hợp các thành tố trong STEAM được hiểu theo các cách khác nhau. Tác giả đưa ra nhận định giáo dục STEAM được dựa trên giáo dục STEM và có thể chia làm 2 cách hiểu: Theo cách hiểu truyền thống, giáo dục STEM/STEAM có thể được viết là giáo dục S-T-E- M/ S-T-E-A-M vì nó đại diện cho các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kĩ thuật, nghệ thuật và toán học một cách đơn lẻ. Mỗi tổ chức, một trường học có thể hiểu, phát triển chương trình giáo dục STEAM theo một cách riêng biệt; Theo xu hướng mới hơn, có thể hiểu giáo dục STEM/STEAM theo hướng tích hợp, bao gồm các hoạt động dạy và học khi các môn học được tích hợp có mục đích. Khi lập kế hoạch cho chương trình giảng dạy tích hợp, một lĩnh vực có thể là trọng tâm cơ bản nổi bật hơn hẳn so với những yếu tố khác hoặc tất cả có thể được lập kế hoạch để được xuất hiện ngang bằng nhau trong chương trình [1]. Ở một hướng nghiên cứu khác, các nhà nghiên cứu cho rằng phép cộng đơn giản không thể đủ để nói lên mối liên kết giữa STEAM và S, T, E, A, M bởi giáo dục STEM/ STEAM ngoài nói về các lĩnh vực đơn lẻ, nó còn nhắc đến bối cảnh thực tiễn trong quá trình học tập, sự giao Ngày nhận bài: 2/9/2021. Ngày sửa bài: 29/9/2021. Ngày nhận đăng: 10/10/2021. Tác giả liên hệ: Hoàng Thu Huyền và Đặng Út Phượng. Địa chỉ e-mail: hthuyen @daihocthudo.edu.vn / duphuong@daihocthudo.edu.vn 138
- Thực trạng nội dung giáo dục STEAM trong chương trình đào tạo cử nhân Giáo dục mầm non thoa, lồng ghép, tương tác của các lĩnh vực cũng như giá trị cốt lõi của giáo dục STEM/STEAM mang lại. Trong các nghiên cứu của các tác giả Bybee (2013), English (2016), Martin – Paez et al (2019, Yilkim (2016), Perignat (2019), giáo dục STEM/ STEAM thay vì được định nghĩa bằng một khái niệm chuẩn thì các tác giả lại sử dụng các đặc điểm, đặc trưng để nêu nên nội hàm của giáo dục STEM/STEAM [2], [6]. Nhóm tác giả, Elaine Perignat, Jen Katz-Buonincontro khi tổng quan 44 bài báo đã xuất bản về STEAM và giáo dục STEAM từ năm 2007 – 2018 chỉ ra rằng hầu hết các nghiên cứu khi nhắc đến STEAM được định nghĩa bằng những từ viết tắt Science, Technology, Engineering, Arts, and Mathematics. Trong nghiên cứu của mình, nhóm tác giả cũng chỉ ra khái niệm giáo dục STEAM được hiểu theo những đặc trưng với nhiều cách khác nhau, nhưng tựu lại ở bốn cách hiểu chính: giáo dục STEAM xuyên ngành, giáo dục STEAM liên ngành, giáo dục STEAM đa lĩnh vực và giáo dục STEAM liên lĩnh vực [6]. Từ các quan điểm trên, chúng tôi cho rằng, giáo dục STEAM nên được hiểu là một cách tiếp cận liên ngành trong quá trình dạy và học, trong đó các bài học mang tính lí luận, nguyên tắc sẽ được đan xen với các hoạt động gắn liền với thực tiễn, ở đó người dạy tạo môi trường, tạo cơ hội để người học được vận dụng những kiến thức và kĩ năng trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kĩ thuật, nghệ thuật và toán học vào trong các tình huống thực tiễn, trong quá trình vận dụng có thể lựa chọn kết hợp những lĩnh vực trọng tâm và lĩnh vực phụ trợ, thông qua đó giúp người học phát triển những năng lực chung và có thể giải quyết hiệu quả những vấn đề trong cuộc sống thực. Ở Việt Nam, những nghiên cứu về giáo dục STEAM ở cấp học mầm non, từ năm 2019 trở lại đây đã có nhưng còn rất khiêm tốn với những nghiên cứu về đặc trưng của giáo dục STEAM cho trẻ mầm non và đề cập đến khả năng tích hợp các yếu tố S, T, E, A, M vào trong chương trình giáo dục mầm non [7]; Nội dung bồi dưỡng năng lực giáo dục STEAM cho giáo viên mầm non [8]; Nâng cao năng lực nhận biết của giáo viên mầm non về giáo dục STEAM [9]; Bên cạnh đó còn có các về những phương thức giáo dục STEAM ở trường mầm non nhằm đáp ứng nhu cầu đổi mới; vận dụng quy trình giáo dục STEAM trong giáo dục thể chất cho trẻ mầm non. (Huyền, 2020; Văn Thị Minh Tư, Chu Thị Hồng Nhung, 2020) Các nghiên cứu đều mang những nội dung và những hướng tiếp cận riêng, nhưng tựu lại đều đưa ra nhận định giáo dục STEAM là rất cần thiết đối với sự phát triển của trẻ mầm non. Giai đoạn mầm non được coi là giai đoạn nhạy cảm cho sự phát triển của cá nhân, ảnh hưởng sâu sắc đến nhân cách ở giai đoạn sau. Chính vì vậy, nếu nhà giáo dục không đi đúng hướng, cung cấp những thông tin sai lệch, phương pháp giảng dạy không phù hợp sẽ để lại hậu quả vô cùng to lớn đối với sự phát triển của trẻ. Trong các hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ nói chung và hoạt động giáo dục STEAM cho trẻ mầm non nói riêng, giáo viên đóng vai trò vô cùng quan trọng quyết định đến chất lượng, hiệu quả, sự thành bại của quá trình chăm sóc giáo dục trẻ. Đề cập đến vấn dề này, nhà nghiên cứu Nancy K, Dejarnette, đưa ra nhận định, giáo viên là người có ảnh hưởng lớn đến sự tích hợp các yếu tố STEAM trong sự phát triển chương trình giáo dục của nhà trường đến với trẻ. Trẻ em đi học mẫu giáo có thể đạt được mức độ hiểu biết STEAM cao hơn khi chúng được hỗ trợ cụ thể thông qua các hoạt động được lập kế hoạch, kích thích và phát triển phù hợp [12]. Ở cấp tiểu học và mầm non, giáo viên, không được đào tạo chuyên sâu về S, T, E, A, M có rất ít hoặc không được hướng dẫn cách tiếp cận với STEAM. Khi đối mặt với hướng tiếp cận mới về giáo dục STEAM ở các lớp tiểu học, mầm non giáo viên thường bị áp lực, thiếu tự tin vào bản thân và bộc lộ những khuynh hướng tiêu cực do không được đào tạo. Nếu giáo viên được tập huấn về giáo dục STEAM thì sẽ có thể tác động tích cực lên học sinh của họ thông qua những gì đã đc học trong tập huấn, cùng quan điểm này, còn có các tác giả và Moomaw, S.and Davis, J; Jamil, Linder và Stegelin; Aldemir & Kermani. [13], [14], [15]. Khi giáo viên cảm thấy không đủ kiến thức với một số lĩnh vực, nội dung nhất 139
- Hoàng Thu Huyền và Đặng Út Phượng định, họ có xu hướng dành ít thời gian hơn để giảng dạy nội dung STEAM cho học sinh của mình. Nhóm tác giả cũng đưa ra định hướng cho các nghiên cứu trong tương lai nên tập trung vào việc nâng cao kiến thức và kĩ năng STEM cho giáo viên, cũng nên mở những khóa học liên quan đến giáo dục STEAM vào chương trình đào tạo giáo viên mầm non [12]. Việt Nam chưa đưa chính sách, nội dung giáo dục STEAM cho trẻ mầm non giống như các cấp học khác. Mặc dù, thực tế hiện nay, các trường mầm non tư thục và công lập trên các địa bàn thành phố lớn như Hồ Chí Minh, Hà Nội đã triển khai tại các trường, theo cách “trăm hoa đua nở”, mỗi trường tự làm theo ý hiểu của trường mình, chưa có sự nhất quán. Các tài liệu tham khảo mang tính khoa học về giáo dục STEAM dành cho ngành giáo dục mầm non ở Việt Nam còn rất hạn chế. Theo chúng tôi, để giúp giáo viên mầm non có nhận thức đúng về giáo dục STEAM; Xây dựng được chương trình giáo dục STEAM cho trẻ mầm non chất lượng; Thiết kế, tổ chức được các hoạt động giáo dục STEAM phù hợp theo đặc điểm của trẻ mầm non, ngoài hoạt động tập huấn chuyên sâu cho giáo viên mầm non về giáo dục STEAM, cần có sự vào cuộc của các trường Đại học, Cao đẳng có chuyên ngành đào tạo về giáo viên mầm non. Cần cung cấp những hiểu biết, những kĩ năng tổ chức hoạt động STEAM ngay từ khi các cô giáo mầm non tương lai còn ngồi trên ghế nhà trường. Trong quá trình tìm kiếm, đọc tài liệu, chúng tôi thấy rằng những nghiên cứu về lí luận và thực tiễn về nhu cầu nguồn nhân lực giáo viên mầm non có thể tổ chức được các hoạt động của giáo dục STEAM cho trẻ mầm non cũng như những nghiên cứu liên quan đến giáo dục STEAM cho trẻ mầm non trong chương trình đào tạo nguồn lực giáo viên mầm non ở các trường Đại học, Cao đẳng đáp ứng được nhu cầu của xã hội còn rất ít. Chính vì vậy, trong bài viết này chúng tôi đề cập đến thực trạng nhu cầu nguồn nhân lực giáo viên mầm non hiểu biết về giáo dục STEAM trong các trường mầm non, đồng thời khảo sát nội dung giáo dục STEAM cho trẻ mầm non trong chương trình đào tạo cử nhân các trường Đại học, Cao đẳng. Từ đó, đề xuất việc xây dựng đề cương học phần giáo dục STEAM cho trẻ mầm non đáp ứng mục tiêu, chuẩn đầu ra chương trình đào tạo cử nhân ngành giáo dục mầm non. 2. Nội dung nghiên cứu 1.1. Phương pháp nghiên cứu Nghiên cứu sử dụng phiếu trưng cầu ý kiến để tiến hành khảo sát thực trạng nhận thức của cán bộ quản lí 30 trường mầm non, 5 phòng giáo dục ở 5 Quận, Huyện trên địa bàn Hà Nội, 12 cán bộ quản lí là trưởng, phó khoa của 7 trường đại học, cao đẳng có đào tạo ngành giáo viên mầm non,137 phụ huynh có con em đang học mầm non, 37 giáo viên mầm non về vai trò của giáo dục STEAM cho trẻ mầm non, nhu cầu nguồn nhân lực giáo viên mầm non tổ chức các hoạt động giáo dục STEAM cho trẻ mầm non. Đồng thời sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu qua gọi điện thoại để thu thập thêm thông tin về sự cần thiết, số tín chỉ cần có cho học phần giáo dục STEAM trong chương trình đào tạo cử nhân ở các trường Đại học, cao đẳng, cũng như nguyên nhân có trường không đưa nội dung này vào giảng dạy. Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 4 năm 2021 đến tháng 6 năm 2021. 1.2. Kết quả nghiên cứu 2.2.1. Thực trạng nhận thức của cán bộ quản lí về giáo dục STEAM cho trẻ mầm non và nhu cầu nguồn nhân lực giáo viên mầm non tổ chức các hoạt động giáo dục STEAM cho trẻ. Để biết được thực trạng nhận thức của cán bộ quản lí về tầm quan trọng của Giáo dục STEAM đối với trẻ mầm non, chúng tôi tiến hành gửi phiếu khảo sát tới các trường mầm non, phòng giáo dục các Quận, Huyện, và ban chủ nhiệm khoa Giáo dục mầm non tại các trường Cao đẳng, Đại học và thu được 30 phiếu trả lời của hiệu trưởng 30 trường mầm non tư thục và công lập, 05 phiếu trả lời từ các phòng giáo dục, 12 phiếu trả lời từ BCN khoa của các trường Đại 140
- Thực trạng nội dung giáo dục STEAM trong chương trình đào tạo cử nhân Giáo dục mầm non học, Cao đẳng. Sau khi xử lí số liệu, nghiên cứu thu được kết quả như sau: 17/17 cán bộ quản lí thuộc phòng giáo dục ở các quận huyện và ban chủ nhiệm khoa giáo dục mầm non cho rằng giáo dục STEAM đối với trẻ mầm non là quan trọng (trong đó lựa chọn phương án rất quan trọng, phía phòng Giáo dục Đào tạo các quận huyện là 4/5 cán bộ và Ban chủ nhiệm khoa Giáo dục mầm non 8/12; Phương án lựa chọn quan trọng, phòng giáo dục 1/5 cán bô và ban chủ nhiệm khoa 4/12 thầy cô lựa chọn.) Trong đó, Ban giám hiệu các trường mầm non cho rằng quan trọng và rất quan trọng chiếm 28/30 thầy/cô (rất quan trọng 20/30 thầy cô, quan trọng 8/30 thầy cô). Điều này, hoàn toàn hợp lí bởi giáo dục STEAM hiện đang làm một trong những xu hướng giáo dục được nhiều trường mầm non áp dụng và trở nên thịnh hành trên toàn thế giới về tính ưu việt của nó. Tiến hành phỏng vấn sâu thông qua gọi điện thoại, chúng tôi nhận được những câu trả lời sau từ các cô giáo: Cô VTC – Chuyên viên phòng giáo dục BTL cho biết: “Hiện nay, rất nhiều trường mầm non có kế hoạch trình về việc thực hiện các dự án Giáo dục STEAM cho trẻ mầm non và xin phòng Giáo dục hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng các chuyên đề cho trường”. Không những thế sau thời gian tìm hiểu và áp dụng nhiều trường đã thấy được hiệu quả của giáo dục STEAM đối với trẻ mầm non. Cô TTTB – Hiệu trưởng trường mầm non TT – Quận Hoàng Mai cho biết: “Chất lượng đầu ra của trẻ mầm non 5 tuổi đạt chuẩn cao hơn so với các năm. Giáo viên trong trường và các con đều rất hứng thú khi tham gia các hoạt động giáo dục STEAM”. Tuy nhiên, một điều đáng lưu ý, trong nhóm đối tượng Ban giám hiệu trường mầm non, có 2 cô hiệu trưởng ở trường mầm non tư thục LH, trường mầm non tư thục MVB ở quận Hoàng Mai cho rằng giáo dục STEAM cho trẻ mầm non là ít quan trọng khi xem xét các câu trả lời của 2 cô giáo này, chúng tôi thấy rằng, cả hai cô đều có 10 năm kinh nghiệm trọng ngành, Chúng tôi, gọi điện trực tiếp cho hai hiệu trưởng của hai trường này, về lí do các cô đáng giá hoạt động này là ít quan trọng nhận được phản hồi hai trường các cô giáo đang quản lí tập trung vào phương pháp giảng dạy chủ yếu đang là Montessori, chú trọng đến cá nhân trẻ và kĩ năng vận động tinh, tiếp cận giáo dục STEAM có nghe, nhưng cần phải có thời gian tìm hiểu và chuẩn bị cơ sở vật chất nên hiện tại trường đang suy nghĩ. Đến với câu hỏi về Nhu cầu nguồn nhân lực giáo viên mầm non tổ chức các hoạt động giáo dục STEAM. Trong tổng số 30 trường mầm non gồm các trường mầm non công lập chất lượng cao, trường Mầm non công lập, trường Mầm non tư thục và các nhóm lớp mầm non tư thục chúng tôi thu được 30 phiếu và nhận được tỉ lệ ban giám hiệu các trường có nhu cầu về nguồn nhân lực giáo viên mầm non tổ chức được hoạt động giáo dục STEAM rất cao chiếm có 86,7%. Ngoài ra chúng tôi cũng nhờ các cô giáo mầm non ở các trường này gửi link khảo sát đến các bậc phụ huynh trong lớp mình về nhu cầu cô giáo có thể dạy được STEAM cho con của họ, chúng tôi thu được 137 phiếu, trong đó tỉ lệ phụ huynh có nhu cầu cũng rất cao với 82.5%. Bảng 1. Nhu cầu nguồn nhân lực giáo viên mầm non tổ chức hoạt động giáo dục STEAM Nhu cầu Rất cao Bình thường Không có nhu cầu Tổng SL % SL % SL % SL % Đối tượng Ban giám hiệu các 26 86,7 4 13,3 0 0 30 100.0 trường mầm non Phụ huynh 89 65,0 24 17,5 24 17,5 137 100.0 Thông qua trao đổi, trò chuyện, chúng tôi nhận thấy rằng các trường mầm non đã nhận thức rất rõ về tầm quan trọng của giáo dục STEAM trong dạy trẻ mầm non nên nhu cầu về nguồn nhân lực của các trường là rất cao. Hiệu trường trường mầm non GM – Quận Hoàng Mai – TTA cho biết: “Trường mong muốn trẻ em được tiếp xúc với nền giáo dục tiên tiến nhất. Ở đó, trẻ được tự do tìm hiểu, khám quá và tạo nên sản phẩm theo nhu cầu của trẻ để ứng dụng vào cuộc sống. Bên cạnh đó, trường lấy Giáo dục STEAM là một trong những yếu tố quyết định 141
- Hoàng Thu Huyền và Đặng Út Phượng và thúc đẩy số lượng tuyển sinh. Không những vậy, việc đánh vào yếu tố nhu cầu của phụ huynh là rất quan trọng”. Cùng quan điểm với cô TTA, Cô NKQ – Hiệu trưởng trường mầm non công lập PDA cho biết: “Sứ mệnh của nhà trường là tiếp cận giáo dục hiện đại để mọi trẻ em đều được thụ hưởng nền giáo dục chất lượng tốt nhất”. Bên cạnh nhu cầu của cán bộ quản lí trường mầm non thì nhu cầu của phụ huynh cũng rất cao chiếm 65%. Đại diện phụ huynh chị TTTT, mẹ cháu NTLA trường mầm non công lập ĐNA cho hay: “Tôi cũng có tìm hiểu và thấy được ưu điểm của dạy học STEAM nên rất mong muốn bé được học tập trong những môi trường như vậy”. Chị PMA, mẹ cháu NĐP trường mầm non SHK chia sẻ: “Tôi rất muốn con theo học trường có ứng dụng giáo dục STEAM vì STEAM liên cấp từ mầm non đến đại học nên sau này khi con tôi học lên tiểu học sẽ không bị bỡ ngỡ hay gặp khó khăn khi sang môi trường mới”. Qua những chia sẻ trên, có thể thấy được nhu cầu của các trường mầm non công lập, tư thục và phụ huynh đều cao như nhau vì họ đã được tiếp cận với thông tin về Giáo dục STEAM và thông qua cho trẻ trải nghiệm thực tiễn học tập tại trường mầm non đã thấy được hiệu quả của nó mang lại. Với hai cô Hiệu trưởng lựa chọn là hoạt động giáo dục STEAM là ít quan trọng cho trẻ, thì đến với câu hỏi này, các cô lại có nhu cầu về tuyển giáo viên mầm non có khả năng giảng dạy giáo dục STEAM cho trẻ cao, lí do là có nhiều phụ huynh đề cập đến nên trường sẽ mở 1 lớp thử nghiệm. Chúng tôi cũng hỏi ý kiến của các cán bộ quản lí của 30 trường mầm non công lập, tư thục về sự cần thiết phải có học phần chuyên biệt về giáo dục STEAM cho trẻ mầm non trong chương trình đào tạo giáo viên mầm non thu được kết quả như sau: 28/30 cô được khảo sát cho rằng rất cần thiết và cần thiết phải có học phần Giáo dục STEAM cho trẻ mầm non trong chương trình đào tạo. Cụ thể 15/30 giáo viên cho rằng rất cần thiết và 13/30 cho rằng cần thiết. Từ đây, chúng ta thấy được nhu cầu được tìm hiểu và học hỏi kiến thức, kĩ năng dạy học STEAM cho trẻ mầm non của giáo viên là rất cao. Bên canh đó, vẫn còn 02 giáo viên cho rằng không cần thiết phải có thêm học phần này trong chương trình học. Thông qua phỏng vấn sâu và trò chuyện cùng họ, chúng tôi nhận được những chia sẻ như sau: Chị LTL – Giáo viên trường mầm non tư thục TN – Hoàng Mai cho biết: “Hiện tại có rất nhiều phương pháp giáo dục trẻ mầm non, trường mình theo phương pháp giáo dục Montessori nên mình muốn tìm hiểu nhiều hơn về Montessori nhiều hơn là STEAM”. Khác ý kiến với chị LTL, Chị HTK – Giáo viên trường mầm non tư thục ĐRM – Nam Từ Liêm chia sẻ: “Mình cũng được tham gia vài buổi tập huấn về STEAM nhưng thấy nó cũng không khác giáo dục hiện tại là mấy. Bởi vì vậy, mình thấy giáo dục mầm non của mình có nhiều hoạt động đã STEAM rồi nên không cần thiết phải có học phần riêng biệt”. Chính vì hiện nay, giáo dục mầm non có rất nhiều phương pháp giáo dục và nhiều hướng tiếp cận khác nhau dẫn đến nhu cầu của giáo viên tìm hiểu cũng khác nhau. Không những vậy, tổ chức tập huấn Giáo dục STEAM cho trẻ mầm non thường diễn ra một vài buổi, chủ yếu là những chia sẻ mang tính lí thuyết nên chưa làm bật lên được đặc trưng, vai trò của Giáo dục STEAM với trẻ mầm non. Dẫn đến, nhiều giáo viên khi đi tập huấn, sinh hoạt chuyên đề thấy không khác gì so với giáo dục hiện tại. 2.2.2. Khảo sát học phần giáo dục STEAM cho trẻ mầm non trong chương trình đào tạo cử nhân các trường Đại học, Cao đẳng Để khảo sát học phần Giáo dục STEAM cho trẻ mầm non trong chương trình đào tạo cử nhân GDMN tại các trường Đại học, Cao đẳng, chúng tôi tiến hành khảo sát 07 trường Đại học, Cao đẳng. Sau khi khảo sát học phần giáo dục STEAM cho trẻ mầm non trong chương trình đào tạo của 07 trường đại học, cao đẳng trong cả nước đào tạo chuyên ngành giáo dục mầm non chúng tôi thu được kết quả như sau: Chương trình đào tạo của các trường Đại học, Cao đẳng đã chú trọng hướng tới việc xây dựng học phần về giáo dục STEAM cho trẻ mầm non cho sinh viên. Cụ thể hiện đang có 2/7 trường đang tiến hành xây dựng học phần giáo dục STEAM cho trẻ mầm non, có 04/7 trường đã xây dựng và đưa vào chương trình đào tạo cử nhân ngành giáo 142
- Thực trạng nội dung giáo dục STEAM trong chương trình đào tạo cử nhân Giáo dục mầm non dục mầm non Từ những số liệu trên cho thấy các trường Đại học Cao đẳng có đào tạo chuyên ngành giáo dục mầm non đã nhận thức rõ ràng và sâu sắc về tầm quan trọng của giáo dục STEAM đối với trẻ mầm non từ đó nhà trường đã có những định hướng trong việc đưa học phần giáo dục STEAM cho trẻ mầm non vào chương trình đào tạo nhằm đáp ứng được nhu cầu của người học và nhu cầu của xã hội. Tuy nhiên vẫn còn 01 trường chưa có học phần giáo dục STEAM cho trẻ mầm non trong chương trình đào tạo là Cao đẳng SPTB. Lí giải nguyên nhân chưa đưa học phần Giáo dục STEAM cho trẻ mầm non vào chương trình giảng dạy, cô VTN– Giảng viên khoa Giáo dục mầm non – Trường Cao đẳng SPTB cho biết: “Giáo dục STEAM cho trẻ mầm non là nội dung khá mới mẻ và giảng viên chưa được tập huấn hay tiếp cận đào tạo nên chưa hiểu rõ về nội dung cũng như phương pháp dạy học. Vì vậy, chúng tôi chưa đưa học phần đó vào chương trình giảng dạy”. Trong 06 trường Đại học, Cao đẳng có học phần giáo dục STEAM cho trẻ mầm non trong chương trình đào tạo, chúng tôi tiến hành khảo sát về thời lượng giảng dạy các nội dung của học phần và nhận được kết quả như sau: Có 3/6 trường thời lượng giảng dạy là 2 tín chỉ trong đó 1 tín chỉ là lí thuyết và 1 tín chỉ là thực hành. 3/6 trường còn lại lựa chọn đào tạo 3 tín chỉ với 2 tín chỉ lí thuyết và 1 tín chỉ thực hành. Không có trường nào lựa chọn dung lượng 3 tín chỉ trong đó bao gồm 1 tín chỉ lí thuyết và 2 tín chỉ thực hành. Qua việc tìm hiểu trên, chúng tôi thấy được tính hợp lí trong việc phân phối thời lượng giảng dạy các nội dung của học phần giáo dục STEAM cho trẻ mầm non để đảm bảo học phần không bị kéo dài mà sinh viên vẫn có thể tìm hiểu được những nội dung quan trọng và cần thiết của học phần. 2.2.3. Khảo sát nhu cầu hiểu biết về Giáo dục STEAM của giáo viên mầm non Bảng 2. Nhu cầu hiểu biết về Giáo dục STEAM của giáo viên mầm non Nội dung SL % Nội dung lí luận về giáo dục STEAM cho trẻ mầm non 2 6,7 Phương pháp tổ chức các hoạt động giáo dục STEAM cho trẻ mầm non 19 63,3 Các dự án, chủ đề giáo dục STEAM cho trẻ mầm non 10 33,3 Cách kiểm tra, đánh giá các hoạt động giáo dục STEAM cho trẻ mầm non 4 13,3 Khác 2 6,6 Bảng số liệu trên cho thấy: Phần lớn giáo viên mầm non 19/37 người tập trung vào các nội dung liên quan đến phương pháp tổ chức hoạt động giáo dục STEAM và các dự án chủ đề giáo dục STEAM cho trẻ mầm non 10/37 người. Qua trao đổi, trò chuyện, nhiều giáo viên cho rằng: Họ mong muốn được tìm hiểu về cách tổ chức 01 hoạt động giáo dục STEAM như thế nào, cách thực hiện 01 dự án, chủ đề STEAM như thế nào hơn là việc tìm hiểu các nội dung về lí thuyết, xây dựng môi trường và đánh giá. Với những chia sẻ của giáo viên có thể thấy rằng hầu hết các thầy cô đều mong muốn rút ngắn thời gian tìm hiểu về Giáo dục STEAM cho trẻ mầm non để đi vào thực tiễn giảng dạy nhiều hơn. Tuy nhiên, việc tìm hiểu những vấn đề lí luận trong Giáo dục STEAM lại là nội dung quan trọng quyết định hiểu biết của giáo viên về Giáo dục STEAM cho trẻ mầm non nhưng giáo viên lại chưa thực sự quan tâm chiếm 2/37 người. Không những vậy, hoạt động kiểm tra, đánh giá các hoạt động giáo dục STEAM cho trẻ mầm non giữ vai trò quan trọng trong việc đánh giá kết quả hoàn thành mục tiêu giáo dục của giáo viên nhưng cũng không được chú trọng chiếm 4/37 người. Sau quá trình điều tra thực trạng, chúng tôi thấy có mối liên hệ chặt chẽ giữa nhu cầu của cán bộ quản lí giáo dục mầm non về giáo viên tổ chức được các hoạt động giáo dục STEAM cho trẻ với nhu cầu tìm hiểu, học tập về giáo dục STEAM của giáo viên mầm non và nhu cầu của cán bộ quản lí với các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực là các trường Đại học, Cao đẳng trong 143
- Hoàng Thu Huyền và Đặng Út Phượng việc đào tạo giáo viên có năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục STEAM cho trẻ mầm non. Giáo dục STEAM cho trẻ mầm non được các cấp quản lí chú trọng sẽ tác động đến nhu cầu học tập, nâng cao trình độ của giáo viên. Từ đó, nó kích cầu việc thay đổi chương trình đào tạo của các trường Đại học, Cao đẳng phải thay đổi, chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp với thời đại và phù hợp với nhu cầu của xã hội. Chính vì vậy, nhiều trường Đại học, Cao đẳng đã đưa học phần Giáo dục STEAM cho trẻ mầm non vào trong chương trình đào tạo. 2.3. Đề xuất bổ sung nội dung Giáo dục STEAM trong chương trình đào tạo cử nhân chuyên ngành Giáo dục mầm non theo hướng tiếp cận năng lực người học Từ việc khảo sát cán bộ quản lí về nhu cầu nguồn nhân lực giáo viên mầm non tổ chức các hoạt động giáo dục STEAM cho trẻ, khảo sát về việc đưa nội dung giáo dục STEAM vào trong chương trình đào tạo cử nhân chuyên ngành giáo dục mầm non của các trường Đại học, Cao đẳng và khảo sát nhu cầu của giáo viên mầm non trong tìm hiểu các nội dung giáo dục STEAM cho trẻ. Chúng tôi đề xuất bổ sung nội dung giáo dục STEAM cho trẻ mầm non vào chương trình đào tạo cử nhân chuyên ngành giáo dục mầm non tại các trường Đại học, Cao đẳng. Trong việc xây dựng chương trình đào tạo Đại học, Cao đẳng của các trường thường có 03 cách tiếp cận: Tiếp cận nội dung, Tiếp cận mục tiêu, và Tiếp cận phát triển (tiếp cận năng lực). Theo đó trong mỗi giai đoạn khác nhau, chương trình đào tạo nhằm đến một mục tiêu cụ thể. Những năm gần đây, ngoài việc xây dựng chương trình theo hướng tiếp cận nội dung, tiếp cận mục tiêu thì phần lớn các trường Đại học, Cao đẳng đã chú trọng rất nhiều đến việc xây dựng chương trình giáo dục đại học, cao đẳng theo định hướng phát triển năng lực người học. Chúng tôi, đề xuất xây dựng nội dung Giáo dục STEAM cho trẻ mầm non theo định hướng phát triển năng lực nhằm mục tiêu phát triển năng lực của sinh viên, đảm bảo chất lượng đầu ra của việc dạy học, thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống nghề nghiệp, nhằm chuẩn bị cho người học năng lực giải quyết các tình huống ở trường mầm non và nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách chủ thể của quá trình nhận thức. Khác với cách tiếp cận của chương trình định hướng nội dung, cách tiếp cận của chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực tập trung vào việc mô tả chất lượng đầu ra của sinh viên Ngành Giáo dục mầm non. Với cách tư duy này thì chất lượng đầu ra được coi là “sản phẩm cuối cùng” của quá trình dạy học. Với cách tiếp cận này, việc quản lí chất lượng dạy học chuyển từ việc điều khiển “đầu vào” sang điều khiển “đầu ra”, tức là kết quả học tập của người học. Vì vậy, theo chúng tôi, nội dung Giáo dục STEAM cho trẻ mầm non theo định hướng phát triển năng lực sẽ có những đặc điểm sau: Cần quy định cụ thể, rõ ràng kết quả đầu ra mong muốn của quá trình học nội dung giáo dục STEAM. Trên cở sở đó, đưa ra những hướng dẫn chung về việc lựa chọn nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức và đánh giá kết quả dạy học STEAM nhằm đảm bảo thực hiện được mục tiêu đào tạo tức là đạt được kết quả đầu ra mong muốn; Mục tiêu học tập được hiểu là kết quả học tập mong muốn thường được mô tả thông qua hệ thống các năng lực. Kết quả học tập mong muốn sẽ được mô tả chi tiết và có thể quan sát, đánh giá được; Sinh viên Ngành Giáo dục mầm non cần đạt được những kết quả yêu cầu đã được quy định trong học phần Giáo dục STEAM cho trẻ mầm non. Chúng tôi đưa ra những gợi ý xây dựng nội dung Giáo dục STEAM cho trẻ mầm non trong chương trình đào tạo cử nhân chuyên ngành Giáo dục mầm non nhằm giúp người học đáp ứng được nhu cầu của xã hội với những phẩm chất, nang lực sau: Phẩm chất: (1) Sinh viên tham gia tích cực các hoạt động xã hội, có trách nhiệm với các nhiệm vụ học tập cá nhân và nhóm. (2) Sinh viên có ý thức tổ chức kỉ luật, ý thức trong làm việc nhóm và khi tham gia học tập. (3) Sinh viên có tác phong học tập khoa học, sáng tạo trong quá trình học tập. (4) Sinh viên có tinh thần tự học, chăm chỉ, tò mò ham học hỏi, phấn đấu nâng cao kiến thức của mình. (5) Sinh viên cởi mở, thân thiện với bạn bè. 144
- Thực trạng nội dung giáo dục STEAM trong chương trình đào tạo cử nhân Giáo dục mầm non Năng lực: * Nhóm năng lực chung/ cốt lõi: Năng lực tự học, tự nghiên cứu nội dung lí luận về Giáo dục STEAM cho trẻ mầm non: Sinh viên tiến hành nghiên cứu các nội dung lí luận về Giáo dục STEAM như: (1) Khái niệm về giáo dục STEAM, ý nghĩa và đặc trưng của Giáo dục STEAM trong giáo dục trẻ mầm non. Từ đó, (2) sinh viên phân tích được quy trình, các mức độ tiếp cận STEAM trong giáo dục, cho ví dụ minh họa. Thông qua hoạt động tự học, tự nghiên cứu, (3) sinh viên trình bày được tầm quan trọng của giáo dục STEAM đối với trẻ mầm non, (4) phân tích được chương trình giáo dục mầm non và khả năng tiếp cận các thành tố STEAM ở các độ tuổi nhà trẻ, bé, nhỡ, lớn, (5) phân tích được ưu, nhược điểm của mỗi nhóm phương pháp và khả năng vận dụng các phương pháp phù hợp với từng nội dung và lứa tuổi, (6) đề xuất được những nội dung giáo dục STEAM mới, hấp dẫn liên hệ với thực tiễn giáo dục trẻ hiện nay tại trường mn và (7) thiết kế được hoạt động phối hợp linh hoạt các phương pháp trong cùng 1 hoạt động, đánh giá được những khó khăn trong việc tổ chức các hoạt động giáo dục STEAM tại trường mầm non. Không những thế, (8) Sinh viên còn trình bày được những điều kiện, phương tiện khi tổ chức hoạt động giáo dục STEAM cho trẻ mầm non, (9) hiểu, phân tích được các bước lập kế cho một hoạt động giáo dục STEAM, (10) lập kế hoạch tổ chức một hoạt động giáo dục STEAM phù hợp với trẻ và (11) đánh giá được hoạt động giáo dục STEAM của bản thân và người khác đã tổ chức. Năng lực giao tiếp, làm việc nhóm với các thành viên trong lớp thực hiện nhiệm vụ học tập: Trong các hoạt động thuyết trình môn học: (1) rèn luyện cho sinh viên khả năng trình bày một vấn đề trước đám đông. (2) Việc đẩy mạnh hình thức hoạt động theo nhóm yêu cầu sinh viên cần biết lắng nghe, nêu ý kiến và trình bày ý tưởng của bản thân để xây dựng ý tưởng nhóm. (3) Việc đẩy mạnh hình thức làm việc nhóm tăng dần tính tương tác, kết nối và phát triển năng lực giao tiếp giữa tiếp các thành viên trong nhóm với nhau và với các nhóm khác. Năng lực giải quyết vấn để một cách sáng tạo trong quá trình nghiên cứu lí luận và tổ chức hoạt động Giáo dục STEAM cho trẻ mầm non (1) Giảng viên và sinh viên cùng đưa ra vấn đề lí luận liên quan đến môn học và khuyến khích sinh viên tìm các tài liệu, nội dung liên quan đến vấn đề tìm hiểu nhằm giúp sinh viên có góc nhìn đa chiều về một nội dung. (2) Sinh viên vận dụng kiến thức, vốn kinh nghiệm của bản thân để đề xuất các phương án cải tạo thực tiễn. (3) Các phương án đó phải mang tính khả thi và trẻ mầm non có thể thực hiện được. Không những vậy, khi tổ chức các hoạt động Giáo dục STEAM cho trẻ mầm non, (4) giảng viên khuyến khích ý tưởng mới gắn liền với thực tiễn của sinh viên để xây dựng kho dữ liệu các chủ đề, dự án hoặc bài học STEAM thú vị cho trẻ. Năng lực vận dụng kiến thức liên môn: Toán học, công nghệ, kĩ thuật, nghệ thuật, khoa học, trong quá trình tổ chức các hoạt động Giáo dục STEAM cho trẻ mầm non: Việc xác định được các yếu tố trong một hoạt động Giáo dục STEAM cho trẻ mầm non là rất quan trọng. Vì vậy, giảng viên thường yêu cầu sinh viên phái xác định được nội dung kiến thức chính và các nội dung kiến thức liên môn sử dụng trong bài dạy của mình. * Nhóm năng lực khối/ chuyên môn: Năng lực xây dựng các kế hoạch tổ chức hoạt động giáo dục STEAM cho trẻ mầm non: Sinh viên biết cách vận dụng kiến thức về quy trình thiết kế để xây dựng các kế hoạch tổ chức hoạt động giáo dục STEAM cho trẻ mầm non. Năng lực thiết kế môi trường hoạt động giáo dục STEAM, làm đồ dùng đồ chơi phát huy tính tích cực của trẻ: (1) Sinh viên biết cách xây dựng môi trường vật chất và tâm lí hứng thú cho trẻ khi kham gia hoạt động. (2)Sinh viên biết cách tận dụng đồ dùng, đồ chơi có sẵn hoặc những nguyên vật liệu dễ kiếm để chế tạo đồ dùng, đồ chơi và cùng trẻ “phát minh” ra một số mô hình “phục vụ thực tiễn” Năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục STEAM theo hướng tích hợp một cách khoa học, linh hoạt, sáng tạo: (1) Sinh viên biết cách gây hứng thú, đưa trẻ vào tình huống có vấn đề, kích 145
- Hoàng Thu Huyền và Đặng Út Phượng thích trí tò mò của trẻ. (2) Sinh viên cần biết sử dụng phối hợp các phương phap và hình thức trong quá trình tổ chức hoạt động cho trẻ. (3) Sinh viên cần chú ý tới các nguyên tắc giáo dục trong quá trình giáo dục trẻ. Năng lực phân tích, đánh giá được hiệu quả của việc tổ chức hoạt động giáo dục STEAM của bạn bè và của bản thân: Sinh viên biết cách đánh giá dựa trên các tiêu chí đánh giá bài học STEAM. Năng lực phát triển nghề nghiệp, nghiên cứu khoa học và các kĩ năng mềm: Khuyến khích sinh viên tìm kiếm các chủ đề mới, các nội dung giáo dục mới để dạy trẻ. * Nhóm năng lực quản lí/ lãnh đạo: Năng lực quản lí lớp học và điều khiển các hoạt động giáo dục STEAM phù hợp với độ tuổi, đặc điểm phát triển sinh lí, tâm lí của trẻ mầm non: (1) Sinh viên được xuống trường mầm non dự giờ, kiến tập các hoạt động mẫu. (2) Sau đó, sinh viên tiến hành soạn bài và tập giảng các hoạt động giáo dục STEAM cho trẻ mầm non. Trong hoạt động này, sinh viên cần có kĩ năng thu hút trẻ, quản lí lớp học và tổ chức các hoạt động phù hợp với độ tuổi, đặc điểm phát triển sinh lí, tâm lí của trẻ. 3. Kết luận Nghiên cứu đã tìm hiểu những vấn đề lí luận cơ bản về khái niệm, đặc trưng Giáo dục STEAM, Giáo dục STEAM cho trẻ mầm non. Bên cạnh đó, thông qua phương pháp nghiên cứu định tính kết hợp định lượng, bài viết đưa ra thực trạng nhu cầu về nguồn nhân lực giáo viên mầm non tổ chức được hoạt động giáo dục STEAM cho trẻ, khảo sát về học phần giáo dục STEAM cho trẻ mầm non trong chương trình đào tạo cử nhân các trường Đại học, Cao đẳng và khảo sát nhu cầu hiểu biết về Giáo dục STEAM của giáo viên mầm non. Trên cơ sở đó, chúng tôi đưa ra định hướng xây dựng học phần Giáo dục STEAM cho trẻ mầm non trong chương trình đào tạo cử nhân Giáo dục mầm non. Định hướng xây dựng trình bày cụ thể về thời lượng học phần, chuẩn đầu ra, nội dung, phương pháp và hình thức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] G. Yakman, 2008. “STEAM Education: An Overview of Creating a Model of Intergrative Education,” Tesis, vol. 53, no. 9, pp. 1689–1699. [2] R. W. Bybee, 2013. The Case for STEM Education: Challenges and Opportunities. NSTApress. [3] L. D. English, 2016. “STEM education K-12: perspectives on integration,” Int. J. STEM Educ., vol. 3, no. 1, doi: 10.1186/s40594-016-0036-1. [4] T. Martín-Páez, D. Aguilera, F. J. Perales-Palacios, and J. M. Vílchez-González, 2019. “What are we talking about when we talk about STEM education? A review of literature,” Sci. Educ., vol. 103, no. 4, pp. 799–822, doi: 10.1002/sce.21522. [5] Y. Kim and N. Park, “The effect of STEAM education on elementary school Student ’ s Creativity Improvement * Mechanical Mechanism of Rube Goldberg Machine Contest,” Comput. Appl. Secur. Control Syst. Eng., pp. 115–121, 2012. [6] E. Perignat and J. Katz-Buonincontro, “STEAM in practice and research: An integrative literature review,” Think. Ski. Creat., vol. 31, pp. 31–43, 2019, doi: 10.1016/j.tsc.2018.10.002. [7] Hoàng Thị Phương, 2020. “Đặc trưng của giáo dục STEAM cho trẻ mầm non –khả năng tích hợp vào chương trình giáo dục mầm non,” Tạp chí khoa học trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Volunme 65, Issue 11A, pp.108 – 116. 146
- Thực trạng nội dung giáo dục STEAM trong chương trình đào tạo cử nhân Giáo dục mầm non [8] Trần Viết Nhi, Nguyễn Tuấn Vĩnh, Nguyễn Thị Bích Thảo, 2020. “Bồi dưỡng năng lực giáo dục STEAM cho giáo viên mầm non,” Tạp chí khoa học trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Volunme 65, Issue 11A, pp.117 – 124. [9] Đặng Út Phượng, Hoàng Quý Tỉnh, 2020. “Năng lực nhận nhận về giáo dục STEAM của giáo viên mầm non đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục,” Tạp chí khoa học trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Volunme 65, Issue 11A, pp.125 – 135. [10] Văn Thị Minh Tư, Chu Thị Hồng Nhung, 2021 “Nghiên cứu phương thức giáo dục STEAM ở trường mầm non nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới”. Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế lần thứ nhất về khoa học giáo dục Giáo dục sớm trong thời đại công nghệ: Những cơ hội và thách thức, tr.107-128. [11] Hoàng Thu Huyền, 2021. “Vận dụng quy trình giáo dục STEAM trong giáo dục thể chất cho trẻ mầm non.,” Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế lần thứ nhất về khoa học giáo dục Giáo dục sớm trong thời đại công nghệ: Những cơ hội và thách thức, tr.339-354. [12] N. K. DeJarnette, “Implementing STEAM in the Early Childhood Classroom,” Eur. J. STEM Educ., vol. 3, no. 3, pp. 1–9, 2018, doi: 10.20897/ejsteme/3878. [13] J. Moomaw, S. and Davis, “STEM comes to preschool,” Young Child., v65 n5 p12-14, 16- 18 Sep 2010. [14] F. M. Jamil, S. M. Linder, and D. A. Stegelin, “Early Childhood Teacher Beliefs About STEAM Education After a Professional Development Conference,” Early Child. Educ. J., vol. 46, no. 4, pp. 409–417, 2018, doi: 10.1007/s10643-017-0875-5. [15] J. Aldemir and H. Kermani, “Integrated STEM curriculum: improving educational outcomes for Head Start children,” Early Child Dev. Care, vol. 187, no. 11, pp. 1694– 1706, 2017, doi: 10.1080/03004430.2016.1185102. ABSTRACT Orientations for building STEAM education courses for preschool children in children’s education program Hoang Thu Huyen and Dang Ut Phuong Faculty of Pedagogy, Hanoi Metropolital University STEAM education is a global education trend in the 4th industrial revolution. Currently, the demand for human resources for preschool teachers who can organize STEAM educational activities for children is increasing. Some studies on STEAM education in preschool have mentioned the role of STEAM education for children; characteristics of STEAM education at the preschool level; and awareness about STEAM education of preschool teachers, but research on STEAM education for preschool children in the bachelor's training program is still limited. In this article, we refer to the current situation of preschools' needs for human resources for teachers to organize STEAM educational activities and simultaneously survey the content of STEAM education for preschool children in the program training bachelors of colleges and universities. Thenceforth, we propose a direction to build the STEAM Education module for preschool children in the bachelor's training program specializing in Early Childhood Education. Keywords: STEAM education, STEAM education for preschool children, bachelor’s training program for preschool education. 147
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận án Tiến sĩ Quản lý giáo dục: Quản lý dạy học theo quan điểm dạy học phân hóa ở trường Trung học phổ thông Việt Nam hiện nay
259 p | 441 | 127
-
Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học: Thực trạng quản lý giáo dục mầm non qua mạng Internet ở thành phố Hồ Chí Minh
134 p | 464 | 63
-
Khảo sát thực trạng nhận thức về giáo dục giới tính của học sinh lớp 9 tại một số trường trung học cơ sở ở quận 11 Thành phố Hồ Chí Minh
6 p | 491 | 50
-
Thực trạng giáo dục giới tính ở trường tiểu học tại thành phố Hồ Chí Minh
8 p | 664 | 43
-
Bài tập lớn: Giáo dục học đại cương
29 p | 430 | 42
-
Thực trạng công tác giáo dục thể chất tại các trường tiểu học của tỉnh Thái Nguyên
6 p | 124 | 9
-
Thực trạng quản lý giáo dục kĩ năng giao tiếp cho học sinh tiểu học thành phố Tuyên Quang theo định hướng chương trình giáo dục phổ thông 2018
7 p | 90 | 5
-
Thực trạng công tác giáo dục hướng nghiệp cho một số nhóm trẻ rối loạn phát triển trên địa bàn thành phố Hà Nội
5 p | 32 | 4
-
Định hướng xây dựng nội dung giáo dục địa phương theo Chương trình Giáo dục phổ thông mới
5 p | 52 | 4
-
Thực trạng nội dung giáo dục kỹ năng phòng chống xâm hại cho trẻ em lứa tuổi mẫu giáo trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
6 p | 22 | 4
-
Thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng thực hiện nội dung giáo dục địa phương cho giáo viên tiểu học huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn theo chương trình giáo dục phổ thông 2018
8 p | 11 | 3
-
Quản trị giáo dục hướng nghiệp và thực trạng quản trị giáo dục hướng nghiệp tại Trường Liên cấp Olympia, Hà Nội
6 p | 7 | 3
-
Thực trạng hoạt động giáo dục vận động cho trẻ mẫu giáo ở trường mầm non Thủy Đường, huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng
6 p | 12 | 3
-
Thực trạng triển khai tài liệu giáo dục địa phương lớp 10 năm học 2022 - 2023
7 p | 17 | 3
-
Thực trạng tích hợp giáo dục môi trường trong môn Sinh học tại các trường trung học phổ thông thành phố Cần Thơ
8 p | 41 | 3
-
Thực trạng nội dung giáo dục kỹ năng phòng chống xâm hại trẻ em lứa tuổi mẫu giáo trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
3 p | 17 | 1
-
Thực trạng và một số giải pháp thực hiện nội dung giáo dục địa phương tại các trường phổ thông dân tộc nội trú trực thuộc Bộ giáo dục và đào tạo
5 p | 36 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn